*




February 7, 2014

Le Promeneur Solitaire: W. G. Sebald on Robert Walser

Posted by The New Yorker

This essay is adapted from a chapter of “A Place in the Country,” a collection of essays by W. G. Sebald (1944-2001), translated from the German by Jo Catling, which comes out next week from Random House. In these linked essays, Sebald takes up the troubled lives of five writers and one painter with the delicacy, intensity, and tone of sombre mystery for which he was known.

Bài tiểu luận này được phóng tác từ 1 chương của "Một Chỗ trong Một Xứ", tuyển tập tiểu luận của Sebald, sắp ra lò, trong đó, S. lèm bèm về những cuộc đời chẳng xuông xẻ của năm nhà văn và một họa sĩ, với trân trọng, với căng thẳng, và bằng 1 giọng văn có tí bí ẩn lù tà mù, vốn ông thật thân quen với nó.

*

April 5, 2012
W. G. Sebald’s Poetry of the Disregarded
Posted by Teju Cole

Thơ của những kẻ bị bỏ đi, chẳng ai thèm để ý đến, của W.G. Sebald

Xuyên suốt nghiệp viết của mình, W.G. Sebald làm những bài thơ, lạ làm sao, thật gần gụi, thật như văn xuôi của ông. Giọng điệu của ông, trong cả hai thể loại thì luôn luôn được nén xuống, kìm lại, nhưng làm sao giấu nổi đỉnh cao của chúng, là của 1 thứ kinh cầu, tưởng niệm, thương tiếc. Thêm vào đó, là sự kiện này: ông xóa nhòa, làm mờ đi, những đường ranh phân biệt những thể loại văn thơ, và thực thế, hầu như tất cả những gì ông viết, không chỉ thơ và văn xuôi, thì còn bao gồm lịch sử, hồi ký, tiểu sử, phê bình nghệ thuật, những tuyệt chiêu về học giả, kinh điển, và sáng kiến, phát minh. Một chuyên gia thuộc loại tổ sư trong cái việc trộn lẫn vào nhau những thể loại văn học như ông, thì đã được truyền nghề từ những bậc thầy rầu rĩ của thế kỷ 17, là Robert Burton and Thomas Browne, và những câu văn dài thòng, quấn quít vào nhau, thành những vòng tròn giống như những cái thòng lọng, của Sebald, thì cũng còn là một hình thức tưởng nhớ đến những nhà văn tiếng Đức thế kỷ 19, như Adalbert Stifter và Gottfried Keller.
Nhưng mạnh hơn nữa, là sự gần gụi của văn phong của những tác phẩm của riêng ông, với những tác phẩm có trước chúng, của những tác giả như
Robert Walser và Thomas Bernhard.
Đối với chúng ta, những kẻ đọc tác phẩm của ông, qua bản dịch tiếng Anh, tất cả tạo thành, cái gọi là, có tính Sebald [Sebaldian].
Tiếng tăm của Sebald trụ vào bốn cuốn tiểu thuyết—“Vertigo,” “The Emigrants,” “The Rings of Saturn,” và “Austerlitz”— tất cả chúng, những suy tưởng về lịch sử của bạo lực nói chung, và về di sản của Lò Thiêu nói riêng. Cảm quan của chúng ta về sự thành tựu này còn được giầu có thêm nhờ những tác phẩm khác: những tác phẩm xb khi ông còn sống (những bài diễn thuyết “Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt, và bài thơ dài “After Nature”), và những tác phẩm xb sau khi ông mất (trong có tập tiểu luận “Campo Santo”, những tập thơ ngắn “Unrecounted” và “For Years Now”).
Vóc dáng của Sebald, giống của Roberto Bolaño, đưa ra ảo tưởng, cả hai đều sản sản xuất khoẻ lắm, khoẻ lạ thường, và “Qua Đất và Nước”, "Across the Land and the Water”, tập thơ tuyển 1964-2001, khi trình làng không làm người đọc ngạc nhiên. Mười năm đã qua, vậy mà như ông vẫn còn sống, vẫn đang viết.
"Qua Đất và Nước” khác hẳn mọi cuốn sách khác của Sebald ở điểm cực bảnh, thật đáng nể này: nó có cái phần viết đầu tay của ông. Bởi vì thành công văn học của ông đến muộn (ông được năm bó khi cái đầu tiên của những tác phẩm của ông được dịch qua tiếng Anh), và cái ông Sebald mà chúng ta biết đó, là 1 ông chín,“mature” rồi, lừng lững một đấng rồi. Một trong những cực thú của tập hiện đang, present,  là ở trong cách nó chỉ cho chúng ta thấy, sự phát triển của giọng thơ của tác giả trên dòng thời gian trên mười năm, bắt đầu thập niên 1960, khi ông là một sinh viên. (1)

W.G. SEBALD'S MENTAL WEATHER

A new documentary explores his wanderings

W.G. SEBALD'S MENTAL WEATHER

Posted by Simon Willis, January 26th 2012

When I left the office the other afternoon for a screening of a new documentary, the sky was grey and overcast: good weather for watching any movie, perfect for one about W.G. Sebald. His book "The Rings of Saturn" (1995 in German, 1998 in English) records a walk he took around East Anglia in 1992, during which the author meditates on everything from herring fishing to the Holocaust. Darkness is always falling in Sebald's books, or clouds casting a shadow or "veils of mist" drifting in from the sea.
Grant Gee's excellent new film, "Patience (After Sebald)", which is released in Britain tomorrow, retraces the journey. The film combines grainy and blustery footage of Covehithe, Southwold, Dunwich and Somerleyton with voice-overs from writers and artists interpreting the book's web of associations. There are also audio recordings of Sebald himself. At one point he talks about fog and mist, and how much he admires the ability of Victorian novelists "to make of one phenomenon a thread which runs through a whole text."
That applies to Sebald's work too. Weather in "The Rings of Saturn" is more than mood. It's also a method of blurring what he sees, and a metaphor for the unbidden path the book takes. In the film, the author and academic Robert Macfarlane describes Sebald's work as "a vanishing of stabilities". It's not unlike a phrase Macfarlane used in a recent piece about mist for Intelligent Life. Mist, he wrote,  is “trickster weather…it turns familiar landscapes strange, dampens sounds, blurs vision".
In one passage in the book, which is explored in the film, Sebald takes a walk on Dunwich Heath in weather which is "uncommonly sultry and dark". After a while—during which he thinks about Britain's forests, charcoal and the relationship between combustion and creativity—he finds himself back where he began, lost among the crisscrossing tracks. "The low, leaden sky; the sickly violet hue of the heath clouding the eye...I cannot say how long I walked about in that state of mind, or how I found a way out."
"Patience (After Sebald)" is released in Britain on January 27th

Khi tôi rời văn phòng vào một buổi xế chiều, lo sàng lọc một tài tiệu mới, bầu trời khi đó thì xám xịt, đầy mây đen, đúng thứ tuyệt, để nằm dài coi phim, và, vớ đúng một phim về W.G. Sebald, thì quả là tuyệt cú mèo, như thằng cha Gấu vẫn thường xuýt xoa. Cuốn sách của ông, "The Rings of Saturn" (bản tiếng Đức, 1995, tiếng Anh, 1998) viết về cái lần ông tản bộ East Anglia, vào năm 1992, và trong khi tản bộ ông trầm tư về mọi điều mọi thứ, từ đi câu cá “herring” cho tới Lò Thiêu.
Bóng tối luôn phủ xuống những cuốn sách của Sebald, hay, mây làm thành 1 cái bóng, hay một bức “màn sương”, lừng khừng từ biển trôi dạt về.
Cuốn phim mới thần sầu của Grant Gee vẽ lại chuyến đi đó. “Nhẫn nại, (Theo Sebald)” ["Patience (After Sebald)”], sẽ trình làng ở Anh, ngày mai [27 Tháng Giêng, 2012].
Gồm những thước phim của Covehithe, Southwold, Dunwich and Somerleyton, lồng tiếng của những nhà văn, nghệ sĩ dẫn giải "lưới sách". Có những đoạn là tiếng nói, audio recordings, của chính tác giả. Có 1 khúc, ông lèm bèm về sương mù, sương muối, và thú nhận trước bàn thờ, ông mới mê làm sao, những nhà văn thời kỳ Victoria, ở điều này: cái khả năng thần kỳ của họ: “biến một hiện tượng thành 1 dải, chạy dài xuyên suốt trọn bản văn”

Đây là thủ pháp “rắn nằm trong cỏ”, "đếch biết đâu là đầu, đâu là đuôi", của Đông Phương ta. Rắn thì cũng 1 loại rồng, đúng không?

Trên blog của HHT có trích từ sách coi tướng của VTL, giai thoại “Song Long Nhiễu Nguyệt”, nói về hai sợi râu [râu với lông thì cũng rứa], dài ơi là dài:

Tướng của cô ta ẩn bên trong, không bong ra ngoài. Cô có hai sợi râu rồng, kéo thẳng ra thì dài tới đầu gối, để tự nhiên thì soăn lại từng vòng tròn nằm hai bên. Tướng ấy sách gọi là Song Long Nhiễu Nguyệt, Hai Rồng Nằm Ấp Mặt Trăng.

Độc giả TV tự kiếm đọc, Gấu không dám viết ra ở đây, sợ Gấu Cái chửi, mi già rồi, đừng tục tĩu quá.

Đương nói chuyện Lò Thiêu, vậy mà mi cũng đem chuyện dơ dáy chêm vô!

Hà, hà!

Nhưng điều Sebald phán, về tiểu thuyết thời Victoria ở Anh, thì cũng áp dụng ngay bong vô của ông. Thời tiết ở trong "The Rings of Saturn" thì còn quá cả cái gọi là “tâm trạng, tính khí”, mood. Đây cũng là một phương pháp viết: Làm mờ những gì ông nhìn thấy. Và còn là một ẩn dụ về một lối đi không mời mọc, tạ từ khách, theo đó, cuốn sách lầm lũi đi mình ên. Trong cuốn phim, tác giả, nhà khoa bảng Robert Macfarlane miêu tả tác phẩm của Sebald thì như là một sự “biến mất sự vững vàng, tại vị”. Như ông phán, trong 1 bài viết mới đây cho Intelligent Life, sương mù thì một thứ “khí hậu bịp bợm… nó biến những phong cảnh quen thuộc trở thành lạ lẫm, kỳ quặc, làm ẩm ướt âm thanh, tiếng động, làm mờ viễn ảnh, tầm nhìn”.

Bạn đọc, thấy lại từ "ẩm ướt", và có phải là nó liên quan tới cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo, và tất nhiên, tới hai sợi râu rồng dài ơi là dài?

Trong 1 đoạn của cuốn sách, được thăm dò, thám hiểm ở trong phim, Sebald làm 1 cú lang thang tại Dunwich, và thời tiết vào lúc đó thì “oi bức, âm u thật không giống ai, không giống bất cứ 1 lúc nào khác, nghĩa là rất ư là khác thường”. Sau một lúc – trong 1 lúc đó, thì ông nghĩ về những khu rừng của Ăng Lê, than củi, và sự liên hệ giữa đốt cháy và sáng tạo - ông thấy mình ngược trở lại, đúng ở nơi bắt đầu, thất lạc giữa những lối đi trùng lấp, “những con đường rừng chẳng dẫn tới đâu”. “Trời thì thấp, xám xịt một màu chì, cái màu tím bịnh hoạn của cái nóng làm mù mắt… Tôi không thể nói chừng bao lâu tôi lêu bêu trong trạng thái của cái đầu như thế, và bằng cái nào tôi lại mò ra lối ra”.



*

Nguyễn Hà Đông, người viết trò chơi điện tử 'Flappy Bird' thông báo trên Tweeter là gỡ bỏ nó khỏi App Store và Google Play từ trưa Chủ Nhật 9/2/2014. (Hình: Thanh niên) (1)

Note: Cũng 1 cas “Bắc Kít cực kỳ thông minh”, như …  Nobel Toán, chăng?
NQT.

Nobel Toán, là cũng 1 thứ “Phép Lạ Bí Ẩn”, như trong truyện ngắn của Borges, “điều mi xin, đã được chấp thuận, granted”.
Trường hợp Nobel Toán, có thể nói, Thượng Đế trao lộn món quà. Ông ta xin cái nhà, Thượng Đế lại nghĩ ông ta xin, cái bửu bối Nobel, để sử dụng nó, hô lớn, cái Lăng Bác kia, đi chỗ khác chơi cho được việc!
Còn với anh Bắc Kít thông minh tài ba nghĩ ra trò chơi trim, Gấu nghi rằng, anh ta rét. Đây là tranh chấp quyền lợi, có thể.



*

Hình chụp liền sau khi tới Toronto, chừng ít ngày, gặp lúc Sĩ Phú có show hát ở Montreal, nghe tin, bèn xỉa ngay cho năm trăm đô, nhờ Ngạc trao lại. Bèn đi thăm bạn, và lấy tiền gửi về cho mấy đứa nhỏ ở bên Lào. Khi anh về lại Mỹ, Gấu có phôn cám ơn, anh nói, mày mà qua sớm hơn 1 chút, khi tao còn làm business, thì khá hơn thế nhiều!

Bạn hút 1 thời.

Tks, many Tks.

Thời gian nằm Trại Phục Hồi Nhân Phẩm, ở Bình Triệu, Gấu gặp 1 tay, chuyên đóng hài, hề của 1 đoàn cải lương, nổi tiếng lắm, Gấu không còn nhớ tên, nhân tình cờ nhắc tới SP, anh cho biết, sư phụ tôi đó.
Hóa ra là anh bị gọi lính, bèn chạy chọt vô Không Quân, được làm lính hầu cho ông Trùm Nha Trang, là Sĩ Phú!
Anh ta kể những phen phục vụ Thầy, thí dụ như trong 1 cuộc diễn thuyết trước binh chủng, chỉ cần Thầy làm 1 cử chỉ nào đó, là Trò biết liền, và bèn bưng ly “sinh tố” tới!
Tuyệt!
Chưa kể bộ bàn đèn dã chiến, hai Thầy Trò đi đâu cũng thủ theo!

Tình cờ Gấu mới đọc bài viết của Lý Hoàng Phong, về người em ruột, thi sĩ Quách Thoại.
Trước giờ Gấu cứ nghĩ, QT chết vì bịnh lao. Hóa ra ghiền. Ghiền qua lao phổi.

Quách Thoại by LHP

*

GCC ôm hồ sơ, chờ thanh lọc, tại Trại Cấm Sikew Thái Lan


Viết

Khi gặp Faulkner, Gấu bèn nhận ngay là thầy - hay ngược lại, ông bèn nhận ra Gấu đúng là đệ tử của ông - linh cảm ngay ra một điều là, ông này sẽ dậy mình viết văn. Linh cảm ngay rằng thì là, dòng độc thoại nội tâm, dòng ý thức mà do ông là một trong những người khai sáng, không chỉ hợp với tạng người như Gấu, mà còn có thể, là một cơ may, thay đổi hẳn văn chương Việt Nam, vốn trọng cách viết những câu ngắn, từng ý từng ý, hết ý này mới dám nhẩy qua ý khác, trong khi với Faulkner, ý tưởng, câu kệ trùng lấp, chìm ẩn, giấu mặt, chỉ những độc giả sành điệu, chịu khó, chịu gian khổ cùng với người viết, thì mới nhận ra (1).

Có những hình ảnh, khi xuất hiện, là chỉ để đấy, cho khỏi quên, chờ đến đúng lúc mới nhập vào văn mạch.

Còn Graham Greene, đọc ông như 1 cách học tiếng Tây, phải đến già, đọc lại, Gấu mới nhận ra đây là một trong những ông thầy dậy văn chương của mình.
*

Eric Ormsby, khi điểm A Study in Greene: Graham Greene and the art of the novel, của Bernard Bergonzi, và Articles in Faith: The collected ‘Tablet’ journalism of Graham Greene, [TLS, số đề ngày 15 Tháng Chạp 2006], cho rằng, miền giả tưởng Greeneland ngày càng dễ nhận ra, chẳng khác gì một Wessex của Hardy, hay một Yoknapawpha County, của Faulkner, mặc dù Greene chẳng ưa cái nhãn hiệu này.

Hơn thế nữa, Greeneland là một thứ "quê hương", miền giả tưởng mà chúng ta mang theo cùng với chúng ta. Cho dù nó tít mù ở Phi Châu, xa lắc mãi Mexico, chúng ta nhận ra liền, nói chi đến Đông Nam Á, đến một Phượng của Người Mỹ Trầm Lặng, và Sài Gòn: Chúng là trạm ngưng cuối cùng, ga chót, của cuộc hành trình đạo đức của thế kỷ chúng ta.
Ông [Eric Ormsby] viết: Greeneland is a demoralized landscape, Greeneland là quang cảnh quê ta, đã bị hư ruỗng, thoái hóa, mất mẹ đạo đức.
Đây chính là hình ảnh 1 nước Mít, sau 1975.  

(1) Nhóm "Sáng Tạo", trong những cuộc thảo luận, khi tấn công Tự Lực Văn Đoàn, đã không nhận ra yếu tố câu kệ như trên [từng câu ngắn, sáng sủa, mạch lạc] của nó. Khi coi, với TLVĐ, chỉ là vấn đề ngôn ngữ, tới Sáng Tạo chúng tôi, mới có thứ văn chương của ý thức huỷ diệt sáng tạo, vô tình nhóm ST đã đề cao TLVĐ.
Bởi vì văn chương, nói cho cùng, chỉ là vấn đề ngôn ngữ. Đây là điều Roland Barthes nhận ra, khi đã quá chán thứ văn chương dấn thân của đám hiện sinh.
*

Cảnh tượng quê ta, the "Greeneland", thì hư ruỗng. Những chi tiết trần trụi, ngay cả khi lẩn lút, vưỡn bầy ra điều này. Cuốn “The Power and the Glory” bắt đầu: “Ngài Trench bước ra ngoài đường, trong nắng chói lòa, và bụi trắng xóa của xứ Mexico. Mấy con kên kên, từ trên mái nhà, dửng dưng vô hồn nhìn xuống: thằng cha này chưa chết, thịt chưa rữa, chưa bốc mùi”. Tuy Greene vẫn được kể như là một nhà văn với con mắt của một nhà điện ảnh, những dòng trên cho thấy, quyền năng của chúng, không phải chỉ do sự quan sát sắc bén, mà còn do cay đắng đến dã man, tàn bạo, của dòng chót. Ở những nhà văn kém tài hơn, sẽ trở thành cải luơng, thành hề, thành vãi linh hồn, nhưng Greene, vốn là một chuyên viên bậc thầy, cắt đánh rụp ba cái thứ khóc lóc ỉ ôi, ngay cả khi ông ló mòi dễ dãi với chúng. Đây là cái chất dửng dưng vô hồn, của những loài chuyên ăn thịt người chết, được đẩy lên đến tận đỉnh, theo nghĩa, rắn độc không còn biết cắn ai, bèn nhè chính cái lưỡi mình mà cắn!

Kể từ khi Greene mất vào năm 1991, và lần kỷ niệm lần thứ 100, năm sinh của ông, vào năm 2004, tiểu sử của ông được quá chú ý, như muốn hất bỏ phần sáng tác qua một bên. Tiểu sử, hồi ký, thêm bộ tiểu sử khổng lồ, “được phép của tác giả”, gồm ba cuốn, của Norman Sherry. Tuy nhiên, vẫn còn một câu hỏi làm bực người đọc, đó là bản chất Ky Tô giáo của Greene, nó ra làm sao.

Ngay cả câu khẳng định nổi tiếng của ông, đại ý, tôi phải kiếm ra một tôn giáo, để đo lường con quỉ ở trong tôi, câu này cũng gây bực mình, có khi còn là do sự cố ý của chính người nói ra: Greene vốn là một thầy, trong trò đùa hóm hỉnh như vậy. Một kẻ tự huyền hoặc, cứ lấp la lấp lửng về chính mình.

Những khuyng hướng, sắc thái như thế, được sử dụng vào trong tiểu thuyết, làm nổi bật cái “mép bờ nguy hiểm”, the “dangerous edge” của chúng.

Về cuối đời, Greene định nghĩa mình, kêu như chuông, một tay vô thần Ky Tô giáo, a “Catholic atheist”. Tuy nhiên, có một sự miễn cưỡng, về phần ông. Bởi vì, với Greene cũng như với nhiều người Ky Tô, niềm tin là một cái gì liên quan tới ước muốn, ý chí. Và ý chí, thì cũng có khi mờ nhạt đi, yếu đi, để rồi lại mạnh lên, sau đó. Nhiều người chỉ trích Greene, Ky Tô giáo của ông quá hạn hẹp, chỉ chú trọng tới địa ngục và sự trầm luân. Nhưng những bài tiểu luận tình cờ, tản mạn của Greene, trong Aticles of Faith, cho thấy, khác. Niềm bí ẩn về Nhập Thế mới làm Greene đau đầu, hơn là Lửa Địa Ngục.

Khi đọc cuốn "Nửa Đêm" của Julian Green, ông [Greene] viết, tay đồng nghiệp người Tây của ông “có thể tả một cái dù khô dần đi dưới ánh lửa bập bùng, làm sao cho trở thành hình ảnh của trọn một kiếp nhân sinh”. Điều này, Greene cũng đã làm. Miền Greeneland có những cú thần sầu như vậy. Thần sầu như ánh lửa chập chờn hong ấm một cây dù ướt sũng nước mưa.

Theo nghĩa đó, ngay cả mấy chú kên kên đang ngồi trên đầu me-xừ Trench kia cũng tượng trưng cho những sự kiện khủng khiếp, the appalling facts, về Nhập Thế. (1)
Viết


*

Blog NL

một khoảnh khắc lớn trong lịch sử phê bình văn học của Việt Nam: sự xuất hiện của Đỗ Long Vân

cái nhìn của ĐLV ngay lập tức đã thể hiện tinh tuý của "cơ cấu luận": để mở đầu tiểu luận này, ĐLV dùng hình ảnh "chảy nước", vì mọi thứ ở Hồ Xuâ...n Hương đều là chảy nước từ trong ra ngoài, từ đó dẫn tới mối quan hệ nội giới-ngoại giới

ĐLV cũng sản sinh những cách nói xuất chúng: người ta hay "sống điêu trên một thế giới xa nguồn"

quyển sách "chính thức" in năm 66 ở nhà Trình Bầy, nhưng trước đó nó đã xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Đại Học ở Huế, số 37 tháng Hai 1964


Mùa thu sót lại 

“Ở đây giờ chỉ còn lại màu nâu ánh lên trong nắng và mùi lá sồi khô nhẹ nhàng thoang thoảng. Hôm qua và hôm nay trời ấm nhưng hồi trong tuần sáng thứ Năm đã có cơn tuyết đầu mùa, đủ đọng lại trên sân nhà chừng một hai giờ đồng hồ cho đến khi nắng lên”

* 

Xin chào bác Trụ. Chắc bác chê cái câu này viết thiếu chủ từ hả bác. 

Cần gì chủ từ cho 1 câu văn như vậy. 

"Khói củi ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương". Câu này, trong "Pleiku một chút gì để nhớ" cũng không có chủ từ. 

Có thể nói, câu nào không có chủ từ là cực hay của Bà Tám!

Khi NQT tôi tập tành viết, cũng viết kiểu này, do học từ W. Faulkner, nhưng câu của NQT tôi cực dài, cũng bắt chước Faulkner, thí dụ, trong truyện ngắn Mộ Tuyết, trích: 

Mộ Tuyết 

Ba Xuyên, lần viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên viên kỹ thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu, không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế cùng chuyên viên lắp đặt… Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một hai ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.

Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình…), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này 

Sự thực câu văn không phải không có chủ từ, mà là, sử dụng cả 1 cụm từ, trong có động từ còn nguyên mẫu, infinitive verb, làm chủ từ. Kiểu viết này thường được dùng cho dòng văn độc thoại nội tâm, dòng ý thức… Sorry, dài dòng, nhưng biết đâu nhờ vậy cách viết này sẽ được các nhà văn Việt khai phá thêm.
NQT 

Cám ơn Bác. Thật là cảm kích đã được Bác đọc, lại còn được Bác khen rất khéo. Nhưng Bác khen quá lời Tám không dám nhận sợ người đọc mắng cho. Chữ nghĩa của Tám không đầy lá mít làm gì dám so sánh với Faulkner và mong nhà văn Việt khai phá thêm. 

Bác có lẽ thích khuynh hướng lãng mạn nên thích văn tả cảnh. Tám thì nghĩ sao viết vậy thôi. Cảm ơn Bác bao giờ cũng nói những lời tốt đẹp. 

Tks. NQT

Sự thực, tôi không thuộc khuynh hướng lãng mạn, và cũng không hẳn thích văn tả cảnh. Nhưng mấy câu tôi trích dẫn, nó “nói lên” tài miêu tả của người viết: sắp xếp lại sự kiện đúng như sự "tưởng tượng" của mình.

Dẫn ý Kafka, để làm rõ thêm:

Viết như thế chỉ là miêu tả?
Proust nói, những gì đã sống đều mong được sống lại. Miêu tả là làm sự vật sống lại, theo sự “sắp xếp” của người viết.
Như vậy “cách” miêu tả rất quan trọng?
Đó là quan niệm của Kafka, kỹ thuật chính là linh hồn của văn chương. (1)