*
Xe lăn trong tim
Xe lăn trong tim magnify

Kundera mở ra "Đời nhẹ khôn kham" bằng những suy tưởng của ông về 'thai đố' Quy Hồi Vĩnh Cửu, và cái lần "tôi bắt gặp trong tôi một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Trong lúc lướt đọc một quyển sách nói về Hitler, đôi ba hình ảnh trong cuốn sách khiến tôi chấn động. Chúng gợi tôi nhớ lại thời thơ ấu. Tôi lớn lên khi đang còn chiến tranh và gia đình tôi có mấy người bỏ mạng trong trại tập trung. Nhưng những cái chết này có ý nghĩa gì không, nếu chúng ta đặt chúng bên cạnh hồi ức về một thời kỳ hoàn toàn tan biến trong đời sống tôi, một thời kỳ không bao giờ trở lại?.

Sự hoà giải với Hitler này... (1)

(1) Đời nhẹ khôn kham, Bản tiếng Việt của Trịnh Y Thư. Văn Học, Huê Kỳ, xb, 2002

*

Kertesz cũng đã từng nói tới những giây phút hạnh phúc 'phù du' ở Lò Thiêu...

*

TTT nói đến thơ trở lại với ông, như "nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang", và nỗi ngượng ngùng e thẹn, không dám khoe với bạn tù những bài thơ của mình.

*

Chẳng cần mấy ông này, Gấu cũng hiểu ra, cho riêng Gấu, thời gian hai năm trời, ở nông trường cải tạo Đỗ Hải, Cần Giờ, mới tuyệt vời làm sao!

Toàn những "nụ hôn đầu" cả. Thế mới sướng, mới tuyệt cú mèo!

Ở đó, lần đầu tiên, Gấu biết mùi thịt chuột nướng, thơm khỉng khiếp như thế nào.

Mùi thôi, chưa nói đến cái nỗi sướng lịm người, khi cắn vô.

*

Bác ơi, đọc blog bác cháu thấy có nhiều thông tin và tư liệu hay ho lắm, nhưng mà cháu còn bé quá nên nhiều khi chịu không đoán được những tên người bác viết tắt đâu bác ơi :D mong tiếp tục đọc thêm những entry mới của bác :D chúc bác Gấu luôn khoẻ mạnh, dẻo dai nha.

Wed Sep 19 08:54am PDT Delete

Phúc đáp:

Tks. Sẽ cố gắng không viết tên tắt, trừ trường hợp bất đắc dĩ.

NQT

TB: D. có thể đọc thêm thông tin và tư liệu 'hay ho lắm' trên trang Tin Văn

Tags: | Edit Tags
Wednesday September 19, 2007 - 07:18am (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Sự hy sinh của ông nhà có "đáng" không?
Sự hy sinh của ông nhà có "đáng" không? magnify
10 Questions
[Thời Báo, Time, July 2, 2007]
Năm năm trước đây, những phần tử cực đoan đã sát hại Daniel, ký giả, chồng Mariane Pearl, tại Pakistan.
Bây giờ nữ tài tử Angelina Jolie đóng vai bà, trong một phim mới ra lò, A Mighty Heart, dựa trên cuộc tình bi thương của họ.

How did your purpose In life change after your husband's tragic death? Natasha Landkamar, PARIS
I think the point is that it hasn't changed. That is my main achievement. Things like that happen to you, and the people that hurt you expect it to change your purpose. Part of my "revenge" was that my purpose wouldn't change—not how I live, the work that I do or my approach to the world.
Do you think your husband's sacrifice was worth it? Dinh Quynh Anh, VIETNAM
I don't think you can talk in terms of "worth it." His will and his choice was to become a journalist and a writer. And I think every person who dedicates his or her life to something that belongs to the greater good is very meaningful.
What is the most important thing that your son Adam should know about his father?
Sami Ith GARDEN GROVE
, CALIFORNIA
One really important thing for me is that he has a sense of who his father was as a person—his sense of humor and the kind of friend, husband and son that he was. That is the most beautiful heritage that Adam can have.
Do you regret demanding compensation from the 9/11 fund for your husband's death? Juana Suarez, MEXICO CITY
I was thinking of Adam. When I knew that the people who were involved in 9/11 were also involved in Danny's case, I wanted him to join a moment in history. I thought maybe it would help him to be part of a group. That is why I did it. It really wasn't about money. Any money that comes as a result of this is for my son.
Given that Daniel died in Pakistan, what do you think about President Pervez Musharraf? Dave Smith, ATLANTA
My view about him and politics is that I just don't trust anyone. He does not have as much power as we think, and I have never thought that any [help] would come from the Pakistani government.
Has it been difficult to maintain your objectivity as a journalist? Dale Worsham, SAN ANTONIO
No, I haven't lost my objectivity. I don’t think I have become a more fearful person or even more suspicious. I just finished a series of profiles of women around the world—all with different issues—to show that in the world there are incredible individuals we should focus on. It is something that even al-Qaeda hasn't taken away from me.
Has your view of Islam changed? BudiPrimawan, JAKARTA
No, it hasn't changed at all. I grew up with Muslim people, so I was very acquainted with Islam. So it is not like the people who killed Danny taught me what Islam was about. They are hijackers of their own faith.
Do you still practice Buddhism? If so, how has it helped you? MaikeLehmann KONIGSFELD, GERMANY
I have been chanting for 24 years. It has brought me a lot of strength and wisdom in the sense that even in the most dire times, I didn't get lost. I knew that if I wanted to survive, it wasn't about healing or trying to forget. It was about how I could use my life to answer what had happened to us. In many ways, it saved my life.
As a woman of color, how do you feel about being played by Angelina Jolie in the movie? Dharma Kemp-Bresett NASHUA, NEW HAMPSHIRE
I have heard some criticism about her casting, but it is not about the color of your skin. It is about who you are. I asked her to play the role—even though she is way more beautiful than I am—because I felt a real kinship to her. She put her whole heart into it, and I think she understood why we should do this movie. We had something to say that we knew we should say together.
Did Angelina master your French accent? Rhonda Phillips, ATLANTA
[Laughs.] She suffered. She told me she loves me, but it was a very difficult task. She told me I didn't only have a French accent but I had a Cuban accent too. We joke about it.
*
-Sau cái chết của ông chồng, mục tiêu của bà ở trên đời có bị thay đổi?
Natasha Landkamar, Paris
Tôi nghĩ, không thay đổi. Đó là thành tựu chính của tôi. Những điều như vậy xẩy ra cho bạn, và những người làm bạn đau đớn, họ hy vọng điều đó sẽ thay đổi mục tiêu, purpose, của đời bạn.
Một phần của 'sự trả thù' của tôi là, mục tiêu của đời mình sẽ chẳng thay đổi - không phải tôi sống như thế nào, nhưng mà là việc làm của tôi, và cách nhìn của tôi, cách tôi tới, với cuộc đời.
*
Câu hỏi của một cô/bà Việt Nam, thú vị nhất.
Theo bà, sự hy sinh của ông nhà có 'đáng' không?
-Theo tôi, bạn không thể nói bằng những từ như vậy. Ông nhà tôi ước mong và chọn để trở thành một ký giả và một nhà văn. Và tôi nghĩ bất cứ người nào dâng hiến đời mình cho một điều gì mà người đó tin là tốt, là đẹp thì như vậy là rất có ý nghĩa.
*

Liệu quan điểm của bà về Hồi giáo thay đổi, sau đó?

Không, chẳng có gì thay đổi. Tôi lớn lên giữa những người Hồi, cho nên tôi quá quen với Hồi giáo. Bởi vậy cái đám người giết chồng tôi chẳng dậy tôi gì về Hồi giáo. Họ chỉ là những tên không tặc của niềm tin của chính họ.

Tuyệt. Trả lời cẩm như Gấu, Yankee mũi tẹt. Bắc Kỳ di cư 54!

Bà này bảnh thật. Gấu chịu thua.
Sau khi thằng em trai Gấu mất,1967, tiếp đó là những khủng hoảng trong gia đình, Gấu tiêu luôn, và chỉ tỉnh cơn "hôn thụy", coma, [chữ của Tô Thùy Yên, khi dịch Malraux], khi tới trại tị nạn Thái Lan, vào năm 1990.

*

Đầu năm 78, ở Lao Kay lần đầu tiên nhận được thơ nhà, biết tin anh đi xa. (Vợ tôi viết: “Bố nuôi của Thái về quê ngoại sống, không ở Sàigòn nữa”) tôi như người chợt tỉnh sau giấc hôn thuỵ. Bài Nhớ Thi Sĩ viết vào lúc ấy đề tặng một thi sĩ đã mất và gửi Anh, một thi sĩ lưu lạc khi chúng tôi nghĩ chắc không còn ngày gặp lại. Trong những lời thơ vẳng trong tôi bấy giờ có cả lời thơ của anh.
Trong đất trời

Tags: | Edit Tags
Tuesday September 18, 2007 - 05:09pm (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
La poésie entre la guerre et le camp
La poésie entre la guerre et le camp magnify
THANH TAM TUYEN
La poésie entre la guerre et le camp

Poète majeur de la littérature vietnamienne moderne, Thanh Tam Tuyen a apporté une double contribution originale à la vie littéraire après 1945. En poésie, il marque la rupture avec l'ancienne tradition de la musicalité poétique et représente dans ce domaine la génération des poètes du mouvement Tho tu do (poésie en vers libres). Ses deux premiers recueils de poèmes : Je ne suis plus solitaire et Lien, la nuit et le soleil retrouvé ont donné naissance à une génération qui « fait de la poésie » et « ne fait plus des vers ».

En prose, son premier récit Foyer du feu marquait aussi un point de non-retour par rapport à l'ancienne technique de narration. Chez Thanh Tarn Tuyen, la concision du message contribue à l'accélération des rythmes et à la maîtrise du sens esthétique.

Reconnu mais peu étudié en profondeur par la critique durant la guerre de 1954-1975, il reste à l'heure actuelle l'auteur le plus redoutable de la critique littéraire vietnamienne, par sa démarche créative complexe et par sa théorie littéraire synthétique. Tout cela sur fond d'une invention nouvelle de la musicalité poétique.

Thanh Tam Tuyen fait partie des écrivains qui ont le mieux saisi la destruction du Vietnam par les guerres mais il est aussi un des ceux qui ont connu la répression du régime totalitaire actuel, qui ont vécu l'emprisonnement, les camps de rééducation pendant de longues années sous la répression du nouveau régime entre 1975 et 1990. Il évoque ici ce que fut son expérience de l'écriture sous la répression.

Quelle a été votre expérience littéraire durant la guerre de 1954 à 1975 ?

Hormis la poésie, j'ai eu deux périodes marquées par mes deux livres en prose. Le premier, Bêp lua (Foyer du feu, 1954) décrit l'ambiance de Hanoi avant 1954, où ceux qui partent comme ceux qui restent sont contraints à des choix forcés, la séparation ou la mort. La réaction de la critique des écrivains révolutionnaires fut immédiate. Dans un compte rendu de Van Nghê (Littérature et Art), un critique m'a demandé : « Pendant que le peuple du nord du pays est en train de livrer toutes ses forces pour construire le socialisme, ou va le personnage du Foyer de feu ? » J'ai répondu : « II va vers la destruction de l'histoire », chaque écrivain est un survivant.

Mon deuxième livre, Ung Thu (Cancer, 1970) peut être considéré comme le prolongement de Foyer de feu. Le Cancer est l'existence de notre acceptation entre la vanité et la tiédeur de la mort. Ce livre n'a jamais été publié.

En 1974, à un ami à l'étranger qui me demandait : « Pourquoi descendre de la montagne ? » (c'est-à-dire pourquoi exposer sa vie au cœur des événements), j'ai répondu :

...Je me rappelle que je ne me souviens de rien

comme un arbre liquide ses feuilles à la saison de la vieillesse

comme un bout de bois lourd au gré de la course de l'eau

flotte et rejoint la plaine

comme les roseaux sur les rives

avec leurs cheveux blancs lâchés emmenés par le ciel

Face aux désordres et à la confusion du temps après 1975, j'ai pensé avoir déjà vécu toute ma vie, le temps qui me restait était quelque chose en trop, je ne me donnais plus la peine d'y penser. La désillusion était totale. En 1975, le nouveau régime m'envoyait en camp de rééducation avec mes amis « de la même fête et dans le même bateau », nous quittions la plaine pour les monts avec calme et indifférence, sans désespoir et sans espoir.

J'ai pensé « disparaître » sans espoir de retour, pourquoi pas comme le déchet emporté par l'inondation de l'histoire. Mais je me trompais. On m'envoyait vers le nord, dans les forêts de haute montagne isolées du monde extérieur, on me lâchait dans la nature, la « liberté » va avec « l'objectif sur le bois coupé par jour », je m'entraînais à monter et descendre en glissant avec l'opportunité de m'évadcr. Mais chaque jour je retrouvais le chemin de retour au camp.

Qu'est-ce qui m'appelait à y retourner ? Est-ce le « rien de l'espoir », ou est-ce la désillusion de l'homme abandonné, de l'homme désespéré ? J'étais vraiment à ce moment-là dans l'espoir de l'inexistence, dans une zone impénétrable, dans l'état de non-relation. Ce n'est pas clair pour moi. Pourtant j'étais persuadé que j'étais ressuscité, c'est-à-dire que la poésie revenait, j'en étais heureux. J'étais même timide comme lorsque j'étais jeune, avec mes premiers poèmes, je les cachais à mes amis au camp, je n'osais pas les montrer.

Quand vous vivez indifféremment jour après jour, sans penser à l'avenir, sans vous souvenir du passé, sans aucun souci du présent, que vous reste-t-il ? Il vous reste ce qui existe déjà en vous, dans vous, et cette chose-là existe malgré votre volonté.

Pour traverser ces jours de ténèbres, de pluie, de canicule, de gel, de tempête, de saisons, je cherchais le plaisir dans cette chose-là, en moi, elle était la seule que j'emmenais, qui était toujours dans mon corps.

En moi que restait-il ? La famille, les amis. Les poèmes, bien sûr, lus et intériorisés. Le moment venu, la mémoire se mobilisait vite, elle les lisait pour moi seul. Là-bas, souvent, vous pouviez rencontrer des lumières étranges. Le temps des ruines renforce la poésie.

A tremper dans le temps « sans histoire » ou plutôt sans l'histoire de l'extérieur, on découvre que les jours, les mois dans la vie sont sans direction, sans but, nus. Absolument nus. L'inexistence de la vie donne la paix intérieure. Cet état poétique paisible règne sur le calme de l'univers.

De là, chaque poème est un temps clos, détaché du mouvement de la vie. Le temps soudain de l'angoisse devenait le temps condensé, il n'y a pas de différence entre la suspension et l'envol.

Or, faire de la poésie dans un camp de redressement, c'est aussi retourner à la poésie de tradition populaire. Le régime du travail dans les camps, c'est une journée intensive de huit heures, sans week-end ; chaque prisonnier a son univers : une natte ; quelque cinquante ou soixante prisonniers sur deux étages, tous sous une toile de plus de cent personnes. L'écriture est un luxe : une place assise, le temps d'écrire. Avec les cadences imposées aux prisonniers, le froid, la faim..., qui oserait penser à la création ?

Même un génie, une force surnaturelle ne pourrait dépasser ces « contraintes ».

Pourtant en vietnamien, on dit « faire de la poésie » (lam tho), personne ne dit « écrire de la poésie ». Donc, on peut faire de la poésie partout, dans n'importe quelle position : en marchant, debout, couclié, assis, éveillé... La poésie vous rejoint sans rendez-vous, sans fixer le jour, ni l'heure. On ne peut la chercher parce que l'on ne sait pas ou elle est. Il ne vous reste qu'un travail simple ; l'accueillir et discuter avec elle. Elle vous demande une seule chose : garder votre parole pure et plus tard cette parole décidera de sa propre vie.

Elle est souvent discrète, elle entre parfois par la porte centrale, parfois par le petit chemin, soyez a l'écoute, attentif. Elle aime bien se masquer, se voiler, alors si votre mémoire n'est pas en éveil, vous ne pouvez l'identifier.

Pendant votre « travail pour l'objectif révolutionnaire », elle arrive. Soudainement, en plein champ, en pleine forêt... Elle arrive, elle vous recommande de vous arrêter. Vous commencez à voir le ciel et à oublier les mouvements mécaniques. Elle vous emmène aussitôt vers l'état de l'âge intérieur, paisible. Cette autoexistence donne la joie. Parce que lorsque la poésie vous lâche, après votre retour dans cette vie que vous avez osé quitter, vous voyez que cette vie-là se transformera en rythme de vos vers. Ce qui fait que l'on travaille avec les bras, pendant que les oreilles courent après les rythmes, la musique du poème. Cette harmonie donnera l'équilibre nécessaire entre le travail qui se limite aux gestes et la mémoire qui stocke.

Mais concrètement la difficulté de faire la poésie dans les camps demeure. Car il est impossible de rédiger les poèmes, ce qui pourtant est l'état final de la création : la joie de lire à haute voix et de partager avec vos proches. La poésie doit être lue et écoutée, tel est son destin final. Destin d'une parole mais aussi destin de la mémoire de plusieurs personnes.

Après ma libération, sur le chemin du retour, la première chose que j'ai faite, a été de me replier et écrire mes poèmes mémorisés tout au long de ma détention.

Je suis un survivant, mais je ne veux plus être écrivain, comme je l'ai pourtant souhaité depuis toujours.

J'ai écrit dans ma mémoire au camp : « II faut que j'arrive à écrire comme si rien ne s'était passe, comme si rien n'était modifié. »

Et maintenant je me dis : « Quand serai-je capable d'une telle chose ? » Pour re-écrire.

Khi ra khỏi trại tù, trên đường về, điều đầu tiên tôi làm, là cúi gập mình viết ra những bài thơ lưu giữ trong trí nhớ suốt thời gian tù đầy.

Tôi là kẻ sống sót, nhưng tôi chẳng muốn làm nhà văn nữa, như đã từng mong muốn.

Tôi đã từng lưu vào trí nhớ, khi ở trong trại tù, điều này: "Phải làm sao viết như chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì thay đổi."

Và bây giờ tôi tự hỏi: "Khi nào thì tôi có thể làm được như vậy? Lại viết?

Propos recueillis et traduits par Le Huu Khoa

Note: Bài phỏng vấn này, Gấu được bạn Ngô Thế Vinh gửi cho, khi vừa ra ngoài này ít lâu, chừng 1996-97.

Sau qua Paris, 1999, được Kiệt Tấn cho cả toàn tập, bản copy từ bản của Le Huu Khoa tặng ông.

Gấu đã từng nói chuyện với nhà thơ về bài phỏng vấn trên. Cái tít Thơ giữa chiến tranh và trại tù, như thế, ông đã từng biết.

Không hiểu cái tít KINH NGHIỆM SÁNG TÁC TRONG TÙ ông cũng đã từng biết?

Larmes les cailloux verts

Je sais qu'il existe des gens qui pleurent seuls

sans s'arrêter une seule minute

ces gens pleurent mais leurs larmes

ne quittent pas leurs cœurs

connais-tu ces larmes

ce sont les cailloux verts

Lệ đá xanh

Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi

(...)

Le soleil cristal

Nắng thuỷ tinh [Phục sinh]

(...)

J'ai envie de pleurer comme

j'ai envie de vomir

dehors

le soleil est cristal

j'invoque mon nom pour barrer la tristesse

je crie mon nom pour barrer la colère

j'ai envie de vivre autant que de mourir

(...)

Les nuits

Đêm

(...)

Les nuits les guerres s'oublient

les yeux noirs de silence

j'arpente la ville en trêve

la solitude n'est pas encore brûlée par le soleil

elle s'accommode d'un froid mort

(...)

Les poteaux électriques

Cột điện [Dạ khúc]

(...)

J'ai peur que les poteaux électriques ne tombent

que les fils électriques ne s'enroulent

et n'étouffent à mort nos espoirs

viens je t'emmène

on s'en va suis-moi dans le parc

je ne suis qu'un fou

je te serre dans mes bras

or je pense déjà à toi les jours qui viennent

(...)

Thanh Tam Tuyen

Traduit par Le Huu Khoa

La Part d'Exile

Thanh Tâm Tuyền

Thơ giữa chiến tranh và trại tù.

Nhà thơ chủ yếu của văn học Việt Nam hiện đại, Thanh Tâm Tuyền đã hai lần đóng góp, và đóng góp nào cũng mang tính uyên nguyên, cho cuộc sống văn học sau 1945.

Về thơ, ông cắt đứt truyền thống cổ điển về nhạc tính trong thơ, và trong mảnh đất mới mẻ này, ông là người đại diện của nó: người sáng lập ra trường phái thơ tự do. Hai tập thơ đầu 'Tôi Không Còn Cô Độc' và 'Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy' khai sinh ra một thế hệ "làm thơ", "không làm những câu thơ".

Về văn xuôi, truyện kể đầu tay, Bếp Lửa, cũng đánh dấu sự không thể trở lại với cách kể chuyện cũ nữa. Tính ngắn gọn của thông điệp làm tăng nhịp văn và làm chủ cảm quan thẩm mỹ.

Được nhìn nhận, nhưng không được nghiên cứu sâu, bởi giới phê bình trong thời kỳ chiến tranh 1954-1975, tuy nhiên, vào lúc này, ông quả là một tác giả đáng gờm của giới phê bình văn học Việt Nam, bởi tính đa dạng trong đường hướng sáng tạo, và bởi lý thuyết văn học mang tính tổng hợp. Tất cả điều này sở dĩ có được, là nhờ dựa trên một phát kiến mới mẻ của ông về nhạc tính của thơ.

Thanh Tâm Tuyền thuộc trong số những nhà văn sớm cảm nhận sự huỷ hoại của đất nước Việt Nam chiến tranh triền miên nhưng ông cũng là một trong số những người hiểu thế nào là sống trong một chế độ toàn trị kìm kẹp như chế độ hiện thời, trải qua tù đầy, trại cải tạo, trong nhiều năm ròng rã, dưới sự áp bức của chế độ mới, từ năm 1975 tới 1990. Ông kể lại sau đây, kinh nghiệm viết của ông, dưới áp bức, kìm kẹp.

Kinh nghiệm văn chương của ông trong thời kỳ chiến tranh từ 1954 tới 1975?

Ngoài thơ ra, tôi trải qua hai giai đoạn đánh dấu bằng hai tác phẩm văn xuôi. Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi tôi: "Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử," mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.

Tác phẩm thứ nhì của tôi, Ung Thư (1970) có thể coi như tiếp nối Bếp Lửa. Ung Thư là chấp nhận giữa vô thường và chút hơi ấm của nỗi chết Cuốn sách chẳng bao giờ được in ra.

Vào năm 1974 một người bạn ở hải ngoại hỏi tôi: "Tại sao xuống núi ?" (nghĩa là tại sao phơi đời mình ra giữa những biến động? ), tôi đã trả lời:

... Tôi nhớ là chẳng nhớ gì

như cây kia trút lá mùa già

như khúc củi nặng nề trôi theo giòng nước xuống tới đồng bằng

Nguồn

Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù

Tags: | Edit Tags
Tuesday September 18, 2007 - 06:09am (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Je reviens comme un fantôme humilié
Je reviens comme un fantôme humilié magnify

SANS NOM*
Je reviens comme un fantôme humilié...
Les écrivains exilés vietnamiens en Occident reçoivent souvent les textes des amis écrivains au pays qui vivent de tragiques années d'emprisonnement. En voici un qui revient de l'enfer, sans haine. Le prisonnier libéré devient immédiatement l'exilé de sa ville, de sa maison, de ses proches, du cosmos. L'aliénation efface la mémoire. Le prisonnier-exilé est seul face à son nouveau monde.
L'auteur de ce texte est un poète qui a eu une grande influence dans la vie littéraire au Sud-Vietnam avant 1975. Il a été emprisonné à plusieurs reprises, il est actuellement considéré
comme un des écrivains qui sont les plus « inhumainement » traités par le régime. Ses rares poèmes circulent prudemment au pays et en Occident et constituent par la force du témoignage un cadre solide pour la survie de la mémoire d'un peuple qui s'estperdue dès les premières heures du totalitarisme.


* Par suite de son départ en exil en 1993, nous pouvons maintenant publier le poème avec le nom de son auteur : To Thuy Yen.

Không Tên *

Ta về như bóng ma hờn tủi.

Những nhà văn lưu vong Việt Nam luôn nhận được những bản văn của bạn bè còn ở trong nước. Những người này trải qua những năm tháng tù tội bi thảm. Và đây là một, của một người về từ địa ngục, không hận thù. Người tù được thả ngay lập tức trở thành kẻ lưu vong, đối với thành phố, căn nhà, những người thân quen, gần gụi, và, vũ trụ, của anh ta. Sự vong thân, phóng thể xóa nhòa hồi ức, kỷ niệm. Người tù-lưu vong trơ trọi, đối diện với thế giới mới của anh ta.

Tác giả của bài thơ này là một thi sĩ đã có một ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống văn học tại Nam Việt Nam trước 1975. Ông đã bị bắt tù nhiều lần, và hiện được coi là một trong những nhà văn bị đối xử một cách phi nhân nhất bởi chế độ. Những bài thơ hiếm hoi của ông được lưu truyền một cách thận trọng ở trong nước, và ở Tây Phương, và nó tạo nên, bằng sức mạnh của chứng tích, một cái khung vững chắc, cho sự sống còn của hồi ức, của một dân tộc, đã đánh mất chính nó, ngay từ những giờ phút đầu tiên của chế độ toàn trị.

* Sau khi tác giả ra khỏi nước, sống cuộc đời lưu vong vào năm 1993, chúng tôi có thể điền tên ông vào chỗ Không Tên, ở đầu bài viết:

Tô Thùy Yên: Ta Về

Ta về như bóng ma hờn tủi

Lê Hữu Khoa

[Bản tiếng Việt, dịch từ bản tiếng Pháp, của Tin Văn]

*

Revenir

Je reviens, seule ombre sur un grand chemin,
personne n'a écrit un seul petit poème sur mu chemise,
la douleur noue encore mes tripes,
dix ans, la pierre commence à saisir cette souffrance,
Seigneur, dix ans de mort subite
dans la forêt sacrée et le silence éternel,
dix ans, le visage gris noie son reflet dans les eaux étroites.
Dix ans m ont transformé en singe de la création.
Je reviens à travers les villages, les maisons.
Je regarde, étrange surprise, mon ancien ciel, mon ancienne
terre.
J'entends la fin de la poussière, les jours s'envolent.
Tiens. Le ciel s'est abaissé,
la vie silencieuse et pâle s'est pétrifiée,
dix ans, je vois bien la vieillesse du monde,
la terre aussi a perdu ses couleurs...
Je reviens, semblable à des vers déséquilibrés
par la ruine d'un monde mythique, blanc d'oubli,
toile d'araignée, la fumée, les insectes rampants,
mes anciens invités disparus, mes nouveaux invités absents.
Je reviens, je découvre le fétiche sacré caché,
réveillez-vous bois, réveillez-vous pierres,
écoutez le cauchemar de mes dix ans,
je le dirai une seule fois, puis oubliez-le avec moi,
je me promène cet après-midi seul, indifférent,
je sollicite les arbres et la maison.
les fleurs de pamplemousses s'ouvrent, allez-y,
dix ans. aviez-vous pensé à voire homme lointain ?
Je reviens comme un fils détruit

la vie ruinée et bouleversée.
J'appelle le temps derrière la fenêtre,
les yeux pleins de larmes retenues.
J'entends bien le sang du passé s'écouler.
Je voudrais qu'il revienne
pour savoir que je l'ai perdu...
Je reviens en penchant la tête,
je sens encore le poids de l'univers indulgent,
je remercie les fleurs qui s'ouvrent.
Le monde est joyeux de chaque solitude.
Je remercie, je pleure, mon sang coule encore.
Mes tripes comme des pierres à mes pieds se dénouent.
Je reviens comme un rêve mythique...
la lune reflète mes brûlures,
imprime ma vie, perpétue le souvenir.
Enfant devant la joie et la tristesse,
vivre et se mettre en face de tes oublis.
Je reviens comme un cours d'eau du passé,
des étoiles scintillantes après dix ans sont floues
Mes amis sont-ils déjà morts ?
Pourquoi la vie s'adoucit-elle maintenant ?
Emmenez-moi dans l'obscurité de vos tombes.
Je reviens comme un fantôme humilié
qui se perd dans le temps pour se retrouver seul.
Je ramasse tous les objets abandonnés
de crainte qu'un jour les cendres
n'en soient plus reconnaissables...
To Thuy Yen
Traduit par Le Huu Khoa

Nguyên tác: Ta về [Đặc Trưng]


Tags: | Edit Tags
Monday September 17, 2007 - 05:36pm (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Trịnh Công Sơn: Chim Thiêng Hót Lời Mệnh Bạc
Trịnh Công Sơn: Chim Thiêng Hót Lời Mệnh Bạc magnify

TRINH CONG SON

L'oiseau sacré chante le destin tragique

Un jour se noyer et flotter

[Cũng sẽ chìm trôi]

Ah ! la lune en haut

Assis je suis en bas

La course de l'eau la limpidité

Mon âme l’eau trouble

Les hérons s'envolent crient le calme absolu

Les chemins de la vie proches

Mais les pas ralentissent de fatigue

Ah ! la lune en haut

Assis je suis en bas

Les chemins tordus

La lumière soudaine

Depuis l'oiseau sacré chante le destin tragique

Chaque goutte de l'infini

Se noie disparaît sans appel de retour

Lời Việt::

Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp

Một dòng í-a trong veo, sao lòng ối-a còn đục

Bầy vạc í-a bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng

Đường đời í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân

Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp

Một đường í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột

Từ độ í-a chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc

Từng giọt í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm

Partir et revenir

[Một cõi đi về]

Les années écoulées les départs

Partir tourner la vie les fatigues

Les épaules aux deux bouts de la lune

Le reflet transversal de cent ans partir et revenir

Quelle sera la parole des arbres

Quelle sera la parole de l'herbe étrangère

Un seul coucher du soleil dans l'ivresse

Quelle vie légère appartient déjà au passé

Ruine du printemps ruine de l'été

Un jour d'automne l'écho du galop au loin

Nuage couvre la tête soleil sur les épaules

Les pas s'en vont les rivières savent rester

Soudain l'otage de l'amour m'appelle

A l’intérieur apparaît l'ombre de l’être

Le détour de la pluie dans l'âme

Une pluie fine

Cent ans l'infini la chance de rencontre sera nulle

Quel lieu sera chez moi

Les chemins les détours les cercles en ruine

Le côté a' herbe le côté de rêve

Chaque parole du crépuscule

Chaque parole de la terre des tombes

Voix de la mer des fleuves de leurs sources.

Alors qu'on rentre on se souvient déjà qu'on partira

Partir vers les monts

Revenir vers le large

Les bras de la vie n’offrent jamais l'indulgence

Seul un vent impossible souffle tout au long de la

jeunesse

Trinh Cong Son

Traduit par Le Huu Khoa

Connu avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel, Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.

Được biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.

Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]

*

Note: Tks K. Gấu

Tags: | Edit Tags
Monday September 17, 2007 - 07:42am (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments