*



George Steiner trả lời phỏng vấn của Nhật báo Nam Đức
Ta là bọ chét trong lông sư tử mà thôi
 Phạm Thị Hoài dịch và chú thích

 

 Chủ nhật này, nhà nghiên cứu văn học George Steiner sẽ nhận giải Ludwig-Börne[1] tại nhà thờ Paulskirche, thành phố Frankfurt (Đức). Bộ trưởng ngoại giao Đức Joschka Fischer, giám khảo năm nay, chọn Steiner để trao giải vì khả năng ngôn ngữ và óc phân tích xuất sắc của ông. George Steiner sinh năm 1929 tại Paris, từng dạy ở đại học Genève và Cambridge, thành thạo bốn ngôn ngữ, là một công dân toàn cầu của thế giới văn chương, với cội rễ châu Âu cổ điển. Có lẽ từ Thomas Carlyle[2] tới nay, chưa ai đóng góp nhiều cho việc giới thiệu văn chương và triết học Đức trong khu vực Anh ngữ như George Steiner. 

Nhật báo Nam Đức (SZ): Thưa ông Steiner, ông đang viết một cuốn sách về quan hệ giữa thầy và trò: thầy gạt trò, trò phản thầy, hoặc thần ái tình quyện đôi bên vào nhau trong trường hợp may mắn. Bản thân ông đã trải qua những kinh nghiệm đó? 

Steiner: Vâng, ba khả năng ấy tôi đều biết. Chắc chắn là tôi có lỗi với một vài sinh viên. Hủy hoại thể chất họ thì có lẽ không, song về mặt tinh thần, tôi đã khước từ và làm họ nhụt chí. Nhưng sinh viên của tôi cũng có người phản thầy, rút cuộc họ tuyên bố rằng tác phẩm của tôi vô bổ, còn tư tưởng của tôi thì phản động. Nhưng phúc thay, cũng còn nhiều sinh viên gắn bó với tôi như một gia đình, bây giờ họ cũng là những giáo sư.

SZ: Có bao giờ ông thấy sợ học trò quá giỏi, có thể đánh bạt hay thậm chí xoá trắng sự nghiệp của thầy không?

Steiner: Ôi, có chứ!

SZ: Đó là phản bội? 

Steiner: Không. Đó là nhảy qua, vượt qua. Trong toàn bộ nửa thế kỷ vừa rồi, có bốn sinh viên tài năng hơn tôi nhiều, trí lực mạnh mẽ hơn hẳn tôi. Tôi coi đó là phần thưởng lớn nhất của người thầy. Nhưng phần thưởng ấy có lúc cũng đi kèm với thất vọng. Cô sinh viên xuất sắc nhất xưa nay của tôi ở Cambridge học xong, đến từ biệt thầy, và hết sức bình thản nói với tôi như sau: Thưa giáo sư, tôi căm thù ông, tôi căm thù tất cả những điều ông đã dạy. Tôi chỉ cốt chứng tỏ để ông biết là học giỏi nhất chẳng có gì khó cả. Bây giờ tôi sẽ về Trung Quốc, đó mới là thế giới của tôi, vĩnh viễn từ nay tôi không muốn nghe nói đến cái mớ rác ruởi tư sản mà ông đã mất công truyền đạt.

SZ: Quan hệ giữa George Steiner với giới hàn lâm, giới nghiên cứu văn học rất căng thẳng. Tình huống nhẹ nhất là hai bên chẳng có gì mà nói với nhau. 

Steiner: Giới đại học sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi, chỉ vì một điều đã thành nguyên tắc. Từ lúc còn trẻ, ngày nào tôi cũng ba lần tự nhủ: tôi thân mến ơi, ngươi chỉ là bưu tá, phận sự của ngươi là đưa thư, đưa thư là việc rất quan trọng. Cái may mắn khổng lồ của ngươi là nhận thư, rồi tìm cách bỏ đúng vào thùng thư cần bỏ. Nhưng ngươi không tự viết những bức thư ấy. Đó là tôi lấy ý của Puschkin, ông ấy bảo: "Cảm ơn các dịch giả, cảm ơn các nhà phê bình, nhưng tác giả bức thư là tôi." Tôi biết như vậy, tôi biết giữa kẻ sáng tạo và kẻ bình phẩm là một khoảng cách phải đo bằng hàng năm ánh sáng, nên giới đại học không bao giờ tha thứ cho tôi. Đấy là điều cấm kỵ lớn. Đám văn phiệt ấy quá quan trọng hoá bản thân mà quên mất rằng, ta chỉ là bọ chét trong lông sư tử mà thôi. 

SZ: Thì ra thế. Tôi lại tưởng, do người ta không thích kiểu bình giảng văn chương tương đối lỏng tay của ông? Giới nghiên cứu văn học ở Đức thì sợ biến thành một thẩm quyền định giá, nên quay sang tranh cãi về phương pháp luận.

 

Steiner: Vâng, nghiên cứu văn học tiếng Đức ở Đức thời nay chắc không sướng gì. Cho phép tôi hỏi một câu: Muốn tìm một tư tưởng lớn ở Đức bây giờ thì tìm chỗ nào? Tôi kính trọng Habermas[3] lắm, tôi đã từng ái mộ Gadamer[4] . Nhưng tình cảnh chung rõ ràng là tẻ nhạt. Những hứa hẹn lớn của tư duy đâu rồi? Những tiếng nói tầm vóc, sau Thomas Bernhard[5] và Canetti[6] , đâu rồi? Đông Đức trước kia còn thú vị. Phát biểu thế này, e rằng tôi có thêm kẻ thù. Những ngày trước khi đổ tường, tôi có phụ trách mấy lớp ở đại học Humboldt[7] . Mật vụ của Stasi[8] ngồi kèm trong lớp. Áp lực thật khủng khiếp, nhưng mọi người hiểu rằng, vấn đề ở đây là vấn đề cốt tủy. Vừa nhục nhã vừa kích động. Chia sẻ một tác phẩm lớn với những con người như vậy vừa nguy hiểm tính mạng, vừa khích lệ niềm yêu đời. 

SZ: Vì tác phẩm bỗng mang một trọng luợng sống còn? 

Steiner: Vì xoay quanh vấn đề cốt tủy của phẩm giá làm người. Tôi cũng từng giảng về một số tiểu thuyết thời Victorian[9] tại Warszawa. Photocopy bị cấm, nhiều sinh viên đã chép tay hàng chương Thackeray[10] và Eliot[11] . Chữ chép tay là chữ còn lại, người ta thuộc, người ta có tình với nó. Bây giờ thì sự quan liêu của đồng tiền chế ngự mọi thành quả trí tuệ. Trí tuệ Ý còn bao nhiêu, vào tay ngài Berlusconi[12] cả. Ta còn chưa kịp nghĩ ra khái niệm chỉ chủ nghĩa phát xít của lợi nhuận. Thị trường đại chúng thực thi cơ chế kiểm soát khốc liệt hơn chế độ kiểm duyệt nhiều. Đó thật sự là hiện tuợng mới. Dưới thời kiểm duyệt, dù sao cũng còn khả năng samisdat[13] , còn luồn lách được... 

SZ: Có phải chúng ta đang sống ở thời hạ màn, thời của diễn văn bế mạc, của màn vĩ thanh, của hoàng hôn đang xuống, mọi thành tựu văn hoá vĩ đại đều đã xong từ lâu?

Steiner: Đúng như vậy. Chẳng ai trong chúng ta, anh, tôi, hay bất kỳ ai, vào lúc ba giờ sáng, tức là khi chỉ có mình nói thật với mình, lại tin rằng sẽ có thêm một Shakespeare, một Mozart, một Beethoven, một Michelangelo nữa. Thật là kỳ cục. Hoàn toàn thiếu cơ sở. Biết đâu ngay ngày mai, ở đầu đường, xuất hiện một Shakespeare mới thì sao. Nhưng vấn đề là chúng ta không tin như vậy. Tôi gọi đó là màn vĩ thanh. 

SZ: Theo ông thì vì sao? 

Steiner: Vì chúng ta mệt mỏi, chúng ta quá mệt mỏi. Năm 1919, Valéry[14] đã nói thế nào nhỉ: Bây giờ ta đã ngộ ra rằng, mọi nền văn hoá đến độ rực rỡ đều có thể tàn lụi, đó là câu nổi tiếng của Valéry. 

SZ: Nghệ thuật cổ điển mất dần tầm quan trọng cũng là do các ngành khoa học tự nhiên thành công quá phải không?
 

Steiner: Người giỏi bây giờ đều đi vào khoa học tự nhiên, thế là phải. Bao nhiêu năm tôi sống chung với giới khoa học tự nhiên ở Princeton và Cambridge, họ là những ông hoàng hạnh phúc, họ biết rằng thứ Hai tuần sau còn thú vị hơn thứ Hai tuần này. Tình cảnh của chúng ta thì hoàn toàn ngược lại. Tôi sống là để bình phẩm về quá khứ. BBC thống kê được một con số đáng sợ: tám muơi tám phần trăm luợng nhạc cổ điển phát trên đài là tác phẩm từ trước năm 1910, tám mươi tám phần trăm! Mahler[15] còn được coi là hiện đại! Tất nhiên ngày nay cũng có những nhà soạn nhạc lớn, Boulez chẳng hạn, tôi đánh giá cao và yêu Boulez, nhưng chẳng ai còn cố tin vào một thời Phục Hưng mới nữa. 

SZ: Cả cuộc đời ông xoay quanh cái chủ đề trung tâm, đó là lòng tin vào một "hợp đồng" giữa con chữ và sự vật, một thông tín giữa ngôn ngữ và thế giới. Chỉ là lòng tin, hay còn hơn thế? 

Steiner: Nếu ngài Derrida bảo tôi rằng, ý nghĩa không tồn tại; nếu ngài Rorty[16] bảo tôi rằng: anything goes, tôi không dùng lí trí mà phản bác được, hoàn toàn không thể. Tôi chỉ biết nói rằng, thưa các vị, các vị nhầm rồi. Tôi cuộc cả đời, vụ cuộc Pascal[17] , rằng muốn thế nào thì giữa ngôn ngữ và thế giới phải tồn tại một quan hệ, một quan hệ tuy phức tạp, rối rắm, gián tiếp, muốn gọi thế nào xin tùy- nhưng nếu không thì người ta chỉ đâm đầu vào chỗ vô nghĩa. Toàn bộ cái hậu cấu trúc luận và giải cấu trúc luận xuất phát từ chủ nghĩa dada, từ Hugo Ball[18] và những bài thơ vô nghĩa của ông ấy. Đó là một trò chơi dada. Tôi còn nhớ, giữa buổi nghe giảng, một học trò của Derrida lên bảng viết tên "Jesus" rồi tuyên bố: Đây không phải là Jesus, đây là "je sus", thể quá khứ của "tôi biết". Thế là tôi lặng lẽ đứng dậy, bỏ đi. Trò chơi chữ ấy là trò loè thiên hạ.

SZ: Ông quan niệm rằng đọc và diễn giải phải tuân theo phép lễ độ. Diễn giải văn bản bao hàm một phương diện luân lý hay sao? 

Steiner: Đọc tất nhiên là một hành vi luân lý, một hành vi lễ độ. Đứng truớc Tolstoi và Dostojevski thì phải đọc ra mọi cái hay, mỗi nhận định hay đều là một hành vi cảm ơn. Toàn bộ cuộc đời tôi là như vậy. Mọi cuốn sách của tôi đều là cách cảm ơn: cảm ơn các bậc thầy, cảm ơn các nghệ sĩ lớn đã tạo nên phép mầu của ước mơ cho tất cả chúng ta. Nhưng tôi lỗi thời mất rồi. Nhà phê bình lừng danh nhất nuớc Đức, ông Marcel Reich-Ranicki, với cuốn tự truyện mà tôi vô cùng khâm phục, dàn dựng cả một chế độ giáo hoàng trong phê bình văn học. Đồng nghiệp của tôi, ông Harold Bloom cũng vậy. Câu cửa miệng của ông ấy là: Tôi và Shakespeare, còn cả đời tôi là để nói: Shakespeare và tôi.
 

SZ: Ngày 25 tháng Năm sắp tới, bộ truởng ngoại giao Đức Joschka Fischer sẽ trao giải thuởng Ludwig-Börne cho ông. Từ tháng Giêng đến nay, từ khi Donald Rumsfeld gọi châu Âu là "châu Âu già nua", dường như châu Âu đang chao đảo giữa bất lực và tự mê mẩn bản thân...

 Steiner: ...cái châu Âu ấy, từ khi có vụ Kosovo, là giẻ rách.

 SZ: Nghĩa là châu Âu thất bại ở Balcan?

 Steiner: Thất bại tuyệt đối. Ở đây chắc không ai, kể cả ngài bộ trưởng, hình dung nổi sự khinh bỉ của Mỹ. Khinh vì châu Âu không đủ sức dọn cái bãi c...nhỏ của nó, xin lỗi, ở Balcan mà phải nhờ đến Mỹ. Ở đây không ai hiểu sự khinh miệt ấy, sự khinh miệt hoàn toàn chính đáng, dành cho châu lục giàu có này. Sự coi thường ấy sẽ còn kéo dài, thật khó mà chữa lành. Pháp hiện nay đang hoảng vì sợ Mỹ trù, sợ phát điên, không biết Mỹ sẽ làm gì mình. Vừa tự mê mẩn, vừa tự hành hạ, đến là khổ.

 SZ: Hiện nay Đông Âu đang huớng về Mỹ hơn là huớng về Tây Âu, ông thấy có hợp lý không?

 Steiner: Hợp lý. Mà ngược lại, Mỹ cũng rất quan tâm tới Đông Âu. Báo hôm nay đưa tin Ba Lan đưa quân sang Iraq, duới sự bảo trợ của Mỹ. Đến thế thì cả Kafka lẫn Calvino[19] cũng chịu không nghĩ ra được. Ta đang sống trong một thế giới tưởng tuợng, bình trị dưới gót Mỹ[20] , xin mời. Làm sao mà vĩnh viễn như vậy được. Bình trị duới gót Ăng Lê[21] một thời rồi cũng hết kia mà.

 SZ: Cái bình trị dưới gót Mỹ ấy có gì nguy hiểm?

 Steiner: Cực kỳ nguy hiểm. Nó kéo theo sự triệt tiêu các văn hoá và ngôn ngữ. Giờ đây McDonald hiện diện cạnh Vạn Lý Trường Thành. Người bình thường tất nhiên có quyền nói rằng: thưa ông Steiner, chúng tôi cóc cần biết những cuốn sách hay ho, những ý tưởng rắc rối mà có khi lại sai lầm của ông. Chúng tôi có quyền được hạnh phúc. Mà quyền được hạnh phúc là cái quyền rất Mỹ. Và hạnh phúc của đám đông là bóng đá. Hai tên tuổi vang dội nhất hành tinh này một thời là cặp Madonna và Maradonna. Lúc Maradonna bay về phía khung thành đối phương, dùng tay ném bóng vào lưới, rồi hét lên: đó là tay Thuợng Đế, thì đó chính là phát ngôn siêu hình của thế kỷ: Es la mano de Dio, bàn tay vô hình của Thượng Đế.

 Người thực hiện: Ijoma Mangold

Süddeutsche Zeitung, 18.05.2003

Bản tiếng Đức:

ww.sueddeutsche.de/sz/feuilleton/red-artikel6074/



 
 

--------------------------------------------------------------------------------

 

[1] Giải thuởng hàng năm dành cho những thành tựu xuất sắc trong các thể loại phê bình, phóng sự và tiểu luận, mang tên nhà văn Đức Ludwig Börne (1786-1837). Từ 1993, trong những người được trao giải có Marcel Reich-Ranicki, Hans Magnus Enzensberger, Rudof Augstein, Georges-Arthur Goldschmidt...

 

[2] Thomas Carlyle (1795-1881), nhà văn Scotland, đặc biệt ngưỡng mộ Goethe. Chưa có tác phẩm dịch sang tiếng Việt.

 

[3] Jürgen Habermas (1929), triết gia Đức, trường phái Frankfurt. Xem thêm cuộc trao đổi giữa Habermas và một số trí thức, văn nghệ sĩ Trung Quốc, www.talawas.org/habermas-v.html và diễn văn nhận giải thuởng Hoà Bình, www.talawas.org/habermas2-v.html

 

[4] Hans-Georg Gadamer (1900-2002), triết gia Đức, đại diện chính của Suy luận học (Hermeneutik). Chưa có tác phẩm dịch sang tiếng Việt

 

[5] Thomas Bernhard (1931-1989), nhà văn và nhà soạn kịch Áo, ảnh hưởng mạnh và gây tranh cãi không dứt, để lại di chúc cấm in ấn và trình diễn mọi tác phẩm của mình tại Áo. Chưa có tác phẩm dịch sang tiếng Việt.

 

[6] Elias Canetti (1905-1994), nhà văn viết tiếng Đức, sống tại Wien, London và Zürich, được trao giải Nobel năm 1981. Chưa có tác phẩm dịch sang tiếng Việt

 

[7] Humboldt-Universität zu Berlin, đại học nổi tiếng thuộc Đông Berlin truớc đây

 

[8] Stasi: viết tắt của chữ Staatssicherheit, cơ quan an ninh quốc gia của Đông Đức trước đây

 

[9] Thời nữ hoàng Victoria (1819-1901) trị vì vuơng quốc Anh

 

[10] William M. Thackerey (1811-1863), tiểu thuyết gia Anh. Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Hội chợ phù hoa

 

[11] George Eliot (1819-1880), tức Mary Ann Evans, nữ nhà văn Anh, chưa có tác phẩm dịch sang tiếng Việt

 

[12] Berlusconi, trùm kinh doanh truyền thông đại chúng, hiện là thủ tuớng Ý

 

[13] Samisdat: hình thức nhân bản truyền tay phổ biến tại Liên Xô và các nuớc Đông Âu cũ

 

[14] Paul Valéry (1871-1945), nhà thơ Pháp, một số bài thơ đã dịch sang tiếng Việt

 

[15] Gustav Mahler (1860-1911 ), nhà soạn nhạc Áo

 

[16] Richard McKay Rorty (1931), triết gia Mỹ

 

[17] Vụ cuộc Pascal gắn liền với Thuyết xác suất của triết gia và nhà toán học Pháp Blaise Pascal (1623-1662). Pascal cho rằng cuối cùng, ai có khả năng tư duy cũng đều đi đến chỗ tin vào lời Chúa, dù lời Chúa có thể sai, có thể đúng, xác suất là 50:50.

 

[18] Hugo Ball (1886-1927), nhà thơ Đức, một trong những người sáng lập trư ờng phái dada

 

[19] Italo Calvino (1923-1985), nhà văn Ý, có một số tác phẩm đuợm tính huyền hoặc, tưởng tượng, hầu như chưa dịch sang tiếng Việt

 

[20] Nguyên văn: Pax americana

 

[21] Nguyên văn: Pax britannica