*





Nh
ật Ký @ Panat Nikhom, Thailand:

Dec 13 93. The Knight was dying inside his armor (comparing with VC). J. le Carré
Anh Bộ Đội Cụ Hồ chết trong chiếc áo giáp bách chiến bách thắng.

*

Nhật ký những ngày ở trại tị nạn Panat Nikhom Thái Lan.
Có vẻ như Gấu Nhà Văn hồi đó giỏi tiếng Anh, tiếng U hơn bi giờ!


Những dòng đầu là về BHD và ông Bố của em:

Chính là do sự độc ác (?), mà ông bố Bắc Kít muốn con học bác sĩ. Ông muốn cô con gái trở thành cái máy làm ra tiền.
Trong số những cô gái mà Gấu quen, TL [nhân vật chính trong Bụi]  là hạnh phúc nhất, có một tuổi thơ được gia đình chiều chuộng, nhưng căn bịnh đã vượt lên tất cả.

Người ta nói, thành phố, một khi bị lột truồng mọi ảo tưởng, mất đi một cái gì thánh thiện, và xì ra một cái mùi gì đó. Nó trở thành bà già, không còn là thành phố.

13 Tháng 12, 1993. Anh bộ đội Cụ Hồ chết trong chiếc áo giáp bách chiến bách thắng.
Dec 13 93. The Knight was dying inside his armor (comparing with VC). J. le Carr
é


Hà Nội Của Gấu

Gấu, Bắc Kỳ 54. Rời Hà Nội khi vừa mới biết yêu cái cột đèn, cái ngã tư, tiếng còi mười giờ chạy trên thành phố... Vào Nam, Gấu nhớ tiếng còi, nhớ cái tháp rùa đến ngơ ngẩn mụ cả người, bèn tự nhủ thầm, phải kiếm cho được một cô bé Hà Nội...
Cô là em của một người bạn học. Ông anh vợ hụt học dưới Gấu một lớp. Quen qua một người bạn, tên Uyển, hồi ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận.

Kỷ niệm lần đầu tới nhà cô bé, nghĩ lại thấy thật buồn cười.

Ông anh cô khi đó đang học Đệ Tam, ban toán, và ông đã ra câu đố: muốn gặp em tao thì phải giải cho được bài toán hình học này. Chẳng hiểu ông thực tình bí, hay là muốn thử tài, theo kiểu: mày có đủ sức chinh phục con em tao hay không? Hồi đi học, Gấu vốn nổi tiếng là một cây toán. Cô em cũng dân toán, sau học y khoa.
Lên đại học, ghi danh chứng chỉ Toán Đại Cương; tới kỳ thi, không hiểu bài toán muốn gì, Gấu nộp giấy trắng ra về!
Nhà nghèo, Gấu chỉ đủ tiền mua cours của giáo sư Monavon, mà không hề làm một bài tập nào.
Ôi, giấc mộng đã tan mà sao ảo tưởng vẫn còn!

Khi Gấu quen, cô bé mới mười một tuổi, chưa có núm cau. Chưa có gì, chỉ có một nỗi buồn Hà Nội, ở trong đôi mắt thăm thẳm.
Như lạnh lùng tra hỏi: anh yêu tôi hay là anh yêu Hà Nội?
Vừa ra ý ỡm ờ: anh yêu tôi, vì tôi độc?
Và đẹp?

Nhà cô bé giầu, Gấu sững sờ tự hỏi, tại sao lại có nỗi buồn như thế ở trong cô bé mới mười một tuổi?
Sau này thân rồi, cô tâm sự: đi học, H. chỉ có mỗi một cái áo dài trắng độc nhất. Có lần, H. nghe mấy con bạn nói đằng sau lưng: con nhỏ này nó làm bộ nghèo...
Lần cuối cùng gặp cô bé, khi mối tình đã tan vỡ. Cô lúc này coi Gấu như một người thân, nói: H. mới đi chợ cho mẹ, lỡ tiêu quá một chút, anh đưa H. để bù vô. H. rất ghét phải giải thích...
Em gái của cô, mỗi lần thấy bố vô phòng, là bỏ ra ngoài.
Lần cuối cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp mặt là một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ cô bé đưa em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé. Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như nhớ ra, kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay lắm: buổi sáng em thấy chị đi với anh Gấu."
Bạn bè, cô, và cô em gái vẫn gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào giận H. nó sẽ nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm cũ. Khi quá giờ hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm về một cô gái
Hà Nội,
độc,

đẹp...
Độc, là chuyện sau này, do Gấu tưởng tượng ra, khi đi tìm một cái tên, cho một cuộc chiến.
Sự thực, những kỷ niệm về một miền đất, về một thành phố, và về cô bé, chúng thật đẹp.

***** 

"Suốt khoảng phố gần trường toàn nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà cửa sổ chấn song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày nào đi học tôi cũng thấy treo phía ngoài. Chim gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng tiếng hót thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi, chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao su và tôi chẳng còn cách nào hơn là lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi bộ trên hè phố trước mặt chúng nó.
Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim giống như nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm vang lên lập cà lập cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết..."
"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn. Tôi không biết đó là bản gì. Nhưng tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm sao. Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen cao vút đang từ từ vướn lên, vòm lá mở ra để lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa thạch và chi chít sao."
"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì tôi lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội những hầm công cộng dài rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo động nghe hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà Hát Lớn..."
".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi đi qua Phố Huế. Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó thì dừng và hôm đó là hôm nó về lấy gạo nuôi em."    

(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)

Gấu được đi học Hà Nội, là nhờ bà cô lấy chồng Pháp. Một kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Bà cô đẹp, cao, sang, không một chút liên can tới cái làng nghèo đói ven đê sông Hồng. Người ở đó không muốn bà về. Chỉ cần tháng tháng gửi tiền. Vì cũng là một người cùng làng, thằng cháu bị vạ lây, thời gian đầu sống với bà cô.
Có thể, lúc đầu bà cô chỉ nghĩ tới Gấu, do tội nghiệp. Chẳng bao giờ bà hỏi han. Gấu cũng chẳng dám đòi hỏi gì, ngoài hai bữa cơm, rồi lo đi học. Bà cho Gấu ở riêng một căn phòng kế bên nhà bếp. Không được bén mảng lên nhà trên.
Gấu chỉ có một bộ quần áo đi học. Mỗi lần giặt, ủi liền, cho kịp giờ đi học. Có những lần quá ướt, bàn ủi không kịp nóng. Cho tới một bữa, Gấu ỷ y, chạy ra ngoài, khi ngửi mùi khét thì đã xong một bên ống quần.
Đó là một villa trông ra hồ Halais. Nhà của hai ông Tây, đều kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Ông Tây già, là chồng bà cô. Chức vụ chắc thua ông Tây trẻ, vì ông này có tới hai người hầu: một người bếp, một người bồi. Ông Tây già ăn uống đều do bà vợ. Ông bếp già, vào những ngày cuối tuần, chủ đi chơi, thường dắt gái về nằm trong bóng tối hành lang phía trước. Mỗi lần như vậy, Gấu lén lên nhà trên, bò tới sát, chỉ cách bức tường, cánh cửa, rồi hồi hộp lắng nghe. Một lần cô gái làng chơi biết, nói: có người ở bên trong nhà. Ông bếp hừ, hai thằng bé, trời tối mịt, chúng nó chẳng thấy gì đâu.
Mỵ là tên anh bồi. Gấu không nhớ tên ông bếp già. Ông rất thù ghét Tây, tuy làm bồi bếp. Gấu biết từng chi tiết chiến thắng Điện Biên Phủ, là do ông kể. Chắc cũng chỉ từ trí tưởng tượng của ông. Hiệp định Genève chia đôi đất nước, ông về làng, chắc chắn là khổ sở với quá khứ Việt gian. Gấu gặp cả hai vợ chồng anh Mỵ, và đứa con gái duy nhất mới sinh được vài tháng, ở Hải Phòng, những ngày chờ đợi tầu. Thằng em đã về quê, ở với bà vợ lớn.
Lần đó, anh Mỵ nói với bà cô. Bữa hôm sau, bà dẫn Gấu đi mua mấy bộ quần áo. Bà mắng: tại sao không nói. Thấy thằng cháu im thin thít, bà như hiểu ra, giải thích: Tao chỉ ghét mẹ mày. Cả làng cả họ cứ xúm vào gấu váy con mụ me Tây này.
 Không những mắng, mà còn tát cho Gấu vài cái.
Đó là lần bà bắt gặp hai đứa, Gấu, thằng Hìu, em anh Mỵ, trời tối thui mà cũng cố căng mắt nhìn ra phía ngoài...
 
Lếch thếch xách dép, một kỷ niệm như vậy dù sao cũng dễ thương hơn nhiều, so với của Gấu, những ngày đầu học Nguyễn Trãi, với cái quần độc nhất, với đôi guốc lạch cạch nện trên đường phố, trong sân trường. Nhưng dù dép, dù guốc, cũng không bằng chân trần, lúc tan học, nhìn lũ bạn đứng từ ngoài liệng cả dép lẫn cặp vào tới tận gậm giường bên trong nhà, rồi theo nhau chạy ra bãi cát dưới chân cầu sông Hồng, hoặc lang thang bên dưới vòm trời thành phố. Và tiếng còi dễ thương đuổi theo Gấu suốt đời chưa biến thành ghê rợn, nhưng tiếng kèn đồng thê thảm từ một vũ trường gần bờ Hồ theo Gấu mãi, cùng với hình ảnh cô gái bán rau muống bị Tây hiếp đứng co ro cố túm chiếc quần còn rỉ dòng nước nhờn, khi nhìn thấy thằng nhỏ đi học đang bước tới, ngay gần nhà ở ngoại ô Bạch Mai, kế bên đường rầy xe điện.

"Vậy mà không hiểu sao đôi khi tôi cứ nghẹn ngào, không làm sao dứt đứt ra khỏi lòng dạ những xôn xao của cái thời ngốc".
(Lê Minh Hà, Những giọt trầm)

Ngay khi từ biệt, Gấu đã biết, sẽ có ngày cô bé  (Hà-nội?) trở lại, qua một hình bóng khác. Khó mà dứt đứt ra khỏi lòng dạ, một thành phố, một đoạn đời.

 Sự thực, khi gặp ông anh vợ hụt lần đầu, Gấu không hề biết, ông có một người em gái, tên là "cô bé". Nhưng chuyện ông đưa ra bài toán đố là có thiệt. Về già nghĩ lại, bao chuyện may rủi trên đời, đều là do chuyện mê toán của Gấu, kể từ khi còn ở Hà Nội. Người đầu tiên khám phá ra tài làm toán của Gấu là Ông Tây, chồng bà cô.
 Bà cô Gấu, tuy bề ngoài lạnh lùng, nhưng lúc nào cũng để ý đến Gấu, qua... Ông Tây. Một lần bà nói, “Ông Tây bảo, mày còn ngu hơn thằng Hìu, em anh Mỹ”.
 Đó là một buổi chiều, Ông Tây đi làm về. Có bà cô ngồi trên xe. Khi xe làm hiệu rẽ vào cổng, thằng cháu nhanh nhẩu tập làm bồi, mở vội hai cánh cổng bằng sắt. Thằng Hìu đứng bên, dơ tay chặn lại. Không hiểu làm sao nó biết, hai người chỉ đậu xe, về nhà thay đồ, và còn đi shopping.
 Lần thứ nhì đụng độ Ông Tây, là bữa Gấu mê mải làm toán, ngay hành lang trước villa. Dùng phấn trắng vẽ ngay trên mặt gạch. Gấu không nghe thấy tiếng xe, tiếng mở cổng, ngay cả khi Ông Tây tới sát bên Gấu… chỉ tới khi ông hừ một tiếng rất ư là hài lòng, và sau đó bỏ vào trong nhà. Chắc ông đã mê mải theo dõi, và hồi hộp, không hiểu thằng bé nhà quê này có chứng minh nổi bài toán hình học hay không. Ông là kỹ sư, và hình ảnh thằng nhỏ đang say sưa với bài toán đến nỗi quên phận sự làm bồi, không mở cổng cho ông, có thể làm ông nhớ lại thằng nhỏ-là ông ngày nào.
Bữa sau, bà cô mặt mày tươi tỉnh cải chính câu nói bữa trước, “Không, Ông Tây nói, mày thông minh hơn thằng Hìu.”

 Chính Ông Tây mới là người quyết định tương lai của Gấu. Bởi vì bà cô, kể từ đó, đã có ý định cố lo cho thằng cháu ăn học.
Trong quyết định bỏ vào Nam của Gấu, có giấc mơ học giỏi tiếng Pháp, để viết một bức thư cám ơn một ông tây thuộc địa.

Cửa sổ nhà mình nhìn thẳng qua đê - phố Trần Khát Chân.
Xưa sáu tuổi đi sơ tán về buổi chiều vẫn cùng lũ trẻ con mua rau ngay ngõ cuối phố thông lên đê, nơi có mấy bậc gạch kể trong bài.
Nhìn sang đê, biết có những cảnh đời y như của Nguyễn Đình Lạp. Rồi thôi.
Không biết có Đào Nguyễn ở đó.
Hai năm trước về, Nguyễn Xuân Khánh với Dương Tường có mặt ở chỗ mình kí sách. Sao lại có người hiền đến thế, lặng lẽ đến thế, đến mức thành ra những vang vọng của đời.

V/v Ông Tây.

Gấu có hai kỷ niệm thực là tuyệt vời về Ông Tây, chồng bà cô, Cô Dung Me Tây của Gấu.
Kỷ niệm về Toán, kể rồi. 

Kỷ niệm sau đây, sau này, như được lập lại ở 1 số vị bằng hữu, và luôn ở cả ông anh của GCC.
Số là vào Mùa Thu, hay Mùa Đông, ở Hà Nội, ở kế ngay bên hồ Halais, Gấu có thói quen, vào buổi chiều, mò ra cái cổng sắt, và cứ thế tì vào những song sắt, ngắm sương mù mỗi lúc 1 thêm dày đặc trên mặt hồ.
Cứ đứng hàng giờ đồng hồ như thế. Đâu có nghĩ là có ai thèm để ý, vậy mà có lần vô tình ngó lại, nhìn lên, và thấy Ông Tây đứng nhìn thằng bé nhà quê Bắc Kít từ hổi nào hồi nào!
Ui chao, mỗi lần Gấu viết, mà có tí mùi cải lương, là y như rằng, Gấu lại nhìn thấy cặp mắt của Ông Tây, qua mấy vị bằng hữu, và ông anh nhà thơ, nhìn Gấu, ra cái vẻ an ủi, thông cảm, nè đừng có nhè đấy nhé, anh cu Gấu!
Hà, hà!


 Góc Hà nội


Note: Nhân SN Nina và đọc 1 entry về Hà Nội, của LMH

Một góc của Nina …

Cửa sổ nhà mình nhìn thẳng qua đê - phố Trần Khát Chân.
Xưa sáu tuổi đi sơ tán về buổi chiều vẫn cùng lũ trẻ con mua rau ngay ngõ cuối phố thông lên đê, nơi có mấy bậc gạch kể trong bài.
Nhìn sang đê, biết có những cảnh đời y như của Nguyễn Đình Lạp. Rồi thôi.
Không biết có Đào Nguyễn ở đó.
Hai năm trước về, Nguyễn Xuân Khánh với Dương Tường có mặt ở chỗ mình kí sách. Sao lại có người hiền đến thế, lặng lẽ đến thế, đến mức thành ra những vang vọng của đời.

... See More


http://www.tanvien.net/Tho_Poetry/back_street_moscow.html


Những con phố sau của Hà Nội
Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu tôi không có thể về nhà được nữa.

Gấu thì yêu đến khốn khổ khốn nạn cái thành phố quá chớn này.
Nó thì mới dơ dáy, bệ rạc làm sao.
Và làm Gấu nhớ đến những câu chuyện cổ tích ru giấc ngủ ngày nào
Và những âm thanh của con phố làm tim Gấu đau nhói.

Quá nửa đêm, Gấu đi ra ngoài kiếm một cái gì đó cho đỡ khổ
Và cái mà Gấu kiếm đó, là danh vọng.
Thế là Gấu đi đến một quán rượu ở những con phố sau.
Nơi ai cũng biết tên Gấu.

Ồn, dơ, say, và, xỉn.
Nhưng chẳng ai độc ẩm ở đó.
Ở những con phố sau của Hà Nội.
Mấy tay bồi riệu mua cuốc lủi cho Gấu,
Mấy chị em ta khóc ròng khi nghe đọc thơ của Gấu

Tim Gấu đập, mỗi lúc một nhanh thêm
Và Gấu nói với tên say gần bên cửa –
“Ta thì cũng như mi thôi, đời ta là một thảm họa
Và ta không thể trở về nhà được nữa.”

Nhà trại thui thủi, chẳng cần Gấu, cũng thui thủi
Và con chó già của Gấu thì lùi lũi chuồn ra khỏi cửa
Chúa biểu Gấu, thôi, hãy về chết ở trong những con phố sau.
Và Gấu không có thể về nhà được nữa.

* *

Trong cuốn The Penguin Book of Russian Poetry, có tay này.
Khalamov, kẻ sống sót Trại tù Gulag số 1 của Liên Xô, Kolyma, cho biết, đám anh chị trong thế giới ngầm Nga, rất mê Sergey Yesenin.
Gần như tên nào cũng thuộc "Thư Gửi Mẹ" của ông.

Kolyma Tales
http://www.tanvien.net/dich/kolyma_tales.html


Sergey Yesenin (1895-1925)

Born into a peasant family in the province of Ryazan, Sergey Alexandrovich Yesenin began writing poetry at the age of nine. He moved to Moscow in 1912, working as a proofreader and then studying for eighteen months at Moscow University. In 1915 he moved to Petrograd, where he became known in literary circles -largely thanks to the support of Alexander Blok - as a leading figure in a new group of 'peasant poets'. His first book, Ritual for the Dead (Radunitsa) won him wider popularity. In late 1918 he founded his own publishing house and, together with Anatoly Mariengof, a literary movement known as Imaginism. With its emphasis on startling imagery, this is best seen as a precursor of Surrealism; it has nothing in common with the more classically inclined Imagist movement founded in London by Ezra Pound.
    In late 1921 Yesenin met the American dancer Isadora Duncan. Knowing almost nothing of each other's languages, they married in May 1922. Yesenin accompanied his wife on a tour of Europe and the United States, but the marriage (Yesenin's second) lasted less than a year; Yesenin's first and third marriages were equally short-lived. An affair in 1924 with the poet Nadezhda Volpin produced one son, Alexander Yesenin-Volpin, who became a poet and a leading Soviet dissident.
    During 1924 and 1925 Yesenin wrote many of his finest poems. But his alcoholism grew severe and in November 1925 he was hospitalized after a nervous breakdown. On 27 December, two days after his release, he cut his wrists and wrote a farewell poem in his own blood; the following morning he hanged himself in the icon corner of his room in the Hotel Angleterre in Leningrad, where he had stayed in 1921 with Isadora Duncan. His farewell poem is remarkable for its grace.
    A Romantic, Yesenin had welcomed the Revolution but had soon been disillusioned. His long poem 'Pugachov' (1921), about the eighteenth-century peasant rebel, was a coded expression of sympathy for the huge peasant uprising against the Bolsheviks that year in the province of Tambov. He wrote poems in praise of Lenin after his tour of Europe and the United States, but his central themes - peasant Russia and low-life Moscow- were seen as anti-Soviet and he was harassed by the secret police. Both before and after his death (about which conspiracy theories still abound) Party officials made out that his work was corrupting Soviet youth. These attacks on Yesenin were an important stage in the process of the 'sovietizing' of Russian literature and it was in their context that Mayakovsky wrote his own poem on Yesenin's death (page 324). Though not uncritical of Yesenin, Mayakovsky reserves his fiercest criticisms for his attackers.
    Yesenin is often considered sentimental, but his best poems are strikingly honest. His regret for the passing of 'village Russia' coexists with a dear acknowledgement that he himself could never return to that world. His 1924 collection Moscow of the Taverns evokes the lives of thieves, prostitutes and down-and-outs with affection but without false glamour. And he is honest about himself. 'The Black Man', written a month before his death, begins:

My friend, my friend,
I'm ill, I'm very ill.
I don't know where this illness has come from:
whether it's the wind
whistling over a deserted field
or whether it's alcohol
stripping my brain
like a grove of trees in September.

    Yesenin also writes well about animals. One poem describes a bitch dragging herself back home after watching her puppies being drowned; for a moment she sees the moon over her own-
ers' hut as one of these puppies, still alive. Another poem describes a colt in the steppe, racing after a train as if unaware that a railway engine is now worth as much 'as many tons of horseflesh and skin'. Shalamov - whom no one could call sen- timental- has written, 'A large part of nature - animals - has been left outside the remit of lyric poetry. Only children's poets and composers of fables ever write about animals. It is Yesenin who shows us with what powerful kindness, with what spirit- ual warmth, it is possible to write about animals'.
    Shalamov also tells us that Yesenin was much loved by the Russian criminal underworld. A general contempt for women coexisted in this world with a cult of the mother, and 'literally every criminal' knew Yesenin's 'Letter to my Mother' by heart. They also often had his lines tattooed on their bodies. Among the most popular were the last words of the poem beginning 'Poor poet': 'I bet on the Queen of Spades, / but I played the Ace of Diamonds.' The Ace of Diamonds, sewn on the back of prisoners' uniforms in tsarist times, was a general symbol for criminality.
    Recalling her childhood in the 1970s, Irina Mashinski writes: 'Every day, on my way to and from school, I would cross Yesenin Boulevard, where there was a funny-looking statue of a musing poet with a book in his hand. Local drunks - of whom there were many - would gather there at night, not necessarily to recite poems. But they loved Yesenin and considered him one of them.'

Mist climbs from the lake.
Fields bare after harvest.
Beyond blue hills
the sun rolls to its rest.

Splintered, deep in ruts,
the weary road thinks
it cannot be long now
till grey-haired winter.

In the misty, resonant grove
I watched yesterday
as a bay moon, like a foal,
harnessed herself to our sleigh.
 
(1917)
Robert Chandler

Letter to My Mother

Greetings, old woman! How are you?
Are you well? As for me - I'm all right;
and I hope our old house is still bathed in
that ineffable evening light.
But I hear that you fret for my safety,
though you try to conceal your distress;

that you're often seen wandering the highway
in your old-fashioned country dress.
And they say that you see a recurring
dream as the dusk starts to fall-
of some hooligan thrusting a dagger
through my heart in a barroom brawl.

Cheer up, old woman! Don't worry:
it's all a preposterous lie;
for, although I'm a scandalous drunkard,
still, I'll see you before I die.

I'm the same loving son as always,
and my only ambition's to come
back alive from this chaos and madness
to visit once more my old home.

I'll return in the spring when the blossom
has covered our garden in white;
but promise you'll no longer wake me,
as before, with the first morning light!

Don't fret over what never happened,
don't revive the old dreams -let them go;
from my ea;liest days disappointment
is all I've been fated to know.

And don't teach me to pray - it's not worth it!
The old days will never come back;
you alone are my one consolation,
you alone are the light which I lack.

 So forget your imaginary worries
and learn how to curb your distress;
and stop wandering about on the highway
in your old-fashioned country dress.

(1924)
Stephen Copus


Anh Môn
hay là Miền Đã Mất 

Hà Nội là cái quái gì!
Tôi còn Mai Thảo yêu vỡ Hà Nội khi về
Thanh Tâm Tuyền

Le Grand Maulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là “bản gốc”, cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby? “Bạn nào biết, làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm phiền tôi lắm lắm…”.
Nhưng đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:
  "Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.
 [I like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not when it usepts or exceeds it].
  Fowles viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.

 Đúng là ao ước về một độc giả lý tưởng, người yêu lý tưởng: Hãy chiêm ngưỡng, nhưng nhớ đừng tra hỏi. Như thể họ sợ rằng, “sờ” vào đó, hoặc quá nữa, mở nó ra, là một việc làm báng bổ, phạm thánh! Một cuốn sách như thế, một nhan sắc như thế, là để thờ phụng chứ không phải để sàm sỡ! 

Tuy nhiên, Fowles nói, nếu độc giả Anh ngữ, muốn tìm hiểu, có thể đọc cuốn  “Anh Môn” của Robert Gibson, trong loại sách hướng dẫn đọc những bản văn tiếng Pháp, của nhà xb Grant and Cutler, London, 1986.

 Le Dur Désir De Durer: Ao ước cương cứng được trường tồn. 

Frédéric Beigbeder truy tìm nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”, “de” là từ tiếng Latinh “siderere”: ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước một ngôi sao đã mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ tôi với”, nhưng chẳng bao giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi không phải một cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.

Như tác giả của nó, đã viết cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je cherche l’amour” [Tôi tìm tình yêu]. 

 Ở miền nam, Anh Môn có một vị trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch [Saint-Exupéry]. Ông bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn này lắm. Nhưng cái ngôi sao thất lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều, lại chính là…. Hà Nội! Người tình mà bạn tôi tìm kiếm, là Hà Nội, theo như tôi hiểu được, qua lời kể của bà xã của anh, Chị Văn, qua một lần trò chuyện viễn liên, sau khi Gấu tôi được tin anh mất, và xin được số điện thoại của gia đình. Gia đình không còn ở con hẻm đường Trương Minh Giảng, gần cổng xe lửa số 6 nữa, mà rời về Phú Nhuận. Cô con gái lớn đã lập gia đình, và hiện đang ở Mỹ. 

 Chị cho biết, thời gian trước khi mất, anh Hiến [Joseph Huỳnh Văn] vui lắm, chứ không như những ngày đó đâu. Bạn nhiều lắm, nhất là mấy anh trẻ, rất mê thơ, và rất quí mến anh Hiến. Họ định ra một tạp chí Thơ, y như hồi các anh làm tờ Tập San Văn Chương, nghĩa là kéo nhau ra quán tối ngày. Anh Hiến mất cũng tại một quán cà phê. Chị bùi ngùi nói, anh có bịnh tim, đang ngồi nói chuyện gục xuống, giá mà mấy người bạn để anh nằm nghỉ thoải mái, và thoa bóp cho anh, thì chắc không sao. Họ cuống lên chở vội tới một tay bác sĩ, tay này sợ trách nhiệm, hối chở ngay tới bệnh viện, dọc đường anh mất… À, mà anh biết không, anh Hiến có một bài thơ về Hà Nội. 

Tôi hỏi: Anh Hiến có ra Hà Nội lần nào, chị nói chưa.
Hỏi bài thơ, không có. Không có chứ không phải không còn. Và nói có, thì bài thơ cũng chỉ ở trong đầu anh Hiến… 

 Chuyện như thế này:
Vào những ngày anh Hiến như sống lại, nghĩa là anh lại có hứng làm thơ, anh cứ lẩm nhẩm ở trong đầu, một bài thơ về Hà Nội. Lâu lâu, hứng lên, giữa đám bạn bè mới quen, anh đọc một, hoặc hai câu. Nghe họ kể lại, hay lắm. Nhưng hỏi xong chưa, anh nói chưa xong, chưa được…

Rồi anh mất, và bài thơ đi luôn cùng với anh. 

Lạ một điều hỏi mấy anh từng nghe anh đọc, một hay hai câu mà họ nói là hay đó, chẳng ai nhớ, dù chỉ một từ, một hình ảnh…. 

 Nghe kể lại, tôi biết, anh nhớ tới thằng bạn Hà Nội đã đi xa, và những ngày đầu hai đứa quen nhau, khi làm tờ Tập San Văn Chương.

 Cũng là những ngày hai đứa luôn nói về Thơ,

Và, lẽ tất nhiên, về Huế.

Và Hà Nội.

Frédéric Beigbeder viết: Có thứ tình kiểu cách, có thứ đam mê lãng mạn. có thứ tình thăng hoa kiểu Stendhal; Alain-Fournier sáng tạo ra cú sét đánh một chiều (coup de foudre unilatéral). Ngay một khi hai chiều, nó trở nên chán ngấy! Yêu thì đẹp, nhưng trường kỳ được yêu, là không thể chịu đựng nổi. Trong một cặp như vậy, một người đau khổ, và một người buồn bực. Tốt nhất, nên làm kẻ đau khổ, nghĩa là kẻ đi tìm tình yêu, chứ đừng làm một kẻ buồn bực. 

Và như tất cả những cuốn tiểu thuyết dành cho tuổi mới lớn: chúng đòi hỏi một điều thật là ác nghiệt, rằng, những kẻ đẻ ra chúng tôi, phải chết trẻ. Kẻ Xa Lạ của Camus, Ông Hoàng Nhỏ của Xanh-Tếch, Boris Vian, năm 39 tuổi, Raymond Radiguet, 20 tuổi… Alain-Fournier, trung uý, tử trận năm 28 tuổi, tại khu rừng Saint-Rémy, ngày 22 tháng Chín năm 1914.
 

Fowles đọc Anh Môn hồi còn trẻ, và sau này, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của riêng mình, Magus, dưới bùa chú của Anh Môn [“ảnh hưởng rất nhiều bởi Anh Môn”: very much under its influence, như ông viết trong tiểu luận nói trên]. Hơn thế nữa, ông hành hương tới những thánh địa, của cả hai, cuốn sách và tác giả của nó. “Nói gắn gọn, tôi trở thành một cây si, lúc nào cũng cảm thấy mình gần gụi với Fournier hơn bất kỳ một tiểu thuyết gia nào khác.” 

Cũng là thường tình, theo ông, bởi vì đây là một khía cạnh thuộc bùa chú của một cuốn sách mà bạn đọc vào lúc mới lớn, và bị nó hớp hồn. Sau này, cho dù bạn cay đắng khắc nghiệt hơn, trong cách đọc của mình, nhưng chẳng thể nào nặng lời với mối tình đầu tuyệt vời đó. Tôi nhắc lại, đây chỉ là một khía cạnh của bùa chú, bởi vì, trong rất nhiều trường hợp, khi đọc lại một cuốn sách mà hồi nhỏ bạn đã từng say mê, bạn ngạc nhiên về chính mình, một cuốn sách dở như vậy, mà cớ sao… 

Con gái thấy chó đái cũng cười: Vấn đề trên thực sự không liên quan tới văn chương mà tới tuổi đầu đời, khi con người [còn] ngạc nhiên vì sự tự nhiên của sự vật: thời đại hoàng kim của nhà văn đếch cần văn chương [écrivain sans littérature]. Nếu ao ước có nghĩa là ao ước một vì sao đã mất, điều mà Fournier chỉ ra, chính là một trong những phát giác cay đắng nhất của tuổi trẻ. Cái cô con gái nhìn chó đái cũng cười, vào một buổi tắm sông, cảm thấy, rồi nhìn thấy một dòng nước nong nóng, hồng hồng chảy từ trong mình xuống hai bên đùi, biết rằng mình đã ra khỏi tuổi thơ, và biết thêm một điều, về sự mất mát do thời gian trôi qua đi và không hề trở lại, rằng không thể tắm hai lần trong một dòng sông… Đó là cái tuổi mà chúng ta biết rằng chúng ta chẳng thể làm mọi điều mà chúng ta mơ mộng, rằng nước mắt là bản chất của mọi chuyện ở trên đời, “buồn hay vui đều cần tới nó” như cô viết trong truyện ngắn Những Dòng Sông [Thảo Trần]…. Nói gắn gọn: đột nhiên, chúng ta nhận ra rằng cái nghịch lý đen thui, khốn khổ khốn nạn nằm ở ngay trái tim của phận người: thoả mãn ao ước là cái chết của nó [… that the satisfaction of the desire is also the death of the desire].

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến… nhé!

 Như bài thơ mang theo cùng chuyến đi sau cùng của bạn tôi.

Như Hà Nội chẳng bao giờ tới được…

Merde! 

NQT