*





“Những con dã tràng”, truyện đầu tay của GCC, được TTT chọn, tính đăng trên Sáng Tạo, nhưng do báo ngỏm, ông bèn đưa cái mớ bài vở còn dư đó, qua báo Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong và những đấng như DNM, TDT….
Lẽ dĩ nhiên, bị ném vô thùng rác.
Gấu đọc thấy tên của mình trong mục Hộp Thư Tòa Soạn, tuy chẳng hề gửi, thì đoán vậy, nhưng cũng chẳng nói gì với ông anh. Vả chăng vào lúc đó, lo học, lo tốt nghiệp, ra trường, có việc làm kiếm ra tiền, nuôi gia đình, và nếu có cơ hội, học tiếp.
Chỉ đến khi đọc Faulkner, và viết được cái truyện ngắn đầu tay “Những Ngày Ở Sài Gòn” thì Gấu mới biết, mình sẽ trở thành nhà văn, theo nghĩa, nhờ kiếm ra sư phụ và kiếm ra văn phong của mình. Đây là cơ may đặc biệt của GCC, nhờ đọc được sách Tẩy, mà thoát kiếp nhà văn Mít chỉ đọc chữ Mít, không thể đọc 1 thứ chữ nào khác. Trường hợp hai phiên bản của TTT, là DNM và NDT cho thấy, tại làm sao mà TTT lại phán, nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không hề nói, Gấu viết hay hơn DNM hay NDT. Ông phán, nó sẽ đi xa hơn.

“Những con dã tràng”, với riêng Gấu, khi về già, nhìn lại, quả là bảnh nhất trong số những truyện ngắn của Gấu, và khác biệt hẳn với số còn lại. Nó là đỉnh cao của thứ văn chương “hiện sinh”, theo nghĩa, hục hặc với chính mình, “đêm không là đêm” nhưng mà là “đêm tóc rối”!

Giả như tiếp tục viết thứ văn đó, Gấu trở thành 1 phiên bản, thứ ba, của TTT!

Gấu nhớ bà cụ thân sinh TTT & Bạn C, đọc, lắc đầu, phán, thằng này bịnh.
Ui chao phải đến mãi sau này, ra được hải ngoại, đọc “The Steps”, bản tiếng Anh, thì Gấu mới nhớ lại câu của Cụ.
Trong "The Steps", có 1 chương  [Gấu đọc cuốn này khi mới lớn bản tiếng Tây, Les Pas, sau này nhớ lại, lầm là tập truyện ngắn], trong có xen y chang trong “Những Con Dã Tràng”, xen ngồi chiếc đu, nhưng bịnh hơn nhiều]

[GCC sẽ scan , và dịch liền hầu độc giả TV]


GCC biết đến Jerzy Kosiński rất sớm từ những ngày còn Sài Gòn, khi cuốn sách của ông nổi đình nổi đám, và được tờ Văn nhắc tới, và dịch cái tít theo bản tiếng Tây là Loài Chim Dị Chủng, L'Oiseau bariolé, và liền sau đó, nghĩa là, liền sau khi cày thêm 1 job cho UPI, Gấu bèn ghé Xuân Thu tậu 1 cuốn của ông, cũng thật là bảnh, Les Pas, bản tiếng Tây của Steps.

Đúng là thần sầu.

Thần sầu hơn nữa, là, 1 cái truyện ở trong đó, rất giống trường hợp đã xẩy ra với bạn Phạm Năng Cẩn, 1 trong Thất Hiền của Gấu.
Bạn còn nhớ ông bạn Cẩn này, hồi đi học, sống nhờ ông anh, có bà chị dâu tàn khốc, và do đó, thường là quên đóng học phí, và được 1 em học cùng lớp thương, cứ nhét tiền vào trong vở bạn Cẩn, trả học phí giùm.
Sau em đi lấy chồng, và trước khi đi lấy chồng hẹn gặp bạn Cẩn ở.... khách sạn.
Ui chao bạn Cẩn tới, sợ run, mừng run, và em ra lệnh, anh quay mặt đi chỗ khác.
Cẩn không chỉ quay mặt đi chỗ khác, mà còn nhắm kín cả hai mắt. Khi em ra lệnh, quay mặt lại, và mở mắt ra, thì Cẩn nhìn thấy cái lưng trần của em và hai trái táo bự ơi là bự, ở trong gương!
Cẩn chỉ được hưởng hương, hưởng hoa, trước khi em đi lấy chồng.
Trong Les Pas có 1 truyện tương tự, nhưng khủng hơn nhiều, bịnh hơn nhiều, chứ không thanh cao, trong trắng như trong trường hợp của bạn Cẩn.

Gấu Cà Chớn cũng gặp 1 trường hợp tương tự bạn Cẩn. Trước khi lấy Gấu Cái, cũng 1 em đến gặp, tự động phơi hến ra, như cái em trong bài thơ của Sebald, cho anh đấy, hàng "zin", anh nhìn hai cái núm vú đỏ hỏn của em thì biết, nhưng chỉ với điều kiện, phải lấy em, phải bỏ cái cô có bầu với anh.
Gấu không thể bỏ Gấu Cái, thế là đành lắc đầu, dù rất thèm!
Hà, hà!

Cô này, lần Gấu về lại Sài Gòn, gặp lại. Có chồng, nhưng bỏ nhau đã nhiều năm, 1 mình lo cho đàn con. Gấu rủ đi chơi, OK, nhưng tới khi đề nghị kiếm… khách sạn thì cô lắc đầu, ngày trước, còn zin, cho không anh, anh chê, bây giờ nát bấy như quê hương mỗi người chỉ có một, có đáng gì nữa, nhưng chỉ sợ anh già rồi, chẳng làm gì được, hến của tôi lại thẹn thêm một lần nữa.

Dã man thật.

Mà có thể thế thật!

*

Cả hai cuốn đều tuyệt cú mèo. Gấu nhớ, hồi đó đó, đọc tờ Paris Match, kể về Kosinski, học tiếng Anh bằng cách gọi cho mấy cô ở Tổng Đài, và, cùng lúc, viết tiểu thuyết bằng tiếng Anh.
Sau vỡ ra là ông phịa.
Cuốn tiểu thuyết khủng khiếp số 1 của ông, cũng là phịa, trong khi ông cứ khăng khăng chuyện thực.
Và sau tự tử để chứng minh, nó là thực.
Vưỡn chẳng ai tin.
Ngu thế. Giả mới bảnh chứ thực thì…. chán chết.
Gấu coi sách, coi phim, mà thấy câu 'dựa trên chuyện thực' là vứt vô thùng rác. (a)


GCC nhớ là TTT mừng lắm, lần Gấu gọi điện thoại xuống tòa soạn tuần báo Nghệ Thuật. Ông là người đem nó xuống tòa báo, khi Gấu, lúc đó còn nằm dưỡng thương mìn VC trên Đài Liên Lạc VTD thoại quốc tế, số 5 PDP, Sài Gòn, nhờ bạn Quốc, Trần Công Quốc, 1 trong Thất Hiền, đưa bà xã đi làm [bà là 1 trong những nữ điện thoại viên của Đài], ghé nhà đưa cho ông. Ông ra lệnh, phải xuống tòa soạn lấy tiền nhuận bút [mày viết văn là phải đòi tiền nhuận bút, không thì đừng viết, khi Gấu ra ý đếch cần nó!]

Những con dã tràng

Villa trông ra biển. Tường phía trước thấp. Gió từ biển tới, vượt khoảng vườn nhỏ, mang những chiếc lá vàng trải lên thềm nhà. Con đường nhựa đen đúi, lầm lì chạy mải tới cuối thành phố. Bên kia con đường, là bãi biển, cát trắng và nóng. Xa hơn, về phía trái, nơi bắt đầu con đường, con sông nhỏ đổ nước ra biển làm đỏ lờ đờ một vùng. Xa hơn nữa, cuối tầm nhìn, một ngọn núi nằm trơ trọi, hình dáng nặng nề, thô kệch. Buổi tối, những người dân thường đốt rừng làm rẫy, xa trông, như một con rắn đỏ lập lòe.

Một chiếc xe ngựa đậu dưới bóng cây lớn ở trước cổng ra vào.
Hai dẫy nhà nhỏ chạy dài ra vườn sau. Phòng H. ở cuối một dẫy.
Những cây phi lao đứng im ở ngoài vườn.

Buổi chiều ngày đầu, Q. nói với tôi, H. là con gái lớn bà chủ nhà. Chúng tôi đứng ở cuối vườn. Bấy giờ gió thổi mạnh, cành lá xào xạc ở phía trên đầu. Đám phi lao ngập ngừng chuyển mình, nửa muốn phụ họa gió, nửa muốn kéo dài giấc ngủ im lìm buổi trưa. H. cùng đứa em đánh đu ở phía trước. Hàng cây che khuất tầm nhìn của tôi. Mỗi lần chiếc đu trở lui về phía sau, thân hình người con gái lại hiện ra giữa hai thân cây phi lao, rồi lại mất đi một cách đều đặn. Tiếng cười giòn, nhẹ và ấm vọng tới chỗ chúng tôi. Rồi gió thổi mạnh làm át đi tất cả; trong gió có những con vật bé li ti, những chiếc lá cây, và những hạt cát. Tôi dựa lưng vào thân cây phi lao, và bỗng nhận ra đời sống vô vị, buồn nản của mình, một đời sống không có gì để nhớ, hoặc để chờ: tôi chờ những lần chiếc đu trở lui về phía sau và cố nén cơn ho thường lệ buổi chiều. Tôi nghĩ tới những lần tự nhiên thức giấc trong đêm khuya, mọi người đều yên ngủ, tôi lặng lẽ nghe tôi nặng nề thở và mệt nhọc sống. Khi người bác sĩ báo tin tôi mắc bịnh, tôi cảm ơn ông ta, và quay qua xin một điếu thuốc lá. Buổi chiều hôm đó, tôi đi coi một phim trinh thám. Khi nhân vật trong phim trúng đạn ngã xuống, tôi bỏ ra về. Buổi tối, tôi ngồi viết thư cho T. "Em có hiểu thế nào là thần tượng không? Yêu một người con gái, một người con gái quen biết từ nhỏ, tình cờ gặp người con gái đó trong tay một kẻ khác không phải là mình. Thần tượng bị phá vỡ hoàn toàn và đột nhiên tôi thấy lố bịch, lố bịch vô cùng."

Lá thư đầy giả tạo. Ghen tuông, tôi lựa chọn sự tầm thường, và tự hạ. Nhiều khi tôi tự hỏi tại sao không nói tôi bệnh và từ chối tình yêu của nàng. Đúng lúc tựa thân mình vào cây phi lao, tôi mường tượng ra, tại sao tôi xử sự như vậy. Một lần tôi vào xóm chơi bời, đi theo một đứa con gái vào một căn phòng nhỏ, hôi hám, chật hẹp. Ngọn đèn dầu le lói chiếu sáng căn phòng đỏ lờ đờ. Khi tôi quay lại nhìn, cô gái nằm trên giường, thản nhiên chờ đợi, chẳng thèm để ý tới tôi. Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!" Sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó.

Buổi chiều chúng tôi đi dạo trên bãi. Biển xanh sẫm, ì ầm, âm thanh dài như không bao giờ dứt. Q. nói, "Bà chủ có vẻ mến cậu." Tôi nói, "Như vậy tôi có thể ở đây lâu." Tôi không nói gì. Cả hai đều yên lặng. Tôi nghĩ đến sáng nay, tôi thức giấc vào khoảng bốn giờ, tôi nghe tiếng chuông nhà thờ và tự hỏi, nếu tôi đang quì cầu nguyện. Tôi nghĩ đến K. Nó yêu một người con gái, ít lâu sau cô gái bỏ đi lấy chồng. Trước đó, cả hai thường rủ nhau đi nhà thờ cầu nguyện. Tôi nghĩ nếu Thượng Đế phải dậy sớn vì những chuyện như vậy, Pauvre Dieu, và tôi mỉm cười. Sự thực, tôi ít nghĩ đến chuyện đó. K bảo tôi, "Như vậy người ta mù tịt về thân phận mình." Tôi trả lời, "Chính vì mù tịt mà người ta hạnh phúc, ít ra là trong quãng đời ngắn ngủi đó." T nói thêm, "Nhưng còn sự chết..."

Sự chết, tôi vẫn thường nghĩ đến. Hồi nhỏ, khi còn ở Hà Nội, một lần đứa cháu gái tôi bị bệnh nặng. Nó bắt tôi phải ngồi bên cạnh nó, phải kể chuyện cho nó nghe, nghe nó đòi mua quà này, quà nọ. Còn nhỏ, ham chơi, tôi chờ nó mệt, ngủ thiếp, và bỏ đi chơi đứa bạn ở gần nhà. Hai đứa rủ nhau lên Bách Thảo, lang thang trong vườn. Đang đi, tôi đột nhiên nghĩ đến đứa cháu, và đột nhiên nhận ra rằng, nó đang chết, và đang gọi tên tôi. Tôi chạy về, bất kể xe cộ, mất hết cảm giác và ý thức. Về đến gần nhà, nghe tiếng chị tôi khóc lóc, kể lể, tôi lủi thủi bỏ đi. Tôi cứ nghĩ, chắc là đứa cháu khổ sở lắm, khi không có tôi ở bên cạnh, vào lúc nó bị giằng co giữa sống và chết... Chắc cha tôi cũng đã trải qua những giờ phút tương tự như vậy. Khi còn sống, ông làm nghề dậy học, và bị thủ tiêu vì vấn đề chính trị đảng phái hồi 1945. Người ta nói, cha tôi bị cột đá vào người, và bỏ xuống sông. Những ngày sau khi nghe chuyện, mỗi lần đi tắm sông, tôi thường lặn sâu xuống nước, rồi cố gắng nín thở, cố gắng chịu đựng, và nghĩ đến cha tôi.

Q đi lễ, và hỏi tôi có thể đi cùng, tôi lắc đầu, gọi mua một gói lạc rang. Người đàn ông làm tôi nhớ tới người Tầu già bán lạc rang ở bờ hồ Hà Nội. Tôi có nhiều kỷ niệm về thành phố nhỏ bé và cũ kỹ đó. Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện. Tôi thường tinh nghịch để những viên sỏi nhỏ lên trên đường sắt, rồi hồi hộp chờ chuyến xe chạy qua. Suốt thời thơ ấu, tôi bị chiếc xe điện mê hoặc. Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.

Bãi biển vắng. Trước mặt tôi, mấy đứa con trai đang chuyền banh. Bất chợt trái banh rớt gần chân tôi. Tôi đá trở lại, và cười gượng gạo cùng lũ trẻ. Tôi nín cười và bỏ đi. Nhiều tiếng cười đuổi theo sau lưng. Một người ăn mày ngồi trên bãi cát, chìa tay chờ đợi. Tôi cho tay vào túi quần. Những đồng tiền lẻ kêu nhè nhẹ trong túi. Tôi để yên tay trong túi quần, và bỏ đi. Một người Tây già nằm trên chiếc ghế vải. Tôi định tới gần châm điếu thuốc, nhưng ngần ngại. Điếu thuốc trên tay người Tây già chậm chạp vẽ những đường cong đều đặn, tay còn lại bỏ thõng xuống cát, buổi chiều sắp tàn, tất cả những cái đó gọi là sự ngần ngại của tôi. Những con dã tràng lăng quăng bò trên cát. Tôi đi theo một con. Khi con vật chui xuống một lỗ nhỏ, tôi dừng lại chờ. Tôi không hiểu tôi chờ gì. Tôi chờ con vật chui ra khỏi lỗ cát, hay chờ một gì đó sẽ xẩy ra. Tôi bỏ đi, chẳng còn gì nữa, buổi chiều hết rồi.

Về tới cổng, tôi gặp bà chủ nhà cùng cô con gái lớn. Bà mẹ tỏ vẻ hy vọng, tôi sẽ thích nơi này. Bà kể chuyện, có một đứa con trai trai chết vì bịnh lao phổi cách đây ít lâu (nó khoảng tuổi cậu, rất ham học, thật tội nghiệp). Người con gái lớn đứng im lặng, nhìn ra biển. Tôi bỗng nói, tôi không thể làm sống lại người đã chết, tóc xõa che lấp cả khuôn mặt, và hơn nữa, tôi không muốn ngồi vào chỗ của người khác, cúi xuống nhặt một viên sỏi, ném ra xa, cử chỉ lạnh lùng, người đàn bà (bà mẹ) ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi nói thêm, tôi không thể xin lỗi bà ta, và thất thểu trở về phòng.

1958

Sơ Dạ Hương

Cái việc ném vô thùng rác tòa soạn báo Văn Nghệ, truyện ngắn đầu tay của Gấu, về già nghĩ lại, Gấu thầm cảm ơn số phận. Nếu không là bỏ mẹ rồi!
Là thành 1 đấng TTT thứ ba!

Cái chuyện gặp được Faulkner, may mắn, nhưng giả như gặp, không phải tác phẩm Absalom, Absalom! mà là một cuốn khác, cũng của ông, cũng hỏng cẳng!

Thầy Trò cũng đếch nhận ra nhau!

GCC đã từng phán, toàn bộ tác phẩm của… Cô Tư, là từ cái khúc mở ra Absalom, Absalom!, dù Cô Tư chẳng hề đọc Faulkner.
Trường hợp GCC thì cũng xêm xêm.
Khác, là có đọc.
Anh sinh viên miệt vườn, trước khi từ giã quê nhà, vô Đại Học, được bà cô nhắn, đến gặp bả.

Và nghe bả kể, về “Miền Nam Sâu Thẳm”.
Về Colonel Sutpen 




Steps
Les Pas

**

JERZY KOSINSKI: STEPS

The next afternoon I found a pretext to visit the sanatorium. Patients in brightly patterned pullovers and tight pants strolled about the corridors. Others slept huddled in blankets. Filmy shadows cut across the deserted deck chairs on the sunny terrace, and the canvas snapped in the sharp breezes that scattered down from the peaks. I saw a woman reclining in a chair. Her shawl, casually thrown around her shoulders, exposed her long, suntanned neck. As I lingered, gazing, she glanced at me thoughtfully, and then smiled. My shadow fell across her when I introduced myself. The visiting rules were very strict, and I was permitted to spend only two hours a day in her room. I couldn't get too close to her: she would not let me. She was very ill and coughed continually. Often she brought up blood. She shivered, became feverish; her cheeks flushed. Her hands and feet would sweat. During one of my visits she asked me to make love to her. I locked the door. After I had undressed she told me to look into the large mirror in the corner of the room. I saw her in the mirror and our eyes met. Then she got up from the bed, took off her robe, and stepped over to the mirror. She stood very dose to it, touching my reflection with one hand and pressing her body with the other. I could see her breasts and her flanks. She waited for me while I concentrated more and more on the thought that it was I who stood there within the mirror and that it was my flesh her hands and lips were touching. But in a low yet urgent voice, she would stop me whenever I took a step toward her. We would make love again: she standing as before in front of the mirror, and I, a pace away, my sight riveted upon her. Her life, was measured and constantly checked by various instruments, recorded on negatives, charted and filed away by a succession of doctors and nurses, reinforced by needles piercing her chest and veins, breathed in from oxygen bottles and breathed out into tubes. My brief visits were interrupted more and more frequently by the- intrusion of doctors, nurses, or attendants who came to change the oxygen cylinders or give- new medicines. One day an older nun stopped me in the corridor. She asked me whether I knew what I was doing, and when I said I didn't understand, she said the staff had a name for people like myself: hyaenidae. As I still failed to -understand, she said: hyenas. Men of my kind, she said, lurked around bodies that were dying; each time I fed upon the woman, I hastened her death.

As time went on her condition visibly deteriorated. I sat in her room, staring at her pale face lit only by an occasional flush. The hands on the bedspread were thin, with a delicate network of bluish veins. Her frail shoulders heaving with every breath, she surreptitiously wiped off the perspiration which rose steadily on her forehead. I sat quietly and stared at the mirror while she slept; it reflected the cold, white rectangles of the walls and ceiling. The nuns glided silently in and out of the room, but I succeeded in never meeting their eyes. They bent over the patient, wiping her forehead, moistening her lips with wads of cotton, whispering some secret language into her ears. Their clumsy dresses flapped like the wings of restless birds. I would step out onto the terrace, quickly closing the door behind me. The wind was ceaselessly driving the snow over the crusted fields, filling the deep footprints and diagonal tracks left from the previous day. I held the soft plump cushion of fresh snow from the frozen railings. For a moment it shimmered in my warm palm before turning into dripping slush.

More and more often I was denied access to her room, and I spent those hours alone in my apartment. Later, before going to sleep, I would pullout from the desk drawer several albums filled with my photographs of her, carefully enlarged and painstakingly pasted onto stiff cardboard. 'I would place these enlargements in a corner of my bedroom and sit in front of them, recalling the events of the hospital room and the images within the mirror. In some of the photographs she was naked; now I had them before me, for myself alone. I looked at these pictures as if they were mirrors in which I could see at any moment my own face floating ghost-like on her flesh. Then I would step out on my balcony. Around the sanatorium the lights from the windows touched the snow, which no longer seemed fresh. I would gaze at the faint lights until they began to disappear. From beyond the breadth and width of the valleys and hills, streaked by wooded slopes, the moonlight lit up frozen peaks and streams of vaporous clouds being lured from the shadows of narrow defiles, A door clanged shut; a car horn sounded in the distance. Suddenly figures appeared between the snowdrifts. They scrambled through the fields toward the sanatorium, now and then lost, as if straining against the stifling dust storm of a drought stricken plain.