Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày/Sách & Báo Mới
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1

Cali, No-2012
Bobin
Ghiền
TTT in Ký Ức Sơ Sài
Rain
Paris Review 60 năm
Sổ Đọc
Thảm họa dịch
Nostalgie de la boue
Ám ảnh phố phường
Câu hỏi hắc búa
Viết lại Truyện Kiều
Thơ vô ngôn
Hope in thin shell
Nhìn lại TLVD
Mit Crisis
Borges by Greene
NQT @ talawas
Tiểu thuyết là gì?
1968-Khe Sanh
Sarajevo Siege 1992
Paris tắm
Mit Critic
Ghiền
Cô Gái Chơi Cờ
Pamuk:
Cơn giận dữ của những kẻ bị trầm luân
Viết nhỏ by PTH
Anh Môn by The Economist
Cavafy by Vargas Llosa
Opium-Marx
20 năm VH Miền Nam
Granta Sex
The Good vs The Chtistian
Iceberg
Gatsby
Simic: What if
PCT triết gia
Season Elegy
Truyện ngắn bất khả
NHT by Nhật Tuấn
Steps
Lost_Intel
Chia tay
Youth
Fleeing by Cao Hành Kiện
Loneliness by CHK
To Young Poets by AZ
NHQ và HTXHCN
Bolano: Trong Ngoặc
Borges's Còm
Hà Nội Gió
Tạp Chí ST by CTC
Graham Greene Dangerous Edge
Đọc lại Agatha Christie
Message to 21th Century
Memory Trap
How to write a sentence
Bùi Ngọc Tuấn
Ôi chao giọng Huế
Lapham Kẻ Lạ
Inner Worlds
LMH case
Bịp
Lolita loathsome brillance
Kafka Poet
Once upon a sea
Images Life by Simic
Borges by Cioran
Centaur Question by P_Levi
Ars Erotica
Keo_LMH
A Place in the Country
Love-Letter by Durrell
Bad Words Praise
Imaginary Beings Book
Love Stories
Thôi bỏ đi Tám
Surf Tin Văn
Nơi cuộc chiến bắt đầu
Thông điệp I. Berlin
Mit vs Lò Thiêu
Why Lawers Love Shakespeare
Karl Popper on Democracy
Nhã Ca @ Cornell
NL vs Camus
HNB Case
Naipaul on Borges
Viết bằng tiếng nước người
Kể lại 1 đời
Trần Trọng Kim
Ngôn ngữ & Tư tưởng

Kafka in 21 Century










 



Last Page

Note: Trang này bị trục trặc, mới sửa lại.
Trang này, và "last page","Lướt TV
là những trang hỗ trợ lẫn nhau

*

https://www.theguardian.com/books/2016/aug/01/walter-benjamin-the-storyteller-review-fiction


Yet the most radical source of the story and the storyteller is not boredom but death, according to Benjamin. “Death is the sanction of everything that the storyteller can tell,” Benjamin writes, a bit mysteriously. “He has borrowed his authority from death.” And he wonders if the entire edifice of modern life has been erected on this secret basis: to hide death. “There used to be no house, hardly a room, in which someone had not once died.” Even the poorest wretch, he adds, has an authority in death, which may be the authority to communicate, in his mute and final moments, a life of shared experiences.

Quyền năng của tay kể chuyện, không phải từ buồn chán. Anh ta/chị ả mượn nó, từ Thần Chết!



Because Benjamin has so often been identified with Marxist criticism, many critics and readers who are either hostile or indifferent to Marxism have not studied this essay very carefully.  Its real value lies not in its assertion of Marxist values, either socially or aesthetically, nor does it lie in its analysis of Leskov, for that is but a minor  part of the piece, but rather in the suggestions it offers about the basic nature of narrative, particularly the primal nature of story as opposed to the more recent realistic narrative characteristic of the novel form.  No one who wishes to understand the basic nature of story can really afford to ignore Walter Benjamin's profound study of the storyteller.

B
ởi chưng WB là phê bình gia Mạc Xịt, mà người đời tởm Mạc Xịt, bèn né đọc ông!

Có hai tay Mạc Xịt Gấu cực mê. Một, từ hồi mới bước chân vô làng, làng văn. Lukacs. WB biết, là nhờ Coetzee. Nhớ, 1 lần tới tòa soạn Văn, tay cầm cuốn “Lịch sử và Ý thức Giai cấp”, được coi là Tân Thánh Kinh, của Lukacs, TPG  mặt khinh khỉnh, phán, cậu mua cái này, tính nhất ma ư?
Có rất nhiều cuốn, hồi đó mua, không đủ trình độ đọc, nhưng Gấu đọc sách, thường là quá sức của mình.
Rất nhiều tác giả, ngay cả khi ra được hải ngoại, không chỉ đọc, mà còn giới thiệu trên TV, dù vốn tiếng Anh cũng hơi bị ít.

Đây là 1 trong ba búa Trình Giảo Kim, TTT dạy thằng em, cứ đọc đến đâu học tới đó, dịch tới đó. Tất nhiên sai, sai tới đâu, sửa tới đó.
Một lần kể cho Nguyễn Tiến Văn, anh than, tôi mà được gặp TTT, từ hồi còn trẻ, như ông, là có không biết bao nhiêu là tác phẩm!
Về già, ngẫm, quả đúng như thế.
Những đấng trên răng dưới dế như Thầy Đạo, tên Lang Băm, thí dụ, viết 1 câu tiếng Mít không nên thân, là do không chịu viết.
Đọc tới đâu, viết tới đó, dịch tới đó....  là 1 cách sử dụng tiếng Việt rành rẽ, đúng cái ý của Cioran, tôi mơ 1
thế giới, ở đó, người ta có thể chết vì cái dấu phảy.

Đọc “danh sách đen” của Thầy Đạo trình Sến Bắc Kít, lần đầu tiên trên talawas, Gấu thực sự ngạc nhiên, ông tố cáo những bạn bè văn khoa của ông, tên nào đã từng/chưa từng trình luận án, OK, nhưng sao lại có Gấu ở trong.
Gấu không phải dân khoa bảng, tức là không có cái Mít Triết, như đám ông ta, nhưng
cũng chưa từng trưng khoe bằng cấp.
Còn cái chuyện Gấu viết phê bình, điểm sách, là ngay từ lúc mới bước vô làng, chỉ sau mấy cái truyện ngắn.
Vì có đám Gấu, trong có HPA, mà tờ Văn ra 1 đặc san Văn,
chuyên về phê bình, điểm sách.
Tất nhiên, còn rất nhiều người cộng tác, nhưng chắc chắn, TPG tin rằng, với mấy tên này, sẽ có cái mới trong địa hạt này.
Tên khốn Lang Băm, cũng trên răng dưới dế, còn là đàn em Thầy Đạo, khi viết, mi không phải phê bình như thầy Quốc, là cũng viết theo kiểu của Thầy Đạo, mi không phải dân khoa bảng, không có bằng Triết Mít như chúng ông.
Nhưng rõ ràng, phê bình không mắc mớ gì tới bằng cấp.
Walter Benjamin thi hoài rớt hoài, đến phải bỏ khoa bảng. Rồi Roland Barthes, đâu có bằng cấp đại học.
TTT, không. Cũng viết phê bình bảnh hơn ai. Bài điểm cuốn Trầm Tư của Hồ Hữu Tường, mà không khủng sao.
Chỉ 1 bài điểm sách, với cái hình ảnh, cánh đồng Bắc Kít chằng chịt, bờ nhiều hơn ruộng, mà nhìn ra viễn ảnh, không phải Đức Phật sẽ trở lại với xứ Mít, như HHT mơ uớc, mà là Quỉ Đỏ, một
khi, không, chỉ cánh đồng Bắc Kít liền 1 giải, qua chính sách CCRD, làm ăn tập thể, mà cả xứ Mít liền 1 giải, lao xuống biển, đi xuống địa ngục, trên đà mất tích.
Cũng không lâu đâu!
Người định nghĩa WB, bảnh nhất, và có thể coi đây là định nghĩa, của "
cái gọi là" phê bình, phê bình gia, là Hannah Arendt.
Bà phán, “tay này không học bơi, theo dòng, hoặc ngược dòng”.
Tuyệt.
Cái chuyện tên Lăng Băm chửi Gấu, thì cũng thường, vì Gấu chửi cả thiên hạ, làm sao cấm chúng chửi lại.
Quái nhất, là tên khốn này bôi bẩn không biết bao nhiêu tác giả khác, trong có mấy tác giả nữ, mà toàn chuyện nhơ bẩn.

Nhớ, hồi xẩy ra vụ VP với TH, báo chí nhảy vô ăn có, trong có tay DVN, dù chính TH viết ra, tức là xác nhận có chuyện đó, vậy mà mấy đứa nhỏ lên tiếng, mấy ông mấy bà để cho chúng tôi yên thân, phải câm hết.
Ở đây, toàn chuyện đồn thổi, vậy
mà dám lôi tên mấy vị này ra, đàn bà với nhau, tại làm sao mà để 1 thằng khốn nạn như thế, dùng chính diễn đàn của mình, làm chuyện nhơ bẩn, rồi cứ tỉnh bơ, như người Hà Nội.
Ăn nói thế nào với mấy đứa nhỏ,
con cái của hai vị này?
Đạo hạnh, đẳng cấp là ở chỗ này, đúng như Milosz, khi viết về Brodsky:
Notes About Brodsky

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.

Đẳng cấp phân biệt những nhà văn như hai vị bị tên khốn lôi ra bôi bẩn - họ có tác phẩm, có năm tháng miệt mài với đời sống, chữ viết, họ sống sót, nói ngắn gọn - còn những tên như Thầy Đạo, Lang Băm, đúng là trên răng dưới dế!
Tởm thực!
Cái lý do chúng thù Gấu, thì cũng y chang: Chúng thù Gấu, vì viết lách hơn chúng, có tác phẩm này nọ....


*

Khi vị Trần Thị NGH viết, lũ khốn này đâu có?

http://www.tanvien.net/ds/ds_lac_dan.html

Chẳng cần tới Lạc Đạn, Trần Thị NgH đã nổi tiếng. Trong bài viết ‘Nhìn lại văn chương hải ngoại năm 1999’, (đã đăng trên tuần báo VHNT trên internet, do Phạm Chi Lan chủ trương), người viết có đưa ra nhận xét, đây là một năm được mùa. Mùa gặt mới trong đó có cả lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác giả như Trần Thị NgH, một tác giả trước 1975 tại Miền Nam, vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách ở Sài Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá Trái. Theo như tôi còn nhớ, truyện ngắn đầu tay của bà là về một người đàn ông có vợ, nhân bữa chủ nhật đi thăm một người đàn bà không chồng nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng đi mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng trong Sài Gòn vẫn còn đọng lại ở trong tôi, có hình ảnh cô đơn của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác trước tiệm thuốc tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm.

Ba chuyện tình cảm cá nhân, thuộc đời tư, lôi ra viết cực kỳ khốn nạn, nào chấm mút, nào áp phe tình ái, gặp thứ dữ như bà vợ của VQ, lôi ra tòa, vì tội mạ lị, có khi mất nghiệp như nữ đại ma đầu Nghé Ọ, không tởn ư?
Đàn bà với nhau, không thấy xót xa, tủi hổ, như nhau ư?

Gấu rất tởm phê bình, phê bình gia, đó là sự thực.
Tại sao, sẽ từ trừ trình bày tiếp.
Có thể, nó liên can tới Cái Ác Bắc Kít.

Gấu lải nhải hoài phê bình phải như toán học. Giải 1 bài toán, từ những dữ kiện [donnés, giả thiết, sự kiện, thiếu không được, mà dư cũng không được - nhớ 1 lần Tẩy ra đề thi Tú Tài 2, hình như thế, đề ra, dư 1 giả thiết, nghĩa là khi giải, tìm đáp số, không cần đến nó, vậy mà phải huỷ kỳ thi, thi lại], tìm ra đáp số
, tương tự, viết 1 bài phê bình có nghĩa là tìm ra cái đáp số [viễn ảnh, cái nhìn mới, về 1 tác giả, tác phẩm... ] như thế.
Lũ Văn Khoa Mít, chỉ biết học thuộc cours của Thầy, sau này ra đời, không viết được cái gì
hết, thơ truyện ngắn truyện dài, thì không tìm cho riêng mình một văn phong, riêng phê bình, từ chết đến bị thương!

Phải về già, gẫm trường hợp ông anh nhà thơ TTT, với những lời phán khủng khiếp về cuộc chiến Mít, như khi đọc Trầm Tư, như trước khi khăn gói quả mướp, đi tù VC, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này, hay khi đọc Brodsky, hay Walter Benjamin, Gấu ngộ ra, không đúng như Roland Barthes phán [phê bình là ngôn ngữ bậc 2, siêu ngôn ngữ, ngôn ngữ của ng
ôn ngữ]: Phê bình là “sáng tác của sáng tác”, giống như thứ, “nhà văn của nhà văn”, mà Susan Sontag phán, về Sebald, khi đọc ông này.
Những viễn ảnh mà TTT nhìn ra, đâu có khác gì của Kafka, chúng chiếu lên cả 1 không gian, thời gian rộng khắp, liên can đến số phận bao nhiêu con người, vài chục niên đại.


Danilo Kis

* *

A Tomb for Boris Davidovich   

translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

PENGUIN BOOKS
A TOMB FOR BORIS DAVIDOVICH 


DANILO KIS was born in 1935 in Subotica, Yugoslavia. He lived in Hungary, Montenegro, Belgrade; and France; he died in Paris on October 15, 1989. Kis was a lecturer in Serbo-Croatian and Yugoslav literature at the universities of Strasbourg, Bordeaux, and Lille. He is considered one of the finest translators of European poets-especially French poets-into his native Serbo-Croatian. In 1980, Kis received the prestigious Golden Eagle of the City of Nice, an award that has gone to such authors as Graham Greene and Nadine Gordimer. Danilo Kis was posthumously awarded the 1989 PEN/Bruno Schulz Prize, which honors foreign writers under-recognized in the United States .. The award money is being held in trust by PEN to subsidize the translation of other books by Kis.
    Two of Kis's books have previously been published in English translation: the novel Garden, Ashes (1975) and The Encyclopedia of the Dead (1989), available from Penguin Books. His collected works have been published, in the original Serbian, in ten volumes.

Joseph Brodsky was born in 1940 in Leningrad and began writing poetry when he was eighteen. Anna Akhmatova soon recognized in the young poet the most gifted lyric voice of his generation. Only four of his poems have been published in Russia, however; most of his work has appeared only in the West. His poetry has been translated and published in at least ten languages. In 1972 Brodsky became an involuntary exile from his native country and now lives in the United States. He is affiliated with both New York University and the University of Michigan.  

Note: Trong cuốn Gấu có, trên, 1978, không có lời bạt của William T. Vollmann.

Introduction

When, after great difficulties, this book was first published in 1976, in Zagreb, Yugoslavia, it was immediately assaulted in the press by the conservative "Stalinist" elements at the top echelon of the Yugoslav literary hierarchy. The war cry emanating from the top was picked up at the bottom by Serbo-Croatian nationalists, who are traditionally pro-Russian and traditionally anti-Semitic, for the bulk of Danilo Kis's characters are Jews, as is the author himself. Yugoslavia is a small country, and the politics in a small country are always big, literary politics especially. Due to this proportion, an attack against a writer becomes extremely focused. It was focused sharply enough to send Danilo Ki] into "nervous shock."
    There are several topics an author may deal with which can jeopardize his well-being, and history is one of them. Depending on its proximity to the present, history provides a writer with background, content, cast of characters, and sometimes, as in the case of Kis, with the writer's actual context. The very fact of describing historical events is regarded by history as an attempt to demote it into the past and is' resisted vehemently. An historical novel becomes therefore a vehicle of time, an instrument that purports to outline the boundaries between past and present by means of estrangement from its subject. A narrative reduces history to a story and creates, by being conducted from a certain "outside," a new time category, heretofore unknown.
    Apart from the general "cause-and-effect" principle, history claims the present through its most viable extension: through ideology. Having failed to triumph at the moment of its emergence, an ideology rapidly develops what one may call a utopian complex and gravitates to timelessness. Correspondingly, a portrayal of ideology or of its carriers is considered by the latter as an attempt to pin it down, to compromise its purity, and to rob it of its future.
    In the case of A Tomb for Boris Davidovich, history's claim on the present may seem all the more valid because the epoch with which this book 'deals isn't really so ancient.
Its author, a Yugoslav writer, Danilo Kis, describes events that took place in the first half of this century and their impact on the lives of his seven characters. For all seven the impact turned out to be the same: deadly.
    Ostensibly, since 'the dead, by definition, belong to the past, the sheer numbers of that epoch's victims should have removed the described period, along with the ideology that animated it, deep into annals. What usually slows the passage of time and by the same token causes an ideology to linger, however, is not so much that the murderers often outlive the murdered as that the living mistakenly regard the dead in the same way as a majority regards a minority.

Joseph Brodsky

Khi, sau những khó khăn lớn, cuốn sách này được xb lần thứ nhất 1976, ở Zagreb, Nam Tư, nó bèn liền lập tức bị tấn công trên báo chí bởi những phần tử Xì Ta Lin Nít bảo thủ, ở đám chóp bu của Hội Nhà Thổ của xứ này. Rồi đến đám cặn bã, ăn theo, gồm những tên quốc gia, gốc Serbo-Crotian, vốn có truyền thống phò Nga xô và bài Do Thái, bởi là vì những nhân vật của Kis, là Do Thái, như chính tác giả. Nam Tư là 1 xứ nhỏ, và chính trị ở xứ nhỏ thì luôn luôn lớn, chính vì thế mà cú đánh nào cũng ra trò. Nó chiếu tướng Kis, đủ mạnh để khiến tác giả bị 1 cú sốc tinh thần
Có vài đề tài, một tác giả có thể đề cập, có thể khiến tác giả sống dở chết dở với chúng, lịch sử là 1 trong đó. Do tính cận kề với hiện tại, lịch sử cung cấp cho nhà văn cái nền, cái nội dung, khung nhân vật, và đôi khi nội dung của nó, chính là cuộc đời của tác giả

Cynthia Ozick

*

Fanatics
Những kẻ cuồng tín


MILENA JESENSKA, KAFKA'S TRANSLATOR AND lover, has left us a useful and persuasive definition of fanaticism: "that absolute, unalterable necessity for perfection, purity, and truth." It was Kafka she meant. Then let us now praise fanaticism, how it binds the like and the unlike, how it aspires to purity, how it engenders art at its most sublime, seeking the visionary and the inescapable; and how it reveres the ascendancy of its desires.
    Kafka, a fanatic of language, was not alone. America had its own language fanatics, of which he was unaware. In the novel we know as Amerika (The Man Who Disappeared, also called The Stoker), anomalous characters populating his American scenes are rife; but Kafka's imagination, capaciously strange though it was, could not have conceived of the American Hebraists, as prodigiously single-minded as himself, who were thriving in the very years he was at work on Amerika.
    That Kafka contended with his native German even as he powerfully embraced it is one of the salient keys to his character: the key is in hand, but there is no lock for it to fit into. German was his, ineradicably, yet insecurely. His famously self-lacerating lament-that Jews who wrote in German had "their hind legs stuck in parental Judaism while their forelegs found no purchase on new ground" - suggests some small helpless underground animal futilely attempting to escape its burrow. But when he crucially, even triumphantly, announced, "I am made of literature and nothing else," it could only mean that it was German idiom and essence, German root and rootedness, that had formed and possessed him.
    Why, then - early in life until late, and with strenuous diligence - did he pursue the study of Hebrew? The notebooks that survive (archived in the National Library of Israel) are redolent of an ironic pathos: an earnest schoolboy's laboriously inked vocabulary lists, Hebrew into German, in the very hour that the world's most enduring masterworks were spilling from this selfsame pen. When at twenty-nine Kafka was first introduced to Felice Bauer, the young woman to whom he would be twice engaged but would ever marry, he thought her unprepossessing, but was nevertheless instantly drawn to her talk: she was, she told him, studying Hebrew.
    The American Hebraists, poets who in their youth had emigrated from Eastern Europe, were Kafka's contemporaries. They were also his peers in language fanaticism: they too were made of language and nothing else - but the language that formed and possessed them was Hebrew. Unlike Kafka's feverish wrestling with the fraught and unseemly question of hind legs and forelegs, they were consumed, body and soul, with no ambivalence of belonging, by Hebrew. Not only were they fanatics in their claim of intimately ingrained ownership of Hebrew, its godlike guardians and creators, they were fanatics in their relation to their new environment. English was all around them, awaiting their mastery; and they did become masters of English, and still it was Hebrew that inflamed them. Nor were they - unlike Kafka - torn by incessant doubt and self-repudiation. Scattered in cities all over America, they sat in tranquil rooms, on new ground, immersed in the renewing sublimity of the ancient alphabet.
    And then they disappeared.
    Kafka did not disappear.
    No Hebraist poets inhabit his Amerika, but we can try to imagine, had he journeyed, like his protagonist Karl, to the real America, and encountered, say, Preil or Halkin or Regelson, would they recognize one another as equally eaten by that glorious but perilous worm, literary fanaticism?

Ai Điếu Franz Kafka
Milena Jesenska

Dr Franz Kafka, một nhà văn Đức, sống ở Prague, và chết ngày hôm kia, ở Viện điều dưỡng Kierling, gần Klosterneuburg bei Wien. Ở đây ít người biết ông, bởi vì ông là một người sống ẩn dật, một hiền nhân luôn mang nỗi sợ cuộc đời. Trong nhiều năm, ông đau khổ với căn bệnh phổi, và tuy loay hoay tìm cách chữa trị, ông lại như muốn nuôi căn bệnh đó, cưu mang nó trong tư tưởng của ông. Có lần ông viết trong một lá thư: khi trái tim và linh hồn không thể chịu đựng nó được nữa, buồng phổi sẽ chịu giùm nửa gánh nặng, như vậy là nó được chia khá đồng đều - căn bệnh của ông là vậy. Nó cho ông một sự dịu dàng kỳ diệu, và một sự tinh khiết trí thức không đắn đo, câu thúc. Tuy nhiên, chỉ riêng về mặt hình hài thể chất, Franz Kafka dồn lên hai vai của căn bệnh, toàn thể nỗi kinh hãi cuộc đời. Ông là một người cả thẹn, luôn khắc khoải, nhẫn nại, dịu dàng, tuy những cuốn sách ông viết ra thì thật ghê sợ, và đau đớn. Ông đã nhìn thế giới như đầy những quỷ dữ vô hình, vò xé, và tiêu huỷ những con người vô phương chống đỡ. Ông quá tiên tri, quá thông minh để có thể sống, và quá yếu ớt, để chiến đấu. Ông yếu ớt như những con người cao đẹp yếu ớt, những con người không thể chiến đấu chống lại nỗi sợ bị ngộ nhận, chống lại trò ma muội, hay tính toán chi ly, bởi vì họ thừa nhận ngay từ đầu, cái điều của riêng họ, đó là đừng mong chi một sự trợ giúp; sự nhẫn nhục cam chịu này chỉ làm cho kẻ thắng thế hổ thẹn. Ông hiểu thế nhân, một sự hiểu biết mà chỉ một ai cao cả, có một sự mẫn cảm hoài hoài mới có thể có được. Chỉ một ai cô đơn. Chỉ một ai, trong một thoáng nhận ra kẻ khác, hầu như một nhà tiên tri. Sự hiểu biết thế giới của ông thật phi thường, và sâu thẳm; chính ông là một thế giới phi thường và sâu thẳm. Ông đã viết những cuốn sách có ý nghĩa nhất của nền văn chương Đức hiện đại, những cuốn sách cưu mang trong nó sự chiến đấu của thế hệ hôm nay xuyên suốt thế giới - trong khi kìm giữ mọi thiên vi. Chúng thực, trần trụi, và đau thương nên hết đỗi tự nhiên ngay cả khi có tính biểu tượng. Chúng đầy sự khinh miệt khô cằn và là cảm quan của một người nhìn thế giới một cách rõ ràng đến không thể chịu đựng được nó, một người mà nỗi chết không rời, kể từ khi người đó chối từ mọi bon chen hay tìm nơi ẩn trú, như những người khác thường làm, trong những ảo tưởng này nọ, của lý trí, hay của vô thức - kể luôn cả những con người cao cả. Dr Franz Kafka đã viết "The Stoker", chương thứ nhất của một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời, vẫn chưa được xuất bản (đã xuất hiện bằng tiếng Czech trên Neumann's Cerven (1), "the Judgment", sự xung đột của hai thế hệ; "The Metamorphisis", cuốn sách mãnh liệt nhất của văn chương Đức hiện đại; "In the Penal Colony"; những tuyển tập Meditation và A Country Doctor. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Before the Law (2), còn trong dạng bản thảo, sẵn sàng để in ấn, từ nhiều năm. Nó là một trong những cuốn sách, một khi đọc, cho (ta) cảm nghĩ về một thế giới được miêu tả hoàn hảo đến nỗi mọi phê phán sau đó đều chỉ là phù phiếm. Tất cả những cuốn sách của ông vẽ nên sự ghê rợn của những ngộ nhận thầm kín, của niềm ngây thơ tội lỗi giữa những con người. Ông là một nghệ sĩ và là một người với một lương tâm khắc khoải, đến nỗi ông có thể nghe, trong khi những người khác, điếc, cảm thấy, chính họ đang yên ổn.

(Národni Listy, June 6, 1924)

 (1) Milena muốn nói tới tuần báo Kmen, cũng của S. K. Neuman.
 (2) Đây là muốn nói tới cuốn Vụ Án. Milena chỉ biết có truyện ngắn Before the Law. Hiển nhiên, bà không biết cuốn tiểu thuyết chót của Kafka, Lâu Đài. (Ghi chú của nhà xb Kafka Library).
Nguyễn Quốc Trụ chuyển ngữ

MILENA JESENSKA, KAFKA'S TRANSLATOR AND lover, has left us a useful and persuasive definition of fanaticism: "that absolute, unalterable necessity for perfection, purity, and truth." It was Kafka she meant.  

Chắc là, Ozick muốn nhắc tới mẩu sau đây:



[Milena letters to Max Brod]

[Bạn có thể tưởng tượng, đây là thư của "đảo xa", gửi cho MT, viết về TTT!]

Dear Herr Doktor:

[beginning of August 1920]

... Obviously, we are all capable of living, because at one time or another we have all taken refuge in a lie, in blindness, enthusiasm, optimism, a conviction, pessimism, or something else. But he has never fled to any refuge, not one. He [Kafka] is absolutely incapable of lying, just as he is incapable of getting drunk. He lacks even the smallest refuge; he has no shelter. That is why he is exposed to everything we are protected from. He is like a naked man among the dressed ... Everything he is, says, and lives cannot even be called truth; actually, it is predetermined being, being in and of itself, being with nothing added that might allow him to distort his picture of the world- whether into beauty or distress. And his asceticism is completely unheroic-hence all the greater and loftier. All "heroism" is lying and cowardice. This is not someone who chooses asceticism as a means to an end; here is a man who is forced to be ascetic because of his terrible clairvoyance, his purity and inability to compromise.
    There are very intelligent people who also refuse to make compromises. But they don magic glasses and see everything in a different light. That's why they don't need any compromises. That's why they are able to type quickly and have their women. He stands beside them and gazes at them in wonder, at everything, even this typewriter and these women. He will never understand.
    His books are amazing. He himself is far more amazing. Many thanks for everything. I wish you all the best. I'm allowed to visit you when I come to Prague, am I not? I send you my most heartfelt greetings.

Hiển nhiên tất cả chúng ta đều có thể sống, bởi là vì lúc này lúc khác, chúng ta đều có thể kiếm ra nơi ẩn náu, trong 1 lời dối trá, trong sự mù lòa, hưng phấn, lạc quan, tin tưởng, biếm thế, hay một điều gì khác. Nhưng anh ta [Kafka] không làm được như thế, anh ta chẳng bao giờ chạy tới bất cứ 1 nơi ẩn náu, không một nơi ẩn náu. Anh ta tuyệt đối không thể nói dối, như anh ta không thể say rượu. Anh ta không có lấy 1 chốn ẩn náu cho dù nhỏ bé nhất. Anh ta không có 1 nơi trú ẩn. Chính vì thế mà anh ta cứ thế phơi ra trước mọi thứ, mọi điều mà chúng ta được che chở, từ chúng. Anh ta như thể 1 kẻ trần truồng, giữa đám người ăn vận quần áo. Mọi thứ, mọi điều anh ta là, nói, và sống, không thể, ngay cả, được gọi là sự thực; sau cùng, đây là một sinh vật được tiền định, tính toán từ trước, một sinh vật ở trong nó, và của chính nó, có mà chẳng cần hư vô thêm vào, cái hư vô có thể cho phép anh vặn vẹo hình ảnh của anh ta về thế giới - trở thành cái đẹp, hay sự chán chường, kiệt quệ. Và chủ nghĩa khổ hạnh của anh ta thì hoàn toàn không-anh hùng - từ đó, tất cả lớn lao, cao vời vợi. Mọi “chủ nghĩa anh hùng” thì là dối trá, hèn nhát. Đây không phải là 1 kẻ chọn khổ hạnh, như là một phương tiện đưa tới cứu cánh; dây là 1 người đàn ông bắt buộc khổ hạnh bởi là vì cái tiên tri khủng khiếp của anh ta, sự trong trắng của anh ta, và cái không thể thoả hiệp của anh ta.







Books August 1, 2016 Issue
How Rousseau Predicted Trump
The Enlightenment philosopher’s attack on cosmopolitan élites now seems prophetic.
By Pankaj Mishra

“I love the poorly educated,” Donald Trump said during a victory speech in February…
Tớ thích những tên ít học.
Giả như Trump thắng ở Mẽo, thì có cẩm như Víp Va Ka thắng ở xứ Mít, ngày nào?

Khiem Do liked this.

Coi chừng chúng ta ...sẽ tệ hơn dân tộc này vì họa diệt chủng cao hơn

Cách đây 7, 8 năm tôi đọc và chia sẻ với tựa " Hãy cầu nguyện vì chúng ta còn may mắn hơn dân tộc này…"

Bây giờ tôi đổi tựa lại ... mong hồn thiêng sông núi giúp dân tộc sớm tỉnh ngộ...

...Continue Reading
Duc Tran Phan's photo.


Note: Sự thực này, nhiều người đã nhận ra từ khuya. Trong bài Tựa cho cuốn "Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị" Hannah Arendt phán, giả như không có lũ thực dân đế quốc da trắng, không biết bộ mặt thế giới sẽ ra sao.
Tuy nhiên, cái chết của xứ Mít, còn thê thảm hơn nhiều, không phải do da trắng mà do Tẫu.
Phạm Quỳnh khi bị Vẹm đập nát đầu, vì tiếc 1 viên đạn, vẫn phán, không có thằng Tẩy, là Mít chết.
Vẹm lợ
i dụng chủ nghĩa giải phóng dân tộc để ăn cướp cả nước, chỉ cho chúng, và khi làm như thế, chúng rước thằng Tẫu vô thay.
Mít chết vì da vàng, không phải vì da trắng.
Cái Ác Bắc Kít gây họa. Cả hai cuộc chiến đều do nó gây ra, với thằng Tẫu ở đằng sau nó. Lịch sử Mít bây giờ rõ như ban ngày. Cầu cái con khỉ gì nữa!
Âu Châu thoát CS, là nhờ Lò Thiêu.
Trúng cú Lò Thiêu, sống sót nó, và nhờ thế, thoát Họa Đỏ.
Đơn giản chỉ có thế!
Những con người như Primo Levi, Elie Wiesel..... đã cứu thoát Âu Châu khỏi Họa Đỏ.
Cùng với họ, là hai cuốn Trại Loài Vật, và Bóng Đen Giữa Ban Ngày.

Danilo Kis

* *

A Tomb for Boris Davidovich   

translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

Introduction

At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.

Thoáng nhìn, Ngôi Mộ có vẻ như 1 thứ phó sản phẩm, từ những tác phẩm như Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Gulag [chưa được xb ở Nam Tư], “Hy vọng chống lại Hy vọng”, của Nadezhda Mandelstarn và những cái viết của anh em nhà Medvedev.
Vấn đề là, cuốn tiểu thuyết xoáy vào số phận một vài người bị tiêu trầm trong cú Đại Khủng Bố xẩy ra vào cuối thập niên 1930. Và hầu hết, đều là số phận Nga. Với 60 triệu con người chết, trong cuộc nội chiến, tập thể hóa, Đại Khủng Bố, Nga xô, trong thế kỷ này, đã sản xuất đủ lịch sử để làm cho văn chương toàn thế giới bận rộn trong vài thế hệ.
Những tác giả được nói tới ở trên thuộc thế hệ thứ nhì.
Thứ nhất, là Koestler.
Vài chương của Ngôi Mộ có cái giông giống Đêm Giữa Ban Ngày, nhưng bảnh hơn nhiều, nếu nói về ghê rợn về chi tiết, và về kỹ năng tự sự
.

Ui chao Joseph Brodsky, như thế, là đã tiên tri ra được "Đêm Giữa Ban Ngày" của nhà văn người tù lương tâm Mít, VTH!
Cùng 1 dòng!
Cùng 1 cái tít!
Thần sầu!


Perhaps the only service a real tragedy renders in leaving its survivors as speechless as its victims is that of furthering its commentators' language. The least that can be said about A Tomb for Boris Davidovich is that it achieves aesthetic comprehension where ethics fail. Of course, the mastery of language can hardly pass for a safeguard in our enterprising century; but at least it creates a possibility of response, without which people are bound to remain slaves of their experience. By having written this book, Danilo Kis simply suggests that literature is the only available tool for the cognition of phenomena whose size otherwise numbs your senses and eludes human grasp.

Có lẽ cú phục vụ độc nhất mà 1 bi kịch thực, đem tới, khi để cho kẻ sống sót cũng câm bặt như những nạn nhân, là, cái trò lèm bèm về ngôn ngữ của nó, sau đó. Nếu như thế, thì ít nhất, chúng ta có thể phán về “ Ngôi mộ”, nó hoàn tất cảm thông mỹ học, một khi/ở nơi mà đạo hạnh thất bại.
Lẽ dĩ nhiên, khó mà coi đây là cái phao cứu nạn, trong thế kỷ “enterprising” của chúng ta, nhưng ít nhất, nó tạo 1 khả thể đáp ứng, không có nó, con người bị buộc là nô lệ của kinh nghiệm của nó.
Viết “Ngôi mộ”, Kis giản dị đề xuất rằng, văn chương là dụng cụ khả hữu độc nhất, nhìn nhận hiện tượng, một khi tầm vóc của nó làm tê liệt cảm quan của bạn, và tuột ra khỏi cái nắm, víu của nhân loại

A Tomb for Boris Dauidooicb is a very dark book, and its only happy end is that it was published and now so splendidly translated into English by Duska Mikic-Mitchell.
It is surely a strange realm for an English reader to enter, but so it was for the millions and millions who found themselves inside it. Unlike them, an English reader can leave it whenever he likes by closing this book, finished or unfinished. Only the names here are fictitious. The story, unfortunately, is absolutely true; one would wish it were the other way around.

“Ngôi mộ” là 1 cuốn sách quá u tối, và cái hy vọng độc nhất của nó, được xb, và bây giờ, được dịch thật là tuyệt vời qua tiếng Anh. Chắc chắn cái cõi này thì thật là lạ lẫm đối với độc giả người Anh, khi bước vô, nhưng có hàng triệu triệu con người cảm thấy họ ở trong đó. Không như họ, một độc giả tiếng Anh có thể ngưng đọc ở bất cứ khúc nào, bất cứ khi nào, anh ta muốn, bằng cách đóng nó lại.
Chỉ có những cái tên là dởm. Câu chuyện, than ôi, bất hạnh thay, thực.
Tuyệt đối thực
Đi tìm phê bình gia Mít

Lê Thị Thấm Vân liked this.

Có người nói tôi "ông ăn nói tự do vậy còn muốn gì nữa?". Xin thưa, cũng ko đơn giản. Thấy vậy mà ko phải vậy. Khi lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn hải ngoại (tạp chí Hợp Lưu đăng tiểu thuyết Đâm Sừng Vào Bóng Tối), tôi bị đuổi việc khỏi báo Thanh Niên, dù đó chỉ là 1 truyện tình, thậm chí hơi sến (năm 2001). Lần thứ hai, tôi bị an ninh ép ko được cộng tác cho BBC (năm 2005). Lần thứ ba, an ninh làm áp lực với Thông Tấn Xã, tôi bị đuổi việc khỏi báo Đẹp. Và từ đó đến nay, ...

See More
139Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Trọng Khôi and 137 others

Đấng này, có lần, có 1 vị độc giả, mail, hỏi, tại sao ông Gấu
có vẻ ghét…
GCC bèn phải đi 1 đường giải thích, Gấu không ghét, vì có gặp bao giờ đâu.
Nhưng cực ghét thứ văn chương thật là bửn của ông.

Chúng ta thử trò đểu giả; có vài tên thành công
Chúng ta thử thời gian; nó nhạt thếch như nước lã

Adam Zagajewski

http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2666&rb=0301

Cũng cần nhắc lại chuyện hồi đó Mai Thảo có đi một bài của Nguyễn Văn Trung trên Sáng Tạo, bài Trường Hợp Francoise Sagan, nhưng sau đó độc giả và anh em trí thức cho Mai Thảo biết đó là một bài trên một tạp chí văn chương của Pháp, Nguyễn Văn Trung đã dịch nguyên con nhưng lại ký tên mình là tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó Mai Thảo rất “sợ” những bài viết của những nhà “nghiên cứu” triết lý hiện sinh.
DTD

Cái vụ này, như Gấu còn nhớ mài mại, NVT dịch 1 bài trên báo Tẩy, về Sagan, không ký tên NVT, mà là 1 nick khác, Hoàng Trúc Linh hay gì gì đó.
Gấu thực sự không tin ông tính đạo đạo cái con mẹ gì. Dịch, không coi mình là tác giả, thì ký 1 cái tên khác, chuyện đó thường xẩy ra.
Đạo, là ký tên NVT.
Vào thời gian Thầy Đạo học Văn Khoa, chắc chắc NVT đang dậy Văn Khoa, như thế, ông ta là Thầy của Thầy Đạo. Gấu học trước Thầy Đạo. Gấu cũng ghi tên học chứng chỉ Triết Tây, do NVT phụ trách, nhưng do học bằng cours Sorbonne, không hề biết đến cours của NVT, nên bị đánh rớt.
Lúc đó Gấu đã đi làm, đã viết lách, có tí tên tuổi, mà nửa chữ cũng là Thầy, đi đâu Thầy cũng nói thằng đó học tao, chịu sao thấu.
Thế là bye Văn Khoa.
Mai Thảo sợ....
MT biết gì về hiện sinh, sao không sợ?


Một tên viết lách Miền Nam, chỉ cần 1 chút tự trọng, là không thể viết 1 bài viết, tố cáo những người viết trước 1975, chưa nói người đó là Thầy của hắn.
Bản thân Thầy Đạo, cả 1 đời quanh quẩn với mớ chữ, trước 1975, không có 1 tác phẩm, rồi sau 1975, ra hải ngoại sớm hơn Gấu rất nhiều, cũng chẳng có lấy 1 tác phẩm. Giả như không có diễn đàn của Bà Huệ, rồi Thầy Đạo, Thầy Quân... viết ở đâu?
Hỏi cũng là trả lời. Vào thời diễn đàn free, hà cớ gì mà không mở ra cho riêng mình 1 cái blog, rồi tha hồ mà viết, núp bóng quần hồng, đâu có gì bảnh?
Chẳng cần đến diễn đàn free, Gấu, ra hải ngoại trễ nhất, thấy quá cần, là tự mình làm trang Tin Văn, gần 20 năm rồi, nếu kể cả thời gian tá túc nơi VHNT của PCL. Trước đó, nghĩ, phải làm sao kết thành 1 mối, diễn đàn nào Gấu cũng viết, không cần được mời, và viết với 1 thái độ thật khiêm cung, chỉ đến khi thấy không thể nào kết với bất cứ ai, thế là đành lui cui làm 1 mình.
Và tới lúc đó, chẳng tha tên nào!
Cái tên Lang Băm, nếu có chút đạo hạnh, thì đã không bịa ra 1 cái nick, rồi núp váy đàn bà, bôi bẩn gần như hầu hết những nhà văn tên tuổi của Miền Nam, sống có, chết có, trong có hai vị nữ lưu. Làm sao 1 nhà văn nữ, chủ 1 blog, lại cho phép 1 tên khốn kiếp như thế, làm nhục hai người này, điều này không thể hiểu nổi.
Nó sẽ như 1 vết chàm, không làm sao viết được nữa, theo GCC.
Còn như tiếp tục viết, như chẳng có gì xẩy ra, thì, như Brodsky viết:
Sau cái thứ này, tôi biết anh ta vẫn tiếp tục viết, nhưng làm sao anh ta tiếp tục sống?






Lịch sử suy tư của Mít


South-East Asian history
Striving for unity
A thoughtful history of Vietnam

https://www.1843magazine.com/features/minds-turned-to-ash

Minds turned to ash
Is burnout simply the result of working too hard? Josh Cohen argues that the root of the problem lies deeper than that
Đừng suy tư nhiều quá, cái đầu biến thành tro than!


Prospero
Language and thought
Declare war on misleading metaphors
Jul 21st 2016, 16:15 by H.J.
METAPHORS matter. The right one can suggest new lines of inquiry and non-obvious solutions to pressing problems.
Tuyên chiến với ẩn dụ cà chớn
 

The metaphor of “stress” for mental or emotional strain or tension has shaped thinking about mental health since it was coined in the 1930s. Borrowed from physics, it suggests that people can withstand adverse or demanding circumstances up to a certain point, after which they will break. Yet it is wrong. New studies suggest that the mind is more like a muscle than an iron bar—weakened, not protected, by being saved from significant challenges. To grow stronger it needs to tackle hard tasks in fruitful ways—and to be allowed to recover afterwards. For workers and firms alike, the lesson is that difficult tasks encourage growth, recovery time should be built into work and personal time should not swallowed up by social media and e-mail.

Another physics metaphor, that of “pressure”, suggests that people put under too much of it will explode. This may be one reason why legal systems have historically been rather forgiving of men who go on rampages after too much wifely nagging or losing their jobs. The notion that “the body is a temple” misleads slimmers and health freaks into pursuing purity and eschewing contamination when choosing foods. That can cause malnutrition and eating disorders—and supports a vast, quack-ridden diet industry. “Calories in, calories out” is more than a banal restatement of the Law of Conservation of Energy: it is a metaphor casting the metabolism as akin to a current account. Weight gain is then simply a matter of depositing more than you withdraw. But that ignores the role of hormones and appetite; differences in the way different foods are metabolised and the way the body reacts to prolonged deprivation by hoarding fat and slowing down. No wonder diets rarely work.


Danilo Kis

*

A Tomb for Boris Davidovich   


translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

Introduction

At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.

Joseph Brodsky

Thoáng nhìn, Ngôi Mộ có vẻ như 1 thứ phó sản phẩm, từ những tác phẩm như Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Gulag [chưa được xb ở Nam Tư], “Hy vọng chống lại Hy vọng”, của Nadezhda Mandelstarn và những cái viết của anh em nhà Medvedev.
Vấn đề là, cuốn tiểu thuyết xoáy vào số phận một vài người bị tiêu trầm trong cú Đại Khủng Bố xẩy ra vào cuối thập niên 1930. Và hầu hết, đều là số phận Nga. Với 60 triệu con người chết, trong cuộc nội chiến, tập thể hóa, Đại Khủng Bố, Nga xô, trong thế kỷ này, đã sản xuất đủ lịch sử để làm cho văn chương toàn thế giới bận rộn trong vài thế hệ.
Những tác giả được nói tới ở trên thuộc thế hệ thứ nhì.
Thứ nhất, là Koestler.
Vài chương của Ngôi Mộ có cái giông giống Đêm Giữa Ban Ngày, nhưng bảnh hơn nhiều, nếu nói về ghê rợn về chi tiết, và về kỹ năng tự sự
.


Ui chao Joseph Brodsky, như thế, là đã tiên tri ra được "Đêm Giữa Ban Ngày" của nhà văn người tù lương tâm Mít, VTH!
Cùng 1 dòng!
Cùng 1 cái tít!
Thần sầu!


  When Kis died in Paris in 1989, the Belgrade press went into national mourning. The renegade star of Yugoslav literature had been extinguished. Safely dead, he could be eulogized by the mediocrities who had always envied him and had engineered his literary excommunication, and who would then proceed-as Yugoslavia fell apart-to become official writers of the new post- Communist, national chauvinist order. Kis is, of course, admired by everyone who genuinely cares about literature, in Belgrade as elsewhere. The place in the former Yugoslavia where he was and is perhaps most ardently admired is Sarajevo. Literary people there did not exactly ply me with questions about American literature when I went to Sarajevo for the first time in April 1993. But they were extremely impressed that I'd had the privilege of being a friend of Danilo Kis. In besieged Sarajevo people think a lot about Danilo Kis. His fervent screed against nationalism, incorporated into The Anatomy Lesson, is one of the two prophetic texts-the other is a story by Andric, "A Letter from 1920"-that one hears most often cited. As secular, multi-ethnic Bosnia-Yugoslavia's Yugoslavia-is crushed under the new imperative of one ethnicity lone state, Kis is more present than ever. He deserves to be a hero in Sarajevo, whose struggle to survive embodies the honor of Europe.
    Unfortunately, the honor of Europe has been lost at Sarajevo. Kis and like-minded writers who spoke up against nationalism and fomented-from-the-top ethnic hatreds could not save Europe's honor, Europe's better idea. But it is not true that, to paraphrase Auden, a great writer does not make anything happen. At the end of the century, which is the end of many things, literature, too, is besieged. The work of Danilo Kis preserves the honor of literature.


Susan Sontag




Đọc & Viết
Ha Le liked this.
Follow

Bản gốc và bản sao
---------------------------
Một người mua một bức tranh của Picasso với giá 100 ngàn USD tại một gallery và mang đến nhờ Picasso chứng nhận bản gốc. Picasso nói: "Đây là bản copy. Ông mất tiền toi rồi." Người khách ngạc nhiên nói: "Ông nói gì thế? Chính vợ ông khằng định ông đã vẽ bức này mà." Lúc đó vợ Picasso cũng đang ở đó, nói: "Đúng, đây là tranh anh đã vẽ. Chính mắt em trông thấy anh vẽ. Anh còn ký tên nữa. Chứ ký của anh lù lù đây này. Sao anh bảo đó...

See More


Giai thoại này, được Koestler kể lại, không hẳn như được viết ra trong entry này.


"Thiên hạ chỉ có ba bồ chữ", cho nên sáng tạo, theo Koestler, là "tài sản riêng" của ba nhà: Bác học, Nghệ sĩ, và Hề sĩ. Trong cuốn Hành vi Sáng tạo, The Act of Creation, ông cho thấy sự tương tự, trong tiến trình sáng tác nghệ thuật, khám phá khoa học, và hứng cười. Tiếng cười bật ra khi hai mặt phẳng luận lý tưởng chừng như đối nghịch, "đụng" nhau. Một ông chồng về nhà, thấy cha tinh thần đang quan hệ mật thiết với bà vợ, bèn đi ra bao lơn, nơi tín đồ đang tụ tập. "Anh làm gì vậy?" "Thì người làm 'việc' của anh, anh làm 'việc' của người."
Một người mua xe cũ, than với người bán xe (dealer), cái xe ẹ quá, bộ phận nào cũng kêu, trừ cái còi. Một anh cán bộ giải thích, chế độ Cộng Sản và tư bản đối nghịch hẳn nhau; học viên hỏi, chế độ tư bản là gì? Người bóc lột người. Chế độ Cộng Sản?...
Picasso, một bữa có một tay dealer đưa bức tranh, ký tên ông, ông lắc đầu, giả. Mấy bữa sau, cũng vậy. "Bữa trước chính mắt tôi trông thấy ông vẽ nó?" "Tôi thường vẽ tranh giả." (Cái trước là đồ mạo hóa, cái sau: đâu phải bức tranh nào của tôi cũng đạt tới "đỉnh cao nghệ thuật").
Một định luật khoa học, cũng là giao điểm của hai mặt phẳng luận lý, hai khung qui chiếu. Định lý Archimedes (287-212 B.C, toán học gia Hy lạp): Vật bỏ vô - nước dềnh lên, hai hiện tượng vật lý không liên quan gì đến nhau. Rồi "eureka", luật tỉ trọng ra đời, vật bỏ vô bị nước đẩy lên, sức đẩy tương đương trọng lượng khối nước bị vật choán chỗ.
Trước Einstein, khối lượng và năng lượng khác biệt, rồi công thức E = mc (bình phương) cho thấy, năng lượng là một dạng của vật chất. 


*

Xon!

Cái truyện ngắn dưới đây, qua dịch giả cho biết, gốc của nó là 1 chuyện dân gian, về 1 cô gái tới 1 miền đất thần tiên trên lưng 1 con rùa, và khi trở lại cõi trần thì đã mấy trăm năm qua đi.

    The Princess of the Dragon Palace

"Make my gravestone taller than the woman. Force her to embrace the stone and bury them both in the sea."
    In his last desperate moments, the father spoke these words, so his two sons ordered a splendid monument made. The father was murdered in a terribly cruel manner at the hands of his young wife and her lover.
    The sons, children by his first wife, nimbly carried the gravestone to a precipice above the ocean. The stone was taller than the woman, their enemy. The cliff was so terrifying that when they dropped a rock, it grew smaller as it fell, until it looked no larger than a sesame seed; but I they became dizzy and had to stop watching before it hit the water. Then the sons stripped the woman, bound her to the monument with a coarse rope, and gave the stone a heave. Instinctively, the woman wrapped her arms and legs around the monument. It groaned like a living creature and tumbled over the edge.
    Then, let's see, what happened next? Halfway down the cliff, in the blink of an eye, the stone seemed to stop. And wouldn't you know, with the woman straddling its back, the gravestone skimmed along like a sled over snow. When it was about to plunge into the ocean, it was transformed into a beautiful small boat that rushed toward the offing like a streak of light. Seeing this, the two sons clung to each other. "Father, forgive us," they cried and collapsed to the ground.
    The woman's lover ran to the cliff's edge. Her boat was swift as a swallow darting through the air. No ordinary boat could catch her. He ran to the husband's grave and carried the monument foundation stone back to the cliff. Holding it, he hurled himself toward the' sea. And, indeed, the stone turned into a boat that sped away like a streak of light.
    The man's boat caught up with the woman's. He spoke to her.
    "We must now thank the man we killed."
    "We can't. We must not thank my husband. If you have any feeling of gratitude in your heart, your boat will turn back into a gravestone."
    Before the woman had finished speaking, the man's boat turned into a gravestone and sank toward the bottom of the sea.
    Seeing this, the woman spoke. "Oh, boat of mine! Turn to stone and follow my beloved beneath the sea!"
    Embracing the monument, the naked woman dove beneath the surface like a mermaid.
    But, offended that he should sink alone to the bottom, the man called out, "Gravestone! Change into a boat and float back up to the surface of the sea to the boat of my beloved."
    Halfway down, he began to rise, having made his request of the man he had helped kill with his own hands.
    Then, let's see, what happened next? The woman sinking and the man rising passed each other in the sea. Finally, the woman sank to the bottom alone.
    And that woman became the princess of the palace of  the dragon king.

When she told me this fairy tale, I thought she was going to commit a lover's suicide herself. And, indeed, she did jump into the sea with her lover. The man died. But she was revived, and in that instant, she cried out and clung to the husband she had deceived. Later, when I saw her again, she said, "It was just like the fairy tale. To the very end-exactly the same!"


CÔNG CHÚA THỦY CUNG  (Ryuuguu no otohime, 1926)

- Hãy làm cho ta một tấm bia mộ có chiều cao hơn thân người đàn bà. Bắt con đàn bà đó ôm lấy tấm bia rồi đem vùi nó dưới biển.

Người cha mình đầm đìa những máu trước khi chết đã trối trăn lại như thế nên hai đứa con trai đã xây cho ông một ngôi mộ huy hoàng lộng lẫy. Cha của họ đã chết một cách tàn khốc dưới bàn tay người vợ nay trở thành góa phụ và anh tình nhân của thị.
Hai ông con đời vợ trước nhẹ nhàng nhấc lên cao tấm bia đá có chiều cao hơn thân người đàn bà, kẻ thù của họ, và khuân nó đến tận ghềnh đá bên bờ biển. Từ một nơi như thế này, nếu liệng một hòn đá xuống thì nó sẽ trở thành nhỏ tí tẹo như hạt vừng rồi mất hút dưới biển. Đó là một cái ghềnh vách thẳng đứng đến kinh hoàng mà chỉ trong nháy mắt là hòn đá đã chạm được mặt sóng. Ở nơi đó, hai ông con đã lột truồng người đàn bà, dùng giây thô bện bằng rơm cột cô ta vào tấm bia đá. Cứ nguyên như thế, họ đẩy tuột tấm bia xuống. Người đàn bà phản ứng tự nhiên bằng cách dang tay dang chân ôm chầm tấm bia đang rơi. Tấm bia giống như một con vật sống cất tiếng kêu thất thanh rồi lăn xuống dưới vực.
Thế nhưng chuyện gì đã xảy ra? Khi tưởng chừng đến khoảng giữa vách đá dựng đứng, tấm bia kia đột nhiên ngừng lại trong một chớp mắt. Rồi coi kìa, nó không còn lộn vòng nữa mà chở người con gái bên trên và lướt đi vèo vèo như một bàn đạp dùng để trượt tuyết? Không phải là con thuyền nhỏ đó đang lao thẳng về phía biển khơi như một vệt sáng đó sao? Khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, hai ông con nhà kia từ hai phía chỉ biết chạy bay đến ôm chầm lấy nhau gào lên:
- Bố ơi, xin tha tội cho chúng con! ?
Vừa nói xong là cả hai đã ngã vật xuống.
Anh tình nhân của cô con gái cũng đuổi đến chỗ đó. Con thuyền chở cô đi liệng nhanh như một con én giữa không gian xanh. Không có một con thuyền nào khác có thể theo kịp. Anh chàng kia bèn phóng như bay đến bên phần mộ của người chồng, nâng nhẹ nhàng miếng đá đặt làm nền dựng tấm bia và khuân tới nơi. Thế rồi, anh ta ôm lấy nó và cả hai lao xuống biển. Rốt cuộc, phiến đá đó cũng biến thành một con thuyền trôi nhanh như tia chớp.
Con thuyền của anh con trai bắt kịp chiếc thuyền của cô con gái. Anh ta nói như thế này:
- Bây giờ chúng mình phải cảm ơn người đàn ông mà chúng mình đã sát hại chứ.
- Không được anh ơi! Đừng có cảm ơn ông chồng của em gì! Khi tình cảm biết ơn vừa dậy lên trong lòng anh thì con thuyền chở anh sẽ nặng như tấm bia đá cho coi!
- Khi cô gái chưa dứt lời thì con thuyền của anh chàng đã hóa thành tấm bia mộ bằng đá và cùng với thân thể anh ta lục bục chìm xuống biển. Thấy thế, cô con gái mới cất tiếng gọi:
- Thuyền ơi, mi hãy hóa thành tấm bia đá để chìm theo người yêu dấu của ta dưới đáy biển!
Thế rồi thân thể vẫn lõa lồ, cô ôm tấm bia đá và chìm xuống nước như một nàng nhân ngư.
Nhưng anh chàng con trai lại hết sức cáu kỉnh khi thấy rằng chỉ có một mình mình phải chìm dưới đáy biển:
-Bia mộ ơi, hãy biến thành một con thuyền nhỏ trồi lên trên mặt biển nơi có con thuyền của người ta yêu.
Bởi vì anh chàng cất tiếng van xin người đàn ông mà mình đã tự tay hạ sát cho nên khi đang chìm đến phân nửa đoạn đường anh ta lại trồi lên được.
 Thế rồi, chuyện gì đã xảy ra đây? Cô con gái đang chìm và anh con trai đang trồi lên đã đi ngược chiều và hụt nhau giữa lòng biển lúc nào không hay. Cuối cùng chỉ có một mình nàng lặng lẽ chìm đắm dưới đáy biển.
Cô gái đó là nàng công chúa thủy cung.

Khi nghe người con gái kể lại câu chuyện ngày xưa như thế, tôi đoán chắc nàng phải có lần quyên sinh vì tình. Nàng từng lao đầu xuống biển cùng với người mình yêu. Người đàn ông kia chết. Còn nàng, trong giây phút tìm lại được hơi thở hồi sinh, đã cất tiếng kêu và bám lấy người chồng mà nàng đã một lần phản bội. Sau khi chuyện xảy ra, gặp tôi, nàng nói thế này:
- Điều xảy ra cho em cũng giống như trong chuyện cổ tích. Và đúng cả từ đầu đến cuối!
Trong những lời bình, ở bìa sau, tờ Boston Globe phán, quá đúng về nghệ thuật của Kawabata: “Kawabata lusted for purity; his characters live the contradictions".
Những truyện ngắn trong tập này, cùng 1 dòng với “Những truyện ngắn ở trong lòng bàn tay", của K, như
ng đều tắm đẫm thứ "trong trắng trinh nguyên", purity, của 1 con quỷ dâm dục  - đây là ý của tờ Boston Globe, khi dùng từ “lusted”, thèm, - muốn làm thịt thánh nữ, của “Những người đẹp ngủ”, của Kawabata!

Tay này, vậy mà thua….  GCC. Trong Cầm Dương Xanh, Gấu phán:

http://www.tanvien.net/vietngan/vn03_cam_duong_xanh.html

Hình như chỉ có một lần độc nhất, anh hôn em, từ phía sau, bên dưới mớ tóc, trong dáng đi vội vàng của em, sau khi vừa đi đâu về. Anh vô tình đụng tới tâm hồn, thể xác em, khơi dậy ở em, nữ tính, và anh thấy toàn thân em run rẩy. Và anh tự nhủ, sẽ chẳng bao giờ, chẳng bao giờ... nữa.

Rồi một lần trong những ngày Mậu Thân cay nghiệt. Bữa đó khuya, hai đứa ngồi nơi phòng khách. Trong khi nói chuyện, như vô tình, hoặc làm như vô tình, tự nhiên em nói: Anh được tất cả rồi, còn muốn gì nữa? Thoạt đầu, anh ngạc nhiên, rõ ràng là anh đâu muốn gì... anh như ú ớ biện minh với chính mình. Rồi anh hiểu, và anh vô cùng cảm động. Anh biết, em muốn nói, em thương anh, vậy là đủ rồi. Như thể em muốn nói một điều thật là giản đơn, cho nên cũng thật khó hiểu: em trở thành đàn bà, ngay phút đầu tiên chúng ta nhìn thấy nhau.

Gấu Cái, khi còn trẻ, phát điên lên, vì cái chuyện “chiêm ngưỡng và kính trọng”, như trên, đối với cô bạn, cô phù dâu ngày nào, nhưng về già lại rất ư là hài lòng.

Đúng rồi, hồi đó đó, thằng khốn chỉ "thèm", có một mình ta, hà, hà!

http://tanvien.net/Day_Notes/Kung_Fu_Literature.html

*

Granta 100

Ta sẽ nhớ mi vô cùng khi ta ngỏm
Đáng yêu nhất của những nụ cuời
Mềm mại nhất ở trên giường khi cả hai còn trẻ
Quách Tường của ta ơi
Hãy nhớ rằng khi ta ngỏm rồi.
Mi vưỡn sống hoài hoài trong trái tim của ta

Hoàng Long
giới thiệu
Yasunari Kawabata

http://www.tanvien.net/GT/hien_huu_than_linh.html



*

Xứ Tuyết

Đề tài (Le thème]: Xứ Tuyết kể, qua nhiều giai đoạn rời, épisodes discontinues, một câu chuyện tình bất khả, impossible, giữa 1 tay trí thức Tokyo và 1 nàng geisha tỉnh lẻ, provinciale
Cấu trúc khởi nguyên [từ này chôm trong nước, La structure originale] của cuốn tiểu thuyết, là từ một truyện ngắn mà tác giả đặc biệt quá mê, được viết năm 1935, Kawabata bèn đi 1 chuỗi truyện ngắn, độc lập, riêng biệt, 12 năm sau, gom lại, biến thành cuốn tiểu thuyết đầu tay.
“Trên núi đã trở nên âm u vào lúc hoàng hôn, bên trên cây cầu, tuyết đầu tiên đã đặt để cái trắng toát của nó: Sur la montagne déjà sombre dans le crépuscule, au-dessus du pont, la première neige posait sa blancheur"
Rằng, cái chuyện, Kawabata, sinh cùng năm với Borges, Nabokov, hay Hemingway, không làm chúng ta ngạc nhiên.
Cécile Sakai
*

« II est facile d'entrer dans le monde des Bouddha, il est difficile d'entrer dans le monde des démons ... Tout artiste aspirant au vrai, au bien et au beau comme objet ultime de sa quête, est fatalement hanté par le désir de forcer cet accès difficile du monde des démons, et cette pensée, apparente ou secrète, hésite entre la peur et la prière. »

Thật dễ vô thế giới của Phật, thật khó, của Quỉ… Mọi nghệ sĩ thèm vươn tới cực điểm của cái thực, cái tốt, cái đẹp thì đều bị ám ảnh bởi cú vượt vũ môn, vô được thế giới của Quỉ, và đó là khoảnh khắc, hiển nhiên hay bí ẩn, ngập ngừng giữa sợ hãi, và khẩn cầu.

Như là ngủ với một Đức Phật ẩn giấu, « comme si l'on couchait avec un Bouddha caché ».
Liệu đó là điều mà “vĩ nhân” GGM tìm kiếm, khi viết "Bướm Buồn"?

Dans quel monde entrait le vieil Eguchi lorsqu'il franchissait le seuil des « Belles Endormies » ? Ce roman, publié en 1961, décrit la quête de vieillards en mal de plaisirs. Dans une mystérieuse demeure, ils viennent passer une nuit auprès d'une adolescente endormie. Mais la fille ne s'abandonne pas au sommeil naturel. Sous l'effet d'un puissant narcotique, elle dort d'une traite tout au long de la nuit. Elle ignorera même avec qui elle a passé cette nuit. Ces vieillards ou « clients de tout repos » franchissent les chambres secrètes des dormeuses comme le temple de quelques prêtresses. Et là, auprès de ces poupées vivantes, peut-être retrouvent-ils l'illusion d'une jeunesse, d'une vitalité perdue, d'une dernière aventure sans doute, « comme si l'on couchait avec un Bouddha caché ». Sans honte et sans gêne, sans culpabilité aucune, ces vieillards incapables désormais de se comporter en hommes, trouvent la leur dernière chance, un cadeau de vie. Pour Eguchi, ces nuits passées dans la chambre des voluptés lui permettront de se ressouvenir des femmes de sa vie, et de se plonger dans de longues méditations. Pour atteindre, qui sait, au seuil de la mort, à la douceur de l'enfance et au pardon de ses fautes.
N. C.

PTH, hình như trong 1 truyện ngắn, có tả cảnh trên, xẩy ra cho đám thanh niên Miền Bắc chưa từng biết bướm là gì, những đứa con nít nhỏ máu ngón tay xẻ dọc Trường Sơn kíu nước: Bữa tối, trước ngày xuất quân, họ được vô Đền Thiêng, và được vị nữ tu, ban lộc Thánh.

Với đám nhỏ, bướm lành, hay rách, lần đầu, thì cũng xêm xêm như nhau mà thôi.


Đọc & Viết

Đọc & Viết

NMG vs Lưu Vong

Nhà văn Mỹ mới mất, Susan Sontag có một bài viết về Danilo Kis rất cảm động [Tên ông này, là từ tiếng Hung, bên trên con chữ s có một cái dấu giống dấu mũ của tiếng Việt, nhưng đặt ngược]. Ông mất ngày 15 tháng Mười, 1989, thọ 54 tuổi. Bài viết, 1994, có thể coi như là một bài tưởng niệm.
Chết khi 54 tuổi, Sontag coi đây là một cái chết làm yểu mệnh văn chương, chấm dứt  một trong những cuộc hành trình quan trọng nhất của văn học, được làm nên bởi bất cứ một nhà văn nào trong nửa sau thế kỷ 20.
Tại sao thế?
Theo tôi, bởi vì Kis là từ cái lò Đông Âu mà ra, và như Sontag viết, cũng trong bài về Kis:
Cái chuyện bạn kinh qua đủ thứ khổ đau trên đời, đếch làm cho bạn trở thành nhà văn lớn đâu. (1) Có thể cần, nhưng chưa đủ. Nhưng địa lý là định mệnh. Đối với Kis, không có chuyện rút dù, hay chối bỏ cảm xúc, dấy lên từ mảnh đất chôn rau cắt rốn, và đáp ứng, hay là trách nhiệm của nhà văn, đối với nó. Kis đến từ một xứ sở nhỏ bé, nơi nhà văn được coi là quan trọng, trong cái tốt nhất, cũng như trong cái tệ nhất của nó, và như thế, rất dễ trở thành tiếng nói đạo đức, và đôi khi, trở thành chính trị gia, nhà lập pháp, thay vì chỉ là một nhà văn thường thường bậc trung.
Nhận định của Sontag về Kis, làm Gấu tôi nhớ đến Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, những nhà văn của mảnh đất nhỏ bé, Bình Định, thí dụ vậy. Tác phẩm của họ, không chỉ nhắm văn chương, mà còn cao hơn thế nữa.
Cao trong cái nghĩa tốt nhất, hoặc tệ nhất, là còn tùy vào hoàn cảnh, thời đại, cơ may, và "cái tâm" của họ.

(1): Nguyên văn: Số lượng về lịch sử hay kinh hoàng mà một nhà văn phải gánh chịu không làm cho người đó trở thành một nhà văn lớn. [The amount of history or horror, a writer is obliged to endure does not make him or her a great writer. But geography is destiny].
Địa Lý Là Định Mệnh, câu này gợi nhớ câu Địa Linh Nhân Kiệt của phương Đông.

Note: B
ài vỉết của Susan Sontag, được dùng làm Intro cho cuốn Homo Poeticus. Tin Văn sẽ đi bài này


The Nobel Prize in Literature 2010

Trang Tin Văn giới thiệu hơi kỹ về Vargas Llosa, nhưng, thú thực, ông này thua xa Steiner, nếu nói về viết tiểu luận.


Note: Bài viết này, Tin Văn scan, post, tính dịch, mới đây, thấy Thầy Phúc dịch, đăng trên Da Màu.

Cách nhìn của Vargas Llosa, về lưu vong, chưa tới, và nguyên nhân, chính là do ông không cảm nhận được
kinh nghiệm Lò Thiêu, như là 1 kinh nghiệm về viết văn, đúng như thế.
Lò Thiêu là 1 hiện tượng của thế kỷ 20. Bạn sống thế kỷ
đó, là bạn sẽ viết thứ văn chuơng đó. Và cái bản chất của văn chương thế kỷ 20 là lưu vong.

Những câu phán của Solz, nhà văn là nhà nước trong 1 nhà nước, hay của Linda Lê, tôi mang đứa bé chết Mít ở trong tôi, không mang tính chính trị, mà là nói lên bản chất của văn chương.


NMG vs Lưu vong

Có lẽ chẳng bao giờ NMG ngộ ra một điều rằng, lưu vong chính là điều kiện cốt tử của văn chương. Bạn Thế Quân trong một bài trên Da Mầu,  tưởng niệm nhà thơ Mahmoud Darwish, chẳng đã viết ra điều đó sao:

“Lưu vong phải được hiểu xa hơn khái niệm địa lý. Bạn vẫn có thể là một kẻ lưu vong ngay chính trên quê hương bạn, ngay chính trong nhà bạn, chính trong phòng bạn. Đó không đơn giản chỉ là vấn đề Palestine. Tôi nghiện lưu vong chăng? Có thể lắm!” Tình trạng lưu vong, theo ông, vừa ác vừa hiền, vừa kéo ông ra khỏi nhà lại vừa nuôi dưỡng nghệ thuật của ông. “Lưu vong chẳng phải là một trong những nguồn suối của sáng tạo văn chương trong lịch sử đó sao? Kẻ nào sống hài hòa với xã hội của mình quá, với văn hóa của mình quá, với chính mình quá, không thể là một người sáng tạo. Và điều đó sẽ vẫn đúng ngay cho dù quê hương của chúng ta là vườn Địa Đàng chăng nữa!”.

V/v Lưu vong
Nhớ, có lần lèm bèm về lưu vong, được 1 độc giả gửi cái mail, khen, bây giờ tôi mới hiểu lưu vong nghĩa là gì.
Tks. NQT

Cách nhìn lưu vong, của Bolano, cũng bảnh hơn Vargas Llosa:

Lưu vong không có nghĩa là biến mất, mà là co rúm lại, thu mình mãi lại, từ từ hay mau lẹ, sao cho nhỏ mãi đi, cho tới khi “đạt thân”, nghĩa là, có cái chiều cao thực của mình, cái chiều cao thực của cái ngã, cái tôi, cái tao, cái mày. Swift, sư phụ của lưu vong, hiểu rõ điều này. Với ông, lưu vong là từ bí ẩn dành cho cái từ thông thường là “đi”.

Mọi văn chương, bất cứ thứ chó nào, nếu đúng là văn chương, đều cưu mang trong nó, cái gọi là lưu vong, cho dù nhà văn khăn gói lên đường bỏ chạy quê hương vào lúc hai mươi, tóc còn xanh mướt, hay là cả đời chưa rời nhà.

Danilo Kis

Kis had a complicated literary genealogy, which he was undoubtedly simplifying when he declared himself, as he often did, a child of Borges and of Bruno Schulz.
Susan Sontag

Kis có 1 cái hệ phả văn học rắc rối, và ông giản dị nó, bằng cách coi mình là hậu duệ của Borges và Bruno Schulz.

*

Trung thành với Rabelais và đám Siêu thực: Những kẻ lục lọi những giấc mộng.

Tôi ngồi lật lật cuốn của Danilo Kis, cuốn sách cũ về suy tưởng, và có cảm tưởng đang ngồi với ông, trong một quán rượu gần Trocadéro, và ông đang nói với tôi bằng một giọng oang oang, gầm gừ, như muốn vặc vào mặt kẻ đối diện.
Trong tất cả những nhà văn lớn lao cùng thế hệ, Tây hay ngoại quốc, vào những năm 1980 sống ở Paris, ông là kẻ vô hình nhất. Vị nữ thần có tên là "Thời Sự" chẳng có lý do gì để mà giọi đèn vào mặt ông.
"Tôi không phải là một tên ly khai", ông nói.
Ông cũng chẳng phải một tên di dân. Ông đi lại thoải mái giữa Belgrade và Paris. Ông chỉ là một “nhà văn-đứa con tư sinh, écrivain bâtard, đến từ một thế giới chìm khuất, englouti, của Đông Âu”.
Cho dù chìm khuất, thế giới này, trong suốt cuộc đời của Danilo (ông mất năm 1989), là một cái hố đen chứa trọn thảm kịch Âu Châu. Nam Tư: cuộc chiến dai dẳng, đẫm máu (và chiến thắng) chống Nazi; Lò Thiêu, sát hại, nhất là, surtout, những người Do Thái Đông Âu (trong số họ, có bố ông); cuộc cách mạng Cộng Sản, tiếp theo liền, là cuộc đổ vỡ, cắt bào đoạn nghĩa, thật bi thảm (và cũng lại chiến thắng) với Staline và chủ nghĩa Stalinisme.
Với một dấu ấn giống như một vết chàm lên cơ thể như thế, bởi cái thảm kịch lịch sử như vậy, trọn đời ông, ông không hề hy sinh những cuốn tiểu thuyết của mình cho chính trị.
Từ đó, là số phận nghiệt ngã của ông, của những kẻ bị quên lãng ngay từ khi sinh ra: những thảm kịch riêng tư về thanh quản. Ông có thể đồng ý với Orwell, nhưng làm sao ông có thể yêu nổi 1984, cuốn tiểu thuyết của một phát ngôn viên chống lại chủ nghĩa toàn trị, pourfendeur du totalitarisme, nhưng lại giản lược cuộc sống con người chỉ còn có một chiều chính trị, y hệt như những tên "Mao ít" trên tthế giới.
Để chống lại sự hạ nhục con người, làm cho cuộc sống của nó trở thành hèn hạ, ông cầu cứu Rabelais, với những trò khôi hài, tiếu lâm, tức cười, nhóm siêu thực, những kẻ “lục lọi tiềm thức, những giấc mộng”.
Tôi lật những trang sách cũ của ông, và nghe giọng nói mạnh mẽ, chối tai của ông: “Thảm thay, cái giọng trưởng thượng, le ton majeur, của văn học Pháp, bắt đầu với Villon, đã biến mất”.
Khi ngộ ra điều trên, ông càng thêm trung thành với Rabelais, với siêu thực, những kẻ “lục lọi những giấc mộng”, và với xứ Nam Tư của ông, mắt cũng bị bịt kín, lầm lũi tiến vào cõi mất.
Kundera: Gặp Gỡ

V/v Bruno Sshulz & Kafka & Lò Thiêu & Viết

David Grossman kể, sau khi ông cho in tác phẩm đầu tay của ông, The Smile of the  Lamb, Nụ cười của con Cừu, thì có 1 độc giả cho biết, chắc chắn là ông bị ảnh hưởng [thuổng, thì nói đại như vậy] Bruno Schulz. Lúc đó Grossman chưa đọc Schulz.

Bèn đọc, và ngộ ra, đúng là Thầy của ông!
Có thể nói, Gấu cũng gặp y chang tao ngộ trên, khi đọc Faulkner, cuốn "Absalon, Absalon!".
Cứ như thể Faulkner viết cuốn sách để cho Gấu đọc, và cuốn sách chờ hoài, chờ hoài, để…  đọc Gấu!
Hà, hà!

(1) Edmund White so sánh “Nụ Cười Cừu” với “Âm Thanh và Cuồng Nộ” của Faulkner [lại F!], The Tin Drum, Cái Trống Thiếc của Grass, và Trăm Năm Cô Đơn của Garcia Marquez;  George Steiner gọi 1 cách giản dị, "một trong những lễ hội lớn của giả tưởng hiện đại". Cuốn sách bắt đầu với Momik, một đứa trẻ Israeli lớn lên dưới cái bóng của Lò Thiêu, chấm dứt với một bộ kỳ quái, gồm những “entries” [đầu vô] kể những cuộc phiêu lưu của những nhân vật trong sách của những đứa trẻ lớn tuổi nuôi 1 đứa trẻ ở trong vườn thú Warsaw, và xen vô, là những cuộc giải thoát, rescues, nhà văn Ba Lan Bruno Schulz, khỏi cái chết, bằng cách biến ông thành 1 con cá hồi, a salmon.

The Paris Review 4

*

Paris Review 4

David Grossman

Nghệ thuật giả tưởng

Năm 1987, để đánh dấu 20 năm Israel chiếm đóng West Bank và Gaza Trip, mấy tay chủ bút, chủ biên của tờ tuần báo Do Thái Koteret Rashit phái tiểu thuyết gia trẻ David Grossman tới West Bank, 7 tuần, “đi thực tế”.
Grossman, thông thạo tiếng Ả Rập, bèn làm những chuyến tham quan dân Palestine ở trại tị nạn, thành phố, vườn trẻ, đại học, cũng như đám định cư Do Thái ở trong những pháo đài chung quanh có giây kẽm gai [chắc cũng giống những khu định cư, kinh tế mới của đám Bắc Kít, sau 30 Tháng Tư 1975, Nam Tiến, tới những vùng đất cao nguyên Trung Phần, nơi chúng phá rừng trồng cà phê, hay trồng bất cứ cái khỉ gió gì miễn ra tiền và vô phúc cho một người bản địa nghèo đói nào lén vô là chúng thả chó ra, không chỉ cắn chết, mà còn xé xác ăn thịt!], và đám sĩ quan, binh lính Do Thái tuần tra những khu vực dành cho người Palestine. Thu hoạch của chuyến đi thực tế chiếm trọn một số báo, và gây chấn động trong đám Bắc Kít, ấy chết xin lỗi, Do Thái.
Grossman rất rành mạch, rõ ràng, trong những bài viết, về điều này:
"Dân Palestine hết còn chịu nổi rồi, hết còn ngoan ngoãn như lũ cừu rồi" [nguyên văn: "Người Palestine, ngày ngày đau đớn khổ sở vì những sự tàn ác dã man của đám chiếm đóng hàng thế hệ, sẽ không còn hiền lành, dễ bảo nữa, would be docile no more".]
“Đúng là một cú sốc”, Tom Segev, một trong những tay biên tập nói. “Cho đến lúc đó chúng tôi không hề biết họ thù ghét chúng tôi tới mức như vậy”

Năm tiếp theo năm đó, khi báo cáo của Grossman được xb bằng tiếng Anh, với cái tít trận Hoàng Phong, the Yelllow Wind, thì cuộc nổi dậy, intifada, của người Palestine đang tưng bừng hoa lá. Những gì Grossman viết trở thành tiên tri, “sấm Trạng Trình”, biến ông trở thành một tác giả tầm vóc thế giới.
*
Phỏng vấn viên:
Trong Nụ Cười của Cừu Non, The Smile of the Lamb, Uri [nhân vật chính] nói, “Nhà ở đâu, nói cho cùng?”, và Abner trả lời, nhà là khoảng trống rỗng giữa đầu cây viết và tờ giấy, home is the empty space between the tip of his pen and the paper. Đó là điều ông cảm nhận ư?
Grossman:
Nhà là nơi mà những người tôi yêu thương ở đó, home is where the people I love are. Càng về già, thế giới đó càng lạ lẫm, alien, và hơn thế nữa, tỏ ra thù nghịch đối với tôi. Câu chuyện mà tôi đang viết là một cái nhà khác, cho dù phải mất từ hai cho đến ba năm nó mới trở thành nhà. Tôi chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn, trơ cu lơ một mình, khi tôi có câu chuyện của tôi, khi tôi biết giọng điệu, the tonus, của mọi nhân vật và ngôn ngữ.
Giọng điệu?
Giọng điệu, sức căng của bắp thịt, the tension of the muscles. Liền lập tức tôi cảm thấy mình được nối kết, connected, với những xao động, the emotional vibrations, của những con người ở Israel, điều mà tôi không thể cảm thấy khi ra nước ngoài.
Tuy nhiên, có vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà văn của thế hệ Do Thái Lưu Vong [Jewish Diaspora]?
-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là một nhà văn, mọi người sẽ nói cho bạn biết, văn của bạn giống, hay, thôi thì nói đại, chôm của ai. Khi còn trẻ, tôi ngoan ngoãn lắm, và đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo tôi. Một tay làm việc cho đài truyền hình Do Thái, một người mới tới, a newcomer, từ Ba Lan, một bữa gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn The Smile of the Lamb của tôi hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể. Tôi chưa từng đọc Bruno Schulz, và chẳng lẽ nói với tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz, tôi cảm thấy như bị điện giật! Mỗi đoạn văn là một sự bùng nổ của những thực tại khác nhau - mộng, mị, ác mộng, tưởng tượng, quái tưởng, fantasy. Đọc ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống nữa, reading him made me want to live more. Rồi tôi đọc những câu chuyện về cái chết của ông. Ông ta được một sĩ quan Đức bảo bọc. Ông này đã từng giết một nha sĩ Do Thái của một viên sĩ quan Đức khác. Viên sĩ quan này bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta chết ngay trên đường phố. Bạn giết tên Do Thái của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
 [Trên TV có một ấn bản khác nữa, nhưng cả hai đều xác nhận chuyện Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết, và khi anh này nói với tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn ta xua tay, nhằm nhò chi, để kiếm thằng Do Thái khác thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy quá đỗi thê lương. Tôi chẳng còn muốn sống trong một thế giới, nơi một chuyện như thế có thể xẩy ra, khi con người có thể thay thế, có sẵn đó, tùy nghi sử dụng, replaceable, disposable. Tôi cảm thấy tôi phải làm cái gì đó để cứu chuộc cái chết không cần thiết, và tàn nhẫn của ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là tôi viết See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn biết, trong hầu hết ngôn ngữ cuốn sách của tôi được dịch – chừng 14 thứ tiếng- trong vòng chừng 1 năm hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu chuyện về Schulz.
Ui chao thật là ngọt ngào, thật là dễ thương đối với tôi, khi biết rằng cuốn sách của mình đã làm được một điều gì đó cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.
Ai, ngoài Sshulz ra, ảnh hưởng tới ông?
Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

Trong Chết như là Cách Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.

Grossman: Tôi không nghĩ, người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu. 

Source



Đại Lục Kim Dung

Sở dĩ CS thất bại, là vì họ bỏ những trang đầu của chủ nghĩa Mác, tức là 1 ông Mác Trẻ, như Heni Lefebvre cho thấy, trong cuốn Duy Vật Biện Chứng Pháp của ông. Ông viết, chúng ta phải đọc lại Mác, nhất là những tác phẩm thời còn trẻ - surtout les oeuvres de jeunesse - mà lũ ngu lầm là “triết học” [dites à tort “philosophiques”], bởi vì chúng chứa đựng một phê bình cơ bản, une critique radicale, tất cả triết học được hệ thống hóa, toute philosophie systématisée - với cái nhìn mới: Cái trở thành-triết học của thế giới thì cùng lúc là cái trở thành- thế giới của triết học, sự thực hiện nó thì cùng lúc là sự mất nó: Le devenir-philosophie du monde est en même temps un devenir-monde de la philosophie, sa réalization est en même temps sa perte.

Đoạn trên rất quan trọng. Gấu Cà Chớn sẽ giải thích tiếp, để cho lũ “lề phải” VC hiểu rằng là, không phải ai cũng ngu như chúng, khi đọc Mác.

*

Trang đầu mất
Alberto Manguel: A History of Reading


Song Nam Tang liked this.

Vargas Llosa viết bài này xịn: "Chủ nghĩa dân tộc là văn hóa của vô văn hóa, tôn giáo của kẻ mị dân, và tấm màn khói mà định kiến, bạo lực, và thường cả phân biệt chủng tộc ẩn nấp đằng sau.

"Không gì trong thế giới này dễ hơn việc dùng lá bài dân tộc chủ nghĩa để lôi kéo một đám đông, đặc biệt nếu họ là những người nghèo và thiếu hiểu biết đang tìm cách trút cay đắng và thất vọng của mình lên thứ gì đó hay ai đó. Không gì tốt hơn những màn pháo hoa của chủ nghĩa dân tộc để khiến họ sao nhãng những vấn đề thực sự của mình, để che mắt họ trước những người thực sự bóc lột mình, bằng cách tạo ra một ảo tưởng sai lầm về sự thống nhất. Không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa dân tộc là hệ tư tưởng vững chắc và lan rộng nhất trong cái gọi là Thế giới thứ Ba."

hoanghannom.com

Note: Sir Isaiah Berlin là "Thầy" của Vargas Llosa. Khi được Nobel văn chương, ông viết 1 cuốn sách nhỏ, Wellsprings, vinh danh những người ảnh hưởng lên ông, trong có I. Berlin.
Có thời Vargas Llosa rất mê Steiner, nhất là cuốn Ngôn ngữ và Câm Lặng, nhưng sau, theo GCC đọc không thấu, do thiếu nỗi đau Lò Thiêu.
Phải là Steiner, khi ông quá tởm, và kết án chủ nghĩa dân tộc, chính nó, gây ra tai họa Lò Thiêu.
Nazi làm cỏ Do Thái, là do suy nghĩ, giống dân Đức là số 1.
Cái Ác Bắc Kít - nước Mít là một với Hà Nội là thủ đô - đâu có thua gì Nazi.
Sợ còn bửn hơn!
Amos Oz, bởi thế mới chửi Steiner, bằng giá nào, tôi cũng không chọn thái độ vô tổ quốc.
Bài viết này Tin Văn tính dịch, nhưng lu bu quá, quên luôn.
Trên Tin Văn đã từng giới thiệu Blog của dịch giả này.
Vargas Llosa hiện đang được Da Màu giới thiệu. Ông cùng thời với GCC. Thích thứ văn chương dấn thân, nhập cuộc, nên chọn Sartre, sau than, chọn lầm, và khi chọn lại, chọn Camus, mà hồi còn trẻ, chê tới chỉ.
Gunter Grass, chọn Camus, và sau này tự khen mình, chọn đúng quá!
GCC chọn Camus, bị “kẻ thù số 1” của GCC, chê quá sá!
Đố bạn biết “kẻ thù số 1” của GCC, là ai?
Là cái bộ xương con cá, trong Ngư Ông và Biển Cả!
Là cái xác người trôi lềnh bềnh trên dòng sông Mekong, nơi chùa Long Vân, mà GCC đã từng kể.
Còn 1 kẻ thù số 1 nữa, ở trong nước, đã từng viết 1 bài ca ngợi cuộc đấu sinh tử giữa hai tay võ lâm giang hồ trong chưởng KD.
"Tay này", rất ghét Camus!
Camus, theo GCC, có 1 đức hạnh, mà không 1 tên nhà văn Bắc Kít nào có được, là sự can đảm.
Ông nói, Không với chủ nghĩa CS, khi gần như cả thế giới nói, Có.
Bài của Milosz, về ông thật ngắn, nhưng thật là tuyệt, vì chỉ ra được gót chân Achilles của Camus:

Camus, Albert
Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con người tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết,  nói theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir, xẩy ra đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre dậy dỗ Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ còn có một chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Camus ban cho tôi món quà hậu hĩ, là tình bạn của ông, và thật là quan trọng, khi có một đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm việc. Ông khoái bản tiếng Tây, do Jeanne Hersch dịch, tác phẩm Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết của tôi làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời thơ ấu của ông ta, ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa tôi và nhà xb Gallimard không khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng Văn học Âu châu, họ in Cướp Chính Quyền [The Seizure of Power], và liền theo đó, Cái Đầu Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn thấy nó được bầy ở tiệm sách, và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ mấy ông chủ tiệm tẩy chay, vì những lý do chính trị. Họ in cuốn Thung Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách đã chẳng được đem ra khỏi kho  - cùng lúc đó, có người đem cho tôi, bản in lần thứ tư, của nó, tại Phi Châu.
Sau khi Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ hợp đồng vẫn còn giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi Quê [Native Realm], qua bản dịch của Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban ngoại văn [foreign division] đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên Đảng Cộng Sản Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách, với chủ ý làm thịt nó, y hệt như thế kỷ 19 toà đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính trị của những di dân Nga. Tay này viết một bài điểm, khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in. Nhưng sau đó, là rã đám.
Tôi nhớ một lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo quan niệm của bạn, một tên vô thần như tớ [Camus] có nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò chuyện xẩy ra, chỉ ít lâu sau khi tôi ghé thăm Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi hỏi ông, về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm vô], có nên dậy dỗ con cái như những tín đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant, ông ta không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con, theo ông, là phải được dậy dỗ theo đúng như niềm tin của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng tiếp cận truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng sẽ tự chọn cho chúng một tín ngưỡng.
Thế là tôi bèn trả lời Camus, đại khái như trên.
Milosz

Cái cách mà tay VTN này đọc/coi Tận Thế Là Đây, làm nhớ đến Đinh Linh, khi anh viết về nó, và cho đăng trên Guardian, và Tin Văn, đã chỉ ra, đọc không tới, khi viện dẫn tay làm phim này, Coppola, thật hãnh diện phán, Tận Thế Là Đây “là” Việt Nam, và GCC thêm vô: Ông ta chỉ ra trái tim của bóng đen, “là” Hà Nội, theo đúng ý nghĩa của Conrad, khi viết The Heart Of Darkness: Lũ Bắc Kít, khi ăn cướp Miền Nam chúng nghĩ là chúng khai hóa Miền Nam, bằng cái văn minh đồng bằng Sông Hồng, nhưng hóa ra là Trái Tim của Bóng Đen, ‘là’ Hà Nội.
DL cũng 1 thứ Mít lớn lên ở Mẽo, và cũng 1 cách nhìn Mẽo như VTN, và cũng gốc gác Ngụy, như nhau. Có 1 thiểu số Mẽo gốc Mít gốc Nam Kít/Ngụy
như họ, khi tố cáo sự coi khinh những sắc dân thiểu số vs da trắng, mà hậu quả là cú giết hại Cớm Mẽo da trắng, như vừa xẩy ra, và nhìn như thế, thì cái hình ảnh “Black Lives Matter” còn làm nhớ tới những cái sọ da đen treo lủng lẳng trên những cây sào trong Trái Tim của Bóng Đen.

Thiên tài văn chương Kis đã từng được Susan Sontag vinh danh. Bây giờ tới lượt Simic gọi ông là thiên tài từ bốn xứ sở. Còn chính Kis, thì gọi mình là “giống hiếm”, “ethnographic rarity".
Bỏ ra ngoài cái chuyện tự thổi, thì những định nghĩa về mình như vậy, rất quan trọng đối với 1 người viết. 

TTT chẳng đã tự gọi mình là đứa con tư sinh của 1 miền đất ư? Một nhận xét như thế, tiên tri ra cả 1 giống nhà văn, bị ruồng bỏ, và tự ruồng bỏ.

Kis phán, “Không có sự cực nhọc thời thơ ấu chiến tranh, tôi đếch thèm làm nhà văn”, “If not for the hardships of a wartime childhood,” Kiš once told an interviewer, “I’d never have become a writer."

Tuyệt!

Ba trăm năm sau, thiên hạ đọc Gấu Cà Chớn, vẫn còn run lên bần bật, vì sợ hỏa tiễn VC rớt trúng đầu!

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy... 

Hà, hà!

A Tomb for Boris Davidovich   

translated from the Serbian by Duška Mikić-Mitchell, with an introduction by Joseph Brodsky and an afterword by William T. Vollmann
Dalkey Archive, 145 pp., $12.95 (paper)

Introduction

When, after great difficulties, this book was first published in 1976, in Zagreb, Yugoslavia, it was immediately assaulted in the press by the conservative "Stalinist" elements at the top echelon of the Yugoslav literary hierarchy. The war cry emanating from the top was picked up at the bottom by Serbo-Croatian nationalists, who are traditionally pro-Russian and traditionally anti-Semitic, for the bulk of Danilo Kis's characters are Jews, as is the author himself. Yugoslavia is a small country, and the politics in a small country are always big, literary politics especially. Due to this proportion, an attack against a writer becomes extremely focused. It was focused sharply enough to send Danilo Ki] into "nervous shock."
    There are several topics an author may deal with which can jeopardize his well-being, and history is one of them. Depending on its proximity to the present, history provides a writer with background, content, cast of characters, and sometimes, as in the case of Kis, with the writer's actual context. The very fact of describing historical events is regarded by history as an attempt to demote it into the past and is' resisted vehemently. An historical novel becomes therefore a vehicle of time, an instrument that purports to outline the boundaries between past and present by means of estrangement from its subject. A narrative reduces history to a story and creates, by being conducted from a certain "outside," a new time category, heretofore unknown.
    Apart from the general "cause-and-effect" principle, history claims the present through its most viable extension: through ideology. Having failed to triumph at the moment of its emergence, an ideology rapidly develops what one may call a utopian complex and gravitates to timelessness. Correspondingly, a portrayal of ideology or of its carriers is considered by the latter as an attempt to pin it down, to compromise its purity, and to rob it of its future.
    In the case of A Tomb for Boris Davidovich, history's claim on the present may seem all the more valid because the epoch with which this book 'deals isn't really so ancient.
Its author, a Yugoslav writer, Danilo Kis, describes events that took place in the first half of this century and their impact on the lives of his seven characters. For all seven the impact turned out to be the same: deadly.
    Ostensibly, since 'the dead, by definition, belong to the past, the sheer numbers of that epoch's victims should have removed the described period, along with the ideology that animated it, deep into annals. What usually slows the passage of time and by the same token causes an ideology to linger, however, is not so much that the murderers often outlive the murdered as that the living mistakenly regard the dead in the same way as a majority regards a minority.


           Apart from general geopolitical reasons, ideology plays an important role in the life of Yugoslavia, for this small country is a federal republic III more ways than one. It harbors a dozen nationalities along with a corresponding number of creeds, groups of ethnic affiliations, and an array of variously impotent political parties, with the Union of Yugoslavian Communists in charge. Needless to say, all these national groups have a lot of old and new scores to settle. Every ideological stance is therefore considerably tinged with nationalism, and vice versa. A charge of distorting the historical truth may conceal a pan-Slavic nostalgia, an anti-Semitic remark turns out to be a muffled way to voice a secessionist dream, and sometimes the only way for a Macedonian to express his disgust with a Montenegrin is to accuse the latter of revisionism. In other words, every formal charge is but the tip of a very substantial iceberg of real hatred.
    From the outside the storm over A Tomb for Boris Davidovich seems all the more peculiar because this book has literally nothing to do with Yugoslavia and its internal situation. None of its characters are Yugoslav: They are Poles, Russians, Rumanians, Irish, Hungarians; most of them are of Jewish origin. None of them ever set foot in Yugoslavia. Basically, A Tomb for Boris Davidovich is an abbreviated fictionalized account of the self-destruction of that berserk Trojan horse called Comintern. The only thing that its passengers-the heroes of Danilo Kis's novel have in common with this small country is the ideology that this country professes today and in the name of which they were murdered yesterday. Apparently, that was enough to infuriate the faithful.


            So in the absence of familiar turf and being unable to argue over the book's substance (for fear of calling too much public attention to it), those faithful, led by the then chairman of the Yugoslav Union of Writers, went on assaulting this book on literary grounds and accused its author of plagiarism. The list of allegedly plagiarized authors was impressive and included Aleksandr Solzhenitsyn, James Joyce, Nadezhda Mandelstam, Jorge Luis Borges, the Medvedev brothers, and others.
    For one thing, an author capable of aping writers so diverse within the space of a J 35-page novel deserves every kind of commendation. Also, unsound as it is, this list reveals something important about the accusers themselves: their between-the-chairs nonaligned cultural stance, a kind of missing-link position between East and West. However, precisely because of their provincialism, with its weakness for generalization and for treating all remote objects as concepts or symbols, this list deserves more than simple mockery.
    It is understandable, for instance, why they mention Joyce: One of Kis's characters is Irish, and even for a Yugoslav party official, Joyce today is a synonym for Ireland as,well as for Western culture's decadence. The presence of Borges is of a less obvious nature and is intended to compromise the book stylistically by trying to reduce the vignette technique that Kis employs in his cautionary tales to a mannerism borrowed from a remarkable Argentinian, but this is utter nonsense. Kis is a great stylist, and the fabric of his writing has more in common with Franz Kafka or Bruno Schulz or with the writers of the French roman nouveau than with anyone in the Third World. Besides, to attack Danilo Kis's prose in A Tomb for Boris Davidovich is a kind of delayed reaction: If anything, his writing here is a lot more sparse than in his Garden, Ashes, a veritable gem of lyrical prose, the best book produced on the Continent in the postwar period. The more pertinent names on that list, in other words, are the Russian ones, yet again for reasons that have nothing to do with the book's texture and all to do with its core.
    At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.


            The process of transforming Russian history of this period into the new mythology of our civilization is well under way in A Tomb for Boris Davidovich. What simplifies its author's task is that apart from being chronologically modern, this history also displays signs of a considerable modernism, manifested by the distinct surrealism of its metamorphoses and the utterly antiheroic nature of its archetypes. Due to the numbers involved, it is safe to say that there was hardly ever an epoch in human history when fear and duplicity were so pervasive and voluminous.
    Although it is arguable that this history has delivered a new religion (as so many claim), it inflicted upon the human race and human psyche a destruction of a mythological scope, and on these grounds alone this history qualifies for a new creed. Sooner or later, every upheaval ends up in a work of fiction. The most disturbing thing about this particular book, however, is the unbearable and, because of that" paradoxically appropriate excellence of Kis's prose, which provides his moribund metamorphoses with additional beauty.
    By virtue of his place and time alone, Danilo Kis is able to avoid the faults of urgency which considerably marred the works of his listed and unlisted predecessors. Unlike them, he can afford to treat tragedy as a genre, and his art is more devastating than statistics. Kis writes in an extremely condensed and therefore highly allusive fashion. Since he deals in biographies, the last bastions of realism, each of his vignettes sounds like a miniaturized Bildungsroman accomplished by a movie-like montage of shrewdly chosen details that allude both to the actual and to the literary experiences of his reader. Here is a typical passage describing the early years of one of his heroes, a Hungarian German, Karl Taube, a would-be member of the Comintern :

. . . the provincial bleakness of the Middle European towns at the turn of the century emerges clearly from the depths of time: the gray, one-story houses with back yards that the sun in its slow journey divides with a clear line of demarcation into quarters of murderous light and damp, moldy shade resembling darkness; the rows of black locust trees which at the beginning of spring exude, like thick cough syrups and cough drops, the musky smell of childhood diseases; the cold, baroque gleam of the pharmacy where the Gothic of the white porcelain vessels glitters; the gloomy high school with the paved yard (green, peeling benches, broken swings resembling gallows, and whitewashed wooden outhouses) ; the municipal building painted Maria-Theresa yellow, the color of the dead leaves and autumn roses from ballads played at dusk by the gypsy band in the open-air restaurant of the Grand Hotel.
    Like so many provincial children, the pharmacist's son, Karl Taube, dreamed about that happy day when, through the thick lenses of his glasses, he would see his town from the bird's-eye view of departure and for the last time, as one looks through a magnifying glass at dried-out and absurd yellow butterflies from one's school collection: with sadness and disgust.
    In the autumn of 1920, at Budapest's Eastern Station he boarded the first-class car of the Budapest-Vienna Express. The moment the train pulled out, the young Karl Taube waved once more to his father (who was disappearing like a dark blot in the distance, waving his silk handkerchief), then quickly carried his leather suitcase into the third-class car and sat down among the workers.


            The blend of nostalgia and doom in this passage, wryly entitled "Pictures from the Album," gives a fairly good idea of Danilo Kis's writing technique. If die symbolism of the pharmacist's son abandoning his seat in order to join the workers is a purely prosaic device to indicate this revolutionary-to-be's predicament, the perception of the father "disappearing like a, dark blot in the distance" is outright poetry. With his emphasis on imagery and detail, combined with ironic detachment, Danilo Kis's obviously poetic prose puts his horrid subject matter into the most adequate perspective by alerting the reader to this prose's own intelligence. Thus, the reader's ethical evaluation of the phenomena described ceases to be merely a matter of his distraught sentiment and comes out as a judgment made by his profoundly offended supreme human faculties. It is not that the thought is felt but, rather, that the feeling is thought.


            Unlike prose, poetry doesn't so much express an emotion as absorb it linguistically. In this sense, Kis's writing is essentially a poetic type of operation, and the vignettes of which the chapters of his book consist could be read and appreciated separately as short poems. Some passages could be simply memorized. What prevents one from regarding this book as a prose poem, however, is neither its subject matter (which is still out of reach no matter how avant-garde as poetry) nor its typically prosaic coherence; it is mostly Danilo Kis's own undercutting technique, to which he resorts when a vignette approaches real sublimity. All the same, A Tomb for Boris Davidovich is built like a long dramatic poem crowned with that really monstrous, terrifying "rhyme" of cabalistic coincidence in "Dogs and Books," which achieves what the best poetry usually achieves: the metaphysical impact of the last lines that gape, along with their reader's mind, into pure chronos-which is presumably a formula for equating art to human reality.
    The standard perception of tragedy, as distinct from a regular existence, is that it is a violation of time. In the case of A Tomb for Boris Davidovich, whose superb prose nearly overshadows the story itself, tragedy almost gets redefined as an occasion for time's high eloquence. A hero-or, more precisely, a victim-suddenly emerges from the reticence of ordinary life as a spokesman of time's arbitrary opposition to human presence in it. Since the usual incongruity between living matter and the matter of time (normally manifested by death) can be elucidated only by the latter, the description of the tools time employs for such an undertaking (historical events, ideologies, etc.) requires an appropriately lucid condensation of the language. It is a fairly disquieting thought that in Danilo Kis we have a writer whose skills are adequate to those of time itself.
    Perhaps the only service a real tragedy renders in leaving its survivors as speechless as its victims is that of furthering its commentators' language. The least that can be said about A Tomb for Boris Davidovich is that it achieves aesthetic comprehension where ethics fail. Of course, the mastery of language can hardly pass for a safeguard in our enterprising century; but at least it creates a possibility of response, without which people are bound to remain slaves of their experience. By having written this book, Danilo Kis simply suggests that literature is the only available tool for the cognition of phenomena whose size otherwise numbs your senses and eludes human grasp.
    A Tomb for Boris Dauidooicb is a very dark book, and its only happy end is that it was published and now so splendidly translated into English by Duska Mikic-Mitchell.
It is surely a strange realm for an English reader to enter, but so it was for the millions and millions who found themselves inside it. Unlike them, an English reader can leave it whenever he likes by closing this book, finished or unfinished. Only the names here are fictitious. The story, unfortunately, is absolutely true; one would wish it were the other way around.

JOSEPH BRODSKY

Basically, A Tomb for Boris Davidovich is an abbreviated fictionalized account of the self-destruction of that berserk Trojan horse called Comintern.
Cơ bản mà nói, "Một Nấm Mồ cho Me-Xừ
Boris Davidovich" là 1 kết toán rút gọn của sự tự huỷ diệt của con ngựa Thành Troie khùng, có tên là Quốc Tế CS.

At first glance A Tomb for Boris Davidovich may indeed seem like a spin-off from The First Circle, The Gulag Archipelago (as yet unpublished in Yugoslavia), Nadezhda Mandelstarn's Hope against Hope, and the Medvedev brothers' various writings. The point is that the bulk of the novel has to do with the fate of several people who perished during the Great Terror of the late 1930s. For an account of that the sources are unfortunately mostly Russian. With sixty million dead in the civil war, collectivization, the Great Terror, and things in between, Russia in this century has produced enough history to keep the literati all over the world busy for several generations. The aforesaid authors already belong to the second generation. The first was Arthur Koestler's, and several chapters of the Kis book bear a general resemblance to Darkness at Noon, although surpassing it in both horrifying detail and narrative skill.

The process of transforming Russian history of this period into the new mythology of our civilization is well under way in A Tomb for Boris Davidovich.
Cái tiến trình chuyển hóa lịch sử Nga thời kỳ này, thành 1 huyền thoại mới của văn minh của chúng ta, thì đã được Kis thực thi tới chỉ trong Một Nấm Mồ 

Bảnh hơn Đêm giữa Ngọ, 1984, và luôn cả tiểu thuyết mới của Tẩy!

A Tomb for Boris Dauidooicb is a very dark book, and its only happy end is that it was published and now so splendidly translated into English by Duska Mikic-Mitchell.

Bài Intro quá tuyệt, hà, hà!

Đi tìm phê bình gia Mít

*

Mây Bay Đi

Đọc trên net, FB, Gấu nghĩ là, tên Lang Băm, là ai. Cũng 1 tên cắc ké, y chang Thầy Đạo, chắc là học sau GCC, như Thầy Đạo, và chắc là – vẫn “chắc là” – có được cái triết Mít, nên mới viết, như Thầy Đạo, khi mượn cái bằng tiến sĩ của Thầy Kuốc, để chửi GCC:
Ông cũng không phải là nhà phê bình văn học như ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi đào mả tên tuổi các ông bà nhà văn nhà thơ hải ngoại.
Có điều lạ, là, Thầy Đạo có thể thù Gấu, là vì, do GCC viết cho tờ Văn Học của NMG, nên tờ này đếch thèm đăng bài của Thầy nữa, dù đăng free.
Trong khi GCC không hề biết đến khốn kiếp này là ai, sao mà tên khốn thù Gấu đến như thế!
Cái chuyện thù GCC “đến như thế”, thì không chỉ hắn.
Thời gian trước 1975, sau khi đi 1 đường đọc Mây Bay Đi của Nguyên Sa, Gấu bị Duyên Anh – không phải NS - qua cái nick Thương Sinh chửi ròng rã gần 1 năm trời, mỗi ngày, trên nhật báo Sống, thấy mặt Gấu nhăn như bị mỗi lần gặp ở Quán Chùa, ông anh TTT thương hại, an ủi, làm người, phải có người yêu, kẻ ghét, cứ tròn như hòn bi, lăn đâu cũng lọt, thì sống làm khỉ gì!
Ui chao, hóa ra ông anh cũng có quá nhiề
u kẻ thù, và trong số đó, có rất nhiều bạn quí của ông!

Có thể, khi Gấu viết bài điểm sách trên, tên khốn kiếp Lang Băm còn đang mài đũng quần, cao lắm, là ở Văn Khoa, mong đậu 1 chứng chỉ Đại Học, để thoát đi lính, như Thầy Đạo!
Gấu đã từng có chứng chỉ Dự Bị Triết, Văn Khoa, như đã từng tường trình, sau khi ra trường Bưu Điện, làm 1 chuyên viên kỹ thuật, học hàm thụ, mấy ông thầy khi đó là Lê Tôn Nghiêm, Kim Định, Gấu chưa từng gặp.
Chỉ đến khi ghi tên học chứng chỉ Triết Tây, Thầy là Nguyễn Văn Trung, khi làm bài thi, thay vì dù
ng cours của Thầy, thì Gấu lại dùng cours Sorbonne, thời gian đó, bán đầy ở nhà sách Lê Phan. Nhớ, Gấu nghĩ là mình trúng tủ, vì đề tài về triết hiện sinh, đúng 1 chương của cours Sorbonne, cái gì gì về hiện sinh, existence, sức căng, tension.
Rớt! Do đếch thuộc cours của Thầy!
Thế là bye bye Văn Khoa.
Cái chết của đám Mít khoa bảng, nhất là thứ học văn khoa, 1 phần là do phải thuộc cours của Thầy, nếu muốn đậu, muốn thoát quân dịch.
Thầy khốn nạn, mày không “citer” cours của tao, là rớt!
Trò khốn nạn, vì cứ phải học cours của Thầy đến thuộc lòng, nếu không rớt sao?
Ra trường rồi, suốt đời không bỏ được thói quen học thuộc lòng, bài viết mẫu….
Rõ ràng là, có tên nào học Văn Khoa Sài Gòn, sau trở thành nhà văn, nhà biên khảo, nhà phê bình đâu?
Toàn 1 lũ không làm sao quên được cours của Thầy!
Khốn nạn hơn nữa, chúng coi cái mảnh bằng như là cái chứng chỉ chứng nhận, chúng là nhà văn, nhà phê bình, nhà điểm sách!
Mi đâu
phải là nhà phê bình như ông Cuốc/Kức, là nghĩa như thế:
Mi đâu có bằng tiến sĩ như Thầy Quốc, mi đâu phải dân khoa bảng, như chúng ông?

Ui chao, Gấu có bằng, thứ thiệt, nó đòi cái khả năng sá
ng tạo của con người, chứ không phải thứ học thuộc lòng!
Khi bạn giải 1 bài toán, làm sao bạn học thuộc lòng?
Tất cả những bài viết của Gấu, khác hẳn lũ này, là 1 bài toán, nó có 1 vấn đề, cần phải giải cho ra.
Thay vì 1 định lý, 1 đáp số, thì là 1 viễn ảnh.
Một khi không có viễn ảnh, là bài viết kể như vứt đi.
Cái viễn ảnh của trang Tin Văn, là 1 cái gì tương tự như luật vạn vật
hấp dẫn của Newton, như Koestler định nghĩa. (1)

Sở dĩ thơ TTT, không có truyền nhân, 1 phần là do lý do nêu trên.
TTT làm thơ, khi viết văn. Và thơ, với ông, không phải là ẩn dụ, mà là viễn ả
nh, thi ảnh, ảnh tượng, image, hay image poétique.
Cái gì gì:

Buổi sáng sớm tinh mơ như 1 vết thương mới lên da non

[Note: Sau này, đọc thư gửi Đảo Xa, GCC suy ra, ở cái nền của cuốn Bếp Lửa, là Hà Nội, và những câu thơ được Bachelard trích dẫn, khi viết Thi học của Không Gian.
Bây giờ đọc Thư gửi Đảo Xa, GCC mới thấm. Lúc đầu bực quá]

http://www.tanvien.net/Tribute_1/TTT_Dao_Xa.html

Anh thích những buổi sáng không thể tưởng. Ở Sài Gòn có nhiều bữa anh ra đường khi trời chưa rạng, chạy xe kiếm một quán cà phê chệt ngồi. Buổi sáng khi Pagode vừa mở cửa thường khi anh là người khách đầu tiên lúc còn làm ở Tiền Tuyến. Ở đây không thể ra ngoài. Sợ lạnh vả lại trong trại binh đi lang thang bậy bạ nguy hiểm không chơi. Hồi còn yên, mới vô lính, 4 giờ sáng dậy đi tuần xong chạy từ Cầu Kinh qua xa lộ vào Sài Gòn. Nhớ hoài những buổi sáng. Anh chỉ mới đón em, gọi dậy có mỗi một buổi sáng thôi. Buổi sáng của anh khó có người chia xẻ. Dường như các bạn thân thiết của anh chẳng có ai dậy sớm cả. Buổi sáng sớm chẳng bao giờ làm người ta chán đời cả. Sáng sớm dậy, thở, đi ngửa mặt khoan khoái thấy sống tỏa tràn trề không hề nghĩ ngợi bậy bạ nhảm nhí.

Lần ra Huế anh cũng còn nhớ những buổi sáng ở bên Hương Giang lắng nghe tiếng chợ họp dấy bên kia sông. Nhớ con đường hẹp như đường làng từ hồ Tịnh Tâm ra con đường phố trổ ra cửa Thượng Tứ hàng cây trồng cách sao mà ngả đầu vào phía trong như ngửa ưỡn người. Khu Gia Hội anh cũng đã sang. Đã ăn một bữa tối ở tiệm ăn Tầu bàn bầy ngoài vườn, chẳng hiểu có còn không (cùng phía với rạp hát bóng, đi quá lên trên).

Anh lại vừa nhớ đến những buổi sáng thức dậy trong Sở Thú. Hồi Tết Mậu Thân, tái ngũ, làm ở Tiền Tuyến, trong đợt tấn công thứ 2 vào Sg, cứ 4 tối anh lại bị một đêm dẫn lính qua nằm phục bên Sở Thú. Ngủ trên bãi cỏ dưới tàn cây. Ngủ trong nhà chòi bát giác sát bờ sông Thị Nghè. Ngủ dưới chân cái patio thẳng cổng chính vào trông thấy. Ngủ trong cái quán nước đã dẹp bàn ghế. Nửa đêm ve kêu râm ran. Sáng dậy nghe khỉ nghe voi kêu. Mời hết cả đám lính đi với mình mỗi người một ly cà phê sữa cho tỉnh trước khi về trại. Năm đó anh nhớ anh đánh bạc quanh năm, được liên tu bất tận. Về vứt ống súng là chạy ra Pagode ngồi đến 9 - 10 giờ về làm việc. Bây giờ thì buổi sáng chong đèn - luật phòng thủ tối kỵ - viết thư. Viết ba lăng nhăng, chẳng ra đâu vào đâu. Và nếu cứ viết kiểu này hoài, chắp lại dám thành quyển tiểu thuyết tình dầy. Có khác chi Under the volcano?

Ui chao, đúng thời gian GCC đã từng kể ra. Cái chuyện ông đánh bạc được liên tu bất tận, Gấu vô ý có kể cho bà cụ C nghe. Bữa sau, ông mắng, tại làm sao mà chuyện gì mày cũng kể cho Cụ nghe.
Đúng câu, ông trách bà cụ, tại làm sao mà chuyện gì Mẹ cũng kể cho thằng Trụ nghe?

* *

Flamme seule, je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester seule, sans rien dire;
Le second pour l'homme taciturne qui n'a qu'une solitude à offrir. (1)

Trong một đêm anh đọc đoạn trên trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu là thơ của Tzara. Đoạn sau quãng diễn của Bachelard - philosophe già, tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô cùng. Anh có ý lấy đoạn này để cho Mắt Bão. Em thích không ?

Thư gửi đảo xa

(1)

Ngọn lửa cô đơn, tôi cô đơn
Cháy một mình, mơ mộng một mình
Biểu tượng lớn, biểu tượng kép không được thấu hiểu
Cái thứ nhất là cho người đàn bà,
Cháy rạng ngời, phải một mình, không nói gì
Cái thứ nhì, cho người đàn ông lầm lì
chỉ có nỗi cô đơn của mình để dâng hiến

Kiệt buộc miệng kêu: A, cháy rừng. Chốc lát nữa, ngọn núi sẽ bốc lửa tỏa rực một vùng. Chàng ngây sững đón chờ cảnh tượng. Lửa thiêu hủy cây cối trong đêm sẽ soi tới chỗ chàng đứng. Tàn lửa và tro than, gió cũng thổi bay tới.
Thêm những đám lửa nhỏ rải rác bập bùng nhưng đám lửa đầu tiên không lan rộng. Mặc dầu sự mong mỏi của Kiệt, đám cháy trên triền núi không xẩy ra. Đêm ít gió. Những chùm lửa cách biệt, lơ lửng rồi lụi tàn.
Kiệt đứng như trời trồng.
Hai người từ phòng chiếu bóng ra qua lưng Kiệt trên bãi cỏ. Họ không chú ý đến Kiệt, bàn tán chê bai cuốn phim xem bỏ dở nửa chừng.
Kiệt tưởng tượng tiếng nổ lách tách của những thân cây khô già khi bị lửa bám đốt. Trong mắt Kiệt rập rờn bóng lửa trên núi.
Chàng thật cô đơn.
Kiệt sống lại đêm tháng sáu Bắc Âu, đêm mùa hè của miền lạnh lẽo với mặt trời cháy suốt đêm trên đầu núi. Người ta kéo nhau ra đồng, ăn uống, ca hát, khiêu vũ, ngắm mặt trời đêm nguyên hình một khối đỏ ối. Năm ấy Thùy tốt nghiệp, hai người rủ nhau sang chơi Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy trong dịp hè. Cả hai người đều còn trẻ. Đêm hội mùa hạ, họ nằm bên đống rơm, ngây ngất trước khối lửa lạ lùng, hôn nhau, và yêu nhau. Đó là đêm tân hôn.
Kiệt thấm thía nỗi cô đơn. Và Thùy hiểu lẽ yếu đuối cần được phủ ấp. Họ yêu nhau lần thứ hai lúc nửa đêm. Mặt trời đã lên đỉnh như chiếc bóng lửa tròn xoay. Hơi ấm gờn gợn giá. Văng vẳng bên tai Kiệt một khúc ca yêu đời của Grieg. Chàng ghé tai Thùy thì thào:
Flamme seule, je suis seul. (2)
Đêm nay chàng sống lại nỗi cô đơn, trong cảnh trơ trọi.
Còn Thùy? Dường như nàng đã quên bặt khối lửa đêm ấy hoặc nàng chỉ còn thấy chiếc bóng của nó ghi trong ký ức như thấy hình chụp trên tấm bưu thiếp giữ làm kỷ niệm.
Nàng quên bẵng sự yếu đuối, nhỏ nhoi, tuyệt vời của nàng.

Một chủ nhật khác

*

(1)
http://www.tanvien.net/Tribute_1/TTT_10_Yeras_Memoriam.html

Lần Sến cô nương lôi bài viết ‘sao dám ghét ta la bà’ về Chợ Cá, và ‘bạn hàng’ chê ỏng chê eo, Gấu bèn đi một đường ‘tự sướng’:
Phải đọc Tin Văn trong tinh thần chờ đợi, tự mình khám phá ra, một định luật văn học, định luật này chẳng thua gì định luật “vạn vật hấp dẫn” ở trong vật lý học, của Newton!
Ấy là Gấu mô phỏng Koestler, khi ông coi Newton như là một ông nhạc trưởng của một dàn nhạc đại hoà tấu. Theo nghĩa:
Những hiện tượng vật lý, thí dụ như thuỷ triều, làm sao anh qua nổi con trăng này?, trái sầu riêng rớt trúng đầu… chúng có vẻ như chẳng ăn nhập gì với nhau, cho đến khi Newton xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, thế là mọi thứ y khuôn một phép, ai vào vị trí đó, cùng tấu bản đại hoà tấu “vạn vật hấp dẫn”!
Những trang Tin Văn tản mạn, không đầu không đuôi, làm xàm, bá láp…  cũng đang chờ một độc giả xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, và thế là bản “Diệt Cái Ác Bắc Kít” được tấu lên!
*
Ui chao, vừa vừa thôi cha nội!
Sắp chết, hiền đi là vừa rồi!
*
Nếu vậy, thì lấy câu dưới đây, làm "blast" cho Tin Văn:
"These fragments I have shored against my ruins”
[Những mảnh miểng này, tôi vun vén nhằm chống lại nỗi điêu tàn của tôi:
Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em những ngày sắp tới].

Đây là câu thơ – These fragments…  - kết thúc Hoang Địa, The Waste Land, của Eliot.

Câu thơ đưa chúng ta trở về với Xuân Sách, khi ông hỏi Chế Lan Viên:

Điêu Tàn ư,
Đâu chỉ có Điêu Tàn? (1)

Sách & Báo



Hình ảnh 1 người vs 1 đoàn xe tăng ở Thiên An Môn, được công chúng net sử dụng, khi nối kết với cái hình dưới đây

Public Posts

To compare anything associated with black lives matter with Tiananmen Square is absolutely absurd. The Chinese government murdered thousands of their own citizens and injured thousands more in a span of about a month because people were protesting in support of democracy and trying to get rid of a centralized governing power dictating to its people through communism.

There is no doubt in my mind that these media outfits have gone out of their fucking minds. The way they report on these things is completely ridiculous. These media outlets have no integrity at all. They have no concept of history or current events. Everyone's going fucking insane. - Michael Vincent -

WOLFRAM KASTL/DPA/GETTY IMAGES
Posts by Reuters, The Christian Left, FOX25 News and others

6 hrs

[Comment by the original poster] More stupidity. This is not even close to the power of the mysterious tank man of Tiananmen square. When I watch that video of that man standing his ground in Tiananmen Square my heart catches and I wonder at the strength of humans against great odds. The fact that he disappeared makes it more poignant. When I see this picture I see a millennial sheeple getting in the way unlawfully for a made up cause. The media is pushing more fake crud on t...

See More


Đọc & Viết

Đất nước ngày càng vô pháp càng đòi hỏi nhiều hơn một thể chế mới vừa tôn trọng nhân quyền của người dân, vừa gầy dựng lại tinh thần trọng pháp bởi nhà cầm quyền trước tiên.

Chế độ cộng sản hiện tại đã đánh mất cả hai yếu tố đó, nên không xứng đáng tiếp tục ở vị thế cầm quyền một cách chính danh nữa.

Note: Những hình ảnh xứ Mít như hiện nay, là ý nghĩa của cái từ "Tháng Tư Đen". Tháng Tư Đen nghĩa là gì, là như thế.

http://www.diendan.org/viet-nam/30-thang-tu

*


OUR VIETNAM WAR NEVER ENDED

By Viet Thanh Nguyen

LOS ANGELES-THURSDAY; the last day of April, is the 40th anniversary of the end of my war. Americans call it the Vietnam War, and the victorious Vietnamese call it the American War. In fact, both of these names are misnomers, since the war was also fought, to great devastation, in Laos and Cambodia, a fact that Americans and Vietnamese would both rather forget.
    In any case, for anyone who has lived through a war, that war needs no name. It is always and only "the war," which is what my family and I call it. Anniversaries are the time for war stories to be told, and the stories of my family and other refugees are war stories, too. This is important, for when Americans think of war, they tend to think of men fighting "over there:' The tendency to separate war stories from immigrant stories means that most Americans don't understand how many of the immigrants and refugees in the United States have fled from wars-many of which this country has had a hand in.
    Although my family and other refugees brought our war stories with us to America, they remain largely unheard and unread, except by people like us. Compared with many of the four million Vietnamse in the diaspora, my family has been lucky. None of my relatives can be counted among the three million who died during the war, or the hundreds of thousands who disappeared at sea trying to escape by boat. But our experiences in coming to America were difficult.
    When I first came to this country, at age 4, I was taken from my parents and put into a household of American strangers who were supposed to care for me while my parents got on their feet. I remember a small apartment, or maybe a mobile home, and a young couple who did not know what to do with me. I was sent on to a bigger house, a family with children, who asked me how to use chop-sticks. I'm sure they meant to be welcoming, but I was perplexed and disappointed in myself for not knowing how to use them.
    As for Vietnam, it is both familiar and strange. I heard much about it as I grew up in San Jose, Calif., in a Vietnamese enclave where I ate Vietnamese food, went to a Vietnamese church, studied the Vietnamese language, and heard Vietnamese stories, which were always about loss and pain. My parents and everyone I knew had lost homes, wealth, relatives, country and peace of mind. Letters and photographs in Par Avion envelopes, trimmed in red and blue, would arrive bearing words of poverty and hunger and despair. My parents had left behind my older, adopted sister, whom I knew only through one black-and-white photograph, a beautiful girl with a lonely expression. I didn't remember her at all. I didn't remember the grandparents who passed away one by one, two of whom I never met because they had stayed in the north while my parents had fled to the south as teenagers in 1954.
    My father would never see his mother again, and not see his father for 40 years. My mother would never see her parents again, and not see her sisters for 20 years. And the violence they sought to escape caught up with them. My father and mother opened a grocery store and were shot and wounded in a robbery on Christmas Eve, when I was 10 years old. I was watching cartoons, waiting for them to come home. My brother took the phone call. When he told me what had happened I did not cry, and he shouted at me for not crying.
    I would not return to Vietnam for 27 years because I was frightened of it, as so many of the Vietnamese in America were. I found the Vietnamese in America both intimate and alien, but Vietnam itself was simply alien. How I remembered it was through American movies and books, all of them in the English language that I had decided was mine at some unspoken, unconscious level. I heard broken English all around me, spoken by refugees whom I couldn't help but see through American eyes: fresh off the boat, foreign, laughable, hateful. That was not me. I could not see how I could live a life in two languages equally well, so I decided to master one and ignore the other. But in mastering that language and its culture, I learned too well how Americans viewed the Vietnamese.
    I watched "Apocalypse Now" and saw American sailors massacre a sampan full of civilians and Martin Sheen shoot a wounded woman in cold blood. I watched "Platoon" and heard the audience cheering and clapping when the Americans killed Vietnamese soldiers. These scenes, although fictional, left me shaking with rage. I knew that in the American imagination I was the Other, the Gook, the foreigner, no matter how perfect my English, how American my behavior. In my mostly white high school, the handful of Asian students clustered together in one corner for lunch and even called ourselves the Asian Invasion and the Yellow Peril.
    Such stories are common among the Vietnamese people I know. For many, like the southern Vietnamese veterans who will not find the names of their more than 200,000 dead comrades on the Vietnam Veterans Memorial in Washington, the war has not ended. That is because they are not "Vietnam veterans" in the American mind. Our function is to be grateful for being defended and rescued, and many of us indeed are. The United States welcomed hundreds of thousands of refugees from Southeast Asia in the years after the war. You would be hard pressed to find a more patriotic bunch than us, from the law professor who helped write the Patriot Act to the scientist who designed a bunker-buster bomb for the Iraq war. You can also count among our numbers many veterans of the wars in Iraq and Afghanistan.
    But at the same time these Vietnamese Americans fought for America, they also struggled to carve out their own space in this country. They built their own Vietnam War Memorial in Orange County, Calif., home of Little Saigon, the largest Vietnamese community outside of Vietnam. It tells a more inclusive story, featuring a statue of an American and Vietnamese soldier standing side by side. Every April, thousands of refugees and veterans and their children gather here to tell their own story and to commemorate what they call Black April.
    This Black April, the 40th, is a time to reflect on the stories of our war. Some may see our family of refugees as living proof of the American dream-my parents are prosperous, my brother is a doctor who leads a White House advisory committee, and I am a professor and novelist. But our family story is a story of loss and death, for we are here only because the United States fought a war that killed three million of our countrymen (not counting over two million others who died in neighboring Laos and Cambodia). Filipinos are here largely because of the Philippine-American War, which killed more than 200,000. Many Koreans are here because of a chain of events set off by a war that killed over two million.
    We can argue about the causes for these wars and the apportioning of blame, but the fact is that war begins, and ends, over here, with the support of citizens for the war machine, with the arrival of frightened refugees fleeing wars we have instigated. Telling these kinds of stories, or learning to read, see and hear family stories as war stories, is an important way to treat the disorder of our military- industrial complex. For rather than being disturbed by the idea that war is hell, this complex thrives on it.


Cuộc chiến Mít chẳng bao giờ chấm dứt.
Sai.
Một cách nào đó, nó
đã chấm dứt, cùng với sự lộ diện của Tẫu, như 1 con Quỉ Chuồng Heo, trong "Y sĩ Đồng Quê", của Kafka, và sự hiện hữu thê thảm của 1 xứ Mít đang trên mép bờ huỷ diệt, với Họa Biển, Họa Đất [vụ Bô Xít, thí dụ], họa "Cửu Long Cạn Dòng..."  như hiện nay.

Cái cách mà tay VTN này đọc/coi Tận Thế Là Đây, làm nhớ đến Đinh Linh, khi anh viết về nó, và cho đăng trên Guardian, và Tin Văn, đã chỉ ra, đọc không tới, khi viện dẫn tay làm phim này, Coppola, thật hãnh diện phán, Tận Thế Là Đây “là” Việt Nam, và GCC thêm vô: Ông ta chỉ ra trái tim của bóng đen, “là” Hà Nội, theo đúng ý nghĩa của Conrad, khi viết The Heart Of Darkness: Lũ Bắc Kít, khi ăn cướp Miền Nam chúng nghĩ là chúng khai hóa Miền Nam, bằng cái văn minh đồng bằng Sông Hồng, nhưng hóa ra là Trái Tim của Bóng Đen, ‘là’ Hà Nội.
DL cũng 1 thứ Mít lớn lên ở Mẽo, và cũng 1 cách nhìn Mẽo như VTN, và cũng gốc gác Ngụy, như nhau. Có 1 thiểu số Mẽo gốc Mít gốc Nam Kít/Ngụy
như họ, khi tố cáo sự coi khinh những sắc dân thiểu số vs da trắng, mà hậu quả là cú giết hại Cớm Mẽo da trắng, như vừa xẩy ra, và nhìn như thế, thì cái hình ảnh “Black Lives Matter” còn làm nhớ tới những cái sọ da đen treo lủng lẳng trên những cây sào trong Trái Tim của Bóng Đen.

http://tanvien.net/TG_TP/khai_huyen_doi_tra.html

http://tanvien.net/Souvenir/ky_niem_3.html

Apocalypse lies

* *

Tội Ác Giữa Lòng Hà Nội

Chim tươi sống, Thượng Đế ‘order’, là vặt lông, làm thịt, 'sắp kèo rượu', [tương tiến tửu] liền tù tì
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan!

Cứ tội ác gì cũng đổ cho Mẽo hết, đến một lúc nào đó Coppola, chẳng may vớ được cục tiếng Anh, [bài viết đăng trên Guardian của DL], bèn, như Hitler, vặc lại, nếu không có Lò Thiêu làm sao có nước Israel, nếu chúng tao không nhảy vô Miền Nam, làm sao chúng mày có lý do để mà đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, qui về một mối, cùng nhìn về…  Trái tim Hà Nội?

Bởi vì, không có người Mẽo can thiệp vô Việt Nam, không có cách chi kết thúc cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh, với phần thắng nghiêng về Đàng Ngoài.
Có lần Gấu phán 'ẩu' là, Miền Bắc phải tìm đủ mọi cách cho anh Yankee mũi lõ nhẩy vô Việt Nam, thì mới có lý do phát động, activate, chân lý nước Việt Nam là một, và từ đó mấy anh Yankee mũi tẹt con cháu họ Trịnh ngày nào mới có cơ hội làm thịt Miền Nam.

Đây là thảm kịch Việt Nam, thảm kịch nồi da xáo thịt. Bởi vậy Coppola mới ngạo nghễ tuyên bố, như ĐL trích dẫn, “không phải là về Việt Nam — nó là Việt Nam.”

Ý nghĩa "nó là Việt Nam", là như trên. 

Không phải tự nhiên nhiều người, coi đây là đỉnh cao sự nghiệp Coppola:
To many, Apocalypse Now represents Coppola's highpoint, a feat he has been unable to equal or exceed ever since.
Nhưng cái giá phải trả, cũng khá đắt, như ông nói, sau khi quay phim xong: ".... từng chút, từng chút, chúng tôi biến thành khùng". ["We were in the jungle, there were too many of us, we had access to too much money, too much equipment, and little by little, we went insane." ]

Như Littell, tác giả Les Bienveillantes, khi muốn nhập thân vào Cái Ác:
Nhập vai thì cũng dễ, ra mới khó! (1)

(1) Gấu Cái cảnh cáo: Mi cứ viết hoài như thế này, thì mi cũng khùng thôi.
Một độc giả gửi sách tặng, 'ra lệnh', đọc 'cái này' (2) đi, tẩu hoả nhập ma đến nơi rồi!
(2) Cám ơn, sẽ đọc. NQT

Kissinger, phải đến chót đời, mới nhận ra sự lì lợm, không chấp nhận một biện pháp nửa vời, a compromise, cho cuộc chiến của Miền Bắc, tuy nhiên ông ta không làm sao mà hiểu được, lời nguyền 'Nàng là giống Rồng, Ta là giống Tiên', và giấc mơ ‘giao lưu hòa giải’, thống nhất đất nước, nhằm huỷ diệt lời nguyền, ngay từ khi…  chưa có giống Mít, đó là cái phần đẹp nhất của cuộc chiến, đúng như ý muốn của Chúa, khi Ngài OK cho giống Mít có mặt ở trên thế gian này.

Nhưng hỡi ơi, chính Người cũng không thể tưởng tượng ra được "Trái Tim Là Bóng Đen" của Hà Nội nó khủng tới cỡ nào! 

Đến Ông Giời mà cũng còn lầm, nữa là! 

Theo nghĩa đó, Anne Applebaum mới phán, đến ngay Thượng Đế mà cũng không thể tưởng tượng ra được Tây Phương chiến thắng Cuộc Chiến Tranh Lạnh, khi bà vinh danh Koestler.

Đó là công lao của chỉ 1 cuốn sách: Đêm Giữa Ngọ.

Kỷ niệm, kỷ niệm

ABSALOM, ABSALOM!

I know of two kinds of writers: one whose obsession is verbal procedure, and one whose obsession is the work and passions of men. The former tends to receive the derogatory label "Byzantine" and to be exalted as a "pure artist." The other, more fortunate, has known such laudatory epithets as "profound," "human," "profoundly human," and the flattering abuse of "primal." The former is Swinburne or Mallarme; the latter, Celine or Theodore Dreiser. Others, truly exceptional, exercise the joys and virtues of both categories. Victor Hugo remarked that Shakespeare embodied Gongora; we might also observe that he embodies Dostoevsky.... Among the great novelists, Joseph Conrad was the last, perhaps, who was as interested in the procedures of the novel as in the destiny and personality of his characters. The last, until Faulkner's sensational appearance on the scene.
Faulkner likes to present the novel through his characters. This method is not totally original: Robert Browning's The Ring and the Book (1868) details the same crime ten times, through ten mouths and ten souls, but Faulkner infuses an intensity in them which is almost intolerable. Infinite fragmentation, an infinite and black carnality, is encountered in this book. The theater is Mississippi; the heroes, men destroyed by envy, drink, solitude, and the erosions of hatred.
Absalom, Absalom! is comparable to The Sound and the Fury. I know of no higher praise.
Borges 

Absalom, Absalom!

Tôi biết hai loại nhà văn. Một, ám ảnh của họ là cuộc diễn biến của chữ, verbal procedure, một, việc làm, work, và đam mê của con người. Loại thứ nhất, cực điểm của họ, là ‘nghệ sĩ thuần tuý’. Loại kia, may mắn thay, được ban cho những cái nón như là “sâu thẳm” [profound], “nhân bản”, human, rất nhân bản. Trong số này, còn có những người ở giữa, nghĩa là tu tập cả niềm vui lẫn đức hạnh của cả hai loại trên. Trong số những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất, Joseph Conrad là người cuối cùng, có lẽ, đã quan tâm đến những thủ tục của một tiểu thuyết như trong số phận và nhân cách của những nhân vật của ông. Người cuối cùng, cho đến  khi Faulkner xuất hiện trên sàn diễn.
Faulkner thích trình ra cuốn tiểu tiểu thuyết của ông, qua những nhân vật. Phương pháp này thì cũng không hoàn toàn do ông mà ra: Cuốn Cái Nhẫn và Cuốn Sách (1868), của Robert Browning tả chi tiết một tội ác 10 lần, qua 10 cái miệng và 10 linh hồn, nhưng Faulkner tẩm sự căng thẳng, cuờng độ, vào trong những nhân vật của mình đến mức độc giả, thứ "cà chớn" sẽ đếch làm sao chịu được! Một cung cách mẩu đoạn, phá nát văn phong đến tận cùng, [cánh đồng bất tận mà!] đến vô cùng, dục vọng thì cũng vô cùng, và đen thui, đó là những gì người đọc tìm thấy ở trong một cuốn sách của ông. Nhà hát là Mississippi, những nhân vật của ông, đàn ông, bị tiêu ma, huỷ diệt bởi lòng ham muốn, rượu, cô đơn, và tàn tạ mãi đi, vì hận thù.

Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges

Nhà hát là Miền Nam. Những nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư….
NNT chưa từng đọc Faulkner, nhưng có thể nói, toàn bộ tác phẩm của cô, bước ra từ khúc dạo đầu của Absalom, Absalom! của Faulkner


Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges

Tuyệt!

Khen 1 tác phẩm của Faulkner, bằng 1 tác phẩm khác, cũng của Faulkner!
Đây cũng là đòn của Kim Dung, cho Vô Kỵ sử dụng, để đánh bại 1 nhà sư Thiếu Lâm, bằng chính võ công của Thiếu Lâm, và đúng cái môn võ công mà nhà sư nổi danh nhờ nó, trong 1 trận đánh kinh thiên động địa trên Quang Minh Đỉnh, để cứu cả một lũ Ngụy, tức Ma Giáo!

Đâu có thứ võ công nào khác, để mà đánh bại Ngài, ngoài võ công của chính Ngài!



 Kẻ Phản Thùng

Khi cuốn sách của cái tay này, được Pulitzer, rồi lại thấy anh ta khoe, Sebald là my"hero", GCC mừng quá.
Hóa ra đồ dởm, và thay vì, Cảm Tình Viên, thì Gấu bèn dùng đúng cái từ dành cho nó: Tên Phản Thùng.
Cái tên dịch bài viết này, lại càng 1 tên phản thùng.
Tên này, như đã từng lèm bèm, đệ tử của Cao Bồi, bố là Ngụy, giám thị Chu Văn An, được Ngụy cho du học rồi làm Cớm cho VC tại Paris.
Không phải tự nhiên mà hắn dịch bài viết nói lên quan điểm của tác giả cuốn sách. Cũng 1 cách chạy tội, như cả 1 lũ nằm vùng làm mất Miền Nam.
V/c cuộc chiến Mít. Trên 40 năm rồi, đã bắt đầu cho thấy nguyên nhân đích thực của nó.
Trước hết, nó không phải là 1 cuộc chiến giải phóng của 1 đất nước cựu lục địa
của Pháp.
Cái sự lệ thưộc đến trở thành bồi Tẫu của Bắc Bộ Phủ như bây giờ, cho thấy, đây là cuộc chiến giữa các thế lực đế quốc ngoại bang, Pháp, Mẽo, và Tẫu "nằm vùng", đúng như Solz, là người đầu tiên, ngay từ những ngày 1975, phán, trong 1 chương trình trả lời phỏng vấn văn học trên 1 đài truyền hình Pháp. Ông bị Octavio Paz chê, hiểu sai, nhưng bây giờ, lịch sử cho thấy, Solz cực kỳ sáng suốt.
Làm sao mà ông ta nhận ra được 1 cách sớm sủa như thế?
TTT, khi từ giã gia đình, khăn gói quả mướp, mang theo 10 ngày đường lương thực lao động cải tạo, nói với thằ
ng em, GCC, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này.
Có điều, ông không làm sao nhìn ra, vào những ngày ngay sau 30 tháng Tư 1975,
xứ Mít sẽ có nguy cơ, bị "biến mất" vì chiến thắng này đỉnh cao chói lọi này, mới đúng "con cào cào, chuồn chuồn, châu chấu"!
Cái “thuật ngữ”, “Tháng Tư Đen”, lúc thoạt đầu được đám Miền Nam hải ngoại sử dụng, nó có 1 ý nghĩa hạn hẹp và bị những tên phản thùng như lũ này, vin vào đó, để viết nhảm, đúng ra phải được dùng để chỉ xứ Mít như là hiện nay, bắt đầu từ ngày 30 Tháng Tư 1975.

Như GCC đã từng viết, "Bức Tường Lòng", của Mít,
như Bức Tường Bá Linh của Đức, chỉ bắt đầu có, kể từ ngày 30 Tháng Tư 1975.
Không phải trước đó.

Cuốn tiểu thuyết Kẻ Phản Thùng, đúng ra - vẫn "đúng ra" - người viết phải là Cao Bồi, giả như anh được Bắc Bộ Phủ cho di tản tiếp, tiếp tục nằm vùng ở Mẽo.
Một số những nhà hoạt động ở trong nước, mà GCC không tiện nêu tên, vì sợ làm họ khốn đốn thêm với VC, đã nhìn ra sự kiện, như GCC trình bày, trên đây.
Cái cực kỳ thê lương
khốn kiếp của cuộc chiến Mít, là không thể nào có 1 hồi ức nào về nó, kể cả những hồi ức tù của đám Ngụy, mà đa số là đồ dởm.
Không thể hồi ức, tưởng niệm, kể cả ở lũ VC!
Một tên già, tay đầy máu Ngụy, như tên NN, thí dụ, cái hành động, cái ý thức "tự kiểm" [mauvaise conscience] cao nhất của hắn ta, là cởi mặt nạ, nhìn 1 tên Mẽo, kẻ thù ngày nào của hắn.
Hắn đâu biết -tất nhiên làm ra vẻ đếch biết -
Ngụy là gì?
Nếu nói về thái độ chính trị, thì cứ tạm gọi như vậy, tay này thua xa Nam Lê, tác giả Con Thuyền, The Boat.

Nhớ, Sến có lần ngỏ ý khen chế độ Ngụy, nhưng cảnh cáo liền, đừng có nghĩ ta có ý vực dậy cái xác chết, cái thây ma đó
Giả như Sến muốn như thế, cũng vô phương.
Cái chế độ Ngụy
là chế độ đẹp nhất của xứ Mít, và sở dĩ như thế, là do nền của nó là 1 thiên đàng, tức 1 Miền Nam, 1 Sài Gòn, đúng như nó được gọi, 1 hòn ngọc Viễn Đông, và vẫn sở dĩ được như thế, không phải vì nó nguy nga to tát, bề thế hơn Bangkok, như tên ngu đần Thái Dúi đi 1 đường chọc quê trên Bi Bì Xèo, mà là do khí hậu được thiên nhiên ưu đãi, do dân tình hiền hòa, do cái gọi là mentalité, hay văn minh, vivilisé, của dân Nam Bộ, và còn do thằng Tẩy không hề có phân biệt đối xử với lũ cô lô nhần Nam Kít, điều này, 1 số nhà văn nổi tiếng, như Graham Greene, hay Maugham, xác nhận, như Tin Văn đã từng trưng ra, như là những bằng chứng có thiệt.
Một khi Bắc Kít ăn cướp được, nó trở thành bửn, y hệt xứ Bắc Kít, như nó từng bửn, do cái độc, cái ác gây nên.

Kafka phán, con người bị đá đít ra khỏi thiên đàng, nhưng không vì thế mà thiên đàng bị hủy diệt.
Than ôi, Ngài chết sớm quá. Nếu giờ này, mà còn sống, chắc Ngài phải làm 1 cú hiệu đính, như thói quen cực bửn,
của đám nhà văn Bắc Kít!


Sài Gòn có phải là 'Hòn ngọc Viễn Đông'?

Trương Thái Du Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn


Cái tên Hòn Ngọc Viễn Đông, là Tẩy ban cho Sài Gòn, và quả đúng như thế, và sở dĩ được như thế, thì vì nhiều lý do, trong có cái gọi là "mentalité" của dân Miền Nam, và cái gọi là “văn minh” của Tẩy.
Tẩy đối xử với dân Miền Nam ngang hà
ng, không phân biệt. Điều này được những nhà văn, thí dụ hai đấng, là Graham Greene, trong "Ways of Escape" đã có những dòng ca ngợi thần sầu về Sài Gòn, và Maugham, trong bài viết về Huế, có trên Tin Văn.
Và quả đúng là quá khứ không thể nào lập lại, và điều này phần lớn là do Bắc Kít. Cái độc, cái ác của chúng làm biến đổi xã hội Miền Nam đến tận gốc rễ, không làm sao gượng lại được nữa.

*

HUẾ

HUE IS A pleasant little town with something of the leisurely air of a cathedral city in the West of England, and though the capital of an empire it is not imposing. It is built on both sides of a wide river, crossed by a bridge, and the hotel is one of the worst in the world. It is extremely dirty, and the food is dreadful; but it is also a general store in which everything is provided that the colonist may want from camp equipment and guns, women's hats and men's reach-me-downs, to sardines, pate de foie gras, and Worcester sauce; so that the hungry traveler can make up with tinned goods for the inadequacy of the bill of fare. Here the inhabitants of the town come to drink their coffee and fine in the evening and the soldiers of the garrison to play billiards. The French have built themselves solid, rather showy houses without much regard for the climate or the environment; they look like the villas of retired grocers in the suburbs of Paris.
    The French carry France to their colonies just as the English carry England to theirs, and the English, reproached for their insularity, can justly reply that in this matter they are no more singular than their neighbors. But not even the most superficial observer can fail to notice that there is a great difference in the manner in which these two nations behave towards the natives of the countries of which they have gained possession. The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has borne the better fruit.
    The Annamites are a pleasant people to look at, very small, with yellow flat faces and bright dark eyes, and they look very spruce in their clothes. The poor wear brown of the color of rich earth, a long tunic slit up the sides, and trousers, with a girdle of apple green or orange round their waists; and on their heads a large flat straw hat or a small black turban with very regular folds. The well-to-do wear the same neat turban, with white trousers, a black silk tunic, and over this sometimes a black lace coat. It is a costume of great elegance.
    But though in all these lands the clothes the people wear attract our eyes because they are peculiar, in each everyone is dressed very much alike; it is a uniform they wear, picturesque often and always suitable to the climate, but it allows little opportunity for individual taste; and I could not but think it must amaze the native of an Eastern country visiting Europe to observe the bewildering and vivid variety of costume that surrounds him. An Oriental crowd is like a bed of daffodils at a market gardener's, brilliant but monotonous; but an English crowd, for instance that which you see through a faint veil of smoke when you look down from above on the floor of a promenade concert, is like a nosegay of every kind of flower. Nowhere in the East will you see costumes so gay and multifarious as on a fine day in Piccadilly. The diversity is prodigious. Soldiers, sailors, policemen, postmen, messenger boys; men in tail coats and top hats, in lounge suits and bowlers, men in plus fours and caps, women in silk and cloth and velvet, in all the colors, and in hats of this shape and that. And besides this there are the clothes worn on different occasions and to pursue different sports, the clothes servants wear, and workmen, jockeys, huntsmen, and courtiers. I fancy the Annamite will return to Hue and think his fellow countrymen dress very dully.

Somerset Maugham:
The Skeptical Romancer




Tháng Tư Đen, nghĩa là thế này này, lũ khốn hiểu ra chưa?
NQT

Hai cựu học sinh trường Hà Nội-Amsterdam gặp nhau bàn chuyện họp khoá.
Anh ấy là dân chuyên Toán-Tin, hơn mình hai lớp. Hiện anh là Giám đốc Công ty Tổ chức Sự kiện Bờ Hồ, với ít nhất 5 năm kinh nghiệm tổ chức các sự kiện đông người. Họp lớp, họp khoá, họp trường là chuyện nhỏ với anh ấy.

Pham Doan Trang's photo.
LikeShow more reactions
Comment

Bùi Văn Phú shared a memory.
9 mins

Ôi thời gian qua mau. Mới đây mà sắp hai năm ngày giỗ anh.

2 Years Ago
See Your Memories

Vy Truonggia Chúc anh Hoàng một ngày sinh nhật vui, đầm ấm bên gia đình.

Tiễn bạn NXH


*

Thời đại của những nhân vật tiểu thuyết có cá tính đã hết.

Khi viết như thế, là Gấu muốn nói, thứ tiểu thuyết tâm lý đã cáo chung, do những tiến bộ của môn tâm lý học. Một nhà văn ít học, chẳng biết gì về môn học này, khi phịa ra những nhân vật thế này, thế nọ… cứ nghĩ mình là đấng tạo hóa, đâu có biết, mấy trò này, tâm lý học đã lên danh sách cả rồi.
Có thể nói, bài viết của tên K, cái gì gì, mỹ học của cái tầm phào, là thuổng từ ý trên của Gấu.
Hắn đâu có biết, không hề có sự tầm phào ở đây, ở trong Mù Sương, và chính đây là cái phần đóng góp của những tác giả như NXH, hay HPA… được thiên hạ hồi đó kêu là nhóm "tiểu thuyết mới":
Mù Sương là tiểu thuyết mất đi tìm thấy lại… NXH không hài lòng với cái không khí tiểu thuyết cũ, nên tạo nên 1 cái không khí tiểu thuyết khác.

Tất cả những tác động của tiểu thuyết chỉ là một cuộc chiến đấu nhằm chống lại sức mạnh của thời gian!

Tuyệt!

Thảo nào ông anh ngồi Quán Chùa, đọc, thú vị, bật cười, mi viết như thế này về bạn của mi, mà mi viết như thế kia, về NS, làm sao chúng không chửi!

Nhóm tiểu thuyết mới ở Pháp, cũng thế, họ có chung 1 ý hướng, làm mới tiểu thuyết, nhưng mỗi người mỗi cách. Ở Butor, là cách nhìn gạt bỏ chất sũng nước, chưa chi là đã vãi đái ra, của những nhà văn thuộc trường phái lãng mạn, “người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ”! Với Nathalie Sarraute, là “hướng động tính”, như tiểu luận của bà,
“Tropismes”, giải thích. Ở Alain Robbe-Grillet, là dục tính, có thể chính vì thế mà Nabokov chỉ chịu có ông này...
Hoàng Ngọc Biên ảnh hưởng nặng Butor, mới có nick Mít Butor, rõ nhất là trong “Đêm Ngủ Ở Tỉnh”.
HPA ảnh hưởng Tel Quel, theo nghĩa, cứ viết “như nó là”.
Với Gấu, là từ Faulkner, đổi mới văn mạch, cách viết, bỏ hẳn lối viết “par coup” của Mít, xài tiểu liên, bắn từng tràng!
Rõ ràng là, khi lũ Gấu xuất hiện, văn chương, ít ra là ở Xề Gòn, đổi hẳn đi.


 En attendant SN



Khu Chợ Đũi, Huỳnh Phan Anh, và tôi

Hồi mới tới Sài-gòn, nơi chốn đầu tiên mà tôi làm quen, là khu chợ Vườn Chuối.
Chuyến đó ở trên tầu Rắn Biển, Marine Serpen...

See More
Quoc Tru Nguyen's photo.
Tuyet Nguyen Nhìn ảnh, tui thấy bác Quoc Tru Nguyen càng ngày càng ngây thơ, tươi tắn, chắc nhờ ăn nhiều mọt sách. Tui cũng muốn bắt
chước mà biết không th...ê...ể..

 Thơ Mỗi Ngày

CHILDREN'S BOOK
In which a newborn cricket walks across a field,
unable to reply to the greetings of the mantis, the moth,
and the dragonfly, until his rubbing of wing on wing

becomes a sound that can speak for him. When the last page turns,
the book itself makes a chirruping. Here is the church, and the steeple.
Here is the coffee table where the child lines up a squad

of plastic people. Can the child tell the difference
between himself and other things? He totters back and forth
on a tractor mounted on a spring. Here's the tension

of a string pulled tight, and the child's father rolling over and over
and over in the night: the cricket book, after much rough reading,
now chirrups nightly on its own. Finally th,e father, knowing

what must be done, cuts into the book with a sturdy paring knife,
looking for whatever little engine, whateverlittle part,
makes the lifelike cricket sound. Here is the trailer, the baler,

the harrow, the plough. Can a stem grow up from inside a stone?
Here is how to sit in silence and be alone. Here's the yard
where yesterday the child sat watching as blowing branches made

and remade daggers of light and shade. The book's voice box,
to the father's eye, looks like a dime-sized bicycle bell,
.and as he pries it free, the chirruping intensifies,

becoming something like the death cry of a creature
with an actual beating heart; something like a metal prong
banging indifferently on another metal part.

-James Arthur

NYRB July 14, 2016



There's a sacred limit to any closeness,
Even the passionate fact can't transcend,
Though in fearful silence lips on lips may press
And the heart love tears to pieces won't mend.
And friendship is powerless and years
Of intense high-minded happiness,
Where the soul is free, a stranger to fears
Of the slow languors of passionate excess.
Those who strive to reach it play the part
Of madness, those who succeed are stricken-And
Now you understand why my heart
Is not beating beneath your hand.
1915
Anna Akhmatova

Có một giới hạn thiêng liêng cho bất cứ cận kề
Ngay cảm thông, không thể vượt
Tuy nhiên trong im lặng sợ hãi, môi trên môi, có thể ép
Và trái tim, tình yêu xé thành mảnh vụn, không sao vá.
Và tình bạn thì yếu xìu
Và những năm tháng
Hạnh phúc cực kỳ thanh thoát
Một khi linh hồn tự do,
Một kẻ lạ cho những lo sợ
Về cơn đam mê thái quá khiến trở thành uể oải

Những kẻ cố đạt cho bằng được điều này
Thì sẽ chơi cái phần khùng điên, ba trợn, hoặc phát rồ, phát dại
Những kẻ thành công, thì trở thành tê liệt

Bây giờ, mi hiểu tại làm sao mà trái tim của ta ngưng đập
Bên dưới bàn tay của mi?

Bài thơ này thì hình như mình đã dịch rồi, nhưng bị thất lạc trong quá trình lưu trữ Anna Akhmatova I smile stopped, frosty wind lips of Constantinople, one hope, one less became more song will be. And this is a song that I couldn't help but give the laughter and reproach, then, that the soul hurts a shag love silent. Anna Akhmatova giờ em đã cười không còn nữa... [81 more words. ]
https://ninablog2008.wordpress.com/…/gio-em-da-khong-con-cu…

Giờ em đã không còn cười nữa – Anna Akhmatova

Bài thơ này thì hình như mình đã dịch rồi, nhưng bị thất lạc trong quá trình lưu trữ

Анна Ахматова
Я улыбаться перестала,
Морозный ветер губы студит,
Одной надеждой меньше стало,
Одною песней больше будет.

И эту песню я невольно
Отдам на смех и поруганье,
Затем, что нестерпимо больно
Душе любовное молчанье.

Anna Akhmatova
Giờ em đã không còn cười nữa
Gió lạnh làm buốt giá đôi môi,
Một hy vọng giờ không còn nữa,
Một bài ca thêm với cuộc đời.

Em vô tình đem bài hát ấy
Cho cuộc đời chửi rủa, nhạo cười,
Bởi tâm hồn đau không chịu nổi
Khi tình yêu chỉ im lặng mà thôi.



Tks.
NQT
I cannot smile

I cannot smile, ice wind
Lips sealed with rime.
My only hope has disappeared,
Foretelling this song of mine.

Which I now give to you
To ridicule, to profane,
Your silence in the face
Of my love is unbearable.

Tôi không thể cười

Tôi không thể cười, gió lạnh
Môi, sương muối khóa cứng.
Hy vọng độc nhất của tôi đã biến mất
Tiên đoán bài hát này của tôi

Và bi giờ, ta trao nó cho mi
Để chọc quê, để báng bổ,
Sự im lặng của mi
Trước tình ta
Thật hết còn chịu nổi

Note: Dịch từ bản tiếng Anh, trong khi chờ, nếu HL có hứng thú, dịch lại từ nguyên tác.
NQT

Ha Le Bác Quoc Tru Nguyen chắc có quan tâm đến bài này...
Quoc Tru Nguyen Cám ơn
LikeReply1 hr
To Osip Mandelstam

How spicy is the scent carnations give,
The carnations I dreamed of at one time there;
There, where the circling Eurydices live,
Where Europa rides the bull, and where
Our shadows fleet across the river;
They cross the Neva, your reality,
Where city steps make the Neva shiver,-
This is your passport to immortality.
1940-1960

Anna Akhmatova
[Translated by Lyn Coffin]

Mùi cẩm chướng mới cay cay làm sao
Hoa cẩm chướng, tôi đã từng có lần mơ ước một lần nào, ở đó;
Ở đó, nơi Eurydice quanh quẩn sống
Nơi Europa cưỡi bò đực
Và, nơi
Bóng của chúng ta lướt dòng Neva;
Chúng vượt qua con sông, thực tại của anh,
Nơi những bước chân của thành phố làm anh rùng mình –
Đó là tấm giấy thông hành tới vĩnh cửu của anh

Note: GCC đọc mấy dòng chót của bài thơ, thì bèn nghĩ đến bài thơ dán trên tường phòng ông anh nhà thơ, nơi bàn viết, và cái câu thơ khủng khiếp, đi cùng với ông vô Trung Tâm Ba Nhập Ngũ:

Khi anh đi, anh đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết
TTT

Bài thơ, thằng em lén vô phòng chôm, bèn dán lên tường Tin Văn, lại bị chôm thêm 1 lần nữa, tếu thế!



Voronezh

for Osip Mandelstam

All the town's gripped in an icy fist.
Trees and walls and snow are set in glass.
I pick my timid way across the crystal.
Unsteadily the painted sledges pass.
Flocks of crows above St Peter's, wheeling.
The dome amongst the poplars, green and pale in
subdued and dusty winter sunlight, and
echoes of ancient battles that come stealing
out across the proud, victorious land.
All of a sudden, overhead, the poplars
rattle, like glasses ringing in a toast,
as if a thousand guests were raising tumblers
to celebrate the marriage of their host.
But in the exiled poet's hideaway
the muse and terror fight their endless fight
throughout the night.
So dark a night will never see the day.
(1936)
Anna Akhmatova
Peter Oram
[in The Penguin Book of Russian Poetry]

To Osip Mandelstam

Nothing's been taken away!
We're apart -I'm delighted by this!
Across the hundreds of miles
that divide us, I send you my kiss.

Our gifts, I know, are unequal.
For the first time my voice is still.
What, my young Derzhavin, do
You make of my doggerel?
   
For your terrible flight I baptize you -
young eagle, it's time to take wing!
You endured the sun without blinking,
but my gaze - that's a different thing!

None ever watched your departure
more tenderly than this
or more finally. Across hundreds
of summers, I send you my kiss.

MARINA TSVETAEVA
(1916)



Gửi Osip Mandelstam
Chẳng có gì bị lấy đi
Đôi ta mỗi người mỗi ngả - Em sướng điên lên vì chuyện này!
Qua ngàn dâu xanh biếc một màu, em gửi tới chàng 1 nụ hôn

Tài năng thiên bẩm của đôi ta, thì không đồng đều
Lần đầu tiên, tiếng nói của ta câm nín
Hỡi anh yêu, tên tuổi trẻ Derzhavin của ta ơi
Mi đã làm gì với những vần thơ tồi tệ của ta?

Dành cho chuyến đi khủng khiếp của mi
Tới đây, ta rửa tội cho –
Con chim ưng trẻ, tới giờ cất cánh
Hãy nhìn thẳng vào mặt trời, chịu đựng chuyến bay, không thèm nháy mắt
Nhưng cái nhìn ban phước lành của ta cho mi, thì lại là chuyện khác

Chẳng đứa khốn nào theo dõi mi lên đường
Dịu dàng như thế này
Sau chót như thế này
Qua ngàn ngàn mặt trời, ánh nắng, mùa hè
Ta gửi cho mi nụ hôn của ta

2

Một nhà thơ lớn của thời của bà, Tsvetaeva đã từng gặp; vào năm 1916, bà gặp Osip Mandelstam trẻ. Họ có 1 cuộc tình ngắn ngủi trong thời kỳ Nội Chiến.
Mandelstam thường xuyên thăm bà - bằng hoả xa từ St. Petersburg – mộ
t người bạn thân nói đùa, hay là anh ta là nhân viên hỏa xa.
Những năm sau đó, bà vợ góa của Mandelstam nhớ lại:

Tình bạn với Tsvetaeva theo tôi, đã ảnh hưởng lớn lên thơ của Mandelstam. Nó là cây cầu mà nhờ nó mà nhà thơ bước từ một giai đoạn của mình, qua 1 giai đoạn khác. Với những bài thơ với Tsvetaeva, bắt đầu cuốn thơ thứ nhì của anh, Tristia. Tập thơ đầu, Stone, là 1 tác phẩm câu thúc, thanh nhã, của nhà thơ của St. Petersburg. Tình bạn với Tsvetaeva cho anh, Moscow của bà, thoát ra khỏi lời nguyền của sự lịch lãm của St. Petersburg.
Đúng là 1 món quà thần kỳ, bởi là vì với chỉ Petersburg không thôi, không có Moscow, thì sẽ thiếu khí trời, thiếu sự tự do của h
ơi
thở trọn vẹn, đếch có tình tự thực, cảm nghĩ thực, về Nga xô, đếch có luôn lương tâm, ý thức…

15.

On August 2,1921 Nikolai Gumiliov, who was Akhmatova's husband and a prominent poet, was arrested and subsequently shot. On August 7, Alexander Blok, forty-one years old, died in a state of despair bordering on insanity. At the end of August, rumors circulated that Akhmatova had killed herself. (Mayakovsky organized a chain of friends to discover the truth and dispel rumors. In gratitude, Tsvetaeva dedicated a poem to him, calling him "heavy-footed archangel.") In early 1922, the great Futurist poet Velemir Khlebnikhov died. In 1922, the Communists ordered two hundred philosophers, scientists, and writers to board a ship. Subsequently called The Philosophers' Ship, it included every single prominent non-Marxist philosopher in Russia. All were sent into exile.
Marina Tsvetaeva left Russia in the spring of that year; she stepped off the train in Berlin on May 15, 1922.


Ngày 2 Tháng Tám, 1921, Nikolai Gumiliov, nhà thơ nổi tiếng, chồng Akhmatova, bị bắt và sau đó bị xử bắn. Ngày 7, Alexander Blok, 41 tuổi, chết trong trạng thái chán chường mấp mè bờ khùng điên. Cuối tháng Tám, có lời đồn Akhmatova tự tử (Mayakovsky cùng 1 số bạn hữu làm 1 cú kiểm tra, tin đồn vô căn cứ. Bằng 1 sự biết ơn, Tsvetavaeva bèn làm 1 bài thơ tặng "nhà thơ của người tù VC Bùi Ngọc Tấn", và ban cho chàng cái nick "Trùm Thần Chân Nặng"

Ai điếu Elie Wiesel



Applebaum cho rằng chỉ nhờ hai cuốn sách "Bóng Đêm giữa ban ngày", của Koestler, và "Trại Loài Vật" của Orwell, mà Âu Châu không bị nhuộm đỏ.
GCC tin rằng, nhờ những người gìn giữ hồi ức Lò Thiêu, đúng hơn.
Primo Levi rất ư là bực mình, khi bị lọc ra, là 1 kẻ sống sót Lò Thiêu.
Tại sao tôi?
Nhưng Elie Wiesel biết chắc, ông sống sót để kể về Lò Thiêu. để gìn giữ Hồi Ức của nó.
Cái chết của xứ Mít, chính là đúng
vào thời điểm Hồ được Cẩm Linh và Bắc Kinh để mắt tới, là vậy.

And why indeed had the townsfolk not asked more questions when, in 1942, Moishe was suddenly deported? Why had they not listened to his agonised cries of warning when he returned, weeping, knocking on doors? Why had they insisted, even when the town was divided into two ghettos by the Nazis, that they could live in this new world and treat it like a temporary vacation? Why, in 1944, had they never heard the word “Auschwitz”?

When, after a year, he was freed from the camps, he knew he had survived to tell the tale. He must sear the memory of the Holocaust on human minds for ever. In a world that preferred to blot it out, his motto had become Zachor! Remember! But for a full decade he asked: How? Even as a student of literature at the Sorbonne, even as a working journalist, how could he find the words? What phrases could do justice to inexpressible evil? What language could he write in, when language itself had been profaned by obscene meanings for “selection”, “concentration”, “transport”, “chimney” and “fire”?

Elie Wiesel n’écrira plus
Le lundi 4 juillet 2016

L’écrivain Elie Wiesel est décédé samedi deux juillet, à 87 ans. Il laisse une œuvre marquée par la mémoire de l’Holocauste rédigée en français, en anglais et en yiddish. 
L’horreur, Elie Wiesel l’aura connue dès ses 15 ans. Déportée de Roumanie, sa famille est séparée et envoyée dans les camps. Sa mère et sa sœur cadette périssent dans les chambres à gaz. Son père meurt sous ses yeux, en avril 1945 à Buchenwald, peu avant l’arrivée des soldats américains à leur camp de concentration. Ses deux autres sœurs survivent, mais il ne l’apprendra qu’à la fin du conflit. Le traumatisme est grand, mais il nourrit aussi la volonté du jeune homme de transmettre à tous ce qu’il a vécu.
À la fin de la Seconde guerre mondiale, Elie Wiesel est pris en charge par l’Organisation de secours aux enfants, en France. Il y découvrira le goût de la littérature, et celui sans doute, de transmettre le savoir par les mots. Porté par le futur éditeur du Seuil François Wahl, il découvre la philosophie à la Sorbonne, sans pour autant délaisser son héritage : sa religion est, et demeurera toute sa vie, son moteur. Journaliste apatride, il s’attelle cependant à écrire dans une de ses langues natales, le yiddish. Homme de lettres et de langues, il parle le français, l’anglais, le yiddish, l’allemand, ou encore le hongrois. Il emportera avec lui ce bagage culturel en Amérique, qui lui conférera une nationalité et une patrie.
Elie Wiesel entreprend son travail de mémoire dès la parution de son chef d’œuvre, La Nuit, publié chez les Editions de Minuit dix ans seulement après la fin de la guerre. Il publie ensuite les romans autobiographiques L’Aube en 1960 puis Le Jour en 1961 (éd. Seuil). Ce devoir qu’il s’est imposé l’a transformé en symbole politique. Il œuvre sous le gouvernement de Jimmy Carter afin d’organiser la création d’un mémorial de l’Holocauste, qui ne sera mis en place qu’en 1993. Ami de François Mitterrand pendant plus d’une dizaine d’années, il s’en séparera en apprenant ses liens avec René Bousquet, collaborateur du régime de Vichy. (1)
Enfin, on lui proposera en 2006 le poste de président d’Israël, qu’il refusera. Elie Wiesel rappelle avec ferveur son statut d’écrivain, ne se réconciliant avec la politique que lorsqu’elle concerne ses véritables idéaux. La communauté internationale le récompense avec le Prix Nobel de la Paix en 1986. Mais aussi en France avec la Grand-croix de la Légion d’honneur, en Amérique par la Médaille d’or du Congrès, ou encore en Grande-Bretagne, grâce à sa nomination en tant que Commandeur de l’ordre de l’Empire Britannique.
Il a fréquenté les grands de son époque, mais la littérature constituait pour lui l’essentiel. Elie Wiesel est l’auteur d’une cinquantaine de romans et d’essais, nourris par les souffrances de son passé, et la mémoire de la Shoah. Ses terribles souvenirs sont une peinture réaliste de l’Holocauste, adressés à tous ceux qui voudraient comprendre cette tragédie. Car pour l’écrivain, il n’y avait rien de plus important pour l’humanité que de ne pas se condamner à l’indifférence....

Amélie Cooper


(1)
Trước khi chết, tổng thống Pháp, Francois Mitterrand đã "chiến đấu với chính mình", để có được lời nói cuối, về việc ông đã tham gia trong chính phủ Vichy, trước khi gia nhập lực lượng kháng chiến. Việc ông cho tới năm 1986, là bạn thân của René Bousquet, một viên chức trong chính quyền Vichy theo Đức Quốc Xã, bị kết án năm 1989 về tội ác chống lại nhân loại, khi đẩy người Do-thái vào lò thiêu. Trong cuốn "Hồi Tưởng qua hai giọng nói" (Memory in two voices), với người đối thoại là Elie Wiesel - một nạn nhân sống sót tại lò thiêu người, Nobel Hòa Bình 1986 - khi nói ra những tội ác đó, ông chỉ làm một sửa soạn bất khả tri trước khi chết, một cái chết không có sự an ủi của một niềm tin. Tôi không biết tôi có "biết" không. Tôi không biết tôi có "không biết" không: điều không thể quy định một cách ngay thẳng, công bằng trong từ "niềm tin", ông nói. Và ông nói thêm, dẫn lời ghi trên bia mộ Willy Brand, cựu thủ tướng Tây Đức: "Tôi đã làm cái điều tôi có thể làm".

Happy Birthday to U, Richie

Tks All There
NQT

Once upon a sea
Tks All There
NQT

http://www.tanvien.net/Viet/Once_Upon_A_Sea.html

LHL là 1 độc giả trang Tin Văn, tình cờ gặp nó, khi lang thang trên net, tính tìm tài liệu về Camus.
Thay vì Camus, thì lại lôi về blog của cô, cái mẩu viết về cô bạn ngày nào của Gấu.
Cô phù dâu ngày nào.
Và, vì cái bài viết này, thay vì Camus, thì là Christian Bobin.
Bởi là vì ở cái nền của bài viết của Gấu, là Christian Bobin.
Cái câu “Chữ sao muộn màng...” là của C.B.
Cô trích dẫn 1 câu, cho cuốn sách nhỏ bé của cô, đúng câu mà khi còn sống, phụ trách trang văn học trên lưới e-VHNT, Phạm Chi Lan rất thích, và cũng lôi lên trang của cô:

Không phải người ta viết để trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu vắng của tất cả tình yêu.

Tuy nhiên, cuốn sách của cô, không về chuyện đó.
Nó là về gia đình nhỏ bé của cô. Như chính cô viết: Viết cho tình yêu, bố mẹ tôi….

Như thế, chắc còn 1 cuốn khác, có thể sẽ được viết ra, về “chữ sao muộn màng so với đời…", “viết không để trở thành nhà văn...”

Rất mong, và rất mừng, nhân sách ra mắt.

Trân trọng
NQT

Quoc Tru Nguyen's photo.
Comments
Thúy Hà Lê Cảm ơn bác Gấu và cô bạn phù dâu ạ!
Quoc Tru Nguyen You're welcome

My Old Saigon 


*

Once upon a sea
Tks All There
NQT


 En attendant SN

. tuổi thơ - mồ côi - nghèo khổ hiếm thấy trong văn chương ông? ông không nhớ? ông không màng? hay vì một điều gì khác? và tại sao lại như vậy?
DS

*

Cafe Chez Rendez-Vous Hanoi

No Childhood

And what was your childhood like? a weary
reporter asks near the end.
There was no childhood, only black crows
and tramcars starved for electricity,
fat priests in heavy chasubles
teachers with faces of bronze.
There was no childhood, just anticipation.
At night the maple leaves shone like phosphorus,
rain moistened the lips of dark singers

Adam Zagajewski

Tuổi thơ ư, No!

Và tuổi thơ của Ngài thì như là cái quái gì?
Một anh phóng viên báo chợ Cali
mệt mỏi hỏi GNV,
vào lúc gần tàn cuộc tán phét.
Làm đếch gì có tuổi thơ GNV, mà chỉ có 1 bầy quạ đen.
Và cái xe điện, chạy từ Bạch Mai, theo con phố Huế
đưa GNV tới trường Nguyễn Trãi,
nằm phiá bên trái, chưa tới Bờ Hồ,
nhưng vào thời kỳ đó, đói điện,
nằm vạ ở đầu khu Chợ Hôm.
Mấy ông thầy tu bụng bự,
áo thụng nặng chình chịch.
Mấy ông thầy giáo mặt lạnh như đồng.
Chẳng có tuổi thơ của GNV
mà chỉ có hoang tưởng về nó.
Đêm, những chiếc lá cây cơm nguội vàng,
sáng lên như lửa ma trơi.
Mưa ẩm môi mấy em ca sỡi mặt ám khói.
Source    
Kỷ niệm, kỷ niệm, DBP

Note: Tính đi 1 đường về Hà Nội của 1 thằng bé nhà quê Bắc Kít, thì gặp cái kỷ niệm này về nó.

« C’est à Hanoï, un an plus tôt, que je rencontre mon futur mari,
le capitaine d’infanterie  de marine Jean de Heaulmes. Il me demandera en mariage trois ans plus tard. Nous sommes toujours ensemble. »

Tks. NQT

Và cái này nữa:
Thúy Hà Lê
Thúy Hà Lê 12:47am Jul 6
Đọc xong cho em tí động viên ạ grin emoticon


Đành khất cái kinh nghiệm ấu thời những ngày ở Hà Nội.

LHL là 1 độc giả trang Tin Văn, tình cờ gặp nó, khi lang thang trên net, tính tìm tài liệu về Camus.
Thay vì Camus, thì lại lôi về blog của cô, cái mẩu viết về cô bạn ngày nào của Gấu.
Cô phù dâu ngày nào.
Và, vì cái bài viết này, thay vì Camus, thì là Christian Bobin.
Bởi là vì ở cái nền của bài viết của Gấu, là Christian Bobin.
Cái câu “Chữ sao muộn màng...” là của C.B.
Cô trích dẫn 1 câu, cho cuốn sách nhỏ bé của cô, đúng câu mà khi còn sống, phụ trách trang văn học trên lưới e-VHNT, Phạm Chi Lan rất thích, và cũng lôi lên trang của cô:

Không phải người ta viết để trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với tình yêu thiếu vắng của tất cả tình yêu.


Tuy nhiên, cuốn sách của cô, không về chuyện đó.
Nó là về gia đình nhỏ bé của cô. Như chính cô viết: Viết cho tình yêu, bố mẹ tôi….

Như thế, chắc còn 1 cuốn khác, có thể sẽ được viết ra, về “chữ sao muộn màng so với đời…",  “viết không để trở thành nhà văn...”

Rất mong, và rất mừng, nhân sách ra mắt.
Trân trọng
NQT

Thúy Hà Lê published a note.

Cầm Dương Xanh

Đâu con phố đơn côi,
như tên thường gọi,
nơi
gương cũ...

See More
Comments

V/v Bobin
GCC khám phá ra ông Tây này, qua cuốn L'Inespérée, thời gian mới qua Canada được ít lâu, tại 1 thư viện Toronto, khi tiếng Tây còn thịnh, ở thành phố này.
Cầm nó lên, đọc câu văn, là bài viết cô bạn kể như đã viết.
Cũng thế, là bài viết Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi, về NCK.
Cái tít này, nhớ là, thoạt đầu, "thơ ấu" hơn nhiều: Vầng Trăng Thơ Ấu.
GCC đổi lại. NCK hội ý Nguyễn Mộng Giác.
Ông chủ chi địa phán, thần sầu, đòi hỏi gì nữa!
Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi
http://tanvien.net/tg/tg_kham_chi.html

Và tôi cứ tưởng tượng ra cậu học trò ngày xưa, đã nói với cô giáo như thế này:

"Đó là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt em trong nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận viết về nó, như nó là: đen rợn người ở bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton rire comme un écolier dans la classe au mois d'aout, puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).

Đen một cách ghê rợn, phải chăng là những ngày dài, trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là vầng trăng thơ ấu mãi?

 NQT


Câu "chữ sao muộn màng", là ứng vào cuộc tình tay ba của Gấu & Gấu Cái & Cô Phù Dâu, trong có con thuyền Noé chở đủ khổ đau cho cả ba (1)
Câu về NCK, là về cuộc chiến.
Một câu, mà nói hết về cuộc chiến
Bắc Kít đào đâu ra được 1 vừng trăng thơ ấu mãi?
Rồi lại lếch thếch đem theo nó vô, mãi mã
i những cuộc tù?
Hà, hà!

(1)

PHỎNG VẤN DỞM

Phỏng vấn dởm. Phỏng vấn tưởng tượng. Nói chuyện với đầu gối. Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ [Thanh Tâm Tuyền]. Một Thế Giới Của Riêng Tôi, Nhật Ký Mơ, A World of My Own, A Dream Diary [Graham Greene]. Tôi Nhìn Tôi Trên Vách [Tuý Hồng]. Borges và “Borges”… “Chẳng lẽ Gấu mà không phải là… Gấu ư?”, mỗi một cái tên như thế, là một chút khác biệt.
Nhưng có lẽ, tới một lúc nào đó, đây là một cách nhìn lại. Theo kiểu mở ra Cuốn Sách Của Bạn Tôi, của Anatole France....

Continue Reading
1Song Nam Tang

-Gấu viết văn từ hồi nào?
Có lẽ nên đặt câu hỏi như thế này: Cái ý tưởng viết văn đó, nó đến với Gấu vào một lúc nào, hay vào những lúc nào.
Một trong những ao ước sau này mình sẽ viết văn, có lẽ đã xẩy ra, khi nghĩ rằng văn chương hơn toán học.

Hồi học trung học, Gấu nổi tiếng là giỏi toán. Nhà nghèo, may nhờ bà cô làm me Tây, nên Gấu được ra Hà Nội học. Ông Tây già, chồng bà cô là một kỹ sư sở Hoả Xa Đông Dương. Chính Ông Tây đã khám phá ra tài toán của Gấu, và có thể chính ông đã [ngầm] khuyến khích bà cô lo cho Gấu. Bởi vì khi Gấu vào Nam, học ở Sài Gòn, bà cô từ Pháp vẫn tiếp tục gửi tiền về cho thằng cháu.
Đam mê toán của Gấu lần đầu tiên bị khựng lại, và có thể, đam mê viết bắt đầu nhen nhúm, là như thế này:

Năm học Đệ Ngũ, Gấu có một người bạn là Ngô Khánh Lãng. Thân lắm. Lần đó, Gấu lần mò, tự mình tìm ra phương trình đường thẳng [y= ax+b], bèn chạy đi khoe với anh bạn Ngô Khánh Lãng. Anh coi, đưa mắt nhìn thằng bạn như tỏ vẻ thương hại, và trong khi Gấu đứng trố mắt mắt ra vì ngạc nhiên, tại làm sao thằng bạn mình nhìn mình như thế, anh vô trong nhà, lấy ra một cuốn sách đại số, lật đúng đoạn giải thích phương trình đường thẳng. Đọc, Gấu ngỡ ngàng. Cách giải ở trong sách ngắn, gọn, dễ hiểu, so với cách của Gấu.
Sau ngỡ ngàng, là thất vọng. Thất vọng như chưa từng biết thất vọng là gì. Những kẻ đến cái thế giới này muộn màng như Gấu, chẳng còn có cái gì để mà khám phá! Loài người khám phá sạch rồi!
Nhưng đó là về toán học, khoa học.
Mơ hồ, Gấu nhận ra, rằng cái nỗi thất vọng của Gấu đó, chỉ có Gấu mới diễn tả ra được. Không có ai “khám phá” giùm cho Gấu được. Chỉ có mỗi một Gấu. Và Gấu là độc nhất!
*

-Với mối tình lớn thứ nhì, văn chương, chắc chắn vĩ đại hơn cả mối tình đầu - là toán học đó - ông có gặp nỗi thất vọng nào không?
Có, và còn thê thảm hơn lần đầu nhiều!
-Thế hả? Kể cho nghe tí đi.
Cứ tạm gọi nó là nỗi thất vọng, hay kinh nghiệm: Bếp Lửa…

 TTT 10 years Tribute Thơ Mỗi Ngày

Đọc & Viết
Cảm nhận ca từ
http://m.daidoanket.vn/chuyen-de/cam-nhan-ca-tu/108434

Đọc bài viết này, thì bèn nhớ đến Ông Chánh Tổng An Nam ở Paris.
Người phán, Tình Nhớ thì liên can gì tới phản chiến?
Nếu thế, chắc gì Ơ Bai, là Bye Bye?
Và nếu như thế, thì "oanh kích" khác chó gì "pháo kích"?

Bạn nên nhớ 1 điều, đôi khi cái lời nhạo nhại lại đúng hơn lời của nguyên tác

Lời nhạc trong Tình Đất Đỏ:

Tổ quốc ơi ta yêu người mãi mãi
Từ trận thắng hôm nay, ta xây dựng bằng mười

Thời gian lao động cải tạo ở Đỗ Hòa
, Gấu nghe tù hát, đúng hơn, và đây mới là lời thực của nó:

Tổ quốc ơi. ăn khoai mì chán lắm
Từ trận thắng hôm nay, ta ăn độn dài dài
Có thể nói, rất nhiều nhạc đỏ, có lời nhại, đúng hơn lời thực.
Có vẻ như cuộc cách mạng thực sự, đang bắt đầu, từ đó?

Borges cũng đã từng gặp kinh nghiệm này. Ông đọc 1 tác phẩm, lần
đầu, qua bản dịch, sau đọc thẳng từ nguyên tác, thấy thua bản dịch.

Lời nhạc TCS với riêng GCC, quá thần sầu, và đôi khi thật khó mà giải thích. “Trời buồn gió cao” thì làm sao giải thích. “Trời buồn gió thấp” có được không?
Nhưng cái khủng khiếp của lời nhạc TCS là cái lúc, cái nơi, vào lúc nào bạn nghe nó lần đầu. GCC, khi đọc cuốn Đọc Lolita ở Teheran, thì bèn nhớ ra liền cái lần đọc cọp Bếp Lửa ở trên vỉa hè Sài Gòn.
Cũng thế, là với bản Tình Nhớ. Nghe lần đầu ở Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ.
Những thính giả nhạc Trịnh, bỏ chạy cuộc chiến, như lũ tinh anh Miền Nam, hay những thính giả sau này, nhất là lớp trẻ ở Miền Bắc, mù tịt về cuộc chiến, rồi lại bị nhà nước đầu độc bằng nền học vấn của hận thù, khó cả
m nhận nhạc TCS, theo GCC.
Họ thấm nhạc sến nhanh hơn. Đây là cái thiệt thòi của TCS. Nhạc của TCS, một phần nào đó, tiên đoán nỗi lòng của anh, 1 kẻ bại trận, ngay từ thoạt đầu, khi chối từ cuộc chiến, và cũng chẳng đủ can đảm nhảy lên rừng theo Vẹm.

 Đọc cọp Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn, thời 1950's

Trong một bài tạp ghi, tản mạn - được gọi hứng từ một bài điểm cuốn ‘Đọc Lolita tại Teheran’, trên phụ trang văn học của tờ Thời Báo Luân Đôn, TLS -  tôi có viết về hình ảnh của chính mình, khi đứng ngay trên vỉa hè Sài Gòn, đọc cọp cuốn Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, được ông chủ nhà xuất bản của nó, là Nguyễn Đình Vượng đem ra bán xon, lấy lại vốn, chắc là vì chẳng có ma nào đọc. Tôi còn nhớ cuốn sách bìa mầu vàng (1).
Tôi nói đọc cọp, là vì hồi đó, nghèo quá, không thể nào có tiền mua nhiều thứ, không cứ gì sách: một xa xỉ phẩm!
Hình như đó là lần đầu tôi biết đến cái tên Thanh Tâm Tuyền, tác giả cuốn Bếp Lửa.
Lần thứ nhì, là biết đến tờ Sáng Tạo của nhóm bạn bè của ông.

Cũng là qua một anh bạn cùng lớp Nguyễn Hải Hà, học cùng với nhau năm Đệ Nhị, tại trường Hồng Lạc, khi đó còn là một lớp học, trên đường Sương Nguyệt Anh, ở gần vườn Bờ Rô, ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập Tự.
Kỷ niệm lần đầu đọc Bếp Lửa trên vỉa hè Sài Gòn làm tôi liên tưởng tới một mẩu chuyện của nhà soạn nhạc lừng danh, thuộc dòng nhạc Thời Đại Mới, New Age, Yanni, người đã từng mang cả bộ sậu tới chơi tại Đền Thiêng Ấn Độ, và Tử Cấm Thành Bắc Kinh.
Và cũng có thể ngược lại: chính câu chuyện của Yanni làm tôi nhớ đến cái cảnh đứng như trời trồng, giữa vỉa hè Sài Gòn. ngấu nghiến đọc Bếp Lửa, đọc xong len lén đặt nó trở lại vỉa hè, rồi len lén bỏ đi, tránh cặp mắt chẳng có gì là hài lòng của người bán!

Ông Yanni này tâm sự với thính giả, qua một lần phỏng vấn trên TV, hình như vậy, là ông rất biết ơn ông bố của ông. Vào năm ông chín tuổi, biết ông con quá mê âm nhạc, và quá cần cây đàn piano, ông bố bèn đem cầm cố căn nhà, tài sản độc nhất mà ông có được, để mua cây đàn cho ông con.
Ông nói, mua chậm là hỏng. Năm đó, tôi rất cần cây đàn. Tất cả những gì gọi là mầm nhạc ở trong tôi, chúng đòi hỏi cây đàn. Để chậm một tí, là những mầm đó héo đi, sau đó có được cây đàn thì cũng cẩm như không!
Kinh nghiệm của tôi đọc cuốn Bếp Lửa cũng như vậy. Phải đọc đúng vào lúc đó [Lúc đó, là lúc nào, tôi sẽ xin nói rõ, sau này]. Từ nó, mà ra những anh em bà con họ hàng của nó, thí dụ như Buồn Nôn, Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, và nói rộng ra, cả thế giới văn chương.
Có lần, tui hùng dũng tuyên bố, tôi đọc những tác giả khác, thí dụ Thanh Tâm Tuyền, thí dụ Sartre, thí dụ Camus, là để hiểu tôi, cũng là theo ý nghĩa đó. Nói bạo hơn một chút: Những kỷ niệm của riêng Gấu tui, chỉ Gấu tui biết, tôi nhờ đọc họ, mới thấy ra được. Mới biết là mình có những kỷ niệm đó đó. Chúng thực sự ở trong tôi, nhưng tôi không thấy, không hề biết đến chúng. Nếu không có họ, như những mầm âm nhạc mà Yanni nói đó, chúng cứ thế mà khô héo đi, cùng với cuộc đời thường của mỗi con người thường…

Tôi lấy thí dụ, một lần đọc Salman Rushdie, ông kể lần trở về thành phố quê hương, Bombay, nhìn tấm hình căn nhà cũ, hình đen trắng, vẻ lem luốc tiều tụy của nó làm bật ra ở nơi ông giấc mộng lớn văn chương: Ta sẽ viết một cuốn sách thay thế cho tấm hình nghèo nàn dơ dáy kia. Cuốn sách của ta sẽ là một bức hình mầu Technicolor về thành phố Bombay.
Đọc tới đây, đột nhiên Gấu nhớ ra kỷ niệm về cây viết chì xanh đỏ lần đầu tiên có trong đời.
Cây viết chì đó thực sự không phải của Gấu, mà của một ông cậu, em bà cụ thân sinh ra Gấu. Cậu Cầu. Con Bà Ba, tức vợ thứ ba của Ông Ngoại Gấu.
Nhà Gấu nghèo, bố mất sớm vì tai họa đảng phái ngay năm 1945, bà cụ phải đem mấy đứa con ăn chực nơi bà con, mỗi người è cổ chịu một đứa. Gấu được Ông Ngoại, sau khi Bà Ba gật đầu, nuôi, một phần là để ba cậu con của Bà Ba có người hầu.
Trong số ba cậu, Cậu Cầu là người thương Gấu nhiều nhất.
Lần đó, Bà Ba đi Hà Nội, khi về mua khá nhiều quà cho ba cậu con, trong có cây viết chì đầu xanh đầu đỏ. Cậu Cầu đưa cho thằng cháu chơi một tí. Thấy thằng cháu mê quá, không muốn trả, ông tặc lưỡi, thôi cho mày, nhưng giấu thật kỹ nhé, thằng mắt lác!
Chả là Gấu vừa lùn lại vừa lé [lác].

Có thể nói, giống như Rushdie, Gấu viết văn bằng cây viết chì xanh xanh đỏ đỏ mà ông cậu cho, vào lúc chín, hay muời tuổi…
NQT
(1) Cuốn Bếp Lửa sau đó, được tái bản mấy lần. Lần sau cùng là vào năm 1974, nhà xuất bản Kẻ Sĩ do nhà thơ Tô Thuỳ Yên chủ trương.
Lạ một điều, hành động trên của Nguyễn Đình Vượng như tiên đoán ra được số phận của cuốn Bếp Lửa, phải tái sinh từ những tro than của vỉa hè Sài Gòn, cũng như số phận của cả một nền văn học trước miền nam, tái sinh từ những tro than của cuộc phần thư 1975.

My Old Saigon 







Note:
Trang Tin Văn sẽ cập nhật như thường lệ, sau những ngày bị troubles
NQT

kính chào tái ngộ

Today, [Monday Mar 2] at 8:57 AM

Mừng gặp lại nhà văn.

Thấy trang nhà Tin Văn cập nhật, sung sướng được thấy chờ đợi được đền bù.
Vội gửi mấy lời chúc tết muộn: sức khoẻ, bình an, mọi sự như ý.
Kính,

Độc giả TV

Đa tạ,

NQT


Anh Gau sao ma phai chong gay rua? Hinh moi hay cu ? Chuc mau lanh de con ra pho mua sach. O. khoe khong ? K

Bác bị gì vậy mà tay trái coi bộ cũng rung rinh vậy, nhưng về lại Canada là yên tâm rồi.
Dạo này chẳng đọc báo gì nhiều, cái đầu nó bão hòa rồi nhưng đọc trang của bác thì khi nào cũng có chuyện mới để học!
O. cũng vậy vậy thôi K, năm nay Montréal lạnh nhiều nên oải lắm.
Mong mọi người khỏe luôn nghe.

O

Re: Cái tay
Không sao hết. Cái chân thì chưa biết sao. Tính đi gặp bác sĩ nhưng sợ tuyết quá. Nằm nhà vài ngày coi sao.
Tks
NQT

/TG_TP/witness_shoah.html

Một bài Top Ten, đầu tháng

WATCHING SHOAH IN A
HOTEL ROOM IN AMERICA

There are nights as soft as fur on a foal
but we prefer chess or card playing. Here,
some hotel guests sing "Happy Birthday"
as the one-eyed TV nonchalantly shuffles its images.
The trees of my childhood have crossed an ocean
to greet me coolly from the screen.
Polish peasants engage with a Jesuitical zest
in theological disputes: only the Jews are silent,
exhausted by their long dying.
The rivers of the voyages of my youth flow
cautiously over the distant, unfamiliar continent.
Hay wagons haul not hay, but hair,
their axles squeaking under the feathery weight.
We are innocent, the pines claim.
The SS officers are haggard and old,
doctors struggle to save them their hearts, lives, consciences.
It's late, the insinuations of drowsiness have me.
I'd sleep but my neighbors
choir "Happy Birthday" still louder:
louder than the dying Jews.
Huge trucks transport stars from the firmament,
gloomy trains go by in the rain.
I am innocent, Mozart repents;
only the aspen, as usual, trembles,
prepared to confess all its crimes.
The Czech Jews sing the national anthem: "Where is my home ... "
There is no home, houses burn, the cold gas whistles within.
I grow more and more innocent, sleepy.
The TV reassures me: both of us
are beyond suspicion.
The birthday is noisier.
The shoes of Auschwitz, in pyramids
high as the sky, groan faintly:
Alas, we outlived mankind, now
let us sleep, sleep:
we have nowhere to go.
 

Coi phim Shoah
tại một phòng khách sạn ở Mẽo

 
Ðêm mượt như lông ngựa non
Nhưng chúng ta thích chơi cờ, chơi bài. Ở đây,
một vài vị khách hát “Chúc Mừng Sinh Nhật”
trong khi chiếc TV một mắt chán chường xào đi xào lại mớ hình ảnh của nó.
Những cây cối từ thuở còn con nít của tôi vượt qua một đại dương để chào đón tôi từ màn hình.
Mấy người nhà quê Ba Lan hăm hở bàn về
có Ông Giời hay không có Ông Giời,
trong khi đám Do Thái thì lại câm lặng, mệt nhoài, hết hơi, do cái chết dài của họ.
Những con sông của những chuyến du ngoạn của thời trẻ của tôi chảy
một cách thận trọng qua đại lục xa vời, không thân quen.
Những toa tầu chở cỏ khô, không, không phải cỏ khô mà là tóc,
Những cái trục của nó thì kêu ken két do chở nặng quá.
Chúng tôi thì vô tội, những cây thông kèo nài.
Những tên SS thì hốc hác, và già,
Những vị y sĩ chiến đấu cố cứu tim, gan, và luơng tâm cho họ.
Khuya rồi, cơn buồn ngủ thấm vào tôi
Tôi tính chơi một giấc nhưng mấy ông hàng xóm
vẫn ong ỏng, “Chúc Mừng Sinh Nhật”:
Họ la lớn còn hơn cả mấy người Do Thái đang chết.
Những xe tải thật bự chuyên chở những ngôi sao, từ bầu trời
Những chuyến xe lửa ảm đạm đi trong mưa
Tôi thì vô tội, Mozart ăn năn;
Chỉ cây dương, như thường lệ, run rẩy,
sửa soạn thú mọi tội lỗi của nó.
Ðám Do Thái Czech hát quốc ca: “Nhà tôi đâu…”
Làm gì có nhà; nhà cháy rồi, quyện trong lửa có tiếng huýt của hơi ga lạnh
Tôi mỗi lúc một thêm vô tội, và buồn ngủ.
Cái TV trấn an tôi: Ta và mi thì đều quá cả sự nghi ngờ.
Sinh nhật ồn, ồn quá.
Những chiếc giầy của Lò Thiêu, chất thành kim tự tháp, cao như bầu trời, rên rỉ nhè nhẹ:
Than ôi, chúng ta thì sống dai hơn cả nhân loại, bây giờ, hãy để cho chúng ta ngủ, ngủ;
Chúng ta chẳng có nơi nào để mà đi 

Adam Zagajewski: Without End
http://www.tanvien.net/Al_1/Berlin_Wall.html

*

Bức Tường Lòng của Mít, "chỉ" bắt đầu được dựng lên, kể từ 30 Tháng Tư 1975.

*
Quoc Tru Nguyen's photo.

Chúng mày còn cái đéo gì nữa mà bàn giao?
Ngày mà Gorbatchev phán:
"Đừng có trông mong vào chiến xa của chúng ta".
Tại làm sao mà mấy chục năm trước đó, chiến xa Liên Xô dẫm nát cuộc cách mạng Prague, 1968, mà 1989, không?
Bí mật này đang được lịch sử khui ra, cũng như bí mật về một cuộc giải phóng biến thành một cuộc ăn cướp!
BT ôm hôn thắm thiết DVM!
Xong, quay lại, kêu Đại Uý VC Phạm Xuân Thệ, tay lăm lăm khẩu súng:
-Đưa nó đi khuất mắt ta!
*
Gorbatchev vĩ đại vì đã ngửi ra hướng đi của lịch sử.
BT vĩ đại, vì đã "nói thật" về cuộc chiến:
Chúng mày còn cái đéo gì nữa mà bàn giao?
Hà, hà!

Quoc Tru Nguyen's photo.



Viết

&

&


ON THE TERRACE

The lonely breakfast table starts the day,
an adjustment is made to understand
why the other chair is empty. The morning
beautiful and still to be, should woo me. Yet
the appetite is not shared, lost somewhere in memory.
How lucky the horizon is blue and needs
no handwriting on its emptiness. I am
written on thoroughly, a lost novel
found again. I remember the predictable plot too late,
realize the silly, sad urgency of moss.

-Landis Everson

Trên sân thượng

“Cớ sao tôi xanh, tôi sầu và tôi đen thế này?”.

TTT (1)

Bữa ăn sáng mình ên bắt đầu, ngày
Một cú điều chỉnh được thực hiện để giải thích
Tại làm sao lại có cái ghế đếch có ai thèm ngồi, kia, hà, hà!
Buổi sáng mới đẹp làm sao, biết đâu, nhờ em vắng mặt, đó?
Thì nó vưỡn đẹp như thế mà,
Và có vẻ như nó đang thèm tán tỉnh anh, thay vì em!
Tuy nhiên, mất mẹ cái khẩu vị, đâu đó, trong hồi nhớ
Cái khẩu vị thì làm sao mà chia sẻ?
Em thì thèm mì quảng, thí dụ, còn anh, một tô bún ốc, vưỡn thí dụ
May mắn làm sao, trời thì xanh, và đếch cần chữ viết tay của em trên cái trống rỗng của nó
Cuộc đời GCC được viết trọn ra, một cuốn tiểu thuyết đã mất đi nay tìm lại được
GCC nhớ ra cái tình huống/tình tiết/cốt truyện của nó, quá muộn
Và nhận ra sự khẩn thiết dại khờ, ngớ ngẩn, buồn ơi là buồn của
Rêu xanh
Phủ trọn lên cuộc tình ngắn ngủi của đôi ta

[Bài thơ này dịch nhảm, trong lúc nhớ em của GCC]

Số báo này, chắc là mang từ Canada về, trong 1 chuyến trước, khi chưa mê thơ. Đã từng giới thiệu bài viết về Fallaci trên TV. Lần này, chở củi về rừng, hay đúng hơn, chỉ vì bài thơ, và cái truyện ngắn Tình Cho Thuê, Love For Rent, hay đúng hơn, một chuyện riêng, tức 1 thứ tự truyện, personal history, a love story.

Đọc loáng thoáng, vớ được 1 câu thần sầu. Nó giải thích cú mặc khải của GCC khi lần đầu gặp BHD, như ghi lại trong Chuyện Của Gấu, hay đúng hơn, nó giải thích “thánh ngôn” của em, khi bye bye Gấu, mi đâu có thương ta, mi thương 1 đứa con nít…. GCC post lại cả 1 mẩu trong có câu thần sầu, yêu là nhớ nhà: 


Many years ago, when I was in analysis, my therapist used to say, "Love is homesickness:" What she meant was that you tend to fall in love with someone who reminds you of one of your parents. This, of course, is one of those things that analysts always say, even though it isn't really true. Just about anyone on the planet is capable of reminding you of something about one of your parents, even if it's only a dimple. But I don't mean to digress. The point I want to make is that love mayor may not be homesickness, but homesickness is definitely love.
 

Chuyện Của Gấu. 

Gấu, Bắc Kỳ 54. Rời Hà Nội khi vừa mới biết yêu cái cột đèn, cái ngã tư, tiếng còi mười giờ chạy trên thành phố... Vào Nam, Gấu nhớ tiếng còi, nhớ cái tháp rùa đến ngơ ngẩn mụ cả người, bèn tự nhủ thầm, phải kiếm cho được một cô bé Hà Nội...
Cô là em của một người bạn học. Ông anh vợ hụt học dưới Gấu một lớp. Quen qua một người bạn, tên Uyển, hồi ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận.

Kỷ niệm lần đầu tới nhà cô bé, nghĩ lại thấy thật buồn cười.
Ông anh cô khi đó đang học Đệ Tam, ban toán, và ông đã ra câu đố: muốn gặp em tao thì phải giải cho được bài toán hình học này. Chẳng hiểu ông thực tình bí, hay là muốn thử tài, theo kiểu: mày có đủ sức chinh phục con em tao hay không? Hồi đi học, Gấu vốn nổi tiếng là một cây toán. Cô em cũng dân toán, sau học y khoa. 

Lên đại học, ghi danh chứng chỉ Toán Đại Cương; tới kỳ thi, không hiểu bài toán muốn gì, Gấu nộp giấy trắng ra về!
Nhà nghèo, Gấu chỉ đủ tiền mua cours của giáo sư Monavon, mà không hề làm một bài tập nào. 

Ôi, giấc mộng đã tan mà sao ảo tưởng vẫn còn! 

Khi Gấu quen, cô bé mới mười một tuổi, chưa có núm cau. Chưa có gì, chỉ có một nỗi buồn Hà Nội, ở trong đôi mắt thăm thẳm.
Như lạnh lùng tra hỏi: anh yêu tôi hay là anh yêu Hà Nội?
Vừa ra ý ỡm ờ: anh yêu tôi, vì tôi độc?
Và đẹp? 

Nhà cô bé giầu, Gấu sững sờ tự hỏi, tại sao lại có nỗi buồn như thế ở trong cô bé mới mười một tuổi?
Sau này thân rồi, cô tâm sự: đi học, H. chỉ có mỗi một cái áo dài trắng độc nhất. Có lần, H. nghe mấy con bạn nói đằng sau lưng: con nhỏ này nó làm bộ nghèo...
Lần cuối cùng gặp cô bé, khi mối tình đã tan vỡ. Cô lúc này coi Gấu như một người thân, nói: H. mới đi chợ cho mẹ, lỡ tiêu quá một chút, anh đưa H. để bù vô. H. rất ghét phải giải thích...

Em gái của cô, mỗi lần thấy bố vô phòng, là bỏ ra ngoài. 

Lần cuối cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi với anh Gấu." 

Bạn bè, cô, và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi. 

Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu. 

Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm về một cô gái

Hà Nội,
độc,

đẹp...

Độc, là chuyện sau này, do Gấu tưởng tượng ra, khi đi tìm một cái tên, cho một cuộc chiến. 

Sự thực, những kỷ niệm về một miền đất, về một thành phố, và về cô bé, chúng thật đẹp.

*******

Nhiều năm trước đây, khi tôi đang điều trị 1 cas bịnh, cái em chữa trị cho tôi thường lèm bèm, “Yêu tức là nhớ nhà”.

Ý em muốn nói, mỗi khi bạn tính yêu ai đó, ấy là vì, ai đó đó làm bạn nhớ ông via, hay bà via của bạn. 

Ui chao, chuyện nọ xọ chuyện kia, GCC bèn nhớ đến Nguyễn Mai, 1 đấng văn sĩ Xề Gòn ngày nào. Anh có cái tật, mỗi lần yêu em nào tới chỉ, là khóc như cha chết, và thay vì “em iêu ừ em iêu”, thì bèn cứ “mẹ ơi, mẹ ơi”!

*


*

Trở về Canada lần này, GCC có cái hân hạnh ngồi xe lăn, ở phi trường Seoul và Toronto rồi!

*


Bolano viết, trong cả triệu thằng chưa chắc đã có thằng cụt cẳng như Captain Ahab, trong khi bất cứ ai cũng có thể là Huck.

Quả thế thật!
Coi hình thì biết!

Hà, hà!

Đọc & viết


*

Semyon Lipkin (I911-2003)

Born in Odessa, Semyon Israilievich Lipkin moved to Moscow in 1929. Unable from 1934 to publish his own work, he turned to translating, mainly from Persian and the Turkic languages of Central Asia. His first collection of his own poetry appeared only in 1967. He also wrote a novel about Stalin's deportation of the Chechens, and a memoir of Vasily Grossman. It was Lipkin who initiated the process that led to the text of Grossman’s Life and Fate being smuggled out to the West.

By the Sea

The waves crashed under the flicker of the lighthouse
and I, in my ignorance, heard a monotone.
Years later the sea speaks to me and I begin to understand
there are birds and laundresses, sprites and sorcerers,
laments and curses, moans and profanity, white horses
and half breeds who rear up unexpectedly.
There are waves who are salesgirls with buxom hips
who sell foam from the counter, they tremble fluent or airy.
Nature can't be indifferent, she always mimics us
like a loan, a translation; we're the blueprint, she's the copy.
Once upon a time the pebble was different
and so the wave was different.
(1965)
Yvonne Green
*
He who gave the wind its weight,
and gave measure to the water,
pointed lightning on its path,

and showed rain what rules to follow -
he once told me with quiet joy:

'No one's ever going to kill you:
How can dust be broken down?
Who has power to ruin beggars?'

(1981)
Robert Chandler


Nhờ Lipkin mà Tây Phương được đọc tuyệt tác Đời và Số Phận của Vasily Grossman



*

Bác đọc quyển này chưa – 832 trang, bây giờ bán ở format de poche rồi. Bác cốp theo kiểu này viết đi, lồng trong chế độ là cảnh đời của người dân. Bác có trí nhớ phi thường, bác không viết thì ai mà viết được.

Tks
NQT

*

"Mort de l'esclave et réssurection de l'homme libre".

Dans ce roman-fresque, composé dans les années 1950, à la façon de Guerre et paix, Vassili Grossman (1905-1964) fait revivre l'URSS en guerre à travers le destin d'une famille, dont les membres nous amènent tour à tour dans Stalingrad assiégée, dans les laboratoires de recherche scientifique, dans la vie ordinaire du peuple russe, et jusqu'à Treblinka sur les pas de l'Armée rouge. Au-delà de ces destins souvent tragiques, il s'interroge sur la terrifiante convergence des systèmes nazi et communiste alors même qu'ils s'affrontent sans merci. Radicalement iconoclaste en son temps - le manuscrit fut confisqué par le KGB, tandis qu'une copie parvenait clandestinement en Occident -, ce livre pose sur l'histoire du XXe siècle une question que philosophes et historiens n'ont cessé d'explorer depuis lors. Il le fait sous la forme d'une grande œuvre littéraire, imprégnée de vie et d'humanité, qui transcende le documentaire et la polémique pour atteindre à une vision puissante, métaphysique, de la lutte éternelle du bien contre le mal.

Destin de Grossman

    Vie et destin est l'un des chefs-d'oeuvre du XXème siècle. On n'en lisait pourtant qu'une version incomplète depuis que les manuscrits avaient été arrachés au KGB et à la censure. Celle que Bouquins propose désormais est la première intégrale. Elle a été révisée à partir de l'édition russe qui fait désormais autorité, celle de 2005, et traduite comme la précédente par Alexis Berelowitch et Anne Coldefy-Faucard. Raison de plus pour se le procurer. Ce volume sobrement intitulé Oeuvres (1152 pages, 30 euros) contient également une dizaine de nouvelles, le roman Tout passe, texte testamentaire qui dresse notamment le portrait d'une série de Judas, et divers documents dont une lettre à Kroutchtchev. Mais Vie et destin, roman dédié à sa mère par un narrateur qui s'adresse constamment à elle, demeurera l'oeuvre qui éclipse toutes les autres. La bataille de Stalingrad est un morceau d'anthologie, et, au-delà de sa signfication idéologique, la manière dont l'auteur passe subrepticement dans la ville de l'évocation du camp nazi au goulag soviétique est un modèle d'écriture. Toute une oeuvre parue à titre posthume.
    Dans son éclairante préface, Tzvetan Todorov résume en quelques lignes "l'énigme" de
Vassili Grossman (1905-1964) :

" Comment se fait-il qu'il soit le seul écrivain soviétique connu à avoir subi une conversion radicale, passant de la soumission à la révolte, de l'aveuglement à la lucidité ? Le seul à avoir été, d'abord, un serviteur orthodoxe et apeuré du régime, et à avoir osé, dans un deuxième temps, affronter le problème de l'Etat totalitaire dans toutes son ampleur ?"
On songe bien sûr à Pasternak et Soljenitsyne. Mais le préfacier, anticipant la réaction du lecteur, récuse aussitôt les comparaisons au motif que le premier était alors un écrivain de premier plan et que la mise à nu du phénomène totalitaire n'était pas au coeur de son Docteur Jivago ; ce qui n'est évidemment pas le cas du second avec Une Journée d'Ivan Denissovitch, à ceci près rappelle Todorov, qu'étant un inconnu dans le milieu littéraire, il n'avait rien à perdre. La métamorphose de Grossman est donc un cas d'école unique en son genre :"mort de l'esclave et réssurection de l'homme libre".

Bảnh hơn Pasternak, bảnh hơn cả Solzhenitsyn, Tzvetan Todorov, trong lời tựa, thổi Đời & Số Mệnh của Grossman: Cái chết của tên nô lệ và sự tái sinh của con người tự do.
Tờ Obs, số đặc biệt về những tuyệt tác của văn học, kể ra hai cuốn cùng dòng, là Gulag của Solz, 1 cuốn sách lật đổ 1 đế quốc, và Vie & Destin của Grossman: Trái bom chống toàn trị.
TV sẽ giới thiệu bài phỏng vấn Ovivier Rolin, trên tờ Obs.

http://www.economist.com/news/books-and-arts/21701103-why-even-poets-hate-poetry-war-words

Why even poets hate poetry

The Hatred of Poetry. By Ben Lerner. Farrar, Straus & Giroux; 86 pages; $12. Fitzcarraldo; £9.99.

POETRY has always occupied an ambivalent space in society. In the ancient world Plato banned poets from his ideal republic; today they have to navigate the “embarrassment or suspicion or anger” that follows when they admit to their profession in public. Ben Lerner understands this hatred: as a poet he has been on the receiving end of it, but also, more interestingly, he has felt it himself.

Long before he published his two acclaimed novels, “Leaving the Atocha Station” and “10:04”, Mr Lerner was known as a poet. Yet the biographical details that are woven into this short and spirited discussion suggest an uneasy relationship with the form. As a boy, charged with learning a poem, Mr Lerner tried to game the system by asking his librarian which was the shortest; later in life he confesses that he has never heard what Sir Philip Sidney described as “the planet-like music of poetry”, nor experienced the “trance-like state” widely said by critics to be induced by John Keats (“I’ve never seen any critic in a trance-like state,” he adds, not unfairly.)

Yet Mr Lerner does not see all this as a problem; indeed, he believes it to be central to the art form. Poets and non-poets alike hate poetry, he argues, because poetry will always fail to deliver on the transcendental demands people have invested in it. As a result they enjoy pronouncing upon the abstract powers and possibilities of poetry more than they actually like to sit down and read it. As Keats wrote in “Ode on a Grecian Urn”, “Heard melodies are sweet, but those unheard/Are sweeter.” Mr Lerner takes his cue from Keats, but is a little more frank when he describes “the fatal problem with poetry: poems”.

This inevitable sense of falling short is expressed in some of the best poetry ever written, he says, and he elaborates his point with energised discussions of Keats, Walt Whitman and Emily Dickinson. But it is also inadvertently present in some of the worst poetry ever written. “Alas! I am very sorry to say/That 90 lives have been taken away”, wrote William Topaz McGonagall, a Scottish poet, in a notoriously underwhelming response to the Tay Bridge disaster of 1879. “When called upon to memorialise a faulty bridge, McGonagall constructs another,” writes Mr Lerner, as he dissects McGonagall’s swirling metrical confusion with poetically informed glee across a number of pages.

But McGonagall’s literary ineptitude is well known, and Mr Lerner’s essay becomes most interesting when he ventures into more contemporary territory, attacking with polemic zeal what he sees as confused critical assaults on modern poetry: the belief in a “vague past the nostalgists can never quite pinpoint” when poetry could still unite everyone, or in a “capacity to transcend history” that often seems to rely on its poetic purveyors being “white men of a certain class”. The hatred of poetry, Mr Lerner shows, can suddenly and revealingly become a vehicle for bitter politics. Yet he also sees communal redemption in the strange bond people have with this ancient art form: if we constantly think poetry is an embarrassing failure, then that means that we still, somewhere, have faith that it can succeed.

http://tanvien.net/new_daily_poetry/9.html

MIRRORS AT 4 A.M.

You must come to them sideways
In rooms webbed in shadow,
Sneak a view of their emptiness
Without them catching
A glimpse of you in return.

The secret is,
Even the empty bed is a burden to them,
A pretense.
They are more themselves keeping
The company of a blank wall,
The company of time and eternity

Which, begging your pardon,
Cast no image
As they admire themselves in the mirror,
While you stand to the side
Pulling a hanky out
To wipe your brow surreptitiously.

Charles Simic: Sixty Poems

Gương, 4 giờ sáng

Bạn phải rón rén, me mé, tới đó (1)
Những căn phòng, đầy mạng nhện, trong bóng tối.
Lén nhìn 1 cú, cái vẻ trống trơn của chúng
Đừng để chúng lén "đợp" lại bạn
Cũng 1 cú! 

Niềm bí ẩn là,
Ngay cả cái giường trống trơn
Thì cũng là 1 gánh nặng cho chúng.
Một cái cớ.
Chúng thấy bình yên hơn
Cảm thấy chúng là chúng hơn
Khi có bạn quí cận kề
Là bức tường trần trụi
Là thời gian
Là vĩnh cửu 

Những thứ đó, xin lỗi bạn
Chúng đếch để bóng của chúng
Trên mặt gương
Khi chúng tự sướng 

Trong lúc bạn đứng né qua 1 bên
Rút chiếc khăn tay
Kín đáo lau lông mày

1.      with one side faced forward

<I had to walk sideways to get between the two towering piles of boxes>

Synonyms broadside, crabwise, edgeways [chiefly British] [net]

Chữ này - sideways - của tiếng anh hay quá, tiếng việt không có từ tương đương . Nó vừa có nghĩa là không đi thẳng đến trước mặt, chỉ đi bên mé, bên rìa, hoặc đi bằng ngõ vòng vo, lại vừa có nghĩa len lén .

K

Note: B
ài thơ này, mới
thấy trên Gió-O.
Nhớ là, không làm sao dịch được từ "sideways", bèn cầu cứu K.
Tks again.

Bản của Lý Ốc, theo Gấu, dịch ẩu quá, "as always": "to them" sao mà là "đến bên cạnh chúng";  nếu đã
"lén" lau chân mày, thì cắt bỏ "một cách kín đáo"!

Thảo nào, ngay cả thi sĩ mà cũng thù ghét thơ!
Why?

Poets and non-poets alike hate poetry, he argues, because poetry will always fail to deliver on the transcendental demands people have invested in it. As a result they enjoy pronouncing upon the abstract powers and possibilities of poetry more than they actually like to sit down and read it. As Keats wrote in “Ode on a Grecian Urn”, “Heard melodies are sweet, but those unheard/Are sweeter.” Mr Lerner takes his cue from Keats, but is a little more frank when he describes “the fatal problem with poetry: poems”.
Đọc thơ tán gái/thơ ngồi bên ly cà phê nhớ bạn hiền thì thật là ngọt ngào/ Nhưng đếch đọc chúng, ngọt hơn nhiều!
Thơ luôn thất bại, không đáp trả những đòi hỏi siêu thoát mà người đọc đầu tư vào nó
Cái vấn nạn tàn khốc của thơ, chính là: những bài
thơ!

http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBRTamGuongDich.htm

Những Tấm Gương Lúc 4 AM

Em hãy đi nép đến bên cạnh chúng
Những căn phòng trong in bóng sọc giăng,
Len lén nhìn vào cõi không gian trống trơn
Đừng để chúng bắt dính
Một ánh liếc nhìn của em dội lại.

Bí mật là,
Ngay cả chiếc giuờng trống cũng mang gánh nặng,
Một sự giả vờ.
Chúng vẫn còn đang tự gắn liền
Sự kết liên với bức tường phẳng tắp,
Mối thân quen cùng với thời gian và muôn năm
Mà, xin em,
y lánh mặt
Khi chúng tự ái mộ mình trong gương;

Trong khi em đứng nép bên cạnh
Lấy ra chiếc khăn tay
Em lén lau nét chân mày một cách kín đáo.


*

Trăng ơi thơ ấu mãi


Note: Bài viết này, về tập truyện ngắn của 1 bạn văn - có thể là do 1 đấng phi công VC vừa đi xa, lại được 1 bạn văn khác, NND, trích & post một mẩu trên FB - khiến thiên hạ xôn xao.
Nay post lại toàn thể.
Nó liên can đến 1 cô bé, và Hà Nội của cô bé đó, cả hai thì đều đã mất
.


Hà Nội Của Gấu

Gấu, Bắc Kỳ 54. Rời Hà Nội khi vừa mới biết yêu cái cột đèn, cái ngã tư, tiếng còi mười giờ chạy trên thành phố... Vào Nam, Gấu nhớ tiếng còi, nhớ cái tháp rùa đến ngơ ngẩn mụ cả người, bèn tự nhủ thầm, phải kiếm cho được một cô bé Hà Nội...
Cô là em của một người bạn học. Ông anh vợ hụt học dưới Gấu một lớp. Quen qua một người bạn, tên Uyển, hồi ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận.

Kỷ niệm lần đầu tới nhà cô bé, nghĩ lại thấy thật buồn cười.
Ông anh cô khi đó đang học Đệ Tam, ban toán, và ông đã ra câu đố: muốn gặp em tao thì phải giải cho được bài toán hình học này. Chẳng hiểu ông thực tình bí, hay là muốn thử tài, theo kiểu: mày có đủ sức chinh phục con em tao hay không? Hồi đi học, Gấu vốn nổi tiếng là một cây toán. Cô em cũng dân toán, sau học y khoa.

Lên đại học, ghi danh chứng chỉ Toán Đại Cương; tới kỳ thi, không hiểu bài toán muốn gì, Gấu nộp giấy trắng ra về!
Nhà nghèo, Gấu chỉ đủ tiền mua cours của giáo sư Monavon, mà không hề làm một bài tập nào.

Ôi, giấc mộng đã tan mà sao ảo tưởng vẫn còn!

Khi Gấu quen, cô bé mới mười một tuổi, chưa có núm cau. Chưa có gì, chỉ có một nỗi buồn Hà Nội, ở trong đôi mắt thăm thẳm.
Như lạnh lùng tra hỏi: anh yêu tôi hay là anh yêu Hà Nội?
Vừa ra ý ỡm ờ: anh yêu tôi, vì tôi độc?
Và đẹp?

Nhà cô bé giầu, Gấu sững sờ tự hỏi, tại sao lại có nỗi buồn như thế ở trong cô bé mới mười một tuổi?
Sau này thân rồi, cô tâm sự: đi học, H. chỉ có mỗi một cái áo dài trắng độc nhất. Có lần, H. nghe mấy con bạn nói đằng sau lưng: con nhỏ này nó làm bộ nghèo...

Lần cuối cùng gặp cô bé, khi mối tình đã tan vỡ. Cô lúc này coi Gấu như một người thân, nói: H. mới đi chợ cho mẹ, lỡ tiêu quá một chút, anh đưa H. để bù vô. H. rất ghét phải giải thích...
Em gái của cô, mỗi lần thấy bố vô phòng, là bỏ ra ngoài.

Lần cuối cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi với anh Gấu."

Bạn bè, cô, và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.

Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.

Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm về một cô gái
Hà Nội,
độc,

đẹp...
Độc, là chuyện sau này, do Gấu tưởng tượng ra, khi đi tìm một cái tên, cho một cuộc chiến.

Sự thực, những kỷ niệm về một miền đất, về một thành phố, và về cô bé, chúng thật đẹp.

*****

"Suốt khoảng phố gần trường toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà cửa sổ chấn song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng thấy treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng còn cách nào hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè phố trước mặt chúng nó.

Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống như nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm vang lên lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết..."

"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi không biết đó là bản gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen cao vút đang từ từ vướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa thạch và chi chít sao."

"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì tôi lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn..."

".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em."    

(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)

 
Gấu được đi học Hà Nội, là nhờ bà cô lấy chồng Pháp. Một kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Bà cô đẹp, cao, sang, không một chút liên can tới cái làng nghèo đói ven đê sông Hồng. Người ở đó không muốn bà về. Chỉ cần tháng tháng gửi tiền. Vì cũng là một người cùng làng, thằng cháu bị vạ lây, thời gian đầu sống với bà cô.

Có thể, lúc đầu bà cô chỉ nghĩ tới Gấu, do tội nghiệp. Chẳng bao giờ bà hỏi han. Gấu cũng chẳng dám đòi hỏi gì, ngoài hai bữa cơm, rồi lo đi học. Bà cho Gấu ở riêng một căn phòng kế bên nhà bếp. Không được bén mảng lên nhà trên.

Gấu chỉ có một bộ quần áo đi học. Mỗi lần giặt, ủi liền, cho kịp giờ đi học. Có những lần quá ướt, bàn ủi không kịp nóng. Cho tới một bữa, Gấu ỷ y, chạy ra ngoài, khi ngửi mùi khét thì đã xong một bên ống quần.

Đó là một villa trông ra hồ Halais. Nhà của hai ông Tây, đều kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Ông Tây già, là chồng bà cô. Chức vụ chắc thua ông Tây trẻ, vì ông này có tới hai người hầu: một người bếp, một người bồi. Ông Tây già ăn uống đều do bà vợ. Ông bếp già, vào những ngày cuối tuần, chủ đi chơi, thường dắt gái về nằm trong bóng tối hành lang phía trước. Mỗi lần như vậy, Gấu lén lên nhà trên, bò tới sát, chỉ cách bức tường, cánh cửa, rồi hồi hộp lắng nghe. Một lần cô gái làng chơi biết, nói: có người ở bên trong nhà. Ông bếp hừ, hai thằng bé, trời tối mịt, chúng nó chẳng thấy gì đâu.

Mỵ là tên anh bồi. Gấu không nhớ tên ông bếp già. Ông rất thù ghét Tây, tuy làm bồi bếp. Gấu biết từng chi tiết chiến thắng Điện Biên Phủ, là do ông kể. Chắc cũng chỉ từ trí tưởng tượng của ông. Hiệp định Genève chia đôi đất nước, ông về làng, chắc chắn là khổ sở với quá khứ Việt gian. Gấu gặp cả hai vợ chồng anh Mỵ, và đứa con gái duy nhất mới sinh được vài tháng, ở Hải Phòng, những ngày chờ đợi tầu. Thằng em đã về quê, ở với bà vợ lớn.

Lần đó, anh Mỵ nói với bà cô. Bữa hôm sau, bà dẫn Gấu đi mua mấy bộ quần áo. Bà mắng: tại sao không nói. Thấy thằng cháu im thin thít, bà như hiểu ra, giải thích: Tao chỉ ghét mẹ mày. Cả làng cả họ cứ xúm vào gấu váy con mụ me Tây này.

 Không những mắng, mà còn tát cho Gấu vài cái.

Đó là lần bà bắt gặp hai đứa, Gấu, thằng Hìu, em anh Mỵ, trời tối thui mà cũng cố căng mắt nhìn ra phía ngoài...

 Lếch thếch xách dép, một kỷ niệm như vậy dù sao cũng dễ thương hơn nhiều, so với của Gấu, những ngày đầu học Nguyễn Trãi, với cái quần độc nhất, với đôi guốc lạch cạch nện trên đường phố, trong sân trường. Nhưng dù dép, dù guốc, cũng không bằng chân trần, lúc tan học, nhìn lũ bạn đứng từ ngoài liệng cả dép lẫn cặp vào tới tận gậm giường bên trong nhà, rồi theo nhau chạy ra bãi cát dưới chân cầu sông Hồng, hoặc lang thang bên dưới vòm trời thành phố. Và tiếng còi dễ thương đuổi theo Gấu suốt đời chưa biến thành ghê rợn, nhưng tiếng kèn đồng thê thảm từ một vũ trường gần bờ Hồ theo Gấu mãi, cùng với hình ảnh cô gái bán rau muống bị Tây hiếp đứng co ro cố túm chiếc quần còn rỉ dòng nước nhờn, khi nhìn thấy thằng nhỏ đi học đang bước tới, ngay gần nhà ở ngoại ô Bạch Mai, kế bên đường rầy xe điện.

 "Vậy mà không hiểu sao đôi khi tôi cứ nghẹn ngào, không làm sao dứt đứt ra khỏi lòng dạ những xôn xao của cái thời ngốc".

(Lê Minh Hà, Những giọt trầm)

 
Ngay khi từ biệt, Gấu đã biết, sẽ có ngày cô bé  (Hà-nội?) trở lại, qua một hình bóng khác. Khó mà dứt đứt ra khỏi lòng dạ, một thành phố, một đoạn đời.

 Sự thực, khi gặp ông anh vợ hụt lần đầu, Gấu không hề biết, ông có một người em gái, tên là "cô bé". Nhưng chuyện ông đưa ra bài toán đố là có thiệt. Về già nghĩ lại, bao chuyện may rủi trên đời, đều là do chuyện mê toán của Gấu, kể từ khi còn ở Hà Nội. Người đầu tiên khám phá ra tài làm toán của Gấu là Ông Tây, chồng bà cô.

 Bà cô Gấu, tuy bề ngoài lạnh lùng, nhưng lúc nào cũng để ý đến Gấu, qua... Ông Tây. Một lần bà nói, “Ông Tây bảo, mày còn ngu hơn thằng Hìu, em anh Mỹ”.

 Đó là một buổi chiều, Ông Tây đi làm về. Có bà cô ngồi trên xe. Khi xe làm hiệu rẽ vào cổng, thằng cháu nhanh nhẩu tập làm bồi, mở vội hai cánh cổng bằng sắt. Thằng Hìu đứng bên, dơ tay chặn lại. Không hiểu làm sao nó biết, hai người chỉ đậu xe, về nhà thay đồ, và còn đi shopping.

 Lần thứ nhì đụng độ Ông Tây, là bữa Gấu mê mải làm toán, ngay hàng lang trước villa. Dùng phấn trắng vẽ ngay trên mặt gạch. Gấu không nghe thấy tiếng xe, tiếng mở cổng, ngay cả khi Ông Tây tới sát bên Gấu… chỉ tới khi ông hừ một tiếng rất ư là hài lòng, và sau đó bỏ vào trong nhà. Chắc ông đã mê mải theo dõi, và hồi hộp, không hiểu thằng bé nhà quê này có chứng minh nổi bài toán hình học hay không. Ông là kỹ sư, và hình ảnh thằng nhỏ đang say sưa với bài toán đến nỗi quên phận sự làm bồi, không mở cổng cho ông, có thể làm ông nhớ lại thằng nhỏ-là ông ngày nào.
Bữa sau, bà cô mặt mày tươi tỉnh cải chính câu nói bữa trước, “Không, Ông Tây nói, mày thông minh hơn thằng Hìu.”

Chính Ông Tây mới là người quyết định tương lai của Gấu. Bởi vì bà cô, kể từ đó, đã có ý định cố lo cho thằng cháu ăn học.

Trong quyết định bỏ vào Nam của Gấu, có giấc mơ học giỏi tiếng Pháp, để viết một bức thư cám ơn một ông tây thuộc địa.













Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây