*

Cali, No-2012
Bobin
Ghiền
TTT in Ký Ức Sơ Sài
Rain
Paris Review 60 năm
Sổ Đọc
Thảm họa dịch
Nostalgie de la boue
Ám ảnh phố phường
Câu hỏi hắc búa
Viết lại Truyện Kiều
Thơ vô ngôn
Hope in thin shell
Nhìn lại TLVD
Mit Crisis
Borges by Greene
NQT @ talawas
Tiểu thuyết là gì?
1968-Khe Sanh
Sarajevo Siege 1992
Paris tắm
Mit Critic
Ghiền
Cô Gái Chơi Cờ
Pamuk:
Cơn giận dữ của những kẻ bị trầm luân
Viết nhỏ by PTH
Anh Môn by The Economist
Cavafy by Vargas Llosa
Opium-Marx
20 năm VH Miền Nam
Granta Sex
The Good vs The Chtistian
Iceberg
Gatsby
Simic: What if
PCT triết gia
Season Elegy
Truyện ngắn bất khả
NHT by Nhật Tuấn
Steps
Lost_Intel
Chia tay
Youth
Fleeing by Cao Hành Kiện
Loneliness by CHK
To Young Poets by AZ
NHQ và HTXHCN
Bolano: Trong Ngoặc
Borges's Còm
Hà Nội Gió
Tạp Chí ST by CTC
Graham Greene Dangerous Edge
Đọc lại Agatha Christie
Message to 21th Century
Memory Trap
How to write a sentence
Bùi Ngọc Tuấn
Ôi chao giọng Huế
Lapham Kẻ Lạ
Inner Worlds
LMH case
Bịp
Lolita loathsome brillance
Kafka Poet
Once upon a sea
Images Life by Simic
Borges by Cioran
Centaur Question by P_Levi
Ars Erotica
Keo_LMH
A Place in the Country
Love-Letter by Durrell
Bad Words Praise
Imaginary Beings Book
Love Stories
Thôi bỏ đi Tám
Surf Tin Văn
Nơi cuộc chiến bắt đầu
Thông điệp I. Berlin
Mit vs Lò Thiêu

Why Lawers Love Shakespeare
Karl Popper on Democracy
Nh
ã Ca @ Cornell
NL vs Camus
HNB Case
Naipaul on Borges

Viết bằng tiếng nước người

Kể lại 1 đời
Trần Trọng Kim



Facing the past

Barack Obama pays his respects in Hiroshima

Hiroshima welcomes the first serving American president to visit the city since its destruction by atom bomb

BARACK OBAMA drove through appreciative crowds along the approach to Hiroshima’s Peace Memorial Park, and on his departure an hour and a half later they surged into the park to where he had offered a wreath before its cenotaph. Mr Obama first visited the museum that serves as a reminder of the appalling human cost of the bomb that the Americans dropped on Hiroshima on August 6th 1945. He then met some of the elderly hibakusha, the dwindling number of Japanese who had been in the city on that fateful day but who had survived the blast. As schoolchildren on bicycles, young parents and elderly rushed in to savour the atmosphere, a sombre mood gave way to something approaching good cheer.

Beyond Hiroshima, very many Japanese welcomed Mr Obama’s visit, even though it came with no formal apology for the bombing of civilians in Hiroshima and, three days later, in Nagasaki. The two attacks and the radiation that followed killed over 200,000 people, mainly civilians. The bombings might seem to bear the hallmarks of a crime against humanity. But Americans have long argued that they hastened to a close a long, terrible war in the Pacific in which Japan was the clear aggressor. In Hiroshima, Japanese seemed to accept the absence of an American apology, though one hibakusha, Sumiaki Kadomoto, said that he hoped the president would silently be seeking forgiveness.

Given the moral and emotional complexity, the American president was his sonorous self in his speech at Ground Zero. “Seventy-one years ago on a bright, cloudless morning,” he said, “death fell from the sky and the world was changed.” The speech ranged widely, from the human history of violence to the suffering of all of the second world war’s victims. He said that technology as appalling as nuclear arms demanded a "moral revolution". He called for the destruction of the world’s stockpiles of nuclear weapons (the vast majority of which are still held by Russia and America).

Mr Obama acknowledged historical nuances, too. Thousands of Koreans and a smaller number of Chinese died in the blasts; they had been brought to southern Japan and coerced into working for the all-consuming war effort. And one of the survivors whom the president hugged, Shigeaki Mori, has long campaigned for 12 American prisoners of war who were killed to be commemorated.

By Mr Obama’s side at almost every step was Japan’s prime minister, Shinzo Abe. Members of his right-wing Liberal Democratic Party used not to like the idea of an American president visiting Hiroshima. They thought it would give succour to peaceniks and other awkward types opposed not only to Japan’s nuclear-power plants but even to its security alliance with America. Many on the left, too, believe that the museum and Hiroshima memorials too narrowly emphasise Japan’s victimhood without properly acknowledging the suffering Japan wrought across Asia. Mr Abe and his like think that Japan has done far too much apologising already. But with China growing assertive in Asia, strong Japanese ties with America count for much, and for Mr Abe, accompanying Mr Obama to Hiroshima is one way to reinforce them. And later this year Mr Abe may pay his respects to those American servicemen killed in Japan’s infamous surprise attack on Pearl Harbour in December 1941 that brought America into the war.

It will all, says Yoichi Funabashi, a public intellectual in Japan, help the long process of reconciliation between Japanese and Americans. Time also helps. In 1995, on the 50th anniversary of the atomic strikes, veterans of the second world war and members of Congress sharply criticised a planned exhibition and events at the Smithsonian museum in Washington, accusing curators of presenting Japan as a victim of American aggression. In the end, the exhibition was limited to the display of a section of the Enola Gay, the B-29 bomber that dropped the bomb on Hiroshima and embodiment of a glorious day for the armed forces and for American know-how and might. Twenty-one years on, there are fewer veterans, while Americans are more ambivalent about the bombings—when they think about them at all.

Yet, for all the lofty calls for a nuclear-free world left echoing around Hiroshima, there was an unwelcome ghost at the edge of the ceremonies: Kim Jong Un, young dictator of the rogue North Korean state, who not 500 miles (800 kilometres) from Hiroshima is urging his generals and engineers to develop a nuclear capability that may be very close to fruition. America is not going to give up its nuclear umbrella anytime soon, and Japan will, while not advertising the fact, be happy to shelter under it.

Note Một tên Trùm Cớm VC phán, Ô Bá Mà mà lên tiếng xin lỗi VC thì đúng là bảnh số 1!
Đúng ra, ngược lại.
Bắc Kít không có cách chi ăn cướp được Miền Nam. Bèn nhử Mẽo vô, bằng cách phịa ra cú Diệm đầu độc tù Phú Lợi. Nhân đó, thành lập MTGP.
Mẽo hoảng quá, bèn nhẩy vô.
Bao nhiêu tội ác của Mẽo, đều là do VC gây nên, tếu thế!
Cao Bồi không làm sao lên chuyến tầu suốt được, có thể là do anh nhận ra phần
tội ác của anh.
Giả như anh không đánh bức điện, chưa chắc Bắ
c Kít dám bỏ ngỏ Miền Bắc, dốc toàn lực vô trận đánh chót.



*

Prague, Old Town Square, ca. 1880

1.  The Hapless Benefactor

Once, when I was a very little boy, I'd received a ten-kreuzer coin, a Sechserl, and I was very eager to give it to an old beggar woman who used to sit between the Old Town Square and the Little Square. But now it seemed to me like a tremendous sum, probably a bigger sum than any beggar had ever received, so I was ashamed of doing something that would seem so tremendous to this beggar. Still, I had to give it to her, so I changed the Sechserl, gave the beggar one kreuzer, ran all the way around the town hall complex and the arcades lining the Little Square, came back from the left as a brand new benefactor, gave the beggar another kreuzer, started running again, and cheerfully did the same thing ten times. (Or maybe somewhat fewer, since I think the beggar later lost her patience and slipped away from me.) In any case, in the end I was so exhausted, in moral terms as well, that I ran straight home and cried until my mother gave me another Sechserl.
    You see, I have bad luck with beggars, and yet I hereby declare that I am prepared to slowly payout my entire present and future fortune in the smallest Viennese banknotes to a beggar woman there by the opera house, on the condition that you are standing beside me and I may feel you near me.

1. Kẻ làm phúc rủi ro

Một lần, khi còn bé tí, tôi được người lớn cho 1 đồng 10 xu. Và tôi hăm hở đem cho 1 bà già hành khất, thường ngồi ở giữa quảng trường cổ thành phố và quảng trường nhỏ. Nhưng tình hình lần này hơi bị căng, đồng 10 xu đâu có vừa: Cả 1 món tiền lớn, nhất là lại cho 1 người hành khất! Tính cả thẹn, thế là tôi bèn đổi thành 10 xu lẻ, và đóng vai 10 vị ân nhân khác nhau!
Ui chao, chạy 10 cú như thế, khiến tôi bã người. Tôi bèn về nhà, khóc nức nở, khiến bà mẹ của tôi thương hại, bèn cho tôi 1 đồng 10 xu khác!
Bạn thấy đấy, tôi đúng là 1 thứ không may, kẻ mang rủi ro tới, ngay cả cho 1 người ăn mày già!

Kafka
[GCC dịch thoáng]

Ui chao, đúng là THNM, bèn nhớ đến BHD, và cái lần được em tin cậy, ra lệnh, mi đưa cho ta tí tiền lẻ…
Sao tin cậy Gấu đến như thế, mà nỡ bỏ Gấu, lấy 1 đấng vác gạo! 
Sự thực, ông chồng, là bác sĩ. Nhưng giỏi đoán ý của ông bố vợ tương lai, từ khi còn là sinh viên y khoa.
Cứ mỗi lần Saigon rục rịch đảo chánh, là khệ nệ vác mấy bao gạo tới nhà.
BHD biểu Gấu, mi ngu quá, không làm như vậy được, nên ta bỏ mi...

Among the numerous problems that arose between Kafka and his beloved Milena Iesenska were their very different relationships to money. "Once he gave a beggar woman a two-crown coin," she told Max Brod, "and asked for one crown back. She said that she didn't have any change. We stood there for a good two minutes thinking about how to settle the matter. Then it occurred to him that he could let her keep both crowns. But he had hardly gone a few steps when he grew very sullen. And yet the same person would happily, enthusiastically give me twenty thousand crowns right away, as if it were nothing." She brought up the two-crown coin incident with Kafka on another occasion, but he cleverly defended himself with this childhood Sechserl memory, among other things.
    Kafka criticized himself for his "greed in minor matters," and when it came to money he could indeed just as easily be petty as generous. He enjoyed giving gifts, even money, but it had to be done entirely of his own free will.
He could not easily reconcile himself to making donations under pressure, or to not getting the correct change back, or to spending money thoughtlessly-even if it was "only a Sechserl."

My Old Saigon

Sài Gòn có phải là 'Hòn ngọc Viễn Đông'?

Trương Thái Du Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn


Cái tên Hòn Ngọc Viễn Đông, là Tẩy ban cho Sài Gòn, và quả đúng như thế, và sở dĩ được như thế, thì vì nhiều lý do, trong có cái gọi là "mentalité" của dân Miền Nam, và cái gọi là “văn minh” của Tẩy.
Tẩy đối xử với dân Miền Nam ngang hà
ng, không phân biệt. Điều này được những nhà văn, thí dụ hai đấng, là Graham Greene, trong "Ways of Escape" đã có những dòng ca ngợi thần sầu về Sài Gòn, và Maugham, trong bài viết về Huế, có trên Tin Văn.
Và quả đúng là quá khứ không thể nào lập lại, và điều này phần lớn là do Bắc Kít. Cái độc, cái ác của chúng làm biến đổi xã hội Miền Nam đến tận gốc rễ, không làm sao gượng lại được nữa.

*

HUẾ

HUE IS A pleasant little town with something of the leisurely air of a cathedral city in the West of England, and though the capital of an empire it is not imposing. It is built on both sides of a wide river, crossed by a bridge, and the hotel is one of the worst in the world. It is extremely dirty, and the food is dreadful; but it is also a general store in which everything is provided that the colonist may want from camp equipment and guns, women's hats and men's reach-me-downs, to sardines, pate de foie gras, and Worcester sauce; so that the hungry traveler can make up with tinned goods for the inadequacy of the bill of fare. Here the inhabitants of the town come to drink their coffee and fine in the evening and the soldiers of the garrison to play billiards. The French have built themselves solid, rather showy houses without much regard for the climate or the environment; they look like the villas of retired grocers in the suburbs of Paris.
    The French carry France to their colonies just as the English carry England to theirs, and the English, reproached for their insularity, can justly reply that in this matter they are no more singular than their neighbors. But not even the most superficial observer can fail to notice that there is a great difference in the manner in which these two nations behave towards the natives of the countries of which they have gained possession. The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has borne the better fruit.
    The Annamites are a pleasant people to look at, very small, with yellow flat faces and bright dark eyes, and they look very spruce in their clothes. The poor wear brown of the color of rich earth, a long tunic slit up the sides, and trousers, with a girdle of apple green or orange round their waists; and on their heads a large flat straw hat or a small black turban with very regular folds. The well-to-do wear the same neat turban, with white trousers, a black silk tunic, and over this sometimes a black lace coat. It is a costume of great elegance.
    But though in all these lands the clothes the people wear attract our eyes because they are peculiar, in each everyone is dressed very much alike; it is a uniform they wear, picturesque often and always suitable to the climate, but it allows little opportunity for individual taste; and I could not but think it must amaze the native of an Eastern country visiting Europe to observe the bewildering and vivid variety of costume that surrounds him. An Oriental crowd is like a bed of daffodils at a market gardener's, brilliant but monotonous; but an English crowd, for instance that which you see through a faint veil of smoke when you look down from above on the floor of a promenade concert, is like a nosegay of every kind of flower. Nowhere in the East will you see costumes so gay and multifarious as on a fine day in Piccadilly. The diversity is prodigious. Soldiers, sailors, policemen, postmen, messenger boys; men in tail coats and top hats, in lounge suits and bowlers, men in plus fours and caps, women in silk and cloth and velvet, in all the colors, and in hats of this shape and that. And besides this there are the clothes worn on different occasions and to pursue different sports, the clothes servants wear, and workmen, jockeys, huntsmen, and courtiers. I fancy the Annamite will return to Hue and think his fellow countrymen dress very dully.

Somerset Maugham:
The Skeptical Romancer

*   *

Người ta gọi nó, Hòn Ngọc của Đế Quốc [Pháp]

Bắc Kít rêu rao giải phóng Nam Kít. Sự thực, chúng đem tới, và tiêm chủng vào khí hậu con người Nam Kít cái độc cái ác bản chất của chúng, và lấy đi, những cái chúng không bao giờ có, và được hưởng, là tự do, dân chủ, sống thoải mái giữa con người với con người.

Hãy thử đọc 1 đoạn Somerset Maugham viết, là biết:

The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced that outside France there is neither art, literature, nor science. But the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just as fiercely. No one likes having another take possession of his house, even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English, the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has borne the better fruit.

Tẩy thực dân đối xử với Nam Kít, như thế, trong khi lũ Yankee mũi tẹt sau khi lấy được Miền Nam, đối xử với họ như thế nào?
Cái chuyện Bắc Kít không hề biết đến cái gọi là tự do, dân chủ, người đối xử như người với người, là sự thực, và là chuyện thường ngày ở cả xứ Mít hiện nay.

Sự kiện chưa từng biết đến dân chủ là gì, là lịch sử bốn ngàn năm của xứ Bắc Kít, và cũng là cái chuyện của xứ Nga Xô. Nói 1 cách ẩn dụ, thì đây là câu chuyện Bóng Đêm Giữa Ban Ngày, được Koestler, bằng con mắt của 1 nhà văn, cô đọng nó vào 1 cuốn sách mỏng dính. Trong bài viết mới nhất về nó, nhân nguyên tác mới tìm lại, Michael Scammell viết:
Like other European Communists, Koestler had struggled to make sense of these trials, and having utterly failed to do so, he handed in his Party card. He started his novel in an attempt to decipher the tortured logic of the confessions, taking as his hero a Bukharin-like disillusioned high Party official, Nikolai Salmanovich Rubashov. In the course of the novel Rubashov is interrogated by two secret police officials, the “good cop” Ivanov (a former friend) and the “bad cop” Gletkin (a younger, robotic apparatchik), who between them force him to review his life as a Party leader and convince him that by following his ideals he has disobeyed the Party line and has violated his oath of loyalty. In Party-speak, he was guilty of counterrevolutionary activities. Broken by the logic of his interrogators, Rubashov listlessly confesses at a public trial and is taken to a prison cellar where he is executed with a bullet in the head. The novel’s provisional title was “The Vicious Cycle” and after that “Rubashov.”

Những vụ án dởm, mà Koestler dựa vào chúng, để xây dựng tác phẩm, vẫn đang hàng ngày xẩy ra ở Xứ Mít VC.
Cái tít của cuốn sách, thoạt kỳ thuỷ là “Vòng Tròn Xấu Xa, Ma Quỉ”, rồi “Rubashov”, rồi “Bóng Đêm Giữa Ban Ngày”.

Michael Scammell viết, thật khó mà tin rằng, 1 nhà văn lại đẻ ra vài ấn bản khác nhau như thế, về tác phẩm đầu tay của mình: It’s hard to believe the same author could have produced two such different versions of his own novel, until one remembers that Koestler was working from the English edition the second time around. In the intervening four years he had learned to think and write in English himself, which helps to explain why the discrepancies were so wide. When he ran into trouble with his translation into German he consulted some native German speakers for advice and showed a sample to Rudolf Ullstein, scion of the great German publishing house (for which Koestler himself had worked in the 1930s). Ullstein noted that Koestler was using “a great deal of foreign words instead of German expressions” in his translation and asked for permission to change them into idiomatic German. There is irony here, for the English translation Koestler worked from is itself full of German words and phraseology, a neat reversal. After further drudgery, Koestler acknowledged his limitations and asked another German friend to revise the entire translation for him, but the final version, with all its weaknesses, was still his.
 

Việc ngợi ca "hòn ngọc Viễn Đông số một" và "Singapore mơ thành Sài Gòn" chỉ là suy nghĩ của những người Việt Nam Cộng hòa hoài cổ và dí dỏm sau 1975.
Vì thế, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy báo Tuổi Trẻ trích lời ông Đinh La Thăng ngày 27.3.2016: "TP.HCM đã từng là hòn ngọc Viễn Đông, từng là số một của khu vực. Trước đây, Singapore, Thái Lan nhìn về Sài Gòn với một sự ngưỡng mộ, khao khát bao giờ mới được như Sài Gòn."
Báo Đảng Sài Gòn Giải Phóng ngày 29.3.2016 còn làm rõ hơn ý trên: “50 năm trước, ông Lý Quang Diệu nhìn về Sài Gòn và mơ ước Singapore sẽ được như Sài Gòn. Khi đó Singapore chỉ là một làng chài, nay họ là đô thị số 1 trong khu vực, cả về kinh tế và chất lượng sống."
Chúng tôi lớn lên ở thời điểm đó, thường xuyên ăn độn khoai lang sùng hoặc loại bo bo dành cho gia súc Đông Âu. Chúng tôi cần một câu chuyện hài để tạm quên khó khăn trước mắt. Sau này trưởng thành, đi bán sức lao động khắp nơi, chúng tôi có điều kiện ghé qua Singapore, Kuala Lumpur và Bangkok nhiều lần và rất buồn lòng nghiệm ra rằng Sài Gòn trước nay vẫn thua Singapore và Bangkok xa lắm.

Tên Thái Dúi này, do chưa từng sống ở Sài Gòn trước khi bị Bắc Kít sau 1975 tẩm độc, không làm sao hiểu được ý nghĩa
“hòn ngọc Viễn Đông”, như lũ mũi lõ, trong có những người như Graham Greene, hay Maugham, cảm nhận.
Tên Bắc Kít Đinh La Thăng, 1 tên Thái Thú, độc địa còn hơn thái thú Tẫu Tô Định, thí dụ, làm sao mà “tái tạo” Hòn Ngọc Viễn Đông?
Cái khó nhất mà chúng không có là cái “người đối người, như người đối với người”, từ đó mà ra đủ thứ, nào dân chủ, nào tự do, Bắc Kít làm gì có. Gấu, Bắc Kít, may mắn được sống ở Sài Gòn, lâu dần cảm nhận ra điều này, không dễ đâu.

Hoài cổ và dí dỏm!
Sợ cả xứ Mít sau này sẽ phải "hoài cổ và di dỏm", một xứ Mít bị Cái Ác Bắc Kít tiêu diệt!
Không chỉ Cái Ác Bắc Kít, mà còn Cái Ác Tẫu Kít, mà ông Hồ rước về
!

*

Ways of escape: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách!
Hồi ký của Greene. Những đoạn viết về Việt Nam thật tuyệt.

Ways of escape

Trong Ba Mươi Sáu Chước, Tẩu Vi Thượng Sách,  Ways of escape, một dạng hồi nhớ văn học, Greene cho biết, đúng là một cơ may, chuyện ông chết mê chết mệt xứ Đông Dương. Lần thứ nhất viếng thăm, ông chẳng hề nghĩ, mình sẽ đẻ ra được một cuốn tiểu thuyết thật bảnh, nhờ nó. Một người bạn cũ của ông, từ hồi chiến tranh, lúc đó là Lãnh sự  tại Hà Nội, nơi một cuộc chiến tranh khác đang tiến diễn và hầu như hoàn toàn bị bỏ quên bởi báo chí Anh. Do đó, sau Malaya, ông bèn nháng qua Việt Nam  thăm bạn, chẳng hề nghĩ, vài năm sau, sẽ trải qua tất cả những mùa đông của ông ở đây.
 "Tôi nhận thấy, Malaya 'đần' như một người đàn bà đẹp đôi khi 'độn'. Người ở đó thường nói, 'Bạn phải thăm xứ xở này vào thời bình', và tôi thật tình muốn vặc lại, 'Nhưng tớ chỉ quan tâm tới cái xứ sở đần độn này, khi có máu'. Không có máu, nó trơ ra với vài câu lạc bộ Anh, với một dúm xì căng đan nho nhỏ, nằm tênh hênh chờ một tay Maugham nào đó mần báo cáo về chúng."
"Nhưng Đông Dương, khác hẳn. Ở đó, tôi nuốt trọn bùa yêu, ngải lú, tôi cụng ly rượu tình với mấy đám sĩ quan Lực Lượng Lê Dương, mắt tay nào cũng sáng lên, khi vừa nghe nhắc đến hai tiếng Sài Gòn, hay Hà Nội."
Và bùa yêu ép phê liền tù tì, tôi muốn nói, giáng cú sét đánh đầu tiên của nó, qua những cô gái mảnh khảnh, thanh lịch, trong những chiếc quần lụa trắng, qua cái dáng chiều mầu thiếc xà xuống cánh đồng lúa trải dài ra mãi, đây đó là mấy chú trâu nước nặng nề trong cái dáng đi lảo đảo hai bên mông vốn có tự thời nguyên thuỷ của loài vật này, hay là qua mấy tiệm bán nước thơm của người Tây ở đường Catinat, hay trong những sòng bài của người Tầu ở Chợ Lớn, nhưng trên hết, là qua cái cảm giác bi bi hài hài,  trớ trêu làm sao, và cũng rất ư là phấn chấn hồ hởi mà một dấu báo của hiểm nguy mang đến cho du khách với cái vé khứ hồi thủ sẵn ở trong túi: những tiệm ăn bao quanh bằng những hàng dây kẽm gai nhằm chống lại lựu đạn, những vọng gác cao lênh khênh dọc theo những con lộ nơi đồng bằng Nam Bộ với những lời cảnh báo thật là kỳ kỳ [bằng tiếng Tây, lẽ dĩ nhiên]: "Nếu bạn bị tấn công, và bị bắt giữ trên đường đi, hãy báo liền lập tức cho viên sếp đồn quan trọng đầu tiên".
Dịp đó, tôi ở hai tuần, và tranh thủ tối đa, tới giây phút cuối cùng, cái giây phút không thể tha thứ , "the unforgiving minute". Hà Nội cách Sài Gòn bằng London xa Rome, nhưng ngoài chuyện ăn ngủ... ở cả hai thành phố, tôi còn ban cho mình những chuyến tham quan nơi đồng bằng Nam Bộ, tới những giáo phái lạ lùng như Cao Đài mà những ông thánh của nó bao gồm Victor Hugo, Christ, Phật, và Tôn Dật Tiên.

Ways of escape

Theo GCC, VNCH là chế độ đẹp nhất mà xứ Mít có, và sẽ chẳng bao giờ có nữa. Sở dĩ như thế, là vì cái nền của nó là 1 miền đất thiên đàng. Con người hiền hoà, thiên nhiên hai mùa mưa nắng, đói khổ, lạnh quá, nóng quá không hề biết tới, lại được thằng Tây coi như ngang hàng với nó…  Một khi Bắc Kít ăn cướp, là xong.




http://www.parismatch.com/Actu/International/En-images/Barack-Obama-dans-les-pas-de-Mandela-520308#520316

*

Barack Obama dans les pas de Mandela
"Ô bá mà" theo bước chân của Mandela

Note: Coi mấy tấm hình này, cho đỡ bẩn mắt

Paris Match|Publié le 30/06/2013 à 17h54 |Mis à jour le 30/06/2013 à 18h02


 Kẻ Phản Thùng
Viết/Đọc

Is That Kafka?

*

Prague, Old Town Square, ca. 1880

1.  The Hapless Benefactor

Once, when I was a very little boy, I'd received a ten-kreuzer coin, a Sechserl, and I was very eager to give it to an old beggar woman who used to sit between the Old Town Square and the Little Square. But now it seemed to me like a tremendous sum, probably a bigger sum than any beggar had ever received, so I was ashamed of doing something that would seem so tremendous to this beggar. Still, I had to give it to her, so I changed the Sechserl, gave the beggar one kreuzer, ran all the way around the town hall complex and the arcades lining the Little Square, came back from the left as a brand new benefactor, gave the beggar another kreuzer, started running again, and cheerfully did the same thing ten times. (Or maybe somewhat fewer, since I think the beggar later lost her patience and slipped away from me.) In any case, in the end I was so exhausted, in moral terms as well, that I ran straight home and cried until my mother gave me another Sechserl.
    You see, I have bad luck with beggars, and yet I hereby declare that I am prepared to slowly payout my entire present and future fortune in the smallest Viennese banknotes to a beggar woman there by the opera house, on the condition that you are standing beside me and I may feel you near me.

1. Kẻ làm phúc rủi ro

Một lần, khi còn bé tí, tôi được người lớn cho 1 đồng 10 xu. Và tôi hăm hở đem cho 1 bà già hành khất, thường ngồi ở giữa quảng trường cổ thành phố và quảng trường nhỏ. Nhưng tình hình lần này hơi bị căng, đồng 10 xu đâu có vừa: Cả 1 món tiền lớn, nhất là lại cho 1 người hành khất! Tính cả thẹn, thế là tôi bèn đổi thành 10 xu lẻ, và đóng vai 10 vị ân nhân khác nhau!
Ui chao, chạy 10 cú như thế, khiến tôi bã người. Tôi bèn về nhà, khóc nức nở, khiến bà mẹ của tôi thương hại, bèn cho tôi 1 đồng 10 xu khác!
Bạn thấy đấy, tôi đúng là 1 thứ không may, kẻ mang rủi ro tới, ngay cả cho 1 người ăn mày già!

Kafka
[GCC dịch thoáng]

Ui chao, đúng là THNM, bèn nhớ đến BHD, và cái lần được em tin cậy, ra lệnh, mi đưa cho ta tí tiền lẻ…
Sao tin cậy Gấu đến như thế, mà nỡ bỏ Gấu, lấy 1 đấng vác gạo! 

Among the numerous problems that arose between Kafka and his beloved Milena Iesenska were their very different relationships to money. "Once he gave a beggar woman a two-crown coin," she told Max Brod, "and asked for one crown back. She said that she didn't have any change. We stood there for a good two minutes thinking about how to settle the matter. Then it occurred to him that he could let her keep both crowns. But he had hardly gone a few steps when he grew very sullen. And yet the same person would happily, enthusiastically give me twenty thousand crowns right away, as if it were nothing." She brought up the two-crown coin incident with Kafka on another occasion, but he cleverly defended himself with this childhood Sechserl memory, among other things.
    Kafka criticized himself for his "greed in minor matters," and when it came to money he could indeed just as easily be petty as generous. He enjoyed giving gifts, even money, but it had to be done entirely of his own free will.
He could not easily reconcile himself to making donations under pressure, or to not getting the correct change back, or to spending money thoughtlessly-even if it was "only a Sechserl."

My Old Saigon

Bé Ký

*

Thảo Cầm Viên Sgn 1966

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/26605302913/in/photostream/

*

Thảo Trần & Hoàng Dược Thảo @ Tara, Fall, 2003

*

@ Atlanta, Fall 2003

7.4.2010

Ấp Tara ở đâu xa? Nó ở đây:

Chỉ có ngoại là nhất định không chịu đi, cậu ba phải dựng một cái chòi sát bên căn nhà đổ nát cho ngoại ở. Gia đình ngoại tôi có sáu người con nhưng cuối cùng tan nát, mỗi người mỗi nơi, kẻ theo quốc gia, người theo cộng sản... chỉ còn mình ngoại, già nua, cô độc, thui thủi trong căn nhà đổ nát.
Đến con đường dẫn về nhà ngoại, tôi muốn khóc. Con đường mòn vừa lối trâu đi, hai bên có hai hàng su đũa, ngày xưa tôi vẫn thường được cậu tư dẫn đi thả diều, hoặc hai cậu cháu lang thang khi nắng chiều đã nhạt. Con đường tiêu điều, hàng chục thứ dây leo chằng chịt, quấn quít trên cành cây hai bên đường, tôi chợt thấy trong đám dây leo đó có những sợi mầu vàng. Đây là loại dây leo không rễ, bám vào cây nào thì cây đó sẽ khô héo dần rồi chết. Người ta gọi nó là dây tơ hồng.
Tôi thẫn thờ bước vào nhà ngoại, lặng ngắt đến rợn người. Bước ra sau vườn, mấy gốc dừa đã lão gần hết, ngọn còn cao vút trơ trọi, ngọn bị bom chặt gãy vắt lên gốc. Liếp sầu riêng của ngoại cũng chết gần hết sau trận lụt năm ngoái. Chỉ còn mấy cây ổi sống dai, xanh um, trái chín vàng ối rụng đầy trên cỏ. Thân ổi già, mốc. Ngày xưa tôi và dì út thay phiên nhau hành nó, không ngày nào mà hai dì cháu không trèo cây, hay lấy gậy chọc trái. Bây giờ, trái chín đầy cành, rơi đầy gốc... Tôi chợt nghe tiếng chim, lạc lõng, hốt hoảng, không còn những âm thanh ríu rít như ngày xưa, hay là nó cũng như tôi, đang lần mò trở về gặp lại vườn cũ. Tôi ngồi phịch xuống cỏ, như thấm mệt, cho tới khi nghe tiếng ngoại đánh thức...

… Và Gấu có còn muốn trở về với nó nữa không?

Uyên đã thực sự rời bỏ dòng sông để ra biển cả, không hề hiểu được một điều: biển cả, bởi vì mênh mông, cho nên thật khó mà nhận ra con đường ngày ra đi, hay tìm thấy được, con đường trở về...

Kính GNV, tôi rất thích truyện ngắn của Thảo Trần.
Giọng kể của bà thanh thản mà gây buồn da diết, đúng là viết mà như không.
Đoạn "Tara" mà tôi mới trích, hay hơn cô Tư đó, vì nó rất tự nhiên.
Chúc mừng bà. Xin cảm ơn đã cho tôi được đọc.
Kính,
 

Đa tạ
TT/GNV

Thần Chết và Gái Già

Man has here two and a half minutes – one to smile, one to sigh, and half a one to love; for in the midst of this minute he dies.
Đời người, dài như thế, tóm gọn, chỉ có hai phút rưỡi. Một, để cười, một, để thở dài 1 phát, và nửa phút để yêu, và chính là trong “nửa” chưa tới "một" đó, ngỏm.
-Jean Paul Richter, 1795

Câu trên, tặng Gấu Cái thì tuyệt.

Kèm giai thoại sau đây.

Maiden, tra từ điển có nghĩa trinh nữ, và còn có nghĩa gái già, “hoa xuân chưa [từng] gặp bướm trần gian”!
Ui chao, không hiểu đầu óc ra sao, hay là càng già càng trở nên bịnh hoạn, nhìn cái hình, là nhớ những lần hụt ăn, để xổng 1 con mồi nào đó!
Hồi Gấu Cái đẻ thằng con trai đầu, Bà Nội của Ẻn nghe tin, bèn từ Cai Lậy lên, mang theo 1 cô gái quê cực xinh, Bé Năm, để lo cho thằng bé.
Gấu Cái, chắc là sợ quá, bèn ra lệnh tống cổ con bé về Cai Lậy trở lại. “Ẻn” không biết tính Gấu, không hề bao giờ làm cái vụ đó, mà chỉ thích lên xóm, khi cần. Nghĩa là ăn bánh trả tiền.
Nhưng thương hại con bé, thế là đề nghị Bà Trẻ đem về nhà, trên Phú Nhuận.
Đúng là trao trứng cho ác, là vì ông con của Bà, tức ông cậu của Gấu, Cậu Hồng, chớp liền. Cậu làm thịt con bé. Bà Trẻ Gấu biết, bèn chờ cho tới khi biết, con bé không có thai, Bả cho nó mớ tiền trở về quê.
Gấu nghe chuyện này, khi về già, cách đây chừng vài năm, qua Gấu Cái, khi Bả nghe Gấu kể chuyện về 1 em đề nghị bỏ Gấu Cái, và để bù lại, em cho Gấu hưởng mùi trinh nữ!
Bả nói, mày bảnh [ngu] thật, gái còn nguyên là chê!
Gấu bực quá, bèn phản biện, chỉ có mỗi một lần không chịu trả tiền, thì mang cả cuộc đời ra, thế!

Hà, hà!












Viết/Đọc

Saul Friedlander
[Kafka]:
Le poète de la honte et de la culpabilité

Thi sĩ của sự tủi hổ và phạm tội

Kafka n'était pas bâtisseur de théorie ou de systèmes : il suivait des rêves, créait des métaphores et des associations inattendues, il racontait des histoires, il était poète. Son recours fréquent à des allusions religieuses (qu'elles soient directes ou indirectes, chrétiennes ou juives) peut induire en erreur, mais ces allusions sont generalement entrelacees d'ironie et n'impliquent pas une foi religieuse. Pour l'essentiel, Kafka fut le poète de son propre désordre.

Kafka không phải là người xây dựng lý thuyết hay hệ thống: ông đi theo những giấc mộng, tạo ẩn dụ, kết hợp bất ngờ, kể chuyện, là nhà thơ. Cách viết của ông - thường viện tới những ám dụ tôn giáo (trực tiếp hoặc gián tiếp, Ky tô hay Do thái) – có thể gây lầm lẫn, nhưng những ám dụ này thường được trộn với tếu táo, hài hước, và không hàm ngụ một niềm tin tôn giáo. Tự bản chất, yếu tính, Kafka là 1 nhà thơ của chính sự xáo trộn của mình.

Suốt đời, Kaka chống lại những phiều nhiễu, xáo trộn, troubles, chúng xâm nhập cuộc sống thường nhật của ông, và hơn thế nữa, sự tưởng tượng của ông. Những vấn đề này, những khó khăn này, đưa tới một sự tra hỏi, đúng hơn, biến thành một ám ảnh, mà Nhật Ký, thư từ trao đổi, (và, gián tiếp, những giả tưởng) cho thấy. Thí dụ, entry đề ngày 18 Tháng Chạp 1922, Kafka, biết rất rõ về tình trạng sức khoẻ của mình, trở nên tệ quá nhanh, viết: Nghỉ ngơi thôi. Hôm qua Hoặc làhoặc là [“Resté couché. Hier Ou bien… ou bien] Cái entry này gây phiền, trên rất nhiều mặt.
Trong Ou bien… ou bien, Kierkegaard toan tính nghiên cứu hai cách sống khác nhau, của chính cuộc đời của ông, một, mĩ học; một, đạo đức. Theo thư gửi bạn, Max Brod, đề ngày 20 Tháng Giêng 1918, Kafka bắt đầu đọc tiểu luận của Kierkegaard, nói trên, vào thời kỳ này. Ông không khoái tập đầu (cuộc đời mĩ học), trong có Nhật Ký Của Kẻ Quyến Rũ, “Journal d’un séducteur”, và vào giữa tháng Ba, 1918, ông viết cho Max Brod: Tôi quá tởm nó (Je ne peux toujours pas lire le premier volume de Ou bien.. ou bien sans répugnance). Tuy nhiên, đúng năm năm sau, trong khi sức khỏe càng thêm tồi tệ, Kafka lại lôi Ou bien… ou bien ra đọc lại.  Không biết phản ứng của ông ra sao, lần đọc lại này, tuy nhiên, chúng ta không thể không tự hỏi, liệu cái nhìn nước đôi của Kierkegaard ảnh hưởng, về mặt đạo đức, đối với Kafka, một vấn đề ông không làm sao giải quyết, trong suốt cuộc đời dòng dã?

Steiner viết, Kafka sống cái kinh nghiệm tội tổ tông, Kafka vécut l’expérience du péché originel… Chỉ 1 dúm người kinh nghiệm trong cuộc đời họ, niềm tin và những hậu quả, của tình trạng, bị phế thải, bị hoang hóa, đếch làm sao… thành công! [Seule une petite poignée d’être humains ont expérimenté dans leur vie la conviction et les conséquences de l’état d’être déchus]

Thì cũng như….  GCC, sống kinh nghiệm Cái Ác Bắc Kít!
Đây là Tội Tổ Tông của nòi giống Mít, theo GCC!

Người Kinh Tế đọc Man Booker 2016

ONE of the most erotic literary novels of the season is a slim South Korean work about a woman who forsakes eating meat. On May 16th “The Vegetarian” by Han Kang won the 2016 Man Booker International Prize (MBIP) for fiction after a fiercely contested final judges’ meeting that pitched books from Angola, Austria, China, Italy and Turkey, as well as South Korea. Translated by Deborah Smith, a young English scholar who began learning Korean only seven years ago, “The Vegetarian” has been praised on both sides of the Atlantic as strange, visionary and transgressive.





Dịch Steiner

Nhân Văn
Phép Lạ Hổng
Tuyệt Bi
K
Nhà văn và chủ nghĩa Cộng Sản
Văn Chương và Hậu Lịch Sử
Phỏng Vấn Steiner I
Phỏng Vấn Steiner II
Phỏng Vấn Steiner

[Phạm Thị Hoài dịch]

Đọc Steiner
nhân số đặc biệt về ông


Dịch thuật, như là 'Phận Người'.
Văn Hóa chống lại Man Rợ.
Phải có cái sự can đảm của những lầm lẫn lớn.
Phải lật ngược những huyền thoại lớn.
Chúng nói ngược cái điều đúng ra phải nói.

Viết/Đọc
Thống Kê, May, 21, 2016

Locales (Top 25)        
Locales Pages Hits Bandwidth  
Vietnam vn 276,961 290,949 69.65 GB

United States us 4,460 14,384 8.30 GB

Canada ca 1,896 12,086 2.67 GB

Russian Federation ru 579 836 139.06 MB

China cn 324 475 493.23 MB

Germany de 300 872 670.61 MB

Ukraine ua 278 291 83.18 MB

Australia au 199 2,224 1002.29 MB

Romania ro 130 151 86.99 MB

France fr 104 456 295.65 MB

Great Britain gb 80 210 113.29 MB

Ireland ie 21 32 27.26 MB

Virgin Islands (British) vg 21 21 481.65 KB

Thailand th 18 44 16.92 MB

Sweden se 17 66 38.21 MB

Netherlands nl 15 60 43.77 MB

Laos la 12 149 54.36 MB

Poland pl 12 52 41.99 MB

Singapore sg 9 96 35.54 MB

Brazil br 9 31 9.42 MB

Chile cl 6 11 715.01 KB

Moldova md 5 6 430.87 KB

Indonesia id 5 10 3.79 MB

Hong Kong hk 5 7 13.76 MB

Italy it 5 67 14.01 MB

Others 82 632 190.84 MB  


My Old Saigon

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/
 
*

Bảo vệ Đàng Trong
Giải Phóng Đàng Ngoài







Surrounded by Jew-Haters
John Banville   
May 26, 2016 Issue

For Two Thousand Years   
by Mihail Sebastian, translated from the Romanian by Philip Ó Ceallaigh
London: Penguin, 231 pp., £9.99 (paper)

Nhật Ký Thời Chiến

Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature).

Khi nhà văn Ba lan gốc Do Thái Mihail Sebastian quyết định viết nhật ký, vào năm 1935, ông 28 tuổi, và đã nổi tiếng như là một ký giả, kịch tác gia, và tiểu thuyết gia. Là một Do thái “hội nhập”, ông cảm thấy quá chán chủ nghĩa bộ lạc, và tỏ ra hoài nghi những khẩu hiệu, theo kiểu “yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa”, hay rõ hơn, “những sự nghiệp lớn lao mang tính ý thức hệ”. “Tôi có niềm tin ở con người cá nhân (the individual man), nhưng niềm tin ở đây cũng chỉ là một thoả thuận giữa hai con người”, ông viết vào năm đó (1935). 

Là một thành viên trong một nhóm gồm toàn thứ dữ: Mircea Eliade, Eugène Ionesco, Camil Petrescu, E. M. Cioran, nhưng đến khi, nhiều bạn bè của ông ăn phải thuốc lú, cập kè với một nhóm cực tả có tên là Vệ Binh Sắt, ông bèn giãn ra. (Eugène Ionesco, “giáo chủ” trường phái Kịch Phi Lý, là người độc nhất “không thèm chơi với hủi” (the only one who refused to embrace totalitarianism: người độc nhất từ chối ôm ấp chủ nghĩa toàn trị).

Trong thời kỳ khủng hoảng chính trị-xã hội của thập niên 1930, chủ nghĩa bài Do Thái nở rộ, ở đám đông cũng như trong số những thành phần được coi là tinh hoa của xã hội. Ngay đầu năm 1938, chính quyền Octavian Goga (một nhà thơ có tài), đã ra lệnh thu hồi thẻ công dân của hàng trăm ngàn người Do Thái. Vào tháng Chín, 1940, nhóm cực tả Vệ Binh Sắt, có khuynh hướng  phò Nazi, bài Do Thái, lên cầm quyền. Tướng Ion Antonescu, một trong những đồng minh của nhóm, trở thành nhà “dìu dắt” đất nước. Tuy nhiên, chỉ mấy tháng sau, ông đập tan cú đảo chánh của Vệ Binh Sắt, và ban hành chế độ độc tài riêng của ông ta.

Chiến thuật bài Do Thái của chế độ Antonescu rất “uyển chuyển”: thật cứng rắn trong những năm đầu, thận trọng hơn khi chiến thắng của Đức không còn “chắc ăn”; cực kỳ dã man tại những vùng biên giới phía đông với Bessarabia và Bukovina, nơi người Do Thái bị tống xuất hàng loạt tới những trại tập trung ở Transnistria, bị Romania chiếm đóng. Phần đất nước còn lại, là một chính sách đỡ hiểm độc đi một chút. Tuy nhiên, ngay ở Bucharest, nơi Sebastian trải qua những năm tháng chiến tranh với bà mẹ và em trai, thường xuyên xẩy ra những đợt hung hăng xuống đường bài Do Thái, làm nhục họ, chơi trò blackmail, và những đợt cưỡng bức lao động.

Nhật ký của Sebastian cho thấy: đây là một trong những chứng liệu quan trọng nhất  về thảm kịch Do Thái trong giai đoạn trên, có thể so sánh với “Sống sót tại Auschwitz” của Primo Levi, hay nhật ký của Anne Frank. Không như Levi và Frank, là những người viết từ bên ngoài Địa Ngục, miêu tả cuộc sống ở những trại tập trung hay trong khi ẩn trốn, Sebastian viết, với một sự chân thành và một cái nhìn sắc bén, từ lò luyện ngục, là chính căn phòng riêng của mình ở Bucharest, nơi ông “sống với nỗi chết không rời”, trong sợ hãi có thể bị gõ cửa mời đi bất cứ lúc nào, tới một nơi là trại tập trung, hay tử thần. Trong những lúc tạm cho mình thoải mái, ông tra hỏi đời mình: thú nghe nhạc, những cuộc tình, đọc, viết, hay học tiếng Anh.

Khi ông mất vào năm 1945, một trong những anh em của ông đã giấu nhật ký, gồm 9 cuốn sổ tay, sợ chính quyền theo Stalin tịch thu. Nhật ký được lén đưa qua Israel, rồi đưa lại cho một người anh/em ông, đã dời đi Paris sau thời kỳ trên. Mãi tới năm 1997 gia đình ông mới đồng ý cho xuất bản.
(Sebastian bị xe tải cán, mất vào ngày 29 tháng Năm, 1945). 

Trên đây là tóm tắt bài giới thiệu nhật ký của Sebastian, đăng trên tờ The New Yorker (Người Nữu Ước, số Oct 2, 2000). Tác giả bài giới giới thiệu là Norman Manea, nhà văn Romania đào thoát qua Tây Phương; Jennifer tôi đã giới thiệu ông với độc giả Tin Văn, qua bài “Số phận một nhà văn lưu vong”.
Dưới đây là một vài trích đoạn, từ nhật ký của Sebastian, dưới nhan đề “Bạn và Phát xít” (Friends and Fascists) trên tờ The New Yorker số đã dẫn.

1936

Ngày 3 tháng Năm:
Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy, nhỉ?…

Tôi như nhiễm độc văn chương (I am feeling poisoned by literature). Tại sao mình không làm một nghề bình thường – luật sư, công chức? Tại sao không chọn phần số, một con người được sinh ra là để có một căn nhà của riêng mình, một đời của riêng mình, một tình yêu của riêng mình – mà chẳng có một tí rắc rối nào hết?

Ngày 25 tháng Sáu:
Tôi gặp Camil Petrescu sáng nay. Ông lập lại những gì ông nghĩ, về những vụ tấn công người Do Thái mới xẩy ra.
-Thật đáng tiếc, bạn già ơi. Nhưng tất cả những người Do Thái đều có trách nhiệm về chuyện xẩy ra.
-Thế là thế nào, Camil?
-Bởi vì có quá nhiều Do Thái.
-Nhưng cũng có quá nhiều người Hung Gia Lợi vậy?
-Có thể, nhưng ít ra họ cũng ở cùng một chỗ, một vùng.
Ông cứ thế tiếp tục, “Bạn thân ơi, những người Do Thái gây ra hết. Không thể tin họ được, đã vậy lại hay xía vô chuyện chẳng liên quan tới họ.
Đó là Camil Petrescu nói. Ông là một trong những bộ óc tuyệt vời nhất ở Romania.
Một trong những con người đa cảm nhất ở Romania.

Ngày 25 tháng Chín. Chiều hôm qua, đang trò chuyện êm ả với Mircea [Eliade] về chính sách ngoại, ông bất thình lình trở giọng hung hãn.
-Titulescu? [Một vị bộ trưởng ngoại giao bài Đức]. Ông ta đáng bị xử tử. Kéo ông ta ra trước đội hành quyết.
Chẳng lẽ tôi mất một người bạn chỉ vì những chuyện không đâu như vậy? Làm sao tôi quên nổi mọi điều tuyệt vời ở ông: ngây thơ, trẻ con, thành thật…
Ông bạn của tôi có thể làm việc thoải mái cho nhật báo bài Do thái Vremea. Chuyện bình thường, chẳng có chi là ghê gớm.
Dù sao tôi cũng cố giữ cho được người bạn của mình.

1937

Ngày 8 tháng Giêng. Sinaia.
Trong cỡ chừng 4 tiếng đồng hồ, tôi nặn ra được ba trang, nhưng vẫn còn cả lố phải sửa chữa.
Hôm qua, trong lúc đi dạo núi, tôi cứ suy nghĩ hoài. Tôi thiếu tính tự phát (spontaneity), mà thiếu nó gần như thiếu tất cả, Thành thử, tôi chỉ có thể viết những câu chuyện chừng hai trăm trang, với giọng điệu nhật ký riêng, chẳng ra vẻ tiểu thuyết. Tôi cũng nghĩ, mình có thể viết kịch, mà món này sẽ khá hơn nhiều….

Ngày 15 tháng Giêng. Bucharest.
Đã hơn nửa tháng, tôi chưa đi coi Marietta [một nữ nghệ sĩ]. Bà vừa mới giáng một đòn cho đám Do Thái:

“Tụi khốn giật bánh mì khỏi miệng chúng ta; chúng bóc lột chúng ta, làm chúng ta nghẹt thở. Đuổi chúng ta khỏi đây. Xứ sở này là của chúng ta. Không phải của họ. Romania là của người Romania.”

Ngày 25 tháng Hai.
Chiều qua, có một bữa xum họp bè bạn tại chỗ tôi ở. Có vợ chồng Mircea, Marietta và chồng… Tôi tự hỏi không biết có phải đây là lần họp bạn cuối cùng. Thật khó mà kéo dài sự giả dối, kể từ khi họ chơi với đám Vệ Binh Sắt. Liệu có thể có tình bạn với những người mà những ý nghĩ, tư tưởng thật xa lạ với mình? Xa lạ đến nỗi, vừa thoáng thấy bóng tôi, là họ ngưng câu chuyện, trong dáng điệu tủi hổ và bối rối?…
Nếu tôi không phải là một tên Do Thái, những vở kịch của tôi có thể được trình diễn, và tôi sẽ là một “kịch tác gia”, được như vậy là hết xẩy, tôi đâu còn muốn gì hơn thế nữa cơ chứ!…

Lương tâm nhà nước (The national conscience) không cho phép một vở kịch của Mihail Sebastian được trình diễn tại nhà hát Bucharest
Tôi phải thú nhận, tôi chẳng thèm đặc biệt lo lắng cho những bản thảo của tôi. Chuyện tôi lo, là những cuốn sách không thể viết ra được nữa, nhất là cuộc đời này, cho tới nay, tôi vẫn chẳng làm được một chuyện gì cho ra hồn…

Jennifer Tran chuyển ngữ

Đại hội của Hội Nhà Văn. Làm sao họ có thể tỏ ra trịnh trọng, với những trò hề lố bịch như vậy, nhỉ?…





En attendant SN

Lolita vs BHD

We never grow up - only older, then old-
Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già.

In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive world.

Trong 1 trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi tìm lại được của tớ - một nhân vật kể về 1 tay nào đó, đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao, bên dưới 1 hòn đá, ở một nơi nào đó, ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù thuỷ Nga.... 

Ui chao, đúng là cái tình cảnh của GCC:
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, chàng trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng đâu đây!
Ôi chao, giờ đọc lại vưỡn còn bùi ngùi!
Nhưng tại làm sao mà em ngộ ra rằng thì là, GCC chẳng bao giờ trưởng thành, cứ yêu mãi 1 đứa con nít... là nàng, từ đời thuở nào?

Hà, hà!

Cái đứa con nít đó, là tuổi thơ của GCC, và của BHD ở cái xứ Bắc Kít tít mù, mà Gấu cố giữ cho cả hai.
Về già thì Gấu
hiểu ra sự thực đơn giản đó.
Dans toute l’oeuvre de Nathalie Sarraute résonne sa jeunesse russe qui lui fut volée
C
âu trên áp dụng cho Gấu & BHD cũng đặng
.

Đây là bức ảnh nổi tiếng của Tolstaya chụp người lính Xô-viết giương cao lá cờ đỏ trên đỉnh Reichstag: Một sĩ quan giữ chân người lính, cho anh ta khỏi ngã.
Hai tay viên sĩ quan đeo 2 cái đồng hồ. Sau khi rửa ảnh, phát hiện ra.Lại phải sửa.
Mà sao lại phải sửa nhỉ ?

Nguồn ảnh : Quoc Tru Nguyen

Ngô Nhật Đăng's photo.
Note: Tolstaya là tác giả bài viết về tay nhiếp ảnh viên Khaldei

Những người muôn năm cũ...

Trong một truyện ngắn của Tâm Thanh, trên tạp chí Văn Học (Hoa-kỳ), nhân vật chính, một nhiếp ảnh viên chuyên chụp hình lãnh tụ: cuối cùng anh thợ chụp phát điên. Tác giả Đêm giữa ban ngày, (Vũ Thư Hiên), hình như cũng đã gặp cùng nỗi khổ tâm, khi ngưng camera chụp cảnh ông Hồ ôm dép qua chỗ lội. Kundera kể chuyện, chủ tịch nước đứng trên bao lơn phủ dụ nhân dân. Trời lành lạnh, ông quên đem khăn, ông số hai bèn lấy khăn của mình choàng lên mình lãnh tụ; khi ông bị thủ tiêu, người ta bôi bỏ hình ông đứng kế bên chủ tịch nước, nhưng cái khăn thì vẫn còn đó! Tưởng chuyện đùa, nhưng cuộc truy tìm những nhân vật mất tích sau khi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, không ngờ là một đề tài cho nhiều tác giả. Sau đây là tóm lược bài viết của Tatyana Tolstaya, đăng trên The New York Review of Books, số tháng Giêng, 1998, về hai cuốn Chính Uỷ Biến Mất: Ngụy Tạo Hình Ảnh và Nghệ Thuật ở Nga thời kỳ Stalin (David King, 192 trang, nhà xb Metropolitan Books, 1997), và Nhìn Tận Mắt Lịch sử: Những Bức Hình của Yevgeny Khaldei (96 trang, nhà xb Aperture, 1997).


Trẻ con, lúc này lúc nọ, thường tự dưng nổi hứng thêm một bộ ria, hay cặp kính, vào một tấm hình cô/cậu vớ được. Cuốn lịch sử đời tôi (Tolstaya) trông cứ như một ngày hội hóa trang! Rồi năm tháng trôi đi, cô/cậu lớn dần, bỗng một ngày, tỏ ra nghi ngờ, hoặc giật mình về mối liên hệ giữa ta bây giờ, và ta trong hình: Lạ nhỉ, không lẽ mình hồi đó lại mập đến thế? Thôi, tốt nhất là giấu biến tấm hình này đi! Con bạn đứng kế mình là con nào? Phải rồi, hai đứa hồi đó cùng quen anh A. Hình này mà đến tay ông xã, cộng thêm chút mắm muối của một đệ tam nhân nào đó, là phiền lắm, tốt nhất cắt phăng nó đi!

Tất cả chuyện đời thường. Chúng ta là ai, nói cho cùng? Con người thôi. Nhưng chuyện gì xẩy ra, nếu một thường nhân chúng ta, một bữa trở thành bạo chúa?


Bộ album của David King mở ra bằng bức hình mầu Stalin, thời còn Lênin; do Andreyev chụp vào năm 1922. Nhà nghệ sĩ nhân dân hình như đang phải đánh vật với những đường viền: một phần trán sao âm u như chết rồi, mấy sợi tóc sao dính bết vào nhau như vậy, cái đầu sao không cân xứng chút nào! Nhưng làn da, những vết nhăn, bộ râu Caucasus nặng chình chịch như vậy đạt lắm, sếp lớn không nghĩ là mình nịnh bợ đâu, chỉ là vấn đề lịch sự, nhã nhặn của bầy tôi đối với chúa thôi! Còn Stalin ở đây coi bộ già hơn tuổi 42. Người chưa nắm quyền, nhưng bạn có thể nhận ra, đằng sau cặp mắt đó, cái miệng kia là những tham vọng ngấm ngầm, và sự thận trọng. Không biết nhà độc tài có thích tấm hình không nhỉ? Nhìn hình, như nghe văng vẳng lời bình phẩm của Lênin: Gớm, tay Georgian kỳ tài này!

Nhưng sao có những khoảng trống kỳ kỳ. Toàn bộ sưu tập, ngay từ trang đầu, như đang trao đổi một mẩu chuyện khôi hài đen với người coi: xuyên qua thời kỳ Xô-viết, đặc biệt dưới thời Stalin, lịch sử nhập thân vào những bức hình, đã được tẩy xóa, vặn vẹo, đánh bóng, làm sạch, chỉnh huấn, cho đi cải tạo... đến nỗi không sao nhận ra được nữa. Bộ sưu tập cho thấy từng người một, đã biến mất như thế nào, theo nhu cầu chính trị, để lại một cái hố, một khoảng trống, giữa những đồng chí của họ; làm phiền biết mấy cho những nghệ nhân, chỗ này phải dậm thêm một chút mây, chút khói, chỗ kia cài vào một chậu bông. Đôi khi, kẻ biến mất như cố tình bám chặt lấy người bạn đồng chí đứng kế, không muốn nhạt nhòa vào hư không, và một cái nhìn chăm chú, cộng thêm cặp kiếng ngoại, vậy là bạn nhận ra chỗ này là vai của kẻ đã ra đi, chỗ kia là chân trái, cái tay chắc là quàng phía sau người đồng chí có thể là nguyên nhân đầu tiên của tai họa... Đâu có cần nhắc nhở bạn, những con người bị xé ra khỏi những bức hình như thế đã bị ném vào Gulag, biến thành bụi trại (camp dust). Cũng đâu cần, vợ chồng con cái, cha mẹ anh em họ hàng của họ, cũng đã biến thành bụi...

Nhìn bộ sưu tập chúng ta nhận ra một sự thực: Trotsky chưa từng hiện hữu, cùng với ông là một danh sách dài: Zinoviev, Kamenev, Radek, Bukharin, Belinski... Đấy là người. Con ó hai đầu ở tiền đình Nhà Hát Lớn, Bolshoi Theater cũng biến mất. Hai năm cuối đời của một Lênin ngắc ngoải, liệt bại, với nụ cười ngây ngô, khờ khạo cũng biến mất, thay vào đó là một Lênin mạnh khỏe cho tới hơi thở cuối cùng, với Stalin luôn luôn ở kế bên, trên con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa, trong những chuyến đi, vào những thời điểm quyết định quan trọng. Như một cậu học trò ngỡ ngàng, hay một bậc cha chú đáng yêu, ông lắng nghe những lời vàng ngọc của Stalin, với một sự quan tâm và ngưỡng mộ, lúc nào cũng như đang uống từng hớp thiên tài người Georgia. Có những bức hình cho thấy một Stalin không hề già đi, ngày một thêm khôn ngoan ra. Cũng cần có một tí chút mệt mỏi nữa chứ: Người vừa bẽ gẫy sống lưng Phát-xít, tóm gọn một nửa Âu-châu, chỉ với hai bàn tay. Nụ cười của Người, trong lễ sinh nhật lần thứ 70 sao rạng rỡ, sao bất tử, sao nhập thế, như của Phật!

Rồi hàng triệu triệu con người biến mất, như chưa từng hiện hữu. T. Tolstaya tự hỏi, tại sao không xây dựng một viện bảo tàng, trưng bầy đầu lâu, mà phải làm như triệu triệu kẻ thù chưa từng hiện hữu? Và bà tự trả lời, ngoài những lý do hiển nhiên, còn những nguyên nhân kỳ bí, ngoại lý; chúng làm vẩn đục tâm hồn vốn đã u tối của vị bạo chúa. Có một lề luật cổ xưa về huyền thuật: kêu tên quỉ, quỉ tới liền! Tín đồ nói đến quỉ ma một cách gián tiếp, tránh gọi thẳng tên. Đó cũng là lý do tượng Chúa, nhà thờ tất cả đều bị triệt hạ, huỷ diệt. Như đã chưa từng hiện hữu. Như sẽ chẳng bao giờ hiện hữu.

Tận Mắt Nhìn Lịch Sử như muốn trả lời câu hỏi: Nghệ thuật nhiếp ảnh là gì, hay rõ hơn, đâu là độ nói dối được cho phép, đối với một nhiếp ảnh viên, khi thực tại, và nghệ thuật gặp nhau ở ống kính?

Cuộc đời Khaldei thật là bi thảm, và khác thường. Là con, trong một gia đình Do-thái nghèo tại Ukraine. Mẹ chết trong vụ thanh trừng vào năm 1918, viên đạn xuyên qua thân thể bà nằm luôn trong đứa con trai mới gần năm. Cả gia đình, hai thập niên sau đó bị lính Đức giết hết, còn trơ mình ông. Học tới lớp tư phải bỏ, lo kiếm sống. Thiên tài bẩm sinh, máy hình đầu tiên là do ông tự làm lấy, và vào nghề thợ chụp ngay từ khi còn nhỏ. Vác máy hình, đi trọn cuộc chiến, làm cho thông tấn TASS và nhật báo Pravda. Bức hình chụp tấm băng đỏ gói trọn vẻ ngạo nghễ của Tòa Nhà Quốc Hội Đức, Reichstag, là của ông. Tuy trọn đời hiến dâng cho nghệ thuật Xô-viết, nhưng ông mất việc hai lần. Ông mất tháng Mười 1997, sau khi bộ sưu tập của ông được in ra. Có một số hình trong đó chưa hề được biết đến, và chúng cho thấy một điều là những cái trước, và sau cuộc chiến như thuộc hai con người khác nhau. Những tấm sau là những thí dụ tồi tệ nhất, về Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng không phải những tấm trước đó không có điều khác thường. Tolstaya cho biết về bức hình nổi tiếng nhất của ông, trang 60-61, chụp người lính Xô-viết giương cao tấm băng đỏ trên đỉnh Reichstag: một người sĩ quan phải giữ chân người lính, cho anh ta khỏi té. Tay viên sĩ quan đeo đồng hồ. Sau khi rửa hình, người ta nhận ra viên sĩ quan không phải chỉ đeo có một, mà tới hai cái đồng hồ lận! Lại phải cạo sửa lịch sử! Còn tấm băng đỏ, ở đâu mà có sẵn, nhanh như vậy? Hóa ra là, nhiếp ảnh viên Khaldei, vốn đã sửa soạn sẵn cho tấm hình nổi danh của đời mình, ngay từ Moscow, và đã cẩn thận mang theo, không phải một mà tới ba tấm băng đỏ! Người viết nghe nói bức hình lịch sử chụp cảnh xe tăng CS san bằng cổng dinh Độc Lập cũng đã phải chụp tới hai lần. Ủi sập rồi, lại phải ra lệnh dựng lên, chụp lại. Nguồn tin rất đáng tin, nhưng vì không tận mắt chứng kiến (lịch sử), cho nên đành ngưng tại đây.

NQT

Chú thích

Người viết sau đó được biết, Bùi Tín đã xác nhận chuyện này. Ông cho biết thêm, cả tấm hình lịch sử cờ CS phấp phới trên đỉnh Điện Biên Phủ, cũng được "làm lại".)

Bùi Văn Phú commented on this.

“Người trí thức hoạt động văn hoá cần tự do như khí trời để thở”.

Nếu bỏ cụm "trí thức hoạt động văn hóa" đi, thì hay hơn.

Kẻ hậu sinh như tôi, mỗi lần muốn đặt bút viết về những bậc trí thức, sĩ phu thật luôn có cảm giác ngại ngần. Phần vì canh cánh nguồn cứ liệu của mình còn hạn chế, phần thiếu tự tin trước những bậc tinh hoa ấy...
Trong tuyển tập có một truyện ngắn đã theo tôi từ ngày học trung học. "Con thằn lằn chọn nghiệp", của Hồ Hữu Tường. Thời gian đó, tôi đã phải vô Thư viện Quốc gia ở đường Gia Long, để nắn nót chép từng chữ truyện ngắn trên, bên cạnh những dòng chữ Tây, chép từ cuốn "Biện chứng pháp" của Trần Đức Thảo. Đám chúng tôi vẫn thường tâm sự, hạnh phúc nhất, mà cũng bất hạnh nhất của những người 20 tuổi vào những năm 60, đó là chúng tôi có quá nhiều ông thầy, quá nhiều triết thuyết, chủ nghĩa, nào hư vô, hiện sinh, hiện tượng luận, cơ cấu luận... Những đàn anh chúng tôi, dù sao cũng chỉ chịu khổ với một chủ nghĩa Cộng Sản.

*

Note: Đọc bài viết vinh danh TDT của "tay này", nhảm, bá láp.
Cuộc cãi lộn giữa Sartre và TDT đâu có biết ai thắng ai bại, vì tòa chưa xử thì TDT đã bỏ về hầu Bác Hát rồi.
Câu phán của Sartre khi từ chối Nobel (1) cũng dịch sai, hoặc mù tịt, như mù tịt luôn, về triết học, hiện sinh, hiện tượng luận, duy vật biện chứng.

Ui chao lại nhớ cái thời mới nhớn của Gấu Cà Chớn, những ngày chép tiếng Tây, cuốn của TDT, tại thư viện Gia Long.
Sao mà sung sướng đến như thế!


(1)
http://www.nybooks.com/articles/1964/12/17/sartre-on-the-nobel-prize/

The writer must therefore refuse to let himself be transformed into an institution, even if this occurs under the most honorable circumstances, as in the present case.
Nhà văn từ chối để mình biến thành 1 định chế, ngay cả nếu nó xẩy ra trong hoàn cảnh bảnh tỏng nhất, như trong trường hợp này.

Trong Nhận Định, Situations, Sartre có nhắc tới Trần Đức Thảo, mà ông gọi là “Tao” [Thao], Gấu đọc lâu quá rồi, không nhớ, hình như liên quan tới hiện tượng luận, là thứ Sartre không rành, có thể, vì, như trong lời ai điếu bạn mình, là Merleau-Ponty, ông có viết, trong khi chúng tôi còn quanh quẩn ở hiện sinh, thì bạn tôi đã bước qua hiện tượng luận rồi. Đại khái như thế.


Quoc Tru Nguyen shared a memory.

Về hai mùa xuân lớn và về anh/chị em nhà Skvorecky

1

Khi, vào tháng Chín 1968, bị chấn thương nặng nề do cú Liên Xô xâm lăng Tchécoslovaquie, tôi tới Paris dư...

See More
Chưa từng công bố : Nhà Trắng trước ngày Sài Gòn thất thủ 

20h11 ngày 29/4/1975: Một vài phút sau, Ford quay trở lại dùng bữa tối với vua Hussein. Bây giờ là thời gian cho bánh mì nướng. Tổng thống nâng ly và nói chuyện về những mối quan hệ gần gũi và quan trọng với Quốc Vương Jordan. Họ cụng ly, uống một ngụm, tất cả mọi người hoan nghênh. Chữ "Việt Nam" không bao giờ được đề cập đến nữa.
Hậu quả của việc Mẽo bỏ chạy

nhanvat gs turner

Giáo sư Robert F. Turner
Trung tâm an ninh Luật Pháp Quốc Gia
Đại Học Luật Khoa Virginia & Học Viện Hải Quân.

Tôi là một sinh viên trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc chống Cộng sản xâm lược của Hoa kỳ ở Việt Nam, Lào, Cambodia là đúng.
 
Cái chuyện Mẽo can thiệp vào Đông Dương, thì cũng đúng như Mẽo can thiệp vào, thí dụ, Iraq, sau đó, và đây là đề tài của cuốn tiểu thuyết “Người Mỹ Trầm Lặng”; trong những bài điểm, Tin Văn đã giới thiệu hai bài cực kỳ bảnh tỏng, không chỉ vì, cái nhìn của người điểm sách, đúng, mà còn vì, cái đúng được nhân lên mãi, về lòng tốt của Mẽo, và tai ương thảm họa do nó gây nên.
Cuộc chiến Mít, là cuộc đấu sinh tử của
Cái Ác Bắc Kít, mà chính lũ Bắc Kít tin là chân lý, là cái đẹp, cái tốt của xứ Bắc Kít
vs
Lòng tốt, thiện ý của Mẽo.

Chúng tới Miền Nam để tìm 1 lực lượng thứ ba, tìm 1 anh Mít hoàn toàn Mít, không tà lọt của Pháp, của Liên Xô, của Tẫu…
Đó là bài viết “Rợp bóng Greene” của Zadie Smith, và “Đọc Graham Greene ở thế kỷ 21”, của Monica Ali
.

http://www.tanvien.net/Tuong_niem/Greene_by_Zadie_Smith.html

http://www.tanvien.net/Viet/Grene_by_Monica_Ali.html

tấm hình này hay: giờ tìm được 2 cô bé trong ảnh thì thật hay.

Ann Đỗ's photo.
Ann Đỗ
6 hrs

2 cô bé này giờ bao tuổi nhỉ, hồi đó nghe nói tham gia biểu tình đòi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam và người phụ nữ này là bà Nguyễn Thị Bình.
Sau đó thì có hiệp đị...

See More

Dội bom Bắc Việt. xuất phát từ vụ Mẽo phịa ra cú chiến hạm Maddox của Đệ Thất Hạm Đội bị VC tấn công, để bắt buộc Bắc Việt ngồi vô bàn hội nghị chấm dứt cuộc chiến.
Bom đâu có mắt, chúng rót trúng nhà của đám Trùm Bắc Bộ Phủ, dám lắm, thế là đành ngồi vô ký hòa đàm.
Y chang cú Vẹm bịa Diệm đầu độc tù ở Phú Lợi, để thành lập MTGP.
Mẽo hoảng quá, bèn nhẩy vô.
Mẽo sau đó, xác nhận vụ Maddox là dởm.

Công an TP. HCM "giăng lưới bắt cá" khắp các ngã tư, Phố Đi Bộ.
Lưới thép gai đàng hoàng nhé!

Các ngã tư Minh Khai, Nguyễn Đình CHiểu, Trần Cao Vân, Điện Biên Phủ, Pasteur, ... Nhà Hát Lớn.
Phố Đi Bộ có công an canh ...

See More
Khiêm Nhu Thị Nguyễn's photo.

Vưỡn ăn mừng 30 Tháng Tư 1975

Trước 1975, thời kỳ đám VC nằm vùng biểu tình, đâu có nhân dân Miền Nam. Bây giờ biểu tình, đa số là nhân dân, khác hẳn. Nhưng, tướng độc nhãn Do Thái, Moshe Dayan, đã có lần thăm viếng Miền Nam, phán, phải để cho VC thắng trận, thì Miền Nam mới có cơ may thắng trận.
Đúng như thế. Đây mới là trận đánh quyết định của dân Mít, trong và ngoài nước. Sẽ cực kỳ khốn khổ khốn nạn với VC. Chúng ác gấp trăm, gấp ngàn Ngụy. Nhưng đành phải trải qua cuộc bể dâu này thôi.
Gấu còn nhớ, lần gửi hình Huỳnh Tấn Mẫm bị cảnh sát đánh nhừ tử, chính Horst Faas đem lên Đài cho ông Hưng, AP man, và trong khi gửi, ngồi kế bên, lắc đầu nói với Gấu, đám này đúng là Vi-Xi, và chúng sẽ làm mất Miền Nam.
Đúng như thế.
Pham Nguyen Truong liked this.
Follow

Chính quyền Vn thông qua ĐSQ tại Seoul đòi 18 May Foundation rút giải thưởng nhân quyền cho Bs. Nguyễn Đan Quế.
===============
Ngay sau khi công bố giải ngày 21/4/2016, một công hàm ký ngày 2/4 của ĐSQ VN tại Seoul gửi BNG Hàn Quốc yêu cầu rút giải thưởng. Lá thư nói "không thể chấp nhận" việc Bs Quế nhận giải, vì án tích vi phạm luật an ninh quốc gia của VN. Lá thư không hề nói gì đến hành vi nào là vi phạm an ninh quốc gia. Vì vậy mà giám đốc 18 May đã không hồi đáp thư củ...

See More
According to the May 18th Memorial Foundation, the Vietnamese government has reportedly requested the Foundation overturn its decision to present a Human Rights Award to Vietnamese activist Nguyen Dan Que.
www.gfn.or.kr

“We’ve decided not to respond,” said Kim Yang-rae, executive director of the foundation. “In the letter, it only says he violated national security laws and nothing about the backdrop.”
Chúng tớ quyết định, đếch thèm trả lời VC
!

V/v Bọ Lập thú nhận được Ngụy [Saigon, đúng hơn] giải phóng.

Tên này, phải đợi 41 năm, mới làm được cái việc mà ngay ngày 30 Tháng Tư 1975, bà DTH đã làm.
Bảnh hơn nhiều. Tôi bị lừa.
Nhà văn gì tên này. Hưởng thụ đủ thứ trên đời, khi về già mới dám nói thỏ thẻ, tôi được Saigon giải phóng.
Đâu thua gì bạn hắ
n, là nhà thơ Đại Hàn, với bài hát, quê hương mỗi người có một. Như là chỉ một mẹ thôi.
Aron gọi là đồi bại trí thức, là thế.
*

"Coi như giai đoạn giải phóng con người, một chế độ tạo ra những trại tập trung cải tạo, những tờ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, tức những tờ thông hành chỉ để đi lại trong chính quê hương của họ, một hệ thống cảnh sát trị còn khốn kiếp hơn cả dưới thời đại vua chúa, như vậy là vượt quá giới hạn của sự ngu đần, vậy mà về lâu về dài, mấy đấng trí thức cũng đành chấp nhận.”
Điều mà Aron kết án, thực ra, 'nhẹ' về phần đồng ý gật đầu chấp nhận, tham gia vào ý thức hệ [Cộng sản], nhưng 'nặng', về phần mà ông gọi là sự "đồi bại trí thức".
Chính sự đồi bại trí thức đã đưa đến hóa trang [maquiller] thực tại, đánh bóng mạ kền, bôi son đánh phấn cho nó, và vặn vẹo, bóp méo tính hợp lý, nhờ nó mà một sử gia theo dõi bước đi của lịch sử. Cú phạng này của ông, là trung tâm tác phẩm Thuốc phiện của trí thức dữ dằn, nhức nhối đến nỗi, đám trí thức lầu bầu, thà lầm với Sartre còn hơn có lý với Aron.

Ký Giả Lô Răng đi xa

TTT 10 years Tribute

Toàn tập THƠ trên THẾ KỶ HAI MƯƠI (1960-Saigon)
http://huyvespa.blogspot.com/…/tho-tren-ky-hai-muoi-1960-sa…
http://huyvespa.blogspot.com/…/55-nam-tap-chi-ky-ha...

*

*

*
*

Hai bài thơ, một mở ra, một chấm dứt cuộc chiến Mít.
Cùng đề tặng TTT

Il ritorno d'Ulisse

Returning from a lengthy trip
he was astonished to find
he had strayed to a country
not his place of origin

For all his encounters in scattered spots
with the black paper hearts of men
shot by the arquebuse
his bow-and-arrow story
did not happen

Then there was Penelope's
Castilian grandmother
blocking his entry at the garden gate
wordless and busy with embroidery

Sure, the grandchildren
are smiling in the background
apparently better disposed
towards foreigners

Their furtive hopes
still almost too small
for the naked eye
(But the idea is good
and the noise far away
even the building)

Sebald

Note: Bài thơ này làm nhớ một, hai bài thơ trong Thơ Ở Đâu Xa, tả cảnh anh tù, nhà thơ, sĩ quan VNCH, gốc Bắc Kít, về quê Bắc Kít ngày nào, và, tất nhiên, còn làm nhớ bài thơ của TTY, Ta Về.

Ta Về 

Trở về sau 1 chuyến dài dong chơi địa ngục
Hắn kinh ngạc khi thấy mình lạc vô 1 xứ sở
Đếch phải nơi hắn sinh ra 

Trong tất cả những cú gặp gỡ ở những điểm này điểm nọ rải rác, tản mạn
Với những trái tim giấy đen của những người bị bắn bởi cây súng mút kơ tông
Thì giai thoại, kéo cây cung thần sầu, bắn mũi tên tuyệt cú mèo, đếch xẩy ra. 

Và rồi thì có bà ngoại Tây Bán Nhà của bà vợ Penelope của hắn
Bà chặn đường đếch cho hắn đi qua cổng vườn
Đếch nói 1 tiếng, và tỏ ra bận rộn với cái trò thêu hoa văn khăn tay
Gửi người lính trận vượt Trường Sơn kíu nước, hà, hà! 

Tất nhiên rồi, chắc chắc là có lũ con nít
– không phải lũ con nít nhếch nhác kéo nhau coi lũ tù Ngụy đi qua thôn nghèo –
chơi ở vườn sau, chúng có vẻ rất tự nhiên, cười đùa với khách lạ 

Những hy vọng ẩn giấu của chúng
thì vẫn quá nhỏ nhoi,
với con mắt trần trụi 

(Nhưng ý nghĩ thì tốt
Và tiếng động thì xa
mặc dù tòa nhà)

Ba tập thơ, của TTT, TTY, và của Sebald, lạ, là có cùng 1 air.

Với TTT, là tìm lại vừa được thơ, vừa được cái chất thiền vốn là cốt lõi của thơ ông, theo nghĩa “bạo động của bạo động”, như Gấu có lần lèm bèm.

Thơ Tô Thùy Yên, theo Gấu, có sự “gò”, theo nghĩa của cụm từ “tour de force”, của Tẩy.
Cực hay, nhưng cũng cực… cực!
Cực giống Sebald, ở chỗ, không có “footnotes”, là không làm sao nắm được. Thí dụ, bài thơ tặng TTT, trên.

Sebald, thì như 1 nhà phê bình gọi ông, kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, và ông cũng nghĩ về mình, đúng như thế:

Ghost Hunter

Eleanor Wachtel [CBC Radio’s Writers & Company on April 18, 1998]:
Sebald viết một kinh cầu cho một thế hệ, trong Di dân, The Emigrants, một cuốn sách khác thường về hồi nhớ, lưu vong, và chết chóc. Cách viết thì trữ tình, lyrical, giọng bi khúc, the mood elegiac. Ðây là những câu chuyện về vắng mặt, dời đổi, bật rễ, mất mát, và tự tử, người Ðức, người Do Thái, được viết bằng 1 cái giọng hết sức khơi động, evocative, ám ảnh, haunting, và theo cách giảm bớt, understated way. Di dân có thể gọi bằng nhiều cái tên, một cuốn tiểu thuyết, một tứ khúc kể, a narrative quartet [Chắc giống Tứ Khúc BHD của GCC!], hay, giản dị, không thể gọi tên, sắp hạng. Ông diễn tả như thế nào?

WG Sebald: Nó là một hình thức của giả tưởng văn xuôi, a form of prose fiction. Theo tôi nghĩ, nó hiện hữu thường xuyên ở Ðại lục Âu châu hơn là ở thế giới Anglo-Saxon, đối thoại rất khó chui vào cái thứ giả tưởng văn xuôi này….

EW: Một nhà phê bình gọi ông là kẻ săn hồn ma, a ghost hunter, ông có nghĩ về mình như thế?
WGS: Ðúng như thế. Yes, I do. I think it’s pretty precise… (1)

Riêng về tập Thơ Qua Sông, qua Nước, thì có câu của Walter Benjamin, như 1 vinh danh thật là tuyệt vời dành riêng cho ông:

"To perceive the aura of an object we look at," wrote Walter Benjamin, referring more to the work of art than to landscapes, "means to invest it with the ability to look at us in return"
"Để cảm nhận hào quang của vật mà chúng ta nhìn vô", W. Benjamin viết - ông muốn qui nhiều về nghệ phẩm hơn là về phong cảnh - "có nghĩa là đầu tư nó, tiêm chích nó, cái khả năng nhìn trở lại chúng ta".


Cali Tháng 11, 2012

Wed, Dec 19, 2012

MERRY CHRISTMAS
Ong TRU chi HONG va gia dinh.
Noel 2012
NDT

Chúc hai bạn Thuần & Hương mọi điều tốt lành trong Mùa Giáng Sinh và Năm Mới
Xin gửi lời chúc đến tất cả bạn bè Cali & SJ & SD
Take care, plse.
Thân

NQT và gia đình 

Trong chuyến đi Cali tháng 11, do nhà NDT có khách ghé thăm, lại dặn chỗ trước, Gấu phải qua nhà bạn Bạn tá túc. Lúc đầu ngại lắm, vì nghe thiên hạ đồn, ông này khó lắm, tưởng dzậy mà không phải dzậy đâu, đừng tưởng bở!
Không ngờ thật là tuyệt vời, và Gấu cứ gật gà gật gù, phải như thế chứ! Không lẽ Gấu nhận lầm người…  quân tử!
Hà, hà!

Gấu ruột ngựa, cũng chẳng giấu. Ông cười, gật gù, quả có phần đúng, tôi khôn quá. Khôn “vừa vừa” như Bắc Kít, mà còn bị ông chửi tơi bời hoa lá cành, nữa là 1 thằng Quảng Nôm thứ cực kỳ Quảng Nôm như tui!
Và thế là, được dịp, ông bèn nói về những ngày đi tù VC, và cái khôn của ông, để sống sót Cái Ác Bắc Kít.
Nghe, thì lại như thấy đang đọc (Một ngày trong đời) One Day in the Life of Ivan Denisovich của Solzhenitsyn.



Thơ Mỗi Ngày

Marina Tsvetaeva 

Penguin Russian Poetry
Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi

Sách Báo

&

John Freeman: The Sympathizer and Nothing Ever Dies are published fast on the heels of one another, I wonder if you could talk about how their thinking was linked.

Viet Thanh Nguyen: Both of these books come out of a line of me wanting to deal with Vietnam, and more broadly, the question of war and memory in general. The ideas in Nothing Ever Dies grew slowly—I worked on it for over a decade, but the book itself I wrote in a year. I threw out all the articles I’d written and then wrote it from scratch after I had finished The Sympathizer. Some of those ideas had filtered into the fiction—but all the work of the fiction worked itself into the writing of the nonfiction. The ambition in the back of my mind—I may not be there yet—is that I would love to be able to write fiction like criticism and criticism like fiction. I think of W.G. Sebald—a hero of mine—I can’t tell the difference in his work, whether it is fiction or nonfiction, it all feels like literature. So as I was writing these books closely together, I was doing the best to incorporate criticism into the fiction, and fiction into the criticism, so with The Sympathizer I was hoping to construct a narrator who could say dramatically very critical things, but who wouldn’t be restricted as an academic to source his beliefs. In Nothing Ever Dies, I couldn’t find a way to find a sense of humor into that book, but I really did try to take everything I had learned from the novel—narrative rhythm, for example—even working my basest unsaid feelings into the very shape of the thing. One of things I want both books to do is to move the reader both emotionally and intellectually.


Gấu biết đến Sebald là qua 1 bài viết của Sontag. Bà coi ông, 1 thứ nhà văn của nhà văn. Viet Thanh Nguyen coi ông là “hero” của mình, và rất mê lối viết trộn lẫn nhiều thể loại, phê bình, văn xuôi, hồi tưởng…. Gấu đọc Sebald khác hẳn, một kẻ săn hồn ma, như chính ông tự nhận, hay, với GCC, một lương tâm của nước Đức hậu chiến. Vả chăng tuy trộn lẫn nhiều thể loại, trong khi viết giả tưởng, nhưng với những bài viết đúng là phê bình, hay biên khảo, Sebald xuất hiện như 1 vị quan tòa, và văn của ông, là thứ phán đoán, truy xét, hỏi tội, Judgment.
TV giới thiệu bài viết mới có được, về ông, nhân mới xuống phố.
Trong bài viết, trong
cuốn trên, tác giả nối kết Sebald, với vụ không kích, và với Thomas Bernhard.
Bài viết của Dyer về Sebald xoáy vào cuốn mà Gấu mê nhất của ông, Về lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, “On the natural history of destruction”.
TV “phải” mua cuốn sách, để “phải” đi 1 đường về Sebald, là vì bài viết này, chưa kể bài viết về “Cuộc Tình Bỏ Đi” của Scott Fitzgerald, “Tender Is the Night” [cuốn “Một Chủ Nhật Khác” là cùng dòng với nó]

On the Natural History of Destruction goes to the epicenter of ruination, examining the Allied bombardment of German cities in the Second World War. Given the scale of the calamity, Sebald asks, why have German writers been so silent about it? How had it come about that 'the sense of unparalleled national humiliation felt by millions in the last years of the war had never really found verbal expression, and that those directly affected by the experience neither shared it with each other nor passed it on to the next generation'?
Geoff Dyer: W. G. Sebald, Bombing and Thomas Bernhard

Câu hỏi trên, 1 cách nào đó, có thể áp dụng vào Miền Bắc xứ Mít: Tại sao chúng vờ luôn Công Ơn Trời Biển của Thiên Triều?


Đi tìm phê bình gia Mít

1.         Lang Băm | March 8, 2014 at 4:00 pm

Ông T

Tôi nghĩ ông nên từ tốn và tiêu hóa điều mình muốn phát biểu trước khi viết xuống. Ông hơi tự sướng quá đà.

Ông ở tận Canada ông làm sao biết ở Calif mối liên lạc giữa các trùm sò văn chương hải ngoại thời đó với các bà cỡ Mai Ninh thấu tới đâu. Những áp phe tình ái của Khánh Trường với các bà nổi lều bều trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu hiệp. Khánh Trường chủ tờ Hợp Lưu và các “đàn anh văn nghệ” của Khánh Trường mới là những người được hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham danh dâng hiến, í lộn, do các bà nữ dzăng thơi sỡi quyên góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu ngày Khánh Trường chưa ngồi xe lăn.

Quyển sổ áp phe của bà Trần Thị Ng.H thì cỡ ông làm gì được chấm mút. Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn thì cũng chưa nhằm nhò gì so với các áp phe khủng của bà này

Ông cũng không phải là nhà phê bình văn học như ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi đào mả tên tuổi các ông bà nhà văn nhà thơ hải ngoại.

Ông cũng chả có công mẹ gì trong cái vụ bà Tám ló ra ló vào văn chương này cả. Lý do là trang của ông chỉ một mình ông tự sướng. Bà Tám thì gửi bài cho nhiều nơi khác như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác. Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác giới thiệu cùng một lúc, mà ông nào có phải là nhà phê bình và là chủ bút một tờ báo nào đâu mà ông bảo là ông xúc bà Tám lên.

Note: Cái này, ở bên Blog một chỗ quen biết, lôi về đây cho tiện để chửi cho đã! (1)

Và cũng để cho chỗ quen biết khỏi bực, vì những chuyện nhơ bửn như vậy.
Gấu & độc giả Tin Văn, thì quen rồi.
Vả như không quen/ chưa quen [Bi giờ chán TV rùi], thì tạm lánh đi chỗ khác.

Chúa có khi còn vắng mặt, đúng vào lúc xẩy ra Lò Thiêu, nữa là!

Hà, hà!

GCC nghi, tác giả là 1 tên thuộc băng đảng Hậu Vệ, hoặc đệ tử Thầy Cuốc.
Cái câu, “ông cũng không phải là nhà phê bình văn học như Thầy Kuốc”, khiến Gấu nghi tên khốn này là đệ tử của ông ta. Và, cái giọng nhơ bửn của nó. Lũ khốn này, khi TV mới mở ra mục Dọn, xúm vô như ruồi nhặng, sau thấy quê quá, lặn dần. Bây giờ lại thấy xuất hiện.


Note: Vụ này, nay mới lôi ra để đáp lễ.

Tên này, Gấu nghi, cũng 1 thứ Thầy, như Thầy Đạo, cay cú GCC, thằng khốn đâu có bằng cấp con khỉ, 1 tên thợ máy Bưu Điện mà cũng bày đặt!
Cái chuyện liên quan đến Bà Tám, là như thế này. Gấu đọc Bà Tám, khi còn ký tên Lì, trên 1 blog, và quá mê bài viết về Pleiku, bèn lôi ra khen. Cái chuyện nổi tiếng, là sau đó. Và không liên can gì tới GCC. Tuy nhiên, post bài nhiều diễn đàn đâu có nghĩa là nổi tiếng? Lũ hải ngoại, viết được 1 bài như kít, sau khi đăng ở hải ngoại, là thể nào cũng cho đăng lần nữa ở Văn Vịt, thí dụ, như thế, đâu có nghĩa là nổi tiếng, chỉ làm khổ người đọc thêm 1 lần nữa.

Trang Tin Văn, là 1 thứ trang nhà, khác blog. Blog có chế độ public, tức là mời người đọc vô đọc, rồi có thể góp ý, qua còm. Tên này, rõ ràng là đọc trang Tin Văn, rồi chửi GCC, tự sướng. Nói thẳng ra ở đây, ta đâu có mời mi vô trang TV? Đọc, thấy bửn quá, thì đừng vô nữa.
Còn mấy cái chuyện nhơ bửn liên quan tới nữ văn sĩ Mít. Gấu gia nhập chốn giang hồ gió tanh mưa máu, từ khi còn trẻ
. Còn Sài Gòn.
Đâu có phải đợi đến khi ra hải ngoại, rồi phải ở Cali mới biết những chuyện như tên này lôi ra để làm nhục họ?
Biết, nhưng chưa hề 1 lần nhắc tới.
Làm sao tên này toàn biết những chuyện nhơ bửn như thế, rồi còn lên giọng dậy đời?

… mà ông nào có phải là nhà phê bình và là chủ bút một tờ báo nào đâu mà ông bảo là ông xúc bà Tám lên.

Phải là nhà phê bình, phải là chủ báo, phải đăng bài tác giả gửi tới thì mới có quyền nhận xét về 1 tác giả?
Giả như GCC không phải là nhà phê bình, thì mi là gì, mà cũng lên tiếng làm nhục những nhà văn mà mi nhắc tới?
Mi đã từng có tác phẩm nào, hay cũng 1 thứ như Thầy Đạo, sống đến chót đời không có 1 tác phẩm lận lưng?

GCC, ngay khi vừa vô chốn giang hồ, là đã được nhà thơ NS tặng cho cái nick, “tên sa đích văn nghệ”, vì dám phán, ông là 1 nhà văn dễ dãi, sung sướng.
Coi văn chương của NTH là khủng khiếp.
Chỉ nêu hai thí dụ, để cho thấy, rõ ràng tên này đố kỵ, khi coi GCC đếch phải nhà phê bình!


Trong suốt đời cầm viết, Gấu tởm nhất, cái gọi là phê bình, và cái tên, vỗ ngực xưng tên, là phê bình gia. Tên hoạn. Như Steiner nói. Một thứ tầm gửi, giây leo, sống nhờ vào sáng tác của người khác. Hãy thí cho nó 1 bài thơ.
Cái viết của Gấu, nếu bắt buộc lắm, mới có mùi phê bình.
Tên này, 1 thứ cha căng chú kiết, có ai biết là ai đâu?
Giọng thật cay cú, với GCC. Y chang Thầy Đạo, khi mét Sến.
Không phải Thầy Đạo, nhưng cũng 1 thứ như Thầy.
Trước 1975, sở dĩ GCC phải dùng tên cúng cơm NQT, là do viết những bài phê bình, điểm sách. Dùng 1 cái nick, để viết nhơ bửn về những tác giả đã có tên tuổi, tác phẩm, là 1 điều 1 kẻ có chút đạo hạnh không thể làm.

V/v Bà Tám nổi tiếng, đâu cần đến mi... thì... OK, nhưng mi thử đưa ra 1 lời phê bình, từ lũ mắt trắng dã, hay 1 nhận xét nào đó, nghe được về cõi văn của Bà Tám, nghe coi?

Kẻ Phản Thùng
Thời sự

Canada Britain Muslim Opiniơn



Why Canadian Muslims seem happier than British ones
May 5th 2016, 12:15 by M.D. and ERASMUS | TORONTO
Tại làm sao mà Hồi giáo Canada có vẻ hạnh phúc hơn Hồi giáo Ăng Lê?


Viết

Song Nam Tang published a note.
3 hrs
post lại nhân một ngày phát chán tất cả các loại già ;)
Lớn lên mày làm gì
...
See More

Đọc, thì bèn nhớ đến bài viết của Banville
http://www.tanvien.net/TG_TP/music_sphere_banville.html

Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành - chỉ nhiều tuổi thêm lên, rồi thì già – và sự cần thiết đồ chơi của chúng ta thì không bớt đi. Tôi vẫn nhớ rõ ràng thật là khủng, những giọt nước mắt cay đắng, giận dữ, mà 1 thằng bé là tôi ngày nào, nhỏ ra ròng ròng, khi, trong một lần cả gia đình làm chuyến dã ngoại, vào một bữa Chủ Nhật, buổi chiều, ở Cistecian Abbey, ở Mount Melleray, ở County Waterford và bà má của tôi đã từ chối mua cho tôi, trong một tiệm bán quà lưu niệm ở đó, một cuốn thánh kinh thu nhỏ, có cái bìa bằng da dê màu trắng mà tôi đã nhắm nhìn nó, thèm muốn nó đến đỏ cả con mắt.
Vào những ngày này, tôi viết những cuốn tiểu thuyết của tôi trong những cuốn vở được làm bằng tay, riêng cho tôi, bởi một trong vị tổ sư làm sách đương thời, Tom Cains. Những cuốn sách đẹp ơi là đẹp, được phủ bằng giấy Cockerell với những cái gáy sách bằng giấy thuộc da bê, chúng thì hơn hẳn những đồ chơi, tất nhiên, nhưng, mặc ai nói gì thì nói, tôi lúc nào vẫn nhìn thấy, ở trong những cuốn sách làm bằng tay đó, một sự an ủi, một sự hoài nhớ thì đúng hơn, về cái cuốn thánh kinh đã quên, hụt có, suốt đời thiếu nó, ngày nào.
Một lần khác, thì lại là một món đồ thèm muốn khác, và nó là 1 trái cầu liền, không có vết nối, hàn, bằng bạc, ở một tiệm bán ba thứ thứ đồ chơi vặt vãnh mà dân Tẩy rất rành, và chủ tiệm thì là một phu nhân, ở một độ tuổi nào đó, d'un certain age, [tiếng Tây trong nguyên tác tiếng Hồng Mao], đẹp, buồn hiu hắt [“ám ảnh phố phường, đèn vàng phố thị, hiu hắt tóc xanh”!]
Nơi chốn Arles, chừng hai chục năm gì đó, trước đây. Cầm trái cầu bạc lên, nó bèn phát ra tiếng nhạc tuyệt vời, thứ âm thanh ở giữa những tiếng “tinh tinh” của sợi dây đàn clavico và những tiếng thì thầm lâng lâng của chiếc khẩu cầm bằng thuỷ tinh. Tôi muốn nó - ối giời ơi là giời, tôi muốn nó. Nhưng tôi cũng muốn một cái hộp âm nhạc với 1 anh Pierrot nhảy cẫng ở trên cái nắp hộp, và mở ra, thì nó chơi một điệu nhạc từ Chiếc Sáo Thần, và tôi không làm sao chọn được, con tôm thì cũng tiếc, mà con riếc thì cũng muốn. Chừng 10 phút sau, trong khi tôi ngồi nhấm nháp cà phê, trong 1 cái ly nho nhỏ màu trắng, a petit blanc, tại một quán ngoài trời, thì những người bạn của tôi, sau khi quay lại cái quán đồ chơi, trở về, với trái cầu âm nhạc. Họ rành tôi hơn cả tôi, và biết tỏng đi rằng thì là, một khi rời khỏi Arles, thì tôi sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi, nếu không tha về, ít nhất là con tôm, hoặc con tép.
Và họ có lý, lẽ tất nhiên!

Bạn quí mà, hiểu nhau quá!

Ui chao tôi mê trái cầu bạc nho nhỏ, ngớ ngẩn, dại khờ, yêu cuồng yêu dại, yêu man yêu rợ, yêu mê yêu tín. Tôi chẳng đi đâu mà không có nó, xe lửa không, ghe thuyền không, máy bay không, nếu không có nó trong túi, trong bị. Cũng thật lạ kỳ, chẳng bao giờ nó phát ra 1 tín hiệu báo động: như 1 kẻ vô hình, tôi bước qua cổng kiểm tra, không giầy, không giây nịt, không bóp ví, nhưng luôn có trái cầu bạc bằng trái bom nhỏ xíu của 1 tên cuồng tín, nằm im lìm trong túi, thế mới thần sầu, thế mới quái dị.
Trong những lần đi tua đọc sách, bao nhiêu căn phòng khách sạn cô đơn mình ên tôi bò vô, vào cuối ngày, rã rời sau khi đóng đã đời - đóng vai của chính mình, nhà văn nhớn đóng vai nhà văn nhớn nói về văn chương, văn chương của chính mình – và, cầm lên trái cầu, nghe âm thanh của nó, thấy mình đúng là anh chàng Lỗ Bình Sơn, nơi “đảo xa”, áp cái vỏ sò vào sát tai mình, và nghe, ới ới, thứ tiếng Mít, tiếng gọi của quê hương!

Và rồi một ngày nó bỏ đi. Khi đó, tôi ở Úc, và, trở về nhà lục tung mấy bị hành lý không thấy nó. Úc châu! Đống cỏ khô và cây kim quí giá của tôi nằm đâu đó ở trỏng. Đáy biển mò kim, tôi lần tìm những khách sạn Sydney, Melboune, Adelaide đã từng ghé, nhà bạn bè đã từng thăm, tôi cầu xin lòng thương hại của mấy hãng máy bay. Vô ích, vô phương, không dấu vết, tăm hơi.
Trong một trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi tìm lại được của tôi - một nhân vật kể về một nhân vật đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao đá cuội ở một nơi nào đó ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù thuỷ Nga của cái th
ế giới buồn nản ham thu nhập thay vì mất mát của chúng ta.
Elizabeth Bishop đã làm điều thật đẹp của bà, khi an ủi tôi bằng một bài thơ, “Một Nghệ Thuật”. Bài thơ tuyệt vời, buồn trong cái dáng thong dong của nó. Qua bài thơ, bà khẳng định, đánh mất là 1 nghệ thuật, và trở thành sư phụ trong nghệ thuật đánh mất thì cũng không khó, và có rất nhiều điều “hình như hăm hở, hớn hở, ham hố… để được mất, để cho cái sự mất mát của chúng không là một thảm họa”.
Và bà quả quá đúng.
Bà quả đúng như vậy, một nhà thơ mẫn cảm, và thực ti
ễn. 
Và nếu như thế, thay vì, “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, thì hãy “Đánh mất một điều gì đó mỗi ngày” ['Lose something every day'] -  bởi vì, bất cứ một vật gì, cho dù lẩm cẩm, cà chớn, như trái cầu của tôi, một khi đánh mất như thế, nó làm vọng lên hai câu thơ của Thế Lữ, “Anh đi đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi” [a break for freedom].

Và rồi, cách đây một năm, trong khi sửa soạn cho một chuyến đi xa, tôi lôi cái túi đã lâu không dùng tới, kể từ chuyến đi Úc, và tôi bỗng nghe thấy 1 âm thanh yếu ớt, nhẹ nhàng, như có ý trách móc, rên rỉ, làm nũng, "đừng bỏ em một mình," “bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa”, vọng về.

Và ơ rơ ka, nó đây rồi.
Có những món đồ chơi, như tình cũ, không rủ cũng về.

Bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa…
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, GCC, khi còn Sài Gòn, vưỡn lâu lâu trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của BHD vẫn còn văng vẳng đâu đây!

Thứ tình yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có, hay thứ tình yêu gồm một phần ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy...

Già rồi, vãi...  linh hồn hoài, không sợ con nít nó cười cho ư?

Tai Ương Thảm Họa

*


Bỉển của ai đây?


Lê Minh Hà was tagged in this.

Không nhờ ai chấp bút mà chính ca sĩ Ái Vân đã tự viết về cuộc đời mình ở quyển tự truyện này, vừa ra mắt ngày 5-5, tại khách sạn Continental Sài Gòn,.

Sáng 5-5, tại khách sạn Continental Sài Gòn, Công ty sách Trí Việt - First News và ca+ sĩ Ái Vân đã tổ chức họp báo ra mắt quyển tự truyện Ái Vân - Để gió cuốn đi…
By NguoiViet.de

Note: Tự xóa hay VC kiểm duyệt thì cũng rứa.
Cái trò đi rồi bò về hưởng tí xái vinh quang, là làm nhục kẻ không thể về.
Làm nhục cả những kẻ không làm sao bỏ đi!
Về. OK. Nhưng đừng khoe nhục!

NQT

Bà này nghe nói, rất được nhà nước o bế, sủng ái, vậy mà bỏ đi. Nếu đúng như thế, thì tại sao bỏ đi, và bây giờ bò về, ra mắt sách đúng vào lúc tai ương biển ?
Có thấy dân Mít biểu tình vì họa cá, họa biển, họa Đảng, họa Tẫu?
Nghề của Bà, là hát? Đâu cần viết? 
Nhà văn, theo GCC, khác nhà hát, đời ca hát cho đời mua vui. Đâu cần viết.

Nhân đang đọc Simenon, ông phán, người ta nói, viết
là 1 nghề, tôi đếch tin.
Tôi tin rằng bất cứ ai không cần làm nhà văn, và nghĩ
có thể làm cái gì khác, thì nên làm cái gì khác.
Viết
không phải là 1 nghề, mà là một thiên chức của sự bất hạnh. Tôi không tin có thứ nghệ sĩ mà lại hạnh phúc.

Đã ca hát cho đời mua vui, mà còn muốn mua vui cho đời bằng hồi ký nữa ư, sao tham lam bất hạnh
thế?
Để gió cuốn đi, vậy mà còn cố ham hố?

SIMENON: Writing is considered a profession, and I don't think it is a profession. I think that everyone who does not need to be a writer, who thinks he can do something else, ought to do something else. Writing is not a profession but a vocation of unhappiness. I don't think an artist can ever be happy.
 

1978: Bucharest

GOVERNMENT OVERSIGHT

According to careful estimates, in the last earthquake to strike Bucharest 2,500 people lost their lives; exact calculations, however, have shown that some 4,000 people perished beneath the ruins. This number would have been reduced by 500 if the city had acted contrary to the express orders of the official of the Bucharest administration responsible for these things to bulldoze the rubble of the hotel that was totally destroyed rather than to clear it away, and had actually cleared the rubble away. For a whole week after the earthquake, people could still hear the cries of hundreds of those who had been buried coming from the rubble. The official of the city administration had the area around the hotel cordoned off until he received reports that absolutely nothing more was stirring beneath the rubble and not a single sound was still to be heard from the rubble. Not until two and a half weeks after the earthquake were the people of Bucharest permitted to view the heap of rubble, which was completely bulldozed in the third week. The official is said to have refused, on grounds of expense, to rescue some 500 guests of the hotel who had been buried. Rescuing them would have cost a thousand times more than bulldozing, even without taking into account the fact that probably hundreds of severely injured people would have been brought out from the rubble who would then have had to be supported by the state for the rest of their lives. According to reports, the official had, in the nature of things, assured himself of the support of the Romanian government. His promotion to a higher position in the civil service is said to be imminent.

Thomas Bernhard, ''Decision.'' Bernhard grew up in Salzburg, where as a teenager he dropped out of school and went to work in a grocery store. This report on the aftermath of the Romanian earthquake of March 4, 1977, was included in his 1978 collection, The Voice Imitator. When Bernhard died in 1989 his will forbade any publication or performance of his work in his native Austria, which he once called 'a common hell in which the intellect is incessantly defamed and art and science are destroyed. "

Note: Báo cáo ngắn này, về 1 trận động đất, và thái độ của nhà nước sở tại, xem ra thật giống xứ Mít hiện nay, trước Họa Biển.
Nhà cầm quyền quyết định chôn sống nạn nhân, cho xe ủi đỡ tốn tiền hơn nhiều so với cứu họ.
Y hệt ở xứ Mít. Chúng bày trò ăn cá biển, tắm biển, giấu biệt con số nạn nhân, cố tình ém nhẹm tai ương.
Tác giả bài viết, TB, mất năm 1989, di chúc, cấm nhà nước in ấn trình diễn
bất cứ cái gì của ông, vì xứ Áo quê hương của ông là 1 địa ngục, ở đó, trí thức bị phỉ báng, nghệ thuật bị huỷ diệt.

*

Chợ Cá Vũng Tàu
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/


*

Kertész, le médium d'Auschwitz
http://www.magazine-litteraire.com/mensuel/567/kertesz-medium-auschwitz-01-05-2016-139133

« Vous remarquerez que je ne me suis pas suicidé... Tous ceux qui ont vécu ce que j'ai vécu, Celan, Améry, Borowski, Primo Levi... ont préféré la mort. »
...   que le communisme était en fait une continuation du nazisme.


Đồng Vọng cho Hồn Thiêng Lò Thiêu

Poland vs. History
Timothy Snyder  
 

Note: Đang lèm bèm về Tên Phản Thùng, gặp bài này!
Ba Lan vs Lịch Sử.
Nói rõ hơn, Ba Lan tính xây dựng 1 Viện Bảo Tàng tưởng niệm nạn nhân Do Thái.
Đang xây, đúng hơn, và bèn ngưng!

Việt Thanh Nguyên nói về cuốn sách của mình, nó có 1 điều gì đó làm phật lòng tất cả mọi người!
Quả đúng như thế.
Và một điều gì đó, có gì tương tự với Ba Lan vs Lịch Sử
!

Đồng bằng Nam Bộ đang chết
Muối Của Đất
Thời Tiết Xấu & VC dốt quá làm cho nắng hạn trở thành khủng khiếp

http://www.economist.com/news/asia/21697886-bad-weather-and-bad-policy-aggravate-awful-drought-salt-earth

SHADED by a tree, an elderly farmer gestures hopefully at the scrawny green shoots poking from his small plot in Vietnam’s Mekong river delta. The sugar crop he planted earlier in the year has already failed once, poisoned by dry and salty soil. Fresh growth from the cut-back plants now offers a second chance, but without rain it may go the same way. The farmer is lucky to have a pond full of fish, which he shares with his neighbours. But he says his family will have to find other work this year to make ends meet.

Tales such as this are common on the tiny island of Cu Lao Dung in the delta’s southern reaches (see map), five minutes from the mainland by scooter-crammed ferry. During the annual dry season surrounding waters always turn salty, as brine from the sea pushes up the delta’s channels. But this is an exceptionally dry year, with river levels at 90-year lows. The water has become unusually concentrated with salt, which is spreading more extensively. The salt is creeping through the farmland like damp up a wall.

Drought is plaguing much of mainland South-East Asia, including Myanmar, Laos and Cambodia. Thailand’s shortages are the worst for two decades (though urbanites still splashed around during Songkran, its annual water festival in mid-April). Vietnam has been hit as hard as any. The Mekong basin is home to one-fifth of the population. It produces about half of the country’s rice. The government says the amount available for export in the three months to June will be 11% less than originally forecast. Drought in the country’s Central Highlands has affected a third of coffee plantations there and now endangers the region’s supply of drinking water. These woes are weighing on the economy. Growth in the first quarter slowed by half a percent year-on-year to 5.5%.

The immediate cause is El Niño, a recurring weather phenomenon which causes downpours in the Americas but heat and drought in much of Asia. Scientists believe that El Niño’s effects are growing stronger as global temperatures rise. Last year it was blamed for exacerbating annual fires on farmland in Indonesia, which smothered much of the region in a noxious haze.

People living near the Mekong say there is another problem: hydroelectric dams built in China near the head of the river that are holding up its flow. Since March China has loosened some of the dam gates, ostensibly as a favour to its neighbours. But locals say the effect on water levels has been measly. The episode has only heightened fears that China (with which Vietnam has an enormous trade deficit and an intense territorial dispute) can use water flow to hold the country to ransom.

The dams are certainly stripping the Mekong of essential sediment. But many of Vietnam’s water woes are self-inflicted. In the delta, for example, a booming population has built more than 1m wells since the 1960s. These have made saline contamination worse, and are also causing subsidence. In 2014 an American study found that the delta, which mostly lies less than two metres above sea level, could be nearly a metre lower by 2050.

A related problem is the ruling Communist Party’s obsession with maximising rice production. Straining to hit absurd targets—inspired by memories of post-war food shortages—the government has pushed delta farmers to produce three rice crops per year.

This policy has caused the poisoning of paddies with pesticides and has discouraged farming of more profitable, less thirsty crops. It has also prompted the building of a massive network of dykes, canals and sluice gates, which spread pollution from fertilisers and pesticides and restrict the flow of sediment. Koos Neefjes, a climate-change expert in Hanoi, the capital, reckons all this infrastructure has done more to harm the delta than China’s dams.

Fixing this will mean taking on powerful state-owned rice traders and exporters, who benefit from intensive production. Nguyen Xuan Phuc, who took over as prime minister in early April, is said to be a competent technocrat. But he may not have the political strength to carry out difficult reforms. Some simple remedies would be useful, however. Giving farmers earlier warning of drought would help avoid pointless ploughing and planting, says Nguyen Huu Thien, an environmentalist. He says the authorities may soon be caught out by La Niña, a sodden period which often follows El Niño’s parching.

At a roadside café in Cu Lao Dung, young sugar farmers moan about their lot. Life would be easier if they could work at tea stalls, they say, with cooling banana-leaf roofs. Or perhaps on coconut farms, where trees need watering only every few days. Each year supplies of safe drinking water get a little tighter, says one. He worries that in ten years there will be no fresh water at all.

1978: Bucharest

GOVERNMENT OVERSIGHT

According to careful estimates, in the last earthquake to strike Bucharest 2,500 people lost their lives; exact calculations, however, have shown that some 4,000 people perished beneath the ruins. This number would have been reduced by 500 if the city had acted contrary to the express orders of the official of the Bucharest administration responsible for these things to bulldoze the rubble of the hotel that was totally destroyed rather than to clear it away, and had actually cleared the rubble away. For a whole week after the earthquake, people could still hear the cries of hundreds of those who had been buried coming from the rubble. The official of the city administration had the area around the hotel cordoned off until he received reports that absolutely nothing more was stirring beneath the rubble and not a single sound was still to be heard from the rubble. Not until two and a half weeks after the earthquake were the people of Bucharest permitted to view the heap of rubble, which was completely bulldozed in the third week. The official is said to have refused, on grounds of expense, to rescue some 500 guests of the hotel who had been buried. Rescuing them would have cost a thousand times more than bulldozing, even without taking into account the fact that probably hundreds of severely injured people would have been brought out from the rubble who would then have had to be supported by the state for the rest of their lives. According to reports, the official had, in the nature of things, assured himself of the support of the Romanian government. His promotion to a higher position in the civil service is said to be imminent.

Thomas Bernhard, ''Decision.'' Bernhard grew up in Salzburg, where as a teenager he dropped out of school and went to work in a grocery store. This report on the aftermath of the Romanian earthquake of March 4, 1977, was included in his 1978 collection, The Voice Imitator. When Bernhard died in 1989 his will forbade any publication or performance of his work in his native Austria, which he once called 'a common hell in which the intellect is incessantly defamed and art and science are destroyed. "

Note: Báo cáo ngắn này, về 1 trận động đất, và thái độ của nhà nước sở tại, xem ra thật giống xứ Mít hiện nay, trước Họa Biển.



http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/nhn-nhan-nhanh-ph-bnh-tho-viet-hau-doi-moi-ky-2/
• Phê bình tự phát:

Bùi Giáng, Trần Dần, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Đăng Thường, Ngô Văn Tao, Nhật Tuấn, Nguyễn Nguyên Bảy, Đỗ Hoàng, Võ Công Liêm, Võ Chân Cửu, Nguyễn Hồng Nhung, v.v.

Note: Tự phát là nghĩa...  sao?

GCC viết về ai, nhắc câu nào, đều có dẫn nguồn.
Những trường phái mà Gấu có đọc, vì sống cái thời của chúng, là cơ cấu luận, hiện sinh, Mác Xít, thí dụ.
Những vị Thầy ảnh hưởng lên Gấu là Roland Barthes, Genette, Lukacs, thí dụ
, khi mới bắt đầu viết, và sau này, là những Steiner, Simone Weil, và.... Lò Thiêu ...
m sao mà gọi là tự phát?
Phải nói là Gấu được học, có học, về cái gọi là phê bình!
Về mặt sáng tác, thì là Faulkner, tất nhiên,
"sao cứ nhắc mãi về ông ta"!
Có thể nói, Gấu là tên Mít độc nhất viết văn, viết phê bình có Thầy dậy.
Còn dư đều là tự phát!

[Đừng nghĩ là Gấu phách lối ở đây. Nhà văn Mít, không tên nào có Thầy cả. Giả như có, chúng cũng không nói ra. Có chăng, là TTT, khi ông nói về Nguyên Hồng, Nguyễn Đức Quỳnh, như Đặng Tiến viết: Trong một bài viết tưởng mộ Nguyễn Đức Quỳnh, tác giả Thằng Kình, Thanh Tâm Tuyền 1974 đã viết: «Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt (…) Tôi không phải là người của một vài quyển sách. Trước và sau khi đọc Thằng Kình, Những ngày thơ ấu, tôi đã đọc hầu hết tiểu thuyết Việt Nam, tôi hiểu được giá trị, tôi cảm được cái hay của nhiều tác giả khác nhưng chỉ có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ. Văn chương phát sinh từ lòng ngưỡng mộ. Nên tôi không bao giờ quên ơn người đã khơi dậy lòng ngưỡng mộ nơi tôi». ]

Đấng này, cũng 1 thứ dốt đặc, thành quả của 40 năm ăn cướp, chẳng có tí thơ ở trong người mà hết trường thi tới sử thi, bây giờ lại tham luận ngắn, dài.
Chán!
[Thuổng văn phong Thầy Kuốc. Thầy, thuổng từ thơ "Yết Hậu
"]

Vào cái lúc Gấu vừa lớn, Miền Nam tương đối thanh bình, Gấu được học đàng hoàng, bằng Tú Tài của Gấu không phải thứ chạy giặc, thành ra cái kiến thức phổ thông của Gấu OK, thế rồi khi mon men vào thế giới văn chương, được ông anh ban cho bài học ba búa của Trình Giảo Kim, trong có 1, hãy đọc, đọc, đọc rồi thể nào mày cũng vớ được ông Thầy của mày.
Và quả thế thật.
Kiếm được ông Faulkner, hay đúng hơn, ông kiếm thấy Gấu.
Đấy là về mặt văn phong. Về mặt tri thức, hiểu biết, cái đọc của Gấu, chủ yếu là để cắt nghĩa cuộc chiến, nếu sống sót.
Ra được hải ngoại, tất cả cái đọc của Gấu là xoáy vào Lò Thiêu, vào anus mundi, như Czeslaw Milosz gọi nó.

Đấng DQ, tác giả bài tham luận dành cho cuộc tham luận kêu như chuông, đâu có đọc cái gì, mà dám viết?
Nhét đủ thứ tác giả, ban phát đủ thứ mũ nón. Tự phát?

Cái đọc, theo Gấu, nó liên quan rất nhiều đến chuyện đạo hạnh. Viết, tất nhiên, nhưng đọc cũng tất nhiên. Bạn càng đọc nhiều bạn càng trở nên khiêm tốn, và càng bớt đi cái đố kỵ, ghen ghét.
Nhà văn LMH, ra đi từ Miền Bắc, khi vừa mới viết, Gấu là thằng Nam Kít, đã khen tưng bừng, trong khi đấng DQ này biểu Gấu, cái Hà mà viết lách cái gì mà ông khen quá như thế!
Tâm địa như thế mà viết cái gì được.

Đâu phải mình anh ta. Sến cũng y chang.
Gấu chưa từng thấy 1 tên Bắc Kít nào khen 1 bạn văn của nó cả!
Nếu có, thì bằng giọng kẻ cả.

II. Tiếng nói, từ miền lạnh 

Tôi rời Hà-nội vừa lúc mới lớn, chớm yêu thành phố. Chớm nhận ra những vẻ đẹp của nó. Khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn (1965), trí tưởng tôi vẫn còn tràn ngập những kỷ niệm về Hà-nội.
Rồi tới những tác phẩm của Miền Bắc, đọc sau 1975. Tôi cố tìm một Hà-nội của tôi ở trong đó. Cố tìm một Hà-nội đẹp như mơ bỏ lại. Những bè bạn bỏ lại.
Không thấy.
Cho tới khi đọc Lê Minh Hà.
Phải nói, tôi đã chờ hoài một tác phẩm như vậy. 

Trong bài viết Nhà văn và chủ nghĩa Cộng sản (3), khi điểm cuốn Văn chương và Cách mạng (Literatur und Revolution) của Jurgen Ruhle - một trong những nhà văn, trí thức đã chủ trì, và kinh nghiệm mùi vị chủ nghĩa Cộng-sản và sau đó từ bỏ thực tại Stalinist, rồi chọn Đức quốc làm nơi trú ẩn - George Steiner coi Văn chương và Cách mạng có tầm vóc một cuốn lịch sử về nhà văn và chủ nghĩa Cộng-sản trên toàn thế giới. Về định mệnh văn chương Nga duới thời Lenin, và về bộ ba cách mạng Blok, Yessenin, Mayakovsky: Bên dưới những câu chuyện kể về người và việc, vọng lên thanh âm rền rĩ, về căn do của (những hành động) lưu đầy, hành quyết và tự sát (4).

Tới Pasternak, Steiner cho rằng, Ruhle đã nhận ra ở tác giả này, tiếng nói đích thực của Nga, và cùng với nó, viễn ảnh vượt lên mọi oan khiên tàn bạo của nhất thời; và đồng ý với Edmund Wilson (5) khi tìm thấy ở trong nhân vật Lara và Zhivago một thách đố không thể trả lời, đối với chủ nghĩa duy lịch sử, và định mệnh thuyết chối từ cuộc đời của ý thức hệ Cộng-sản. Thật hiển nhiên, nếu Pasternak có thể giữ riêng cho mình một tình yêu nổi loạn, riêng tư ngay trong lúc ăn nằm với Liên-bang Xô-viết, điều này chứng tỏ tinh thần Nga vẫn còn sống ở bên dưới lớp băng là kỷ luật Đảng.
Như một đứa con của Hà-nội, từ lâu, tôi vẫn cố tìm cho được cái tình yêu riêng tư, nổi loạn, ngay trong lúc ăn nằm với chế độ toàn trị, của cái gọi là "tinh thần Hà-nội."

Sau này tôi thấy ở hai người, Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà.

G. Steiner nhận xét về tác phẩm đã một thời làm say mê cả một Miền Nam Việt Nam - như một tác phẩm chống Cộng: Do ở xa nước Nga, Ruhle đã "không nhận ra, thế giới, hình ảnh, cảm nghĩ của đôi tình nhân Lara-Zhivago đối với thế hệ trẻ hơn họ. Chính đám cầm quyền, đám già đã sợ hãi cuốn sách, và tìm đủ mọi cách để cho nó im luôn." Và ông "tự hỏi, không biết những người trẻ tuổi có tìm ra được một điều gì trong Bác sĩ Zhivago (6), nhưng chắc họ chỉ coi đây là một câu chuyện thần tiên làm mủi lòng độc giả hay một mẩu giả tưởng về lịch sử, xa xưa như Anna Karerina."
Nhưng quan trọng hơn hết, Steiner cho rằng, "người ta không thể nào nhìn ra tác phẩm (Bác sĩ Zhivago) thường xuyên tự mâu thuẫn, mang tính suy tư và tản mạn này, nếu không nhận ra một điều: tác giả của nó đã đắm đuối chết chìm trong những đau thương và hoài vọng về cách mạng Nga. Trong nhiều chiều hướng, cuốn tiểu thuyết là một biện minh, một cái cớ cho cách mạng: một cuộc cách mạng hướng nội, toàn diện hơn cả cuộc cách mạng đưa đến xã hội Xô-viết."
Đọc những nhà văn thuộc dòng "phản kháng" ("ly khai" đúng hơn, theo tôi) ở trong nước như Dương Thu Hương chẳng hạn (7), họ cố vẽ ra một cuộc cách mạng tưởng tượng như thế, khi chống Đảng, nhưng vẫn tin vào chủ nghĩa Cộng-sản.
Ở Vũ Thư Hiên, trong Đêm Giữa Ban Ngày, có vẻ như ông vẫn đắm đuối trong những đau thương và hoài vọng như vậy.
Ở Lê Minh Hà, không.
Bà như muốn một điều khác. Trong tập truyện đầu tay, Trăng Góa (nhà xuất bản Thanh Văn, 1998), người ta đã nhận ra một giọng nói, tuy mệt mỏi, chán chường - thí dụ giọng nói của vầng trăng goá, tự nhủ lòng mình, lần này lấy chồng, sự thực là kiếm cha cho đứa nhỏ - nhưng không thể bị bẻ gẫy.

Vả chăng có sự khác biệt giữa hai người viết, về tuổi tác, về "gia thế" - người Cộng-sản gọi là lý lịch giai cấp. Với Lê Minh Hà, độc giả chỉ có thể mường tượng ra, qua những nhân vật nữ trong truyện. Còn với Vũ Thư Hiên, chúng ta đều biết thân phụ ông là người thân cận với Hồ Chí Minh, và vụ án chống lại Đảng gia đình ông là nạn nhân, vốn chỉ là thanh trừng lẫn nhau giữa những người Cộng-sản. Nạn nhân của Cộng-sản ở đây là những người Cộng-sản, và vì là nạn nhân, họ tin rằng họ trung thành với chủ nghĩa hơn là những kẻ thắng thế đang nắm quyền.

Hơn nữa, còn khoảng cách giữa hai thế hệ - mà Phạm Thị Hoài tin tưởng vào nó, khi viết về vị thủ lãnh trong bóng tối, Trần Dần. Chính khoảng cách này đã phân chia những người như Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà. Nó cũng đã khiến Phạm Thị Hoài cay đắng chua chát, "dù có rũ bụi tôi cũng không dám làm quen" (8). Ở đây, là vấn đề tầm nhìn. Là vấn đề anh hay tôi có thiết tha với nó hay là không: chủ nghĩa Cộng sản. Hãy bỏ qua những cơ hội chủ nghĩa, với những người Cộng-sản Miền Bắc, tin vào chủ nghĩa là tin vào chiến thắng miền Nam, vào thế tất thắng của chủ nghĩa bách chiến bách thắng.

Với thế hệ đi liền theo sau đó, họ nhìn xa hơn: chiến thắng Miền Nam không biện minh gì hết.

Nếu có, thì là: thắng trận nhục nhã lắm!

Trong bài viết “Phận Lưu Vong”, Brodsky đã nhìn ra thân phận những tên như DQ, “được tự do rồi, thất bại, đừng đổ vạ cho ai”. Thử hỏi, những tên Bắc Kít, nhờ ăn cướp được Miền Nam, có cái cơ may ra khỏi hang Pác Bó, có cái cơ hội nhìn ra thế giới, có tên nào nghĩ mình được…  tự do rồi, và không…  thất bại?
Tên nào cũng thất bại, mỗi tên một kiểu, chẳng có tên nào thành công cả theo Gấu.
Thế là bò về, chui vô lại cái hang, vô Hội Nhà Thổ, Hội Văn Vịt, viết vung vít, loạn cào cào châu chấu.

LMH Case

Brodsky by Tolstaya

Trong bài viết này, Tolstaya có kể về 1 lần trở lại Nga, tới 1 diễn đàn của đám Trẻ, chắc cũng giống như … LMH tham dự buổi nói chuyện với Hà Nội, về Phố vẫn Gió, và bà [Tolstaya] quá sợ hãi, vì cái sự tiếp đón bà, nhưng sau đó, bà hiểu, Moscow dành cho bà sự đón tiếp…  Brodsky, vì bà là... Brodsky với họ, và bởi là vì, bà đã từng gặp Brodsky.
Thú nhất là Tolstaya kể lại lần “tản mạn bên ly cà phê với nhà thơ”, cà phê không có đường, và cả Moscow bực quá, la lên, tại sao lũ Mẽo lại đối xừ tàn tệ với nhà thơ của chúng ta như thế, cả nước Mẽo tư bản mà không có cục đường cho Brodsky của "chúng ông" ư?

Hà, hà!

Người ta, trong có cả Solzhenitsyn, đã từng chê Kinh Cầu, “Một bài thơ hay, lẽ dĩ nhiên Đẹp. Rổn rảng. Nhưng nói cho cùng, cả nước đau khổ, hàng chục triệu con người, và bài thơ thì là về một trường hợp cá nhân, về 1 bà mẹ và đứa con trai… Tôi nói với bà, bổn phận của 1 nhà thơ Nga là viết về những đau khổ của nước Nga, vượt lên khỏi nỗi đau cá nhân, và nói về nỗi đau của cả nước…Bà im lặng, suy nghĩ. Có thể bà không thích tôi nói như thế. Bà quen được thổi. Nhưng, đúng là 1 nhà thơ lớn.”
Trong cuốn Anna Akhmatova, Nhà thơ, nhà tiên tri, 600 trang, “Best Reading of 1994”, theo tờ London Thời Báo, “Best Book of 1994”, theo Publishers Weekly, chương "Khủng Bố Lớn, The Great Terror: 1930-1939", có 1 đoạn viết về cú hồi sinh, lại làm được thơ, tiếp liền sau thời gian câm lặng, vì…  sắp hàng chờ gửi thùng quà cho đứa con trai bị bắt. Anatoly Naiman, thư ký văn học, thời kỳ chót đời của bà, viết về Kinh Cầu:       

The hero of this poetry is the people. Not a larger or smaller plurality of individuals called "the people" for political, nationalist, or other ideological reasons, but the whole people, every single one of whom participates in what is happening on one side or the other. ... What differentiates it from, and thus contrasts it to, even ideal Soviet poetry is the fact that it is personal, thus as profoundly personal. ... The personal attitude is not the rejection of anything; it is an affirmation which is manifest in every word of Requiem. This is what makes Requiem not Soviet poetry, but simply poetry: it could be personal only if it dealt with individuals, their loves, their moods, and their selves in accordance with the officially sanctioned formula of "joys and sorrows.”

Nhân vật của bài thơ này là nhân dân. Không phải lớn hay nhỏ, những nhóm cá nhân được gọi là “nhân dân” vì những lý do chính trị, quốc gia, hay những lý do ý thức hệ khác, mà là trọn nhân dân, mọi cá nhân đơn độc tham dự vô chuyện gì đang xẩy ra ở bên này hoặc ở bên kia… Điều làm cho nó khác đi, hoặc tương phản với nó, ngay cả với cái thứ thơ lý tưởng của nhà nước Xô Viết, là sự kiện này, nó thì riêng tư, rất đỗi riêng tư, một cách rất đỗi sâu đậm.
Một thái độ riêng tư cá nhân như thế không có nghĩa là vứt bỏ bất cứ cái chi chi, nó là xác quyết bật ra từ mọi con chữ của Kinh Cầu. Đó là điều làm cho nó là 1 bài thơ, giản dị như thế, đếch phải thứ thơ nhà nước Xô Viết. Nó chỉ có thể riêng tư như thế, vì nó “deal” với những cá nhân con người, tình yêu, cung cách sống, bản ngã của họ, “niềm vui và nỗi buồn” của họ, bị nhà nước cấm đoán.

Gió Hà Nội trong hồn người xa xứ

Note: LMH có thể nói, là do GCC khám phá ra, trong khi chính những kẻ ra đi từ Miền Bắc, thì lại dè bỉu, “cái Hà mà viết cái gì”, như 1 tay viết mail riêng cho GCC nhận xét, hay như em Y Bọt gì đó, 1 nhà văn trong nước được dịp ra hải ngoại, “viết thua cả học trò của tui”, hình như bà này đã từng phát biểu (1)

Tuy nhiên, khi GCC nhận xét LMH, hồi mới đọc bà, là từ 1 viễn ảnh của tương lai, của 1 miền đất, cùng với nó là thứ văn chương, như con phượng hoàng tái sinh từ tro than, như của lũ Ngụy, sau 1975, không phải thứ văn chương hoài niệm - như cách đọc LMH ở đây - cũng như cách mà đám VC đọc văn chương trước 1975 của Miền Nam, khi cho in lại một số tác phẩm của họ, bằng cách cắt xén, sao cho vừa cái nhìn kiểm duyệt của chúng.
Đây là 1 cách đọc thất bại, với cả hai, những tác phẩm như của LMH, và của Miền Nam trước 1975, theo GCC.
Nhưng, tác giả thất bại, hay tác phẩm, như Phố Vẫn Gió, thất bại?

NQT

Cái sự hồi nhớ quá khứ của 1 xứ Bắc Kít, như trong văn LMH, có gì đó làm nhớ đến hoàn cảnh của Miền Nam, nhớ 1 Miền Nam trước khi bị VC Bắc Kít ăn cướp và sau đó đô hộ.
“Gió từ thời khuất mặt”, rồi “Phố Vẫn Gió”, hai cái tít nói cùng 1 điều.

*
 

The 400th anniversary of the death of Don Quixote’s creator is cause for celebration. Jasper Rees asks why this obsessive old failure has such a hold on our cultural imagination
Jasper Rees | April/May 2016

It’s a story of a mad old man who imagines himself to be a knight errant. On his quests he sees virgins in prostitutes and castles in roadside inns. His adventures have spawned an adjective that describes delusional idealism, typified by the activity of tilting one’s lance and charging at windmills one has mistaken for an army of giants.
For Milan Kundera, the modern era – “and with it the novel”, he adds – is born when Don Quixote rides forth on his nobbly nag Rocinante. “The Adventures of Don Quixote” by Miguel de Cervantes was published in two parts, the first in 1605. By the time the second appeared a decade later, the title’s fame had already spread around Europe and into Spain’s colonies in the Americas. It has since become one of the most influential works in the entire canon of literature. Along with Homer’s “Iliad”, Dante’s “Divine Comedy” and Milton’s “Paradise Lost”, “Don Quixote” is a book that begat multitudes.

And yet unlike all those other masterpieces, its canvas does not usher genuflecting readers into the orbit of lofty gods, or of God himself, or into the presence of the great heroes and heroines. Rather it tells of a simple man who has read too many chivalric romances, inspired by which he prances out on a quest to perform deeds in the heroic style of bygone knights.

This was why Kundera anointed it the first novel. Here for the first time is a whole epic about ordinary human clay, bathetically stripped of all but the most ragged medieval armour. Romance is dead. The protagonist is left to his own devices, his only company the stolid squire Sancho Panza. Together they form obverse halves of the human psyche. Where Quixote is a fantasist who barely feels the deforming blows of his many assailants, Sancho is a dull-witted, earthbound pragmatist. The book is a rambling chronicle of their uproarious misadventures, in which wayward farce eventually makes way for the pathos and redemption of self-knowledge.
Cervantes had made a lifelong study of the folly of heroism. A Spanish marine, he was hospitalised for six months following the Battle of Lepanto, then captured by Barbary pirates and imprisoned in Algiers for five years, where after four failed attempts at escape he was ransomed by his parents. Later he became a tax collector. His writing career was an indifferent tour of tired literary fashions until, past 50, he dispatched his knight into the arid plain of La Mancha to have his romantic illusions slowly peeled away. And all the while Cervantes supplied a running commentary, which is the book’s other priceless invention: the metatextual ironist who discloses the machinery of narrative.
This 900-page brick is not easy reading. But all novelists, whether they like it or not, are creatures of Cervantes, who turned himself into a character in his own fiction four centuries before John Self, the anti-hero of Martin Amis’s “Money”, ran into a shady figure calling himself Martin Amis. “That Cervantes has been a great friend of mine for many years,” boasted Don Quixote of his creator. “His book has some clever ideas; but it sets out to do something and concludes nothing.” The English picaresque novel’s earliest practitioners are unthinkable without him: Fielding, Smollett, Sterne. The story has been repurposed by Chesterton, Kafka, Greene, Borges, Rushdie and so on and on.
This year is all about Shakespeare, who died on 23 April 1616. Smudge out the discrepancy between the Julian and Gregorian calendars and he shares a death day with Cervantes. So, as is right and proper, the Royal Shakespeare Company has found room in the celebrations to stage the doorstopper in a new adaptation by James Fenton. David Threlfall makes his first return to the RSC in the 30 years since he played Smike in the globe-trotting hit “Nicholas Nickleby”. As Sancho Panza there’s Rufus Hound, who made his name playing low-life chancers in “One Man, Two Guvnors” and “Dirty Rotten Scoundrels”.
Quite apart from the novelists, Cervantes, with his self-referencing feints, inspired other art forms to enter into a dialogue with him from the start. “Cardenio”, thought to be a lost play by Shakespeare, was based on a fable from “Don Quixote”. The book has since been made into operas by Telemann, Mendelssohn and Massenet, a sprightly, yearning tone poem by Strauss, and a long-running Broadway musical called “Man of La Mancha”, later filmed with Peter O’Toole. The National Theatre in London staged the book in 1982 with Paul Scofield astride a penny farthing. And then there are the ballets choreographed by Balanchine and Petipa. Alexei Fadeyechev’s latest version of Petipa’s “Don Quixote” for the Bolshoi is currently marking the anniversary in Moscow and will be seen outside Russia later this year. Meanwhile Cervantes’s rackety life is entertainingly toured in William Egginton’s new biographical study, “The Man Who Invented Fiction: How Cervantes Ushered in the Modern World”.
Don Quixote’s name can sometimes occlude his indispensable companion. As the Stranglers once asked, “Whatever happened to…Sancho Panza?” Well, he has tagged along in this eternal afterlife too. In 2002 he was going to be reincarnated as Johnny Depp in Terry Gilliam’s film version. Depp was to play an ad exec who writes a commercial featuring Quixote, only to find himself transplanted back to the 17th century and mistaken by Quixote for his squire.

Gilliam’s quixotic quest to film “Don Quixote” is fast becoming the most famous unshot movie in cinematic history. His 2002 production was undone by a flash flood which irretrievably altered the parched location, while his knight errant Jean Rochefort was invalided out with a doubled herniated disc. Last year Gilliam was all set to saddle up again, only for John Hurt to get pancreatic cancer. There are fresh rumours of a recommencement. Gilliam can take courage from Quixote’s eternal optimism. As he says after being beaten up for the umpteenth time, “Fortune always leaves one door open in disasters to admit a remedy”.

Tribute to Robert Walser
http://www.tanvien.net/Tribute_1/Walser_by_Sebald.html NOTES ON A VOICE: W.G. SEBALD
http://www.tanvien.net/tgtp_02/sebald_tribute.html

Gấu biết đến và tìm đọc Sebald, là do đọc bài viết của Susan Sontag, khen nức nở, thấu “Giời” [Trời, tiếng Bắc Kít]. Bà phán, tưởng thứ khủng long này [nhà văn lớn] tuyệt giống rồi.
Nhưng Gấu khám phá ra 1 Sebald, khác. Với Sontag, là 1 “nhà văn của nhà văn”. Với Gấu, một “tưởng niệm gia” của Lò Thiêu, mà ông không hề mắc mớ, thù hận, hay cảm thấy ân hận, hay phải sám hối.



*

Biển của một thời đã mất
http://www.tanvien.net/Viet/Once_Upon_A_Sea.html

Trân trọng giới thiệu. NQT

Đọc, thì lại nhớ tới lần trở lại Đất Bắc.
Tuy nhiên, không gặp lại thứ hồi ức, phong cảnh này.

http://www.economist.com/news/books-and-arts/21695369-fun-and-philosophy-paris-smokey-and-bandits

Existentialism

Smokey and the bandits
Fun and philosophy in Paris
Mar 26th 2016 | From the print edition

Quán Chùa ở Paris: Khói, Sex, và Hiện Sinh
 
At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails.
 By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.

EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the
Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947. Her companion, Jean-Paul Sartre (pictured) was no looker, but he smoked a mean Gauloise. Life magazine billed their friend, Albert Camus, the “action-packed intellectual”.
Certainly there was action. One evening in Paris, a restaurant punch-up involving Sartre, Camus, de Beauvoir and Arthur Koestler spilled out on to the streets. In New York another novelist, Norman Mailer, drunkenly stabbed his wife at the launch of his abortive campaign to run for mayor on an “Existentialist Party” ticket in 1960. In addition to such excitements, existentialism offered a rationale for the feeling that life is absurd.

Countless adolescents, both young and old, have discovered the joys of angst through the writings of Sartre and his ilk. In her instructive and entertaining study of these thinkers and their hangers-on, Sarah Bakewell, a British biographer, tells how she was drawn as a teenager to Sartre’s “Nausea” because it was described on the cover as “a novel of the alienation of personality and the mystery of being”.
It was over apricot cocktails on the Rue Montparnasse that Sartre and de Beauvoir glimpsed a novel way to explore such mysteries. The year was 1932, and their friend Raymond Aron, a political scientist and philosopher, had just returned from Germany with news of the “phenomenology” of Edmund Husserl and Martin Heidegger. “If you are a phenomenologist,” Aron explained, “you can talk about this cocktail and make philosophy out of it!” The idea was to glean the essence of things by closely observing one’s own experience of them, preferably in mundane settings. Sartre and de Beauvoir set out to do just that.
Drawing on considerable personal knowledge, Sartre delved into “the meaning of the act of smoking”, among other things. Observing the behavioural tics of waiters, he noted that they sometimes seemed to be play-acting at being waiters. This led to labyrinthine reflections on the nature of freedom and authenticity. De Beauvoir’s efforts were more focused. By dissecting female experience of everyday life, she illustrated the ways in which gender is shaped by self-consciousness and social expectations. Ms Bakewell plausibly suggests that de Beauvoir’s pioneering feminist work, “The Second Sex”, was the most broadly influential product of European café philosophy of the period.

When Norman Mailer was asked what existentialism meant to him, he reportedly answered, “Oh, kinda playing things by ear.” Serious existentialists, such as Sartre, earned their label by focusing on a sense of “existence” that is supposedly distinctive of humans. People are uniquely aware of—and typically troubled by—their own state of being, or so the theory goes. Human existence is thus not at all like the existence of brute matter, or, for that matter, like the existence of brutes. People, but not animals, find themselves thrown into the world, as existentialists liked to say. They are forced to make sense of it for themselves and to forge their own identities.

The café philosophers came to regard each other’s existence as particularly troubling. Except for Sartre and de Beauvoir, who remained an intellectually devoted pair until his death in 1980, the main characters in post-war French philosophy drifted apart with varying degrees of drama. So did the German philosophers who inspired them.
Sartre’s embrace of Soviet communism, which he abandoned only to endorse Maoism instead, led Aron to condemn him as “merciless towards the failings of the democracies but ready to tolerate the worst crimes as long as they are committed in the name of the proper doctrines”. Ms Bakewell credits the existentialist movement, broadly defined, with providing inspiration to feminism, gay rights, anti-racism, anti-colonialism and other radical causes. A few cocktails can, it seems, lead to unexpected things.

China
Chronicle of a death foretold
Why China must adapt or die
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21695373-why-china-must-adapt-or-die-chronicle-death-foretold
Thích ứng hay ngỏm: Ký sự về 1 cái chết được báo trước
Anh Tẫu mà chết thì VC chết theo, thành ra báo này đếch cần viết về xứ Mít!

In the end, Mr Shambaugh cannot decide whether the coming crackup will be led by the party or the people. Early in the book he notes that the major determinant of China’s future lies with its leadership and their choices. The party, in other words, commands its own destiny. But he also lists a catalogue of credible threats from within society, including tensions over pensions, health care and the environment: “At some point, some—or several—of the elements…will ‘snap’,” he reckons. Hong Kong, Tibet and the far western province of Xinjiang are all tinderboxes, with the fuses already burning.

This sweep is both the book’s strength and weakness: by Mr Shambaugh’s telling, China’s problems are so many, various and deep that it does indeed seem impossible that the Communist Party can survive. Yet it raises the opposite question too: what, then, has held such an improbable regime together for so long?

Phải chết thôi, nhưng sao.... lâu thế?
Ai mần cú ân huệ, Đảng hay là Nhân Dân?

Sách & Báo Mới

Disaster
Tai Ương Thảm Họa

There’s nothing like a jolly good disaster to get people to start doing something
Charles, Prince of Wales, 2014

I think we are in-exterminable, like flies and bedbugs
Robert Frost, 1959
Câu này áp dụng vô VC quá tuyệt.
Chúng nghĩ chúng như ruồi, như rệp, vô phương diệt tuyệt!
Nhưng, với Frost, chúng ta là nhân loại
Đúng là THNM, tưởng chỉ VC!
Sợ thế!

1978: Turin

WORDS OF CAUTION
Since the anguish of each belongs to us all
We're still living yours, scrawny little girl
Clinging convulsively to your mother
As if you wanted to get back inside her
When the sky went black that afternoon.
To no avail, because the sky, turned poison,
Infiltrated the shut windows of your quiet
House with its thick walls to find you
Happy before in your song and timid laughter.
The centuries have passed, the ash has turned to stone,
Locking in these gentle limbs forever.
So you stay with us, contorted plaster cast,
Endless agony, horrific witness
To how our proud seed matters to the gods.
But there's nothing left for us of your faraway sister,
The girl from Holland walled up in four walls
Who wrote about her childhood without a tomorrow:
Her quiet ashes have been spread by the wind,
Her brieflife held inside a crumpled notebook.
Nothing's left of the Hiroshima schoolgirl,
Shadow transfixed on the wall by the light of a thousand suns,
Victim sacrificed on the altar of fear.
Masters of the earth, lords of new poisons,
Sad secret guardians of definitive thunder,
The afflictions heaven offers us are sufficient.
Stop and consider before you push the button.

Primo Levi, "The Girl of Pompeii. "Arrested for his involvement with Italian partisans during World War II, Levi was sent to Auschwitz, where he worked in a synthetic-rubber factory that used prisoners for slave labor. Soviet troops liberated the camp eleven months after Levi's arrival, and he made his way home to Turin by foot and by train. He published If This Is a Man in 1947 and The Periodic Table in 1975. "If I hadn't had the experience of Auschwitz," Levi said, "I probably would not have written anything. "

1960: Buenos Aires
ACTS OF MAN

The images in dreams, wrote Coleridge, figure forth the impressions that our intellect would call causes; we do not feel horror because we are haunted by a sphinx, we dream a sphinx in order to explain the horror that we feel. If that is true, how might a mere chronicling of its forms transmit the stupor, the exultation, the alarms, the dread, and the joy that wove together that night's dream? I shall attempt that chronicle, nonetheless; perhaps the fact that the dream consisted of but a single scene may erase or soften the essential difficulty. The place was the College of Philosophy and Letters; the hour, nightfall. Everything (as is often the case in dreams) was slightly different; a slight magnification altered things. We chose authorities; I would speak with Pedro Henriquez Urena, who in waking life had died many years before. Suddenly, we were dumbfounded by a great noise of demonstrators or street musicians. From the Underworld, we heard the cries of humans and animals. A voice cried: Here they come! And then: The gods! The gods! Four or five individuals emerged from out of the mob and occupied the dais of the auditorium. Everyone applauded, weeping; it was the gods, returning after a banishment of many centuries. Looming larger than life as they stood upon the dais, their heads thrown back and their chests thrust forward, they haughtily received our homage. One of them was holding a branch (which belonged, no doubt, to the simple botany of dreams); another, with a sweeping gesture, held out a hand that was a claw; one of Janus' faces looked mistrustfully at Thoth's curved beak. Perhaps excited by our applause, one of them, I no longer remember which, burst out in a triumphant, incredibly bitter clucking that was half gargle and half whistle. From that point on, things changed. It all began with the suspicion (perhaps exaggerated) that the gods were unable to talk. Centuries of a feral life of flight had atrophied that part of them that was human; the moon of Islam and the cross of Rome had been implacable with these fugitives. Beetling brows, yellowed teeth, the sparse beard of a mulatto or a Chinaman, and beastlike dewlaps were testaments to the degeneration of the Olympian line. The clothes they wore were not those of a decorous and honest poverty, but rather of the criminal luxury of the Underworld's gambling dens and houses of ill repute. A carnation bled from a buttonhole; under a tight suit coat one could discern the outline of a knife. Suddenly, we felt that they were playing their last trump, that they were cunning, ignorant, and cruel, like aged predators, and that if we allowed ourselves to be swayed by fear or pity, they would wind up destroying us. We drew our heavy revolvers (suddenly in the dream there were revolvers) and exultantly killed the gods.

Jorge Luis Borges,
"Ragnarol:" Born in 1899, Borges lived in Europe during World War I before returning to his native Argentina. In Scandinavian mythology, Raynaroi: is the doom of the gods, the event that precipitates the end of the cosmos, and it includes a battle between Thor and the sea serpent Midgarthormr. 'Its inconceivable shadow will loom/high above the pale world on the day/of high wolves and splendid agony/of a twilight without name," wrote Borges in his poem ''Midgarthormr.'' "Toward dawn I saw it all in nightmare." He died in 1986 at the age of eighty-six.

Thư Ðông Kinh: Lịch Sử Lập Lại
http://www.tanvien.net/Al/Japan_Crisis_2.html


Cũng chỉ là tình cờ, cơ may đúng hơn, trước khi xẩy ra trận động đất 1 ngày, tôi viết 1 bài cho tờ Asahi Shimbun, ấn bản buổi sáng. Về 1 ngư phủ cùng thế hệ với tôi, nhiễm phóng sạ vào năm 1954 trong lần thử bom tại Bikini Atoll. Tôi nghe nói tới anh lần đầu khi tôi 19. Trong suốt cuộc đời sau đó, anh dành nó vào việc tố cáo con ngáo ộp nguyên tử, [huyền thoại răn đe hạt nhân], và sự ngạo mạn của những kẻ bợ đít nó. Liệu đây là 1 thứ thần giao cách cảm, hay 1 điềm báo u ám  khiến tôi nhớ tới anh ta, trước khi tai họa xẩy ra?
Anh ta còn chiến đấu chống những chương trình điện hạt nhân và cùng với chúng là những hiểm họa.
Tôi cũng đã từ lâu trầm tư về lịch sử nước Nhật qua lăng kính của ba loại người: những người đã chết ở Hiroshima và Nagasaki, những người nhiễm phóng sạ trong vụ thử bom Bikini, và những nạn nhân của những tai nạn tại những cơ sở, nhà máy hạt nhân. Nếu bạn nhìn lịch sử nước Nhật qua lăng kính trên, thì bi kịch trên thật là hiển nhiên, tự nói nói ra, tự nó tố cáo nó. Bây giờ, vào những ngày này, hiểm nguy nhà máy nguyên tử đã trở thành thực tại. Cho dù diễn biến thảm họa cũng sẽ phải chấm dứt - và tôi thực sự cầu mong, và kính trọng nỗ lực của nhân loại hầu có được kết quả này, nghĩa là ngăn chặn được thảm họa đừng để nó phát sinh thêm những hậu quả nghiêm trọng - cho dù vậy, thì ý nghĩa của thảm họa vẫn có chi mù mờ, không làm sao vạch trần ra được: Lịch sử nước Nhựt Bổn đi vô một “pha” mới , và một lần nữa, chúng ta phải nhìn sự vật qua con mắt của những nạn nhân của điện hạt nhân, của những đàn ông, đàn bà chứng tỏ sự can đảm của họ qua đau khổ. Bài học mà chúng ta có được từ thảm họa hiện thời sẽ tùy thuộc, hoặc, những kẻ sống sót nó, chọn lựa, đừng lập lại lỗi lầm, hoặc, kệ cha nó, cứ lầm tiếp.
Tai họa này đã kết hợp thành một, theo một đường lối thật bi thảm, hai hiện tượng: cái sự hơi quá bị nhạy cảm với động đất của nước Nhật, và hiểm họa do năng lượng hạt nhân gây ra. Cái đầu thì từ thưở khai thiên lập địa của đất nước này đã có rồi. Cái thứ nhì, đến bi giờ người dân Nhật mới nhận ra, nó còn khủng khiếp hơn nhiều so với động đất và sóng thần, và thê thảm hơn, vì đây là tác phẩm của con người!

Nhựt Bổn học được gì, từ thảm kịch Hiroshima?

Một trong những nhà tư tưởng gia đương thời số một của Nhựt, Suichi Kato, mất năm 2008, nói về bom nguyên tử và lò hạt nhân, đã nhớ lại một dòng từ tác phẩm “The Pillow Book” [cuốn sách gối đầu], được viết ra cách đây 1 ngàn năm, bởi một người đàn bà, Sei Shonagon, qua đó, tác giả gợi ra ‘một điều gì có vẻ thật xa, nhưng sự thực, rất ư là gần”. Thảm họa hạt nhân, có vẻ như là thật là xa vời, chưa chắc, chưa hẳn là sẽ xẩy ra, nhưng than ôi, cái viễn cảnh của nó thì lại luôn luôn ở với chúng ta, trên từng cây số! Nhật bổn đúng ra là không nên nghĩ tới năng lượng hạt nhân, theo cái kiểu, trong cái dòng, đây là một thứ sản xuất kỹ nghệ. Họ không nên diễn dịch ra từ thảm kịch Hiroshima, một hệ luận: nó là một ‘recipe’ [đơn thuốc], cho phát triển. Như động đất, sóng thần, và những thiên tai khác, kinh nghiệm Hiroshima phải được khắc sâu, bằng acít, vào hồi ức của nhân loại.
Nó khủng nhất, bởi vì là do con người làm ra, mấy thứ kia, là do ông Trời cà chớn!
Cái kiểu lập lại lỗi lầm, bằng cách trưng bày nó, qua sự xây dựng những lò nguyên tử, cái kiểu coi thường mạng người như thế, là một sự phản bội rất ư là khốn kiếp, hồi ức của những nạn nhân Hiroshima.

[còn tiếp]

Kenzaburo Oe

Kẻ nào, trong số hậu duệ của chúng ta sẽ giải ra được nghi án thê lương sau đây:
Sau khi con người biết ánh sáng, nó lại quay lại sờ soạng trong bóng tối?

To retell a life you need an entire life.
TATYANA TOLSTAYA: Uncovering the bones of a grandmother’s past.
[Để kể lại một đời, bạn cần cả một đời]

Tribute to Robert Walser
http://www.tanvien.net/Tribute_1/Walser_by_Sebald.html
NOTES ON A VOICE: W.G. SEBALD
http://www.tanvien.net/tgtp_02/sebald_tribute.html

Gấu biết đến và tìm đọc Sebald, là do đọc bài viết của Susan Sontag, khen nức nở, thấu “Giời” [Trời, tiếng Bắc Kít]. Bà phán, tưởng thứ khủng long này [nhà văn lớn] tuyệt giống rồi.
Nhưng Gấu khám phá ra 1 Sebald, khác. Với Sontag, là 1 “nhà văn của nhà văn”. Với Gấu, một “tưởng niệm gia” của Lò Thiêu, mà ông không hề mắc mớ, thù hận, hay cảm thấy ân hận, hay phải sám hối.



*  

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/7215766427116781
*
 
1966

Existentialism
Smokey and the bandits
Fun and philosophy in Paris
Mar 26th 2016 | From the print edition

    http://www.economist.com/news/books-and-arts/21695369-fun-and-philosophy-paris-smokey-and-bandits

At the Existentialist Café: Freedom, Being and Apricot Cocktails. By Sarah Bakewell. Other Press; 439 pages; $25. Chatto & Windus; £16.99.

EXISTENTIALISM is the only philosophy that anyone would even think of calling sexy. Black clothes, “free love”, late nights of smoky jazz—these were a few of intellectuals’ favourite things in Paris after the city’s liberation in 1944.
In this section

    Growing up
    Smokey and the bandits
    Chronicle of a death foretold
    Far and wide
    Noam Chomsky

Reprints

Simone de Beauvoir was “the prettiest Existentialist you ever saw”, according to the New Yorker in 1947. Her companion, Jean-Paul Sartre (pictured) was no looker, but he smoked a mean Gauloise. Life magazine billed their friend, Albert Camus, the “action-packed intellectual”.

Certainly there was action. One evening in Paris, a restaurant punch-up involving Sartre, Camus, de Beauvoir and Arthur Koestler spilled out on to the streets. In New York another novelist, Norman Mailer, drunkenly stabbed his wife at the launch of his abortive campaign to run for mayor on an “Existentialist Party” ticket in 1960. In addition to such excitements, existentialism offered a rationale for the feeling that life is absurd.

Countless adolescents, both young and old, have discovered the joys of angst through the writings of Sartre and his ilk. In her instructive and entertaining study of these thinkers and their hangers-on, Sarah Bakewell, a British biographer, tells how she was drawn as a teenager to Sartre’s “Nausea” because it was described on the cover as “a novel of the alienation of personality and the mystery of being”.

It was over apricot cocktails on the Rue Montparnasse that Sartre and de Beauvoir glimpsed a novel way to explore such mysteries. The year was 1932, and their friend Raymond Aron, a political scientist and philosopher, had just returned from Germany with news of the “phenomenology” of Edmund Husserl and Martin Heidegger. “If you are a phenomenologist,” Aron explained, “you can talk about this cocktail and make philosophy out of it!” The idea was to glean the essence of things by closely observing one’s own experience of them, preferably in mundane settings. Sartre and de Beauvoir set out to do just that.

Drawing on considerable personal knowledge, Sartre delved into “the meaning of the act of smoking”, among other things. Observing the behavioural tics of waiters, he noted that they sometimes seemed to be play-acting at being waiters. This led to labyrinthine reflections on the nature of freedom and authenticity. De Beauvoir’s efforts were more focused. By dissecting female experience of everyday life, she illustrated the ways in which gender is shaped by self-consciousness and social expectations. Ms Bakewell plausibly suggests that de Beauvoir’s pioneering feminist work, “The Second Sex”, was the most broadly influential product of European café philosophy of the period.

When Norman Mailer was asked what existentialism meant to him, he reportedly answered, “Oh, kinda playing things by ear.” Serious existentialists, such as Sartre, earned their label by focusing on a sense of “existence” that is supposedly distinctive of humans. People are uniquely aware of—and typically troubled by—their own state of being, or so the theory goes. Human existence is thus not at all like the existence of brute matter, or, for that matter, like the existence of brutes. People, but not animals, find themselves thrown into the world, as existentialists liked to say. They are forced to make sense of it for themselves and to forge their own identities.

The café philosophers came to regard each other’s existence as particularly troubling. Except for Sartre and de Beauvoir, who remained an intellectually devoted pair until his death in 1980, the main characters in post-war French philosophy drifted apart with varying degrees of drama. So did the German philosophers who inspired them.

Sartre’s embrace of Soviet communism, which he abandoned only to endorse Maoism instead, led Aron to condemn him as “merciless towards the failings of the democracies but ready to tolerate the worst crimes as long as they are committed in the name of the proper doctrines”. Ms Bakewell credits the existentialist movement, broadly defined, with providing inspiration to feminism, gay rights, anti-racism, anti-colonialism and other radical causes. A few cocktails can, it seems, lead to unexpected things.


Note: Cái này, nhân ngày 8/3 tặng phu nhân Cớm VC & HPNT thì thật tuyệt

Epigram

Here the loveliest of young women fight
for the honor of marrying the hangmen;
here the righteous are tortured at night
and the resolute worn down by hunger. 

(1928)
Robert Chandler
Anna Akhmatova

Đây là trận đấu đáng yêu nhất của những bà nội trợ trẻ
Cho niềm vinh dự có ông chồng là đao phủ
Đây là kẻ trung trực bị tra tấn hàng đêm
Và sự kiên quyết tả tơi, bởi cơn đói

Cái này, thì tặng Gấu Cái

*

Granta 100

Ta sẽ nhớ mi vô cùng khi ta ngỏm
Đáng yêu nhất của những nụ cuời
Mềm mại nhất ở trên giường khi cả hai còn trẻ
Quách Tường của ta ơi
Hãy nhớ rằng khi ta ngỏm rồi
Th
ì mi vưỡn sống mãi mãi trong tim trong đầu của ta

Đại Lục Kim Dung

Quách Tường tiểu muội

Bài này, cũng nhờ đầu tháng mà lòi ra.
QT là…  nick của Gấu Cái, khi viết cho 1 tờ báo địa phương, đúng bài viết vào dịp 30 Tháng Tư 1975, năm đầu tiên qua Xứ Lạnh.
Sau Gấu chôm, đưa vô “Tự Truyện”, và là cái thư gửi Cô Út.
Bài viết của Huỳnh Ngọc Chiến, tuyệt, nhưng theo Gấu, chưa tới, chưa hết được cái đẹp của "nhân vật" này.

Áo Dài

*

*

Đồ lạc xon, nhưng OK lắm. Từ từ tính

  Playboy Nu

Đinh Cường Tribute 

Cali 2012 With H/A

Tribute to Robert Walser

Viết mỗi ngày
Quoc Tru Nguyen updated his profile picture.
Quoc Tru Nguyen's photo.
Tuyet Nguyen Ảnh lúc trẻ trông phong nhã, lúc có tuổi sao (viết) dữ quá vậy hở bác/bạn Quoc Tru Nguyen.
Bạn Ngô Nhật Đăng, viết đanh đá, hình hiền khô.
Bạn Lờ Mờ Hờ, nữ văn sĩ “Gió Thời Không Mặt”, khi mới đọc, sao văn hiền khô, khác hẳn mấy ông kia!
My Sad Seagull, "nhân hậu & cảm động"!
Tks all
NQT

Saigon ngày nào của GCC







Bầu cử Mỹ tạo cảm hứng cho người Việt ‘mơ’

Một bạn đọc tên Nguyễn Thanh Bình viết trên trang Facebook của VOA tiếng Việt: “Tôi mơ tới ngày tôi được cầm lá phiếu bầu trực tiếp. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi sẽ chọn (tự tôi chọn, không nhờ hay ủy quyền cho ai cả) một trong hai, ba hay nhiều vị mà tôi cho là người tốt nhất theo kỳ vọng của tôi”.

http://www.voatiengviet.com/content/bau-cu-my-tao-cam-hung-cho-nguoi-viet/3217739.html

Ui chao, cái ước mơ này, dân Miền Nam đã từng “biến thành hiện thực”, rồi.
Trần Công Quốc, 1 trong 7 ông bạn thân của Gấu, thi rớt Tú Tài 2, nhân hải quân mở trường huấn luyện sĩ quan ở Nha Trang, điều kiện Tú Tài 1, bèn nạp đơn.
Ra trường, là thuyền trưởng 1 chiến thuyền tuần tiễu trên sông rạch; một bữa, bị thuỷ lôi VC bắn trúng. Viên đạn đục 1 lỗ to tổ bố, rồi tới nằm ngay dưới chân anh, không nổ.
Thoát chết, sợ quá, anh ứng cử dân biểu, như trong nước bây giờ đang bày trò, và bị Đảng VC tìm đủ mọi cách ngăn cản.
Và để kiếm phiếu, anh đi đến từng nhà trong khu vực, xin.
Trúng cử!
Gấu viết ra đây, như 1 kỷ niệm về 1 người bạn. Anh, sau vượt biển, mất tích.
Và, còn như 1 kinh nghiệm gửi tới những vị đang tự ứng cử.
Hãy làm như bạn Quốc, của GCC.

Cũng vô ích mà thôi, vì VC không bao giờ thí cho người dân bất cứ 1 cái gì, (1), nhưng vô ích thì vô ích, vẫn phải làm.
Ý nghĩa của cuộc sống, với những những người đang tự ứng cử, đúng hơn, bổn phận của họ, là làm điều vô ích, nhưng vô cùng ý nghĩa, như vậy, theo GCC.

(1)

Để chống lại chủ nghĩa toàn trị, bạn chỉ cần nhớ, có mỗi một điều này: Chủ nghĩa toàn trị nhất quyết không thí cho bạn một tí tự do nào.
Hannah Arendt: Về bản chất của chủ nghĩa toàn trị
In order to fight totalitarianism, one need understand only one thing: Totalitarianism is the most radical denial of freedom. 


Last Page

*

March 1, 2016 cc 10 AM
Toronto đang hứng bão. Subway ngưng chạy
GCC đi tham quan bão và bệ về cuốn sau đây, mới ra lò: Tò Mò

*

Tay này, là Thầy Đọc của GCC.
 Biết qua NTV, qua cuốn Lịch Sử Đọc.
Cũng dân Canada

Đọc Thế Nào và Tại Sao

"The limits of interpretaion coincide with the rights of the text".
[Chở bao nhiêu đạo: Đọc tới đâu, nghĩa tới đó]
Umberto Eco
"One reads in order to ask questions"
[Đọc để hỏi]
Kafka

"Ngồi trên máy mà tưởng mình đang ngồi giữa thư viện bao la, sách cao chất ngất, thơ thẩn bay như bươm bướm, chữ nghĩa muôn màu nhấp nháy hoa cả mắt, không biết nên giở cuốn nào trước, cuốn nào sau, nên đọc sách nghiên cứu, sách phê bình, truyện ngắn, truyện dài, điểm sách, tin tức, thời sự..."

dlk [Thư bạn đọc]

Ernst Pawel, ở cuối cuốn tiểu sử Kafka của ông, viết năm 1984, nhận xét "văn học bàn đến Kafka và tác phẩm của ông vào lúc này đã có cỡ chừng 15 ngàn bài viết, chỉ trong số những ngôn ngữ được sử dụng nhiều trên thế giới". Kafka đã được đọc, bằng đủ thứ kiểu: văn học, ám dụ, chính trị, tâm lý.... Những cách đọc như thế, vẫn là thiểu số, so với con số những bản văn, đưa tới một phát giác rất ư là kỳ cục của chuyện đọc sách, rằng, cùng một bản văn, mà, có người đọc thì cười, có người thì chán. Con gái tôi, là Rachel, đọc Hoá Thân vào năm nó 13 tuổi, và thấy "tếu lâm" [humorous]; Gustav Janouch, bạn Kafka, coi đây là một ngụ ngôn tông giáo, đạo hạnh. Bertold Brecht đọc nó như là một tác phẩm "của một nhà văn Bôn sê vích thứ thiệt". Nhà lý luận Mác xít người Hung, G. Lukacs, thì lại coi đây đúng là sản phẩm suy đồi của một tên trưởng giả. Borges đọc nó như là một cách kể lại [retelling] những nghịch lý Zeno. Nhà phê bình người Pháp, Marthe Robert coi đây là một thí dụ về tính trong sáng bậc nhất của ngôn ngữ Đức. Những câu chuyện kể của Kafka, được nuôi dưỡng bởi kinh nghiệm đọc của ông, dâng hiến, và lấy đi, cùng một lúc, toan tính đọc để hiểu, tức ảo tưởng hiểu, nắm được ý nghĩa của bản văn, như thể, những bản văn của Kafka đó, chúng giống như những bản nháp, của một nhà văn tên là Kafka, nhằm thoả mãn một người đọc tên là Kafka.

Alberto Manguel: Một lịch sử về chuyện đọc sách [A history of reading]

*

Steiner khen cuốn sách của Manguel: Một lá tình thư viết về đọc:
A love letter written to reading.

Bản thân tác giả, Manguel, cũng choàng hoa cho tác phẩm của mình bằng những đề từ.

TO THE READER

Reading has a history.
ROBERT DARNTON
The Kiss of Lamourette, 1990

For the desire to read, like all the other desires which
distract our unhappy souls, is capable of analysis.

VIRGINIA WOOLF
"Sir Thomas Browne", 1923

Bởi vì uớc muốn đọc, như mọi ước muốn nhằm giải trí những tâm hồn bất hạnh, nó có thể phân tích.

But who shall be the master? The writer or the reader?
DENIS DIDEROT
Jaques le Fataliste et son maitre, 1796

Nhưng ai sẽ là sư phụ? Tác giả hay độc giả?
Denis Diderot


Nhưng làm sao đọc, và hiểu, một bản văn, nếu trang đầu bị mất?

Độc giả mê Kim Dung chắc còn nhớ, Hồ Đao gia pháp, do bị mất ba trang đầu, nên Hồ Phi không làm sao hiểu nổi tinh tuý của đao pháp, tức những trang sau. Còn cái tay vớ được chỉ có ba trang mào đầu, sau nổi tiếng võ lâm, chỉ với mấy thế võ quèn.
Cũng thế, môn Càn Khôn Đại Nã Di, Vô Kỵ học hết, mà vẫn không địch nổi mấy tay từ Thiên Trúc tới, chỉ sử dụng mấy đòn mở đầu Càn Khôn, là mấy chữ khắc trên Thánh Hoả Lệnh. Chính vì vậy, mà có người cho rằng, chỉ đọc nhiều lắm là ba cuốn sách, là đủ. Đọc nữa, loạn!
Chương Thiếu Trang Đầu, The Missing First Page, của cuốn sách Lịch Sử Đọc, của Manguel, mở ra bằng một câu chuyện sau đây:
Vào năm học cuối tại trường trung học Colegio Nacional de Buenos Aires, một ông thầy đọc cho chúng tôi nghe câu chuyện sau đây:
Điều mà những ẩn dụ tính nói cho chúng ta, là, cái không thể hiểu là không thể hiểu, và điều này thì ai cũng biết. Nhưng những vấn đề mà chúng ta phải chiến đấu với, trong mỗi ngày, thì là một chuyện khác hẳn. Về đề tài này, một lần, có một người nói, "Tại sao mà cù lần như vậy? Chỉ cần là, nếu bạn theo [followed] những ẩn dụ, một ngày nào đó, chính bạn trở thành những ẩn dụ và, bằng cách đó, bạn giải quyết được tất cả những vấn đề của mỗi ngày của bạn."
Một người khác nói: "Tôi đoán rằng, đây cũng là một ẩn dụ".
Người thứ nhất nói: "Anh thắng"
Người thứ nhì nói: "Nhưng than ôi, chỉ ẩn dụ mà thôi".
Người thứ nhất nói: "Không, trong đời thực. Nếu là ẩn dụ, thì anh thua."
[No, in real life. Allegorically, you have lost].
Câu chuyện trên, là của Kafka, viết tại Prague, vào năm 1922, hai năm trước khi mất. Và 45 năm sau, làm cả đám học sinh chúng tôi ngất ngư, và đều có cảm tưởng là, bất cứ một giải thích, kết luận nào, rằng "ta" đã "hiểu" Kafka, hay những ẩn dụ của ông, thì đều là... bố láo hết!

*

Trang đầu mất
Alberto Manguel: A History of Reading

Cuộc gặp gỡ lần đầu, tại Thương Gia Bảo, giữa Miêu Nhược Lan, khi còn là đứa bé, và Hồ Phi, là thằng con nít, đi theo Bình A Thúc, là tên chạy bàn ngày nào, tại khách điếm xẩy ra trận đấu giữa MNP và bố Hồ Phi, là Hồ Nhất Đao, quả là cuộc gặp định mệnh. Tên thầy lang Diêm Cơ ngày nào giờ trở thành tướng cướp, nhờ học võ công ba trang đầu Hồ Gia Đao Pháp mà giương oai thiên hạ. MNP ẵm con chạy theo vợ và nhân tình của vợ, nài nỉ vợ cho con bú lần chót, bà vợ tính bế con, nựng vài phát, rồi vạch vú cho bú, nhưng nghĩ sao quay mặt bỏ đi. Hồ Phi nóng máu bèn chạy tới mắng, mẹ gì thứ mi, cô bé con đang khóc, vậy mà nhận ra thằng khốn này sau này sẽ là chồng của ta, và…  ta hứa với mi, sẽ không giống mẹ ta!

Bình A Thúc mượn oai MNP bèn nói nhỏ vô tai Diêm Cơ, trả ta ba trang đầu, nếu không ta “mét” MNP.
Nhờ có lại ba trang đầu, Hồ Phi bắt đầu tập luyện Hồ Gia Đao Pháp... cho đến cuộc gặp gỡ thứ nhì, cũng tại Thương Gia Bảo, giữa Hồ Phi và quần hùng, trong có Thiên Thủ Như Lai Triệu Bán Sơn, người của Hồng Hoa Hội, nổi danh giang hồ vì sử dụng ám khí, trong số đó, có cây boomerang, lấy đầu thiên hạ, rồi lại trở về với chủ…. Cuộc gặp gỡ sau mở ra cuộc đời hành hiệp của Hồ Phi, mở ra cuộc tình với ni cô áo tím, với nữ đệ tử của Vua Độc, là Trình Linh Tố…. và sau cùng, quần hùng cùng gặp nhau ở ngôi mộ của nàng công chúa đất Hồi, người yêu của bang chủ Hồng Hoa Hội, bị vua Càn Long chôm mất. Càn Long, vua Mãn Thanh, và bang chủ Hồng Hoa Hội, lại là anh em ruột thịt, và đều là người Hán…

Hãy tin tưởng Manguel.... Ông ta chứng tỏ, không giản dị, là tay dẫn đường đáng tin cậy, nhưng mà là, tay số 1, ở bên ngoài Tầng Đầu Địa Ngục.
Tờ Điểm Sách Uc khen cuốn mới ra lò của Manguel

Tân Định Đa Kao

Ngã tư Hai Bà Trưng-Phan Thanh Giản

My Tân Định

Thơ Mỗi Ngày

1 Year Ago Today

Tháng Mấy

gửi một người không quen…

Tháng Mấy rồi, Em có biết?
tấm lịch sắp đi vào ngõ cụt
ngày không còn dông dài nói chuyện cũ
hàng cây thưa lá cho nắng và gió tự do bông đùa
chiếc xe em về đậu mỗi chiều
con đường dầy thêm với lá
rung rúc còi tàu không tìm được sân ga
những ngôi nhà nhả khói
và đêm về thắp đèn
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
chạy luống cuống những buổi sáng muộn
ngày se lạnh no tròn hạt sương sớm
đọng trên mái tóc
nụ hôn sâu trong đêm
những đổ vỡ chảy dài theo cuốn lịch
mất tích
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
con sông ngưng chảy
nheo mắt qua những xa lộ
nhịp thở chậm

Rồi buổi chiều cuối năm sẽ đến
ai bấm chuông cửa vào giữa đêm
tuyết chắc chắn sẽ rơi
và trời sẽ lạnh vô cùng

Tháng Mấy rồi sẽ qua

Vẫn còn một người đợi em

Đài Sử

Trích Gió O

Note: Vậy mà GCC chẳng biết 1 tí gì hết.
Bữa đọc báo Xuân Gió O, nghi nghi, nhưng không tiện hỏi

Chúc Mừng. Ít ra phải vậy.
Tks God

NQT

 

hai bạn văn hỏi thăm ông con trai ông Thanh Tâm Tuyền:

 

On Tuesday, February 23, 2016 6:53 AM, @yahoo.com> wrote:

 

Chị Huệ ơi

Cho em hỏi, nhà thơ Đài Sử, con trai Thanh Tâm Tuyền, tên thật là Tuệ phải không chị ? Chỉ biết là con TTT, nhưng không sure lắm về tên thật ...

2016-02-04 10:20 GMT-08:00 >:

Trông DQT giống Bố Thanh Tâm Tuyền như đúc.  …. Không biết DQT là con trai thứ mấy cuả TTT. Trong tù TTT chỉ cho biết đứa con trai út sinh không lâu trước 30/4/75 TTT đặt tên là TỪ " vì thấy cuộc đời quá nhiều cái ÁC". Còn người con trai vượt biển mất tích là đứa con trai đầu? Nói với DQT. chú ... gửi lời chúc Tết gia đình cháu...



Thơ trí tuệ vs Thơ tình cảm

Note: Lèm bèm về thơ trí tuệ mà bỏ qua sư phụ Heidegger, là nhảm, đại nhảm!

The Thinker as Poet
Heidegger

Tư tưởng gia như Nhà thơ
Được scan và sắp xếp, chấm, phết, xuống dòng
như trong bản in.

Note: Đúng là thơ của triết gia!

In thinking all things
become solitary and slow.
[Trong suy tư mọi vật
trở thành cô đơn và lừ đừ.]
Pain gives of its healing power
where we least expect it.
[Đau thương đem đến sức mạnh chữa trị của nó
Vào đúng lúc chúng ta ít mong chờ nhất]

Nhân tiện, post luôn bài Intro, của Albert Hofstadter, tay biên tập và dịch thuật cuốn Thơ ca, Ngôn ngữ, và Tư tưởng. Ông này, trích dẫn Heidegger: Trong ba hiểm nguy de dọa tư duy trí tuệ; tệ hại nhất, và do đó, lộn xộn nhất, là triết hóa, philosophizing. (1)
Mít gọi là lập ngôn. Thơ trí tuệ, thứ dởm nhất, tởm nhất thì cũng được, là thơ lập ngôn, theo Gấu.
(1)
Three dangers threaten thinking.
The good and thus wholesome
danger is the nighness of the singing
poet.
The evil and thus keenest danger is
thinking itself. It must think
against itself, which it can only
seldom do.
The bad and thus muddled danger
is philosophizing.
*
He who thinks greatly must
err greatly.
[Suy tư l
ớn, lầm lạc lớn]



1 Year Ago Today

Người êu dấu của Gấu

Theo D. Khrams

Trong bức hình thật là OK, chụp bộ mặt của em,
Cặp mắt là hai lỗ châu mai
Không, để Gấu nói lại,
Hai mắt của em thì như hai con ruồi chết đuối trong ly sữa
Hay, như hai tí nhau Draculas!

Thôi, kệ cha cặp em mắt mà lũ Mít chuyên mần thơ tán gái, gọi là cửa sổ của tâm hồn!
Để Gấu nói về miệng của em
Miệng của em thì đúng là căn lều
Nơi chó sói làm thịt bà nội của cô bé quàng khăn đỏ, cháu ngoan Bác Hồ

A, thôi, hãy vờ miệng của em đi
Để Gấu lèm bèm về cặp dzú của em
Lúc này, lúc nọ, con mắt lé của Gấu thường lén nhìn
Chỉ lén 1 tí như thế, mà Gấu xém điên cái đầu!

Thôi, tốt hơn hết, hãy “lói” về cặp cẳng của em.
Khi em đi 1 đường ghé cái xô pha,
Thì chẳng khác gì tên quản giáo mở gói quà
Trong gói quà có cái bánh ngọt
Trong cái bánh ngọt, cái giũa xinh xinh

Nó giũa tên em,
Như giũa cái cùm, quanh cổ Gấu Cà Chớn

Hà, hà!

Charles Simic

Quoc Tru Nguyen's photo.
Note: Post trên FB thời gian ở Lào, không vô Tin Văn được.
Marina Tsvetaeva

* *
   
Marina Tsvetaeva (1892-1941)

Marina Ivanovna Tsvetaeva was born in Moscow. Her mother was a gifted pianist, her father a classicist and the founder of what is now the Pushkin Museum of Fine Arts. Like Pasternak, Tsvetaeva was steeped from childhood in art and music.
    In 1902 Tsvetaeva's mother contracted tuberculosis. In hope of a cure, the family spent most of the next four years abroad.
For a while they lived near Genoa. Frequent moves led to Tsvetaeva learning Italian, French and German. Around this time she gave up the strict musical studies imposed on her by her mother, who died in 1906, and turned to poetry.
    Along with many other writers and artists, Tsvetaeva stayed during subsequent years in the Crimea, at the home in Koktebel of the legendarily hospitable Maximilian Voloshin. There she met the poet Sergey Efron, whom she married in 1912. After the October Revolution, Tsvetaeva remained in Moscow, even though Efron was fighting in the White Army. Tsvetaeva left her younger daughter Irina, aged three, in a state orphanage, hoping they would feed her better than she could herself, but Irina died of starvation. In May 1922 Tsvetaeva and her surviving daughter left Moscow for Berlin, where they were reunited with Efron. In August that year they moved to Prague, then in 1925 to Paris.
    Tsvetaeva remained devoted to Efron, despite her many affairs. The most significant of these were with Osip Mandelstam; with Sofia Parnok; and, in Prague, with Konstantin Rodzevich, who inspired her two great cycles of love poems, Poem of the Mountain and Poem of the End.
    During her fourteen years in Paris, Tsvetaeva grew increasingly isolated. She offended most of the emigre community by praising Mayakovsky; mistakenly branding her as pro-Soviet, the editors of the important journal The Latest News stopped publishing her work. Tsvetaeva had been a regular contributor and was supporting her family - her husband, their daughter Ariadna and her young son Georgy - through her literary earnings." Tsvetaeva's isolation became complete when, in 1937, it emerged that Efron had been working as a Soviet agent; not only had he recruited for the NKVD (the Soviet security service), but he had also been complicit in several murders. Though fiercely anti-Soviet herself, she had no choice but to follow her husband back to the Soviet Union; how much she knew about his work for the NKVD is uncertain.
    Despite the extreme Romanticism of many of her views, Tsvetaeva was always clear-headed about political matters. In May I9I7, while many writers were being seduced by what they heard as the music of the Revolution, she had written:

You stepped from a stately cathedral
onto the blare of the plazas ...
- Freedom! - The Beautiful Lady
of Russian grand dukes and marquises.

A fateful choir's rehearsing -
the liturgy still lies before us!
- Freedom! - A street-walking floozy
on the foolhardy breast of a soldier!
                       (trans. Boris Dralyuk)

And 'God Be With You!' a short poem from June I934, ends: 'Follow after Hitler, Stalin / uncover from the sprawling corpses / a star, or the hooks of a swastika.
    Tsvetaeva uses every linguistic register. She coins words and draws freely on vulgarisms and archaisms. Her work has more rhythmic energy even than Mayakovsky's. Her constant interrogation of words - of their sounds, meaning and origin - can make a reader feel that he or she is being taken into the very heart of the Russian language. Among her finest works are the collections Craft (I923) and After Russia (I928), and The Ratcatcher (I925), a lyrical-satirical version of the Pied Piper legend in which the Bolshevik rats come to resemble the German burghers they have ousted. Her translations include not only Russian versions of Goethe and Rilke, but also French versions of poems by Pushkin. She wrote diaries, literary criticism and verse dramas. Throughout much of I926 she kept up an intense correspondence with Rilke and Pasternak; these exchanges have been published in full. In a poem addressed to Pasternak a year earlier, she had written:

               Distances divide, exclude us.
They've dis-welded and dis-glued us.
Despatched, disposed of, dis-inclusion -
they never knew that this meant fusion
of elbow grease and inspiration.
                       (trans. Peter Oram)

In her last years Tsvetaeva, like Khodasevich - and like Pushkin and Lermontov - turned increasingly to prose, most of it as emotionally and intellectually charged as her poetry. Her essay 'Pushkin and Pugachov' is a masterpiece. She also wrote a long article about the artist Natalya Goncharova.
    Tsvetaeva returned to the Soviet Union in 1939. Unable to publish her own work, she translated two ballads about Robin Hood, poems by Lorca, Baudelaire's 'Le Voyage' and some two thousand lines of the Georgian poet Vazha-Pshavela.
    After the German invasion in 1941 both Efron and Ariadna were arrested. Efron was shot; Ariadna sent to the Gulag. Tsvetaeva was evacuated from Moscow, but she then hanged herself in the town of Yelabuga; she may have been under pressure to act as an informer for the NKVD. No one attended her funeral.

To Osip Mandelstam

Nothing's been taken away!
We're apart -I'm delighted by this!
Across the hundreds of miles
that divide us, I send you my kiss.

Our gifts, I know, are unequal.
For the first time my voice is still.
What, my young Derzhavin, do
You make of my doggerel?
   
For your terrible flight I baptize you -
young eagle, it's time to take wing!
You endured the sun without blinking,
but my gaze - that's a different thing!

None ever watched your departure
more tenderly than this
or more finally. Across hundreds
of summers, I send you my kiss.

MARINA TSVETAEVA
(1916)

Peter Oram

Gửi Osip Mandelstam
Chẳng có gì bị lấy đi
Đôi ta mỗi người mỗi ngả - Em sướng điên lên vì chuyện này!
Qua ngàn dâu xanh biếc một màu, em gửi tới chàng 1 nụ hôn

Tài năng thiên bẩm của đôi ta, thì không đồng đều
Lần đầu tiên, tiếng nói của ta câm nín
Hỡi anh yêu, tên tuổi trẻ Derzhavin của ta ơi
Mi đã làm gì với những vần thơ tồi tệ của ta?

Dành cho chuyến đi khủng khiếp của mi
Tới đây, ta rửa tội cho –
Con chim ưng trẻ, tới giờ cất cánh
Hãy nhìn thẳng vào mặt trời, chịu đựng chuyến bay, không thèm nháy mắt
Nhưng cái nhìn ban phước lành của ta cho mi, thì lại là chuyện khác

Chẳng đứa khốn nào theo dõi mi lên đường
Dịu dàng như thế này
Sau chót như thế này
Qua ngàn ngàn mặt trời, ánh nắng, mùa hè
Ta gửi cho mi nụ hôn của ta

from To Mayakovsky

[ ... ] Shot a bullet into his soul,
as if it were his own enemy.
The wrestler who wrestled God
has destroyed another temple. [ ... ]
He destroyed many temples,
but none more precious than this.
Give peace, O Lord, to the soul
of this your deceased enemy.

 (1930)

Robert Chandler

[Từ] Gửi Mayakovsky
Chơi 1 phát đạn vào linh hồn anh ta
Như thể đó là kẻ thù của riêng xừ luý
Tên đô vật đô vật Chúa
Đã huỷ diệt một ngôi đền khác
Anh ta huỷ diệt rất nhiều đền
Nhưng chẳng có cái nào quí bằng cái này
Hãy ban bình an, Ôi Chúa, cho linh hồn
Của kẻ thù đã ngỏm này của người


To Mayakovsky
Beyond the chimneys and steeples,
baptized by smoke and flame,
stamping-footed archangel,
down the decades I call your name!

Rock-steady or change-at-a-whim!
Coachman and stallion in one!
He snorts and spits into his palm -
chariot of glory, hold on!

Singer of city-square wonders,
I salute that arrogant tone
that rejected the brilliant diamond
for the sake of the ponderous stone.

I salute you, cobblestone-thunderer!
- see, he yawns, gives a wave, then he swings
himself back into harness, back under :
the shafts, his archangelic wings.
(1921)

Peter Oram

The Penguin Book of Russian Poetry

17.

Having arrived abroad, Tsvetaeva wrote, "My motherland is any place with a writing desk, a window, and a tree by that window." She wrote of exile: "For lyric poets and fairy-tale authors, it is better that they see their motherland from afar-from a great distance."
    Compare this to Gogol: " ... my nature is the ability to imagine a world graphically only when I have moved far away from it. That is why I can write about Russia only in Rome. Only there does it stand before me in all its hugeness,"!'
    Again, Tsvetaeva: "Russia (the sound of the word) no longer exists, there exist four letters: USSR-I cannot and will not go where there are no vowels, into those whistling consonants. And, they won't let me there, the letters won't open."
    So Tsvetaeva spent seventeen years in France. France did not allow foreigners to have regular jobs and papers were hard to obtain. But Paris had a large concentration of journals, publishing houses, and emigre intellectuals. Tsvetaeva wrote, "1 get numerous invitations, but 1 cannot show myself because there is no silk dress, no stockings, no patent leather shoes, which is the local uniform. So 1 stay at home, accused from all sides of being too proud.'?" 
    After Hitler assumed power in Germany, the USSR began to look brighter to many emigres. After much family drama (which we need not explore here), Tsvetaeva, without any particular nostalgic feeling, returned to Moscow on June 18,1939.

Đinh Cường Tribute 

Cali 2012 With H/A

*  

NLV & Nguyễn Đức Bạn & GCC & NDT & ông em Dương Nghiễm Mậu, Phí Ích Bành

Thấy Gấu được Em giúi cho tí tiền, đúng ngày Thứ Bảy thường lệ, đám bạn trên Los xuống, lại thêm Võ Chân Cửu từ trong nước qua chơi, chúng bèn bắt Gấu chi chầu nhậu.
OK.

NDB mãi gần cuối tiệc mới tới, để nhậu, tất nhiên, nhưng còn để đưa Gấu về nhà mới, nhường phòng cho bạn khác.

Và cái bữa tiệc sau đó, ở nhà NBD, giữa GCC và chủ nhà, mới tuyệt cú mèo: chỉ hai thằng chơi gần hết 1 chai cordon bleu, đây mới là chai rượu mà “Em của Gấu” hậu đãi, để mừng tình bạn vong niên, và để trách sự biết nhau muộn quá giữa hai tên già, trong có 1 tên, đi bất cứ lúc nào!

Bạn để ý ngày ghi trên hình, là biết ra liền, trọn 1 ngày “Đại Cát”, 9.11.2012, Em dành cho GCC.

*

Phí Ích Bành, ông em Dương Nghiễm Mậu & NQT
@ Phạm Phú Phong's


Tribute to Robert Walser
Viết mỗi ngày
Ngô Nhật Đăng commented on this.
Nguyên Trung Thuan shared a memory.
8 hrs

Vẫn còn thời sự. Nhớ đọc kĩ các lời còm bên dưới vì rất hay.

1 Year Ago Today

Ở Miền Bắc ngày trước, trong các căn nhà gia đình cán bộ hầu hết chẳng biết đến sự hiện diện của bàn thờ, của nhang khói, của giỗ chạp... Nếu có đi lên chùa, cũng chỉ là vãn cảnh chùa đúng với nghĩa của nó. Riêng mình thì chưa hề một lần cầm thẻ hương thắp lên bàn thờ, trừ những lúc dùng hương đốt pháo Tết.
Thế rồi đột nhiên vào đầu những năm 80, rộ lên phong trào thờ cúng, bói toán, đi cầu đi xin, mở điện mở phủ, nhất là trong giới những người làm khoa học. Mình hết sức ngạc nhiên, liền nhận được lời giải thích: Thời nay Âm thịnh Dương suy nên nó vậy đấy.
Cả cộng đồng đảo điên với những cái trò tâm linh quá tả kể từ ngày ấy. Chả biết bây giờ là gì thịnh gì suy đây? Vì đâu dẫn đến cái nỗi này?

3131

Quả có cú này.
Lần Gấu về lại Đất Bắc, có tí tâm tư, hoài vọng, cái kiểu PD gạ nhà nước xin về, Văn Cao chết có đất chôn, còn tôi chắc là chôn ở Bắc Cực ư, và kể công có đóng góp cho kháng chiến thời kỳ 1945.
Gấu không có tham vọng lớn lao như thế, nhưng quả có ý định đem tro cốt của bà cụ và thằng em trai về Đất Bắc.
Thế rồi khi ghé Việt Trì, tới bãi sông, mà theo truyền thuyết, ông cụ bị đấng học trò làm thịt, cho đeo cục đá, thẩy xuống, bèn xuống xe, lấy nhang, cúng bố 1 phát, trong khi bà chị ruột ngồi trên xe tỉnh bơ!
Thế là Gấu dẹp cái ý định…  “hãy ném thây ta xuống biển”, của bạn Cà!
Thời gian dịch Istanbul, Cô Xì Lô, Cô Út, có dịp về Saigon, bèn ghé nhà xb, và dùng tiền nhuận bút, đem tro cốt của chú và bà nội ra Vũng Tàu, thả xuống biển.

Thời gian Thảo Trường chưa đi xa, có lần mail, phán, ông về đốt nén nhang cho ông cụ, chụp cái hình "đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt" [lô cốt Tẩy trên đê đầu làng Gấu], là không cần phải trở về nữa.

Ui chao, anh đọc ra lòng dạ Gấu.

Khủng khiếp thật, cái lần chờ máy bay Cao Uỷ rước đi định cư Xứ Lạnh, và cái lần trở lại Đất Bắc, sau hơn nửa thế kỷ. Gấu đã viết sơ sơ về lần từ biệt Châu Á qua Châu Mỹ, quái làm sao, sợ quá, huyết áp tăng, khiến bác sĩ tính gạch tên khỏi chuyến bay, may sao đó là bữa Thứ Bảy, bèn cho vô bịnh viện, chích thuốc, huyết áp giảm xuống mức bình thường, thế là thứ hai lên đường, theo đúng lịch trình.
Lần trở lại Đất Bắc, mang về hết, những kỷ niệm còn giữ được từ cú di cư, lên tàu há mồm ra sao, say sóng ra sao, lên tầu Đệ Thất Hạm Đội Mẽo thế nào…. Nhưng ở bên dưới những kỷ niệm đó, đúng là Cái Ác Bắc Kít, đúng như Tolstaya phán, về nước Nga của bà.


Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không ăn, mà ăn thịt lẫn nhau.
Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!

*

Đồng Trụ chiết, Giao Chỉ Diệt

*

Prologue
There was no one who smiled in those days
Except the dead, who found peace at last
Akhmatova: Requiem

Những ngày đó chẳng có ai cười
Trừ người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an

Nơi người chết mỉm cười

Trong một thành phố, nơi người chết mỉm cười, sung sướng vì sau cùng đã được bình an, nơi người sống "hơi thở thua người chết, hình hài thân xác thua đám sương mù trên thành phố...."

Cái tít cuốn sách của Gấu, "Nơi Người Chết Mỉm Cười", được 1 vị bạn văn khen nắc nỏm, hay quá, kiếm ở đâu ra thế, GCC bèn vội vàng thanh minh, của Akhmatova, trong bài viết có nhắc tới.

Còn 1 vị nữa, cũng ra đi từ Miền Bắc, nói thẳng, anh viết về Hà Nội!
"Nơi người chết mỉm cười" là Hà Nội.
Cái nhà tù trong Requiem, là Hoả Lò, là khách sạn Hilton!




Nhưng xét ra thì đó là một ảnh hưởng rất tốt, vì nó không cho ra đời một thứ văn chương ngoại lai, gút mắc, không đọc được, như của một số những tác giả bây giờ (sách của họ chỉ là những sự cóp nhặt tư tưởng ngoại nhân nhưng chưa “tiêu hoá nổi”, những bảng ghi tên các tác giả Đông Tây và tên những quyển sách danh tiếng),...

NDT giải thích, cách viết của HNB, là từ Butor và Proust, cùng lúc, khều nhẹ mấy tên như GCC, dân trường Mít bày đặt đọc Camus, Sartre.
[Bài viết này, như trên Văn Vịt, ghi chú, đã đăng lần đầu trên tạp chí Trình Bầy số 14, ngày 15 tháng Hai 1971.]

Đọc, thì lại nhớ đến nét mặt khinh khỉnh của Mít Butor, mỗi lần ra Quán Chùa. GCC hồi đó mê bạn quá, cứ nghĩ là, tính bạn ta vốn vậy!
Lạ, là NDT đang viết về 1 sáng tác của bạn mình, mắc mớ gì tới một số tác giả bây giờ mà sách của họ là những cóp nhặt... ?
Nếu có, thì đâu phải sáng tác, mà là 1 thứ biên khảo.
Lẽ ra, ông nên đưa ra thí dụ.

Đây là thái độ chung, và lạ, là đều nhắm vào Gấu Cà Chớn!

Thầy Đạo, ra hải ngoại rồi mà còn “mét” Sến, thằng khốn đó đâu phải dân khoa bảng!
Trường hợp Thầy Đạo không nói, vì, tuy khoa bảng, có cái cử nhân triết Văn Khoa Saigon, nhưng dân trường Mít, học sau Gấu, vì cùng học với ông anh BHD; hai đấng NDT & HNB, thì ra ý, chúng tao học trường Tây, tiếng Tây đầy mình, mày biết gì mà bày đặt giới thiệu "Thế nào là văn chương dấn thân?" [loạt bài Gấu viết cho tờ Nghệ Thuật], giới thiệu Beckett, điểm Hồi Ký Viết Dưới Hầm của Dos, Thạch Chương dịch…

Có thể Gấu nổi/nổ quá, chúng ghét!
Hà, hà!

Thê thảm nhất, là Gấu không hề biết chúng ghét Gấu.
Vẫn bạn quí là bạn quí!

Để Gấu kể về lần Gấu nhờ Mít Butor nói giùm với băng đảng Thanh Niên của Huỳnh Tấn Mẫm, xin 1 chân tà lọt ở tờ báo, để “sống sót”, sau 1975.
Vụ này nhà thơ Đại Hàn Chung Đô Quan rất rành.
Viết ra, vì tất cả đều còn sống, có gì “chất chính, phản biện”!

Phải nói là, Gấu không hề có ý định bỏ nước ra đi. Thời gian đó, cai Cô Ba, cố kiếm cái gì làm, để khỏi dính lại, biết bạn quí đang làm cho tờ Thanh Niên, bèn có ý nhờ cậy.
Nhưng gì thì gì, phải có tí gì làm quà. Nhân cuốn Trăm Năm Cô Đơn, bản dịch, mới ra lò. Ông Garcia Marquez này, Gấu rành, vì rành thầy của ổng là Faulkner, bèn đi 1 đường điểm, gửi cho Thanh Niên.
Chờ báo đăng xong xuôi Gấu đi 1 cái thư xin việc, chừng hơn chục trang, tả oán, xin chân tà lọt, đưa cho Mít Butor, nhờ đưa cho HTM.
Thời gian sửa Mặt Trời Vẫn Mọc, bản Gấu dịch trước 1975, nhà xb Văn Học tính tái bản, quen thi sĩ Đại Hàn ở đây, và trong 1 lần Nguyễn Mai mời tới nhà anh chơi, có thi sĩ Đại Hàn, anh cho biết, anh có đọc thư, và nhận xét, cảm động lắm, chẳng khác gì một tiểu phẩm văn học!
Tiểu phẩm văn học cái con mẹ gì, vì, chắc là Mít Butor sau đó quăng sọt rác.
Không biết anh ta có đưa cho Huỳnh Tấn Mẫm đọc không.
Cũng đếch thèm trả lời trả vốn gì cho Gấu, cho biết kết quả.

Chỉ đến khi ra hải ngoại, GCC mới biết bạn quí không quí Gấu.
Thời gian viết cho tạp chí văn học của NTH, do GCC về lại Đất Bắc, “bắt tay với Việt Cộng”, như đám hải ngoại nhận xét, NTH bực quá, xì cho biết, sau khi đọc bài viết GCC ca ngợi Mít Butor, người đầu tiên áp dụng kỹ thuật tiểu thuyết mới vô Việt Nam, mi khen nó như thế, trong khi ta xin bài cho báo, hắn trả lời, báo nào có thằng lùn lé viết, là không có ta!

Mít Butor, Gấu có gặp lại 1 lần ở San Jose, (1), khi đi cùng ông bạn DTL, bạn tù Bangkok ngày nào.
Hằm hằm nhìn, rồi bỏ đi.
Cũng đếch thèm chào hỏi cái con mẹ gì!
Dã man thật!

(1)

*

Dương Thanh Liêm & Gấu
Nhà Hát Le Petit Trianon Theatre, San Jose.

7 tháng Tám 2004

Đêm hòa nhạc Vinh Danh & Họp Mặt tại Nhà Hát Le Petit Trianon Theatre, San Jose.
Họp mặt, là giữa học sinh nhiều thế hệ của trường Âm Nhạc và Kịch Nghệ Quốc Gia, trụ sở cũ ở đường Nguyễn Du, Sài Gòn.
Vinh Danh, những thầy cô. Hiện diện, có cô Đỗ Thế Phiệt, thầy Nghiêm Phú Phi...

Gấu tui có cảm tưởng sống lại một buổi tối tại Sài Gòn, giữa những bạn bè Quán Chùa như Nguyễn Xuân Hoàng, Cao Thanh Tùng, Hoàng Ngọc Biên...
Nhưng những bạn thân ở đây, của Gấu tui, lại là những người bạn đã từng chia sẻ những ngày ở Trại Cấm Thái Lan, như Dương Thanh Liêm, Nguyễn Phước.
Phước, từ Úc qua. Liêm, từ Tiểu Sài Gòn lên. Đã trên 10 năm chúng tôi mới gặp lại.
Vì họ, mà tôi tới đây.
Nhờ họ, tôi quen 'cọp biển' Lương.
Dự định cho ngày mai, thứ hai: Tới chân cầu Golden Gate, chụp vài cái hình. Thăm Cựu Kim Sơn, để hiểu câu hát của tụi Mẽo ngày nào, khi quá chán cuộc chiến Việt Nam:

Tôi để trái tim của tôi tại Cựu Kim Sơn.

Giờ chót: Vụ đi thăm Cựu Kim Sơn bị huỷ bỏ, do không có ai rảnh để mà làm tài xế.
Như vậy là sẽ lên Tiểu Sài Gòn sáng mai, cùng Liêm.

Saigon ngày nào của GCC



Last Page
Một thoáng Saigon

Tks VBT. NQT

alt

La Pagode

Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa.

Phỏng vấn Ray Bradbury

http://tanvien.net/Dayly_Poems/6_poems_simic.html

Một trong những truyện phổ thông nhất của ông trong cuốn Ký sự Martian [The Martian Chronicles], là “Rồi cơn mưa nhẹ tới”, viết về 1 căn nhà cơ khí hoá [a mechanized house], vẫn tiếp tục hoạt động sau khi ăn bom nguyên tử. Không có người ở trong đó. Ông lấy đâu ra ý tưởng này?

Sau khi Hiroshima ăn bom, tôi nhìn thấy 1 tấm hình 1 căn nhà, với bóng của những người đã từng sống trong đó in lên tường, do sức nóng, và sức đẩy của trái bom. Người thì đi rồi nhưng bóng còn ở lại. Tôi khủng quá, và viết truyện này.

Ui chao đúng là THNM! Bởi vì, bỗng dưng Gấu lại nhớ đến xứ Mít!

Có 1 "ẩn dụ" nào đó, liên quan đến 1 trái bom gì gì đó, và căn nhà Mít đầy người, nhưng "có thể", bóng của họ thì không còn, hiểu theo một nghĩa biểu tượng nào đó, thí dụ, cái bóng đó tượng trưng cái phần tốt đẹp của Mít chăng?

Phạm Cao Củng, ông vua viết truyện trinh thám Mít, Gấu hồi nhỏ mê ông như điên, có 1 truyện tương tự ẩn dụ trên, nhưng may mắn làm sao, ngược lại. Nhân vật trong truyện là 1 sát thủ giống y chang sát thủ KGB trong From Russia With Love, Từ Nga về với tình yêu, mỗi lần làm thịt ai, là chỉ bắn 1 phát, ngay tim.
Nhân vật của PCC cũng vậy, và lần đó, anh ta được thuê làm thịt 1 đại gia Ðỏ cực độc, chắc chắn gốc Bắc Kít.
Khi tay này vừa ló ra, là anh chơi một phút, đúng tim, nhưng đạn lép!

Và viên đạn lép đã giết sạch cái ác ở trong người tên VC cực ác này!
Sau hai người thành bạn!

Ui chao Gấu cứ tưởng tượng mình đúng là đại sát thủ kể trên!
Tưởng tượng không thôi mà đã sướng mê tơi rồi!


1 Year Ago Today

Áo tiểu thư
http://www.tanvien.net/ds/Qiu.html

Khi Qiu còn là một đứa trẻ ở Thượng Hải, Hồng Vệ Binh trung thành với Mao đã lục soát nhà cha mẹ ông. Chúng lấy đi nữ trang, sách vở, và bất cứ một thứ gì liên quan tới cuộc sống trưởng giả, nhưng vứt lại vài tờ báo hình. Trong một tờ, Qiu nhìn thấy bức hình một người đàn bà bận áo xẩm đỏ, thứ áo đặc biệt của người TQ, sau trở thành biểu tượng của sự sa đọa thoái hoá của tư bản trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa.
“Lần đầu nhìn thấy bức hình, tôi sững sờ vì vẻ đẹp,” Qiu nói, lúc này ông 54 tuổi, trông thư sinh nho nhã như một giáo sư trung học. “Cũng là tự nhiên khi tôi nghĩ rằng, những con người ở trong những bức hình như thế này từ một gia đình có gốc rễ trưởng giả, và như thế, chắc là họ đã chịu đựng rất nhiều đau khổ trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa. Chuyện gì đã xẩy ra cho họ.
Nhiều chục năm sau, kỷ niệm về bức hình vẫn khuấy động trí tưởng của ông, và là nguồn hứng khởi khiến ông viết “Áo đỏ tiểu thư” [tạm dịch Red Mandarin Dress]
Mẹ tôi sụm xuống, khi Cuộc Cách Mạng Văn Hoá nổ ra, và chẳng bao giờ hồi phục. Nhưng tôi có bạn bè còn khốn đốn hơn nhiều. Tôi không nói, họ chết. Nhưng họ hoàn toàn tiêu ma, điêu tàn, huỷ diệt. Đời của họ, mộng của họ, nghề nghiệp của họ. Đi hết.
Một nhà văn nữ, ra đi từ Miền Bắc, có một loạt bài về một miền đất, khi nó chưa đi cả, đi hết. Thay vì cái áo dài tiểu thư của một cô xẩm, như của Qiu, thì là một cái bát cổ.
Thứ dễ vỡ nhất.



*

Lee & Eco Obituary by The Economist



Harper Lee and Umberto Eco both died on February 19th, aged 89 and 84

Two unexpected literary celebrities who reacted to fame in startlingly different ways
Feb 24th 2016

SHE was a plain, chubby, chain-smoking southern girl, living in a cold-water flat in New York and working as an airline-reservation clerk. He was a paunchy, balding, chain-smoking teacher of semiotics, the study of signs, codes and meanings in language, at various Italian universities. Both enjoyed producing small articles and pastiches, she for the college magazine, he for avant-garde publications, and it was only challenges from friends that induced either to embark on a novel. His first, “The Name of the Rose”, published in 1980, sold 10m copies worldwide. Her first, “To Kill a Mockingbird” (1960), sold more than 40m, and was proclaimed by some to be the best American novel of the 20th century. Umberto Eco rode literary stardom like a plump surfer on a giant laughing wave. Harper Lee was drowned by it.
“Mockingbird”, set in fictional Maycomb, Alabama, was a story of racial injustice seen through the clear but innocent eye of a small tomboy, Scout, whose father, Atticus Finch, was given the hopeless task of defending a black man accused of raping a white woman. On the eve of the civil-rights era the novel pricked America’s conscience, and reporters raced to photograph Miss Lee in her home town of Monroeville, Alabama, on the porch and in the courthouse, nervously smiling. The book was assumed to be her life in thin disguise. But in a rare interview in 1961 she said it was all fiction, nothing to do with her “dull” real childhood, and (unspoken but implied) would they please now go away.

Mr Eco would have queried that wished-for divide between fact and fiction. It wasn’t as clear-cut as that. The urge to tell stories, weave myths and simply lie lay deep in the possibilities of human language. But if facts could become fables, fables could lead to facts, just as wild medieval tales of lost kingdoms had inspired Europe’s exploration of America. Besides, any novel pretended to be true, and a good “open” text would spur the reader to judge and interpret that truth for himself. “Mockingbird” and “The Name of the Rose” were both essentially whodunnits, and “Who done it?” Mr Eco said, was the fundamental question of all philosophy.
His own journey through the labyrinth described an investigation by William of Baskerville and his sidekick, the novice Adso, into a series of gruesome murders in an unnamed abbey in the year 1327. He began with a pleasing idea, that a monk might be poisoned by reading a book, and took it from there, lovingly channelling the Middle Ages and pouring forth everything he knew. Again, though this was fiction, pages covered the theological, philosophical and scientific debates of the time, well-dosed (for those who knew) with his own semiotics in medieval dress.
Both he and Miss Lee dealt in sealed-off worlds: Maycomb isolated in cotton fields and quiet red dust; the abbey perched on precipices behind high walls. These were worlds in which rumours festered and conspiracy theories proliferated, fed by the feverish interpretation of signs. Both featured places (in the abbey, the library; in Maycomb, the tumbledown Boo Radley house) peopled by shadows and littered with symbols. In the abbey, painted phrases from the Apocalypse beckoned towards horror. In Maycomb, Indian-head pennies left in a tree seemed to do the same.
Despite her protests, Miss Lee’s minute evocation of Maycomb—the talcum scent of white women in the humid afternoons, the smell of Hoyt’s Cologne in the blacks’ church—was evidently drawn from childhood. And she had honed her skills of observation afterwards when Truman Capote, a childhood friend, took her along in 1959 to help with the exhaustive forensic interviews in Holcomb, Kansas that became “In Cold Blood”. Mr Eco, who worked from notebooks, index cards, obscure codices and hand-drawn maps, was seldom autobiographical, save for musing on the seductive symbols and myths of fascism with which he had grown up; and save for reflecting that his omnivorous curiosity, his love of lists and lunatic science (“Ptolemy, not Galileo”) and his analysis of every conceivable cultural artefact, from Thomas Mann to Mickey Mouse, from Snoopy to Avicenna, from TV quiz shows to the “Poetics” of Aristotle, had been fed in boyhood by reading Jules Verne.

*

Umberto Eco: Cái Giả sẽ cứu chuộc thế giới

"Quê tôi, Bắc Kỳ, những ngày tôi còn nhỏ, ở làng, vẫn thường được ăn, một thứ nước mắm, gọi là nước mắm lá chuối. Người lớn lấy nước muối đun sôi, bỏ vào trong đó một ít lá chuối khô, cho nó ra mầu, giả làm nước mắm.

Sau này vào Nam, những lần được ăn một thứ nước mắm thượng hảo hạng nào đó, là tôi lại cảm thấy, mình đang nhâm nhi cái thứ nước mắm lá chuối ngày nào.

Nhưng phải là thứ hảo hạng cơ. Chính mùi nước mắm thơm lừng, thượng hảo hạng đó làm bật cái mùi lá chuối khô kia ra khỏi "tiềm thức" của bạn!

Và tôi nghiệm ra rằng, Cái Giả cũng cứu rỗi thế giới!"
-NQT

Xuyên suốt tập tiểu luận "Travels in Hyperreality" (Du hành chốn siêu thực) là để đi tìm những khoảnh khắc, mà trí tưởng tượng Mỹ đòi hỏi cái Thật, mà để đạt được cái Thật, lại phải tạo ra cái Giả tuyệt đối (in search of instances where the American imagination demands the real thing and, to attain it, must fabricate the absolute fake)

Để tưởng niệm Eco, thì không gì tốt hơn là điểm lại chuyến du hành của ông ở nước Mỹ.

Đồng Nhơn's photo. *

Trong cuốn sách trên, Eco cũng đi 1 đường, không phải Cái Giả cứu chuộc cái con mẹ gì, như Anh Cu Gấu khốn khổ khốn nạn với Cái Đói & Cái Ác Bắc Kít, mà là, Quyền Năng của Cái Giả, The Power of Falsehood.
Đọc cũng thú, nhưng Gấu mê bài viết về Borges hơn.
Bạn đọc TV còn nhớ Buzzati, bị chê ảnh hưởng Kafka, bèn đếch thèm đọc Kafka nữa. Eco cũng bị cái ám ảnh Borges, như vậy, bèn đi 1 đường tự chữa bịnh, qua bài viết Borges and My Anxiety of Influence

Buzzati notes that, from the very beginning of his writing career, people heard Kafka's echoes in his work. As a consequence, he said, he felt not an inferiority complex but "an annoyance complex." And as a result, he lost any desire to read Kafka's work

Gấu đọc Sa mạc Tác Ta [Tartar là một giống dân], bản tiếng Pháp, và không hiểu làm sao, bị nó ám ảnh hoài, câu chuyện một anh sĩ quan, ra trường, được phái tới một đồn biên xa lắc, phòng ngừa sự tấn công của dân Tác Ta từ phía sa mạc phía trước. Chờ hoài chờ huỷ, tới khi già khụ, ốm yếu, hom hem, sắp đi, thì nghe tin cuộc tấn công sắp sửa xẩy ra....

Đúng cái air Kafka!

Trên tờ Bách Khoa ngày nào còn Sài Gòn có đăng truyện ngắn K. của Buzatti. Đây là câu chuyện một anh chàng, sinh ra là bị lời nguyền, đừng đi biển, đi biển là sẽ gặp con quái vật K, nó chỉ chờ gặp mày để ăn thịt. Thế là anh chàng chẳng bao giờ dám đi biển, cho đến khi già cằn, sắp đi, bèn tự bảo mình, giờ này mà còn sợ gì nữa.

Thế là bèn ra Vũng Tầu, thuê thuyền đi một tua, và quả là gặp con K thật. Con quái vật cũng già khòm, sắp đi, nó thều thào bảo, tao có viên ngọc ước quí, chờ gặp mày để trao, nó đây này... 

Ui chao Gấu lại nhớ đến Big Minh, thều thào, tao chờ chúng mày để bàn giao viên ngọc quí Miền Nam, và con K bèn biểu, tao lấy rồi, cám ơn lòng tốt của mày! 

Doãn Quốc Sĩ, có chuyện Sợ Lửa, tương tự. Đây là câu chuyện một anh chàng sinh ra đời là bị thầy bói nguyền chớ có đến gần lửa. Thế rồi, một ngày đẹp trời, thèm lửa quá, bèn đến gần nó, và ngộ ra một điều, sao mà nó đẹp đến như thế. 

Thế là về, và chết! 

Gấu cũng thấy lửa rồi. Và đang sửa soạn về... 

Sự thực, Gấu không gặp lửa, mà gặp… xác của Gấu, trôi lều bều trên dòng Mékong, lần tá túc chùa Long Vân, Parksé, chờ vuợt sông qua trại tị nạn Thái Lan. Gấu đã kể chuyện này nhiều lần rồi.

Thơ Mỗi Ngày

* *
 
IN MEMORY OF JOHN KEATS

Should anyone call my dedication of Chatterton affected,
I answer as followeth:
'Were I dead, sir, I should like a Book dedicated to me.'
- Keats to his publisher,
with the original preface to Endymion

Tưởng niệm TTT, ông anh nhà thơ năm nay, Tin Văn sẽ đi 1 đường về Langston Hugh, và về Dickinson, qua cái nhìn khoa bảng của nhà nữ phê bình gia khoa bảng Thụy Khê mũi lõ, Helen Vendler.
Langston Hugh và Jazz da đen là cái nền của Liên Đêm.
Emily Dickinson, ông anh đã từng dịch thơ của bà.
Cả hai Gấu đều không rành, nên đành mượn hoa tiến Phật!
Cũng là 1 cách xâm nhập thơ cả hai

*

*

Emily Dickinson: An Introduction

Bây giờ Emily Dickinson được nhìn nhận, không chỉ như 1 nhà thơ lớn của Mẽo, thế kỷ 19, nhưng còn là nhà thơ quái dị, gợi tò mò, intriguing, nhất, ở bất cứ thời nào, hay nơi nào, cả ở cuộc đời lẫn nghệ thuật của bà. Tiểu sử ngắn gọn về đời bà thì cũng có nhiều người biết. Bà sinh ở Amherst, Mass, vào năm 1830, và, ngoại trừ vài chuyến đi xa tới Philadelphia, Washington, Boston, bà trải qua trọn đời mình, quanh quẩn nơi căn nhà của người cha. “Tôi không vượt quá mảnh đất của Cha Tôi – cross my Father’s ground - tới bất cứ một Nhà, hay Thành Phố”, bà viết về cái sự thụt lùi, ở ẩn, her personal reclusiveness, khiến ngay cả những người cùng thời của bà cũng để ý, noticeable. Tại căn phòng ngủ ở một góc phía trước căn nhà, ở đường Main Street, Dickinson viết 1,700 bài thơ, thường là trên những mẩu giấy, hay ở phía sau một tờ hóa đơn mua thực phẩm, chỉ một dúm được xuất bản khi bà con sống, và như thế, kể như vô danh. Theo như kể lại, thì bà thường tặng, give, thơ, cho bạn bè và láng giềng thường là kèm với những cái bánh, những thỏi kẹo, do bà nướng, đôi khi thả chúng xuống từ 1 cửa sổ phòng, trong 1 cái giỏ. Cái thói quen gói những bài  thơ thành 1 tập nho nhỏ, fasciles, cho thấy, có thể bà cho rằng thơ thì trình ra được, presentable, nhưng hầu hết thơ của bà thì đều không đi quá xa cái bàn viết, ở trong những ngăn kéo, và chúng được người chị/hay em, khám phá ra, sau khi bà mất vào năm 1886, do “kidney failure”.
Billy Collins

Here is another poem with parallel structure in which a childlike fancy is finally buried under the macabre:

I died for beauty; but was scarce
Adjusted in the tomb,
When one who died for truth was lain
In an adjoining room.
He questioned softly why I failed?
"For beauty," I replied.
"And I for truth-the two are one;
We brethren are," he said.
And so, as kinsmen met a night,
We talked between the rooms,
Until the moss had reached our lips,
And covered up our names.

The first two stanzas share the interests of beauty and truth in equal measure, then in the final one, the image of a good-night conversation-one thinks of children in their beds-is suddenly replaced by the grim reality of uffocation and oblivion. The feeling of ratio and balance contrasts starkly with the horror of the final lines.

XIX

Pain has an element of blank;
It cannot recollect
When it began, or if there were
A day when it was not.
It has no future but itself,
Its infinite realms contain
Its past, enlightened to perceive
New periods of pain.

XIX

Nỗi đau thường để ra 1 khoảng trống,
Nó không thể nhặt nhạnh, thâu gom, hay... lượm.
Khi nó bắt đầu
Hay có 1 ngày, nó không còn
Không tương lai, chỉ là chính nó
Cõi vô cùng chứa quá khứ của nó
Được làm sáng lên để cảm nhận
Những hồi, chương đau mới.

*  

There are four of us

On paths of air I seem to overhear
two friends, two voices, talking in their turn,

Did I say two? ... There by the eastern wall,
where criss-cross shoots of brambles trail,
-O look!- that fresh dark elderberry branch
is like a letter from Marina in the mail.

-ANNA AKHMATOVA
NOVEMBER 1961 (IN DELIRIUM)

from Poems of Akhmatova, tr. Stanley Kunitz and Max Hayward.
Boston: Little Brown and Company, 1973.

Marina Tsvetaeva


from
Poems for Blok
Your name is a-bird in my hand,
a piece of ice on my tongue.
The lips' quick opening.
Your name-four letters.
A ball caught in flight,
a silver bell in my mouth.

A stone thrown into a silent lake
is-the sound of your name.
The light click of hooves at night
-your name.
Your name at my temple
-sharp click of a cocked gun.

Your name-impossible-
kiss on my eyes,
the chill of closed eyelids.
Your name-a kiss of snow.
Blue gulp of icy spring water.
With your name-sleep deepens.

APRIL 15 1916
[Từ] Thơ cho Blok
Tên của mi – con chim trong tay ta
Lát băng trên lưỡi
Hé môi thật lẹ
Tên mi - bốn chữ
Trái banh bị tóm trên đường bay
Chuông bạc trong miệng

Hòn đá ném xuống hồ lặng
Là tên mi dội vào tai ta
Tiếng ợ nhẹ trong đêm
Tên mi trong miếu đền của ta
Tiếng click nhọn hoắt của cây súng hếch lên 1 phát
Thèm nhả đạn

Tên mi – không thể
Nụ hôn lên mắt
Cú rùng mình khép mi
Tên mi, nụ hôn của tuyết
Ngụm nước mùa xuân giá lạnh, xanh xanh
Với tên mi
Ta chìm sâu vào giấc ngủ

Tháng Tư, 15, 1916



from Poem of the End
Outside of town! Understand? Out!
We're outside the walls. Outside life-
where life shambles to lepers.
The Jew-ish quarter.

It's a hundred times an honor
to stand with the Jews-
for anyone not scum.

Outside the walls, we stand. Outside life-
the Jew-ish quarter.

Life is for converts only!
Judases of all faiths.
Go find a leper colony!
Or hell! Anywhere-just not

life-life loves only liars,
lifts its sheep to blades.
I stomp on my birth certificate,
rub out my name!

Go find a leper colony! With David's star, I stand-
I spit on my passport.
And back in the town they're saying, It's only right-
the Jews don't want to live!

Ghetto of the chosen! The wall and ditch.
No mercy. In this most Christian of worlds
all poets-are Jews.

PRAGUE, 1924

For complete concurrence of souls there needs to be a concurrence of breath, for what is breath, if not the rhythm of the soul? So, for humans to understand one another, they must walk or lie side by side.

ON LOVE, 1917

AFTERWORD

"There cannot be too much of lyric because lyric itself is too much."

-TSVETAEVA

1.

As a child, Marina Tsvetaeva had "a frenzied wish to become lost" in the city of Moscow. As a girl, she dreamed of being adopted by the devil in Moscow streets, of being the devil's little orphan. But Russian poetry began in St. Petersburg-the new capital was founded in the early eighteenth century. Moscow was the old capital, devoid of literature. No literature existed in Russia before St. Petersburg's cosmopolitan streets.
    But St. Petersburg was also, for two hundred years, the least free city in Russia. It was dominated by the secret police, watched by the Tsar, and full of soldiers and civil servants-the city of loneliness Dostoevsky and Gogol shared with us.
    Moscow was for a long time the seat of the old Russia that considered St. Petersburg blasphemous. Moscow was the center of Russia without professors, without foreigners; it was the Russia where the Tsar was still thought to be divine. Peter the Great's unloved first wife, speaking from Moscow, put a curse on St. Petersburg, saying that it would "stand empty." In the middle of this Moscow, Marina Tsvetaeva wanted a desk.

Khi còn bé, Tsvetaeva có một ước muốn khùng điên ba trợn, là biến mất, thất lạc, mất mát, tuyệt tích giang hồ, bị mẹ mìn bắt, trở thành bỏ đi: to become lost, ở trong thành phố Moscow. Khi là 1 thiếu nữ, cô mơ được quỉ nhận trong đường phố Moscow, là một đứa trẻ mồ côi của quỉ. Nhưng thơ ca Nga bắt đầu ở St. Petersburg – “tân thủ đô” được xây dựng vào đầu thế kỷ 18. Moscow là “cựu thủ đô”, đếch có văn chương [THNM, bèn nghĩ đến Hà Lội, nhưng đây chính là ý của Brodsky về trung tâm và ngoại vi]. Văn chương Nga không có, trước khi có những con phố bốn phương trời mười phương đất - tạm dịch cụm từ “cosmopolitan streets” - của St. Petersburg.  

2.

For her, a desk was the first and only musical instrument.' Tsvetaeva said her first language was not Russian speech; it was music. Her first word, spoken at the age of one, was "ganuna" or "scale?" But music was difficult. "You press on a key on a piano," she said remembering her childhood. "A key is right there, here, black or white, but a note? ... But one day I saw instead of notes sitting on the staff, there were-sparrows! Then I realized that musical notes live on branches, each one on its own, and from there they jump onto the keys, each one onto its own. And then-it sounds. When I stop playing music the notes return on the branches-as birds go to sleep."
Marina Tsvetaeva's mother was a talented musician. But when Marina was still very young, her mother was already ill. The illness made them travel from one city to another, from one country to the next. On the road, Marina Tsvetaeva learned German, Italian, then French. She wrote poems in French as well as German; her grandfather recited German poetry by heart. Her mother's illness was a carriage which took her, for years, across Europe. But her mother wanted to die at home, in Russia. So in 1906, mother and daughter Tsvetaeva started for Moscow. Her mother died on the road, not reaching the city. Tsvetaeva was 14.

6.

A few years after her mother's death, Marina Tsvetaeva, still a young schoolgirl, published her first book. Critics praised the book's uncommon "intimacy of tone" and its structure, called it a lyric diary, a daybook, a sequence;" they praised the "bravery" of this "intimacy." There was also criticism. Brusov, the venerable older poet, encouraged her poems' "sense of intimacy" but noted that this lyric intimacy was, sometimes-of ten-too much.
But there cannot be "too much" of lyric because lyric itself is "too much." Tsvetaeva: "A lyric poem is a created and instantly destroyed world. How many poems are in the book-that many explosions, fires, eruptions: EMPTY spaces. The lyric poem-is a catastrophe. It barely began-and already ended.?"

Vài năm sau, khi bà mẹ mất, còn là 1 nữ sinh, Marina Tsvetaeva đã cho xb cuốn sách đầu tay. Phê bình gia khen, giọng riêng tư chẳng giống ai, đây là 1 thứ nhật ký vãi lệ, sự can đảm của cái riêng tư thầm kín.
Bruso, một nhà thơ đáng kính, già, khuyến khích thơ của cô bé, ở "cảm quan tâm tư thầm kín riêng tư" của nó, và ghi nhận, hình như hơi bị quá riêng tư, thầm kín, đôi lúc.

Nhưng làm gì có “quá” vãi lệ, bởi vì vãi lệ, chính nó, là đã “quá quá” rồi.
Tsvetaeva phán:

Một bài thơ vãi lệ là một thế giới, được sáng tạo và liền lập tức, bị huỷ diệt. Có bao nhiêu bài thơ trong 1 cuốn sách – là bấy nhiêu nổ tung, lửa cháy, phún thạch: những không gian TRỐNG RỖNG. Thơ trữ tình là 1 thảm họa. Nó chưa kịp bắt đầu, thì đã ngỏm củ tỏi rồi.

Đúng là cú đâm trúng tử huyệt thơ Mít. Chúng, thi sĩ Mít, chỉ làm được thứ thơ này, để tán gái, và thơ ngồi bên ly cà phê nhớ bạn hiền, để tán bạn, sự thực, để tán chính chúng!

Đinh Cường Tribute 

Cali 2012 With H/A

Tribute to Robert Walser

Viết mỗi ngày

Playboy magazine publishes last issue featuring naked women
The latest issue, featuring Pamela Anderson, went on sale Friday, months after the men’s magazine announced it would switch to only ‘non-nude’ content
http://www.theguardian.com/us-news/2015/dec/11/playboy-last-nude-issue-pamela-anderson


Playboy hết còn Nu.
Gấu bèn vớ vội số đang bày bán. Còn.
Bạn nào thích, xin click 1 phát "ở đây"

Tuyệt Kú Nu!

Ngày Đẹp Trời Ðể Xem Kangaroo
http://chimvie3.free.fr/62/pvtd_MurakamiHaruki_Kangaroo_062.htm


Lò Thiêu @ France

Dear father
A haunting memoir of a young Holocaust survivor

But You Did Not Come Back.

By Marceline Loridan-Ivens. Translated by Sandra Smith. Faber; 100 pages; £12.99.

Nhưng bố tôi không trở về

Đây là 1 cuốn sách nhỏ với giọng lớn.
Tác giả mất 70 năm, trước khi có thể viết ra được.
Vào năm 15 tuổi, Tháng Tư, 1944, cô gái và ông bố bị bắt ở ngoài vườn, trong khu vực Pháp bị Nazi đô hộ, và bị tống xuất, ông bố tới Auschwitz, cô gái tới Birkenau.
Cô gái trở về.
Đây là lá thư dịu dàng, đau nhức, hối hận của tình yêu, của cô con gái, viết cho ông bố chẳng bao giờ trở về.
Hồi nhớ của cô gái xoay quanh hy vọng bất thành, làm sao nhớ ra được những từ cha mình viết trong lá thư, được lén lút đưa cho cô con gái, khi cả hai bị giam giữ trong trại tử thần.
Vào lúc đó, cô con gái được phân công đào hố, chôn xác chết từ phòng hơi ngạt.
Cô lầm bầm nói với chính mình, "những từ bố mình dùng, hình như là nói về tình yêu, hy vọng, nhưng làm gì còn nhân loại ở trong tôi…. Tôi phục vụ thần chết. Tôi là 'phù thăng' [thằng phu, người dọn dẹp], là cái cuốc, cái xẻng của nó."

Saigon ngày nào của GCC

"Những con dã tràng" trên tạp chí Chiều Hướng Mới (chỉ ra một số) của sinh viên Đà Lạt, Huỳnh Phan Anh chủ trương,
have fun,
NL
* *

Tks All There. NQT

Có Phạm Phú Minh! Không biết có phải PPM của tờ Diễn Đàn Thế Kỷ?
Dương Châu Thảo là Dương Văn Ba, sau là dân biểu, mới mất.
Anh bị Nguyễn Văn Linh chơi, nhằm dằn mặt Hồ Tôn Hiến, Sáu Dân.
Đòn này lập lại, với cú Trọng Lú đá đít y tá dạo Ba X.
Đừng hòng Bắc Kít thay đổi.
Huỳnh Thanh Tâm là Huỳnh Phan Anh. Dynamô là Đinh Ngọc Mô. Lý Minh, thi sĩ, thơ đăng Văn một thời.


Khi cả đám nhẩy lên Đà Lạt học Sư Phạm, tôi đã ra trường đi làm công chức Bưu Điện. Rồi Huỳnh Phan Anh làm đặc san văn nghệ cho trường, lấy tên là Chiều Hướng Mới. Lần gặp lại mới đây, tại Paris, anh nhắc tôi mới nhớ tên số báo đó. Anh tự hào cho biết thêm: sinh viên làm báo đặc san, mượn tiền của mấy linh mục giáo sư, vậy mà bán có lời!
Bài tiểu luận đầu tay của anh, là trên Chiều Hướng Mới: Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô. Truyện ngắn đầu tay của tôi: Những Con Dã Tràng. Đây cũng là nơi đăng truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Nhật Duật: Huyền. Kỷ niệm tức cười về Huyền, tôi đã viết lại, trong bài Một Chuyến Đi. Tác giả truyện ngắn đã không hề thay tên riêng Huyền bằng bất kể một từ khác, và nhà in đành phải nhờ Huỳnh Phan Anh, nhân dịp về thăm gia đình ở Sài Gòn, mang lên đủ những con chữ cần thiết. Sau này đọc Kundera, khi viết về Kafka, ông đã phân tích "tai họa" mà những nhà dịch thuật Kafka qua tiếng Pháp, đã tự ý thay đổi chữ cái K (trong Joseph K) bằng những nhân vật đại danh tự khác. Theo Kundera: không thể thay thế được! Hay nói theo Steiner: "Trong bảng mẫu tự về cảm tính và tri giác của nhân loại, chữ cái K vĩnh viễn thuộc về, chỉ một người."
Tôi cũng muốn mô phỏng Steiner: Trong cái bảng abc tình ái của anh bạn Duật, mẫu mực, mô phạm ngay từ hồi "đó đó", Huyền là... Huyền. Không thể thay thế được!
Sau truyện ngắn đó, Duật nghỉ hẳn viết. Ra trường, đi dậy học, mãi đến khi Viên Linh làm tờ Khởi Hành, anh mới xuất hiện trở lại, qua những bài phê bình, biên khảo, đọc sách... Anh đoạn tuyệt với truyện ngắn, như thể: trong thể loại này, vĩnh viễn chỉ có một truyện ngắn, và nó vĩnh viễn thuộc về... Huyền!


Đọc lại, có khác, bản in sau này, trên Văn, Sài Gòn và sau này, ở hải ngoại, trên Tin Văn.
Số phận của nó, cũng ly kỳ. Gửi cho Sáng Tạo. Tính tin, nhưng sập tiệm. Thấy trong mục Hộp Thư của tờ Văn Nghệ, dù không gửi. Vứt sọt rác. Chắc thế. Rồi xuất hiện trên Chiều Hướng Mới.


bốn mươi năm dương nghiễm mậu và tự truyện nguyễn du

http://damau.org/archives/35745

Note: Bài viết này, với riêng GCC, rởm. 

Cái tệ nhất của bài viết là, Vũ Hạnh, mà chính đồng chí nằm vùng cùng với ông ta, Đào Hiếu, đã phải đổi tên cho đúng với ông ta, là Vô Hạnh: Một tên VC nằm vùng, quá rành văn học Miền Nam, nhơ bẩn như thế, mà lôi ra để đôi co với DNM, 1 cách nào là làm nhục anh chứ hay ho gì đâu.

Hơn nữa, và điều này thật quan trọng, là tác giả không đọc được DNM, theo nghĩa, không chỉ ra được thứ văn chương mà DNM viết, là văn chương ám dụ, với cái sở đoản của nó, phải là những bậc thầy như Borges mới trị nổi [Phép Lạ Bí Ẩn mà không ghê sao], hay Kafka, những truyện ngắn của ông đều có tính ám dụ. Viết không tới, chúng biến thành 1 thứ ám dụ cởi truồng. Có thể nói, như Rushdie nói, trong bài viết Ảnh Hưởng, mà TV đã giới thiệu bản tiếng Việt, ngụ ngôn [hay ám dụ] là 1 hình thức văn học tàn nhẫn nhất....

Một độc giả Da Mùi, nhận xét về truyện ngắn của DNM. Chính trị nhiều hơn văn chương. Hầu hết Mít lấy văn chương bày tỏ lập trường chính trị mắc phải lỗi lầm này, ngay cả đấng viết bài.
Chưa ra đời là đã sắm cho mình một vai rồi!
Những Vòng Đai Xanh, Mặt Trận Sài Gòn của ông ta có tí văn chương nào đâu, trong khi với những bậc thầy như Borges, như Kafka, cái gọi là ám dụ, là do người đọc nhận ra cho chính họ, cho thời của họ.
Trong truyện ngắn Y Sĩ Đồng Quê, câu nói của cô Rose, cô người làm, nói ông chủ chẳng đúng là của 1 em Bắc Kít, khi bị ông chủ hi sinh cho Tầu Phù, đổi lấy cặp ngựa để vượt Trường Sơn kíu nước ư?



damau.org online literary magazine, tạp chí văn chương Da Màu, văn chương không biên giới, văn học Việt Nam
damau.org

Đấng này, bài đăng trên Da Mùi chưa đủ đã, thế nào cũng phải trình chính uỷ NN, xin được góp mặt trên Văn Vịt!


*

manhhai
SAIGON, 7 May 1968 - Đại tá Lưu Kim Cương tại vành đai phía Tây Nam sân bay TSN
Location: RVN, Tan Son Nhut. Photographer: SP5 J.F. Fitzpatrick, Jr. A Vietnamese Air Force Col, and the Tan Son Nhut CO, (right), fire a 50 cal. machine gun into enemy positions in the Old French Cemetery from atop a tank on the southwestern perimeter of Tan Son Nhut Air Base.

Một Đại tá Không quân VN Chỉ huy trưởng căn cứ TSN (bên phải), bắn đại liên .50 vào vị trí địch tại Nghĩa trang QĐ Pháp từ trên một xe tăng tại vành đai phía tây nam Căn cứ KQ Tân Sơn Nhứt, [đó là Đại tá Lưu Kim Cương]
7 May 1968


Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...

Đợt trình diện đó có đủ mặt "anh hào". Thì vẫn đám bạn bè từng ngồi chung bàn ở quán Cái Chùa, cùng ngửi mùi mực in quán Văn đường Phạm Ngũ Lão. Quán có ông chủ già rất lịch lãm, và ưu ái anh em văn nghệ, chẳng bù cho ông thư ký tòa soạn Trần Phong Giao, bảo hoàng hơn vua, lúc nào cũng nhăn nhó trong cách tính trang, tính tiền nhuận bút, và nhất là trong việc giúp đỡ những người chưa thành danh muốn nhờ bảng hiệu nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng. Cậu thanh niên hình như chưa từng bỏ sót một số báo Văn, "văn kỳ thanh" nào Nguyễn Xuân Hoàng, nào Huỳnh Phan Anh... lần này gần như gặp đủ mặt. Sau khi cậu ta tự tử chỉ hùi hụi tiếc một điều, nếu biết trước đã kéo cả bọn tới trình diện. Bởi vì Huỳnh Phan Anh, bị ám ảnh bởi những ngày "đổ mồ hôi nơi quân trường thay vì đổ máu nơi trận địa", cộng thêm những lời hù dọa của những anh chàng ra vẻ hiểu biết những trò "huấn nhục" sắp tới, khiến căn bệnh bao tử đột nhiên lên cơn, đêm nào cũng dùng cái thùng nước lèo của mi làm chiếc gối; còn Nguyễn Xuân Hoàng vốn bô trai nên lúc nào cũng quanh quẩn bên mấy nữ tiếp viên câu lạc bộ; cuối cùng chỉ có còn mi, để quên đi nỗi nhớ, để đỡ bồn chồn chờ ngày nghỉ phép cuối tuần gặp lại Sài-gòn, gặp lại cô bạn, đã thân cận người bạn nhỏ mê văn chương và có thể còn mê làm cách mạng, còn mong mỏi cái chết của mình có thể sẽ có ích, nếu không gây một tiếng vang nào đó thì ít ra cái mạng sống này cũng do ta quyết định. Nhưng những người Quân Cảnh đã mau chóng xóa sạch dấu vết, nếu còn chăng, đối với mi, là khuôn mặt trẻ thơ không chút dấu hiệu cho biết đây là người được Thần Chết tuyển chọn, không thông qua cuộc chiến... 

Đêm, vẫn đêm đêm, như hồn ma cố tìm cách nhập xác, như tên trộm muốn đánh cắp thời gian đã mất, mi một mình trở lại Sài-gòn, quán Cái Chùa.

Cõi khác

Lưu Kim Cương, Gấu có gặp 1 lần, hình như cũng đã kể ra rồi, trong 1 bữa ăn nhà hàng, ở Khu Chợ Cũ, mà khổ chủ là LKC, khoản đãi đám nhà văn nhà thơ, mà khách mời danh dự của bữa tiệc, là Nguyễn Mạnh Côn. Gấu ăn ké, qua Nguyễn Đình Toàn. Cũng có màn giới thiệu GCC với LKC, trong 1 lúc tình cờ, chứ không phải chủ ý. Cũng 1 tay xì phé, hình như NDT nói. Ông hỏi lại, mòng hả. NDT cười, quả thế. LKC chắc là 1 tay cự phách về xì phé.
Thời gian đó, mới quen NDT. Theo anh đi la cà. Lần tới dự bữa nhậu ở nhà Cung Tiến, là nhảm nhất. Ngay bây giờ nhớ lại, vẫn thấy nhảm. Không được mời mà cũng mò tới. Thấy mặt Cung Tiến ngớ ra, là đã thấy nhói 1 phát, ở đúng chỗ nhói 1 phát. Nhưng anh lịch thiệp đổi liền bộ mặt qua vồn vã. Và còn khen Gấu viết phê bình, đúng giọng Mít. Anh thú thiệt, tôi viết có cái giọng kinh điển, không được như GCC.
Gấu nghĩ, anh nói thực lòng.
Có ông anh nhà thơ. Ông đúng là khách mời. Ông cũng bực, nhưng không nói ra.
Đó là lần đầu tiên Gấu được uống rượu, rót ra từ cái bình bằng sành, trong 1 cái ổ rơm. Ôi chao, rượu đã ngon, nhưng thần sầu sao bằng cái bình sành để trong ổ rơm, với 1 thằng Bắc Kít, nhà quê, nghèo đói, đã từng đào trộm khoai lang ở cánh đồng làng!





1 Year Ago Today

Sến ở đâu Marie Sến ở đó

* *

From Russia With Love
Brodsky by Tolstaya
Ai chỉ định anh là thi sĩ? 

Trong cuốn sách viết về bạn mình, mượn cái tít của 1 phim James Bond, với cái tiểu tít, Joseph Brodsky in English, Daniel Weissbort, nhắc tới bài tưởng niệm Brodsky, khi ông mất, của Tolstaya, Gấu đã từng chôm, để viết về bạn của Gấu, là nhà thơ Joseph Huỳnh Văn:

-Này thi sĩ, nếu ông muốn về không ngựa trắng mà cũng chẳng cần đám đông reo hò, ngưỡng mộ, tại sao ông không về theo kiểu giấu mặt?
-Giấu mặt?
Đột nhiên thi sĩ hết tức giận, và cũng bỏ lối nói chuyện khôi hài. Ông chăm chú nghe.
-Thì cứ dán lên một bộ râu, một hàng ria mép, đại khái như vậy. Cần nhất, đừng nói cho bất cứ một người nào. Và rồi ông sẽ dạo chơi giữa phố, giữa người, thảnh thơi và chẳng ai nhận ra ông. Nếu thích thú, ông có thể gọi điện thoại cho một người bạn từ một trạm công cộng, như thể ông từ Mỹ gọi về. Hoặc gõ cửa nhà bạn: "Tớ đây này, nhớ cậu quá!"

Giấu mặt, tuyệt vời thật!

Và Weissbort phán, tuyệt vời thật, nhưng trễ quá rồi, Brodsky đã nhập mẹ vào cuộc đời mới, và sống thật bảnh ở trong đó: Ông ném mình vào ngôn ngữ và văn học của cái xứ chấp nhận ông, "đái" 1 phát lên con lộ hoài hương, ân hận, tự thương thân, "trải nghiệm nhiều hình thái lưu vong"... mà rất nhiều di dân, đặc biệt là những thi sĩ dởm, thường chọn, cái "fatal choice", như ông viết.

Wonderful, but too late. After all, one of Joseph's great achievements, as George Kline has pointed out, had been to throw himself into the language and literature of his adopted country. He rejected the path of nostalgia, regret, self-pity,lamentation, the fatal choice (if one can call it that) of so many émigré writers, especially poets. And what now, when he was no longer technically an involuntary exile? He had refused to complain about it, just as he refused to complain about his treatment in Russia, or his lack of a formal education. On the contrary, he had valued exile to the arctic region as liberating. And the education in question was a Soviet one, though when he said that the "earlier you get off track the better", he may not have been referring exclusively to the Soviet system.

Sở dĩ phải lôi ra cả 1 “lô ca xông” bài viết, chỉ để cố hiểu ra cái ý, “trải nghiệm nhiều hình thái lưu vong” mà Trần Vũ thổi, xoa đầu... bạn của ông, là nhà thơ Thận Nhiên.

Đấng này, Gấu cũng đã từng đọc, hồi cùng viết trên diễn đàn VHNT trên lưới của PCL.
Thực sự mà nói, hay, như 1 Bà Tám nào đó đã từng nhận xét, ông này - GCC - hay chê: Gấu không đọc được Thận Nhiên, dù chỉ 1 dòng!

Chắc cũng 1 thứ vượt biển sau 1975, qua Mẽo, cũng có tí tiếng Anh, có tí học trường Mẽo, nhưng không làm sao nhập vô được “dòng chính”, thế là bò về với VC. Chúng bắt trình diện, xin giấy tạm trú gì gì đó, thế là hê lên, đã từng trải qua nhiều hình thái lưu vong, lưu vong kép, bào thai đôi....

Áo thụng vái nhau đến mức như thế mà không thấy ngượng sao?

Sến cũng đâu có thua.
Sến khoe, làm chủ tiếng Đức!
Thế có viết essays bằng tiếng Đức, như Brodsky, bằng tiếng Anh?

Sến ở đâu Marie Sến ở đó!

Để 1 đấng, viết tiếng Việt chưa nên thân, bên 1 người "viết tiếng Mít, bằng tiếng Tẩy" [để diễn tả hai hình ảnh, "tôi nói tất cả mọi thứ tiếng bằng tiếng Do Thái", của Kafka, và "tôi mang đứa trẻ Mít đã chết ở trong tôi", của Linda Lê], mà thấy được, sao?

V/v Viết tiếng Việt không nên thân.
Tiếng Việt không dễ viết.

Gấu lấy thí dụ, 1 câu trên Văn Vịt, một diễn đàn trong nước, được đám Mít lưu vong mê lắm, tên nào cũng chỉ mong được chính uỷ NN để mắt tới, đăng bài và đi 1 đường xoa đầu.

Trong bài giới thiệu Phạm Cao Hoàng, ngay câu đầu là Gấu muốn chửi bậy rồi.
Vậy mà đám hải ngoại mừng húm bệ về, thờ:

Phạm Cao Hoàng đã viết trước năm 1975. Ra hải ngoại anh lại tiếp tục. Thơ anh hồn hậu, giọng trầm ấm, như một lời tâm sự nhẹ nhàng mà sâu lắng. Phạm Cao Hoàng không có những thay đổi lớn về ngôn ngữ, nhưng trong một hình thức không quá mới, cũng không quá cổ điển, anh di chuyển dễ dàng giữa các đề tài, giữa quá khứ và hiện tại, một điều không phải ai cũng làm được. Sức tưởng tượng của anh được bộc lộ trong những bài viết gần đây, bởi cảnh vật và tình cảm từ quê hương mới, nơi anh định cư, có nỗi hạnh phúc và sự cay đắng được giấu kỹ. Những mối liên kết trong anh dày đặc nhưng không phải vì vậy mà bền vững. Sự cởi mở, khoáng đạt, sự nhạy cảm, tinh tế làm nên sức mạnh của ngôn ngữ Phạm Cao Hoàng. Mặc dù hầu hết các bài thơ đều có yếu tố tự sự, thơ anh không phải là một bản ghi chép có tính nhật ký, mà là sự thăng hoa từ đời sống, sự thần thoại hóa. Chúng ta mong anh có những sáng tác dồi dào, với những biến đổi về ngôn ngữ, trong khi vẫn hy vọng rằng giọng nói đầy tâm sự, ít tranh cãi, ít hài hước, lúc nào cũng có mặt.
Văn Việt trân trọng giới thiệu.

Ra hải ngoại anh lại tiếp tục.

Tại sao lại có từ “lại” ở đây?
Vẫn tiếp tục, thí dụ, thì còn hiểu được.
Lại, vô phương!

Chưa hết, những nhận định về thơ PCH sau đó, thì hoặc là huề vốn, hoặc...  chịu thua, vì không có dẫn chứng.
Thí dụ, "thần thoại hóa", ở đâu, câu nào, như thế nào.
Có thể có người bắt bẻ, sao khó quá thế như thế? Nhưng, mô phỏng Cioran, ta mơ một thế giới, ở đó, người ta có thể chết chỉ vì 1 cái dấu phẩy: Chỉ 1 chữ “lại”, ở đây, lộ ra cái tâm địa hắc ám của người viết chapeau.
Diễn đàn Văn Vịt này đã từng vô tư lấy bài của "địch thủ" của GCC, và "được" yêu cầu, lấy xuống.
Không biết chính uỷ VC có xin phép PCH khi đăng thơ của tác giả?
Chắc không đâu. Thấy bệ bài viết về blog rồi.

Trường hợp Thận Nhiên, Brodsky cũng đã nhìn ra, trước cả bạn của ông, cái chọn lựa fatal [số mệnh, nước Mít mình nó thế, không thể tránh được..] này rồi:
Trong bài viết Thân phận lưu vong, ông phán, được tự do rồi, thất bại, đừng ăn vạ ai.

A free man, when he fails, blames nobody.
(Được tự do rồi, thất bại, đừng ăn vạ ai)

J. Brodsky, Phận lưu vong, The Condition We Call Exile


Thơ Mỗi Ngày
Đinh Cường Tribute

*

Le Figaro Magazine, 19 Février, 2016. Le Mystère de Modigliani

Một trong những bí kíp của Modigliani, là “cọ phong”, son style, có cái mềm mại, la souplesse, của 1 con mèo Xiêm.
Tranh khỏa thân của ông gây xì căng đan, cảnh sát bắt dẹp, trong có những bức như “Khoả thân mặc sơ mi”. Khỏa thân nằm, “Nu couché”, mới đạt kỷ lục,170 triệu đô chez Christie's à New York.

Năm 2007, khi triển lãm chung với họa sĩ Nguyễn Đình Thuần tại California, Đinh Cường có trả lời phỏng vấn một tờ báo người Việt tại Mỹ, qua đó ông cho biết thời trai trẻ mình đã “phải lòng” với hội họa như thế nào:
“Thời trung học, trong khi bạn mình đọc những Camus, những Sartre, tôi lại đi tìm những Bernard Buffet, những Modigliani. Đi ra những nhà sách Nhựt Bằng, nhà sách Albert Portail, nhìn những bức tranh mà mê. Mê những cô gái cổ dài của Modigliani, những tranh thơ mộng của Chagall, của Klee”.
Nguyệt Cầm, nguồn Tuổi Trẻ, Blog Phố Văn

Note: Nhà sách Nhựt Bằng, hình như Saigon ngày đó, không có.
Hay là Việt Bằng, kế kế Khai Trí?

*

Liệu bạn có thể tưởng tượng cuốn sách khổng lồ, là Bách Khoa Toàn Thư Tin Văn Toàn Tập, và cuộc gặp gỡ trên, là giữa GCC và… độc giả TV, trong 1 buổi ra mắt sách ở Tiểu Sài Gòn?

Yes, sure, why not?


Re: Editing and publishing... 

Today at 4:54 PM 

It's exactly right! Why not? Hooray...
Happy New Year, Gau Nha Van.
H/A


Tks
Take Care


Tribute to Robert Walser

Susan Sontag, the writer and activist whose powerful intellect helped shape modern American thinking for nearly half a century, died yesterday at the age of 71. Wednesday December 29, 2004
The Guardian
Tác giả Nhìn nỗi đau của những người khác, Susan Sontag vừa mới mất, ngày 28 tháng Chạp, 2004, thọ 71 tuổi 

1.

Phỏng vấn Susan Sontag

PV: Cuộc phỏng vấn này bị hoãn mấy lần, vì những chuyến đi của bà tới Sarajevo, mà nghe bà nói, đây là một trong những kinh nghiệm dữ dằn nhất trong đời. Tôi đang nghĩ tới chiến tranh và sự hiện diện của nó, tái đi tái lại, trong tác phẩm của bà.
Sontag: Tôi đã từng tới Bắc Việt, hai lần, khi Mỹ ném bom. Chuyến đầu, tôi kể lại trong "Đi Hà Nội, Trip to Hanoi". Và khi xẩy ra cuộc chiến Yom Kippur War vào năm 1973, tôi tới Israel thực hiện phim Đất Hứa, ngay tại tiền tuyến. Bosnia là cuộc chiến thứ ba của tôi.
-Trong Đất Hứa, bà viết, "Đề tài của tôi là chiến tranh, và bất cứ thứ gì dính dáng tới chiến tranh, mà lại có vẻ sạch quá - nguyên văn, 'mà không nói lên tính cụ thể khốn kiếp của huỷ diệt và chết chóc' - là bố láo."... Bà có tính viết về Sarajevo?
Không, tôi muốn nói, chưa. Chắc là còn lâu. Và không phải dưới dạng tiểu luận, hay phóng sự. Con trai tôi, David Rieff, tới đó trước tôi, và đã viết một thứ phóng sự-tiểu luận về nó. Một người trong gia đình viết về sự diệt chủng ở Bosnia, là đủ rồi. [Vả chăng].... tới đó để chứng kiến, để than thở, để chường bản mặt của mình ra, như muốn nói lên một kiểu mẫu trí thức, nghĩa là không đồng lõa... như vậy cũng là đủ rồi. Đó là những bổn phận của một con người, một con người tin vào hành động đúng, không phải của một nhà văn.
[Trích Điểm Sách Paris]

 "Trong một đoạn tuyệt vời của phim Xa quá Vietnam [Far From Vietnam], nhà làm phim người Pháp, Godard đã cho rằng, thật tốt, nếu mỗi người chúng ta làm bật ra, một con người Việt nam, từ bên trong của chính chúng ta, đặc biệt, với những người không thể tới đó [ông bị Hà Nội từ chối không cho giấy nhập cảnh, khi tính tới quay phim về Bắc Việt]. Quan điểm của Godard, từ Che mà ra, là, để phá vỡ bành trướng Mỹ, cách mạng có nhiệm vụ tạo ra "hai, ba, nhiều Việt nam", theo tôi thật là đúng. Trong bốn năm qua, Việt nam bám chặt lấy tôi, ở trong đầu, ở dưới da, ở một chỗ quái quỉ nào đó trong dạ dầy. Nhưng..."
Susan Sontag: Chuyến đi Hà Nội



Story-Bearers

Marina Warner

Je parle toutes les langues, mais en arabe

by Abdelfattah Kilito

 ‘I speak all languages but in Yiddish,’ Kafka remarks in his Diaries; and when it came to writing, he might have chosen any one of them, besides German. We now read him in all languages, receiving glimpses, like faraway signals at sea, of the original German, and beyond the German of the other languages that made up Kafka’s mindscape, with Yiddish beating out a bass line, familiar ground. Echoing Kafka, the Moroccan writer and scholar of Arabic literature Abdelfattah Kilito declares ‘I speak all languages but in Arabic,’ in the title of his recent collection of essays. Kilito is a writer who reads (not all do) – and widely, in several languages. He’s an amphibian creature, living in Arabic and French with equal agility, and ambidextrous with it, continuing to use one language or other at will for his critical studies or his ‘récits’ – his gnomic, often poignant memoirs and fictions. 

Tôi nói tất cả thứ tiếng, bằng tiếng Do Thái, Kafka phán, trong Nhật Ký của ông. Và khi viết, thì bên cạnh tiếng Đức, ông có thể viết bằng bất cứ 1 trong những thứ chữ. Và bây giờ, chúng ta đọc ông, trong tất cả các thứ tiếng, và nhận được, những loáng thoáng, như những ký hiệu xa xa ở mặt biển, của tiếng gốc Đức, và quá nó, của những thứ tiếng khác, chúng làm thành “mindscape” của ông, với tiếng Do Thái, như là tiếng đập giữ nhịp [a bass line, familiar ground].
Lập lại Kafka, nhà văn Ma Rốc và nhà học giả văn học Ả Rập, Abdelfattah Kilito, tuyên bố, tớ nói tất cả tiếng nói, bằng tiếng Ả Rập, trong cái tít của tuyển tập tiểu luận mới ra lò. Ông là 1 nhà văn đọc rộng vài ngôn ngữ, một sinh vật lưỡng cư - vừa ở trên cạn, vừa ở dưới nước, sống thoải mái, lanh lẹ như nhau, ở trong tiếng Ả Rập và tiếng Tẩy, thuận cả hai tay với nó, tiếp tục sử dụng, hoặc tay phải, hoặc tay trái, để đi những đường tiểu luận hay “récits” - những giả tưởng, hồi ức có tính châm ngôn, thường là nhức nhối.


Độc giả TV, đọc mẩu trên, là nhìn ra cái sự thê lương của cõi văn Mít.
Không rành tiếng Mít; tiếng mũi lõ thì mù tịt, chưa kể cái mảng ăn cướp mà kêu là khai hóa, giải phóng của thứ tiếng Bắc Kít.
Sở dĩ cái đám Miền Nam bỏ chạy, không tên nào ra hồn, vì chúng học tiếng mũi lõ, không phải để hiểu văn hóa, văn học của 1 giống dân nào khác, mà để chuồn.

Viết mỗi ngày



Lò Thiêu @ France

Dear father
A haunting memoir of a young Holocaust survivor

But You Did Not Come Back.

By Marceline Loridan-Ivens. Translated by Sandra Smith. Faber; 100 pages; £12.99.

Nhưng bố tôi không trở về

Đây là 1 cuốn sách nhỏ với giọng lớn.
Tác giả mất 70 năm, trước khi có thể viết ra được.
Vào năm 15 tuổi, Tháng Tư, 1944, cô gái và ông bố bị bắt ở ngoài vườn, trong khu vực Pháp bị Nazi đô hộ, và bị tống xuất, ông bố tới Auschwitz, cô gái tới Birkenau.
Cô gái trở về.
Đây là lá thư dịu dàng, đau nhức, hối hận của tình yêu, của cô con gái, viết cho ông bố chẳng bao giờ trở về.
Hồi nhớ của cô gái xoay quanh hy vọng bất thành, làm sao nhớ ra được những từ cha mình viết trong lá thư, được lén lút đưa cho cô con gái, khi cả hai bị giam giữ trong trại tử thần.
Vào lúc đó, cô con gái được phân công đào hố, chôn xác chết từ phòng hơi ngạt.
Cô lầm bầm nói với chính mình, "những từ bố mình dùng, hình như là nói về tình yêu, hy vọng, nhưng làm gì còn nhân loại ở trong tôi…. Tôi phục vụ thần chết. Tôi là 'phù thăng' [thằng phu, người dọn dẹp], là cái cuốc, cái xẻng của nó."

Saigon ngày nào của GCC




Ngô Nhật Đăng liked this.

QUYẾT NGHỊ về VIỆT NAM (CHXHCNVN) ĐƯỢC ĐẠI HỘI THẾ GIỚI VĂN BÚT QUỐC TẾ THÔNG QUA TẠI QUÉBEC, GIA NÃ ĐẠI (CANADA)

Dưới đây là toàn văn Quyết Nghị về Việt Nam. Dự thảo tiếng Pháp và tiếng Anh đã được tu chỉnh 48 giờ trước khi đại biểu Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại lên đường đi dự Đại hội. Bản tiếng Tây Ban Nha do Văn Bút Quốc Tế phiên dịch. Bản tiếng Việt do văn hữu Hà Tản Viên (Hà Nội) phiên dịch và nhà báo Nguyễn Ngọc (Thụy Sĩ), trợ bút. (Nguồn tin: nhà thơ Nguyên Hoàng Bảo Việ...

Continue Reading


*
manhhai
Giao tranh tại khu vực CHOLON Tháng 6, 1968 - Tiệm Radio và điện LẬP THANH số 541 Đồng Khánh (góc ĐK-Mạnh Tử)
Ten (10) Viet Cong bodies lie in the street in Cholon where they were dragged by ARVN Rangers.
6 June 1968
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/25026209782/

Trong nhà xe Đài Phát Thanh
Người lính Dù dùng làm nơi chất thây những người chết

Những hồn ma từ đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho Gấu đi

Trong vương quốc của những người đã chết
Gấu vẫn thường thơ thẩn đi về... 


30.4.2014

Let the Past Collapse on Time!

“Dzhugashvili [Stalin] is there, preserved in a jar,” as the poet Joseph Brodsky wrote in 1968. This jar is the people’s memory, its collective unconscious.
“Stalin ở trong đó, được gìn giữ ở trong 1 lọ sành”, như Brodsky viết, vào năm 1968. Cái lọ sành là hồi ức của dân tộc, cái vô thức tập thể của nó.

“Tẫu Cút Đi”: Trong cái lọ sành đựng hồi ức của Bắc Kít, hình như đếch có chỗ dành cho Tẫu, trong cả hai cuộc chiến thần kỳ, chống thực dân cũ, Pháp, và mới, Mẽo.

“You were not who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.


Yiyun Li


Cái chuyện Miền Nam, tức Ngụy, chống Tẫu, thì rõ như ban ngày.
Còn cái chuyện Bắc Kít chống Tẫu, thì có cái gì đó cực kỳ vô ơn ở trong đó
Không có Tẫu, là cả hai cuộc chiến không có.
Nhìn rộng ra, nhìn suốt 1 cõi 4 ngàn năm văn hiến của... Bắc Kít, có hai yếu tố không có, lòng nhân từ và lòng biết ơn.
Hai yếu tố làm nên con người "hoàn toàn" [từ này của Mạc Xịt, l'homme total]
Vương Đại Gia, đại phê bình gia Bắc Kít phán, may mà có [văn học] Ngụy, sau khi...  phần thư nó.

Trên tờ Guardian số cuối tuần, có 1 bài viết về lòng biết ơn, khi nó xẩy ra đúng vào thời kỳ Lò Thiêu, thật tuyệt. TV post ở đây, và chuyển ngữ sau.

*

Tẫu tiến vô Cao Bằng

(

Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi, mà mô phỏng Gulag của Xì.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.
Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình tàn độc này.

Lạ, là không chỉ não bị sứt một mẩu, mà hồi ức VC cũng thủng 1 hố to tổ bố. Chúng chửi Tẫu ra rả, mà không hề nhớ, cái lông chim ngày nào của chúng, cũng “made in China”!





Harper Lee, To Kill a Mockingbird author, dies aged 89
http://www.theguardian.com/books/2016/feb/19/harper-lee-author-to-kill-a-mockingbird-dies-alabama

RIP

Umberto Eco, Italian novelist and intellectual, dies aged 84
The revered literary critic, author and essayist – most famous for 1980 novel The Name of the Rose – had been suffering from cancer
http://www.theguardian.com/books/2016/feb/20/italian-author-umberto-eco-dies-aged-84

RIP

Đinh Cường Tribute

 Tribute to PCL & VHNT

Thông báo của Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng
Sau 9 năm hoạt động trên internet (1995 - 2004), VHNT quyết định đình bản vì nhiều khó khăn trong việc điều hành và biên tập trong năm vừa qua. Thành thật cám ơn sự ủng hộ của bạn đọc, các thân hữu cộng tác trong thời gian qua.
Trân trọng
Nguồn

Quoc Tru Nguyen's photo.




ĐÀ LẠT,
NHỮNG ĐOẠN GHI RỜI

Đinh Cường

Mùa hè Đà Lạt thường mưa buổi chiều, mưa liên tiếp ba buổi rồi tạnh. Mưa núi buồn hơn mưa thành phố. Có thể ngửa bàn tay hứng những hạt mưa đá li ti rồi tan ngay. Mây xám thấp, sà xuống sát núi. Chỉ chừa lại một loé sáng . Một màu mây nếu vẽ lên tranh sẽ thấy thật dữ dội. Những cây thông già mờ đi trong từng đám mây băng qua. Và gió se lạnh. Phải kéo cao cổ áo. Đến một thành phố khác, tìm mua một tờ báo từ Sài Gòn lên như gặp được người quen, và người quen thường đến chậm. Đọc báo ở địa phương cũng gặp những nét riêng, biết được những sinh hoạt sinh động mà âm thầm ...
Đã lâu lắm rồi không qua lại đèo Ngoạn Mục. Từ Trại Hầm, Trạm Mát đến Trạm Bò, Cầu Đất để về Xóm Rẫy ... Chuyến xe đò lại vòng xuống Đức Trọng để rẽ qua con đường về Nha Trang . Trên đoạn đường qua Đơn Dương, tôi như lặng đi với bao nhiêu xúc cảm của một thời trai trẻ, đã sống những ngày tháng nồng nàn , với những bức tranh đầy sinh lực, thơ mộng .
Những đêm trăng trên cánh rừng dương xĩ , tiếng vượn hú giữa khuya , và bước chân của người bạn nhạc sĩ đến thăm lâng lâng sương khói lúc chiều tà :
Nhớ không Sơn rượu chiều Đơn Dương
bạn cùng ta uống cạn ...

Ban mai kéo nhau ra soi mặt bên giòng suối trong ... Lạc Lâm I , Lạc Lâm II , KaĐô, Đơn Dương . Mà sao cứ nhớ mãi .
"... Mặt đất này chen chúc muôn loài hoa , mỗi loài hoa có riêng một ngôn ngữ nói với riêng tôi là đoá dã qùy bao nhiêu năm rồi ở Đơn Dương, ở Đa Thọ mặt đất này có bao nhiêu miền lạ mỗi một miền có riêng một linh hồn mà linh hồn tôi mãi ở Đơn Dương ..." (Nguyễn Đạt)
Nhìn một rừng hoa qùy vàng dại bên đường, thật xúc động, khi bên cạnh là đứa con trai, hình ảnh tôi thời mới lớn, mà nay cũng đã biết thắp lên khoảng không những lời mịt mùng :
"Tôi cầm lửa đi qua chiều
thắp lên khoảng không mầu nhiệm
trí nhớ thả đều những tiếng rơi khô
mặt trời đỏ trên vai núi ..."
(Đinh Trường Chinh)

Xe qua đèo Eo Gió lồng lộng ... Nhìn xuống lũng sâu, những đoạn đường ngoằn ngoèo dưới đó . Qua hết đèo là Sông Pha , một dải đồng bằng . Trên con đường hun hút , bỗng gặp hai hàng phượng đỏ rực. Chưa thấy hàng phượng nào đẹp như phượng Tháp Chàm. Thân cây thấp, tiếp nối theo nhau một đoạn đường dài, đều đặn ...
Và biển đã hiện ra phía bên phải. Một đoạn biển Cà Ná cũng đủ dựng lên một cảnh trí. Nói chi đến những đồng muối trắng, rồi những vườn xoài bạt ngàn ở Cam Hòa. Muối được vun lên thành núi , và xoài cũng vun lên thành núi. Đẹp quá một đoạn đường đầu hạ đi qua. Lên rừng xuống biển. Mới thở sương mai Đà Lạt, chiều đã ngâm mình dưới biển Nha Trang. Màu nước xanh huyền diệu. Một bờ cát chạy dài bên con đường ven biển lộng gió . Đêm ra phố, lại tìm mua vài tờ báo. Đọc được mấy bài thơ ngắn của Nguyễn Đình Thi , mà nay anh vừa mới mất. Có bài "Hoa Không Quên" mà anh đã chép tặng tôi trong cuốn sổ tay năm 1987, hôm anh ghé Sài Gòn :
"Tím hồng trên vách đá
một đóa hoa
bé nhỏ cười với núi mây lộng gió
Đóa hoa không tên
từ rất xa
từ rất lâu
một ngày bỗng nở
Đoá hoa không quên
từ rất lâu
từ rất xa ..."

Phải, đoá hoa không quên, từ rất lâu , từ rất xa ... của tôi là đoá hoa phong lữ thảo trên những bồn hoa bên cửa sổ những ngôi nhà Đà Lạt , ngày nào.
Căn phòng thuê ở đường Roses, suốt mùa là những cánh hoa mong manh ấy, đủ màu, chen dưới những đốm lá xanh tròn. Căn phòng có cánh cửa không khóa , có ngọn đèn cháy cả đêm. Cả đêm, tôi say sưa vẽ, và Đỗ Long Vân say sưa dí mắt cận vào sách. Từng đống vỏ Bastos xanh. Từng khuôn mặt bè bạn : Thiệp, Sơn, Mai, Christian, Tường, Sâm , ... Căn nhà nay là một công sở lớn. Màu ngói màu sơn chói chan. Gió ở đâu lùa về qua hai hàng thông cao còn đó, làm tôi rùng mình ...

"Níu vai phố rộng xin về
Với cây gió trút với hè nắng rung "
(Bùi Giáng)

Có ai ngờ, một ngày, Bùi Giáng đã được mời lên Đà Lạt để quay một cảnh trong phim ...
Buổi chiều, như ngày xưa, thường ngồi ở Shanghai với Phạm Công Thiện, thời Thiện ở dưới căn phòng đường Yagut, say sưa viết về Saroyan, Henri Miller, ... Nay tôi lẳng lặng ngồi một mình một góc trên chiếc băng ghế da dài ở café Tùng. Ông Tùng mất đã hai năm nay. Còn bà Tùng và con trai cả tiếp tục trông coi quán . Café Tùng cũng như café Lâm ở Hà Nội, lâu năm nhất, một góc thân thuộc như linh hồn của phố, và của cả nghệ thuật ...
Vách bên trái vẫn còn treo bức Thiếu Nữ Xanh của tôi, đã 40 năm, từ hôm ông mua ở phòng triễn lãm tại Alliance Francaise Đalat, 1965 . Vách bên phải là bức Người Chơi Đàn Guitar, đầu cúi xuống, khổ lớn, màu nâu ấm, của Vị Ý . Phòng trong vẫn còn bức chân dung thiếu nữ với chiếc bandeau màu hồng nhạt của Cù Nguyễn.
Nhìn lại tranh xưa , qua thời gian tàn phai, qua hoàn cảnh đổi thay – ông phải giấu đi một thời gian dài mới đem ra treo lại – lần gặp tôi về thăm đầu tiên, ông nói vậy. Không biết bộ báo Bách Khoa đóng bìa da mà ông sưu tập đầy đủ, có còn không ...
Và nhà thờ Con Gà Đà Lạt, in dấu vào bao nhiêu tranh thiếu nữ của tôi đến ngày nay. Có lẽ ám ảnh từ thời "Les Dimanches de Ville d’Avray", phim đen trắng và cô bé Cybelle làm tôi cảm động ... "Chuyện phim kể về anh chàng đánh giặc về hơi khật khùng, thường đến đón một cô gái nhỏ bị bỏ rơi ở trường học ngày cuối tuần. Cô gái tên Cybelle (Si belle ?) . Một đêm lễ anh khật khùng leo lên đỉnh tháp chuông, gỡ con gà bằng đồng trên đó về cho cô gái để làm quà tặng. Người trong làng nghi ngờ anh ta bắt cóc cô gái và có tà ý . Anh ta bị bắn từ trên tháp chuông rớt xuống đất chết tốt , không kịp trối trăn ... " (Kiệt Tấn – Nụ Cười Tre Trúc – nxb Văn Nghệ, trang 140).
Khi qua Paris, tôi đã tìm đến thăm ngôi nhà thờ Con Gà ở thành phố nhỏ Avray, kề cận Paris, cũng vì để tìm lại bóng dáng nhà thờ Con Gà Đà Lạt một thời sương khói. Sương khói như trong "Một Chủ Nhật Khác" của Thanh Tâm Tuyền. Tập truyện được viết trong không khí của mùa hè nóng bỏng chiến tranh, trên thành phố cao rực rỡ rét mướt, một truyện tình lãng mạn, chứa chất những đam mê vô vọng.
Có đoạn làm nhớ khung cảnh L’eau Vive, quán ăn ấm cúng dưới một con dốc của các dì xơ, những muỗng, nĩa bạc, khăn bàn trắng, nến lung linh, bình hoa hồng sẫm...
Một Chủ Nhật Khác đã in xong đúng tháng 4, 1975 , thất tán. May Ngọc Dũng năm 75 trong hành lý xách tay mang theo, lại chỉ có quyển truyện này. Sau đưa cho cơ sở xuất bản Văn của Mai Thảo in lại bên này ...
Đà Lạt và đêm. Những đêm sương toả ngát trời, đứng bên đồi Lữ Quán Thanh Niên nhìn qua Domaine de Marie, ánh đèn lấp loá dưới xa như những ngọn hải đăng. Những đêm hoang vu nhất như người đi hái hoa phù dung ... mà trong bức tranh cũ : "Người Hái Hoa Đầu Địa Đàng" tôi đã ghi dấu. Đó là một đồi thông, ngựa và thiếu nữ, khăn voile bay, vầng trăng bạc ...
May là Đà Lạt vẫn còn thông ... "Thông với thơ là một. Trong núi thơ có đồi thông. Trong đồi thông có núi thơ. Núi thơ là đồi thông. Đồi thông là núi thơ ... " (Nguyễn Đức Sơn).
Tôi còn tìm được cho riêng mình cái mùi hăng hắc của nhựa thông, khi đêm lạnh về bên ánh lửa tàn, trước sân căn nhà nhỏ dưới con dốc sâu đường Trần Hưng Đạo của Thân Trọng Minh. Bạn đã đón tôi về, với ngụm trà thơm ngát ban mai, nhìn ra những bụi mimosa vàng.
Tôi còn giữ mãi hình ảnh Đà Lạt với màu mây dữ dội.

Virginia, 9.03

ĐINH CƯỜNG


Một Chủ Nhật Khác đã in xong đúng tháng 4, 1975 , thất tán. May Ngọc Dũng năm 75 trong hành lý xách tay mang theo, lại chỉ có quyển truyện này. Sau đưa cho cơ sở xuất bản Văn của Mai Thảo in lại bên này ..
DC
Tuyệt: Chi tiết là Thượng Đế trong văn chương, và còn trong "đời thực", như thế này, mới khiếp chứ!
Ui chao, Gấu lại nhớ ấn bản của Gấu, được nhà thơ đích tay thân tặng, một vài ngày, chắc cỡ đó, sau 30 Tháng Tư, 1975, Gấu vừa ra khỏi một "rehap", tại một con hẻm Sài Gòn, lấy cái vespa ghé thăm ông, hai anh em ra một quán cà phê gần nhà ông, khu Xóm Gà.
Và cũng chỉ ít tháng sau đó, chắc cỡ đó, Gấu Cái xé từng trang, sau khi đọc lần chót, rồi đưa vô bếp, thay cho củi...
Bài viết của DC có khá nhiều chi tiết là Thượng Đế trong đời thường.
Mấy bài thơ NDT.
"C
ả đêm, tôi say sưa vẽ, và Đỗ Long Vân say sưa dí mắt cận vào sách"
"Tôi còn tìm được cho riêng mình cái mùi hăng hắc của nhựa thông."
*
Hay, cũng DC:
Đêm trên phố khuya ấy là một kỷ niệm đẹp. Trong chúng ta, ai mà không có những góc phố kỷ niệm :
Níu vai phố rộng xin về
Với cây gió trút với hè nắng rưng

(Bùi Giáng)
Với Sơn thì :
Về trên phố cao nguyên ngồi
Tiếng gà trưa gáy khan bên đồi

như còn nghe rõ "ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì" của chúng tôi trên phố Blao, Đơn Dương, Đà Lạt ...
Nguồn

*
Tin Văn  @ VHNT n. 558
19.9.2003

Không dễ gì mà làm một người CS, và càng không dễ, làm một nhà văn CS.
TCS: Theo tôi, nhạc TCS có tới hai "đỉnh cao".
Đỉnh cao thứ nhất: Nó tiên đoán Mậu Thân, khi bắt đầu bằng những câu hát cho thấy sự bình an của hang ổ Mỹ Ngụy chỉ là giả tạo.
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe.
Đỉnh cao thứ hai của nó: Người chết hai lần
Một lần cho cuộc chiến
Và một lần cho biển cả.

Ta`n tro trong gio'

Saturday, September 26, 2009 12:57 PM
From: "LVTA"
To:
Cha`o O^ng  Nguye^~n Quo^'c Tru.
Ba^'t ngo+` vo+'i tin Chi Lan tre^n calitoday & ho^m nay la^`n da^`u xem trang ta^n vie^n ne^n bie^'t O^ng va^~n cha(m so'c tin va(n tha^.t chu da'o va` co`n giu+~ la.i ca? va`i trang VHNTLM cu~ trong tra(m nga`n lo+'p a?o lie^n ma.ng cu+' tu+o+?ng ta^'t ca? da~ theo gio' cuo^'n hu't va`o hu+ kho^ng, nhu+ kho^ng!
Tin Ca^?n
LVTA, Canada

Phúc đáp:  Mấy số VHNT cũ, nhờ Alexa lưu giữ dùm.
Tks.
Lâu quá mới nghe tin LVTA.
Take care.
NQT

*

*

Tặng, lần Gấu qua Paris, tá túc nhà anh

Note: Gấu có viết về lần xém chết này rồi.
Do xổ tiếng Tây, khi hai thằng tranh cãi về tiểu thuyết mới, bị đám anh chị ngồi cũng ngồi trong quán, nóng mắt, bèn ra bên ngoài chờ, tính thịt.
May nhờ bà chủ quán cho người báo động, đi cửa sau, chuồn.
Sau này, ra hải ngoại, đọc bài viết của ông anh KT, mới biết, nhà của KT ở trong khu này. Quán cho người vô nhà báo động, ông anh chạy ra kéo ra cửa sau.

Những rừng đèn chai đứng dậy trong đêm khuya
Thơ Kiệt Tấn

* *

Hình như trong Cát lầy có một nhân vật tên là Kiệt, quả đúng y thị, tên của tôi. Kiệt là một nhân vật lừng khừng, dật dờ, sống cẩu thả, bê bối - tôi nhớ loáng thoáng. Có bận hỏi tác giả, Kiệt trong Cát lầy có phải phần nào đã đội lốt Kiệt tui ngoài đời chăng? Hoàng Ðế khẽ gật gù phán nhỏ: "Cũng có". Như vậy, vô tình tôi đã được đẩy vào văn học sử, và hết phương trở ra nữa. Than ôi, người ngay mắc nạn! Trời đã hại Sa Vệ! Khiến cho Hạng Võ phải biệt Ngu Cơ rồi tự ý cắt đầu giao cho ông lái đò trên dòng sông định mạng.

Kiệt Tấn

Nhân vật chính của Cát Lầy, tên Trí. Có lần, hỏi, ông cho biết, đúng, khi đặt tên Trí, ông có liên tưởng tới nhân vật làm thịt hụt ông Diệm trên cao nguyên Ban Mê Thuật thuở nào. Hình như Nguyễn Trương Thiên Lý, trong Ván Vài Lật Ngửa, có nhắc tới cú này?
Kiệt là nhân vật trong Một Chủ Nhật Khác. Trùng tên với Kiệt Tấn, trùng thêm vài chi tiết nữa, như du học, về trở lại. Nhưng dậy học Đà Lạt, thì lại giống tác giả. Chi tiết "Et , enfin", lại của một người khác, cũng, như KT, bạn tác giả.
Không hiểu, ngoài Trí ra, còn một nhân vật tên Kiệt, trong Cát Lầy?  
Chắc không, theo Gấu.


Kiệt ở trong Một Chủ Nhật Khác, khác với Kiệt Tấn ở một chi tiết rất quan trọng, là, anh người Bắc. Đi du học, quen một em, hai người đều tính không trở về, nhưng do bà cụ em đau nặng, em phải trở lại đất nước. Kiệt về vì em và đứa con sắp sinh, chẳng vì một lý do lớn lao nào khác nữa.
Còn một chi tiết quan trọng khác, về Kiệt. Anh đi du học, là do ông bố. Ông này không muốn đứa con chết vì cuộc chiến. Một thương gia người Bắc, rất khôn ngoan, bỏ Miền Bắc ngay sau khi ở hậu phương về Hà Nội, vô Nam lập nghiệp. Ông bố của Kiệt làm Gấu nhớ đến một ông bố của một cô bạn của Gấu. Ông này làm khổ Gấu nhiều lắm!
Có vẻ như TTT lấy nhiều chi tiết của ông này, cho ông kia.

Thành thử cái chuyện Kiệt trở về, để sau đó chết lãng nhách, vì bị lầm với một ông VC, nó có nhiều 'ẩn dụ' ở trong đó lắm.
Theo Gấu, những nhân vật của TTT đều từ đời sống bước vô văn học, nhưng sau đó, họ đều có những đời sống riêng, khác hoàn toàn nguyên mẫu.
(1)

Cô bạn ở đây, là BHD. Ông bố của Kiệt, trong MCNK, là từ ông bố BHD ngoài đời. Và đúng là BHD không muốn Gấu phải gọi ông ta là bố, nên bye bye Gấu.
Ta không muốn làm nhục mi, nếu mi lấy ta, thì phải gọi ông ta bố.
BHD còn 1 người em trai học giỏi lắm, tên Hưng, đi du học, rồi từ luôn gia đình, chỉ giữ mối liên hệ máu mủ, qua BHD.
Khi bán căn nhà ở Ngã Sáu Gia Long, hai chị em ký giấy nhường hết phần của họ cho đám còn lại.
Chỉ có mỗi Gấu là được cái ân huệ, đưa cho ta tí tiền lẻ, để ta bù vô tiền chợ ta lỡ tiêu quá đi 1 chút, và không muốn phải giải thích với bố mẹ ta...

Ui chao, liệu 1 khi đi xa, vẫn còn nhớ...  BHD?

Ân huệ, hay ân sủng?
Một Chủ Nhật Khác

Cuốn này, MCNK, sống sót là nhờ Ngọc Dũng mang theo những ngày bỏ chạy 30 Tháng Tư, 1975. Cơ sở Văn của MT sau đó cho xb.
Bản trên net, có, là nhờ Nguyễn Đông Ngạc, trước khi té xuống, dặn bà vợ đưa cho GCC.
Gấu đọc nó, thì cứ liên tưởng tới Cuộc Tình Bỏ Đi, Tender Is the Night, của Fitz
Cái tít tiếng Việt, của Mặc Đỗ. Ông dịch những cuốn thần sầu. Anh Môn, Cuộc Tình Bỏ Đi....
Lạ, là mấy cuốn này, chúng quen biết nhau. MCNK, Anh Môn, Cuộc Tình Bỏ Đi, Gatsby. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby.


* *

*

Liệu bạn có thể tưởng tượng cuốn sách khổng lồ, là Bách Khoa Toàn Thư Tin Văn Toàn Tập, và cuộc gặp gỡ trên, là giữa GCC và… độc giả TV, trong 1 buổi ra mắt sách ở Tiểu Sài Gòn?

Yes, sure, why not?


Re: Editing and publishing... 

Today at 4:54 PM 

It's exactly right! Why not? Hooray...
Happy New Year, Gau Nha Van.
H/A


Tks
Take Care


The Moon
for Maria Kodama

There is such loneliness in that gold.
The moon of the nights is not the moon
Whom the first Adam saw. The long centuries
Of human vigil have filled her
With ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.

J.L. Borges

Trăng

Có cái cô đơn khủng khiếp như thế đó ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng của đêm không phải trăng Adam đầu tiên nhìn thấy
Những thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con người
Đã tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy nhìn nàng kìa.
Nàng là tấm gương của em đó.


Valentine's Day

Thơ Mỗi Ngày

Ta thấy hình ta những miếu đền

Ta thấy tên ta những bảng đường
Đời ta, sử chép cả ngàn chương
Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương

Mai Thảo

THE POET PROCLAIMS HIS RENOWN

The span of heaven measures my glory.
Libraries in the East vie for my works.
Emirs seek me, to fill my mouth with gold.
The angels know my latest lyrics by heart.
The tools I work with are pain and humiliation...
Would that I had been born dead.

-from The Divan of Abulcasim el Hadrami (twelfth century)

LE POÈTE PROCLAME SA RENOMMÉE

Le cercle du Ciel est la mesure de ma gloire,
Les bibliothèques de l'Orient se disputent mes vers,
Les emirs me cherchent pour emplir ma bouche d'or,
Les anges savent déjà par coeur jusqu' à mon dernier zejel,
Mes instruments de travail sont l'humiliation et l'angoisse;
Plut à Dieu que je fusse né mort.

GCC đòi vinh danh là nhà văn của thế kỷ... 21

Bầu trời là thước đo vinh quang của GCC
Thư Viện Đông Phương cãi nhau ỏm tỏi
Vì những bài Tạp Ghi thần kỳ của GNV
VC xin gặp Gấu để mời về làm Trùm Văn Học xứ Mít
Những thiên thần thuộc lòng thơ của Gấu
Dụng cụ viết văn của Gấu là tủi nhục, và đau thương.
May quá, Gấu không chết lần vượt biển ở Vũng Tầu!
[Nguy
ên văn, giá mà G sinh ra và ngỏm liền củ tỏi!]

LIMITES

II y a une ligne de Verlaine don’t je ne dois plus me ressouvenir,
II y a une rue toute proche qui est défendue à mes pas,
II y a un miroir qui m'a vu pour la dernière fois,
II y a une porte que j'ai fermée jusqu'à la fin du monde.
Parmi les livres de ma bibliothèque (je les ai devant mes yeux)
II doit y en avoir un que je n'ouvrirai jamais plus.
Cet éte j'aurai cinquante ans ;
La mort me rogne, incessante

JULIO PLATERO HAEDO,
Inscripciones
(Montevideo, 1923).

Giới hạn

Có 1 dòng thơ của TTT, Gấu không làm sao nhớ ra
Có 1 con phố ngay gần nhà, Gấu không được đặt chân tới.
Có 1 cái gương nhìn thấy Gấu lần chót
Có 1 cái cửa Gấu đóng lại cho đến Tận Thế
Trong số sách thư viện của Gấu (đang hiển hiện ra trước mắt Gấu)
Phải có 1 cuốn mà Gấu sẽ chẳng bao giờ mở ra nữa
Mùa Thu này Gấu gần tám bó
Cái chết gặm Gấu suốt ngày đêm

*

Trong cuốn này có cái thư Tsvetaeva gửi cho Xì Ta Lỉn, xin tha cho chồng và con gái

Tribute to Robert Walser

Susan Sontag, the writer and activist whose powerful intellect helped shape modern American thinking for nearly half a century, died yesterday at the age of 71. Wednesday December 29, 2004
The Guardian
Tác giả Nhìn nỗi đau của những người khác, Susan Sontag vừa mới mất, ngày 28 tháng Chạp, 2004, thọ 71 tuổi 

1.

Phỏng vấn Susan Sontag

PV: Cuộc phỏng vấn này bị hoãn mấy lần, vì những chuyến đi của bà tới Sarajevo, mà nghe bà nói, đây là một trong những kinh nghiệm dữ dằn nhất trong đời. Tôi đang nghĩ tới chiến tranh và sự hiện diện của nó, tái đi tái lại, trong tác phẩm của bà.
Sontag: Tôi đã từng tới Bắc Việt, hai lần, khi Mỹ ném bom. Chuyến đầu, tôi kể lại trong "Đi Hà Nội, Trip to Hanoi". Và khi xẩy ra cuộc chiến Yom Kippur War vào năm 1973, tôi tới Israel thực hiện phim Đất Hứa, ngay tại tiền tuyến. Bosnia là cuộc chiến thứ ba của tôi.
-Trong Đất Hứa, bà viết, "Đề tài của tôi là chiến tranh, và bất cứ thứ gì dính dáng tới chiến tranh, mà lại có vẻ sạch quá - nguyên văn, 'mà không nói lên tính cụ thể khốn kiếp của huỷ diệt và chết chóc' - là bố láo."... Bà có tính viết về Sarajevo?
Không, tôi muốn nói, chưa. Chắc là còn lâu. Và không phải dưới dạng tiểu luận, hay phóng sự. Con trai tôi, David Rieff, tới đó trước tôi, và đã viết một thứ phóng sự-tiểu luận về nó. Một người trong gia đình viết về sự diệt chủng ở Bosnia, là đủ rồi. [Vả chăng].... tới đó để chứng kiến, để than thở, để chường bản mặt của mình ra, như muốn nói lên một kiểu mẫu trí thức, nghĩa là không đồng lõa... như vậy cũng là đủ rồi. Đó là những bổn phận của một con người, một con người tin vào hành động đúng, không phải của một nhà văn.
[Trích Điểm Sách Paris]

 "Trong một đoạn tuyệt vời của phim Xa quá Vietnam [Far From Vietnam], nhà làm phim người Pháp, Godard đã cho rằng, thật tốt, nếu mỗi người chúng ta làm bật ra, một con người Việt nam, từ bên trong của chính chúng ta, đặc biệt, với những người không thể tới đó [ông bị Hà Nội từ chối không cho giấy nhập cảnh, khi tính tới quay phim về Bắc Việt]. Quan điểm của Godard, từ Che mà ra, là, để phá vỡ bành trướng Mỹ, cách mạng có nhiệm vụ tạo ra "hai, ba, nhiều Việt nam", theo tôi thật là đúng. Trong bốn năm qua, Việt nam bám chặt lấy tôi, ở trong đầu, ở dưới da, ở một chỗ quái quỉ nào đó trong dạ dầy. Nhưng..."
Susan Sontag: Chuyến đi Hà Nội


Sách & Báo Mới
NL vs Camus

à, Camus lại còn cái nữa rất là hehe: tủ sách mà Camus phụ trách cho nhà Gallimard tên là "Espoir" tức là hy vọng, nghe là đủ biết rồi đấy.
Blog NL

"Espoir" ở đây, gốc của nó, là từ Kafka, như khi Camus viết về ông:

Camus nhìn ra, cả hy vọng lẫn phi lý, ở n
ơi
Kafka: Nói đến hy vọng ở đây, không phải tiếu lâm, cà chớn (ridicule). Bởi vì, càng bi thảm tới cỡ nào là nỗi ở đời của những nhân vật của Kafka, hy vọng càng ngược ngạo chừng đó...

Hay nói như Kierkegaard,
"Phải đập nát bấy hy vọng trần gian, để làm bật ra hy vọng thứ thiệt, và được cứu rỗi, nhờ nó"
(On doit frapper à mort l’espérance terrestre, c’est alors seulement qu’on se sauve par l’espérance véritable – Kierkega
ard: La Pureté du coeur: Sự Trong trắng, trinh nguyên của trái tim).

*

Les critiques de notre temps et KAFKA
présentation par Claudine Raboin
Assistante à l'Université de Paris X - Nanterre

Gaston Bachelard/Roger Bauer/Daniel Biégel/Maurice Blanchot/André Breton/Max Brod/Albert Camus/Elias Canetti/Paul Claudel/Daniel-Rops/Claude David/Michel Dentan/Vladimir Dneprov
Albert Ehrenstein/Wilhelm Emrich/Gesine Frey/Roger Garaudy/Eduard Goldstucker/Maurice Gravier/Ingeborg Henel /Eugène Ionesco/Claude-Edmonde Magny/Maurice Marache/
Fritz Martini/Hans Mayer/Robert Musil/Heinz Politzer/Marthe Robert/Jean-Paul Sartre/Walter H. Sokel /Jean Starobinski/Homer Swander/Alexandre Vialatte/Klaus Wagenbach
   
Albert Camus

L’espoir et l’absurde dans l'oeuvre de Kafka


    L’oeuvre d'art étant pour A. Camus « elle-même un phénomène absurde” », on ne s 'étonnera pas de trouver dans Le Mythe de Sisyphe une interprétation de l'oeuvre de Kafka. En effet, Camus voit en lui un de ces « romanciers philosophique” que sont les grands romanciers modernes [« c'est-à-dire, ajoute-t-il, le contraire d’écrivains à thèse”]. Si la situation métaphysique de l'homme moderne est l'absurde, Kafka, rapproché ici de Dostoievski, en est le romancier lucide conscient. « Le Procès, dit Camus, est une oeuvre absurde dans ses principes » : on y trouve, en effet, les paradoxes et les contradictions propres à la littérature de l’absurde; le choc des deux mondes où se meut Kafka, celui de la vie quotidienne et celui de l'inquiétude surnaturelle, produit cette « révolte inexprimée », ce « désespoir lucide et muet » - créateurs, et caractéristiques du genre - que les personnages assument avec une « liberté d'allure», une simplicité et un naturel tout aussi caractéristiques.
Cette inquiétude surnaturelle mène les héros de Kafka - tout particulièrement dans Le Chateau - aux confins de l'absurde, et c'est là que se produit le « saut» qui fonde une autre espérance : « Son verdict incroyable acquitte, pour finir, ce monde hideux et bouleversant où les taupes elles-mêmes se rnêlent d'espérer. »
C. R.

Albert Camus, Le Mythe de Sisyphe, essai sur l' absurde, © ed, Gallimard, Paris, 1943.

Hy vọng và Phi lý trong tác phẩm của Kafka

Tác phẩm nghệ thuật với Camus, là 1 hiện tượng phi lý - "chính tác phẩm của ông thì cũng rứa - và, người ta chẳng ngạc nhiên, khi coi Huyền thoại Sisyphe, của ông như 1 diễn dịch tác phẩm của Kafka.
Đúng như vậy, Camus nhận ra Kafka, như 1 trong những "tiểu thuyết gia triết học", như những tiểu thuyết gia hiện đại, khác đám tiểu thuyết gia luận đề.

&

Tặng bạn quí của ta [Sartre]
GCC [Camus]

Je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil
Albert Camus: L'envers et l'endroit

Tôi được đặt để, ở giữa quãng đường, một bên là sự khốn cùng, và một bên là mặt trời.

Đó cũng là số phận của…  Gấu.
Sự khốn cùng, là, nửa ở Miền Bắc
Nửa còn lại, có Mặt Trời - không phải Mặt Trời Địa Trung Hải của Camus - mà là Mặt Trời Miền Nam.
Một khi mất nó, Gấu khóc than thảm thiết!
(1)
Camus 100

“And Simone Weil - for there are dead people who are closer to us than many of the living.”
"Và Simone Weil- bởi là vì có những người chết gần gụi với chúng ta hơn, so với nhiều người kẻ đang sống"

TTT, khi viết, “Những người đã chết đều có thực”, là cũng từ cùng 1 nguồn cảm hứng trên, theo GCC.

WHEN THE INTELLECTUAL AND LITERARY WORLDS had reduced him to a plague victim's isolation, only one honest man had the courage to extend a brotherly hand, and help him survive: Albert Camus. A deep friendship developed between the two writers, cemented further by their shared admiration for Simone Weil.

Khi thế giới trí thức và văn chương xua đuổi ông tới tận cùng, đầy ông vô sự trơ trọi cô độc của 1 thứ nạn nhân bịnh dịch, chỉ 1 người đàn  ông lương thiện, nhân hậu có can đảm đưa bàn tay bạn bè ra, và giúp ông sống sót: Albert Camus. Một tình bạn sâu xa nẩy nở giữa hai nhà văn, càng thêm bền chặt như xi măng nhờ lòng ngưỡng mộ mà cả hai cùng san sẻ, dành cho Simone Weil.

    Where Camus is concerned, it's impossible to overstate the extent to which Simone Weil's thought and example counted in his intellectual and spiritual life, from the end of the war until his premature death. This is a point that even his best biographers have not adequately treated, thereby confirming Emerson's view, according to which literary biography is a vain undertaking, since it tells of lives in which, by definition, the most significant events have unfolded in silence and invisibility. And yet here, the material evidence is abundant. From 1948, Camus undertook the publication, in the "Espoir" collection that he directed for Gallimard, of Simone Weil's main writings on social and political questions, L'Enracinement (The Need for Roots) and La Condition ouvrière. (Of all the titles in the collection, these were the only ones that had any real success.) Along with Gustave Thibon (for the philosophical and religious texts) he was thus one of the very first and most ardent guardians of Simone Weil's work and memory. Above all, Simone Weil became a constant inspiration for his own reflection, as many passages in his Notebooks testify. Furthermore, in Stockholm, on the occasion of the Nobel Prize, he gave the most vibrant public confirmation of her influence. During the press conference before the ceremony, when he was asked which living writers mattered to him most, he named various Algerian and French friends, and add: “And Simone Weil - for there are dead people who are closer to us than many of the living.”

    Ten years earlier, the publication of Simone Weil's writings had led him to get in touch with her family, who welcomed him warmly, especially Mrs. Bernard Weil, herself a remarkable woman. Milosz also got to know her, and after Camus's death - which devastated Mrs. Weil - he continued to visit her. At the end of his essay on Simone Weil, Milosz notes a touching and revealing detail: on the day Camus learned that he had been awarded the Nobel Prize, hounded by a horde of journalists and photographers, he took refuge at Mrs. Weil's. And we know that for Camus, tormented by self-doubt, the crushing distinction was in many ways an ordeal - far from reassuring him, it left him unmoored. Just as, in a moment of sudden distress, a believer's natural reflex is to go into a church, the atheist Camus felt the irrepressible need to collect himself in the room where the young Simone had mediated and written.

Cách đọc Kafka, của Camus, theo Claudine Raboin, trong lời giới thiệu cuốn sách của bà mà trích đoạn sau đây cho thấy, giới tinh anh Tẩy đọc Kafka, bằng cái tinh thần Tẩy của họ.
Với Camus, Kafka có mùi hiện sinh, phi lý, thí dụ.
May quá, theo tác giả cuốn sách, chỉ có E. Mounier, trong "Giới thiệu những chủ nghĩa hiện sinh", tuyên bố, “tôi không xếp hạng Kafka, không thể xếp hạng” 

Quelques articles ont été consacrés à la diffusion de l'oeuvre de Kafka en France. Citons d'abord de Maja Goth, un livre intitulé “Kafka et les lettres francaises”, en 1956 : l'auteur montre comment Kafka fut d'abord et surtout connu «sous le jour du pittoresque et de l'exotisme ». Mais pendant la guerre, sous l'occupation, un public élargi -l'adaptation du Procès à la scène en 1947 l'élargira encore - retrouve dans Kafka le monde qui l'entoure («la guerre nous fait vivre Kafka», écrit M. Goth). C'est l'époque aussi où Camus reconnait en Kafka un grand écrivain de l'absurde. Marthe Robert, dans un texte publié en 1961 dans Le Mercure de France, et dont elle reprend les conclusions dans l'article que nous reproduisons ici (9), explique que les Francais ont cherché à comprendre Kafka en le rattachant d'abord à un mouvement intellectuel francais, au surrealisrne ou à l'existentialisme par exemple, et non à un mouvement littéraire allemand; ainsi s'est établie la popularité d'un écrivain qui semblait ne venir de nulle part et s'adresser à la généralité des hommes. Les surréalistes, qui traduisirent les premiers récits publiés en France (La Metamorphose et Le Verdict), ne virent là que le caractère fantastique d'une réalité qui semblait relever uniquement d'un monde onirique. L'existentialisme, celui de Sartre et celui de Camus, - Kafka est cornmente à la fois dans Le Mythe de Sisyphe et dans L'Être et le Néant - a été attiré par l'impression de contingence et d'absurdité qui se dégage de certaines situations où s'enfoncent les heros. Heureusement, dans L'Introduction aux existentialismes, Emmanuel Mounier déclare: “Je ne classerai pas Kafka inclassable.”
Claude Prevost, auteur d'une étude exhaustive intitulée À la recherche de Kafka (10) reconnait avec de nombreux critiques que la posterité de Kafka en France relève non plus de la littérature, mais de la magie, et souligne le « caractère mythologique» de l'idée qu'on a pu se faire de Kafka. L'article de Hans Mayer (11) nous apprend qu'en Allemagne la situation n'est guère meilleure.

(9). Voir Citoyen de l'utopie, p. 45.

CR: Introduction

Cái ghê gớm nhất của Camus, mà tất cả đạo hạnh của ông nhờ đó, mà có, là sự can đảm. Một mình chống lại tất cả, và sau cùng, chỉ một mình mình đúng. Đây là điều mà Milosz nhận ra, khi vinh danh ông, và trong bài viết của Người Kinh Tế, khi coi Camus là Ông Hoàng Của Sự Phi Lý cũng nhận ra:

Camus, Albert

Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con người tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết,  nói theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir, xẩy ra đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre dậy dỗ Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ còn có một chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.
Czeslaw Milosz

Prince of the absurd
In search of the real Camus
Jan 7th 2010

Ông Hoàng của Sự Phi Lý

Khi Camus bị tử nạn xe cộ cách đây 50 năm, vào ngày 4 tháng Giêng, ông 46 tuổi, đã được Nobel văn chương và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, Kẻ Xa Lạ, giới thiệu tới độc giả trên toàn thế giới một thứ triết học về sự phi lý. Tuy nhiên, vào thời điểm ông mất, Camus thấy mình là một tên bị xã hội ruồng bỏ, tứ cố vô thân tại Paris, bị nhạo báng bởi Jean-Paul Sartre và những trí thức tả phái khác, họ tố cáo thứ suy tư tự do của ông, là từ chối không chịu hò theo những quan điểm chính trị đang ăn khách. Như cô con gái của ông nói: “Bố tôi thì cu ki, chỉ có mình bố tôi” [“Papa was alone.”]
Lịch sử nhận ra Camus ở về phía của rất nhiều giải pháp đạo đức của thế kỷ 20. Ông gia nhập Kháng chiến Pháp chiến đấu chống Nazi, biên tập nhật báo chui Chiến đấu. Hô hào bãi bỏ án tử hình. Một thời đã từng theo CS, tác phẩm chống chế độ toàn trị Con người phản kháng, xb năm 1951, có trong nó những cảm nhận đáng kể về những cái ác của chủ nghĩa Stalin, và đưa đến cú đoạn tuyệt với Sartre, vào lúc đó vẫn bảo vệ Liên Xô và từ chối kết án hệ thống nhà tù Gulag.
Camus bỏ Algeria về đất liền Pháp quốc, nhưng Algeria không hề bỏ ông. Khi cuộc nổi dậy chống thực dân thuộc địa nổ ra vào những năm 1950, sự từ chối gia nhập vào lời kêu gọi hợp lề luật, bien-pensante, cho một nền độc lập đã bị coi là một hành vi phản quốc bởi đám tả phái người Pháp. Ngay cả khi khủng bố tấn công những người Algiers, Camus vẫn đòi hỏi một cách vô ích một giải pháp liên bang, cùng với một nơi chốn cho người định cư. Khi ông tuyên bố thật lẫy lừng, “Tôi tin tưởng ở công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công lý”, ông bị tố cáo là một kẻ biện hộ cho chủ nghĩa thực dân thuộc địa. Gần 40 năm sau, Mr Lenzini kiếm ra tông tích người cựu sinh viên Algerian đã gây hấn vì lời tuyên bố trên tại một cuộc họp báo, anh ta thú nhận, vào lúc đó, anh ta chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào của Camus, và sau đó, đã bị ‘sốc’ và cảm thấy mình chẳng là gì khi đọc Camus viết về sự nghèo khổ của những người Ả Rập.

The public recognition that Camus achieved in his lifetime never quite compensated for the wounds of rejection and disdain from those he had thought friends. He suffered cruelly at the hands of Sartre, Simone de Beauvoir and their snobbish, jealous literary clique, whose savage public assassination of Camus after the publication of “The Rebel” left deep scars. “You may have been poor once, but you aren't anymore,” Sartre lashed out in print.
“He would remain an outsider in this world of letters, confined to existential purgatory,” writes Mr Lenzini: “He was not part of it. He never would be. And they would never miss the chance to let him know that.” They accepted him, says Mr Tanase, “as long as he yielded to their authority.” What Sartre and his friends could not forgive was the stubborn independent-mindedness which, today, makes Camus appear so morally lucid, humane and resolutely modern.

Cái sự được nhìn nhận ghê gớm như thế, về tài năng của “chàng”, không làm sao làm dịu đi, cái sự tàn nhẫn khốn kiếp, của bạn quí của chàng, đối với chàng, nhưng chàng đếch cần. Chàng ở bên ngoài cái lũ khốn kiếp nhà văn nhà veo, chàng “chưởi búa xua, tứ phía”….

Điều mà Sartre và bạn bè của ông, không tha thứ cho Camus, là sự bướng bỉnh của 1 tâm hồn độc lập, điều bây giờ, làm cho ông xuất hiện trước mắt chúng ta, thật trong sáng về lương tâm, thật nhân bản, và hiện đại 1 cách thật quyết liệt.

*

Cuốn này, lạc xon, Gấu mua vì cái tay mũi lõ nào đó, quá mê Camus, đọc kỹ lắm.
Thế rồi lại mua xon 1 cuốn nữa, cũng nó, nhưng bìa khác!
Đọc OK lắm. Giới thiệu những ai cần, nếu quan tâm tới Camus.

Story-Bearers

Marina Warner

Je parle toutes les langues, mais en arabe

by Abdelfattah Kilito

 ‘I speak all languages but in Yiddish,’ Kafka remarks in his Diaries; and when it came to writing, he might have chosen any one of them, besides German. We now read him in all languages, receiving glimpses, like faraway signals at sea, of the original German, and beyond the German of the other languages that made up Kafka’s mindscape, with Yiddish beating out a bass line, familiar ground. Echoing Kafka, the Moroccan writer and scholar of Arabic literature Abdelfattah Kilito declares ‘I speak all languages but in Arabic,’ in the title of his recent collection of essays. Kilito is a writer who reads (not all do) – and widely, in several languages. He’s an amphibian creature, living in Arabic and French with equal agility, and ambidextrous with it, continuing to use one language or other at will for his critical studies or his ‘récits’ – his gnomic, often poignant memoirs and fictions. 

Tôi nói tất cả thứ tiếng, bằng tiếng Do Thái, Kafka phán, trong Nhật Ký của ông. Và khi viết, thì bên cạnh tiếng Đức, ông có thể viết bằng bất cứ 1 trong những thứ chữ. Và bây giờ, chúng ta đọc ông, trong tất cả các thứ tiếng, và nhận được, những loáng thoáng, như những ký hiệu xa xa ở mặt biển, của tiếng gốc Đức, và quá nó, của những thứ tiếng khác, chúng làm thành “mindscape” của ông, với tiếng Do Thái, như là tiếng đập giữ nhịp [a bass line, familiar ground].
Lập lại Kafka, nhà văn Ma Rốc và nhà học giả văn học Ả Rập, Abdelfattah Kilito, tuyên bố, tớ nói tất cả tiếng nói, bằng tiếng Ả Rập, trong cái tít của tuyển tập tiểu luận mới ra lò. Ông là 1 nhà văn đọc rộng vài ngôn ngữ, một sinh vật lưỡng cư - vừa ở trên cạn, vừa ở dưới nước, sống thoải mái, lanh lẹ như nhau, ở trong tiếng Ả Rập và tiếng Tẩy, thuận cả hai tay với nó, tiếp tục sử dụng, hoặc tay phải, hoặc tay trái, để đi những đường tiểu luận hay “récits” - những giả tưởng, hồi ức có tính châm ngôn, thường là nhức nhối.


Độc giả TV, đọc mẩu trên, là nhìn ra cái sự thê lương của cõi văn Mít.
Không rành tiếng Mít; tiếng mũi lõ thì mù tịt, chưa kể cái mảng ăn cướp mà kêu là khai hóa, giải phóng của thứ tiếng Bắc Kít.
Sở dĩ cái đám Miền Nam bỏ chạy, không tên nào ra hồn, vì chúng học tiếng mũi lõ, không phải để hiểu văn hóa, văn học của 1 giống dân nào khác, mà để chuồn.
Khủng khiếp thật.

Viết mỗi ngày



Lò Thiêu @ France

Dear father
A haunting memoir of a young Holocaust survivor

But You Did Not Come Back.

By Marceline Loridan-Ivens. Translated by Sandra Smith. Faber; 100 pages; £12.99.

Nhưng bố tôi không trở về

Đây là 1 cuốn sách nhỏ với giọng lớn.
Tác giả mất 70 năm, trước khi có thể viết ra được.
Vào năm 15 tuổi, Tháng Tư, 1944, cô gái và ông bố bị bắt ở ngoài vườn, trong khu vực Pháp bị Nazi đô hộ, và bị tống xuất, ông bố tới Auschwitz, cô gái tới Birkenau.
Cô gái trở về.
Đây là lá thư dịu dàng, đau nhức, hối hận của tình yêu, của cô con gái, viết cho ông bố chẳng bao giờ trở về.
Hồi nhớ của cô gái xoay quanh hy vọng bất thành, làm sao nhớ ra được những từ cha mình viết trong lá thư, được lén lút đưa cho cô con gái, khi cả hai bị giam giữ trong trại tử thần.
Vào lúc đó, cô con gái được phân công đào hố, chôn xác chết từ phòng hơi ngạt.
Cô lầm bầm nói với chính mình, "những từ bố mình dùng, hình như là nói về tình yêu, hy vọng, nhưng làm gì còn nhân loại ở trong tôi…. Tôi phục vụ thần chết. Tôi là 'phù thăng' [thằng phu, người dọn dẹp], là cái cuốc, cái xẻng của nó."

Saigon ngày nào của GCC
*

Ui chao, lục báo cũ, lôi ra được 1 bài "thần tiên", Khói Thánh, [ML Juin 2007, về Juilen Gracg, tên cổ điển cuối cùng]
A chaque jour suffit son tabac
Mỗi ngày 1 bi, đủ rồi
Nhớ tôi, người chơi, mấy bi thuốc?



Viết mỗi ngày
Sao bac ghet talawas...?


Kỷ niệm, kỷ niệm

G. K. Chesterton famously remarked of Dickens’s characters that they were “immortal souls who existed whether he wrote of them or not”, “creatures who were more actual than the man who made them”
G.K. Chesterton có một nhận xét thật bảnh về những nhân vật của Dickens, "chúng là những linh hồn bất tử, cho dù ông ta có viết về chúng hay là không”, “những nhân vật thực hơn cả người làm ra chúng”.
Tuyệt.
Gấu cũng muốn hậu thế có cùng cảm nhận như vậy, về BHD của Gấu!
Hậu thế.
Bây giờ thì khỏi.
Bởi là vì, một độc giả Tin Văn đã từng gật gù, ngoài những trang viết về BHD, còn lại thì là đen thui.
Nhưng, BHD mà chẳng đen ư? Gấu tính hỏi lại.
*
Vẫn đọc anh đấy chứ . Mừng anh vẫn nhiều energy , và vẫn chứa chan tình cảm .
K
.

Lướt TV, ra mẩu trên. Tks. NQT
 
Thiên Sứ Dởm

Trả lời phỏng vấn của tờ báo Nhật Shûkan Posuto ngày 17/8/1979, ở cao điểm của làn sóng thuyền nhân Việt Nam lênh đênh trên Biển Đông, triết gia Pháp Michel Foucault, đồng tham gia Ủy ban vận động "Một chiếc tàu cho Việt Nam", nhận định rằng di dân sẽ trở thành một vấn nạn đầy đau đớn và bi thảm của hàng triệu người mà những gì đang xảy ra ở Việt Nam là điềm báo. Điềm báo ấy đã trở thành hiện thực trong Khủng hoảng Di dân hiện tại ở châu Âu.

Những ngày này, sống ở một trong n...

See More

Cuộc phỏng vấn mà Sến nhắc tới, GCC dịch từ bộ "Nói và Viết", gồm bốn cuốn, chừng 4 hoặc 5 ngàn trang, bộ "Đệ Nhất Kỳ Thư" mà NTV đã từng gọi, khi Toronto còn nhà sách Tẩy lừng danh.

Sến vờ nguồn TV.


* *

bateau victim

1979: Ba triết gia Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, và Raymon Aron trong cuộc họp báo "Một con tầu cho Việt Nam" [Un bateau pour le Viêtnam].

[Hình từ báo Văn Học Pháp, Magazine Littéraire, số đặc biệt 1966-1996: La passion des idées, đam mê tư tưởng.] Có cả Michel Foucault, nhưng ông không ngồi ở bàn chủ tọa.

30.4.2005

*

Dịch dọt là phận người, sinh tử lão bịnh… và dịch. Tinh thần trang TV là của Tập San Văn Chương (1) ngày nào còn Sài Gòn, qua đó, là định nghĩa nhà văn [độc giả] là 1 kẻ được thông tri đầy đủ những dữ kiện của thời của mình, tạm dịch dọt cái từ “mieux informer" của Tây mũi lõ.

Chỉ một khi được thông tri tốt những dữ kiện, thì độc giả tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đếch cần đến phê bình gia, còn dốt hơn cả độc giả!

Nhưng dịch không có nghĩa là chôm để sử dụng vào mục đích đê tiện là kiếm tí tiền còm, tiền lớn, vờ nguyên tác, vờ tác giả.

Trên tờ Interlife có 1 bài viết, về ăn nhậu, nhưng sử dụng nó như 1 ẩn dụ, vào việc dịch dọt, thật tuyệt:

A THIN LINE BETWEEN FERMENTATION AND ROT
[Link broken]

Đường ranh mỏng dính giữa "lên men" và "thúi rữa".

Lên men là cái đẹp của dịch dọt, thơm tho như mùi mắm tôm của Mít.
Thúi rữa, chính là cái vụ dịch dọt, để ăn cắp, để kiếm lợi cho cá nhân mình.

Gấu, Bắc Kít, càng về già, càng thèm lại một lần, ngồi giữa 1 phiên chợ làng, với cái mẹt lá chuối, bên trên là miếng bánh đúc, và tí mắm tôm, và cơn đói dài dài của Gấu, đang chờ được thỏa mãn.

Cả cuộc chiến Mít, là cũng được nhìn qua hình ảnh tuyệt vời này.
Lẽ ra, sau 30 Tháng Tư, Mít cả nước có… mắm tôm.

Nhưng thay vì vậy, chỉ có Kít!

(1)

Ngay trong lời phi lộ số ra mắt, khi định nghĩa nhà văn, một người được thông tri đầy đủ (những dữ kiện của thời đại anh ta đang sống), chúng tôi đã hoài vọng một điều: hãy đưa ra thật nhiều thông tin, hãy giới thiệu những dòng tư tưởng đang ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, rồi để cho người đọc tự do chọn lựa, theo khẩu vị của họ.

Cho phép tôi dùng chữ khẩu vị, theo nghĩa của Roland Barthes: Chữ viết ở khắp nơi, khi mà những từ có mùi, có vị (tri thức, savoir, và mùi vị, saveur, trong tiếng La-tinh là cùng một nguồn).

Phải sau 1975, thì Gấu mới biết đến Borges, vào những ngày sắp bỏ chạy, và thoát, quê hương!
Đó là thời gian làm anh bán báo, tại sạp báo “nhà”, ngay trước chúng cư 27 Nguyễn Bỉnh Khiêm, mượn tên ông cán bộ VC nhà kế bên đăng ký kinh doanh. Trong khi bán báo, rảnh rang, đọc báo lai rai, Gấu vớ được 1 truyện ngắn của Borges, được dịch ra tiếng Việt, đăng trên tờ Văn Nghệ, chắc thế.

Câu chuyện một tay chủ tịch xã một buổi chiều tới gặp một nhà huyền thuật nổi tiếng, xin ông phù phép, ban cho cái chức chủ tịch huyện, đại khái như vậy. Hai người đang nói chuyện thì anh người nhà thông báo, bữa ăn chiều có món gà gô đặc sản Nam Bộ, đã sẵn sàng, xin cho biết, ông khách có cùng dùng bữa với chủ nhân hay là không.
Chủ nhà xua tay, chờ chút, chờ chút…
Đúng lúc đó, thì người nhà ông chủ tịch xã hổn hển xuất hiện, kêu chủ về gấp, ông chủ tịch huyện ngỏm rồi, mọi người đang nhốn nháo kiếm ông, để ngồi vô ghế chủ tịt huyện! Nhà huyền thuật bèn mỉm cười, vậy là khỏi phù phép nhe, nhưng mà này, cái chức chủ tịch xã ông cho tôi nhe, để tôi cho thằng cháu. Ông tân chủ tịt huyện lắc đầu, chức đó, tôi đã ban cho thằng em trai mất rồi, sorry.
Câu chuyện này có tí giông giống chuyện con cá vàng và ông già câu cá, của Nga, cộng thêm chuyện “giầu sang chưa chín một nồi kê”, của Tầu. Bởi vì cảnh trên cứ thế lập đi lập lại, và sau cùng, khi ra về, ông chủ tịch xã vẫn chỉ là ông chủ tịch xã. Và nhà huyền thuật khi đó, kêu người nhà dọn cơm, miệng lẩm bẩm, bữa nay ăn gà gô một mình vậy!

Sau đó, Gấu tình cờ vớ được 1 bài thơ dịch qua tiếng Tây của Borges, viết về hạnh phúc, đọc thú lắm, thế là bèn loay hoay dịch, chắc cũng là lần đầu bày đặt “dịch dọt” như bà Huệ phán, và đưa cho anh bạn nhà thơ Joseph Huỳnh Văn đọc, anh khen rầm trời, mày sao bảnh thế!


NKTV


Viết/Đọc mỗi ngày
Pham Nguyen Truong liked this.
Follow

Khi nói về chuyện Mỹ hay Tàu xâm lược Việt Nam, xâm lược để làm gì, con bé hàng xóm nhà em bảo: Mỹ nó khai thác đc ối thứ trong thời gian "chiếm đóng" ở miền Nam.
Nhà em bảo, mày nói phải có dẫn chứng. Mỹ khai thác cái gì? Tài liệu nào nói về vấn đề này? Có tin cậy đc ko?

Nó im, nhưng có vẻ ấm ức, có lẽ nghĩ ko có lợi, tại sao Mỹ nhảy vào?

Nhà em đi tìm thông tin trên gúc. Đại ý mới lơ mơ rằng, Việt Nam chỉ là một điểm trong chiến dịch toàn cầu của Mỹ, nhằm ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Chưa tìm thấy tài liệu nào, cho thấy Mỹ khai thác tài nguyên của VN để chở về Mỹ. Có thể nhà em chưa tìm thấy, nhưng nếu có, cả hệ thống chính trị của csvn chắc ko để yên.

Còn TQ đc lợi gì thì kết quả lù lù ra đó. Dân mình tiêu thụ từ cái tăm của nó đấy. Nó mà bực, dân ta ko có tăm mà xỉa đâu. 

Note: Mẽo nhảy vô xứ Mít vì "thiện ý" của chúng. Bắc Kít nhử nó vô, bằng cách phịa ra cú Diệm đầu độc tù VC ở Phú Lợi, nơi nhốt VC, sau 1954, thay vì tập kết, thì ở lại.

Phịa ra để lấy cớ thành lập MTGPMN.
Mẽo hoảng quá, nhảy vô, vì hiệu ứng domino, mất Miền Nam thì mất luôn cả Đông Nam Á. 

Đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng, nói nôm na là Cái Ác Bắc Kít vs Thiện Ý Mẽo.
Hai món này, cùng độc như nhau

Lữ Giang vs RFA

Bài thân hữu gửi.
Tks VBT. NQT

V/v ông Diệm bị làm thịt. Theo GCC, Diệm chết vì không chịu cho Mẽo đổ quân, và làm trái ý Mẽo, là chúng thịt.
GCC đã có kinh nghiệm vụ này, khi làm bồi Mẽo, và đã kể ra rồi, trên TV. Chúng tới xứ Mít, đầy thiện ý, biểu không nghe, là thịt.
Đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng.
Bắc Kít nắm được
tẩy Mẽo, mới phịa ra cú đầu độc tù, nhân đó, thành lập MTGP. Mẽo hoảng quá, nhảy vô, Diệm cản, thịt!

Pico, đệ tử của Greene, giải thích:
It points out that innocence and idealism can claim as many lives as the opposite, fearful cynicism.

Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại, đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái gì hết. Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai 
    "Người Mẽo trầm lặng" của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
    Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ ràng là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác. Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
    Điều cuốn sách thọi tôi, sâu thẳm hơn, riêng tư hơn nhiều. Cuốn tiểu thuyết đòi hỏi mọi người trong chúng ta, muốn cái gì từ 1 nơi chốn hải ngoại, và toan tính gì với nó. Nó chỉ ra, cái ngây thơ và cái lý tưởng có thể làm thịt rất nhiều mạng người, như cái đối nghịch với nó, cái đểu cáng đáng sợ. Và nó nhắc nhở tôi rằng, thế giới thì rộng lớn nhiều so với những ý nghĩ tư tưởng của chúng ta về nó, và như thế nào, người thiếu phụ ở trong cuốn sách, cái cô Phượng, sẽ luôn luôn ở bên ngoài một vòng ôm của 1 tên mũi lõ.  Nó còn ôm trọn những mảnh miểng hiểu biết - cái nền của tôi -  Á, Anh, Mẽo – vào trong cùng thai đố.


Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của "Người Mỹ trầm lặng":
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."

Ways of escape


Nhân chuyện Miến Điện, Mít mong được như họ. Khó lắm. Có thể vô phương. Miền Nam đã từng có dân chủ như Miến Điện, người dân đi bầu, người họ chọn, y chang Miến Điện, còn hơn Miến Điện, bởi vì Miến Điện còn khổ dài dài với vấn đề “nội thương” tôn giáo, sắc dân. Nhìn như thế, mới ra tội ác của đám VC nằm vùng. Cái chết của VC là còn do mắc míu với Tẫu. Bởi thế mà Tẩy vẫn khoe CS Mít có gốc Tẩy. Chỉ 1 khi HCM trốn thoát sự canh chừng của Cớm Tẩy, qua Moscow, rồi ăn lương Cớm Liên Xô, theo lệnh Xì về TQ, là kể như xong.
AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là 1 bằng chứng chết người, của những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ, lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ nhử Mẽo vô mà thắng!

Rợp bóng Greene: Tháng 11, 2005, trên tờ Newsweek, ký giả Christopher Dickey viết, “Một lần nữa, những lầm lẫn chết người của những thiện ý của Tông Tông Bush làm nhớ đến anh chàng Mẽo ngây thơ Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng”. Tay ký giả Mẽo đi 1 đường trích dẫn, về những ngày đầu Mẽo vô Miền Nam:
'He was absorbed already in the dilemmas of Democracy and the responsibilities of the West; he was determined - I learnt that very soon - to do good, not to any individual person but to a country, a continent, a world ... When he saw a dead body he couldn't even see the wounds. A Red menace, a soldier of democracy'. Replace the word 'Red' with 'Islamic', and fast forward 50 years.

Chỉ cần thay từ Đỏ, bằng từ  Hồi Giáo, là thấy 50 năm trôi qua.

AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

Đầu năm nay, trong khi dậy khóa MFA ở Đại Học Columnia, tôi có 1 cuộc bàn luận sôi nổi với một nhóm sinh viên về Người Mỹ Trầm Lặng. Với một số, ở giữa tuổi đôi mươi thì đây là lần đầu gặp GG, qua sách. Hầu hết thì coi phim, ấn bản mới, làm lại, với Brendan Fraser là diễn viên. Ai cũng có nhiều điều để nói, đặc biệt là về tính cách của nhân vật chính Alden Pyle, và, anh ta là cái gì đối với xã hội văn hoá, và chính trị Mẽo.
Điều thú vị của buổi nói chuyện, là, nếu có ai tình cờ ghé qua, và trong đầu chẳng có gì về cuốn sách, hay là có tí ti, thì cũng đều tỏ ra ngỡ ngàng, tại làm sao mà 1 cuốn tiểu thuyết được xb cách cả nữa thế kỷ, mà lại "hot" đến như thế

Lẽ dĩ nhiên, sinh viên của tôi khó có thể, là những người đầu tiên, nhận ra sự thích đáng của những đóng góp, xây dựng trong những giả tưởng của Graham Greene lên thực tại, là chính trị của thế giới thực của thế kỷ thứ 21. Phillip Noyce, giám đốc 2002 film version, đã làm 1 đường so sánh, trong 1 cuộc phỏng vấn với tạp chí Salon, trước khi xẩy ra cú xâm lăng Iraq:
“G. Bush đúng là từ cái bóng của anh chàng Mẽo, Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng, bò ra!” Anh ta thật khó mà là người dưng, kẻ xa lạ, kẻ ở bên lề, mà đúng "một trăm phần dầu" Mẽo, đi tới đâu là mang đủ hành lý Mẽo, chật cứng những thiện ý, luôn tin tưởng, ta là người đem đến câu trả lời: Anh ta rất ư là ngây thơ, naïve, nói cho cùng, đếch phải thứ cực kỳ thông minh, cực kỳ sáng suốt, thật sáng ngời, nhưng than ôi, bất hạnh thay, cực kỳ nguy hiểm!”
Monica Ali

Gấu phải đi 1 đường dài dòng như vậy, để cánh cáo lũ VC, vào lúc này, chúng mê Mẽo hơn bao giờ hết, sau khi dâng vợ con cho thằng Tẫu, để đánh cho bằng được Mỹ Cút, Ngụy Nhào, ăn cướp cho bằng được, Miền Nam, tống cho bằng được lũ Ngụy vô Lò Cải Tạo.


Nghệ Thuật của Kẻ Đứng Bên L

*

NYRB Nov 6, 2003

Gái thì thèm nhỏ nước miếng, nhưng sex thì đáng sợ, và bửn ơi là bửn.
Truy nguyên ra, chàng bị bịnh "khóc ngoài quan ải". Đẹp trai, nhỏ thó, mấy em bự thật bự mê như điên, chàng bị 1 em mắng, mi muốn có tí nhau, thì phải xuyên thấu ta, You want a kid, you gotta go throught us.

Pavese's first book of poems, Work Wearies, was published in 1936. It is remarkable for the versatility with which the tensions underlying Pavese's personal problems are reformulated in scores of short narratives and descriptions. The desire to achieve maturity through contact with women is everywhere evident. These lines are taken from "Grappa in September":

This early you see only women.
Women don't smoke
and don't drink, they know only
to stop in the sun
to let their bodies grow warm, as
if they were fruit.
The air's raw with this fog, you
drink it in sips
like grappa, everything here has a
flavor.
Even the river water has
swallowed the banks
and steeps them below, in the sky.
The streets
are like women, they grow ripe
without moving.

Đờn bà ngày xưa không hút thuốc
Không nghĩ
Chỉ đứng ở ngoài nắng
Để cho người ấm lên
Như thể trái cây
Khí trời trinh nguyên với sương mù
Mi nhấp nhấp từng ngụm
Như nước nho
Mọi thứ đều có mùi thơm
Ngay cả nước sông
Cũng chiêu từng ngụm bờ
Và ngấm vào bầu trời
Phố xá như đờn bà
Họ chín nẫu
Không chuyển động
Quoc Tru Nguyen shared a memory.
1 hr
1 Year Ago Today

Nơi chốn không làm sao sống nổi, là nơi chốn mà con người cảm thấy hạnh phúc!
Một cái lý do tốt lành để mà tự tử, thì không hiếm hoi, ở bất cứ một con người!
Nỗ...

See More


*

Đúng hơn, dịch Faulkner, nhưng, do viết văn, cho nên bị ảnh hưởng. Trong “Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino có 1 bài thần sầu về ông. Gấu tính dịch hoài, quên hoài.
Tay Pavese này bảnh hơn Gấu nhiều lắm, ổng dám đi luôn, còn Gấu, xin làm đệ tử Cô Ba, mấy lần năn nỉ, xin cho theo hầu luôn, cổ lắc đầu, mi còn phải trả nợ nhiều lắm, chưa đi được.
“Trăng & Lửa” có lẽ là cuốn tiểu thuyết “Mẽo ơi là Mẽo”, the most American novel, đã được viết bởi một ngôn ngữ nước ngoài.
Mẽo nhất, Mẽo ơi là Mẽo, 1 phần là nhờ Faulkner.
TV sẽ đi bài của Italo Calvino.
Tuyệt.
Hé tí, sơ sơ, theo kiểu sex appeal:
Mỗi cuốn tiểu thuyết của Pavese thì lòng dòng [resolve] quanh 1 đề tài ẩn [hidden theme], một điều gì không nói ra, và đúng là điều ông muốn nói, và điều này chỉ có thể diễn tả bằng cách đừng nhắc đến [… which can be expressed only by not mentioning it]

Nơi chốn không làm sao sống nổi là nơi chốn con người cảm thấy hạnh phúc!
Một lý do tốt lành để tự tử thì không hiếm hoi ở bất cứ một con người
Nỗi buồn lớn lao nhất một con người cảm thấy, đó là khi những lý tưởng thất bại của người đó, biến thành hiện thực!

Những nhà văn trở thành huyền hoặc thì ít khi hạnh phúc. Vào năm 1950, khi đợp giải Strega nhờ "Trăng & Lửa", và xb cuốn tự thuật, Nghề sống, Cesare Pavese bèn tự làm thịt chính mình…. Điều mà Nhật Ký của Kafka giáng lên văn hóa Đức, thì cũng là điều Pavese mang tới cho văn hóa Ý.


Lò Thiêu @ France
Saigon ngày nào của GCC


Cầm tem phiếu chờ mua hàng

http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/trien-lam-bao-cap-xep-hang-ve-qua-khu-mot-thoi-kho-quen-va-khong-duoc-quen-n20150517061707024.htm

Note: Đọc bài này, thì phải đọc bài này:

HOPE IN A THIN SHELL

“You were not who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.

http://www.intelligentlifemagazine.com/content/places/anonymous/hope-thin-shell

ps. HOPE IN A THIN SHELL . Shell này theo câu chuyện kể, K nghĩ  là vỏ trứng chứ có phải vỏ sò đâu. Sống trong thời tem phiếu, đói rã, chỉ hy vọng cô nhân viên ở cửa hàng thực phẩm ngoắc tay lại cho một bịch trứng vỡ, lòng đỏ lòng trắng lẫn với vỏ trứng để đem về đánh lên chiên làm chả như một bữa tiệc hiếm hoi . Anh thấy  K nói vậy có đúng không ? 

Tks. NQT 

Đúng là vỏ trứng, tôi đọc tới đâu dịch tới đó. Đọc khúc sau thì mới biết dịch sai. Nhưng lười quá, chưa sửa. Tính dịch tiếp thì sửa. Vả lại, tôi đang tính dịch bài phỏng vấn bà này, trên 1 tờ Asian Review cũ, tìm chưa thấy.

Tks again. NQT

Trả lời phỏng vấn của tờ báo Nhật Shûkan Posuto ngày 17/8/1979, ở cao điểm của làn sóng thuyền nhân Việt Nam lênh đênh trên Biển Đông, triết gia Pháp Michel Foucault, đồng tham gia Ủy ban vận động "Một chiếc tàu cho Việt Nam", nhận định rằng di dân sẽ trở thành một vấn nạn đầy đau đớn và bi thảm của hàng triệu người mà những gì đang xảy ra ở Việt Nam là điềm báo. Điềm báo ấy đã trở thành hiện thực trong Khủng hoảng Di dân hiện tại ở châu Âu.

Những ngày này, sống ở một trong n...

See More

Cuộc phỏng vấn mà Sến nhắc tới, GCC dịch từ bộ "Nói và Viết", gồm bốn cuốn, chừng 4 hoặc 5 ngàn trang, bộ "Đệ Nhất Kỳ Thư" mà NTV đã từng gọi, khi Toronto còn nhà sách Tẩy lừng danh.
Sến vờ nguồn TV.

Michel Foucault: Nguồn gốc vấn đề người Việt tị nạn.

Lời người giới thiệu: Sau đây là chuyển ngữ, từ bản tiếng Pháp, cuộc phỏng vấn đặc biệt triết gia người Pháp, Michel Foucault, đăng trên tạp chí Nhật Bản, Shukan posuto, số đề ngày 17 tháng Tám 1979. Nhan đề tiếng Nhật: "Nanmin mondai ha 21 seiku minzoku daiidô no zencho da." ("Vấn đề người tị nạn là điềm báo trước cuộc di dân lớn lao mở đầu thế kỷ 21").
Người phỏng vấn: H. Uno.
Người dịch ra tiếng Pháp: R. Nakamura.

Người phỏng vấn: Theo ông, đâu là cội nguồn của vấn đề người Việt tị nạn?

Michel Foucault: Việt Nam không ngừng bị chiếm đóng, trong một thế kỷ, bởi những thế lực quân sự như Pháp, Nhật, và Mỹ. Và bây giờ cựu-Miền Nam bị chiếm đóng bởi cựu-Miền Bắc. Chắc chắn, cuộc chiếm đóng Miền Nam bởi Miền Bắc thì khác những cuộc chiếm đóng trước đó, nhưng đừng quên rằng, quyền lực Việt Nam của Miền Nam hiện nay, là thuộc về Việt Nam của Miền Bắc. Suốt một chuỗi những chiếm đóng trong một thế kỷ như thế đó, những đối kháng, xung đột quá đáng đã xẩy ra ở trong lòng dân chúng. Con số những người cộng tác với kẻ chiếm đóng, không nhỏ, và phải kể cả ở đây, những thương gia làm ăn buôn bán với những người bản xứ, hay những công chức trong những vùng bị chiếm đóng. Do những đối kháng lịch sử này, một phần dân chúng đã bị kết án, và bị bỏ rơi.

-Rất nhiều người tỏ ra nhức nhối, vì nghịch lý này: trước đây, phải hỗ trợ sự thống nhất đất nước Việt Nam, và bây giờ, phải đối diện với hậu quả của việc thống nhất đó: vấn đề những người tị nạn.

Nhà nước không có quyền sinh sát - muốn ai sống thì được sống, muốn ai chết thì người đó phải chết - với dân chúng của mình cũng như dân chúng của người – của một xứ sở khác. Chính vì không chấp nhận một thứ quyền như thế, mà [thế giới đã] chống lại những cuộc dội bom Việt Nam của Hoa Kỳ và, bây giờ, cũng cùng một lý do như vậy, giúp đỡ những người Việt tị nạn.

-Có vẻ như vấn đề người Căm Bốt tị nạn khác với của người Việt tị nạn?

Chuyện xẩy ra ở Căm Bốt là hoàn toàn quái đản trong lịch sử hiện đại: nhà cầm quyền tàn sát sân chúng của họ, theo một nhịp độ chưa từng có, chưa từng xẩy ra, chưa từng đạt tới. Và số dân chúng còn lại, lẽ dĩ nhiên, coi như là sống sót, và họ đang sống dưới sự đàn áp của một quân đội chỉ lo việc hủy diệt, và tỏ ra tàn bạo. Hoàn cảnh như vậy không giống Việt Nam.
Ngược lại, điều quan trọng ở đây là sự kiện này: trong những tổ chức, lực lượng đoàn kết tương trợ, được thành lập trên khắp thế giới, nhằm hỗ trợ những người tị nạn vùng Đông Nam Á Châu, người ta đã bỏ qua, không tính tới sự khác biệt về những hoàn cảnh lịch sử và chính trị. Như vậy không có nghĩa là, người ta có thể tỏ ra rửng rưng, không thèm để ý tới những nghiên cứu lịch sử và chính trị của vấn đề người tị nạn, nhưng điều khẩn thiết cần phải làm liền, là cứu những con người đang gặp nguy hiểm.

Bởi vì, vào lúc này, bốn chục ngàn người Việt Nam đang chới với trên biển Đông, trước khi tới được đảo, cận kề với cái chết. Bốn chục ngàn người Căm Bốt đang ngột ngạt tại Thái Lan, và cũng đang cận kề với cái chết. Như vậy là không kém con số tám chục ngàn người đang ngày đêm cận kề với cái chết. Mọi tính toán so đo, về sự cân bằng tổng quát những sứ xở trên trái đất, những khó khăn chính trị và kinh tế đi cùng với sự cứu trợ người tị nạn – tất cả những so đo tính toán như vậy không thể nào biện minh cho việc những nhà nước [trên thế giới] bỏ rơi những con người, ở ngưỡng cửa của cái chết.
Vào năm 1938 và 1939, người Do Thái chạy trốn khỏi Đức Quốc và Âu Châu, nhưng do chẳng có ai đón tiếp họ, cho nên đã có những người trong số đó bị chết. Bốn chục năm đã qua, kể từ đó, không lẽ bây giờ người ta lại đem cái chết đến cho hàng trăm ngàn người?-Về một giải pháp mang tính toàn cầu đối với vấn đề người tị nạn, những quốc gia gây ra tình trạng này, đặc biệt là Việt Nam, phải thay đổi đường lối chính trị.

-Nhưng bằng cách nào, theo ông, người ta có thể có được một giải pháp toàn cầu?

Trong trường hợp Căm Bốt, tình hình bi đát hơn là so với Việt Nam, nhưng lại hy vọng có được một giải pháp, trong tương lai gần. Người ta có thể tưởng tượng ra, sự thành lập một chính quyền có thể được dân chúng Căm Bốt chấp nhận, và từ đó, giải pháp ló ra. Nhưng với Việt Nam, vấn đề phức tạp hơn nhiều. Quyền lực chính trị đã được tạo dựng, thế nhưng mà, quyền lực này coi là ngụy (exclure: đuổi, khai trừ) một phần dân chúng, và lẽ dĩ nhiên, những con người bị khai trừ này không muốn điều đó. Nhà nước đã tạo ra một tình trạng là, những con người bị khai trừ bắt buộc phải chọn cái tình thế bấp bênh, hiểm nghèo như là một cơ may sống sót, tức là trao thân cho biển cả quyết định, thay vì ở lại Việt Nam. Rõ ràng là phải tạo áp lực để cho Việt Nam thay đổi đường lối chính trị. Nhưng "tạo áp lực" nghĩa là gì?
Tại Genève, trong hội nghị của Liên Hiệp Quốc về vấn đề người tị nạn, những quốc gia thành viên đã đưa ra áp lực đối với Việt Nam, áp lực theo nghĩa đòi hỏi, yêu cầu, hoặc gợi ý, cố vấn (conseil). Nhà cầm quyền Việt Nam do đó đưa ra một số nhượng bộ. Thay vì bỏ rơi những con người muốn ra đi, trong những điều kiện bấp bênh, và có thể mất mạng, nhà cầm quyền Việt Nam đề nghị xây dựng những trại chuyển tiếp, để gom lại những người muốn ra đi: những người này sẽ ở đây hàng tuần, hàng tháng, và hàng năm, cho tới khi có quốc gia nhận họ.... Nhưng đề nghị này tương tự, lạ lùng làm sao, với những trại cải tạo.

-Vấn đề người tị nạn đã từng xẩy ra nhiều lần trong quá khứ, nhưng, giả dụ như có một khía cạnh lịch sử mới mẻ, trong trường hợp những người Việt tị nạn, theo ông, khía cạnh này mới mẻ này là gì?

Thế kỷ 20 xẩy ra nhiều vụ diệt chủng và bách hại sắc tộc. Tôi nghĩ là, trong một tương lai gần, những hiện tượng này lại tái diễn, dưới những hình thức khác. Bởi vì, thứ nhất, những năm mới đây, con số những nhà nước độc tài cứ tăng lên mà không giảm đi. Bởi vì tự do diễn đạt tư tưởng chính trị là điều không thể có được tại những quốc gia như vậy, và lại chẳng làm sao có được một lực lượng kháng chiến, những con người bị khai trừ bởi chế độ độc tài đành phải chọn cách trốn khỏi địa ngục.
Thứ hai, trong những xứ sở cựu thuộc địa, người ta tạo nên nhà nước bằng cách tôn trọng biên giới như là đã có từ hồi còn thuộc địa, đến nỗi, những sắc dân, những tiếng nói, những tôn giáo cứ thế trộn lẫn vào nhau. Hiện tượng này tạo nên những căng thẳng nghiêm trọng. Trong những xứ sở như vậy, những đối kháng ở trong lòng dân chúng có nguy cơ bùng nổ, đưa đến tình trạng di chuyển một số lượng lớn dân chúng, và sự sụp đổ cơ chế nhà nước.
Thứ ba, những sức mạnh kinh tế tại những xứ sở phát triển, do cần lực lượng lao động từ thế giới thứ ba, và từ những xứ sở đang trên đà phát triển, đã kêu gọi di dân từ Bồ Đào Nha, Algérie, hay Phi Châu. Nhưng, ngày nay, những xứ sở này, do kỹ thuật tiến bộ, đã không cần tới lực lượng lao động chân tay, và lại tìm cách xua đuổi di dân.
Tất cả những vấn đề trên đẻ ra cơn lũ di dân, hàng trăm hàng triệu người. Và thật bi thảm, thật nhức nhối, với những người chết, những vụ sát nhân. Tôi sợ rằng, chuyện xẩy ra tại Việt Nam không chỉ là một tiếp nối của quá khứ, mà nó tạo nên một điềm báo cho tương lai.

Jennifer Tran chuyển ngữ.

Librairie Champlain: A French Bookstore - CLOSED

City's lone French bookstore to close

*

Ui chao Gấu có không biết là bao nhiêu kỷ niệm với tiệm này. Cuốn Lý Thuyết Tiểu Thuyết, mua ở đây, khi nó vừa được tái bản. Mua gửi NN, giữ cuốn cũ lại, của 1 ông bạn, quen qua NTV, ở Montreal tặng. Ông này mua cuốn này cùng thời với Gấu, mua ở Sài Gòn, những ngày mới làm quen với Lukacs. Cả một bộ Ðệ Nhất Kỳ Thư, Dits et Écrits mấy ngàn trang của Foucault, gồm 4 tập. Cuốn Bịnh Nhân Anh, bản tiếng Tây, mua chỉ vì cái bài giới thiệu bản tiếng Pháp.
Ðó là thời gian đọc sách. Khi có internet, kể như không còn ghé tiệm nữa. Tiệm đóng cửa cũng chẳng hay. Ðệ Nhất Kỳ Thư là nick của NTV gọi bộ sách của Foucault. Trong tiệm cũng có 1 khu trưng bày sách cũ. Gấu vớ được 1 cuốn về Kafka, gồm gần như toàn thể những phê bình gia hách xì xằng nhất thế giới, viết về ông. Có những quầy thật dặc biệt, dành cho từng nhà xb, từng tủ sách, Gallimard, Point, Policier... Tất nhiên làm sao thiếu khu dành cho sách mới ra lò, sách được giải thưởng...




Tưởng chỉ có tờ Người Kinh Tế gọi đích danh, lũ bò sát. Bây giờ đến tờ LA Thời Báo, lũ độc tài.
Hay là cũng nằm trong Giai Điệu Tự Hào của xứ Mít VC.

Tổ Kuốc Ơi, Sao Bi Giờ Nhục Quá!

Sáng nay thấy báo Los Angeles Times chạy tít như thế này về họp Thượng đỉnh ASEAN "Một đám những nhà độc tài đang đến Nam California". Trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Bùi Văn Phú's photo.
LikeComment


Trọng Lú dưới cái nhìn của Người Kinh Tế qua Đại Hụi Bịp: Trò ma nớp của loài bò sát

Chính trị xứ Mít VC
Politics in Vietnam
Reptilian manoeuvres
Trò ma nớp của loài bò sát
A colourful prime minister goes, as the grey men stay
Một vì thủ tướng màu mè ra đi, một lũ muối tiêu ở lại



Carry on, Nguyen Phu Trong
Cố lên, Trọng Lú, đừng để chết lâm sàng!

Note:
Bảnh thật, đám lề trái cũng không nghĩ ra nổi, hình ảnh 1 lũ bò sát ở Đại Hội Bịp, và cái chết của vị đại cha già dân tộc, là con rùa vàng, biểu tượng của
bốn ngàn năm văn minh Sông Hồng, nằm chết lều bều trên mặt Hồ Gươm!
Essay · The Mekong
Requiem for a river
Khóc một dòng sông

Note: Tuyệt cú mèo.

In teaching his students that change was the one true constant, the philosopher Heraclitus told them that no one ever steps in the same river twice. At the second step both man and river are not what they once were. In space and in time, from narrow gorges to salty seas and from great empires to impoverished peasantry, the river at Mr Guo’s feet encompasses more change than most. These new developments, though, feel like something more profound. Flow means change, but it also brings identity, because it embodies continuity. As the river is stilled, precious identities risk being lost for ever.

Trong khi dạy đệ tử, đổi thay mới là cái vĩnh hằng, Thầy Triết Đào, ấy chết xin lỗi, Thầy Heraclitus phán, không ai bước xuống cùng 1 con sông hai lần. Cú thứ nhì bước xuống, là cả người lẫn con sông đã thay đổi rồi, đã không còn như xưa nữa..

The delta

A river stills, the seas rise

Eventually, all rivers empty into oceans; water comes together with other waters. But for this river, at this delta, the sense of an eternal return is lessened, that of an ending heightened. The seas, driven by a century of global industry, rise higher, while for the sake of a little more industrial power, the gifts of the river are being squandered. Life as it has been is not life as it will be. The days of stepping into the river are numbered.



Tưởng chỉ có tờ Người Kinh Tế gọi đích danh, lũ bò sát. Bây giờ đến tờ LA Thời Báo, lũ độc tài.
Hay là cũng nằm trong Giai Điệu Tự Hào của xứ Mít VC.

Tổ Kuốc Ơi, Sao Bi Giờ Nhục Quá!

Sáng nay thấy báo Los Angeles Times chạy tít như thế này về họp Thượng đỉnh ASEAN "Một đám những nhà độc tài đang đến Nam California". Trong đó có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Bùi Văn Phú's photo.
LikeComment


Trọng Lú dưới cái nhìn của Người Kinh Tế qua Đại Hụi Bịp: Trò ma nớp của loài bò sát

Chính trị xứ Mít VC
Politics in Vietnam
Reptilian manoeuvres
Trò ma nớp của loài bò sát
A colourful prime minister goes, as the grey men stay
Một vì thủ tướng màu mè ra đi, một lũ muối tiêu ở lại



Carry on, Nguyen Phu Trong
Cố lên, Trọng Lú, đừng để chết lâm sàng!

Note:
Bảnh thật, đám lề trái cũng không nghĩ ra nổi, hình ảnh 1 lũ bò sát ở Đại Hội Bịp, và cái chết của vị đại cha già dân tộc, là con rùa vàng, biểu tượng của
bốn ngàn năm văn minh Sông Hồng, nằm chết lều bều trên mặt Hồ Gươm!
Essay · The Mekong
Requiem for a river
Khóc một dòng sông

Note: Tuyệt cú mèo.

In teaching his students that change was the one true constant, the philosopher Heraclitus told them that no one ever steps in the same river twice. At the second step both man and river are not what they once were. In space and in time, from narrow gorges to salty seas and from great empires to impoverished peasantry, the river at Mr Guo’s feet encompasses more change than most. These new developments, though, feel like something more profound. Flow means change, but it also brings identity, because it embodies continuity. As the river is stilled, precious identities risk being lost for ever.

Trong khi dạy đệ tử, đổi thay mới là cái vĩnh hằng, Thầy Triết Đào, ấy chết xin lỗi, Thầy Heraclitus phán, không ai bước xuống cùng 1 con sông hai lần. Cú thứ nhì bước xuống, là cả người lẫn con sông đã thay đổi rồi, đã không còn như xưa nữa..

The delta

A river stills, the seas rise

Eventually, all rivers empty into oceans; water comes together with other waters. But for this river, at this delta, the sense of an eternal return is lessened, that of an ending heightened. The seas, driven by a century of global industry, rise higher, while for the sake of a little more industrial power, the gifts of the river are being squandered. Life as it has been is not life as it will be. The days of stepping into the river are numbered.


Nhà phê bình Thụy Khuê: “Viết lịch sử là đi tìm sự thực”
http://phiatruoc.info/nha-phe-binh-thuy-khue-viet-lich-su-la-di-tim-su-thuc/

Note: Bài viết này, theo GCC có nhiều sai sót, do võ đoán, và liều lĩnh.
Thí dụ, những nhận xét của TK về tiểu thuyết mới, về Kafka… quá nhảm, phải nói như vậy.
Tiểu thuyết mới không chỉ quy về trường phái của cái nhìn. Có, nhưng chỉ ở Michel Butor.
Bởi là vì TTM, mỗi người trong nhóm, viết 1 cách. Với, Nathalie Sarraute, thí dụ, đâu phải cái nhìn, mà là hướng động tính, như trong Tropisms, she describes tropisms as the “interior movements that precede and prepare our words and actions, at the limits of our consciousness.”  They happen in an instant, and apprehending them in the rush of human interactions demands painstaking attention. Tropisms became the key to all her subsequent work.
[Trả lời phỏng vấn, trên tờ Paris Review].
Kafka, nhà viết truyện trinh thám, tếu quá!

Còn về nước Mít thời nhà Nguyễn, cực bảnh, theo như bà TK. Thì cứ coi đúng như thế. Nhưng bảnh cỡ nào thì cũng bị lũ mũi lõ đô hộ.
Cái nhìn của Hannah Arendt về thời kỳ này, trên toàn thế giới, đúng nhất, và hợp tình hợp lý nhất.
Bà phán, không có lũ mũi lõ thực dân đô hộ, chưa biết bộ mặt thế giới ngày này ra sao.
Gấu thực sự không tin, bà TK biết đến bà Hannah Arendt?
Ở Tẩy, nhưng chắc chưa từng đọc Roland Barthes, thí dụ?
Bất giác lại nhớ đến Võ Đình. Ông này không biết đến Adorno là ai, dù bỏ nước ra đi từ hồi còn con nít, chắc thế.
Người phán:
Văn Học số Xuân Đinh Sửu [129&130], trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ viết: "... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào đó mà còn làm được thơ thì thật là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên không lạm bàn rông rài. Chỉ "trộm" nghĩ rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như... "vung tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu phê phán này thành... "sau Auschwitz mà còn làm thơ... Trời ơi, Tuyệt!"?  Hay là, "Mọi văn hóa sau Auschwitz là những nhánh kỳ hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu bọ lúc nhúc, thối um"?
Đêm Tận Thất Thanh [của Phan Nhật Nam. NQT]  là một nhánh kỳ hoa đó...
Tôi không may mắn (?) từng đọc tác giả Adorno nói trên....
Bà TK, vớ được tí tài liệu hiếm quí, thế là hê lên, ta kiếm ra sự thực rồi!
Văn chương sau này, trở thành 1 môn, trong nó, có cái gọi là văn chương so sánh.
Bạn không thể biết chỉ 1 thứ văn chương, hay chỉ 1 thứ lịch sử, theo GCC.
Càng mãi về sau này, Gấu để ý, phê bình gia đều là những nhà sáng tác. Họ làm hai công việc, cùng 1 lúc, ngoài ra, còn láng cháng với một vài môn khác, nào điện ảnh, nào âm nhạc.
Cái dở của Mít, như 1 bà TK này, là không sáng tác được.
Thế là phán loạn cào cào về sáng tác!
Chán thế!


Ga la ''Giai điệu tự hào'' 2015, có một nhà thơ bị bỏ quên.
Đó là nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Đức Mậu, người viết phần lời cho ca khúc ''Màu hoa đỏ'' do nhạc sĩ Thuận Yến sáng tác nhạc. Ca khúc này được ca sĩ Thanh Lam thể hiện đầy xúc cảm, mới mẻ trong chương trình. Nhưng trên màn hình, không hiểu sao lại thấy ghi ''Màu hoa đỏ, Nhạc và lời: Thuận Yến''.
Nên trả lại tên cho nhà thơ Nguyễn Đức Mậu trong ca khúc nổi tiếng này.

Note: Một xứ Mít VC, Đại Hội Đảng được 1 tờ báo danh tiếng như tờ Người Kinh Tế gọi là trò ma nớp của đám bò sát, một tên già sắp xuống lỗ cố bám cái ghế Tổng Bí Thư vẫn mặt dầy, dân chủ như thế này, ở đâu có được…  vẫn giai điệu tự hào ư?


The Meaning of New Hampshire

As to what happens after New Hampshire in the other primaries, God only knows. We are a polarized country, angry and more than a little crazy. I recall back in the 1990s a reporter asking an elderly Serbian monk in some monastery what he thought about the war in Bosnia. He said, “Son, every once in a while evil creeps into people and there’s no way of getting rid of it, one just needs to let it run its course until they come to their senses.” I remember being shocked by the monk’s words, and one can quibble about the details, but he turned out to be right. It’s not a pretty thought, nor does it make the election less terrifying or give us much reason to hope that things will get better in this country, no matter who wins.
Charles Simic

Tờ Time cũng đi 1 đường phỏng vấn Hilary, và bà này phán, tôi biết thua cuộc đau như thế nào.
Cuộc bầu cử sắp tới của Mẽo, như thế, sẽ thật căng, và có thể, sẽ thay đổi nước Mẽo, nếu “người của chúng ta”, Bernie Sanders, thắng cuộc.
Tờ Guardian Weekly cũng đi 1 đường về hiện tượng người hùng của nhân dân Mẽo, và giải thích đây là do bất an về kinh tế, và xẩy ra, không chỉ ở Mẽo.

*

1 Year Ago Today

TỬ SĨ VÀ LIỆT SĨ

https://www.facebook.com/notes/10150729109587362/
Hình: Bà cụ GCC bữa chôn cất thằng em trai tại nghĩa trang quân đội Gò Vấp
Bài viết: FB CGDL...

See More
Quoc Tru Nguyen's photo.


Bài viết: FB CGDL
Tks. NQT

Khách quan mà nói thì không khó khăn gì, nhưng với cách thức như vậy trông không giống một nghĩa trang dân sự càng không giống một di tích lịch sử. Bên trong cây cối mọc cao lẫn cỏ dại lúp xúp chen chúc giữa những dãy mộ và lấn tràn ra đường khiến không khí càng cô tịch và hoang tàn, u uất. Theo tui hiểu, thì với tập tục Á Đông, người Việt rất tối kỵ mồ mả cha ông bị rễ cây đâm vào bởi ai cũng tin rằng như thế sẽ làm đau đớn, khó chịu linh hồn người chết và con cháu sẽ không thể sống yên hay làm ăn phát lộc được. Bỗng nhớ tới chuyện nhà của một đứa bạn học có cha chết trận được chôn ở đây. Nhiều năm nay gia đình muốn bốc mộ mang về quê nhưng không được phép. Nó bảo, nghe đâu có cả thầy bên Tàu về ếm; những tử sĩ chôn ở đây hồn không thể siêu thoát, con cháu mấy đời sau cũng không thể ngóc đầu lên được. Thật ra thì cần gì thầy với bùa, bản thân nó khi ấy đi thi đại học trầy trật tới mấy lần mới vô được vì dính trong diện đối tượng gia đình có người tham chiến chế độ cũ.

Lại nhớ tới chuyện Ngũ Viên. Ông tên tự là Tử Tư người nước Sở thời Xuân Thu, cha và anh đều bị Sở Bình Vương giết hại. Ngũ Viên đã trải qua bao gian truân vất vả, lưu lạc sang nước Ngô giúp Hạp Lư giết chết Ngô Vương Liêu chiếm được ngôi vua. Về sau, Ngũ Tử Tư cùng Ngô vương Hạp Lư dẫn quân tiến đánh nước Sở, nước Sở bị thất bại. Khi ấy Ngũ Tử Tư râu tóc trắng xóa, Sở Bình vương cũng đã chết; ông bèn đào mộ lên rồi dùng roi đồng đánh luôn ba trăm cái vào thi thể của Sở Bình vương xong chặt mất đầu để báo thù cái tội giết cả nhà mình khi trước. Người bạn Thân Bao Tư của ông nghe được tin này bèn sai người đem thư sang cho Ngũ Tử Tư, trong thư viết: "Ngay đến người chết anh cũng không tha, làm như vậy thật quá tàn nhẫn". Ngũ Tử Tư xem thư xong liền nói với người đưa thư rằng: "Tôi nhờ anh về nói lại với Thân Bao Tư là tôi chẳng khác nào một người đi đường, trời đã gần tối mà đường đi còn xa lắc xa lơ, nên tôi mới làm cái việc nghịch với lẽ trời này". Trong tâm thế người chiến thắng, việc đối xử với những kẻ thua cuộc, thất thế – cho dù đã chết, là vấn đề hết sức tế nhị. Nó có thể cho thấy sự tự tin, lòng bao dung, nhân tâm và tình người; nhưng mặt khác, cũng có thể cho thấy thái độ hằn học, và vẫn còn tư tưởng thù hận. Nghĩa tử là nghĩa tận. Nói theo cách Ngũ Tử Tư, thì nếu đường đã rộng đẹp thênh thang rồi thì hà cớ gì không làm những việc hợp với lẽ trời. Cư xử với kẻ thù như những người bạn, điều này còn tốt hơn bất cứ sức mạnh và quyền lực nào; đó là điều không phải ai cũng làm được!


1 Year Ago Today

Kiệt và Thuỳ gặp nhau ở Âu Châu trong năm học cuối cùng của Thùy. Thùy bị gia đình gọi về khi bà mẹ ngã bệnh nặng hấp hối. Bà cụ qua khỏi nhưng lại bị bán thân ...

“Bếp Lửa,” là từ biến động 1954 mà ra, và cùng với nó, là định nghĩa: Nhà văn là kẻ đến sau biến động.
"Một Chủ Nhật Khác", không đến sau mà đến trước biến động:

Không ai có thể hiểu nổi, bằng cách nào, vào những ngày sôi động như thế, TTT đã hình dung ra được 1 kẻ bỏ chạy, thoát cuộc chiến, để rồi bò về, để chết, cái chết của tên sĩ quan Ngụy, bị chính đồng đội của mình, bắn chết, vì lầm là VC.

Gấu có 1 anh bạn, cũng cán sự Bưu Điện, nhưng thuộc loại đàn em, cũng làm tại Đài Liên Lạc VTD số 5 Phan Đình Phùng, Saigon, vào những ngày “biển máu” đó, đang được học bổng tu nghiệp ở Paris. Anh nhất định đòi về. Tẩy nói, mi ở đây luôn đi, anh nói, tao phải về, nếu giả như vợ con tao có bề gì, làm sao tao sống?

Cuốn này, nhờ Nguyễn Đông Ngạc mà có được. Trước khi đi xa, anh dặn bà vợ, đưa cho GCC.
Thế là GCC bèn đưa lên net. Lần ông anh mất, gặp bạn C, bạn cho biết, chị H. cằn nhằn hoài, tại làm sao mà chú Trụ đưa lên lưới, cũng không nói với anh Tâm 1 tiếng, Gấu bèn bỏ xuống, sau lại nghĩ, anh Tâm khi đó chưa đi xa, nếu anh bực, thì đã phôn, hoặc mail, thế là lại đưa lên!

Quoc Tru Nguyen's photo.



1 Year Ago Today

GCC đọc Y Uyên ngay khi anh xuất hiện, và, đúng như tên tác phẩm của anh, Bão Khô, văn của anh khô quá, khác hẳn thứ văn phong nhão nhẹt, đầy nước, đầy “cảm tín...

See More
Quoc Tru Nguyen's photo.


GCC đọc Y Uyên ngay khi anh xuất hiện, và, đúng như tên tác phẩm của anh, Bão Khô, văn của anh khô quá, khác hẳn thứ văn phong nhão nhẹt, đầy nước, đầy “cảm tính”, đầy than van, của mấy đấng khác! Tuy nhiên, vẫn có 1 cái gì đó thiếu, một hình ảnh, một viễn ảnh, như chữ GCC hay dùng, trong trường hợp này.  (1)

Thí dụ, hình ảnh anh chàng lỡ độ đường lom khom với bọc quần áo, bên lu nước, trong Dọc Đường của Thanh Tâm Tuyền.

Hay hình ảnh mấy nấm mồ, trong câu văn của Nguyễn Hải Hà, khi viết về thành phố Pleiku, mà tác giả chưa từng tới:

Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.

Nhưng mới đây, nhân đọc Bắc Đảo, thì GCC mới hiểu ra là, có 1 thứ thiếu, của chính chữ, chữ Mít. 

Cái mà Y Yuyên, và những nhà văn như ông thiếu, chính chữ Mít, thiếu!

"History decomposes into images, not into narratives." Walter Benjamin, trích dẫn bởi Coetzee.

Lịch sử vỡ ra thành hình ảnh, không phải bằng tự sự.

Cả 1 cuộc vượt biển khủng khiếp như thế, đọng vào hình ảnh, vài nấm mồ, trấn ngự biển cả như 1 chân trời lừng lững phía sau nó. 

Hình ảnh tên Mít lỡ độ đường, là hình ảnh lũ Mít lưu vong sau này, không nơi nào dám chứa!

[Chứa nó, là nó biến nước đó, xứ đó, thành bãi đánh hàng, sao?]

Cái hình ảnh mà Mít cần, nếu đọc bài của CGDL, trên, là 1 tên VC, tay đầy máu Ngụy, cởi trần, ra nghĩa địa Ngụy quỳ lạy, như dưới đây:

*

Trên Tin Văn, GCC đã từng đề nghị tên già, chính uỷ NN, làm việc này!

(1)

*

Lần đó, theo Joseph đi gặp Đỗ Long Vân, khi đó là anh lính truyền tin tại Đài Phát Tín Phú Lâm, xin bài viết Truyện Kiều ABC. Hình như Gấu đứng ngay đó, đọc loáng thoáng, vớ được câu này: 

Cái mới nếu có chẳng qua là ở trong một cách đọc… 

Và Gấu biết, bài viết kể như xong: Ta sẽ đọc Bếp Lửa ở mức không độ của nó, vứt mẹ tất cả vào xọt rác, nào ý thức lạc loài, nào thân phận nhược tiểu, nào Malraux...

Trong một lần đi cùng NTiV lên Montreal, nhậu với một tay chuyên về điện ảnh, tay này cho biết, có một người bạn không hề bỏ một bài Tạp Ghi nào của Gấu [khi đó viết cho NMG, trên tờ Văn Học], nhưng Gấu đoán, ông bạn này là chính ông ta.

Trong lúc nhậu, chủ nhà hỏi Gấu, anh viết một bài viết như thế nào. Và Gấu trả lời, tất cả những bài viết của Gấu đều là cóp nhặt, đều là kết hợp của đủ thứ hầm bà làng, cho đến khi Gấu có được một cái "vision" choàng lên tất cả.

Với bài Biển, "vision" của nó, là chi tiết về cát.

Với bài Bếp Lửa, cái vision của Gấu chiếu về cuốn của Barthes: Độ không của cách viết.

Bài viết Bếp Lửa kết thúc bằng câu:

Người ta có thể đọc hoài một cuốn sách, nhưng không chỉ có một cách đọc cuốn sách đó.
Nếu người viết có một "viễn ảnh" về bài viết, khi viết, thì người đọc, cũng có một viễn ảnh, về bài viết, khi đọc.

Đọc một bài thơ, bài văn, như thế nào?

Hãy đọc nó, như là một viễn ảnh, của riêng bạn, về nó.
Và như thế, viễn ảnh còn là chìa khoá, password của riêng bạn, để mở ra bài viết
Có lẽ, chẳng ai có thể dậy bạn, đọc một  bản văn.
Có thể, có những gợi ý, nhưng đọc nó như thế nào, là tùy ở bạn.














Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây