Blog Yahoo Files

Chụp cho tôi cái nón cối, nói xấu dân tộc, là không đúng.

Yesterday, November 07, 2007, 5:11:54 PM

Nhìn toàn bộ, chỉ có thể nói là tôi viết về thói hư tật xấu của cộng đồng. Chụp cho tôi cũng như tất cả những ai chia sẻ suy nghĩ của tôi là nói xấu dân tộc là không đúng. Là con dân đất nước này, sao tôi lại có thể đứng ra làm cái việc bỉ ổi đó?

Vương Trí Nhàn: Mấy lời trần tình

Me-xừ này lạnh cẳng rồi. Cứ giả sử như, sự thể chẳng đặng đừng, phải nói xấu cả dân tộc, thì sao?

Cái Ác có từ thuở dựng nước, hay thử dịch sang tiếng Tây, tuổi thơ của cái ác, l'enfance du mal, chính là đề tài cuốn tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Mẽo Norman Mailer: Lâu đài ở trong rừng.

Thay vì lạnh cẳng, ông này trả lời tờ VieTimes và dân Mít, như thế này, trong một cuộc phỏng vấn có tên là Đi tìm Quỉ [À la recherche du Diable]:

"Bạn không tin ư, cái chuyện, Thượng Đế hay Quỉ sứ quan tâm đến những 'thiên tài' như Lénine, Hitler, hay Churchill?"

"Tại sao không coi Thượng Đế như là một trong những quan điểm, conceptions, về vũ trụ, và tưởng tượng ra rằng, ông ta đang đụng trận với những quan điểm khác?" Bởi vì nếu chúng ta tưởng tượng ra một Thượng Đế chiến sĩ, không phải bách chiến bách thắng như Bộ Đội Cụ Hồ, thì như thế, ắt hẳn phải có một Quỉ sứ để chơi cờ tướng với Thượng Đế chứ? Đây chính là đề tài của cuốn "Lâu đài trong rừng"...

Là con dân đất nước này, sao tôi lại có thể đứng ra làm cái việc bỉ ổi đó?

Câu này, đúng là chửi thằng Gấu này rồi!

Quả là Gấu đang làm cái việc bỉ ối đó!

Nhưng khác VTN, Gấu cảm thấy, mình là con dân của đất nước này, nên mới làm cái việc bỉ ổi đó!

Solzhenitsyn phán, nhà văn là nhà nước trong nhà nước. Gấu thì chẳng thể là nhà nước trong nhà nước được, vì nhà nước VC không nhận Gấu, nhất là ngược lại. Còn me-xừ VTN, lúc này đúng là lúc để ông chứng minh, ông là nhà văn, nhà phê bình nhà văn hóa. Tức là nhà nước trong nhà nước.

Vậy mà lạnh cẳng.

Chán quá!

Gấu đang nghe ông lẩm bẩm, mày ở ngoài đó, tha hồ nói phét, thử ở đây coi, có khác gì tao?

Ở trong nước thì làm sao so với ông được?

Ui chao nói xấu 'cộng động' thì được, chớ đụng đến dân tộc.

Nói xấu cộng động phản động hải ngoại, lại càng được.

Tại sao tiểu thuyết?

Yesterday, November 07, 2007, 12:00:09 PM
POURQUOI LE ROMAN ?

« Un roman est une vie prise en tant que livre. Toute vie a une épigraphe, un titre, un éditeur, un avant-propos, une préface, un texte, des notes, etc.
Elle les a ou peut les avoir. »
NOVALIS
Tiểu thuyết là cuộc đời được coi như là một cuốn sách. Mọi cuộc đời có một đề từ, một cái tít, một nhà biên tập, một lời thưa trước, một lời tựa, một bản văn, những ghi chú.... Nó có hay là có thể có những thứ đó.
*

Quoiqu'on le tienne ordinairement pour le descendant des grandes formes épiques du passé, le roman au sens où nous l'entendons aujourd'hui est un genre relativement récent, n'ayant plus que des liens très lâches avec la tradition dont il est issu. Né selon les uns avec l'inou-
bliable équipée de Don Quichotte, selon les autres avec le naufrage et l'île déserte de Robinson Crusoé (1)

(1) Le Don Quichotte est sans aucun doute le premier roman « moderne », si on entend par modernité le mouvement d'une littérature qui, perpétuellement en quête d'elle-même, s'interroge, se met en cause, fait de ses doutes et de sa foi à l'égard de son propre message le sujet même de ses récits. Robinson Crusoé peut revendiquer une autre sorte de priorité : il est "moderne " surtout en ceci qu'il reflète avec beaucoup de clarté les tendances de la classe bourgeoise et commerçante issue de la révolution anglaise. En ce sens, en effet, on a pu dire que le roman est un genre bourgeois qui, avant de devenir international et universel, a commencé par être spécifiquement anglais. Nous verrons plus loin les liens étroits et les différences qui se révèlent à l'analyse entre la « robinsonnade » et la « donquichotterie ».

Marthe Robert: roman des origines et origines du roman [tiểu thuyết của những nguồn gốc và những nguồn gốc của tiểu thuyết]

Cho dù con người có ban cho nó, những gốc bự, hậu duệ của sử thi, hùng ca, tiểu thuyết, như là chúng ta thấy bây giờ, là một thể loại mới có đây thôi, và cái gốc gác ghê gớm kia thì đã quá xa xưa rồi, Diễm ơi. Sinh ra, theo một số người, cùng với "gươm đàn nửa gánh, giang sơn một chèo", của Từ Hải Tây phương, tức là, từ cây thương không thể nào quên được của Don Quichotte, hay, theo một số người khác, từ cơn đắm tầu, lạc hoang đảo của anh chàng Lỗ Bình Sơn, cũng Tây phương.

(1) Don Quichotte quả đúng là cuốn tiểu thuyết 'hiện đại' đầu tiên, nếu chúng ta cho rằng, hiện đại tính là một chuyển động văn học, qua đó, nó luôn luôn luôn tìm kiếm nó, tự tra hỏi chính nó, đặt nó thành vấn đề, thành nguyên nhân, lấy chính cái sự hồ nghi và niềm tin về chính cái gọi là thông điệp của nó, là đề tài của những câu chuyện kể của nó. Lỗ Bình Sơn phiêu lưu ký, lại bảnh theo một kiểu khác: Tớ bảnh nhất, theo kiểu này: phản ảnh với rất nhiều sự rõ ràng những khuynh hường, ý đồ của giai cấp trưởng giả và thương mại, chui ra từ cuộc Cách mạng Anh. Theo nghĩa này, cho nên, người ta có thể nói là tiểu thuyết một một thể loại trưởng giả, trước khi được thế giới, vũ trụ biết đến, thì bản chất của ta là Hồng Mao...

Chuyện của Gấu

Tuesday, November 06, 2007, 2:11:33 PM
Chuyện Của Gấu.

Gấu, Bắc Kỳ 54. Rời Hà Nội khi vừa mới biết yêu cái cột đèn, cái ngã tư, tiếng còi mười giờ chạy trên thành phố... Vào Nam, Gấu nhớ tiếng còi, nhớ cái tháp rùa đến ngơ ngẩn mụ cả người, bèn tự nhủ thầm, phải kiếm cho được một cô bé Hà Nội...
Cô là em của một người bạn học. Ông anh vợ hụt học dưới Gấu một lớp. Quen qua một người bạn, tên Uyển, hồi ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận.

Kỷ niệm lần đầu tới nhà cô bé, nghĩ lại thấy thật buồn cười.
Ông anh cô khi đó đang học Đệ Tam, ban toán, và ông đã ra câu đố: muốn gặp em tao thì phải giải cho được bài toán hình học này. Chẳng hiểu ông thực tình bí, hay là muốn thử tài, theo kiểu: mày có đủ sức chinh phục con em tao hay không? Hồi đi học, Gấu vốn nổi tiếng là một cây toán. Cô em cũng dân toán, sau học y khoa.

Lên đại học, ghi danh chứng chỉ Toán Đại Cương; tới kỳ thi, không hiểu bài toán muốn gì, Gấu nộp giấy trắng ra về!
Nhà nghèo, Gấu chỉ đủ tiền mua cours của giáo sư Monavon, mà không hề làm một bài tập nào.

Ôi, giấc mộng đã tan mà sao ảo tưởng vẫn còn!

Khi Gấu quen, cô bé mới mười một tuổi, chưa có núm cau. Chưa có gì, chỉ có một nỗi buồn Hà Nội, ở trong đôi mắt thăm thẳm.
Như lạnh lùng tra hỏi: anh yêu tôi hay là anh yêu Hà Nội?
Vừa ra ý ỡm ờ: anh yêu tôi, vì tôi độc?
Và đẹp?

Nhà cô bé giầu, Gấu sững sờ tự hỏi, tại sao lại có nỗi buồn như thế ở trong cô bé mới mười một tuổi?
Sau này thân rồi, cô tâm sự: đi học, H. chỉ có mỗi một cái áo dài trắng độc nhất. Có lần, H. nghe mấy con bạn nói đằng sau lưng: con nhỏ này nó làm bộ nghèo...

Lần cuối cùng gặp cô bé, khi mối tình đã tan vỡ. Cô lúc này coi Gấu như một người thân, nói: H. mới đi chợ cho mẹ, lỡ tiêu quá một chút, anh đưa H. để bù vô. H. rất ghét phải giải thích...
Em gái của cô, mỗi lần thấy bố vô phòng, là bỏ ra ngoài.

Lần cuối cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi với anh Gấu."

Bạn bè, cô, và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.

Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.

Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm về một cô gái
Hà Nội,
độc,

đẹp...

Độc, là chuyện sau này, do Gấu tưởng tượng ra, khi đi tìm một cái tên, cho một cuộc chiến.

Sự thực, những kỷ niệm về một miền đất, về một thành phố, và về cô bé, chúng thật đẹp.

*****

"Suốt khoảng phố gần trường toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà cửa sổ chấn song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng thấy treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng còn cách nào hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè phố trước mặt chúng nó.

Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống như nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm vang lên lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết..."

"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi không biết đó là bản gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen cao vút đang từ từ vướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa thạch và chi chít sao."

"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì tôi lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn..."

".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em."

(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)


Gấu được đi học Hà Nội, là nhờ bà cô lấy chồng Pháp. Một kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Bà cô đẹp, cao, sang, không một chút liên can tới cái làng nghèo đói ven đê sông Hồng. Người ở đó không muốn bà về. Chỉ cần tháng tháng gửi tiền. Vì cũng là một người cùng làng, thằng cháu bị vạ lây, thời gian đầu sống với bà cô.

Có thể, lúc đầu bà cô chỉ nghĩ tới Gấu, do tội nghiệp. Chẳng bao giờ bà hỏi han. Gấu cũng chẳng dám đòi hỏi gì, ngoài hai bữa cơm, rồi lo đi học. Bà cho Gấu ở riêng một căn phòng kế bên nhà bếp. Không được bén mảng lên nhà trên.

Gấu chỉ có một bộ quần áo đi học. Mỗi lần giặt, ủi liền, cho kịp giờ đi học. Có những lần quá ướt, bàn ủi không kịp nóng. Cho tới một bữa, Gấu ỷ y, chạy ra ngoài, khi ngửi mùi khét thì đã xong một bên ống quần.

Đó là một villa trông ra hồ Halais. Nhà của hai ông Tây, đều kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Ông Tây già, là chồng bà cô. Chức vụ chắc thua ông Tây trẻ, vì ông này có tới hai người hầu: một người bếp, một người bồi. Ông Tây già ăn uống đều do bà vợ. Ông bếp già, vào những ngày cuối tuần, chủ đi chơi, thường dắt gái về nằm trong bóng tối hành lang phía trước. Mỗi lần như vậy, Gấu lén lên nhà trên, bò tới sát, chỉ cách bức tường, cánh cửa, rồi hồi hộp lắng nghe. Một lần cô gái làng chơi biết, nói: có người ở bên trong nhà. Ông bếp hừ, hai thằng bé, trời tối mịt, chúng nó chẳng thấy gì đâu.

Mỵ là tên anh bồi. Gấu không nhớ tên ông bếp già. Ông rất thù ghét Tây, tuy làm bồi bếp. Gấu biết từng chi tiết chiến thắng Điện Biên Phủ, là do ông kể. Chắc cũng chỉ từ trí tưởng tượng của ông. Hiệp định Genève chia đôi đất nước, ông về làng, chắc chắn là khổ sở với quá khứ Việt gian. Gấu gặp cả hai vợ chồng anh Mỵ, và đứa con gái duy nhất mới sinh được vài tháng, ở Hải Phòng, những ngày chờ đợi tầu. Thằng em đã về quê, ở với bà vợ lớn.

Lần đó, anh Mỵ nói với bà cô. Bữa hôm sau, bà dẫn Gấu đi mua mấy bộ quần áo. Bà mắng: tại sao không nói. Thấy thằng cháu im thin thít, bà như hiểu ra, giải thích: Tao chỉ ghét mẹ mày. Cả làng cả họ cứ xúm vào gấu váy con mụ me Tây này.

Không những mắng, mà còn tát cho Gấu vài cái.

Đó là lần bà bắt gặp hai đứa, Gấu, thằng Hìu, em anh Mỵ, trời tối thui mà cũng cố căng mắt nhìn ra phía ngoài...

Lếch thếch xách dép, một kỷ niệm như vậy dù sao cũng dễ thương hơn nhiều, so với của Gấu, những ngày đầu học Nguyễn Trãi, với cái quần độc nhất, với đôi guốc lạch cạch nện trên đường phố, trong sân trường. Nhưng dù dép, dù guốc, cũng không bằng chân trần, lúc tan học, nhìn lũ bạn đứng từ ngoài liệng cả dép lẫn cặp vào tới tận gậm giường bên trong nhà, rồi theo nhau chạy ra bãi cát dưới chân cầu sông Hồng, hoặc lang thang bên dưới vòm trời thành phố. Và tiếng còi dễ thương đuổi theo Gấu suốt đời chưa biến thành ghê rợn, nhưng tiếng kèn đồng thê thảm từ một vũ trường gần bờ Hồ theo Gấu mãi, cùng với hình ảnh cô gái bán rau muống bị Tây hiếp đứng co ro cố túm chiếc quần còn rỉ dòng nước nhờn, khi nhìn thấy thằng nhỏ đi học đang bước tới, ngay gần nhà ở ngoại ô Bạch Mai, kế bên đường rầy xe điện.

"Vậy mà không hiểu sao đôi khi tôi cứ nghẹn ngào, không làm sao dứt đứt ra khỏi lòng dạ những xôn xao của cái thời ngốc".

(Lê Minh Hà, Những giọt trầm)


Ngay khi từ biệt, Gấu đã biết, sẽ có ngày cô bé (Hà-nội?) trở lại, qua một hình bóng khác. Khó mà dứt đứt ra khỏi lòng dạ, một thành phố, một đoạn đời.

Sự thực, khi gặp ông anh vợ hụt lần đầu, Gấu không hề biết, ông có một người em gái, tên là "cô bé". Nhưng chuyện ông đưa ra bài toán đố là có thiệt. Về già nghĩ lại, bao chuyện may rủi trên đời, đều là do chuyện mê toán của Gấu, kể từ khi còn ở Hà Nội. Người đầu tiên khám phá ra tài làm toán của Gấu là Ông Tây, chồng bà cô.

Bà cô Gấu, tuy bề ngoài lạnh lùng, nhưng lúc nào cũng để ý đến Gấu, qua... Ông Tây. Một lần bà nói, “Ông Tây bảo, mày còn ngu hơn thằng Hìu, em anh Mỹ”.

Đó là một buổi chiều, Ông Tây đi làm về. Có bà cô ngồi trên xe. Khi xe làm hiệu rẽ vào cổng, thằng cháu nhanh nhẩu tập làm bồi, mở vội hai cánh cổng bằng sắt. Thằng Hìu đứng bên, dơ tay chặn lại. Không hiểu làm sao nó biết, hai người chỉ đậu xe, về nhà thay đồ, và còn đi shopping.

Lần thứ nhì đụng độ Ông Tây, là bữa Gấu mê mải làm toán, ngay hàng lang trước villa. Dùng phấn trắng vẽ ngay trên mặt gạch. Gấu không nghe thấy tiếng xe, tiếng mở cổng, ngay cả khi Ông Tây tới sát bên Gấu… chỉ tới khi ông hừ một tiếng rất ư là hài lòng, và sau đó bỏ vào trong nhà. Chắc ông đã mê mải theo dõi, và hồi hộp, không hiểu thằng bé nhà quê này có chứng minh nổi bài toán hình học hay không. Ông là kỹ sư, và hình ảnh thằng nhỏ đang say sưa với bài toán đến nỗi quên phận sự làm bồi, không mở cổng cho ông, có thể làm ông nhớ lại thằng nhỏ-là ông ngày nào.
Bữa sau, bà cô mặt mày tươi tỉnh cải chính câu nói bữa trước, “Không, Ông Tây nói, mày thông minh hơn thằng Hìu.”

Chính Ông Tây mới là người quyết định tương lai của Gấu. Bởi vì bà cô, kể từ đó, đã có ý định cố lo cho thằng cháu ăn học.

Trong quyết định bỏ vào Nam của Gấu, có giấc mơ học giỏi tiếng Pháp, để viết một bức thư cám ơn một ông tây thuộc địa.

Alex. Feklisov, nguyên mẫu điệp viên của John Le Carré, đã chết, thọ 93 tuổi

Tuesday, November 06, 2007, 1:12:12 PM

Tiểu thuyết của Le Carré, với những điệp viên chập chờn ẩn hiện, xáo trộn lẫn nhau, trong những trò chơi gián điệp xoắn xuýt, có thể đã được lấy hứng từ nhân vật có thực ở ngoài đời, một siêu điệp viên huyền hoặc, trùm gián điệp Xô Viết trong thời kỳ chiến tranh lạnh, điều hành mạng lưới cực kỳ hung hiểm tại Tây Phương.

Trong số những nhân viên được ông Trùm tuyển lựa, có Julius Rosenberg, người được coi là đã cung cấp tin tức về chương trình làm bom nguyên tử của Mẽo, The Manhattan Project, và nhà vật lý học người Đức, Klaus Fuchs, làm việc tại Los Alamos.

Nhờ ông Trùm, Liên xô có bom nguyên tử, trái thứ nhất nổ vào năm 1949, năm năm trước thời điểm Mẽo dự tính Nga sẽ có.

Ông mất, 2007, thọ 93 tuổi.

Vũ trụ của Lessing

Tuesday, November 06, 2007, 11:12:42 AM
L’Actualité – Danielle Laurin – Felix Trần dịch
Doris Lessing sinh ngày 22-10-1919 ở Kermanshah, Ba Tư cũ, nay là Bakhtaran, Iran.
Nhưng 6 năm sau, cả gia đình chuyển đến sống ở một nông trại thuộc miền Nam Rhodesia - hiện nay là Zimbabwe.
 13 tuổi nghỉ học bước vào “trường đời”, làm đủ nghề từ trông trẻ, điện thoại viên, thư ký tốc ký, đến nhân viên văn phòng và cả nghề làm báo để kiếm sống.

Đảng viên đảng cộng sản Anh trong những năm 1950. Tích cực chống bất công dưới tất cả mọi hình thức: chủng tộc, xã hội, kinh tế, giới tính.

Hai lần kết hôn rồi ly dị, ba mươi tuổi đã có 3 đứa con. Năm 1949 bà đến London sống và bắt sự nghiệp viết lách.

Phỏng vấn bà không phải dễ: “Nếu chưa đọc các sách của tôi thì đừng thảo luận vô ích!” Mà sách của bà là một khối lượng khổng lồ!

Vậy mà trong suốt hai giờ nói chuyện, chúng tôi đã nói đủ thứ chuyện.

Một trí óc linh động, một năng động trí tuệ đáng kể, bà tái dựng vũ trụ theo cách của bà: phản kháng, phẫn nộ, chỉ trích mọi sự, không mệt mỏi.

Mọi nanh vuốt của bà lúc tôi mới vào gặp rơi xuống cái bụp, bất ngờ, không báo trước... khi bà nói về Peter, người con trai tuổi lục tuần, bị bệnh tiểu đường, hai lần bị tim đột quỵ, và năm ngoái bị thương khi bị té..., khi bà nói về bà, lo âu, kiệt sức trong lúc này, suốt ngày ở bệnh viện, không làm sao tìm được thì giờ để viết. “Cái gánh nặng mắc dịch này, tôi nói cho bà biết như vậy đó.”

Người con trai này sinh ở lần hôn nhân thứ nhì bây giờ vẫn còn ở gần bà, ở bên cạnh khi bà đi chợ về và biết tin mình được giải Nobel qua một rừng ký giả đứng chờ trước mặt nhà, cái ngày 11-10 vừa qua. Bà nuôi dạy Peter một mình. Vừa kiếm sống, vừa tìm một chỗ đứng như một văn sĩ. “Bà rào trước, hồi đó tôi không phải là một trong các bà mẹ đơn nuôi con một mình như ngày hôm nay người ta vẫn hay nói đến. Tôi không phải là bà mẹ được tòa cho nuôi con hợp pháp, đơn giản chỉ vì cha nó không có ở đó.”

Sau khi ly dị, ông qua Đông Đức sống, ông là đảng viên đảng cộng sản.

Hai người gặp nhau ở Rhodésie – bây giờ là Zimbabwe. Doris lớn lên ở đó.

Cha mẹ bà người Anh, bà sinh ra ở Perse – bây giờ là Iran.

“Tôi bắt đầu thiên di từ 5 tuổi, một lợi thế cho ai sẽ trở thành nhà văn. Lúc nào mình cũng nghe ngóng, buộc mình phải quan sát, phải thích ứng với các trạng huống mới.”

Cuộc sống rừng rú ở Phi châu, những áp bức xã hội đã là những đề tài đầu tiên khởi hứng đời sống viết văn của bà. Để được ngộ với văn chương, bà biết ơn mẹ “Mẹ tôi đặt mua từng thùng sách, thùng báo cho trẻ con. Bây giờ, tôi thán phục mẹ tôi biết bao! Mẹ tôi là một người đàn bà rất đáng kể, nhưng bà bị hụt hẫng rất nhiều.” Bà ở rừng già Phi châu với một đám con và một ông chồng trên tay!”

Cha của bà, cựu quân nhân của Thế Chiến I, bị thương, phục viên làm nhân viên ngân hàng. Ông bị bệnh tiểu đường. “Ông bị đau rất nặng và bị suy thoái tinh thần. Cảnh gia đình thật khó sống. Mẹ tôi nói hôn nhân là lỗi lầm lớn nhất đời của bà. Và tôi nghĩ thật ra cha mẹ tôi không nên lấy nhau.”

Hiện nay bà đang chuẩn bị để viết một quyển sách về Thế Chiến I và về cha mẹ của bà. Bà vui vì thấy gia đình theo kiểu truyền thống mỗi ngày mỗi ít đi: “Tôi để ý người thời buổi này ly dị một cách dễ dàng biết bao. Tôi nghĩ gia đình mở rộng, tái xây dựng sẽ tạo những đôi cặp mạnh hơn, những cha mẹ tốt hơn và những đứa con hạnh phúc hơn.”

Bà mẹ gây áp lực rất nhiều trên bà, 13 tuổi bà bỏ học. Rồi tự học, bây giờ bà có rất nhiều bằng tiến sĩ danh dự nhưng bà vẫn nhấn mạnh đến chuyện cần thiết phải học. Bà phẫn nộ về sự hiểu biết hạn hẹp ở các người trẻ ngày nay. “Đa số chẳng đọc gì hết. Họ vào đại học mà chẳng có một hành lý nào trên tay. Ngày xưa, văn chương là cầu nói, cầu kết hiệp giữa người này giữa kia, bây giờ nó không còn được tôn trọng, nó chỉ được một thiểu số tôn trọng. Văn hóa đang tan rã, đang tuột dốc không phanh. Thật đáng lo.”

Đọc rất nhiều, bà bắt đầu viết từ năm 7 tuổi. Từ năm 17 tuổi, bà bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên giăng trên các báo ở Nam-Phi. “Tôi không có tiền, tôi không học cao nhưng tôi tự nhủ, tôi sẽ là nhà văn.” Hai năm trước đó, bà bỏ nhà đi, sống bằng những công việc lặt vặt.

19 tuổi, bà lập gia đình, bà làm mẹ. Nhưng ngay lập tức sau đó, bà không chịu được cuộc sống này và bà bỏ gia đình. Hai người con trong cuộc hôn nhân này được người cha nuôi dạy: June, bây giờ vẫn còn sống ở Nam-Phi, có hai đứa con gái và đã là bà ngoại. John chết vì nhồi máu cơ tim năm 1992. Không có hối hận về phía người mẹ. “Tôi hạnh phúc đã có can đảm bỏ ra đi.”

Bà gặp người chồng thứ nhì trong một nhóm đảng viên Cộng Sản, ông người Đức, Gottfried Lessing, và bà có một người con với ông.

Sau khi ly dị, bà rời Rhodésie và đến London sống với Peter, đứa con còn nhỏ.

Trong hành lý của bà có bản thảo quyển tiểu thuyết đầu tiên: “Vaincue par la brousse”, bà lên án nạn kỳ thị chủng tộc. Quyển sách xuấn bản năm 1950 và đã là một thành công lớn.

Đảng viên Đảng Cộng Sản Anh, bà tích cực chống chủ nghĩa thực dân và nạn kỳ thị chủng tộc.

Bà từ chối tước vị phu nhân của Huân chương Đế quốc Anh bởi vì lý do đơn giản là làm gì có Đế quốc Anh!

Khi hỏi bà còn là đảng viên đảng Cộng Sản không, bà cười ngất: “Ôi trời ơi, chuyện đó hơn năm mươi năm rồi!”

Trong quyền Le rêve le plus doux, xuất bản năm 2001, bà nói rất nhiều về sự dấn thân của bà vào Đảng Cộng Sản, một dấn thân kéo dài đến năm 1954. Bà nói: “Tôi muốn cười tôi về cái vụ cộng sản, nó làm cho tôi đau khổ rất nhiều. Đó là quyển tiểu thuyết duy nhất tôi thực sự viết với một sứ điệp trong đầu, quyển duy nhất mà tôi trực tiếp nói về chính trị.”

Nói về quyển đã đưa bà lên đài quốc tế cách đây bốn mươi năm, quyển Cuốn sồ vàng mà tình tiết xảy ra vào năm 1950 và có thể xem đó là quyển tiểu thuyết cảnh báo chống lại cuộc xung đột tư tưởng, bà giải thích: “một trong những lý do tôi viết quyển tiểu thuyết này là chúng ta đang sống trong một thời buổi lạ lùng và tôi muốn nói đến điều đó. Quyển tiểu thuyết của tôi nói đến thời suy tàn rất thê thảm của chủ nghĩa cộng sạn ở phương Tây. Dân chúng bị suy thoái tinh thần vì họ đổi chiến tuyến. Đó là điều tôi muốn kể.”

Bà điểm một nụ cười ranh mãnh: “Ấy, tôi nói đến chính trị như vậy đó!” Rồi bà bừng bừng tức giận: “Tôi quá chán ngán bị liệt kê vào danh sách văn sĩ dấn thân!”

Doris chạy trốn các nhãn hiệu như chạy trốn dịch hạch, ngay cả nhãn hiệu bảo vệ nữ quyển – dù quyển Cuốn sổ vàng, bức phông nền của nó vẫn là nói đến một cách cặn kẽ quan hệ đàn ông-đàn bà. Đó là quyển sách tiêu biểu cho sự giải phóng phụ nữ trên toàn thế giới. “Đơn giản là tôi có hứng khi nghe các bà nói chuyện trong bếp. Tôi thật sự không phải là người bảo vệ nữ quyền, tôi cũng chẳng hơn gì những người chung quanh tôi.”

Bà rất buồn khi thấy tình trạng của các phụ nữ ở các nước thứ ba chưa được cải thiện. “Năm 1986, tôi đến Pakistan để gặp các người di cư Afghan khi xứ họ bị Liên Xô xâm chiếm. Phụ nữ sống trong những hoàn cảnh nghiệt ngã. Các người trẻ bị những người mollah giáo dục một cách ngu ngốc, dữ dằn. Tình trạng đó chẳng thay đổi được bao nhiêu.”

Bà còn quan tâm đến rất nhiều vấn đề trên thế giới: môi sinh, nạn đói, khí hậu...

Tuổi già của bà. Bà không sợ. Bà không sợ chết. Đó là cá tính của bà.