*
30 tháng Tư.. Nhìn lại Văn Học Hải Ngoại magnify
Lời Ước

Nhìn lại thế kỷ, tuần báo Văn Học Nghệ Thuật trên lưới (internet), do Phạm Chi Lan chủ trương, có làm một cuộc phỏng vấn bỏ túi (mini). Trong số những câu hỏi có một: Anh/Chị coi Y2K là một ý niệm hay một sự kiện?
Văn học hải ngoại hình như mang cả hai yếu tố: như một ý niệm, khi vẫn luôn luôn phải nhìn lại chính nó, tự hỏi về chính nó, liệu có một dòng văn học hải ngoại, sau cuộc tháo chạy tán loạn, mất quê hương, chọn biển cả thay vì đất liền, để dựng nước mới.... hay như một sự kiện quan trọng: cùng nhân loại chấm dứt thế kỷ hung bạo, với những biểu tượng của nó là Hitler và Lò Thiêu, Stalin và trại cải tại, Pol Pot và cánh đồng giết người...

Trong một truyện cực ngắn, Lời Ước, Walter Benjamin kể chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người Do Thái, từ xóm đông xóm đoài kéo nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng. Chuyện bá láp một hồi, một ông đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời ước của mình. Thôi thì đủ thứ ước ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu nhập, thêm chiếc xế... Khi đã chán chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ" ngồi thu lu ở một góc. Chẳng ai biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra một nhân vật cái bang. Anh ta cũng không tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước của mình:
-Tôi ao uớc được làm một vị hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì một vương quốc thẳng cánh cò bay; một đêm đang ngủ trong tòa lâu đài của tôi, quân thù thình lình vượt biên giới và trước khi ánh dương đầu tiên xuất hiện, đám giặc đã vào tới bên trong lâu đài... Tôi chẳng còn đủ thì giờ vớ đủ bộ quần áo, cứ thế chạy trối chết, ngày này qua ngày nọ, đêm này qua đêm khác, cuối cùng tìm được một chỗ trú ẩn, là góc quán này. Đó là lời ước của tôi.
Cả bọn, người nọ ngó người kia, chưng hửng.
-Thế anh có thêm được một món đồ nào không?
-Có, một chiếc áo thun!
Liệu chúng ta có thể nhìn lại văn học hải ngoại, bắt đầu bằng lời ước của nhân vật cái bang kể trên?

Thật khó mà quên được lời ước, với bất cứ một người Việt nào đã từng kinh nghiệm cuộc bỏ chạy tán loạn. Nhưng với thời gian, nó biến đổi, hoặc bị những lời ước khác, tức thời hơn, khẩn cấp hơn, làm quên lãng.


Những tác phẩm văn học trong những năm qua cho thấy, hai mặt của cùng một lời ước đó. Có những cuốn sách mà người ta cho rằng, đã hội nhập, không còn hoang tưởng, hết còn ở trong ghetto.

Ở đây, cần phải nói rõ một điều, người ta đã lầm lẫn, hoặc đã cố ý đồng hoá, một tác phẩm văn học với một số hiện tượng xã hội. Cho tới nay, chẳng hề có một tác phẩm văn học nào hoang tưởng đến độ, muốn dấy lên một cuộc chiến, để tái lập một chế độ. Và cũng chưa có tác phẩm nào cho thấy, con người Việt Nam đã hội nhập thực sự ở quê hương mới. Tôi thật sự không tin, những tác giả của những cuộc tình chốc lát ở nơi đất người, trong lúc kiếm sống, lại tự hào mình đã hội nhập! Họ thực ra là đã từ bỏ đề tài những năm ngay sau 1975, mà chủ yếu là tố cáo cái ác của chủ nghĩa Cộng Sản, và hậu quả của nó, những thảm họa khi vượt biển tìm tự do. Bây giờ, hoặc là đề tài này không còn ăn khách, hoặc là chính tác giả của chúng cũng chán, hoặc nội lực không đủ để đương đầu với nó, bèn quay ra kể chuyện cuộc sống thường nhật của người Việt, đã có một công ăn việc làm ổn định, đã có va chạm chút xíu với người bản xứ. Va chạm chút xíu, nhưng không phải là xung đột, bởi vì ở đâu có hội nhập, ở đó có xung đột; theo nghĩa, anh mới tới muốn nơi đây thoải mái như là nhà của mình, còn chủ nhà thì muốn chui vào tận trong ngõ ngách tâm hồn người khách, để coi nó có gì khác ta.

Nhà văn, nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Nếu những năm sau 1975, đề tài trại cải tạo, vượt biển có lượng nhưng thiếu phẩm, những năm gần đây, đề tài này trở lại, trầm hơn, nặng hơn, và dĩ nhiên chất lượng hơn. Ở những tác phẩm trước đó, tác giả thi nhau tố cáo cái độc, cái ác, và những đau khổ mà bản thân hay gia đình, và đất nước đã phải chịu đựng. Vô tình, chỉ có tính chính trị, thời cuộc. Kundera đã chỉ đích danh tác phẩm được coi là khuôn mẫu của văn chương chống cộng, cuốn 1984 của Orwell: đây chỉ là chính trị giả danh văn chương. Tác phẩm 1984 giản lược chế độ Cộng Sản vào danh sách những tội ác của nó, và như thế, vô hình trung, cũng rơi vào thế giới xám xịt của những trại tù! Rồi ông chứng minh, ngay cả trong thế giới mê cung là Vụ Án, hay Lâu Đài, nhân vật của Kafka cứ hở được chút nào là loay hoay kiếm một cái cửa sổ, để thở! Và ông nhặt ra được không biết bao nhiêu là chi tiết thơ, trong một thế giới không thơ, là thế giới mê cung, tức thế giới toàn trị.


Hơn nữa, khi hăm hở tố cáo, chính nạn nhân không biết, không còn có thì giờ nhận ra, cái phần tha hóa ở nơi họ: bất cứ một con người nào, ở trong thế giới đó, cũng bị tổn thương. Nói như Todorov, chủ nghĩa Cộng Sản là thử nghiệm tối hậu về đạo đức của con người.

Nhân vật chính, viên sĩ quan trong Đá Mục của Thảo Trường, có vẻ như thấy hết, hiểu hết, và tỏ ra có một thái độ vượt lên khỏi những đau thương, giận dữ; nhưng được như vậy, là nhờ đệ tử, một anh lính truyền tin. Anh này làm độc giả nhớ tới nhân vật chính trong Một ngày trong đời Ivan Denisovich, của Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục chắc khó quên "xen" đệ tử kiếm việc làm nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ lầm lẫn trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là của con heo đực).


Thảo Trường đi tù tất cả 17 năm. Qua đây, ông đã cho xuất bản liền mấy cuốn, riêng trong năm qua là Đá Mục và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu Quả. Trong một phỏng vấn trên đài Kicon, mạng Internet, ông cho biết, trong tù ông cứ thế nghiền ngẫm, và đã "bỏ túi" năm bẩy cuốn sách, qua đây tuần tự xuất bản. Ông sống lại một lần nữa thời gian dài 17 năm. Nhưng nếu chúng ta theo sát những bài viết của ông, sẽ nhận ra, đã có dấu vết thay đổi, giữa những truyện ngắn đầu, và mới đây. Tác giả tuy bỏ túi vài tác phẩm thực, nhưng khi viết ra, nó không giống như là lúc ông còn ở trong trại tù, đã tưởng tượng mặt mũi của chúng. Ông ngày trầm hơn, văn ngày thấm hơn, vượt lên nỗi cay đắng còn đè nặng hồi ức những ngày tù.


Ở Lâm Chương cũng vậy. Khi trả lời phỏng vấn, hình như ông cho biết, chỉ vào nhà tù, ông mới biết căm thù nghĩa là gì. Nhưng càng viết, ông càng bớt căm thù. Bởi vì, hận thù, với một nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Trong truyện của ông, người đọc nhận ra những cay đắng, nhưng còn nhận ra, vết thương đang lành.

Trong một bài tổng quan, thật khó mà đưa ra chi tiết chứng minh, hy vọng sẽ có dịp được viết rõ hơn về từng tác giả, trong năm 2000. Vả chăng, khi người ta "trung thành" với một điều gì, cùng lúc người ta "phản bội" một điều khác: chống Cộng, ở một số nhà văn Miền Nam mang tính công dân (thù nhà, nợ nước?), hơn là mang chất văn chương.


Chính chúng ta, độc giả, khi phải nhìn lại (đọc lại) một số tác phẩm văn học, cũng thấy mình đã đổi khác. Tác phẩm có thể vẫn vậy, nhưng con người đổi khác. Trước đây, những độc giả Miền Nam thật khó mà chấp nhận một tác phẩm của một người ra đi từ Miền Bắc, lại có thời rất thân cận với cung đình Bắc Bộ Phủ, như Vũ Thư Hiên. Và người ta nhận ra một điều, ngay cả những lúc phải "ăn nằm" với chế độ toàn trị, tiếng nói của một miền đất vẫn giữ riêng cho nó một khoảng cách. ["Đi tù với một bông hồng", là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa, trên báo Diễn Đàn, về tác phẩm "Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên.]

Rõ rệt nhất là ở Lê Minh Hà, với hai tác phẩm xuất bản liền trong hai năm vừa qua, Trăng Góa, và Gió Biếc.
Có người cho rằng ở Lê Minh Hà, truyện không ra truyện, tủn mủn, manh mún. Với Gió Biếc (1999), có người chỉ thấy những cảnh đời nhếch nhác của một số người Việt, phải bỏ nước ra đi, rồi cố tìm cách để khỏi phải trở về. Nhưng vẫn như trong trường hợp Kundera nói về sự khác biệt giữa Orwell và Kafka: Bạn phải kiếm cửa sổ để mà thở, thay vì cố chứng minh, đây là những nhà tù!


Vẫn có những tác giả đã không thể quên ước mơ thoạt đầu, ngày xưa. Họ không nói tới, nhưng chúng ta cảm thấy, qua cách viết, qua hành động của nhân vật. Trong truyện ngắn Biển (của Miêng) là chia sẻ tấm áo thun, ở đây là những giọt lệ nhỏ xuống cho một kẻ điên khùng, không còn nhận ra chính mình, nhưng lại nhận ra người vợ, và qua đó, những đứa con đã chết trên biển cả. Hay như Kẻ Lạ (của Hồ Như), khi trở về, và nghe quê hương xì xào: Kìa ai như Cô Thắm... Hay như nhân vật trong truyện Trở Về (tạp chí Hợp Lưu) của Phạm Hải Anh, về để thấy rằng, quê hương không từ chối anh. Hay như nhân vật Nữ Độc Thủ của Linda Lê la lên: Ông ta chết rồi, hãy để cho ông ta yên thân!

[Note: Bài viết cũ, từ năm 1999. NQT]

*

Đừng gọi ta là hiệp sĩ mặt buồn nữa!

Walter Benjamin, trong một truyện cực ngắn khác, Chữ Ký, kể câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ hoàng Catherine, ở Nga. Vị cận thần của bà, Potemkine, đang trong cơn sa sút tinh thần trầm trọng, kéo dài ngày này qua ngày khác. Không ai được tới gần căn phòng của ông. Không ai dám xì xào về căn bệnh của vị cận thần sủng ái. Khổ một nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ trình nữ hoàng, là phải có chữ ký của Potemkine. Đám quan chức hàng đầu trong triều không biết phải giải quyết ra sao.
Bữa đó, may quá, một viên chức thuộc loại vô danh tiểu tốt, tên là Chouvalkine, không hiểu vì lý do nào, lại có mặt tại căn phòng bầu dục. Thấy mấy sếp mặt mày nhăn như bị, anh ta mới rụt rè vấn an, và khi biết được sự tình, bèn xung phong: để em xông vô phòng, với mớ giấy tờ cần chữ ký của Ngài Bí Thư. Mọi người thấy, đâu có mất gì, bèn gật đầu.
Chouvalkine ôm mớ giấy tờ, mở cửa phòng, thấy Ngài Potemkine đang ngồi mơ màng trên chiếc ghế bành. Anh tới gần, Ngài cũng chẳng biết. Thế là anh cầm cây viết, chấm mực, dí vào tay Ngài; và Ngài cứ thế ký lia lịa, hết tờ này tới tờ khác. Xong, anh trở ra. Mọi người vồ lấy mớ giấy đã được thị thực. Mở ra, tất cả các chữ ký, từ chính tay Potemkine, nhưng đều biến thành... Chouvalkine!
Với câu chuyện cực ngắn Chữ Ký, chúng ta nhìn về trong nước. Cái me-xừ Potemkine, phải chăng là chủ nghĩa hiện thực xã hội (thứ thiệt?), mà những anh chàng Chouvalkine vẫn hy vọng viết dưới ánh sáng của nó?


Trong bài viết Nhân Văn (Humane Literacy) George Steiner khẳng định: không một chế độ chính trị nào có thể yểm bùa chú lên những tác phẩm của nhà văn, khiến cho nó vĩnh viễn chìm vào trong quên lãng, hay bóp méo nó, và cho dù những cuốn sách có thể bị tiêu huỷ, nhưng tro than sẽ được vun vén, và giải mã. Khi nhà nước CS đành phải cho xuất bản những tác phẩm văn học của Miền Nam trước 1975, điều này chứng tỏ: con chim phượng hoàng đã tái sinh. Ở hải ngoại, nếu nó được tái sinh, thì cũng không do những ông lái buôn làm giầu từ những tác phẩm vơ vét đem xuống tầu cùng với họ; cũng không phải bởi các tác giả may mắn đi từ những ngày đầu, rồi vào thư viện Mỹ sao chép lại… Chúng vẫn chỉ là tro than. Từ đó, một con phượng hoàng song sinh sẽ tái xuất hiện.
Walter Benjamin nhận xét: không hề có chuyện gì đã từng xẩy ra mà có thể bị coi là mất mát đối với lịch sử (nothing that ever happened should be regarded as lost for history. Illuminations). Nhìn theo cách đó, thời gian 25 năm là quá ngắn ngủi, đối với một dòng văn học, so với chiều dài lịch sử.

Nhà văn, nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Ngay sau 1975, văn học hải ngoại còn in hằn nét đau thương, giận dữ, và có cả hận thù. Nó mang tính “trung thành” với thời cuộc (chống Cộng ở đây mang tính công dân như “thù nhà, nợ nước”, hơn là mang chất văn chương). Vả chăng, hận thù, đối với một nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Cùng với thời gian, những con chữ ngày càng thoát ra khỏi những rằng buộc nhất thời, và đủ sức chuyển tải cuộc sống đa đoan phức tạp của những con người Việt Nam xa quê hương. Khởi từ lời khuyên của Don Quixote, “Đừng tìm những con chim ngày hôm nay, ở trong cái tổ ngày hôm qua”, văn học hải ngoại của người Việt Nam sau 25 năm bắt buộc nhìn về phía trước. Theo nghĩa đó, tôi tin rằng dịch thuật chính là cánh cửa mở ra văn học Việt Nam hải ngoại. Dịch thuật còn là cái cầu “Ô Thước”, cho hai con phượng hoàng song sinh “hội nhập”, trở thành một. So với hằng hà sa số những “sáng tác” hiện xuất hiện trên một số báo văn học, và xuất hiện đầy rẫy trên những trang nhà trong không gian ảo trên lưới thông tin toàn cầu, chúng ta mới nhận ra sự quan trọng của dịch thuật, theo nghĩa: chiếm đoạt, cầm tù cái nghĩa (meaning), làm giầu có cho tiếng nói, ngôn ngữ Việt.

“Đừng gọi ta là Hiệp Sĩ Mặt Buồn nữa. Hãy gọi ta là Hiệp Sĩ Sư Tử”, Don Quixote ra lệnh cho người hầu. Hiệp Sĩ Mặt Buồn ám chỉ Đấng Cứu Thế. Hiệp Sĩ Sư Tử là để chỉ con người, trong cuộc phiêu lưu tìm lại chính mình, một khi thần thánh đã bỏ đi. Cuộc phiêu lưu đó bắt đầu bằng tiểu thuyết. Với Âu Châu, tiểu thuyết là thể dạng văn học thứ ba, sau hùng ca và bi kịch (Hy Lạp). Theo G. Lukacs, tiểu thuyết là để diễn tả cõi “không nhà siêu việt”; nói nôm na, nó diễn tả thân phận lưu vong của con người, khi không còn thần thánh nữa.
Theo nghĩa đó, nhà văn Việt Nam hải ngoại bắt buộc phải là những vị hiệp sĩ sư tử, trong cuộc chinh phục ý nghĩa, về chính thân phận người Việt lưu vong nơi xứ người.


Sự câm lặng


Chuyện xưa, một ông vua giấu sáu cậu con trai và một cô con gái vào trong rừng, vì bà vợ sau của ông vốn là một mụ phù thuỷ. Tuy nhiên bà phù thuỷ cũng tìm ra sáu đứa nhỏ, và ném lên mình chúng sáu chiếc áo sơ mi bằng lụa đã được phù phép, biến chúng thành sáu con thiên nga. Bà không biết sáu anh em còn một cô em gái.
Cô bé đi tìm anh. May mắn làm sao, cô gặp được, bởi vì mỗi ngày họ có mười lăm phút trở lại dạng người. Khi từ giã, cô được mấy người anh cho biết: mấy người anh chỉ có trở lại làm người, khi cô ném lên mình họ sáu chiếc áo, do chính tay cô đan trong sáu năm, bằng một thứ cỏ gai.
Trong sáu năm ròng rã đó, cô không được cười, không được nói.
Cô bắt tay ngay vào việc.
Rồi một ngày đẹp trời, một ông vua ghé qua, và nhận ra một nhan sắc. Hỏi thế nào cũng không nói. Nhưng điều này không làm ông vua đổi ý, khi quyết định cưới cô làm vợ. Và họ có được một đứa con trai. Bà mẹ sai người bắt đứa bé, vu cho cô làm chết nó. Đối lại những lời cáo buộc, chỉ là sự câm lặng. Đứa bé thứ nhì, thứ ba, cũng vậy. Cô lặng câm, cặm cụi cúi xuống manh áo đang đan. Ông vua, dù lúc nào cũng thương vợ, nhưng đành phải kết tội chết. Ngày cô lên giàn hỏa cũng là ngày cuối cùng của thời hạn nghiệt ngã. Khi sáu con thiên nga xuất hiện, cô ném sáu chiếc áo lên mình chúng và lời nguyền hết linh. Cậu út, vì chiếc áo chưa kịp đan xong, vẫn lủng lẳng một cánh thiên nga.

Trên đây là tóm tắt một chuyện cổ (conte) của Grimm [Jakob Ludwig Karl 1785-1863, người Đức, cùng với người anh là tác giả Những Chuyện Thần Tiên (Fairy Tales, 1812-14) dựa theo chuyện kể dân gian].
Và sau đây là tóm tắt chú giải của Simone Weil.
Bà cho rằng, trong những tư tưởng tuyệt vời của Platon, có những tư tưởng ông kiếm được, nhờ suy nghiệm về những huyền thoại. Bà tin rằng, những huyền thoại của chúng ta cũng có những tư tưởng đẹp. Và bà đã thử chọn lựa một cách thật tình cờ, chuyện sáu con thiên nga của Grimm, sau khi cẩn trọng người đọc: sẽ là thực những gì tôi sẽ nói.
Chúng ta phải để ý tới cái thời điểm mà người em gái ném lên mình những con thiên nga những chiếc áo cỏ. Bằng một cú ném áo, họ đã bị trù yếm; cũng bằng một cú ném áo như vậy, họ được giải thoát. Họ bị biến dạng đâu phải do lỗi của họ, và họ trở lại làm người, là do lòng yêu thương của cô em. Nếu họ bị biến dạng do những lỗi lầm mà họ đã phạm, có thể họ sẽ phải trải qua đau khổ, rồi mới được trở lại làm người. Trong câu chuyện, họ nhận điều xấu cũng như điều tốt, là từ bên ngoài. Câu chuyện sẽ khác hẳn, nếu cô em gái đi tìm một thứ dược thảo thần kỳ. Như vậy dược thảo cứu họ, chứ không phải cô em. Chúng ta tưởng rằng những chiếc áo cỏ đã giải thoát họ, không phải vậy. Chính cô em gái, bằng khổ nạn mà cô đã tự ôm lấy: cặm cụi đan áo cỏ trong sáu năm, không được cười, không được nói. Sự câm lặng phá huỷ lời nguyền, làm cho nó trở nên vô hiệu.
Im lặng. Không nói. Không cười. Trong sáu năm ròng rã. Ở đây, sự câm nín, nhẫn nhục trinh nguyên đã tác động. Tình yêu của ông vua, những lời buộc tội của bà mẹ chỉ làm tăng thêm thử thách. Phải cực kỳ khó khăn, cực kỳ khổ nạn, sự cứu rỗi mới rạng rỡ, đức hạnh mới bật ra. Cỏ gai đâu phải để đan áo! Ngay cả hành động đan áo cũng chỉ có một giá trị biểu tượng, chính hành động “không hành động” (không nói không cười), hay dùng từ của Simone Weil, chính cái gọi là hư vô của hành động (le néant d’action) mang trong nó, đức hạnh. Và theo bà, tư tưởng này đã tới được chốn sâu thẳm nhất của tư tưởng đông phương.
Bài học từ câu chuyện Grimm, sự câm lặng, bàng bạc trong tác phẩm của Weil, từ những năm chiến tranh. Thí dụ như trong Cahier VI: “Chủ đề về sự thơ ngây vô tội tự nguyện không chống trả. Những con thiên nga.” Và vào những giây phút cuối cùng của đời mình, trong “sổ tay ở Luân Đôn”, bà hình như tự đồng nhất với nữ nhân vật ở trong câu chuyện cổ tích: “Sự câm lặng của cô gái nhỏ trong Grimm [nhờ vậy] mà cứu được những người anh… Sự câm lặng của Đấng Ky Tô. Một thứ thỏa uớc thiêng liêng, một hợp đồng của Thượng Đế với chính Người, từ đó, thế gian bị kết án: chỉ tới được sự thực bằng [hành động] câm lặng.”

Jennifer tôi đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer có mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, Jennifer đã gặp một anh bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!
Jennifer nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong câm lặng.
Và Jennifer hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến, và sau đó…
Và Jennifer tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là “lịch sử của quá khứ”?
Jennifer Tran

Tags: | Edit Tags
Saturday September 22, 2007 - 01:00am (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn?
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn? magnify
Jen's friend's birthday party

Xuân Sắc, chắc chắn chưa từng đọc Heidegger, theo tôi, nhưng câu ông hỏi Chế Lan Viên, "điêu tàn ư, đâu chỉ có điêu tàn" mang hơi hướng câu của Holderlin:
Tại sao thi sĩ trong thời điêu đứng?


Và, đằng sau câu hỏi của Xuân Sắc, hàm ý câu thơ thứ nhì của Holderlin:
Ở đâu có điêu tàn, - ở đây là điêu tàn của điêu tàn - ở đó có cứu rỗi.

Và nếu như thế, chùm thơ nhỏ bé của PTVA, là đúng ý thơ của D. H. Lawrence, về một loài chim phượng hoàng đẻ ra từ tro than của tro than, của hai cuộc phần thư, một 30 Tháng Tư 1975, và một của Điêu Tàn của Chế Lan Viên.
Đây cũng là lý do, không thể nào so sánh TTT với những thiên tài tiền chiến được, bởi vì giữa ông và họ, là điêu tàn, là hố thẳm, là đêm đen.

Note: Đúng hai giờ sáng, Gấu bật thức giấc, và nẩy ra ý trên. Thú thật. Tuyệt thật. Tán em như thế mới là tán chứ!
[Đâu có khốn nạn, theo cái kiểu, Gửi VB thì gửi cái đó, còn gửi gì cho thơ, mà có gi đâu mà gửi, dù là con gái của thần thi! Hay nữ hoàng què mà cũng đòi lên ngai. Mà lạ thực, cái đám nhà văn nhà thơ VC thường ứng xử với nhau theo kiểu đó không à! ]

Phượng Hoàng
Trong một bài viết trên một tờ báo địa phương, tôi tình cờ lượm được một chi tiết thật thú vị. Tác giả bài viết cho rằng, có thể vì không còn bám vào đất nữa, cho nên những nhà văn hải ngoại của chúng ta ngày càng sử dụng bừa bãi những con chữ. Ông nêu thí dụ, Mai Thảo, một lần chắc là quá nhớ Sài Gòn, bèn ghé thư viện Cornell, mân mê ba con chữ trước 1975, hiện lưu trữ tại đây. Sau khi đã cơn ghiền, ông rời “phần thư” trở về … đời thường, tức là cuộc đời lang thang vô định nơi xứ người.
Tác giả bài báo chê Mai Thảo dùng sai từ. Tại sao lại phần thư? Phòng đọc sách, hay văn vẻ hơn, thì phải là… “thư phòng” chứ!
Mai Thảo rời Việt Nam năm 1978 thì phải. Lần chót tôi nhìn thấy ông, là một buổi sáng ngay sau ngày 30/4. Ông ngồi một mình trong một quán cà phê, hình như quán Sing Sing, một cái tên từ hồi “mồ ma” quân đội Mỹ, ở đường Phan Đình Phùng. Quán chẳng có ai ngoài ông. Tôi gặp lại hình ảnh này, trên bìa số báo Văn tưởng niệm ông: một Mai Thảo ngồi trên băng ghế bên đường chờ xe buýt tại thủ đô Sài Gòn của người tị nạn. Chi tiết về những ngày rong chơi của ông trước mũi súng, trước cuộc săn người của Cộng Sản, đã được Nhã Ca ghi lại, trong Hồi Ký Mất Ngày Tháng. Như vậy là ông có chứng kiến những ngọn lửa đầu tiên của cuộc phần thư 1975. Tôi tin rằng, khi lênh đênh trên một con tầu giữa biển khơi, trong số những hình ảnh ông còn giữ được của quê hương, chắc chắn có hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt sách, những cuốn của ông, và của bè bạn. Ông biết rằng, chúng đều đã bị huỷ diệt. Bởi vậy, khi ông vào thư viện Cornell, là để đọc tro than của chúng.
Cũng theo nghĩa đó, một khi những cuốn sách của Miền Nam, sau này được chính nhà nước Cộng Sản cho in lại ở trong nước, điều này chứng tỏ: chúng đã sống lại từ lớp tro than, từ cuộc phần thư 1975.
Khi phải nhìn lại 25 năm văn học của người Việt lưu vong, tôi nghĩ nó phải như một loài phượng hoàng, cứ mỗi lần muốn tái sinh, là phải lao vào lửa.
Phượng Hoàng

Es-tu prêt à être effacé, nul, anéanti,
à n’être rien?
Perdu dans l’oubli?
Sinon, jamais vraiement tu ne changeras
Le phénix ne retrouve que sa jeunesse
que s’il est brulé, brulé vif, jusqu’à se faire
chaude et floconneuse cendre.
Alors le frêle remuement d’un frêle être nouveau dans le nid
au duvet léger comme cendre qui vole
montrer qu’il a retrouvé pareil à l’aigle sa jeunesse,
Immortel oiseau
(D.H. Lawrence, Derniers Poèmes, bản dịch tiếng Pháp của Roger Munier, trong Cahier de L’Herne, 1988).

(Tạm dịch:
Mi đã sẵn sàng chưa, để xóa nhòa, thành không, tiêu tùng,
để chẳng là chi?
Chìm vào quên lãng?
Nếu không, mi đừng mong chi thay đổi.
Phượng Hoàng chỉ tìm lại tuổi thanh xuân
khi cháy rực như cây đuốc sống
chút tro than còn, nóng, nhẹ như bông,
Rồi lung linh ở ngay tổ,
Là lông tơ, nhẹ, tựa tro bay:
nó đã tìm lại được mình,
Con chim bất tử).

Mới đây, người viết có được nguyên bản bài thơ Phượng Hoàng. Bản tiếng Việt trên, là từ bản dịch tiếng Pháp. Xin đăng nguyên bản, để độc giả tiện theo dõi:

PHOENIX

Are you willing to be sponged out, erased, cancelled,
made nothing?
Are you willing to be made nothing?
dipped into oblivion?
If not, you will never really change.
The phoenix renews her youth
only when she is burnt, burn alive, burnt down
to hot and flocculent ash.
The the small stirring of a new small bub in the nest
with strands of down like floating ash
shows that she is renewing her youth like the eagle,
immortal bird.
D.H Lawrence: The complete Poems (tủ sách The Penguin Poets)
Tags: | Edit Tags
Saturday September 22, 2007 - 12:46am (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Cultural Amnesia: Notes in the margin of my time
Cultural Amnesia: Notes in the margin of my time magnify

Gấu vừa mới nhắc tới Tỉnh Giấc Hôn Thuỵ, kéo dài từ sau cái chết của thằng em trai, một năm sau Mậu Thân, tức là năm 1969, cho tới khi chạy trốn thoát quê hương, tới được trại tị nạn vào năm 1990, thú vị làm sao, cứ như là buồn ngủ gặp chiếu manh, đọc trên TLS số đề ngày 14 Tháng Chín, 2007, bài của Adam Bresnick , điểm Clive James: Sự mất trí nhớ văn hoá: Ghi nhận bên lề thời của tôi.

Unforgetting: Memos on Melville and Mao, reminders of Montaigne: a literay and political journey with Clive James.

Không thể quên: Những nhắc nhở về Melville và Mao, những việc hôm nay chớ để ngày mai của Montaigne: Cuộc du ngoạn về văn hóa, và chính trị với Clive James.

Độc giả, nghe đây: Tôi, chính tôi, là chất liệu của cuốn sách của tôi [Montaigne]

Nhưng ông cẩn trọng độc giả liền ngay đó:

Đó không phải là lý do để bạn sử dụng thời gian rảnh rỗi của mình vào một việc làm lãng nhách và vô ích đấy nhé.

... Against the persistent cult of Leon Trotsky: "[he] lived on for decades as the anassailable hero of aesthetically minded progressives who wished to persuade themselves that there could be a vegetarian version of Communism".

[Phóng dịch: Leon Trotsky: [Ông ta] sống hàng chục niên, như là một người hùng bốn bể thọ địch, của đám tiến bộ mê cái đẹp, đám người này cố tự an ủi, và thuyết phục chính họ rằng, chủ nghĩa cộng sản có thể có được một ấn bản không có mùi máu, dành cho những người ăn chay trường].

Đọc câu trên, Gấu bỗng nhớ đến... Hoàng Phủ Ngọc Tường, người ham chơi, như một anh VC trong nước ca tụng ông.

Đây cũng là một người hùng bốn bề thọ địch! Người hùng của biến cố Mậu Thân, và của... Nguyễn Mộng Giác, trong Mùa Biển Động.

Người ham chơi. Ăn chay trường?

Viết bên lề lịch sử mà bỏ qua nhân vật này, thật uổng!

Và đúng là, mắc bệnh mất trí nhớ văn hoá!

Giữa ông này và Nguyễn Mộng Giác, ngoài đời chắc hẳn phải có đụng độ, bởi vì ông nhà văn bê nguyên con, luôn cả cái tên của ông này, vô tiểu thuyết của mình. Để vinh danh, hay để không vinh danh, theo Gấu, đều không được. Ông nhà văn nghe có lần bị hỏi, nói, tôi hư cấu. Hư cấu kiểu này, thì quá nhảm. Bản thân Gấu cũng đã từng bị một ông đưa vô tiểu thuyết, tuy chẳng hề đụng độ với ông ta, vậy mà cũng chẳng cần hỏi hiếc làm gì cho mệt.

Cái chuyện ông theo VC, theo Gấu, là quyển, là lý tưởng của ông, như của bao nhiêu con người khác, sống ở Miền Nam, nhưng tin tưởng vào Miền Bắc, vào cuộc chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước.

Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, tất cả đều ngã ngửa, thì có gì để mà tự hào?

Viết về những ông này, mà có tí tự hào, thì đểu là cứt đái. Thực tình là như vậy.

*

Gặp lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.

Lần Cuối Sài Gòn

Kant bừng tỉnh giấc ngủ độc đoán khi đọc Hume. (1)

TTT bừng tỉnh giấc hôn thụy, khi , ở tù VC, lần đầu tiên nhận thư nhà từ Miền Nam, biết bạn mình là Mai Thảo đã thoát.

Văn Cao, chấp nhận ở lại... Thiên Thai, sáng tác Buồn Tàn Thu, tặng Phạm Duy, biết bạn mình sẽ dinh tê, sẽ vào Nam, và sẽ gieo nhạc buồn của ông đi khắp chốn?

Gấu bừng tỉnh giấc mơ Cô Tiên, khi thấy mình ở trong trại tị nạn Thái Lan, biết, đã chuyển sang một kiếp khác...

(1)

Texte

Kant fut «réveillé de son sommeil dogmatique» le jour où il lut Hume, notamment la subtile et pénétrante critique de la connaissance de la causalité, développée dans la septième section de l'Essai sur l'entendement humain de I748.
Cette critique lui révéla que le jugement de causalité n'est point, comme on le croyait, un jugement analytique tirant de la cause l'effet qui s'y trouverait précontenu; mais un jugement synthétique affirmant une «connexion nécessaire» entre une cause et un effet radicalement hétérogènes l'un à l'autre. La critique de Hume montrait qu'une telle connexion n'est connaissable ni a priori par déduction (l'effet n'étant point analytiquement précontenu dans ]a cause) ni a posteriori par expérience (l'expérience ne pouvant donner à connaître que des conjonctions empiriques entre des événements «entièrement lâches et séparés», mais jamais des connexions nécessaires). Cette critique induisait au scepticisme et compromettait gravement les «lumières», non seulement celles de la métaphysique prétendant connaître des réalités transcendantes, mais celles mêmes de la physique prétendant connaître des nécessités phénoménales. Seules subsistait, scientifiquement valable, la mathématique, parce que, les jugements mathématiques étant, aux yeux de Hume, des jugements analytiques, leur nécessité pouvait être connue a priori.

Kant bừng tỉnh "giấc ngủ độc đoán" bữa đọc Hume, đặc biệt cái đoạn ông ta phê bình thật là tính tế, thật là tới chỉ, ý niệm nhân quả, được khai triển ở phần thứ bẩy của Essai sur l'entendement humain de I748...

*

*
Tôi chẳng thế nào mà tỏ ra khiêm tốn được. Có quá nhiều điều cháy bỏng ở trong tôi; những lời giải cũ tán loạn ra, rời rụng ra, những cái mới thì chẳng ra làm sao, chẳng ra đầu ra đuôi.
Thế là tôi bắt đầu, mọi chuyện, một điều, liền tù tì, cùng một lúc.
Như thể tôi có cả một thế kỷ ở phía trước tôi.
Canetti, 1943.
Susan Sontag trích dẫn, trong Under the Sign of Saturn [đây là tên bài viết về Walter Benjamin, sử dụng cho toàn tập], chương Mind as Passion: Cái đầu như là đam mê.

Ông này nhà văn Đức, Nobel văn chương. Phán bảnh thực.
Nhưng ông ta cảm thấy có cả một thế kỷ ở phiá trước ông.
Giả như ông ta chỉ còn có tí ti thời gian, như Gấu chẳng hạn, chắc là ông phán còn hách hơn nhiều!
*
Bữa trước, đọc Evăn ở trong nước, hình như dịch một bài của một tay nào đó, viết về những nhà văn không xứng đáng mà đoạt Nobel, trong có tên Canetti, Gấu bật cười, nghĩ thầm, Canetti mà không đáng, thì ai đáng bi giờ? (1)
Và Gấu chợt hiểu, lý do Sartre từ chối Nobel:
Ông ta sợ, không phải cho ông ta, mà cho những đệ tử của ông, thí dụ như... Nguyễn Văn Trung chẳng hạn!
Những đấng con hoang được thừa nhận của Sartre!
Hà, hà!
(1) Bạn nghĩ sao khi Elias Canetti cũng đoạt Nobel? Ông là một nhà văn hấp dẫn, dù bạn có đo bằng thứ tiêu chí nào. Nhưng cuốn tiểu thuyết The Blinding của ông là một sự thất bại hoàn toàn. Danh tiếng của Canetti được tạo dựng từ 3 hay 4 tập hồi ký mà dù chúng có xuất sắc đến cỡ nào cũng không thể giúp ông có được một chỗ ngồi bên cạnh những Rousseau hay St Augustine.
EVăn
Cũng trong bài viết, ngay cả Heinrich Boll cũng bị coi là không xứng đáng!
Cả hai Canetti và Boll đều được coi là những tiếng hót của loài phượng hoàng, thò cái mỏ của chúng ra khỏi Lò Thiêu.
Một bài viết cà chớn như thế mà cũng mất công dịch, tiếu lâm thật! NQT
Cái tay Wilson viết bài này, lấy tiêu chí vượt thời gian, để đánh giá tác phẩm. Ông ta không hề biết một điều là, có những tác phẩm, được viết ra cho chính cái thời của nó, và cái chuyện nó vượt thời gian hay không, là chuyện hậu xét. Có những tác phẩm, bị lãng quên ngay khi được ra lò, nhưng hàng ngàn năm sau, lại lừng lững tái sinh. (1)
Sartre và bồ là Simone de Beauvoir chẳng đã cười ngất khi Kafka được coi là nhà văn của thế kỷ: Thằng cha nào vậy? Nếu hắn ta hách xì xằng như thế, hai đứa này đã phải biết!
Chính ông Wilson, trong bài viết, cũng nghĩ là mình đánh giá sai về Boll.
(1):
Mỗi thế hệ có chọn lựa của nó. Có thi ca trường tồn, vĩnh cửu nhưng thật khó mà có phê bình mãi mãi "vũ như cẩn". Tennyson sẽ có "ngày của ông ta", và Donne, "buổi nhật thực". Hay là, để đưa ra một thí dụ chẳng liên quan gì tới thói ham mốt này mốt nọ: trước chiến tranh, tại những trường Pháp nơi tôi theo học, nói chung là ai cũng coi Virgil như là một kẻ bắt chước Homer một cách ngây ngô, bắng nhắng. Tất cả học sinh đều khẳng định với bạn bằng một thái độ rất ư là tự tin như thế. Cùng với thảm họa, chuyện thường ngày về "cuộc tháo chạy tán loạn", và lưu vong, cách nhìn trên đã thay đổi một cách triệt để. Bây giờ, Virgil trở nên một chứng nhân thật chín mùi, thật cần thiết. Simone Weil và cách đọc ngang bướng sử thi "Iliad", hay "Death of Virgil" ("Cái Chết của Virgil") của Hermann Broch, cả hai đều góp phần trong việc tái thẩm định...
Nhân Văn

Tags: | Edit Tags
Thursday September 20, 2007 - 12:42pm (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
… nơi mà cả “sự vô tội cũng được bày bán.”
… nơi mà cả “sự vô tội cũng được bày bán.” magnify

“Ở đây [Cambodia], người ta kháo nhau rằng người Việt Nam có tiêu chuẩn phẩm hạnh thấp hơn người Khmer; và trong khi người Việt Nam bán con gái của mình, người Khmer không bao giờ làm điều ấy.”

… nơi mà cả “sự vô tội cũng được bày bán.”
Nguồn

*

Một lần tôi nằm mơ, và cũng như Hebel, tôi mơ giấc mơ của mình ở trong thành phố Paris, ở đó, tôi bị lột mặt nạ, và trơ ra, là một tên phản bội quê nhà, và một tên lừa đảo.
Sebald: Phát biểu khi là ông Hàn

*

Liệu có một tên VC nào cảm thấy bị lột mặt nạ, trơ ra là một tên phản bội, và một tên lường gạt, ở ngay trên chính quê hương của nó?
*

*

Hình 1: Cô bé Do Thái này không có bằng, hay giấy phép, lái xe đạp. Varsovie, 1937.
Hình 2: tại bếp ăn dành cho người bản xứ, hai chị em đang trầm tư trước dĩa cháo. Hỏi, người chị, ngồi phiá bên phải, trả lời, ở đây còn được ăn cháo, ở nhà, mẹ chúng tôi không có cháo ăn. Prague, 1937.
Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, Tháng Sáu, 2007.

Khi gọi cuốn sách của mình bằng cái tên Sự huỷ diệt, La Destruction, (1) mà không phải là, Lò Thiêu, Holocaust, hay Shoah, tiếng Hebreu, Raul Hilberg muốn xác quyết, cung cách mà từ đó bật ra số phận người Do Thái, do chế độ chính trị Nazi gây nên.
(1) Sự huỷ diệt dân Do Thái tại Âu Châu.

Tôi tin rằng, có một sự huỷ diệt Miền Nam, tương tự. Chiến thắng của Miền Bắc đã huỷ diệt nếp sống nhân bản hài hòa của Miền Nam.
Sự huỷ diệt còn được đám VC miệt vuờn hỗ trợ, ăn theo. Những cuộc biểu tình đòi đất của đồng bào Miền Nam như đang xẩy ra, sự nghèo khổ đến tận cùng, phải bán con, qua những vụ lấy chồng người nước ngoài, bán cả con nít qua nước láng giềng... đó là những bằng chứng hiển nhiên của tội ác huỷ diệt.
Khủng khiếp hơn cả, là sự huỷ diệt niềm tin, vào người anh em ruột thịt Miền Bắc.
Nhật Ký
Tags: | Edit Tags
Thursday September 20, 2007 - 09:49am (PDT) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Have U Ever Seen The Rain?
Have U Ever Seen The Rain? magnify
SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya...
Kỷ niệm Sài Gòn magnify
La beauté d'un paysage réside dans sa tristesse. Ahmet Rasim
Cảnh đẹp thì buồn.

NC bảo nghệ thuật là ánh trăng lừa dối (maybe, nhớ ko chắc lắm), nhưng em thấy mưa mới là siêu lừa tình chứ nhỉ?
Dưới mưa, nhìn đâu cũng đẹp và buồn. Ngay cả cái công trường ngổn ngang bên etown3 còn đẹp nữa là.

Đọc mấy câu trên về Sài Gòn, rồi đọc Pamuk viết về "Ném mẩu thuốc cuối cùng xuống... Bosphore, mà lòng mình phơi trên kè đá":

"Đôi khi tôi nói với tôi: Đời chẳng khi nào thảm tới mức như thế. Và giả như tới mức đó, thì vưỡn còn tí an ủi, là được đi dạo bên bờ sông Sài Gòn". [Parfois je me prends à penser: "La vie ne peut pas être à ce point mauvaise. Mais quoi qu'il en soit, on peut toujours, en fin de compte, aller marcher du côté du Bosphore].

*

Mưa.
Những hàng cây run rẩy rất khẽ, bóng của chúng dường như tăm tối hơn thì phải. Em nhớ người, và nhớ mưa. Mỗi ngày đều mưa, nhưng mưa mỗi ngày mỗi khác. Và mưa của một lần khác thì rất khác.

Người em yêu, ngoài đôi tay to và ấm hay nắm lấy tay em những khi cùng lang thang và chỉ lái xe bằng 1 tay mặc kệ đường đông còn có 1 bờ vai vững vàng để em tì cằm vào những khi muốn rủ rỉ rù rì gì đó. Rồi những khi trời mưa, em thỉnh thoảng kéo áo honey để lộ 1 khoảng vai trần, đặt lên làn da mát lạnh ướt đẫm ấy một nụ hôn vội vàng. Em biết, tiếng cười của cả hai khi đó đều rất trong, như mưa. Ngay cả mưa rơi giữa vùng tối của đêm cũng vẫn long lanh. Và, có phải môi em rất ấm?

"Vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa"
Em hay lẩm nhẩm hát bài này khi bất chợt gặp mưa.

*

Ui chao sến ơi là sến, nhưng càng sến bao nhiêu càng người, càng Sài Gòn bấy nhiêu.

Gấu này chẳng đã từng phán, cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến sao?

*

Have you ever seen the rain?

Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi?


Lần đầu nghe câu hát này, Hai Lúa giật mình tự hỏi, tại sao lại có một lời ca lạ kỳ như vậy.
Rồi chẳng bao giờ Hai Lúa tìm hiểu những lời tiếp theo.
Bởi vì câu hát đó, đến đó, là trọn vẹn đối với Hai Lúa.

Câu hát trọn vẹn của nó đối với Hai Lúa là như vầy:
Em có bao giờ nhìn thấy mưa rơi trên tóc, trên mặt, trên má em, bữa hai đứa mình đứng trú mưa, tại vỉa hè đường Lê Lợi, ngay trước rạp hát, kế bên Nhà Thương Đô Thành... (1).
Nguồn

Have you ever seen the rain?
Someone told me long ago theres a calm before the storm,
I know; its been comin for some time
When its over, so they say, itll rain a sunny day,
I know; shinin down like water

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day

Yesterday, and days before, sun is cold and rain is hard,
I know; been that way for all my time
til forever, on it goes through the circle, fast and slow,
I know; it cant stop, I wonder

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day

Yeah!

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day

Someone told me long ago theres a calm before the storm,
I know; its been comin for some time
When its over, so they say, itll rain a sunny day,
I know; shinin down like water

I want to know, have you ever seen the rain?
I want to know, have you ever seen the rain?
Comin down on a sunny day
*
Cháu đọc entry của bác từ lúc nó chưa đổi tên cơ, khi còn là "SG mùa này thì cứ triền miên buổi chiều và rả rích đêm khuya" ấy. Nhưng mà quả thực là không biết nói gì thêm, hihi :D.
Hôm nào cháu viết tặng bác 1 entry nhé, vì cháu rất thích cái nhận xét của bác "cái hồn của văn chương Miền Nam, là ở trong nhạc vàng, nhạc sến".

Tks. I am looking forward to reading your "To_Gau entry".

Cái hồn của văn chương Việt Nam... D.H Lawrence diễn tả bảnh hơn Gấu nhiều. Ông gọi là "Nỗi Nhớ Bùn" [La nostalgie de la boue]. Gấu thuổng chữ của ông, viết được một đoạn thật là tuyệt vời về Sài Gòn:

"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."

Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.

Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.

Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi đốt lên ngọn nến của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.
Lần Cuối Sài Gòn
*
Mưa.
Những hàng cây run rẩy rất khẽ, bóng của chúng dường như tăm tối hơn thì phải. Em nhớ người, và nhớ mưa. Mỗi ngày đều mưa, nhưng mưa mỗi ngày mỗi khác. Và mưa của một lần khác thì rất khác.
Crimson M.
Đọc câu trên, tình cờ đọc một bài thơ trên The New Yorker, số 24 Tháng Chín, 2007, trên xe buýt, trên đường từ downtown về nhà, ở một vùng ngoại ô thành phố. Một bài thơ về cây. Câu trích dẫn làm đề từ mới thú làm sao:
Resignation
I like trees because they seem more resigned
to the way they have to live than other things to do.
Willa Cather
Ẩn nhẫn
Tôi mê cây cối vì cách mà chúng ẩn nhẫn,
trong cái việc hãy cố vươn lên mà sống, tô son lên môi cuộc đời,
so với mọi loài khác.
Đấy là cây ở Sài Gòn.
Bỗng nhớ cây ở Hà Nội:
Mai, Mai, để anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa biết yêu nó thì phải rời bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu đó trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc, tiếng còi mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà Nội, những lá cây vàng úa, hàng cây hai bên đường hình như cao thêm, thành phố trang nghiêm và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ, buổi sáng trong suốt không vẩn một hạt bụi, tiết trời lành lạnh người ta quên đi, rồi đột nhiên nhớ lại, và chút giá lạnh đã len vào tâm hồn; buổi chiều sẽ bất chợt trở về, những con đường sẽ im lìm và trầm lặng hơn như giấu giếm một tiếng thở dài; chúng như bị bỏ quên, trừ một hai cặp tình nhân đi lại, hoặc một hai đứa nhỏ tha thẩn… Để anh kể cho em nghe về một thành phố mùa thu có những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi bay trong gió, mùa hè vàng nắng đã qua đi từ lâu cùng những buổi tắm sông, nằm trên cát nóng bỏng, nhìn thẳng vào mặt trời
Chỉ vì những dòng trên, mà một ông bạn y sĩ, quen ở hải ngoại, khi đọc, đã mắng mỏ nhẹ nhàng, những ngày ở Sài Gòn, sao chỉ thấy Hà Nội!
Và mưa của một lần khác thì rất khác.
Ui chao, đọc, nhớ liền tù tì cái cảnh thất thểu chạy theo em ở nơi cổng trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn:
Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.
*
RESIGNATION
I like trees because they seem more resigned
to the way they have to live than other things do.
— Willa Cather
Here the oak and silver-breasted birches
Stand in their sweet familiarity
While underground, as in a black mirror,
They have concealed their tangled grievances,
Identical to the branching calm above
But there ensnared, each with the others' hold
On what gives-life to which is brutal enough.
Still, in the air, none tries to keep company
Or change its fortune. They seem to lean
On the light, unconcerned with what the world
Makes of their decencies, and will not show
A jealous purchase on their length of days.
To never having been loved as they wanted
Or deserved, to anyone's sudden infatuation
Gouged into their sides, to all they are forced
To shelter and to hide, they have resigned themselves.
—J. D. McClatchy
To shelter and to hide, they have resigned themselves: Đúng là cái kiểu ẩn nhẫn, của một anh già lưu vong, sắp sửa ngòm ở nơi xứ người, như Gấu!
Anh voi già không kiếm ra nghĩa địa của loài Mít,
cố kiếm một chỗ nằm liếm vết thương,
ẩn nhẫn đếm những giờ phút cuối cùng của đời mình...
*
Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Tags: | Edit Tags