|
- How can I survive... (1)
-
Vườn sau nhà
Khoảng thập niên 1980,
khi làn sóng vượt biển lên cao, đám viết mướn không chỉ có khách hàng
có bà con vượt biển, đã ở trại tị nạn, hay đã định cư nơi đệ tam quốc
gia, mà còn cựu nhân viên hãng sở Tây, những người đi lính cho Pháp. Họ
cũng ra nhờ đám viết mướn, hoặc làm đơn xin đi Tây, hoặc đòi tiền trợ
cấp, tiền ráp ben…. Chính vì vậy mà đám Nguỵ viết muớn trở thành một
cái gai, và do đó xuất hiện những người viết quốc doanh, hợp pháp, có
băng đỏ ở cánh tay, không ngồi vỉa hè mà ngay bên trong Bưu Điện. Lần
trở về Sai Gòn, năm 2000, tôi có ra Bưu Điện, nhưng cảnh cũ người xưa,
chẳng còn. Bưu Điện vắng hoe.
Do chính sách mở những bưu cục nhỏ, ngay tại từng khu vực, phố xá đông
đúc, Bưu Điện chính Sài Gòn đã không còn nhộn nhịp như xưa. Tôi không
bước vào bên trong, nên không gặp những đồng nghiệp có băng đỏ trên
cánh tay.
*
Trong những giai thoại viết thư tình giùm này, bảnh nhất, có lẽ là giai
thoại được đưa vô 100 truyện ngắn hay nhất thế giới. Câu chuyện một ông
linh mục dậy hai trường, nam và nữ, phân biệt nhau, cách nhau bằng cả
một dòng Bến Hải. Thế rồi có hai anh chị, anh ở bên này sông, em ở bên
kia sông, cùng uống dòng Bến Hải, mà đem lòng thương nhau. Và cả hai
bèn mượn cái nón... cối của vị linh mục làm cái hộp thư.
Một bữa, ông linh mục khám phá ra cái hộp thư tình nóng bỏng, ướt át,
"Have U ever seen the rain?", "I will be right here waiting for you,
How can I survive this moon?" [Làm sao anh qua khỏi con trăng này?]....
Ui chao con trăng này,
bị trù yếm sao đó, biến thành 30 năm nội chiến từng ngày!
Thì cũng kiểu 10 ngày
học tập cải tạo!
*
(1) How can I survive without your mail?
-Xạo!
*
Vị linh mục, sau khi
khám phá ra cái nón của mình biến thành hộp thư, thú quá, cứ để yên để
đọc lén, cho đến một bữa hai anh chị giận nhau, và thư tình đang ướt
át, bỗng biến thành cay đắng, mặn chát, và tình hình căng quá, sắp đi
đến đoạn tuyệt!
Thế là vị linh mục bèn
mạo chữ, của cả hai bên, và đánh tráo thư.
Cuộc tình đi đến một kết
thúc tốt đẹp, và vị linh mục được cả hai bên mời đi dự tiệc cưới.
*
Trong một
tuyển tập những truyện ngắn ngoại, được gọi là “hay nhất thế giới”
người viết được đọc những ngày mới lớn, có câu chuyện một vị linh mục
dậy tại hai trường nam nữ phân biệt. Có hai cô cậu, mỗi người ở một đầu
sông Tương, nên đành lấy cái nón ở trên đầu vị linh mục làm nơi hò hẹn.
Nói rõ hơn, cái nón của vị linh mục chính là một hộp thư lưu động giữa
hai ngôi trường. Một bữa vị linh mục tình cờ biết được bí mật, và ông
bị cuốn hút bởi những lời lẽ trong những lá thư tình. Nhưng vì một giận
hờn, hay một hiểu lầm, cuộc tình có dấu hiệu đi đến tan vỡ. Vị linh mục
bèn mạo chữ viết, làm một cuộc hàn gắn. Sau cùng đi đến hôn nhân.
Trong Tình
Yêu Thời Thổ Tả của Garcia Marquez, cũng có một câu chuyện tương tự như
vậy. Nhân vật chính yêu một cô gái. Cô gái đi lấy chồng. Anh chàng
quyết tâm đợi khi nào anh chồng chết, sẽ cưới cô gái. “Một người đàn
ông với linh hồn của một thi sĩ, và sự kiên nhẫn của một vị thánh”:
Florentino Ariza đã kiên nhẫn đợi hơn nửa thế kỷ; “tình yêu trong khi
đợi chờ” của anh trải dài 51 năm, 9 tháng, và 4 ngày; trong khi chờ đợi
người yêu “thứ thiệt” như vậy, anh đã trải qua 622 chuyện tình ái lăng
nhăng, cho qua thì giờ, nhưng cũng thuộc loại dài hạn (long-term
liaisons). Và khi cuộc đời thực sự của anh bắt đầu, anh nói với người
yêu: anh vẫn còn là trai tơ! Nàng tuy không tin tưởng cho lắm, nhưng
lại mê cách anh nói câu đó: không vướng chút bụi trần! (But she liked
the spirited way in which he said it).
Tình Yêu thời
thổ tả
*
Nên mừng cho
thằng bạn của chúng ta!
Số là, khi em mất, một anh bạn
thương tình mail cho biết. Gấu Cái đọc được, tức điên người, bèn mail
trả lời, nhận được mail, Gấu té xỉu đưa vô bệnh viện rùi.
Ông bạn
hoảng quá, nhưng, bán tin bán nghi, bèn phôn cho một anh bạn khác, cũng
bạn thân thời đi học. Anh này biết rất rõ mối tình nhớn của Gấu với BHĐ.
Bèn gật
gù, chắc thiệt đấy mày ạ. Thằng Gấu lại sẵn bịnh tim. Dám đi theo em
luôn!
Mail cho
một ông bạn ở tận Berlin. Ông này mừng rỡ, nếu đúng như
thế, thì Gấu, bạn của chúng ta đúng là nhà văn nhớn. Đám loi nhoi, tép
riu, người bình thường như lũ chúng mình làm sao có được một cái chết
hách xì xằng như thế. Nên mừng cho bạn của chúng ta!
Gấu Yankee
mũi tẹt
- 30 tháng Tư.. Nhìn lại Văn Học Hải
Ngoại
-
Lời
Ước
Nhìn lại thế kỷ, tuần báo Văn Học Nghệ Thuật trên
lưới (internet), do Phạm Chi Lan chủ trương, có làm một cuộc phỏng vấn
bỏ túi (mini). Trong số những câu hỏi có một: Anh/Chị coi Y2K là một ý
niệm hay một sự kiện?
Văn học hải ngoại hình như mang cả hai yếu tố: như một ý niệm, khi vẫn
luôn luôn phải nhìn lại chính nó, tự hỏi về chính nó, liệu có một dòng
văn học hải ngoại, sau cuộc tháo chạy tán loạn, mất quê hương, chọn
biển cả thay vì đất liền, để dựng nước mới.... hay như một sự kiện quan
trọng: cùng nhân loại chấm dứt thế kỷ hung bạo, với những biểu tượng
của nó là Hitler và Lò Thiêu, Stalin và trại cải tại, Pol Pot và cánh
đồng giết người...
Trong một truyện cực ngắn, Lời Ước, Walter Benjamin
kể chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người Do Thái, từ xóm đông xóm
đoài kéo nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng. Chuyện bá láp
một hồi, một ông đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời ước của
mình. Thôi thì đủ thứ ước ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu
nhập, thêm chiếc xế... Khi đã chán chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ"
ngồi thu lu ở một góc. Chẳng ai biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra
một nhân vật cái bang. Anh ta cũng không tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước
của mình:
-Tôi ao uớc được làm một vị hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì một vương
quốc thẳng cánh cò bay; một đêm đang ngủ trong tòa lâu đài của tôi,
quân thù thình lình vượt biên giới và trước khi ánh dương đầu tiên xuất
hiện, đám giặc đã vào tới bên trong lâu đài... Tôi chẳng còn đủ thì giờ
vớ đủ bộ quần áo, cứ thế chạy trối chết, ngày này qua ngày nọ, đêm này
qua đêm khác, cuối cùng tìm được một chỗ trú ẩn, là góc quán này. Đó là
lời ước của tôi.
Cả bọn, người nọ ngó người kia, chưng hửng.
-Thế anh có thêm được một món đồ nào không?
-Có, một chiếc áo thun!
Liệu chúng ta có thể nhìn lại văn học hải ngoại, bắt đầu bằng lời ước
của nhân vật cái bang kể trên?
Thật khó mà quên được lời ước, với bất cứ một người
Việt nào đã từng kinh nghiệm cuộc bỏ chạy tán loạn. Nhưng với thời
gian, nó biến đổi, hoặc bị những lời ước khác, tức thời hơn, khẩn cấp
hơn, làm quên lãng.
Những tác phẩm văn học trong những năm qua cho thấy, hai mặt của cùng
một lời ước đó. Có những cuốn sách mà người ta cho rằng, đã hội nhập,
không còn hoang tưởng, hết còn ở trong ghetto.
Ở đây, cần phải nói rõ một điều, người ta đã lầm
lẫn, hoặc đã cố ý đồng hoá, một tác phẩm văn học với một số hiện tượng
xã hội. Cho tới nay, chẳng hề có một tác phẩm văn học nào hoang tưởng
đến độ, muốn dấy lên một cuộc chiến, để tái lập một chế độ. Và cũng
chưa có tác phẩm nào cho thấy, con người Việt Nam đã hội nhập thực sự ở
quê hương mới. Tôi thật sự không tin, những tác giả của những cuộc tình
chốc lát ở nơi đất người, trong lúc kiếm sống, lại tự hào mình đã hội
nhập! Họ thực ra là đã từ bỏ đề tài những năm ngay sau 1975, mà chủ yếu
là tố cáo cái ác của chủ nghĩa Cộng Sản, và hậu quả của nó, những thảm
họa khi vượt biển tìm tự do. Bây giờ, hoặc là đề tài này không còn ăn
khách, hoặc là chính tác giả của chúng cũng chán, hoặc nội lực không đủ
để đương đầu với nó, bèn quay ra kể chuyện cuộc sống thường nhật của
người Việt, đã có một công ăn việc làm ổn định, đã có va chạm chút xíu
với người bản xứ. Va chạm chút xíu, nhưng không phải là xung đột, bởi
vì ở đâu có hội nhập, ở đó có xung đột; theo nghĩa, anh mới tới muốn
nơi đây thoải mái như là nhà của mình, còn chủ nhà thì muốn chui vào
tận trong ngõ ngách tâm hồn người khách, để coi nó có gì khác ta.
Nhà văn, nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến
động. Nếu những năm sau 1975, đề tài trại cải tạo, vượt biển có lượng
nhưng thiếu phẩm, những năm gần đây, đề tài này trở lại, trầm hơn, nặng
hơn, và dĩ nhiên chất lượng hơn. Ở những tác phẩm trước đó, tác giả thi
nhau tố cáo cái độc, cái ác, và những đau khổ mà bản thân hay gia đình,
và đất nước đã phải chịu đựng. Vô tình, chỉ có tính chính trị, thời
cuộc. Kundera đã chỉ đích danh tác phẩm được coi là khuôn mẫu của văn
chương chống cộng, cuốn 1984 của Orwell: đây chỉ là chính trị giả danh
văn chương. Tác phẩm 1984 giản lược chế độ Cộng Sản vào danh sách những
tội ác của nó, và như thế, vô hình trung, cũng rơi vào thế giới xám xịt
của những trại tù! Rồi ông chứng minh, ngay cả trong thế giới mê cung
là Vụ Án, hay Lâu Đài, nhân vật của Kafka cứ hở được chút nào là loay
hoay kiếm một cái cửa sổ, để thở! Và ông nhặt ra được không biết bao
nhiêu là chi tiết thơ, trong một thế giới không thơ, là thế giới mê
cung, tức thế giới toàn trị.
Hơn nữa, khi hăm hở tố cáo, chính nạn nhân không biết, không còn có thì
giờ nhận ra, cái phần tha hóa ở nơi họ: bất cứ một con người nào, ở
trong thế giới đó, cũng bị tổn thương. Nói như Todorov, chủ nghĩa Cộng
Sản là thử nghiệm tối hậu về đạo đức của con người.
Nhân vật chính, viên sĩ quan trong Đá Mục của Thảo
Trường, có vẻ như thấy hết, hiểu hết, và tỏ ra có một thái độ vượt lên
khỏi những đau thương, giận dữ; nhưng được như vậy, là nhờ đệ tử, một
anh lính truyền tin. Anh này làm độc giả nhớ tới nhân vật chính trong
Một ngày trong đời Ivan Denisovich, của Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục
chắc khó quên "xen" đệ tử kiếm việc làm nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ
lầm lẫn trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là của con heo đực).
Thảo Trường đi tù tất cả 17 năm. Qua đây, ông đã cho xuất bản liền mấy
cuốn, riêng trong năm qua là Đá Mục và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu Quả. Trong
một phỏng vấn trên đài Kicon, mạng Internet, ông cho biết, trong tù ông
cứ thế nghiền ngẫm, và đã "bỏ túi" năm bẩy cuốn sách, qua đây tuần tự
xuất bản. Ông sống lại một lần nữa thời gian dài 17 năm. Nhưng nếu
chúng ta theo sát những bài viết của ông, sẽ nhận ra, đã có dấu vết
thay đổi, giữa những truyện ngắn đầu, và mới đây. Tác giả tuy bỏ túi
vài tác phẩm thực, nhưng khi viết ra, nó không giống như là lúc ông còn
ở trong trại tù, đã tưởng tượng mặt mũi của chúng. Ông ngày trầm hơn,
văn ngày thấm hơn, vượt lên nỗi cay đắng còn đè nặng hồi ức những ngày
tù.
Ở Lâm Chương cũng vậy. Khi trả lời phỏng vấn, hình như ông cho biết,
chỉ vào nhà tù, ông mới biết căm thù nghĩa là gì. Nhưng càng viết, ông
càng bớt căm thù. Bởi vì, hận thù, với một nhà văn, là thất bại của trí
tưởng tượng. Trong truyện của ông, người đọc nhận ra những cay đắng,
nhưng còn nhận ra, vết thương đang lành.
Trong một bài tổng quan, thật khó mà đưa ra chi tiết
chứng minh, hy vọng sẽ có dịp được viết rõ hơn về từng tác giả, trong
năm 2000. Vả chăng, khi người ta "trung thành" với một điều gì, cùng
lúc người ta "phản bội" một điều khác: chống Cộng, ở một số nhà văn
Miền Nam mang tính công dân (thù nhà, nợ nước?), hơn là mang chất văn
chương.
Chính chúng ta, độc giả, khi phải nhìn lại (đọc lại) một số tác phẩm
văn học, cũng thấy mình đã đổi khác. Tác phẩm có thể vẫn vậy, nhưng con
người đổi khác. Trước đây, những độc giả Miền Nam thật khó mà chấp nhận
một tác phẩm của một người ra đi từ Miền Bắc, lại có thời rất thân cận
với cung đình Bắc Bộ Phủ, như Vũ Thư Hiên. Và người ta nhận ra một
điều, ngay cả những lúc phải "ăn nằm" với chế độ toàn trị, tiếng nói
của một miền đất vẫn giữ riêng cho nó một khoảng cách. ["Đi tù với một
bông hồng", là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa, trên báo Diễn Đàn,
về tác phẩm "Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên.]
Rõ rệt nhất là ở Lê Minh Hà, với hai tác phẩm xuất
bản liền trong hai năm vừa qua, Trăng Góa, và Gió Biếc.
Có người cho rằng ở Lê Minh Hà, truyện không ra truyện, tủn mủn, manh
mún. Với Gió Biếc (1999), có người chỉ thấy những cảnh đời nhếch nhác
của một số người Việt, phải bỏ nước ra đi, rồi cố tìm cách để khỏi phải
trở về. Nhưng vẫn như trong trường hợp Kundera nói về sự khác biệt giữa
Orwell và Kafka: Bạn phải kiếm cửa sổ để mà thở, thay vì cố chứng minh,
đây là những nhà tù!
Vẫn có những tác giả đã không thể quên ước mơ thoạt đầu, ngày xưa. Họ
không nói tới, nhưng chúng ta cảm thấy, qua cách viết, qua hành động
của nhân vật. Trong truyện ngắn Biển (của Miêng) là chia sẻ tấm áo
thun, ở đây là những giọt lệ nhỏ xuống cho một kẻ điên khùng, không còn
nhận ra chính mình, nhưng lại nhận ra người vợ, và qua đó, những đứa
con đã chết trên biển cả. Hay như Kẻ Lạ (của Hồ Như), khi trở về, và
nghe quê hương xì xào: Kìa ai như Cô Thắm... Hay như nhân vật trong
truyện Trở Về (tạp chí Hợp Lưu) của Phạm Hải Anh, về để thấy rằng, quê
hương không từ chối anh. Hay như nhân vật Nữ Độc Thủ của Linda Lê la
lên: Ông ta chết rồi, hãy để cho ông ta yên thân!
[Note: Bài viết cũ, từ năm 1999. NQT]
*
Đừng gọi
ta là hiệp sĩ mặt buồn nữa!
Walter Benjamin, trong một truyện cực ngắn khác, Chữ
Ký, kể câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ hoàng Catherine, ở Nga. Vị
cận thần của bà, Potemkine, đang trong cơn sa sút tinh thần trầm trọng,
kéo dài ngày này qua ngày khác. Không ai được tới gần căn phòng của
ông. Không ai dám xì xào về căn bệnh của vị cận thần sủng ái. Khổ một
nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ trình nữ hoàng, là phải có chữ ký của
Potemkine. Đám quan chức hàng đầu trong triều không biết phải giải
quyết ra sao.
Bữa đó, may quá, một viên chức thuộc loại vô danh tiểu tốt, tên là
Chouvalkine, không hiểu vì lý do nào, lại có mặt tại căn phòng bầu dục.
Thấy mấy sếp mặt mày nhăn như bị, anh ta mới rụt rè vấn an, và khi biết
được sự tình, bèn xung phong: để em xông vô phòng, với mớ giấy tờ cần
chữ ký của Ngài Bí Thư. Mọi người thấy, đâu có mất gì, bèn gật đầu.
Chouvalkine ôm mớ giấy tờ, mở cửa phòng, thấy Ngài Potemkine đang ngồi
mơ màng trên chiếc ghế bành. Anh tới gần, Ngài cũng chẳng biết. Thế là
anh cầm cây viết, chấm mực, dí vào tay Ngài; và Ngài cứ thế ký lia lịa,
hết tờ này tới tờ khác. Xong, anh trở ra. Mọi người vồ lấy mớ giấy đã
được thị thực. Mở ra, tất cả các chữ ký, từ chính tay Potemkine, nhưng
đều biến thành... Chouvalkine!
Với câu chuyện cực ngắn Chữ Ký, chúng ta nhìn về trong nước. Cái me-xừ
Potemkine, phải chăng là chủ nghĩa hiện thực xã hội (thứ thiệt?), mà
những anh chàng Chouvalkine vẫn hy vọng viết dưới ánh sáng của nó?
Trong bài viết Nhân Văn (Humane Literacy) George Steiner
khẳng định: không một chế độ chính trị nào có thể yểm bùa chú lên những
tác phẩm của nhà văn, khiến cho nó vĩnh viễn chìm vào trong quên lãng,
hay bóp méo nó, và cho dù những cuốn sách có thể bị tiêu huỷ, nhưng tro
than sẽ được vun vén, và giải mã. Khi nhà nước CS đành phải cho xuất
bản những tác phẩm văn học của Miền Nam trước 1975, điều này chứng tỏ:
con chim phượng hoàng đã tái sinh. Ở hải ngoại, nếu nó được tái sinh,
thì cũng không do những ông lái buôn làm giầu từ những tác phẩm vơ vét
đem xuống tầu cùng với họ; cũng không phải bởi các tác giả may mắn đi
từ những ngày đầu, rồi vào thư viện Mỹ sao chép lại… Chúng vẫn chỉ là
tro than. Từ đó, một con phượng hoàng song sinh sẽ tái xuất hiện.
Walter Benjamin nhận xét: không hề có chuyện gì đã từng xẩy ra mà có
thể bị coi là mất mát đối với lịch sử (nothing that ever happened
should be regarded as lost for history. Illuminations). Nhìn theo cách
đó, thời gian 25 năm là quá ngắn ngủi, đối với một dòng văn học, so với
chiều dài lịch sử.
Nhà văn, nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến
động. Ngay sau 1975, văn học hải ngoại còn in hằn nét đau thương, giận
dữ, và có cả hận thù. Nó mang tính “trung thành” với thời cuộc (chống
Cộng ở đây mang tính công dân như “thù nhà, nợ nước”, hơn là mang chất
văn chương). Vả chăng, hận thù, đối với một nhà văn, là thất bại của
trí tưởng tượng. Cùng với thời gian, những con chữ ngày càng thoát ra
khỏi những rằng buộc nhất thời, và đủ sức chuyển tải cuộc sống đa đoan
phức tạp của những con người Việt Nam xa quê hương. Khởi từ lời khuyên
của Don Quixote, “Đừng tìm những con chim ngày hôm nay, ở trong cái tổ
ngày hôm qua”, văn học hải ngoại của người Việt Nam sau 25 năm bắt buộc
nhìn về phía trước. Theo nghĩa đó, tôi tin rằng dịch thuật chính là
cánh cửa mở ra văn học Việt Nam hải ngoại. Dịch thuật còn là cái cầu “Ô
Thước”, cho hai con phượng hoàng song sinh “hội nhập”, trở thành một.
So với hằng hà sa số những “sáng tác” hiện xuất hiện trên một số báo
văn học, và xuất hiện đầy rẫy trên những trang nhà trong không gian ảo
trên lưới thông tin toàn cầu, chúng ta mới nhận ra sự quan trọng của
dịch thuật, theo nghĩa: chiếm đoạt, cầm tù cái nghĩa (meaning), làm
giầu có cho tiếng nói, ngôn ngữ Việt.
“Đừng gọi ta là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa. Hãy gọi ta là
Hiệp Sĩ Sư Tử”, Don Quixote ra lệnh cho người hầu. Hiệp Sĩ Mặt Buồn ám
chỉ Đấng Cứu Thế. Hiệp Sĩ Sư Tử là để chỉ con người, trong cuộc phiêu
lưu tìm lại chính mình, một khi thần thánh đã bỏ đi. Cuộc phiêu lưu đó
bắt đầu bằng tiểu thuyết. Với Âu Châu, tiểu thuyết là thể dạng văn học
thứ ba, sau hùng ca và bi kịch (Hy Lạp). Theo G. Lukacs, tiểu thuyết là
để diễn tả cõi “không nhà siêu việt”; nói nôm na, nó diễn tả thân phận
lưu vong của con người, khi không còn thần thánh nữa.
Theo nghĩa đó, nhà văn Việt Nam hải ngoại bắt buộc phải là những vị
hiệp sĩ sư tử, trong cuộc chinh phục ý nghĩa, về chính thân phận người
Việt lưu vong nơi xứ người.
Sự câm lặng
Chuyện xưa, một ông vua giấu sáu cậu con trai và một cô con gái vào
trong rừng, vì bà vợ sau của ông vốn là một mụ phù thuỷ. Tuy nhiên bà
phù thuỷ cũng tìm ra sáu đứa nhỏ, và ném lên mình chúng sáu chiếc áo sơ
mi bằng lụa đã được phù phép, biến chúng thành sáu con thiên nga. Bà
không biết sáu anh em còn một cô em gái.
Cô bé đi tìm anh. May mắn làm sao, cô gặp được, bởi vì mỗi ngày họ có
mười lăm phút trở lại dạng người. Khi từ giã, cô được mấy người anh cho
biết: mấy người anh chỉ có trở lại làm người, khi cô ném lên mình họ
sáu chiếc áo, do chính tay cô đan trong sáu năm, bằng một thứ cỏ gai.
Trong sáu năm ròng rã đó, cô không được cười, không được nói.
Cô bắt tay ngay vào việc.
Rồi một ngày đẹp trời, một ông vua ghé qua, và nhận ra một nhan sắc.
Hỏi thế nào cũng không nói. Nhưng điều này không làm ông vua đổi ý, khi
quyết định cưới cô làm vợ. Và họ có được một đứa con trai. Bà mẹ sai
người bắt đứa bé, vu cho cô làm chết nó. Đối lại những lời cáo buộc,
chỉ là sự câm lặng. Đứa bé thứ nhì, thứ ba, cũng vậy. Cô lặng câm, cặm
cụi cúi xuống manh áo đang đan. Ông vua, dù lúc nào cũng thương vợ,
nhưng đành phải kết tội chết. Ngày cô lên giàn hỏa cũng là ngày cuối
cùng của thời hạn nghiệt ngã. Khi sáu con thiên nga xuất hiện, cô ném
sáu chiếc áo lên mình chúng và lời nguyền hết linh. Cậu út, vì chiếc áo
chưa kịp đan xong, vẫn lủng lẳng một cánh thiên nga.
Trên đây là tóm tắt một chuyện cổ (conte) của Grimm
[Jakob Ludwig Karl 1785-1863, người Đức, cùng với người anh là tác giả
Những Chuyện Thần Tiên (Fairy Tales, 1812-14) dựa theo chuyện kể dân
gian].
Và sau đây là tóm tắt chú giải của Simone Weil.
Bà cho rằng, trong những tư tưởng tuyệt vời của Platon, có những tư
tưởng ông kiếm được, nhờ suy nghiệm về những huyền thoại. Bà tin rằng,
những huyền thoại của chúng ta cũng có những tư tưởng đẹp. Và bà đã thử
chọn lựa một cách thật tình cờ, chuyện sáu con thiên nga của Grimm, sau
khi cẩn trọng người đọc: sẽ là thực những gì tôi sẽ nói.
Chúng ta phải để ý tới cái thời điểm mà người em gái ném lên mình những
con thiên nga những chiếc áo cỏ. Bằng một cú ném áo, họ đã bị trù yếm;
cũng bằng một cú ném áo như vậy, họ được giải thoát. Họ bị biến dạng
đâu phải do lỗi của họ, và họ trở lại làm người, là do lòng yêu thương
của cô em. Nếu họ bị biến dạng do những lỗi lầm mà họ đã phạm, có thể
họ sẽ phải trải qua đau khổ, rồi mới được trở lại làm người. Trong câu
chuyện, họ nhận điều xấu cũng như điều tốt, là từ bên ngoài. Câu chuyện
sẽ khác hẳn, nếu cô em gái đi tìm một thứ dược thảo thần kỳ. Như vậy
dược thảo cứu họ, chứ không phải cô em. Chúng ta tưởng rằng những chiếc
áo cỏ đã giải thoát họ, không phải vậy. Chính cô em gái, bằng khổ nạn
mà cô đã tự ôm lấy: cặm cụi đan áo cỏ trong sáu năm, không được cười,
không được nói. Sự câm lặng phá huỷ lời nguyền, làm cho nó trở nên vô
hiệu.
Im lặng. Không nói. Không cười. Trong sáu năm ròng rã. Ở đây, sự câm
nín, nhẫn nhục trinh nguyên đã tác động. Tình yêu của ông vua, những
lời buộc tội của bà mẹ chỉ làm tăng thêm thử thách. Phải cực kỳ khó
khăn, cực kỳ khổ nạn, sự cứu rỗi mới rạng rỡ, đức hạnh mới bật ra. Cỏ
gai đâu phải để đan áo! Ngay cả hành động đan áo cũng chỉ có một giá
trị biểu tượng, chính hành động “không hành động” (không nói không
cười), hay dùng từ của Simone Weil, chính cái gọi là hư vô của hành
động (le néant d’action) mang trong nó, đức hạnh. Và theo bà, tư tưởng
này đã tới được chốn sâu thẳm nhất của tư tưởng đông phương.
Bài học từ câu chuyện Grimm, sự câm lặng, bàng bạc trong tác phẩm của
Weil, từ những năm chiến tranh. Thí dụ như trong Cahier VI: “Chủ đề về
sự thơ ngây vô tội tự nguyện không chống trả. Những con thiên nga.” Và
vào những giây phút cuối cùng của đời mình, trong “sổ tay ở Luân Đôn”,
bà hình như tự đồng nhất với nữ nhân vật ở trong câu chuyện cổ tích:
“Sự câm lặng của cô gái nhỏ trong Grimm [nhờ vậy] mà cứu được những
người anh… Sự câm lặng của Đấng Ky Tô. Một thứ thỏa uớc thiêng liêng,
một hợp đồng của Thượng Đế với chính Người, từ đó, thế gian bị kết án:
chỉ tới được sự thực bằng [hành động] câm lặng.”
Jennifer tôi đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali
không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng
vào dịp đó, Jennifer có mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không
ngủ. Ở đó, Jennifer đã gặp một anh bạn học từ những năm trung học. Cả
hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau 1954,
tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và
khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó,
bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước
1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm
việc, khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại
tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Jennifer nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như
anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong
câm lặng.
Và Jennifer hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất,
trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã
xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và Jennifer tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm
lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là
“lịch sử của quá khứ”?
Jennifer Tran
- Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn?
-
Jen's friend's
birthday party
Xuân Sắc, chắc chắn chưa từng đọc Heidegger, theo
tôi, nhưng câu ông hỏi Chế Lan Viên, "điêu tàn ư, đâu chỉ có điêu tàn"
mang hơi hướng câu của Holderlin:
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?
Và, đằng sau câu hỏi của Xuân Sắc, hàm ý câu thơ thứ nhì của Holderlin:
Ở đâu có điêu tàn, - ở đây là điêu tàn của điêu tàn - ở đó có cứu rỗi.
Và nếu như thế, chùm thơ nhỏ bé của PTVA, là đúng ý
thơ của D. H. Lawrence, về một loài chim phượng hoàng đẻ ra từ tro than
của tro than, của hai cuộc phần thư, một 30 Tháng Tư 1975, và một của Điêu
Tàn của Chế Lan Viên.
Đây cũng là lý do, không thể nào so sánh TTT với những thiên tài tiền
chiến được, bởi vì giữa ông và họ, là điêu tàn, là hố thẳm, là đêm đen.
Note: Đúng hai giờ sáng, Gấu bật thức giấc, và nẩy
ra ý trên. Thú thật. Tuyệt thật. Tán em như thế mới là tán chứ!
[Đâu có khốn nạn, theo cái kiểu, Gửi VB thì gửi cái đó, còn gửi gì cho
thơ, mà có gi đâu mà gửi, dù là con gái của thần thi! Hay nữ hoàng què
mà cũng đòi lên ngai. Mà lạ thực, cái đám nhà văn nhà thơ VC thường ứng
xử với nhau theo kiểu đó không à! ]
Phượng Hoàng
Trong một bài viết
trên một tờ báo địa phương, tôi tình cờ lượm được một chi tiết thật thú
vị. Tác giả bài viết cho rằng, có thể vì không còn bám vào đất nữa, cho
nên những nhà văn hải ngoại của chúng ta ngày càng sử dụng bừa bãi
những con chữ. Ông nêu thí dụ, Mai Thảo, một lần chắc là quá nhớ Sài
Gòn, bèn ghé thư viện Cornell, mân mê ba con chữ trước 1975, hiện lưu
trữ tại đây. Sau khi đã cơn ghiền, ông rời “phần thư” trở về … đời
thường, tức là cuộc đời lang thang vô định nơi xứ người.
Tác giả bài báo chê Mai Thảo dùng sai từ. Tại sao lại phần thư? Phòng
đọc sách, hay văn vẻ hơn, thì phải là… “thư phòng” chứ!
Mai Thảo rời Việt Nam năm 1978 thì phải. Lần chót tôi nhìn thấy ông, là
một buổi sáng ngay sau ngày 30/4. Ông ngồi một mình trong một quán cà
phê, hình như quán Sing Sing, một cái tên từ hồi “mồ ma” quân đội Mỹ, ở
đường Phan Đình Phùng. Quán chẳng có ai ngoài ông. Tôi gặp lại hình ảnh
này, trên bìa số báo Văn tưởng niệm ông: một Mai Thảo ngồi trên băng
ghế bên đường chờ xe buýt tại thủ đô Sài Gòn của người tị nạn. Chi tiết
về những ngày rong chơi của ông trước mũi súng, trước cuộc săn người
của Cộng Sản, đã được Nhã Ca ghi lại, trong Hồi Ký Mất Ngày Tháng. Như
vậy là ông có chứng kiến những ngọn lửa đầu tiên của cuộc phần thư
1975. Tôi tin rằng, khi lênh đênh trên một con tầu giữa biển khơi,
trong số những hình ảnh ông còn giữ được của quê hương, chắc chắn có
hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt sách, những cuốn của ông, và của bè bạn.
Ông biết rằng, chúng đều đã bị huỷ diệt. Bởi vậy, khi ông vào thư viện
Cornell, là để đọc tro than của chúng.
Cũng theo nghĩa đó, một khi những cuốn sách của Miền Nam, sau này được
chính nhà nước Cộng Sản cho in lại ở trong nước, điều này chứng tỏ:
chúng đã sống lại từ lớp tro than, từ cuộc phần thư 1975.
Khi phải nhìn lại 25 năm văn học của người Việt lưu vong, tôi nghĩ nó
phải như một loài phượng hoàng, cứ mỗi lần muốn tái sinh, là phải lao
vào lửa.
Phượng Hoàng
Es-tu prêt à être effacé, nul, anéanti,
à n’être rien?
Perdu dans l’oubli?
Sinon, jamais
vraiement tu ne changeras
Le phénix ne retrouve
que sa jeunesse
que s’il est brulé, brulé vif, jusqu’à se faire
chaude et floconneuse cendre.
Alors le frêle remuement d’un frêle être nouveau dans le nid
au duvet léger comme cendre qui vole
montrer qu’il a retrouvé pareil à l’aigle sa jeunesse,
Immortel oiseau
(D.H. Lawrence, Derniers Poèmes, bản dịch tiếng Pháp của Roger Munier,
trong Cahier de L’Herne, 1988).
(Tạm dịch:
Mi đã sẵn sàng chưa, để xóa nhòa, thành không, tiêu tùng,
để chẳng là chi?
Chìm vào quên lãng?
Nếu không, mi đừng
mong chi thay đổi.
Phượng Hoàng chỉ tìm
lại tuổi thanh xuân
khi cháy rực như cây đuốc sống
chút tro than còn, nóng, nhẹ như bông,
Rồi lung linh ở ngay tổ,
Là lông tơ, nhẹ, tựa tro bay:
nó đã tìm lại được mình,
Con chim bất tử).
Mới đây, người viết có được nguyên bản bài thơ Phượng Hoàng. Bản tiếng
Việt trên, là từ bản dịch tiếng Pháp. Xin đăng nguyên bản, để độc giả
tiện theo dõi:
PHOENIX
Are you willing to be sponged out, erased, cancelled,
made nothing?
Are you willing to be made nothing?
dipped into oblivion?
If not, you will never
really change.
The phoenix renews her
youth
only when she is burnt, burn alive, burnt down
to hot and flocculent ash.
The the small stirring of a new small bub in the nest
with strands of down like floating ash
shows that she is renewing her youth like the eagle,
immortal bird.
D.H Lawrence: The complete Poems (tủ sách The Penguin Poets)
- Cultural Amnesia: Notes in the
margin of my time
-
Gấu vừa mới nhắc tới Tỉnh Giấc Hôn Thuỵ, kéo dài từ
sau cái chết của thằng em trai, một năm sau Mậu Thân, tức là năm 1969,
cho tới khi chạy trốn thoát quê hương, tới được trại tị nạn vào năm
1990, thú vị làm sao, cứ như là buồn ngủ gặp chiếu manh, đọc trên TLS
số đề ngày 14 Tháng Chín, 2007, bài của Adam Bresnick , điểm Clive James:
Sự mất trí nhớ văn hoá: Ghi nhận bên lề thời của tôi.
Unforgetting: Memos on Melville and Mao, reminders
of Montaigne: a literay and political journey with Clive James.
Không thể quên: Những nhắc nhở về Melville và Mao,
những việc hôm nay chớ để ngày mai của Montaigne: Cuộc du ngoạn về văn
hóa, và chính trị với Clive James.
Độc giả, nghe đây: Tôi, chính tôi, là chất liệu của
cuốn sách của tôi [Montaigne]
Nhưng ông cẩn trọng độc giả liền ngay đó:
Đó không phải là lý do để bạn sử dụng thời gian rảnh
rỗi của mình vào một việc làm lãng nhách và vô ích đấy nhé.
... Against the persistent cult of Leon Trotsky:
"[he] lived on for decades as the anassailable hero of aesthetically
minded progressives who wished to persuade themselves that there could
be a vegetarian version of Communism".
[Phóng dịch: Leon Trotsky: [Ông ta] sống hàng chục
niên, như là một người hùng bốn bể thọ địch, của đám tiến bộ mê cái
đẹp, đám người này cố tự an ủi, và thuyết phục chính họ rằng, chủ nghĩa
cộng sản có thể có được một ấn bản không có mùi máu, dành cho những
người ăn chay trường].
Đọc câu trên, Gấu bỗng nhớ đến... Hoàng
Phủ Ngọc Tường, người ham chơi, như một anh VC trong nước ca tụng
ông.
Đây cũng là một người hùng bốn bề thọ địch! Người
hùng của biến cố Mậu Thân, và của... Nguyễn Mộng Giác, trong Mùa
Biển Động.
Người ham chơi. Ăn chay trường?
Viết bên lề lịch sử mà bỏ qua nhân vật này, thật
uổng!
Và đúng là, mắc bệnh mất trí nhớ văn hoá!
Giữa ông này và Nguyễn Mộng Giác, ngoài đời chắc hẳn
phải có đụng độ, bởi vì ông nhà văn bê nguyên con, luôn cả cái tên của
ông này, vô tiểu thuyết của mình. Để vinh danh, hay để không vinh danh,
theo Gấu, đều không được. Ông nhà văn nghe có lần bị hỏi, nói, tôi hư
cấu. Hư cấu kiểu này, thì quá nhảm. Bản thân Gấu cũng đã từng bị một
ông đưa vô tiểu thuyết, tuy chẳng hề đụng độ với ông ta, vậy mà cũng
chẳng cần hỏi hiếc làm gì cho mệt.
Cái chuyện ông theo VC, theo Gấu, là quyển, là lý
tưởng của ông, như của bao nhiêu con người khác, sống ở Miền Nam, nhưng
tin tưởng vào Miền Bắc, vào cuộc chiến tranh giải phóng, thống nhất đất
nước.
Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, tất cả đều ngã ngửa,
thì có gì để mà tự hào?
Viết về những ông này, mà có tí tự hào, thì đểu là
cứt đái. Thực tình là như vậy.
*
Gặp lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật
văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời,
những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu,
bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại
nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền
rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng
về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng
nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang
trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó
Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez
viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao
của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có tham
vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban
phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò.
Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga.
Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học
trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của
Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một
điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách
mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lần Cuối
Sài Gòn
Kant bừng tỉnh giấc
ngủ độc đoán khi đọc Hume. (1)
TTT bừng tỉnh giấc hôn thụy, khi , ở tù VC, lần đầu
tiên nhận thư nhà từ Miền Nam, biết bạn mình là Mai Thảo đã thoát.
Văn Cao, chấp nhận ở lại... Thiên Thai, sáng tác Buồn
Tàn Thu, tặng Phạm Duy, biết bạn mình sẽ dinh tê, sẽ vào Nam, và
sẽ gieo nhạc buồn của ông đi khắp chốn?
Gấu bừng tỉnh giấc mơ Cô Tiên, khi thấy mình ở trong
trại tị nạn Thái Lan, biết, đã chuyển sang một kiếp khác...
(1)
Texte |
Kant fut
«réveillé de son sommeil dogmatique» le jour où il lut Hume, notamment
la subtile et pénétrante critique de la connaissance de la causalité,
développée dans la septième section de l'Essai sur l'entendement humain de I748.
Cette critique lui
révéla que le jugement de causalité n'est point, comme on le croyait,
un jugement analytique tirant de la cause l'effet qui s'y trouverait
précontenu; mais un jugement synthétique affirmant une «connexion
nécessaire» entre une cause et un effet radicalement hétérogènes l'un à
l'autre. La critique de Hume montrait qu'une telle connexion n'est
connaissable ni a priori par déduction (l'effet n'étant point
analytiquement précontenu dans ]a cause) ni a posteriori par expérience
(l'expérience ne pouvant donner à connaître que des conjonctions
empiriques entre des événements «entièrement lâches et séparés», mais
jamais des connexions nécessaires). Cette critique induisait au
scepticisme et compromettait gravement les «lumières», non seulement
celles de la métaphysique prétendant connaître des réalités
transcendantes, mais celles mêmes de la physique prétendant connaître
des nécessités phénoménales. Seules subsistait, scientifiquement
valable, la mathématique, parce que, les jugements mathématiques étant,
aux yeux de Hume, des jugements analytiques, leur nécessité pouvait
être connue a priori.
Kant bừng tỉnh
"giấc ngủ độc đoán" bữa đọc Hume, đặc biệt cái đoạn ông ta phê bình
thật là tính tế, thật là tới chỉ, ý niệm nhân quả, được khai triển ở
phần thứ bẩy của Essai sur l'entendement humain de I748...
*
*
Tôi chẳng thế nào mà tỏ ra khiêm tốn được.
Có quá nhiều điều cháy bỏng ở trong tôi; những lời giải cũ tán loạn ra,
rời rụng ra, những cái mới thì chẳng ra làm sao, chẳng ra đầu ra đuôi.
Thế là tôi bắt
đầu, mọi chuyện, một điều, liền tù tì, cùng một lúc.
Như thể tôi có
cả một thế kỷ ở phía trước tôi.
Canetti, 1943.
Susan Sontag trích dẫn, trong Under
the Sign of Saturn [đây là tên bài viết về Walter Benjamin, sử
dụng cho toàn tập], chương Mind as Passion: Cái đầu như là đam mê.
Ông này nhà văn Đức, Nobel văn chương. Phán
bảnh thực.
Nhưng ông ta cảm thấy có cả một thế kỷ ở phiá trước ông.
Giả như ông ta chỉ còn có tí ti thời gian, như Gấu chẳng hạn, chắc là
ông phán còn hách hơn nhiều!
*
Bữa trước, đọc Evăn ở trong nước, hình như dịch một bài của một tay nào
đó, viết về những nhà văn không xứng đáng mà đoạt Nobel, trong có tên
Canetti, Gấu bật cười, nghĩ thầm, Canetti mà không đáng, thì ai đáng bi
giờ? (1)
Và Gấu chợt hiểu, lý do Sartre từ chối Nobel:
Ông ta sợ, không phải cho ông ta, mà cho những đệ tử của ông, thí dụ
như... Nguyễn Văn Trung chẳng hạn!
Những đấng con hoang được thừa nhận của Sartre!
Hà, hà!
(1) Bạn nghĩ sao khi Elias Canetti cũng đoạt
Nobel? Ông là một nhà văn hấp dẫn, dù bạn có đo bằng thứ tiêu chí nào.
Nhưng cuốn tiểu thuyết The Blinding của ông là một sự thất
bại hoàn toàn. Danh tiếng của Canetti được tạo dựng từ 3 hay 4 tập hồi
ký mà dù chúng có xuất sắc đến cỡ nào cũng không thể giúp ông có được
một chỗ ngồi bên cạnh những Rousseau hay St Augustine.
EVăn
Cũng trong bài viết, ngay cả Heinrich Boll cũng bị coi là không xứng
đáng!
Cả hai Canetti và Boll đều được coi là những tiếng hót của loài phượng
hoàng, thò cái mỏ của chúng ra khỏi Lò Thiêu.
Một bài viết cà chớn như thế mà cũng mất công dịch, tiếu lâm thật! NQT
Cái tay Wilson viết bài này, lấy tiêu chí vượt thời gian, để đánh giá
tác phẩm. Ông ta không hề biết một điều là, có những tác phẩm, được
viết ra cho chính cái thời của nó, và cái chuyện nó vượt thời gian hay
không, là chuyện hậu xét. Có những tác phẩm, bị lãng quên ngay khi được
ra lò, nhưng hàng ngàn năm sau, lại lừng lững tái sinh. (1)
Sartre và bồ là Simone de Beauvoir chẳng đã cười ngất khi Kafka được
coi là nhà văn của thế kỷ: Thằng cha nào vậy? Nếu hắn ta hách xì xằng
như thế, hai đứa này đã phải biết!
Chính ông Wilson, trong bài viết, cũng nghĩ là mình đánh giá sai về
Boll.
(1): Mỗi thế hệ có chọn lựa của nó. Có thi ca trường tồn, vĩnh
cửu nhưng thật khó mà có phê bình mãi mãi "vũ như cẩn". Tennyson sẽ có
"ngày của ông ta", và Donne, "buổi nhật thực". Hay là, để đưa ra một
thí dụ chẳng liên quan gì tới thói ham mốt này mốt nọ: trước chiến
tranh, tại những trường Pháp nơi tôi theo học, nói chung là ai cũng coi
Virgil như là một kẻ bắt chước Homer một cách ngây ngô, bắng nhắng. Tất
cả học sinh đều khẳng định với bạn bằng một thái độ rất ư là tự tin như
thế. Cùng với thảm họa, chuyện thường ngày về "cuộc tháo chạy tán
loạn", và lưu vong, cách nhìn trên đã thay đổi một cách triệt để. Bây
giờ, Virgil trở nên một chứng nhân thật chín mùi, thật cần thiết.
Simone Weil và cách đọc ngang bướng sử thi "Iliad", hay "Death of
Virgil" ("Cái Chết của Virgil") của Hermann Broch, cả hai đều góp phần
trong việc tái thẩm định...
Nhân Văn
|
- … nơi mà cả “sự vô tội cũng được
bày bán.”
-
“Ở đây [Cambodia], người ta kháo nhau rằng người
Việt Nam có tiêu chuẩn phẩm hạnh thấp hơn người Khmer; và trong khi
người Việt Nam bán con gái của mình, người Khmer không bao giờ làm điều
ấy.”
… nơi mà cả “sự vô tội cũng được bày bán.”
Nguồn
*
Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi mơ giấc
mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ
ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo.
Sebald: Phát biểu khi là ông Hàn
*
Liệu có một tên VC nào cảm thấy bị lột mặt nạ, trơ ra là một tên phản
bội, và một tên lường gạt, ở ngay trên chính quê hương của nó?
*
Hình 1: Cô bé Do Thái này không có bằng, hay giấy
phép, lái xe đạp. Varsovie, 1937.
Hình 2: tại bếp ăn dành cho người bản xứ, hai chị em đang trầm tư trước
dĩa cháo. Hỏi, người chị, ngồi phiá bên phải, trả lời, ở đây còn được
ăn cháo, ở nhà, mẹ chúng tôi không có cháo ăn. Prague, 1937.
Văn Học Pháp, Le
Magazine Littéraire, Tháng Sáu, 2007.
Khi gọi cuốn sách của
mình bằng cái tên Sự huỷ diệt, La Destruction, (1) mà không phải là, Lò
Thiêu, Holocaust, hay Shoah, tiếng Hebreu, Raul Hilberg muốn xác quyết,
cung cách mà từ đó bật ra số phận người Do Thái, do chế độ chính trị
Nazi gây nên.
(1) Sự huỷ diệt dân Do Thái tại Âu Châu.
Tôi tin rằng, có một sự huỷ diệt Miền Nam, tương tự. Chiến thắng của
Miền Bắc đã huỷ diệt nếp sống nhân bản hài hòa của Miền Nam.
Sự huỷ diệt còn được đám VC miệt vuờn hỗ trợ, ăn theo. Những cuộc biểu
tình đòi đất của đồng bào Miền Nam như đang xẩy ra, sự nghèo khổ đến
tận cùng, phải bán con, qua những vụ lấy chồng người nước ngoài, bán cả
con nít qua nước láng giềng... đó là những bằng chứng hiển nhiên của
tội ác huỷ diệt.
Khủng khiếp hơn cả, là sự huỷ diệt niềm tin, vào người anh em ruột thịt
Miền Bắc.
Nhật Ký
|