The shortlist for the 2015 Man Booker Prize has been released
ON SEPTEMBER 15th the shortlist for the 2015 Man Booker Prize
for fiction was announced from a longlist of 13. The six books are
tough, but also hopeful and diverse. The authors include two Americans,
two Brits, a Nigerian and, for the first time in the prize’s history, a
Jamaican. They range in age from 28 to 73, and list includes both a
debut novel—“The Fishermen” by Chigozie Obioma—and a 20th—Anne Tyler's “A Spool of Blue Thread”.
This
is only the second year that the prize was open to any books written
originally in English; previously it had been restricted to writers from
Britain, Ireland, the Commonwealth and Zimbabwe. Fears that the prize
would be overrun by American authors have so far proved unfounded.
At the press conference after the announcement, the five judges were asked whether “A Little Life”,
by Hanya Yanagihara, an intense saga centred on the friendship between
four men living in Manhattan, had divided the judges as much as it has
divided the public. A writer for the New Yorker wrote that it was a book that could “drive you mad, consume you, and take over your life”; a critic for the Los Angeles Times
said it had reduced them to tears. Michael Wood, the chair of the
judges, came closest to revealing details of the judges' deliberations.
"It didn't divide us," he said, "but it did test us."
A further surprise is that “Lila”,
the last of the Gilead trilogy by the American author Marilynne
Robinson, did not make the shortlist. She has previously won both a
Pulitzer and the Orange prize; “Lila” won the National Book Critics
Circle award in March. Anne Enright, a former Man Booker winner, also
failed to make the final six with "The Green Road".
The
winner of the prize—and the cheque for £50,000—will be announced on
October 13th; all the shortlisted authors receive £2,500 and a
commemorative bound copy of the nominated book.
"Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn”.
Câu trên, là của 1 tên sĩ quan Ngụy, bố của ông cựu ký giả Bi Bì Xèo, mới mất, khi được VC thả, nói với ông con.
Cả hai bố con đều ngỏm cả, may mắn chúng ta biết được, là nhờ tên cớm chìm
VC, "Người của chúng ta ở Paris", trong bài ai điếu bạn của hắn, là tay cựu
ký giả Bi Bi Xèo.
Chúng ta cứ coi như ông bố, có phán như thế với ông con, khi nghĩ lại những ngày tù của ông.
Nhưng tệ hơn nhiều, thì chúng ta chịu thua, bởi là vì như Todorov phán, trại
tù VC là nơi thử nghiệm tối hậu của cái gọi là lương tâm con người. (1)
Tệ hơn nhiều có nghĩa là quá cả cái thử nghiệm tối hậu đó?
Ông bạn nhà văn Thảo Trường của Gấu, tù VC 17 năm, tệ hơn nhiều, là quá cả 17 năm?
Mà đúng như thế, nhưng mà là với tù VC. Chúng không có ý định cho Ngụy về đời, như Gấu đã từng lèm bèm.
Theo bài bản Gulag, Ngụy sẽ ở luôn trong tù, và sẽ hàn huyên, hội ngộ vợ con ở trong tù.
Nhờ anh Tẫu dậy cho VC 1 bài học “biết ơn” mà Ngụy thoát chết, và còn được đi Mẽo nữa, tếu thế!
Tên Cớm VC này cực kỳ khốn nạn, là thế!
Mà tại làm sao mà tên này lại bửn đến như thế?
Đặt 1 câu nói vào miệng người đã chết, nhằm làm nhục cả 1 miền đất, mà hắn
đã từng mang ơn, làm nhục luôn cả ông bố của bạn hắn, để làm gì?
Bởi vì cái tệ hơn, chính là cái hiện giờ, tức cái đất nước VC đang làm chủ.
(1) Chủ nghĩa CS, và những trại cải tạo của nó, là thử nghiệm tối hậu
về đạo đức con người. (Tzvetan Todorov: Kẻ Bán Xới, L’Homme dépaysé).
The Gulag can be regarded as the quintessential expression of modern Russian
society. This vast array of punishment zones across Russia, started in Tsarist
times and ending in the Soviet era, left a legacy on the Russian quest for
identity. In Russia, prison is usually referred to as the malinkaya zone
(small zone). The Russians have an expression for freedom: bolshaya zona,
(big zone). The distinction being that one is slightly less humane than the
other. But which one? A Russian friend once said, "First they make you work
in the factory, then they finish you off in prison." By the 1950s, the Gulag
played an integral role in the development of the Soviet economy. In fact,
Stalin used these camps as a source of economic stimulation, to excavate
the vast natural resources of the east and to stimulate growth and settlement
across the twelve time zones of the former USSR. The majority of mines, timber
industries, factories, and Russia's prized oil and gas fields were all discovered
through convict labour. In effect, almost every imaginable industry in Russia
today exists because of Stalin's policy. This photo was taken at the state
theatre in Vorkuta, a large city in the far north of Russia, beyond the Arctic
Circle, and one of the largest penal colonies created by the Soviet bureaucracy.
Today, survivors-both prisoner and guard-and their descendants still live
in this city. The woman was the lead in a play by Ostrovsky: Crazy Money.
www.donaldweber.com
Spring 2015
THE NEW QUARTERLY
Nếu không có cú dậy cho VC một bài học, là lũ Ngụy "vẫn sống ở Trại Tù", cùng với con cái của chúng.
Hurbinek là 1 đứa trẻ “không đứa trẻ”, một đứa bé của cái
chết, một đứa trẻ của Lò Thiêu. Trông nó chừng ba tuổi, chẳng ai biết 1 tí
gì về nó, nó không thể nói, và không có tên; cái tên kỳ cục là do chúng tôi
gán cho nó, có lẽ, của một người đàn bà, người này đã cắt nghĩa cái tên,
bằng những âm thanh "chẳng ra làm sao" mà đứa bé, lúc này lúc khác, thốt
ra.
Đứa bé bị liệt nửa người, từ thắt lưng xuống phía dưới, chân teo lại, khẳng
khiu giống như hai cái que; nhưng hai con mắt của đứa bé, thất lạc ở trong
khuôn mặt hoang phế, tam giác, thì lại cực kỳ sống động, sống động một cách
khủng khiếp, đầy ắp đòi hỏi, xác nhận, ý chí, ham muốn đập bể, phá vỡ tấm
mồ là cái ù lỳ, đần độn của nó. Cái tiếng nói mà nó thiếu chẳng ai bỏ công
dậy, cái yêu cầu, “nói”, đó, khiến cho cái nhìn của nó trở nên cấp bách,
hung hãn, như 1 khối thuốc nổ: đây là cái nhìn thú vật, nhân bản, ngay cả,
có thể nói, trưởng thành, một phán quyết mà không ai trong chúng ta có thể
hỗ trợ, cực kỳ nặng nề với sức mạnh và niềm khắc khoải….
Tác giả/tác
phẩm ảnh hưởng nặng nề lên Pat [Patricia Highsmith] là Dos/Tội ác và Hình Phạt.
Như… Sến,em gặp ông già rậm râu là mê
liền, năm em 13 tuổi!
Trong nhật
ký, em coi Dos, là "Thầy", và coi Tội
Ác là 1 cuốn tiểu thuyết
suspense, trinh thám nghẹt thở.
Thomas Mann phán, Tội Ác là
một trong những cuốn
tiểu thuyết trinh thám lớn lao nhất của mọi thời.
Cuốn trứ
danh của Pat, Những kẻ lạ trên tàu, Strangers
on a Train, là từ Tội Ác
mà ra.
Em phán: "Tôi có ý nghĩ của riêng tôi về nghệ thuật, và nó như vầy:
điều mà hầu
hết mọi người coi là kỳ quặc, thiếu tính phổ cập, fantastic, lacking in
universality, thì tôi coi là cực yếu tính, the utmost essence, của sự
thực."
Tzvetan Todorov, khi viết về sự quái dị trong văn chương, đã cho thấy,
bằng cách
nào tiểu thuyết trinh thám hiện đại đã thay thế truyện ma quỉ của quá
khứ, và
những nhận định của ông áp dụng rất OK với tiểu thuyết của Pat: “căn
cước gẫy vụn,
bể nát, những biên giới giữa cá nhân và môi trường chung quanh bị phá
vỡ, sự mù
mờ, lấp lửng giữa thực tại bên ngoài và ý thức bên trong”, đó là những
yếu tố
thiết yếu làm nền cho những đề tài quái dị.
GCC biết đến
Patricia Highsmith qua phim Plein Soleil, Alain Delon
đóng vai Mr. Ripley. Thời còn Sài Gòn. Còn đi học, hoặc mới
đi làm.
Sau đó, mò coi truyện.
Mua Eleven, do đọc bài giới thiệu của Grahm Greene.
Truyện trinh
thám của PH, theo GCC "khủng" hơn hết, so với các tác giả khác, đúng
như Greene viết, bà tạo ra 1 thế giới của riêng bà, mỗi lần chúng ta mò
vô, là
một lần thấy ơn ớn.
Trong cuốn tiểu sử của bà, Cái bóng
xinh đẹp, Beautiful shadow, người viết
trích dẫn 1 câu trong nhật ký của bà, và là 1 câu trích dẫn
Kierkegaard:
Mỗi cá
nhân con người thì có nhiều cái bóng tạo thành những nếp gấp, tất cả
những cái
bóng đó thì giống người đó, và thi thoảng, có 1 cái bèn chiếm luôn chỗ
của người
đó.
Nguyên văn câu tiếng Anh, khác 1 tí, so với câu của GCC:
"The
individual has manifold shadows, all of which resemble him, and from
time to
time have equal claim to be the man himself."
Kierkegaard,
quoted in Highsmith’s 1949 journal
Note: Câu của Kierkegaard, cùng cái ý với… GCC, sống 1 đời thì chán lắm, phải vài đời, đời đời
An American comes into a foreign place full
of ideas of democracy and how he will teach an ancient culture a better —
in fact, an American — way of doing things. An Englishman awaits him there,
protecting himself against such foolishness by claiming to care about nothing
at all. And between them shimmers a young local woman who seems ready to
listen to either suitor, and certain to get the better of both.
The Quiet American, by Graham Greene, was written in 1955 and set in Vietnam,
then the site of a rising local insurgency against French colonial rule.
In its brilliant braiding together of a political and a romantic tangle,
its characters serve as emblems of the American, European and Asian way,
and yet ache and tremble as ordinary human beings do. It also is a typically
Greenian prophecy of what would happen 10 years later when U.S. troops would
arrive, determined to teach a rich and complex place the latest theories
of Harvard Square. Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous
opium dens and even slightly sinister Buddhist political groups are a lantered
backdrop to a tale of irony and betrayal.
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American, like
many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on, a private
bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon, as I have
done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every other hotel.
And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline
of the same story.
Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại, đầu đầy
ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa
cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt ra
ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta
ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng
cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái gì hết.
Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai
Người Mẽo trầm lặng của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc
đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ
thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1
tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là những biểu
tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những đau thương,
nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American, like
many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on, a private
bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon, as I have
done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every other hotel.
And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline
of the same story.
Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như
nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh kinh
cá nhân. Rõ rang là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại,
như tôi đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách
sạn khác.
Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
Trường hợp Người Mỹ Trầm Lặng,
bầu khí mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng
từ từng mỗi
viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói tới, về một hệ thống đạo đức
được so
đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó làm Zadie Smith nhớ tới Henry James
trong tác
phẩm Những Người Âu Châu,
nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không
xẩy ra ở
trong một căn phòng, mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào
một trận
địa. Độc giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ
dáy, bẩn thỉu,
tởm lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều
cuộc chiến
khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù
những
“nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng nữa.
Những
nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào xác định
được, của
cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà lần,
một khi
con người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt. Nhưng,
cho dù vậy,
tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm
Lặng, Phượng và tay phóng viên Fowler
đã tìm
được nhau, đúng là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là đối với
Fowler.
Đây đúng là một sự cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì vớ được
sợi thừng
cứu mạng!
“Tôi là một
kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như
vậy,
trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một
khi bị
ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không
thể nào
tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà
làm nữa!”
Ở Lò
Luyện
Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng
thiện
nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh
ta tới,
được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam.
Anh ta sẽ
bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả
một trái đất
sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh
ta về
Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về
tên thực
dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu
Mẽo đến
cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu
thuyết. Cả hai
tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có
một câu
chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá
nhân,
cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị
kỷ, nằm
nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ
TrầmLặng,
những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và
cùng với
nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn
bà thực,
đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà
mà Pyle
đang chôm từ Fowler.
Gừng càng
già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới
của anh
chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được
xuất bản,
đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:
“Tôi cầu
mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi
hiểu rất
rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh.Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi
anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về
thế
thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo
của anh đấy,
Pyle ạ.”
Nhưng theo
Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng,
niềm
tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây
thơ của
anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo
[fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ củaZadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên
toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi
tới với
bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này
làm
chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene
ở trong Người Mỹ Trầm Lặng,
là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa
cả”, khi
chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và
những người
như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất
này, chẳng
có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau,vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy, anh tin
vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa lưng vô tường,
và có một
họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính hỏi bạn như vậy”.
Nhưng tác phẩm
của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng,
thứ hy
vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng
ta. Theo
nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta
những chi
tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến
đấu nhằm
chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng
lớn lao,
nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.
Ruth
Franklin trên tờ Người Nữu Ước,
tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi
tiết,
ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian,
bà thấy Ma Quỉ ở trong
những chi
tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.
Và có thể,
đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người
trong
chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên
hướng tin
yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.
Cầu sao được
vậy.
Nó quả đã
không bị phí phạm.
"Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn”.
Câu trên, là của 1 tên sĩ quan Ngụy, bố của ông cựu ký giả Bi Bì Xèo, mới mất, khi được VC thả, nói với ông con.
Cả hai bố con đều ngỏm cả, may mắn chúng ta biết được, là nhờ tên cớm chìm
VC, "Người của chúng ta ở Paris", trong bài ai điếu bạn của hắn, là tay cựu
ký giả Bi Bi Xèo.
Chúng ta cứ coi như ông bố, có phán như thế với ông con, khi nghĩ lại những ngày tù của ông.
Nhưng tệ hơn nhiều, thì chúng ta chịu thua, bởi là vì như Todorov phán, trại
tù VC là nơi thử nghiệm tối hậu của cái gọi là lương tâm con người. (1)
Tệ hơn nhiều có nghĩa là quá cả cái thử nghiệm tối hậu đó?
Ông bạn nhà văn Thảo Trường của Gấu, tù VC 17 năm, tệ hơn nhiều, là quá cả 17 năm?
Mà đúng như thế, nhưng mà là với tù VC. Chúng không có ý định cho Ngụy về đời, như Gấu đã từng lèm bèm.
Theo bài bản Gulag, Ngụy sẽ ở luôn trong tù, và sẽ hàn huyên, hội ngộ vợ con ở trong tù.
Nhờ anh Tẫu dậy cho VC 1 bài học “biết ơn” mà Ngụy thoát chết, và còn được đi Mẽo nữa, tếu thế!
Tên Cớm VC này cực kỳ khốn nạn, là thế!
Mà tại làm sao mà tên này lại bửn đến như thế?
Đặt 1 câu nói vào miệng người đã chết, nhằm làm nhục cả 1 miền đất, mà hắn
đã từng mang ơn, làm nhục luôn cả ông bố của bạn hắn, để làm gì?
Bởi vì cái tệ hơn, chính là cái hiện giờ, tức cái đất nước VC đang làm chủ.
(1) Chủ nghĩa CS, và những trại cải tạo của nó, là thử nghiệm tối hậu
về đạo đức con người. (Tzvetan Todorov: Kẻ Bán Xới, L’Homme dépaysé).
' ... the story about that hole in the ground, that goes down nobody knows
where, has always fascinated me rather. It's Mahomedan in form now; but I
shouldn't wonder if the tale is a long way older than Mahomet. It's all about
somebody they call the Sultan Aladin; not our friend of the lamp, of course,
but rather like him in having to do with genii or giants or something of
that sort. They say he commanded the giants to build him a sort of pagoda
rising higher and higher above all the stars. The Utmost for the Highest,
as the people said when they built the Tower of Babel. But the builders of
the Tower of Babel were quite modest and domestic people, like mice, compared
with old Aladin. They only wanted a tower that would reach heaven, a mere
trifle. He wanted a tower that would pass heaven, and rise above it, and
go on rising for ever and ever. And Allah cast him down to earth with a thunderbolt,
which sank into the earth, boring a hole, deeper and deeper, till it made
a well that was without a bottom as the tower was to have been without a
top. And down that inverted tower of darkness the soul of the proud Sultan
is falling for ever and ever.'
G. K. Chesterton
English essayist, novelist and poet. Born in London in 1874; died in 1936.
He published a vast amount of work, always lucid yet ardent. He wrote and
revived literary styles including novels, literary criticism, lyric poetry,
biography, polemic, detective stories. He is the author of essays on Robert
Browning (1903) G. F. Watts (1904) and Charles Dickens (1906). His books
include Heretics (1905); The Man Who Was Thursday (1908); Orthodoxy (1908); Manalive (1912); Magic (1913); The Crimes of England (1915); A Short History of England (1917); The Usesof Diversity (1920); Father Brown Stories (1927); Collected Poems (1927); The Poet and the Lunatics (1929); Four Faultless Felons (1930); Autobiography (1937); and The Paradoxes of Mr. Pond (1936).
The
Shadow of the Players
In one of the tales which
make up the series of the Mabinogion,
two enemy kings play chess while in a nearby valley their respective
armies battle and destroy each other. Messengers arrive with reports of
the battle; the kings do not seem to hear them and, bent over the
silver chessboard, they move the gold pieces. Gradually it becomes
apparent that the vicissitudes of the battle follow the vicissitudes of
the game. Toward dusk, one of the kings overturns the board because he
has been checkmated, and presently a blood-spattered horseman comes to
tell him: 'Your army is in flight. You have lost the kingdom.'
- EDWIN MORGAN
Bóng Kỳ
Thủ
Một trong những truyện của
chuỗi truyện Mabinogion, hai ông vua kẻ thù ngồi chơi cờ,
trong lúc trong thung lũng kế đó, hai đạo binh của họ quần
thảo, làm thịt lẫn nhau. Giao liên, thiên sứ… liên
tiếp mang tin về, họ đếch thèm nghe, chúi mũi vô mấy con cờ bằng
vàng. Rõ ràng là tuồng ảo hoá bày ra ở thung lũng nhập thành
một với tuồng cờ tướng. Sau cùng, vào lúc chập tối, 1 ông
vua xô đổ bàn cờ, khi bị chiếu bí, đúng lúc đó, tên kỵ sĩ từ
chiến trường lao về, thưa hoàng thượng, VC lấy mẹ mất Xề Gòn
rồi!
Hurbinek là 1 đứa trẻ “không đứa trẻ”, một đứa bé của cái
chết, một đứa trẻ của Lò Thiêu. Trông nó chừng ba tuổi, chẳng ai biết 1 tí
gì về nó, nó không thể nói, và không có tên; cái tên kỳ cục là do chúng tôi
gán cho nó, có lẽ, của một người đàn bà, người này đã cắt nghĩa cái tên,
bằng những âm thanh "chẳng ra làm sao" mà đứa bé, lúc này lúc khác, thốt
ra.
Đứa bé bị liệt nửa người, từ thắt lưng xuống phía dưới, chân teo lại, khẳng
khiu giống như hai cái que; nhưng hai con mắt của đứa bé, thất lạc ở trong
khuôn mặt hoang phế, tam giác, thì lại cực kỳ sống động, sống động một cách
khủng khiếp, đầy ắp đòi hỏi, xác nhận, ý chí, ham muốn đập bể, phá vỡ tấm
mồ là cái ù lỳ, đần độn của nó. Cái tiếng nói mà nó thiếu chẳng ai bỏ công
dậy, cái yêu cầu, “nói”, đó, khiến cho cái nhìn của nó trở nên cấp bách,
hung hãn, như 1 khối thuốc nổ: đây là cái nhìn thú vật, nhân bản, ngay cả,
có thể nói, trưởng thành, một phán quyết mà không ai trong chúng ta có thể
hỗ trợ, cực kỳ nặng nề với sức mạnh và niềm khắc khoải….
[Không ngại tỏ tình với ông râu rậm], như khám phá tình yêu, biển cả, [cái
sự kiện] khám phá ra Dos đánh dấu một thời điểm quan trọng trong cuộc đời
một người. Chuyện này xẩy ra vào lúc còn trẻ [còn con gái], chứ khi đã chín
chắn, trưởng thành, 'người ta' vẫn thích loại nhà văn thanh nhã hơn. Vào
năm 1915, tại Geneva, tôi ngấu nghiến đọc Tội Ác và Trừng Phạt, qua một bản
tiếng Anh rất dễ đọc, của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết này, nhân vật
chính là một tên sát nhân và một ả điếm, có vẻ như đối với tôi, chẳng thua
gì cuộc chiến xung quanh, ấy là nói về sự khủng khiếp, ghê rợn. Tôi tìm kiếm
tiểu sử tác giả. Con trai một ông quân y sĩ bị sát hại, Dostoevsky (1821-1881)
rành rẽ nghèo, khổ, bịnh, nhà tù, lưu đầy; việc hỳ hục đánh vật mới mớ chữ,
mê đi đây đi đó, mê trò đổ bác, và cuối đời, ông biết danh vọng nghĩa là
gì. Ông truyền bá sự thờ phụng Balzac. Liên can vào một âm mưu gì không rõ,
ông bị kết án chết. Vào đúng lúc phơi ngực ra tại cột hành quyết, bạn bè
kế bên đã đi trước, án tử của ông được bãi bỏ, thay vào đó, là bốn năm lao
động khổ sai tại Siberia mà ông chẳng bao giờ quên nổi.
Ông nghiên cứu và hoành dương những trò không tuởng của Fourier, Owen, và
Saint Simon. Ông là nhà xã hội và pan-Slavicist. Tôi tưởng tượng, vào lúc
đó, Dostoevky là một thứ Thượng Đế sâu xa, bí hiểm, không làm sao rò ra được,
[và bởi vì là Thượng Đế nên tha hồ mà] thấu hiểu, và cắt nghĩa mọi người
mọi chuyện ở trên đời. Tôi thật sững sờ, khi thấy ông hạ cố xuống cái cõi
chính trị, chính em, thỉnh thoảng thôi, cái cõi mà ông chẳng những chê,
chán, mà còn kết án.
Đọc một cuốn sách của Dostoevsky là cố chui vô một thành phố chúng ta chẳng
hề biết, hay vào một cái bóng của một trận đánh. Tội Ác và Trừng Phạt phơi
ra cho tôi, trong nhiều điều, nhiều chuyện, một thế giới hoàn toàn khác lạ
với cái thế giới của riêng tôi. Khi tôi đọc Những Con Quỉ [còn được dịch
là Lũ Người Quỉ Ám], một điều chi thật là lạ lùng xẩy ra cho tôi. Tôi cảm
thấy mình trở về nhà. Những thảo nguyên là phóng đại của những cánh đồng
hoang. Varvara Petrovna, và Stepan Trofimovich Verkhovensky, mặc dù những
cái tên kềnh càng của họ, là mấy ông già Á Căn Đình vô trách nhiệm. Cuốn
sách bắt đầu bằng niềm vui, như thể người kể chuyện ở trong đó không hề biết,
rằng cái kết thúc của cuốn sách thì thật là bi thảm.
Trong bài tựa cho một tuyển tập văn học Nga, Vladimir Nabokov khẳng định
rằng, ông không thể kiếm ra, dù chỉ một trang sách của Dostoevsky, để mà
đem vô tuyển tập. Điều này phải được hiểu là, Dostoevsky không thể nào đánh
giá, bằng từng trang này, hay từng trang khác, mà bằng toàn thể những trang
làm nên cuốn sách.
[1985]
[Gửi PTH. Jennifer Tran]
Dịch từ bản tiếng Anh, trong Tuyển Tập "Không-Giả Tưởng", "Selected Non-Fictions",
của J.L. Borges, do Eliot Weinberger biên tập, nhà xb Penguin
Note: Lướt Tin Văn, vớ được bài dịch này.
Lạ quá, là cái lời “gửi PTH”.
Bèn cho vô Chuyện Tình!
Note: Cái tít bài viết về Primo Levi, của Tony
Judt, trên tờ NYRB, số May, 20, 1999, mà GCC dựa theo đó, viết “Đây có phải
một người”, đăng lần đầu trên Văn Học, NMG, đúng ra là, “The Courage of the
Elementary”, tạm dịch, “Sự Can Đảm của Cái Cơ Bản”, là từ Milosz, khi ông
viết về Camus, “ông ta [Camus] có cái sự can đảm tạo ra những điểm cơ bản,
[“he had the courage to make the elementary points”]. Trong Lại Tỉnh Thức,
“The Reawakening”, Levi miêu tả 1 đứa bé, khác đứa bé chết đuối đang được
nhắc tới, mà là ở Lò Thiêu. Nó sống sót Lò Thiêu, nhưng chết, đúng lúc được
giải thoát.
Bài viết này, tình cờ GCC vớ lại được nó, trong số báo cũ, bèn đọc lại, để
thẩm tra trình độ tiếng Anh hồi tập tạnh dịch! Bỏ đi nhiều quá, nhiều chi
tiết, sự kiện thực là thú vị. Vả chăng, bài dài quá.
Hurbinek was a nobody, a child of death, a child of Auschwitz. He looked
about three years old, no one knew anything of him, he could not speak and
he had no name; that curious name, Hurbinek, had been given to him by us,
perhaps by one of the women who had interpreted with those syllables one
of the inarticulate sounds that the baby let out now and again. He was paralyzed
from the waist down, with atrophied legs, thin as sticks; but his eyes, lost
in his triangular and wasted face, flashed terribly alive, full of demand,
assertion, of the will to break loose, to shatter the tomb 'of his dumbness.
The speech he lacked, which no one had bothered to teach him, the need of
speech charged his stare with explosive urgency: it was a stare both savage
and human, even mature, a judgement, which none of us could support, so heavy
was it with force and anguish ....
During the night we listened carefully: ... from Hurbinek's corner there
occasionally came a sound, a word. It was not, admittedly, always exactly
the same word, but it was certainly an articulated word; or better, several
slightly different articulated words, experimental variations on a theme,
on a root, perhaps on a name.
Hurbinek, who was three years old and perhaps had been born in Auschwitz
and had never seen a tree; Hurbinek, who had fought like a man, to the last
breath, to gain his entry into the world of men, from which a bestial power
had excluded him; Hurbinek, the nameless, whose tiny forearm -even his-bore
the tattoo of Auschwitz; Hurbinek died in the first days of March 1945, free
but not redeemed. Nothing remains of him: he bears witness through these
words of mine." [The Reawakening, pp. 25-26].
Cái kinh nghiệm "1 lần rồi thôi" - khi viết về Mít vượt biển– Levi, thoạt
đầu, không có, bởi là vì đếch ai thèm nghe, dù có nói, và, chính ông cũng không
làm sao vượt được cái mặc cảm tội lỗi “sống sót” Lò Thiêu, của mình.
Sống sót, đúng là như thế, nhưng tại sao Levi, tui?
Cái tên Bắc Kít LDD làm sao hiểu được nỗi đau này.
Hắn chọc quê lũ Mít ở
Mẽo, đa số gốc Ngụy.
Hắn làm sao hiểu được 1 điều thật là đơn giản, thắng
trận nhục nhã lắm, nhục nhã hơn nhiều, so với thất trận, nếu hắn đủ can đảm,
để, từ Mẽo, nhìn lại 1 xứ Mít tang thương, điêu tàn, nhờ thắng trận.
Hurbinek là 1 đứa trẻ “không đứa trẻ”, một đứa bé của cái
chết, một đứa trẻ của Lò Thiêu. Trông nó chừng ba tuổi, chẳng ai biết 1 tí
gì về nó, nó không thể nói, và không có tên; cái tên kỳ cục là do chúng tôi
gán cho nó, có lẽ, của một người đàn bà, người này đã cắt nghĩa cái tên,
bằng những âm thanh "chẳng ra làm sao" mà đứa bé, lúc này lúc khác, thốt
ra.
Đứa bé bị liệt nửa người, từ thắt lưng xuống phía dưới, chân teo lại, khẳng
khiu giống như hai cái que; nhưng hai con mắt của đứa bé, thất lạc ở trong
khuôn mặt hoang phế, tam giác, thì lại cực kỳ sống động, sống động một cách
khủng khiếp, đầy ắp đòi hỏi, xác nhận, ý chí, ham muốn đập bể, phá vỡ tấm
mồ là cái ù lỳ, đần độn của nó. Cái tiếng nói mà nó thiếu chẳng ai bỏ công
dậy, cái yêu cầu, “nói”, đó, khiến cho cái nhìn của nó trở nên cấp bách,
hung hãn, như 1 khối thuốc nổ: đây là cái nhìn thú vật, nhân bản, ngay cả,
có thể nói, trưởng thành, một phán quyết mà không ai trong chúng ta có thể
hỗ trợ, cực kỳ nặng nề với sức mạnh và niềm khắc khoải….
Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên
thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu
nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà
chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì
về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư… và trong
những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được
thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….
Si tu lis les premières pages
du Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme
qu'on ait jamais vu. Nếu bạn đọc những trang đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì
đó là những trang vinh danh hiển hách nhất chủ nghĩa tư bản mà
người ta đã từng đọc.
Hannah Arendt
Cái cú 30 Tháng Tư 1975, ngay
VC thổi nào là những đỉnh cao thời đại, bước ngoặt lịch sử…. gì gì đi
nữa, cũng chưa xứng với nó!
Dân
Mít, Bắc Kít, đúng hơn, được ông Trời cho phép có mặt ở trên cõi
đời này, là để có giấc mơ này, và làm sao thực hiện nó.
Chỉ đến khi thực hiện được nó, thì mới hỡi ơi, vì đúng lúc đó, mất nó!
“Nó” liên quan đến cái cực tốt,
và cái cực xấu của cái gọi là Bắc Kít.
Cái cực tốt của Bắc Kít tạo ra hình ảnh Thiên Sứ của Sến Cô Nương. Nhờ
nó có giống dân Bắc Kít, ở kế ngay tên Đại Hán[g] Gian Ác mà vẫn trường
tồn!
Cái cực xấu, là Cái Ác Bắc Kít, tạo ra Lò Cải Tạo!
Tạo ra… Anus Mundi, mang cái thúi Bắc Kít đi reo rắc cùng khắp
thế giới, biến cả thế giới thành bãi đánh hàng, khiến cả thế giới khiếp
sợ gọi là họa Hoàng Quỉ.
Và sau cùng hủy diệt giống Mít!
Giống dân nào, được nhân loại
nằm mơ, sáng ngủ dậy, biến thành nó: Bắc Kít. Giống dân nào,
ngủ dậy thấy mình biến thành bọ: Bắc Kít!
The Lamed Wufniks
There are on earth, and always were, thirty-six righteous
men whose mission is to justify the world before God. They are the Lamed
Wufniks. They do not know each other and are very poor. If a man comes to
the knowledge that he is a Lamed Wufnik, he immediately dies and somebody
else, perhaps in another part of the world, takes his place. Lamed Wufniks
are, without knowing it, the secret pillars of the universe. Were it not
for them, God would annihilate the whole of mankind. Unawares, they are our
saviors. This mystical belief of the Jews can be found in the works of Max
Brod. Its remote origin may be the eighteenth chapter of Genesis, where we
read this verse: "And the Lord said, If I find in Sodom fifty righteous within
the city, then I will spare all the place for their sakes."
The Moslems have an analogous personage in the Kutb.
Người Què Gánh Tội
Trên thế giới, có, và luôn luôn có, 36 người
què, còn được gọi là 36 vì công chính, mà sứ mệnh của họ, là, biện minh thế
giới, trước Thượng Đế.
Họ là những tên què gánh tội, Lamed Wufniks.
Họ không biết nhau, và rất ư là nghèo khổ.
Nếu có 1 tên biết rằng mình là tên què gánh tội, là bèn lập tức, ngỏm củ tỏi.
Và một người khác, có lẽ ở đâu đó trên thế giới, thế chỗ anh ta.
Không có 36 tên cà chớn này, là liền lập tức, Thượng Đế xóa sổ thế giới.
Nhưng "juste", ở đây theo tôi, còn muốn nhắc tới huyền thoại về một con
người công chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man) của dân
tộc Do-thái. Đây là một huyền thoại được nhiều nhà văn sử dụng, như là
một biểu tượng để nói về phận người, (nhất là phận người Do Thái, trong
thế kỷ của Lò Thiêu), thí dụ như trong truyện ngắn Cây Vĩ Cầm
(Rothschild's Fiddle) của Chekhov (đã giới thiệu trên Văn Học Nghệ
Thuật trên lưới do Phạm Chi Lan chủ biên, Việt Báo online, và trên Hợp
Lưu). Hoặc trong cuốn tiểu thuyết "Người Công Chính Cuối Cùng", (của
André Schwarz-Bart, đã
được giải thưởng văn chương Pháp Goncourt năm 1959), theo đó, thế giới
ngự trị trên 36 kẻ công chính. Kẻ công chính, le juste, hay
"lamed-waf",
người què gánh tội (waf: with all faults). Tuy là "những cội rễ nhà
trời"
(les racines du ciel, chữ của Romain Gary), nhưng bề ngoài, họ chẳng
khác
gì những con người bình thường. Giữa họ, cũng chẳng thể nhận ra nhau.
Nhưng
chỉ cần một, trong số 36 kẻ công chính thiếu đi, là nỗi đau khổ của con
người làm độc ngay cả đến tâm hồn của những trẻ thơ, và nhân loại nghẹt
thở vì tiếng khóc bi thương này. Bởi vì "lamed-waf" là trái tim của thế
gian, nơi mọi đau khổ đều đổ xuống đó. Như thể nhân loại có bao nhiêu
khổ
đau, là có bấy nhiêu truyền thuyết về "người què gánh tội", bởi vì sự
hiện
diện của họ là ở khắp nơi. Vào thế kỷ thứ 7, những người Do Thái thuộc
vùng
Andalousie, Tây Ban Nha, đã sùng bái một khối đá mang hình giọt nước
mắt,
mà theo họ đây là linh hồn của một "lamed-waf". [Liệu chúng ta có thể
hiểu
huyền thoại hòn vọng phu, như là giọt nước mắt, linh hồn người đàn bà
suốt
chiều dài dựng nước của dân tộc?]. Và khi một kẻ công chính vô danh về
trời,
trái tim của người đó giá lạnh đến nỗi Thượng Đế phải ấp ủ một ngàn năm
trong
lòng bàn tay của Người, để sưởi ấm cho nó. Và như người ta được biết,
hầu
hết trong số họ, trái tim chẳng làm sao ấm lại được nữa. Thượng Đế cũng
chịu
thua. Và Người thỉnh thoảng lại phải vặn nhanh lên ‘một phút’ chiếc
đồng
hồ báo Cuộc Phán Xét Cuối Cùng.
Note: Cái tít bài viết về Primo Levi, của Tony
Judt, trên tờ NYRB, số May, 20, 1999, mà GCC dựa theo đó, viết “Đây có phải
một người”, đăng lần đầu trên Văn Học, NMG, đúng ra là, “The Courage of the
Elementary”, tạm dịch, “Sự Can Đảm của Cái Cơ Bản”, là từ Milosz, khi ông
viết về Camus, “ông ta [Camus] có cái sự can đảm tạo ra những điểm cơ bản,
[“he had the courage to make the elementary points”]. Trong Lại Tỉnh Thức,
“The Reawakening”, Levi miêu tả 1 đứa bé, khác đứa bé chết đuối đang được
nhắc tới, mà là ở Lò Thiêu. Nó sống sót Lò Thiêu, nhưng chết, đúng lúc được
giải thoát.
Bài viết này, tình cờ GCC vớ lại được nó, trong số báo cũ, bèn đọc lại, để
thẩm tra trình độ tiếng Anh hồi tập tạnh dịch! Bỏ đi nhiều quá, nhiều chi
tiết, sự kiện thực là thú vị. Vả chăng, bài dài quá.
Hurbinek was a nobody, a child of death, a child of Auschwitz. He looked
about three years old, no one knew anything of him, he could not speak and
he had no name; that curious name, Hurbinek, had been given to him by us,
perhaps by one of the women who had interpreted with those syllables one
of the inarticulate sounds that the baby let out now and again. He was paralyzed
from the waist down, with atrophied legs, thin as sticks; but his eyes, lost
in his triangular and wasted face, flashed terribly alive, full of demand,
assertion, of the will to break loose, to shatter the tomb 'of his dumbness.
The speech he lacked, which no one had bothered to teach him, the need of
speech charged his stare with explosive urgency: it was a stare both savage
and human, even mature, a judgement, which none of us could support, so heavy
was it with force and anguish ....
During the night we listened carefully: ... from Hurbinek's corner there
occasionally came a sound, a word. It was not, admittedly, always exactly
the same word, but it was certainly an articulated word; or better, several
slightly different articulated words, experimental variations on a theme,
on a root, perhaps on a name.
Hurbinek, who was three years old and perhaps had been born in Auschwitz
and had never seen a tree; Hurbinek, who had fought like a man, to the last
breath, to gain his entry into the world of men, from which a bestial power
had excluded him; Hurbinek, the nameless, whose tiny forearm -even his-bore
the tattoo of Auschwitz; Hurbinek died in the first days of March 1945, free
but not redeemed. Nothing remains of him: he bears witness through these
words of mine." [The Reawakening, pp. 25-26].
Cái kinh nghiệm 1 lần rồi thôi - khi viết về Mít vượt biển– Levi, thoạt
đầu, không có, bởi là vì đếch ai thèm nghe, dù có nói, và, chính ông cũng không
làm sao vượt được cái mặc cảm tội lỗi “sống sót” Lò Thiêu, của mình.
Sống sót, đúng là như thế, nhưng tại sao Levi, tui?
Cái tên Bắc Kít LDD làm sao hiểu được nỗi đau này.
Hắn chọc quê lũ Mít ở
Mẽo, đa số gốc Ngụy.
Hắn làm sao hiểu được 1 điều thật là đơn giản, thắng
trận nhục nhã lắm, nhục nhã hơn nhiều, so với thất trận, nếu hắn đủ can đảm,
để, từ Mẽo, nhìn lại 1 xứ Mít tang thương, điêu tàn, nhờ thắng trận.
Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên
thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu
nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà
chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì
về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư… và trong
những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được
thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….
Shin Kyung-sook had earlier denied using material by Yukio Mishima, but has
now apologised, saying ‘I can’t believe my own memory’
Nữ văn sĩ Đại Hàn, giải thưởng văn học Man Asian Prize, thừa nhận có chôm
Mishima, nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ, đúng như Faulkner phán, cần thì
trấn lột cả bà cụ của mình, và đúng như thế: Tờ Người Kinh Tế, số mới có
1 bài thần sầu về nữ diệu thủ văn sĩ này!
Note: Cái tít bài viết về Primo Levi, của Tony
Judt, trên tờ NYRB, số May, 20, 1999, mà GCC dựa theo đó, viết “Đây có phải
một người”, đăng lần đầu trên Văn Học, NMG, đúng ra là, “The Courage of the
Elementary”, tạm dịch, “Sự Can Đảm của Cái Cơ Bản”, là từ Milosz, khi ông
viết về Camus, “ông ta [Camus] có cái sự can đảm tạo ra những điểm cơ bản,
[“he had the courage to make the elementary points”]. Trong Lại Tỉnh Thức,
“The Reawakening”, Levi miêu tả 1 đứa bé, khác đứa bé chết đuối đang được
nhắc tới, mà là ở Lò Thiêu. Nó sống sót Lò Thiêu, nhưng chết, đúng lúc được
giải thoát.
Bài viết này, tình cờ GCC vớ lại được nó, trong số báo cũ, bèn đọc lại, để
thẩm tra trình độ tiếng Anh hồi tập tạnh dịch! Bỏ đi nhiều quá, nhiều chi
tiết, sự kiện thực là thú vị. Vả chăng, bài dài quá.
Hurbinek was a nobody, a child of death, a child of Auschwitz. He looked
about three years old, no one knew anything of him, he could not speak and
he had no name; that curious name, Hurbinek, had been given to him by us,
perhaps by one of the women who had interpreted with those syllables one
of the inarticulate sounds that the baby let out now and again. He was paralyzed
from the waist down, with atrophied legs, thin as sticks; but his eyes, lost
in his triangular and wasted face, flashed terribly alive, full of demand,
assertion, of the will to break loose, to shatter the tomb 'of his dumbness.
The speech he lacked, which no one had bothered to teach him, the need of
speech charged his stare with explosive urgency: it was a stare both savage
and human, even mature, a judgement, which none of us could support, so heavy
was it with force and anguish ....
During the night we listened carefully: ... from Hurbinek's corner there
occasionally came a sound, a word. It was not, admittedly, always exactly
the same word, but it was certainly an articulated word; or better, several
slightly different articulated words, experimental variations on a theme,
on a root, perhaps on a name.
Hurbinek, who was three years old and perhaps had been born in Auschwitz
and had never seen a tree; Hurbinek, who had fought like a man, to the last
breath, to gain his entry into the world of men, from which a bestial power
had excluded him; Hurbinek, the nameless, whose tiny forearm -even his-bore
the tattoo of Auschwitz; Hurbinek died in the first days of March 1945, free
but not redeemed. Nothing remains of him: he bears witness through these
words of mine." [The Reawakening, pp. 25-26].
Cái kinh nghiệm 1 lần rồi thôi - khi viết về Mít vượt biển– Levi, thoạt
đầu, không có, bởi là vì đếch ai thèm nghe, dù có nói, và, chính ông cũng không
làm sao vượt được cái mặc cảm tội lỗi “sống sót” Lò Thiêu, của mình.
Sống sót, đúng là như thế, nhưng tại sao Levi, tui?
Cái tên Bắc Kít LDD làm sao hiểu được nỗi đau này.
Hắn chọc quê lũ Mít ở
Mẽo, đa số gốc Ngụy.
Hắn làm sao hiểu được 1 điều thật là đơn giản, thắng
trận nhục nhã lắm, nhục nhã hơn nhiều, so với thất trận, nếu hắn đủ can đảm,
để, từ Mẽo, nhìn lại cái 1 xứ Mít tang thương, điêu tàn, nhờ thắng trận.
Nói
nghe, mới đi đám tang nhà anh Osin Huy Đức, tình cờ chạy qua cái cổng
chào Tân Sơn (P.15, Tân Bình). Bỏ lại sau lưng đoạn đường Phạm Văn Bạch
lồi lõm ổ gà là đường dẫn đến khu sân gofl Tân Sơn Nhất; đường mới làm
rộng đẹp thênh thang như đại lộ với bãi cỏ dài được chăm sóc hàng ngày.
Rảnh quá nên cóa chạy vô đi…lòng zòng chơi ^-^
Sân golf Tân Sơn
Nhất nằm ở phía Tây Bắc, Sài Gòn với tổng diện tích khoảng 156 ha. Trong
đó, phần sân golf chiếm 111 ha, gồm 36 lỗ chia làm 2 k...
Bài viết này, nhờ server mà đọc lại được, và
nhờ đọc lại, thì đọc được 1 câu thật là thú vị, một hình ảnh đúng hơn. Thú
vị hơn nữa, là đang đọc 1 mẩu, của Vargas Llosa, cũng viết về hình ảnh này,
đúng hơn, về cái khăn choàng của người nữ Hồi Giáo, the Islamic Veil:
We should be clear that 'pornography' in a fundamentalist Islamic theocracy
consists of a woman revealing her hair. The guilty woman, according to the
law of the Koran, was buried in a public square up to her chest, and stoned
to death.
Vargas Llosa: The Disappearance of Eroticism
Hồi còn đôi tám, đi nghỉ hè trọ ở nhà một người bạn gái tại Sài Gòn. Nhà
bạn có hai ông anh lớn hơn chừng ba bốn tuổi. Cả bọn họp thành một nhóm đi
chơi với nhau vui vẻ. Một buổi trưa, sau khi đi chơi đâu đó về, cả 4 nằm
ngang trên chiếc giường lớn nói chuyện bâng quơ. Một trong hai anh nằm kề
K, lấy mái tóc dài của K đắp ngang mặt mình, hỏi :
" Tại sao người Huế khi nói gì cũng nói " dễ sợ " vậy K ? "
" K không biết. "
" Vậy thì nếu nói ' Dễ thương dễ sợ ' có đúng không ? "
" Không biết. "
Chúng tôi, Nguyễn Khải, Vương Trí Nhàn và tôi ngồi trong căn phòng nhỏ
vốn là toilet của ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế. Tòa soạn Tạp chí Văn nghệ
Quân đội được ở ngôi nhà này là một đặc ân.
Tks
V/v Điêu tàn ư, đâu chỉ điêu tàn.
Đông phương có hình ảnh, cái gì gì, ngòi bút nhìn thấu ngàn cõi. Nhưng một nhát “điêu tàn ư” này, làm Gấu nhớ tới Calvino.
Chuyện viết lách của tôi hơi giống một câu
chuyện Tầu, về một họa sĩ, được nhà vua ra lệnh, hãy vẽ cho ta một con cua.
Nhà nghệ sĩ bèn trả lời, Thưa Hoàng Thượng, hạ thần cần mười niên, một căn
nhà tổ bự, và hai mươi nàng hầu. Mười năm qua đi, "Thưa Hoàng Thượng, hạ
thần cần thêm hai niên nữa". Rồi, thêm một tuần.
Sau cùng, ông nhặt cây cọ lên, múa một đường, là xong con cua.
Italo Calvino
Ôi chao, vẫn còn "bảnh" hơn Hai Lúa, cả đời chỉ mong ghi lại, một cái lá
mùa Thu, đậu trên vai một cô bé con ngày nào, nơi vườn Tao Đàn, sắp hết đời,
cô bé thì đi rồi, vậy mà vưỡn chửa xong!
"Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi
học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi
trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng
cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé
đang mơ mộng, đang trở thành người lớn."
Tôi khởi đầu chậm như
rùa. Nếu có một ý tưởng cho một cuốn
tiểu thuyết, tôi phịa đủ mọi cớ để đừng phải loay hoay với nó. Nếu một
tập
truyện ngắn, mỗi truyện lại có cú khởi đầu của nó. Ngay những bài báo
cũng rứa,
cứ mỗi lần tính viết, không có cũng phải phịa ra trục trặc này nọ để
trì hoãn.
Nhưng được cái, hễ đã bập vào rồi, là cứ ro ro như máy mới đổ dầu nhớt!
Nói ngắn gọn, tôi lẹ lắm, nhưng trước khi lẹ, là những lỗ trắng lớn.
Chuyện
viết lách của tôi hơi giống một câu chuyện Tầu, về một họa sĩ, được nhà
vua yêu
cầu, hãy vẽ cho ta một con cua. Nhà nghệ sĩ bèn trả lời, Thưa Hoàng
Thượng, hạ
thần cần mười niên, một căn nhà tổ bự, và hai mươi nàng hầu. Mười năm
qua đi,
"Thưa Hoàng Thượng, hạ thần cần thêm hai niên nữa". Rồi thêm một
tuần. Sau cùng, ông nhặt cây cọ lên, múa một đường, là xong con cua.
Italo Calvino
Cái truyện Tiểu Thu, và cái gọi là “duyên
thừa, từ bố mẹ để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được hải ngoại, lần đầu
nghe Yanni, và hiểu ra được chân lý này: Một khi bạn sống đời của bạn mà
chưa 1 lần phải “biên tập đạo hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì
về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì, thứ ba, thứ tư… và trong
những cuộc đời này, cái gọi là khổ đau, không còn nữa, hoặc nó cũng được
thanh hóa... trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân sủng….
Lâu nay, để biện hộ cho vai trò lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng sản tại
Việt Nam (một điều được ghi trong hiến pháp), nhà cầm quyền thường nêu
lên ba lý do chính: Một, họ đã có công trong việc giành độc lập cũng như
thống nhất đất nước; hai, chỉ có họ mới đủ khả năng lãnh đạo; và ba,
họ được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân dân. Theo họ, ba lý do ấy tạo nên
tính chính đáng (legitimacy) của chế độ.
Note:
Bài viết này, cực nhảm. Tên viết bài, cực dốt, mù tịt về lịch sử, lại lười
đọc, không phải sách tiếng mũi lõ – đâu có đọc được – mà là sách tiếng Việt,
của những người có liên quan tới cuộc chiến chống Pháp, thí dụ như Trần Trọng
Kim, hay những sử gia như Tạ Chí Đại Trường, thành ra, do đã từng học dưới
mái trường VC, nên phán y chang VC.
VC chẳng đã từng vỗ ngực xưng tên, là kẻ dẫn dắt dân Mít tới chiến thắng,
không chỉ thằng Tẩy, mà luôn cả thằng Mẽo. Tên này OK, thắng Tẩy, nhưng đếch
OK, Mẽo. Thì cũng vẫn cái kiểu phán, vừa đá vừa xoa, như khi phán về VP,
MT…
Chính cuộc chiến chống Pháp là nguồn cơn mọi tai họa của dân Mít. Nó cho
thấy VC là băng cướp. Một khi chúng cướp được chính quyền, là chúng giữ rịt
lấy, ai chống chúng, là chúng làm thịt sạch. Những tên VC chính gốc, đã từng
theo chúng, bây giờ kêu gọi dân chủ, xin được như ngày còn Tẩy, chúng làm
thịt sạch, không thấy ư? Không lẽ chống Pháp, để được cái khốn nạn hơn Pháp?
Cuộc chiến chống Pháp đúng ra không xẩy ra, như những tài liệu lịch sử ngày
càng cho thấy. Trên TV cũng đã từng giới thiệu 1 số tài liệu này. Nhưng VC
chỉ muốn nó xẩy ra, để nhân đó, làm thịt sạch các đảng phái khác. Nhất Linh
phải chạy sang Tầu, TTK sang Singapore, ai không kịp chạy, là chết hết.
Chính là do chống Pháp, mà làm sao chống nổi nó, với 1 dúm du kích Tân Trào,
thế là bèn mời ông Tẫu vô… giường, nói chuyện với “bà nhà tui”, và trong
khi… tỉ tê, bèn xin viện trợ.
Điện Biên Phủ mà không có thằng Tẫu, là VC Bắc Kít chết sạch rồi!
Chính vì lụy thằng Tẫu, mà bây giờ mới khốn khổ khốn nạn với nó.
Phải có kiến thức về cái điều mình viết ra. Viết nhảm, chỉ bịp được dân không
có thực học, ít đọc, quen với những giải đáp có sẵn.
V/v chính đáng. Chính đáng, thì phải là chính phủ Trần Trọng Kim, VC ăn cướp,
cướp chính quyền như chính chúng tự nhận, mà sao chính đáng?
Cũng bày đặt dùng tiếng mũi lõ.
Chính đáng nào bằng chế độ VNCH, được cả thế giới công nhận, chúng cũng ăn cướp cho được.
Đúng ra phải gọi như VC thường gọi, chúng là 1 đảng cướp có “chính nghĩa”.
Chính nghĩa, chứ không phải chính đáng. Chúng tự coi chúng, được nhân dân tin cậy, giao
cho cái nghĩa cả, là đánh Tẩy, đánh Mẽo.
Note:
legitimacy. Có lẽ nên dịch là chính thống, để đối với từ “Ngụy”, theo như
cách nhìn lịch sử Mít, mà VC theo đó, gọi VNCH, là Ngụy, như Gia Long gọi
Tây Sơn. Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, dùng từ "chính thống".
Dịch “chính đáng”, nhảm. Chính đáng, tiếng mũi lõ, là right, correct, exact…
Ligitimacy là chính thống, hay, hợp pháp. Bởi thế mới có từ illegal, bất hợp pháp.
Đọc đã lâu, thành ra không dám chắc, Tạ Chí
Đại Trường, khi viết về VC, hình như cũng coi đây là băng cướp, cướp chính
quyền, và bèn cố tìm 1 cái gọi là chính nghĩa để biện minh cho chúng. Chính
đáng, với Miền Bắc, thì phải là Nguyễn Thái Học mới là lực lượng chống Pháp,
đâu phải Vẹm?
Có lẽ, cái tít bài viết dưới đây, dùng cho chế độ “chính đáng” VC, “chính xác” hơn nhiều: Độc ác và dối trá, văn hóa VC Bắc Kít.
Note: Bài trên tờ Guardian 4-10 Sept, đọc hồi ký của những người Bắc Hàn bỏ chạy.
Bài, đọc tuyêt lắm.
Prospero viết về nhà văn mới nổi nhưng thần sầu của Mẽo: AYHAD AKHTAR is
not just one of the most celebrated American writers of the past few years;
he’s also one of the boldest. His tales of Islamic assimilation are as essential
today as the work of Saul Bellow, James Farrell, and Vladimir Nabokov were
in the 20th century in capturing the drama of the immigrant experience.
Me xừ AYHAD AKHTAR, không chỉ số 1 của Mẽo vài năm gần đây, ông còn là 1 tay táo bạo nhất.
Những câu chuyện về hội nhập của ông thì “yếu tính”, cơ bản, cẩm như của
những đấng Saul Bellow, James Farrell, and Vladimir Nabokov của thế kỷ 20,
khi đám này tóm bắt cái gọi là bi kịch kinh nghiệm di dân.
Đâu có như Thầy Kuốc. Thầy xoa đầu ba đấng Mít số 1 của xứ Kăng Gu Rù của
Thầy, và hình như đều là bạn Thầy, bằng những dòng thật đao to búa lớn, nhưng
rỗng tuếch, đọc thì biết.
Trò này chỉ làm hại lũ Mít viết lách thôi. Cả 1 lũ có đứa nào viết ra hồn,
thế là cứ tự tâng bốc lẫn nhau, làm sao mà có tác phẩm ngửi được?
Thầy Kuốc mù tịt về phê bình, theo Gấu.
Cũng 1 trường hợp bịp biệc gì đó.
Cuốn “Chân Dung Ông Trùm” [VP], mới nhảm làm sao!
Thầy viết cuốn đó, để được ngang hàng với Ông Trùm.
Cũng thế, là những lèm bèm về Trùm Sáng Tạo, MT
Ngoài ra là... hết!
Bạn thử chỉ cho Gấu 1 nhà văn, nhà thơ, nhờ Thầy mà nở mày nở mặt với đời?
Đâu có ai?
Đám làng nhàng, đang trông chờ ở Thầy nhiều lắm lắm đấy!
Thận Nhen, Tu Bíp kiêm thi sĩ NDT…, thí dụ!
In the large reading room of the Salzburg University library, the librarian
hanged himself from the large chandelier because, as he wrote in a suicide
note, after twenty-two years of service he could no longer bear to reshelve
and lend out books that were only written for the sake of wreaking havoc,
and this, he said, applied to every book that had ever been written. This
reminded me of my grandfather's brother who was the huntsman in charge of
the forest district of Altentann near Hennsdorf and who shot himself on the
summit of the Zifanken because he could no longer bear human misery. He too
left this insight of his in a note.
Hai cái “notes”.
Trong phòng đọc lớn của thư viện Salzburg University người thủ thư tự vẫn
bằng cách treo cổ vào cái đèn treo lớn, và để lại một cái “note”, sau 22
năm phục vụ, ông ta hết còn chịu nổi cái công việc sắp đi xếp lại những cuốn
sách trên những giá sách, sau khi cho mượn. Chúng cùng viết về 1 đề tài,
gây tang tóc, xúi người ta vào cõi chết.
Sự kiện này làm tôi nhớ đến ông anh/em, của ông tôi, vốn là 1 thợ săn, phụ
trách một quận lỵ rừng ở Altentann, gần Hennsdorf, tự vẫn bằng súng, và cũng
để lại một cái note, ông không làm sao chịu nổi nỗi khốn cùng của con người.
Note: Cái note thứ nhất, là của 1 tên thủ thư thư viện Hà Nội, còn cái kia, là ở… bất cứ 1 tên nhà văn Ngụy!
Hà, hà!
Oz viết về phim Shoah của
Lanzmann.
Lanzmann phỏng vấn Abraham Bomba, thợ cắt tóc, chứng nhân Lò Thiêu. Ông
này nói:
"Người Do Thái luôn luôn mơ [rêver]. Họ luôn luôn mơ một ngày nào,
Thiên sứ sẽ tới dẫn dắt họ tới tự do. Ngay cả ở nơi đó, ở ghetto, họ
cũng mơ chuyện đó.
Tôi ở trong chuyến di chuyển thứ nhì tới Czestochova. Tôi hiểu liền, có
gì không ổn [mauvais signe]. Họ nói, tới để làm việc, nhưng việc gì cơ
chứ, việc gì mà mang theo cả đàn bà, trẻ con với chúng tôi?
Chúng tôi đâu có chọn lựa nào khác?
Con người cần mơ mộng, hay hy vọng, rêver, espérer. Không có nó, làm
sao sống? Và thế là chúng tôi cứ tin họ, dù thế nào đi chăng nữa."
Vừa
đọc qua status sau đây của anh Lê Diễn Đức. Tôi trước đây vẫn quý anh
Đức như một người bạn kết giao qua Facebook và có vài lần gặp mặt ở Nam
Cali qua sự giới thiệu của những người bạn chung. Nhưng sau khi đọc qua
status này của anh thì tôi xin được chấm dứt mọi sự kết giao đối với
anh.
Status anh viết 1) là một sự miệt thị đối những người lính
VNCH, trong đó có ba tôi. Đối với tôi, cho dù họ là những người bị thua
cuộc, vẫn là những người đã từng chiến đấu và anh dũng hy...
Tay
LDD này, Gấu nhớ ra, thời gian viết cho talawas, nhân vụ Gấu vặc Sến về cái
vụ khơi khơi kêu 1 tên đàn em sửa những cái lỗi dịch sai ra, trong 1 bài
viết của Gấu, rồi post lên, với cái tên của tên đàn em, như 1 kẻ hiệu đính!
Anh ta bèn góp tiếng, và lèm bèm về Gấu, mà anh chưa từng biết đến. Và khoe
đã từng “moa toa” với những đấng số 1 hải ngoại như Ông Số Hai!
Gấu cũng không tiện lên tiếng.
Gấu nhớ là, có 1 độc giả talawas còn mắng Gấu, mi dịch sai, có người mất công sửa, không cám ơn, mà vặc um lên, vô lý quá!
Gấu cáu quá, bèn vặc tiếp, ta đâu có nhờ mi hiệu đính. Dịch sai, không đăng,
quăng thùng rác. Không ai cho phép mi sửa. Muốn sửa là phải hỏi tác giả bài
viết, bài dịch. Đây là luật của xứ văn minh.
Nay nhân vụ này, thì bèn đi 1 đường về nhân vật LDD.
Cái chuyện ông ta nhận xét về Khiến Chán, đúng ra, đừng.
Ông ra hải ngoại, lại Bắc Kít, những điều ông viết về Khiến Chán, có gì là
mới đâu, mọi người đều biết. Nhưng “quá” cái biết đó, ông ta không biết,
nhưng 1 người như Gấu, chẳng hạn, biết. Khi Gấu ra được hải ngoại, Khiến
Chán qua rồi, thành ra không dám viết về nó, dù có những kỷ niệm liên quan
tới nó, hồi ở Trại tị nạn Thái Lan.
Gấu, thỉnh thoảng, cũng có đọc ông này viết.
Nổ quá, và bài viết thiếu chiều sâu. Thứ chiều sâu này, nó phân biệt, thí
dụ, 1 bài viết của Steiner, với 1 bài viết của 1 tác giả, thí dụ Vargas Llosa.
Nhắc tới ông này, vì ông này đã từng chê Steiner, chỉ 1 thứ “enfant terrible”!
Không phải. Đằng sau bài viết của Steiner, là nỗi may mắn & nhục sống sót & đau đớn Lò Thiêu.
Đằng sau Khiến Chán, với lũ Ngụy cũng có cái may & nhục sống sót & thất trận & Lò Cải Tạo.
Bài viết của LDD còn thiếu cả chiều sâu văn hóa & văn học… Đây là cái
chiều sâu & nội lực mà không 1 người nào ra đi từ Miền Bắc có được.
V/v những nhận xét của LDD về cuộc chiến Mít, về quân đội Ngụy, theo Gấu
cực nhảm, và nhận xét này, không phải của ông, mà là của cả xứ VC Bắc Kít.
Chúng phán, 1 thứ quân đội, cả 1 triệu tên mà còn thua tan tác, quan Thầy
bỏ chạy tán loạn lên trực thăng… mà 1 dúm Khiến Chán, làm gì được.
Nhận xét về cuộc chiến Mít, càng ngày Gấu càng nhận ra, đúng nhất, là của
Dương Thu Hương, khi bà phán, đây là văn minh thua dã man, thua tàn bạo,
con người thua thú vật…
Để hiểu câu nói của bà DTH, nhìn bề mặt thôi, thì cũng dễ, nhưng nhìn tới
bề sâu thăm thẳm của nó, thì phải viện ra vài hình ảnh, giai thoại, sự kiện,
để… minh họa.
Trên net, Gấu mới đọc 1 mẩu, về chuyện, tông tông Thiệu, qua Seoul chơi,
đúng lúc sinh viên phản chiến, mê Miền Bắc, biểu tình, đòi hiệp thương, thống
nhất… và binh sĩ Nam Hàn được lệnh bắn bỏ tất cả, nếu không chịu giải tán,
và họ bắn thật. Thiệu nói, chúng ta không thể làm như thế được.
Me-xừ Khờ, “bạn của GCC”, cũng đã từng post những hình ảnh Nam Hàn làm thịt
sạch mấy chục ngàn (?) tên VC Bắc Hàn, nằm vùng, khi bùng nổ cuộc chiến,
không như Diệm, bắt vô tù, giam ở Phú Lợi, rồi sau bị VC tố là đầu độc tù,
rồi nhân đó, thành lập MTGP. Chuyện đầu độc tù, là do chúng phịa ra.
Giả như Miền Nam làm như Nam Hàn, thì những tên VC nằm vùng, những tên như
HPNT, chẳng hạn, đều bị làm thịt sạch từ hồi đó đó rồi.
Cái gì làm Diệm & Thiệu, không làm, khi Nam Hàn, làm?
Văn minh.
Vẫn là câu chuyện về văn minh, trường hợp “hiệu đính”. Ở Saigon, trước 1975,
cái gọi là hiệu đính, là công việc của 1 toà soạn. Họ có 1 số cộng sự tin
cậy, trong việc sửa bài, và mỗi lần sửa xong, họ gửi bài viết đã sửa cho
tác giả, xin ý kiến, nếu người này OK, thì họ đăng, không, họ gửi trả bài
viết. Họ rất tôn trọng tác giả 1 bài viết, khi người này tin cậy tờ báo của
họ, và gửi bài, không như những SCN của talawas, hay TTCD của eVăn. Những
ông bà này, coi thường người cộng tác, tự nhiên, vô tư sửa bài biết, rồi
đè ra phán 1 phát, hiệu đính!
Cực bửn!
V/v Ngụy thua VC Bắc Kít. Chúng, VC, Bắc Kít
rất khoái lôi cái chuyện này ra để chọc quê, cả 1 triệu thằng Ngụy, thua
chạy đến tụt cả quần, hay, như chính tên LDD viết [coi hình].
Trong chưởng Kim Dung, có 1 xen có thể lôi ra ở đây, để minh họa cho cái điều mà GCC tính nói.
Nhà sư Hư Trúc, nhờ cơ duyên mà rành tới chỉ võ công của phái Tiêu Dao [đạo gia], đánh thắng nhà sư Cưu Ma Tri.
Phương trượng Thiếu Lâm, khi lôi Hư Trúc ra phạt đòn, đã trả lời đám sư sãi
Thiếu Lâm, là, thà là viên gạch bể, còn hơn là viên gạch lành.
Chùa Thiếu Lâm, có từ ngàn đời, dù gặp nạn lớn đến thế nào, thì rồi vẫn có cơ may sống sót.
Cái chuyện Ngụy, Miền Nam, thua VC Bắc Kít, đúng là như thế. Chúng chỉ có
lại được cơ may làm người, khi đi vô tù VC, hay, sống sót vượt biển, hải
tặc.
Tên khốn LDD này làm sao hiểu được những điều như thế, cứ ngoạc cổ ra chửi,
rồi còn than, tôi đưa ra viên thuốc đắng, lũ cộng đồng hải ngoại quê quá,
gây sức ép lên đài Mẽo, đá đít tôi!
Cái chuyện 1 tên Bắc Kít, mà đâm đầu vô 1 đài Mẽo, để làm bồi, là đã đéo
được rồi, mũi lõ gọi là “noblesse oblige”, giống trường hợp Bùi Tín.
Gấu Cà Chớn, sở dĩ đếch thèm xin đi Mẽo, hồi ở Trại Tị Nạn Thái Lan, là do
nghĩ, nếu mi đi Mẽo, mi bị bịt miệng, đếch dám chửi Mẽo nữa!
Cái
sự kiện thiếu nội lực văn hóa, văn học của 1 tên Bắc Kít như LDD, là do chính
sách bịt miệng, bịt tai, bịt mắt của cả 1 cõi Bắc Kít, suốt từ khi chúng
ở rừng về Hà Nội.
Đám này, ra được hải ngoại, viết lách vung vít, nhưng với dân pro, đọc 1 phát, là thấy ngay “chân tướng” 1 tên, nổ như pháo.
Để Gấu kể chuyện này, có thực. Vào những ngày mới viết cho mục Tạp Ghi của
NMG, nhân có quen 1 vì bác sĩ ở Toronto, rất rành và rất mê văn học, đọc
Gấu, rất khoái, và trong 1 lần nói chuyện, Gấu thỏ thẻ, đám Đông Âu đọc Gấu,
cũng thích lắm, ông bác sĩ trợn mắt, hết sức ngạc nhiên, anh nói sao, tôi
đây, đọc anh không nổi, làm sao mà họ đọc được anh!
Cái đọc của Gấu, quả là có cái gì khiến người đọc bực mình.
Cái viết, thì chỉ những người mê văn chương, và, không chỉ đọc, mà còn mê
viết, quan tâm. Bởi vậy, con số visitor mỗi ngày, cả ngàn, thú thực, khiến
Gấu, thoạt đầu, hoảng, và không làm sao hiểu nổi!
Rồi được net, đánh giá, TV: 7 triệu rưởi US!
Tếu thế!
Lê Văn Tài, Nguyễn Tôn Hiệt và Phan Quỳnh Trâm có lẽ là ba trong số
những gương mặt tiêu biểu nhất trong nền văn học lưu vong và/hoặc xuyên
quốc gia Việt Nam tại Úc.
Sinh năm 1943, Lê Văn Tài đến Úc với tư
cách một thuyền nhân vào năm 1984. Trước, ở Việt Nam, anh đã là một hoạ
sĩ nổi tiếng, có những khám phá về kỹ thuật độc đáo, từng ảnh hưởng lên
một số hoạ sĩ cùng thời. Sang Úc, anh tiếp tục vẽ tranh và có nhiều
cuộc triển lãm, một mình hoặc với c...
Đọc bài viết Gấu thấy tiếu lâm quá. Thổi, xoa đầu, nâng
bi, đội dĩa…ba nhà thơ nhà, mà không đưa, dù chỉ 1 câu thơ, để người đọc
đánh giá, liệu có đúng như thế?
Chỉ đành kết luận, thơ của cả ba, đều khó ngửi, đếch dám trình ra!
Mà thế thực. Gấu có từng đọc loáng thoáng đâu đó, thời gian còn có đóng góp cho trang Hậu Vệ!
Trên TV, thí dụ, chưa từng viết về bất cứ ai, tẹt cũng như lõ, mà không có
những dòng thơ, văn… chứng minh, đây nè, nó đê này, thơm thúi như thế nè
nè!
Áo thụng vái nhau hoài, chán quá!
Sinh năm 1943, Lê Văn Tài đến Úc với tư cách một thuyền nhân
vào năm 1984. Trước, ở Việt Nam, anh đã là một hoạ sĩ nổi tiếng, có những
khám phá về kỹ thuật độc đáo, từng ảnh hưởng lên một số hoạ sĩ cùng thời.
Những họa sĩ cùng thời mà Lê Văn… Tèo này ảnh hưởng lên họ, là… ai?
Chắc là những Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn?
Những họa sĩ này… cùng thời với Lê Văn Tèo đấy!
Đúng là phán cho sướng cái lỗ miệng!
Về thơ của nhà thơ, lưu vong, xuyên quốc gia... , thì đều dởm cả, hay dùng
chữ của Thầy Kuốc, "dưới trung bình", khi Thầy phán về thơ của Phạm Thiên Thư.
Riêng nhà thơ nữ, theo Gấu, quá dởm, vì quá dốt tiếng Mít. Còn phần tiếng
Anh, tức thơ dịch, thì cũng do quá dốt tiếng Mít, nên dịch nhảm cả.
Bạn phải thật giỏi tiếng Mít, khi dịch thơ mũi lõ.
Bạn không giỏi tiếng Mít,
tốt nhất đừng viết văn, làm thơ, và dịch thơ.
Đây là kinh nghiệm của riêng
Gấu, suốt 1 đời “ăn ngủ…. “, với tiếng Mít!
Nữ thi sĩ họ Phan này, đã từng nhờ thi sĩ Nguyễn Ton Hẹt hiệu đính thơ dịch.
Đấng này, dịch “fail”, là vấp ngã, khi làm thơ ca ngợi Lê Công Định, khi
ông bị VC bắt.
Nói chung, là, cả 1 lũ đếch rành tiếng Mít.
Đây là 1 đại họa của văn học Mít hải ngoại.
Ngay cả chuyện, muốn viết văn bằng tiếng mũi lõ, “để mà” thành công, điều kiện tiên quyết, là phải rành tiếng Mít!
Linda Lê, viết bằng tiếng Tẩy, sở dĩ thành công, vì, thay vì rành tiếng Mít, thì bèn mang 1 đứa trẻ Mít đã chết ở trong bà.
Theo tôi, Lê Văn Tài là một trong những nhà thơ lưu vong tiêu biểu nhất trong
lớp nhà thơ thuộc thế hệ thứ nhất trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại từ
sau năm 1975. Tiêu biểu ở tài năng, và đặc biệt, ở tính chất lưu vong. (1)
GCC chưa từng đọc Lê Văn Tài. Qua bài viết của Thầy Cuốc, đọc láng cháng
vài ba câu, thì, thú thực, khó mà coi ông là nhà thơ lưu vong tiêu biểu nhất
được.
Thứ nhất, những từ mà Thầy Cuốc viện ra, để quàng cho [thổi] LVT, toàn là
của người, và đã trở thành "bản kẽm", nào "vô xứ", "lai ghép", nào “dạng
háng giữa hai nền văn hóa” [cụm từ này do Gấu phịa ra, và dùng cho Lê Văn
Tài thì thật đúng, vì thơ của ông toàn nhắm vào chỗ đó, như Thầy Cuốc ca
ngợi: Cũng hình ảnh tương tự, trong 1 bài “thơ hình ảnh”, Octavio Paz nhìn
ra cả 1 nghĩa địa di chuyển, thì Mít [LVT qua Thầy Cuốc] nhìn ra 1 rừng “cặc”
trên bầu trời!]
Trên TV, Gấu đã từng viết về cái tình cảnh này. Một tên Ngụy đi trình diện
cải tạo, ngớ người khi bị 1 tên Bắc Kít hỏi, giả như mi thắng chúng ông,
thì mi đối xử ra sao?
Đây là chuyện thật. Gấu cũng đi trình diện bữa đó, và nghe tên đó hỏi, 1 anh lính Ngụy. Anh ta ngớ người, đúng như thế.
Một câu hỏi như thế, là hàm ý trong nó, cái cực kỳ khốn nạn, chính cái đó
làm 1 tên Bắc Kít, như Nobel Toán, như SCN, hay như tên này, phịa ra
- hẳn là như thế - cái câu của ông bố của Trần Hạnh. Não của chúng, bị thiến
một mẩu, cái mẩu thiếu mà Đức Phật Sống đã từng nói, về bè lũ Bắc Kinh, tức
quan thầy của bè lũ Bắc Bộ Phủ.
Tên khốn này, óc cũng bị thiến mất một mẩu.
Tên khốn này, đệ tử của Cao Bồi, "bạn của Gấu".
Cao Bồi, đi không nổi, nắm tay vợ khóc, kíu anh với, oan hồn đòi mạng anh.
Tên này hẳn phải biết chuyện này, do chính lũ VC trong nước xì ra, để bôi
nhọ những tên đã từng theo chúng. Võ Tướng Quân cũng thế, tưởng không làm
sao đi nổi. Rồi hiện tại, thì là tên đao phủ Mậu Thân.
Một
câu nói như thế, một cái sự đốt áo cái con mẹ gì đó, theo Gấu, đều không
có. Đây là những trò chạy tội, của lũ bỏ chạy, trước thực trạng 1 đất nước
như bây giờ, trong có sự đóng góp của chúng.
Giống như trò khen thơ “phản chiến”, của Nguyễn Bắc Sơn, hay, coi đây là thứ thơ “bi hài”, hay “thảo khấu” “cái con mẹ gì đó”.
Hai bố con, ở hai bên cuộc chiến, rất có thể làm thịt nhau, mà… hi hài?
Đó là thảm kịch chứ sao lại bi hài?
Thơ của NBS theo Gấu cũng 1 thứ “Ways of Escape”, tam thập lục kế tẩu vi thượng sách.
Cả cõi thơ của anh, chỉ 1 giấc mộng, một ao ước, giả như chết vì say rượu thì bèn biến thành mây bay.
Một vị thân hữu của TV hỏi Gấu, trong cuộc chiến, anh trốn nó, bằng đọc sách. Ra hải ngoại, tại sao đọc?
Cái đọc của Gấu bây giờ, khác hẳn trước đây, trước là chạy trốn, bây giờ
là chạy vô, cố giải cho ra, Cái Ác Bắt Kít, thì cứ gọi đại như vậy.
Tên khốn này, “người của chúng ta ở Paris”, sống sót cuộc chiến nhờ bỏ chạy,
mà bỏ chạy được, là nhờ Ngụy, chúng chủ trương, qua chính sách du học, giữ
người có tí học hành, để hết cuộc chiến, trở về xây dựng đất nước.
Cũng thế là tên VC làm bồi Mẽo ở ổ VC ở Mẽo, NBC. Tên này, học dốt, đi du
học nhờ bỏ tiền ra mua cái bằng Tú Tài, hạng Bình, hay Bình Thứ, Gấu đoán
vậy, thế là suốt đời thù Ngụy, nhưng thôi, bỏ, mất thì giờ làm gì với lũ
nhơ bửn này.
GCC, học hành may mắn, đậu đạt sớm, đi làm sớm, có nhiều cơ hội
bỏ chạy, trên TV đã từng kể ra, nhưng về già, nhìn lại, mới cảm thấy, cực
kỳ may mắn, không bỏ chạy, sống hết cuộc chiến, và những hệ lụy sau đó.
Lũ bợ đít VC, lũ bỏ chạy cuộc chiến làm sao “may mắn” như Gấu, đó là sự thực.
****
Cuộc đời HPNT, với nàng thơ LTMD, làm Gấu nhớ tới cuộc đời của Mayakovski,
qua bài điểm cuốn tiểu sử ông, "The model poet". Qua bài phỏng vấn của tên
thi sĩ dởm hải ngoại NDT, chúng ta được biết, nàng thơ, the muse, cằn nhằn,
nhà thơ & đao phủ, ít chú ý đến nàng, mà chỉ 1 lòng 1 dạ với cách mạng.
Nếu như thế, thì khác hẳn Maya. Cuốn tiểu sử của ông, có rất nhiều chi tiết
mới được khui ra, về nhà thơ nhà nước, của Liên Xô. Cuộc đời của ông, cũng
có 1 nàng thơ, và ông yêu bà này, như yêu cách mạng. Và bà này, là vợ của
1 người bạn, và giữa họ, là 1 cuộc tình tay ba tuyệt vời.
The personal, the political, the aesthetic: all were interwoven in ways that
defy easy categorization during the Revolution's early years. The fates of
Mayakovsky and the Briks - along with those of their families and friends
- come to exemplify this age, in Jangfeldt's telling. Thus Mayakovsky's off-again,
on-again romance with Lili cannot be separated from his largely one-sided
love affair with a revolution that was eager to exploit his gifts even as
it disparaged them. Lili - dancer, actress, entrepreneur, femme fatale, liberated
woman avant la lettre - encouraged Mayakovsky poetically while rejecting,
in later years, his physical and emotional advances. Spumed or imperfectly
returned love, be it private or public, spurred Mayakovsky's gifts. He celebrated both his muses, Lili and the Revolution, with equal fervor. This tale of personal and political dramas is also a story of genres.
"Our epoch is not lyric", Leon Trotsky proclaimed early on. But Mayakovsky's
talent was precisely for outsized lyricism, as friends and foes alike were
quick to recognize.
"Our poet is a Mayakomorphist", Trotsky charged in Literature and Revolution:
he "populates the squares, the streets and fields of the Revolution only
with himself." Mayakovsky's friend and admirer, Roman Jakobson, echoed Trotsky
after the poet's suicide in his magnificent essay-cum-elegy, "On a Generation
that Squandered Its Poets": "Even when he attempts a 'bloody lliad of the
Revolution' ... what appears is not an epic, but a lyric on a grand scale".
Attacks on the poet's "lyrical whining" in love poems and Bolshevik hymns
alike began early on in official venues: "Enough of [this] Mayakovskery", ran a headline on the front page of Pravda in 1921. Just
months before the poet's suicide, the Soviet Encyclopedia declared him officially
anachronistic, if not an outright class enemy: "Mayakovsky's rebelliousness, anarchistic and individualistic, is essentially petit bourgeois".
Đọc những bài viết của bạn bè của tên đao phủ, và của chính tên HPNT, chúng phán, lúc đó HPNT ở trên… rừng!
Đâu có phải như vậy. HPNT đâu có đích thân giết người. Cái “tinh thần” HPNT, giết người.
Bao nhiêu học trò, đệ tử HPNT nhảy lên rừng, vì cái gọi là “tinh thần” HPNT.
Hoặc, Ngụy giết người, cú Mậu Thân là do Ngụy gây nên, chứ Cách Mạng làm sao lại giết nhân dân, vô lý quá!
Tên thi sĩ VC, NTT còn đưa ra bằng chứng, hắn có hỏi những tên VC Bắc Kít,
có tham dự cú Mậu Thân, đám này tỏ ra rất thương dân Huế, do Ngụy pháo kích
khủng quá, lên đầu lên cổ thường dân, nên chúng thương dân quá, đành rút
lui, và trước khi rút, còn dìu những nguời bị thương trả về thành phố!
Gấu đã nói rồi, lũ này, óc hoặc bị thiến, hoặc bị hóa đá.
Một đất nước Mít như hiện nay, là thành quả cuộc chiến Mít thần thánh của chúng.
Trong chiến tranh, dù tội ác, còn tha thứ được, hòa bình rồi, không thể tha thứ.
Những cú cải tạo, cách đối xử tàn nhẫn với cả 1 miền đất, gây đại họa. Xứ
Mít điêu tàn, đâu phải vì cuộc chiến, mà vì, sau cuộc chiến.
Mậu Thân xẩy ra đúng thời kỳ hưu chiến ăn Tết. VC bèn lợi dụng Ngụy lo ăn Tết, chơi luôn.
Nhưng chưa dã man bằng cú 10 ngày cải tạo Ngụy.
Ngụy tin quá. Hết chiến tranh rồi, học 10 ngày phù du, xong là về xúm nhau xây dựng đất nước.
“Qua con mê” thì lại đến lớp đi học cùng lũ con nít.
Bài viết này, tên gốc của nó là “Vườn Thú Tuổi Thơ”.
Saigon Báo lấy đăng, không đề xuất xứ Tanvien.net, đổi tên thành “Ai là đao phủ”.
Gấu biết đến bài viết, là nhờ FB của bạn NND.
Thôi cũng được, vì may, là còn để tên GCC là tác giả!
Nhớ, bài viết này, cùng bài “Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân”, đều bị NMG lắc
đầu, không đăng trên mục Tạp Ghi do GCC phụ trách trên tờ Văn Học.
Người phán, độc giả VH đâu có biết bài gốc của HPNT ở báo TN như thế nào, mà làm sao đăng, bài trong nước?
Theo GCC, đâu cần đăng bài HPNT, vì đã được tóm tắt rồi, và ý nghĩa nó, cũng đã rõ ràng quá rồi.
GCC nghi là NMG không ưa HPNT, vì cái chuyện chôm mẹ cái tên của HPNT, đưa vô Mùa Biển Động.
Vụ này, ngay khi NMG còn sống, là Gấu đã cảnh cáo, phải nói 1 lời, với HPNT,
nếu không, khi ông chết là không làm sao rửa sạch cái án chôm chĩa này đâu.
Sau đó, ông nhận, có chôm 1 số sự kiện trong đời sống cá nhân của HPNT, nhưng cái tên Tường, do ông hư cấu!
Nhảm quá là nhảm.
"Nhà
văn nào nổi bật nhờ sự khác biệt của chế độ chính trị thì thường không
bền...".
Nguyễn Mộng
Giác
[trích bài
viết "Tản mạn", của Nguyễn Khắc Phê, trên talawas]
Note: Bài điểm sách trên Người Kinh Tế. Bài này thật tuyệt. Nó cho thấy 1 số điều, về kháng chiến Pháp, thời bị Nazi đô hộ.
Số này còn có bài ai điếu, một vật lý gia, được coi là 1 Newton của môn chơi thể thao tennis, cũng thật là tuyệt.
Bạn còn nhớ định luật vật lý, nếu 1 vật, không có lực nào tác động vô nó,
và nếu nó đứng yên, thì đứng yên hoài, và nếu nó chuyển động, thì chuyển
động hoài, vận tốc không đổi....
Howard Brody, Vật lý học về môn tennis
Những gì tôi ghi nhận về Trần Hạnh hoàn
toàn khớp với những đánh giá trích dẫn ở trên, nên xin phép không dài dòng.
Tiễn biệt Trần Hạnh, tôi chỉ xin kể lại một câu chuyện được anh tâm sự. Những
năm qua, tôi nhiều lần muốn viết, nhưng vẫn ngừng tay vì muốn đợi chính anh
viết ra. Nay anh đột nhiên ra đi, tôi xin vắn tắt kể lại. Cha anh là một
sĩ quan cấp tá Việt Nam cộng hoà, thuộc ngành quân pháp. Trần Hanh kể lại
năm 1972, khi anh sang Úc du học (học bổng Colombo), cha anh chỉ dặn một
câu : cố gắng học hành, không tham gia chính trị. Sau năm 1975, ông bị đưa
đi “học tập cải tạo”, tôi không nhớ bao nhiêu năm, chỉ mang máng khá lâu.
Khi ông trở về, cha con gặp nhạu, Hạnh hỏi ông ở tù ra sao, ông không chịu
kể, chỉ nói : “Bỏqua đi. Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn
tệ hơn”. Mấy năm sau, ông qua Mỹ theo diện HO. Hạnh kể lại cái tết đầu tiên,
họp mặt đầy đủ toàn thể gia đình ở California. Ông mang ra cái áo cũ, còn
thấy vết máu. Đó là cái áo của cụ thân sinh bị giết tết Mậu Thân ở Huế, mà
một người chú của Trần Hạnh đã gìn giữ cho con cháu dòng họ. Không một lời,
ông đã đốt cái áo ấy, như người ta đốt vàng mã trong ngày tết gia đình sum
họp tưởng nhớ tổ tiên. http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/tiec-thuong-tran-hanh-1954-2015
Note: Tên này, cũng 1 tên VC nằm vùng, được Ngụy cho đi du học, bợ đít VC,
viết về Trần Hạnh. Không chỉ bợ đít, mà còn làm Cớm chìm cho VC.
Cái sự đối xử tàn nhẫn của VC đối với Ngụy, ra sao, thì tất cả mọi người đều biết.
Cái câu mà ông bố của Trần Hạnh, nói với con, bây giờ cả hai đều đã chết, làm sao chứng tỏ, sự thực?
Mà tệ hơn, thì sẽ như thế nào?
Gấu đã nói rồi, lũ khốn kiếp này quá tởm!
Giả như, có thật, thì cũng không thể nào viết ra được nữa.
Đây là cái sự thực tối thiểu, phải nói là lương tri, của 1 người cầm viết.
Gấu chưa từng thấy 1 tên VC nằm vùng nào ra hồn cả, kinh thật!
Tởm thật!
V/v tệ hơn.
Trên TV, Gấu đã từng viết về cái tình cảnh này. Một tên Ngụy đi trình diện
cải tạo, ngớ người khi bị 1 tên Bắc Kít hỏi, giả như mi thắng chúng ông,
thì mi đối xử ra sao?
Đây là chuyện thật. Gấu cũng đi trình diện bữa đó, và nghe tên đó hỏi, 1 anh lính Ngụy. Anh ta ngớ người, đúng như thế.
Một câu hỏi như thế, là hàm ý trong nó, cái cực kỳ khốn nạn, chính cái đó
làm 1 tên Bắc Kít, như Nobel Toán, như SCN, hay như tên này, phịa ra
- hẳn là như thế - cái câu của ông bố của Trần Hạnh. Não của chúng, bị thiến
một mẩu, cái mẩu thiếu mà Đức Phật Sống đã từng nói, về bè lũ Bắc Kinh, tức
quan thầy của bè lũ Bắc Bộ Phủ.
Tên khốn này, óc cũng bị thiến mất một mẩu.
Tên khốn này, đệ tử của Cao Bồi, "bạn của Gấu".
Cao Bồi, đi không nổi, nắm tay vợ khóc, kíu anh với, oan hồn đòi mạng anh.
Tên này hẳn phải biết chuyện này, do chính lũ VC trong nước xì ra, để bôi
nhọ những tên đã từng theo chúng. Võ Tướng Quân cũng thế, tưởng không làm
sao đi nổi. Rồi hiện tại, thì là tên đao phủ Mậu Thân.
Một
câu nói như thế, một cái sự đốt áo cái con mẹ gì đó, theo Gấu, đều không
có. Đây là những trò chạy tội, của lũ bỏ chạy, trước thực trạng 1 đất nước
như bây giờ, trong có sự đóng góp của chúng.
Giống như trò khen thơ phản chiến của Nguyễn Bắc Sơn, hay, coi đây là thứ
thơ bi hài, hay thảo khấu “cái con mẹ gì đó”. Hai bố con, ở hai bên cuộc
chiến, rất có thể giết nhau, mà… hi hài?
Đó là thảm kịch chứ sao lại bi hài? Thơ của NBS theo Gấu cũng 1 thứ “Ways
of Escape”, tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, của anh.
Cả cõi thơ của anh, chỉ 1 giấc mộng, chết bèn biến thành mây bay. Một vị
thân hữu của TV hỏi Gấu, trong cuộc chiến, anh trốn nó, bằng đọc sách. Ra
hải ngoại, tại sao đọc? Cái đọc của Gấu bây giờ, khác hẳn trước đây, trước
là chạy trốn, bây giờ là chạy vô, cố giải ra được Cái Ác Bắt Kít, thì cứ
gọi đại như vậy.
Tên khốn này, “người của chúng ta ở Paris”, sống sót cuộc chiến nhờ bỏ chạy,
mà bỏ chạy được là nhờ Ngụy, chúng chủ trương, qua chính sách du học, giữ
người có tí học hành, để hết cuộc chiến trở về xây dựng đất nước. Cũng thế
là tên VC làm bồi Mẽo ở ổ VC ở Mẽo, NBC. Tên này, học dốt, đi du học nhờ
bỏ tiền ra mua cái bằng Tú Tài, hạng Bình, hay Bình Thứ, Gấu đoán vậy, thế
là suốt đời thù Ngụy, nhưng thôi, bỏ, mất thì giờ làm gì với lũ nhơ bửn này.
Kiệt Tấn nổi tiếng với chuyện ngắn. “Đưa Vợ Con Về Xứ”
là một đột xuất thơ. Bài thơ như có thần thơ đạp lung lay những ngả ngách
xúc động. Thơ tầm phào yêu nước một cách chịu chơi. Giá trị của bài thơ “Đưa
Vợ Con Về Xứ” là sự cảm tác lịch sử có nguồn rung lớn lay động nhiều tầng
hiện thực. Đó là thời điểm 1995. Việt Hải Ngoại vẫn còn đang kinh hoàng
chui qua những tầng địa ngục của sau Chiến Tranh Quốc Cọng, Tỵ Nạn Vượt Biên,
…. Việt lánh Việt. Lịch sử mở trang Người Việt Hải Ngoại. Thành công của
bài thơ là đã đưa “đời thường” Hải Ngoại Tỵ Nạn Chính Trị vào những vắt giòng
thơ một cách phong phú chất liệu và hoàn hảo sáng tạo. Đưa Vợ Con Về Xứ
là một hiện thực tuyệt vời của trạng thái sống giữa đời. Đọc bài thơ ta
như nằm len giữa đời hiện thực có sự truy lùng sâu thẳm và vĩ đại của người-hỏi-người
trong vòng quay ám sát của lịch sử. Ngậm một cục quế hương, đọc là cảm được
ngay chất bi đát thơ mộng của đời sống trong da thịt mình, trong lịch sử
mình ở vòng thứ nhất: Đẹp và đau. Chưa cần nhờ vả đến văn chương đặng biến
một câu chuyện nào đó lên thành “những vần thơ” cho ta sống thăng ở vòng
hai: Hay và tưởng.
Lê Thị Huệ
Note: Kiệt Tấn nổi tiếng như nhà thơ, với tập thơ mở ra đời viết của anh, là “Điệp Khúc Tình Yêu và Trái Phá”, Sáng Tạo in.
Ra hải ngoại, anh mới bắt đầu viết truyện ngắn, truyện dài.
Bài thơ này, theo Gấu, nói lên cái tình cảm rất chung, của tất cả Miền Nam,
nhất là những người gốc Miền Nam, như Kiệt Tấn. Chất thơ, đặc Nam Kít.
Cái gì gì “ở vòng hai”, theo Gấu nó đơn giản là như vậy.
Gấu Cái chê Gấu, mi viết văn cực quá, khác hẳn ta. Và cấm Gấu, không được sửa văn của Bả, mà chỉ được sửa lỗi chính tả!
Nhớ, không chắc chắn lắm, về chi tiết, sự kiện, nghe được qua kể lại, trong
bữa tiệc chào mừng tập thơ, anh bị 1 tên Bắc Kít di cư [GCC biết là ai, nhưng
không tiện nêu tên], say rồi, khều nhẹ, Nam Kít mà cũng bày đặt viết văn,
làm thơ!
[Không nhớ rõ, là tên Bắc Kít di cư, phán, về anh, hay là về Phan Tùng Mai, cũng 1 ông Nam Kít]
Gấu quen anh, ngay sau khi xẩy ra sự kiện này. Có kể trong bài viết về anh.
Tôi
đọc văn Kiệt Tấn, mới đây thôi [1997], nhưng quen anh đã lâu và
còn giữ được một kỷ niệm về anh.
Thôi thì mình cứ nhớ giùm anh vậy, có lần tôi đã tự nhủ.
Lần đó mới quen. Sáng Tạo vừa in tập thơ Điệp Khúc Tình Yêu
và Trái Phá của anh. Nhưng chuyện đó không liên quan gì tới lần gặp gỡ.
Hai đứa
hình như cũng đã nhậu ở đâu rồi, sau đó lại ghé quán, chủ yếu là để
"tranh
luận" tiếp. Cứ lôi mấy ông Tây ra làm chứng. Trước khi ra về, Kiệt ra
phía
sau. Khi trở lại bàn, anh nói nhỏ, tụi mình đi cửa hậu, tôi ra trước
lấy xe.
Trên đường về Kiệt nói, mấy ổng lính ngồi bàn kế nghe tụi
mình tranh luận hăng quá, lâu lâu lại xổ tiếng Tây, mấy ổng nóng, chờ
sẵn ở
phía trước.Cũng may nhờ bà chủ quán tội
nghiệp, và có khi sợ rắc rối. Cỡ tui và anh, mấy ổng chỉ để nhẹ một
cái...
*
[Lần gặp lại ở Paris, bà xã anh cho biết, đó là khu nhà Kiệt
Tấn. Bữa đó, có người ở quán chạy vô nhà báo cho biết. Ông anh Lê Tấn
Lộc chạy
ra. Lộc sau có kể lại chuyện này trên tờ Văn.
Và cái vụ xổ tiếng Tây, tranh luận đến tí nữa bị làm thịt,
liên quan tới tiểu thuyết mới, như bài viết của Lộc cho biết]
*
"Tui đoán chừng trận vừa rồi mình bị
lọt ổ phục kích là
tại thằng này đưa tin cho địch đây".
"Thằng này nó câm đồng chí à!"
"Gì chớ gặp tay tui khỉ cũng phải biết
nói huống hồ người
ta. Đồng chí khỏi lo."
Kiệt Tấn: Lời Khai.
Làm sao nhớ, một kỷ niệm quá nhỏ, về
một lần suýt ăn đòn,
sau khi viết giùm lời khai cho Bẩy Câm?
*
Cuộc trấn nước bắt đầu...
*
"Nghệ thuật... có
thể, bằng một cách
thức nhỏ nhoi nào
đó, cố gắng sửa chữa một vài chi tiết "sai sót, lầm lạc" của ông
"Thợ Trời", về hình ảnh từ đó con người được tạo ra."
Nhà văn gốc Ấn
độ, Salman Rusdhie đã thèm
được như Isaac Bashevis
Singer, trong một bài viết của ông, trong "Quê Hương
Tưởng
Tượng".
Thượng Đế mà "sai sót, lầm lạc"?
Phỉ báng đến thế mà chẳng hề hấn
gì cả!
Đọc "Lời Khai" của Kiệt Tấn [ trong
tập
truyện Nghe
Mưa ], tôi không hiểu, những lầm lạc của Thợ Trời, là nói về con
người
vừa câm
vừa điếc, hay là về những đồng chí du kích?
Trong hai hình ảnh đó, hình
ảnh nào
cần phải sửa chữa?
Cái tay DBA này, Gấu nhớ ra rồi,
có thời làm trang eVăn, Gấu có cộng tác, dù không được mời, nhưng vì, cũng
có tí biết 1 tay trong BBT, là Trần Tiễn Cao Đăng, cũng không quen, nhưng
cùng viết cho tờ VHNT trên lưới của Phạm Chi Lan. Đấng này, có lần Gấu gửi
bài, sửa một số chỗ dịch sai, rồi cũng đè bài viết ra, dán cho nó cái nhãn
“hiệu đính”. Gấu cũng cám ơn đàng hoàng.
Nhưng nay viết ra ở đây, để cho thấy “tinh thần” của Bắc Kít, so với của Nam Kít.
Nam Kít, thực sự rất quí từ “hiệu đính”. Gấu đã nói rồi, và chỉ dùng nó,
khi chính người được hiệu đính yêu cầu, như 1 vinh dự cho cả hai.
Ngoài ra, không ai thích cái trò đè bài người ra, để mà “hãm hiếp” như vậy.
Bắc Kít có vẻ rất thích, theo kiểu ngược lại, cái từ hiệu đính này!
Gấu đã từng làm rất nhiều lần, cái việc hiệu đính, khi phụ trách 1 trang
viết, một mục đọc, trên 1 tạp chí văn học ở Sài Gòn, “thời của Gấu”, và cũng
đã kể những lần hàm ơn, mắc oán vì nó. Một tên, Gấu mất công hiệu đính bài
viết, do ông anh nhà thơ ra lệnh, không được hắn cám ơn, mà chỉ gây thêm
thú oán, sau trút hận thù, giận dữ, qua cái danh sách nhà văn phản động,
đồi trụy, Gấu đã từng lèm bèm hơn 1 lần. Tuy nhiên về già, nhìn lại mới hiểu
ra, có ý Trời ở trỏng. Nếu Gấu không hiệu đính bài của Nguyễn Mai, thì chắc
chắn chết ở trại tù Đỗ Hòa của VC rồi.
Nhớ thời gian mặt dày viết cho những diễn đàn Bắc Kít,
bây giờ nhìn lại, nhận ra 1 sự thực, chúng không hề mừng rỡ, khi có ai cộng
tác, mà có vẻ như rất hài lòng, về cái chuyện, chúng đăng bài họ, như một
cái ơn nhớn!
Thời gian viết cho talawas, bị 1 lũ xúm lại đấm đá, Gấu thực sự ngạc nhiên, khi Sến rất thích thú chuyện này!
Sến rất bực, khi Gấu không trả lời, và có lần chê Gấu, anh già rồi ư, sao
không chịu đích thân trả lời, mà lại để cho độc giả talawas ái ngại, lên
tiếng bênh vực?
Ui chao, vậy mà Gấu bị mấy vị thân hữu của TV la hoài, đề nghị dẹp mục Dọn!
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo London (TLS), số ngày 15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích: Đăng lại bản dịch trên e_Văn. Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm một số sai sót.
NQT
Bắc Kít chưa từng biết đến tự do nghĩa là gì?
Đây là 1 sự thực lịch sử của cả 1 miền đất. Suốt thời phong kiến, không, tới những thời sau, lại càng không.
Cái sự lưu vong của Bắc Kít, là do cái đói, cái thèm tự do thôi thúc, phải
bứt phá ra khỏi luỹ tre làng. Cuộc Nam Tiến, đơn giản, có thể hiểu theo cách
này.
Nam Tiến có nghĩa lịch sử, là… lưu vong.
VC đem đến cho Bắc Kít lý tưởng, thống nhất đất nước, là có tất cả. Bởi thế
mà Gấu dám phán, dân Mít, tức Bắc Kít, được ông Trời cho có mặt ở trên cõi
đời này, để thực hiện cuộc chiến Mít vừa qua. Chỉ đến lúc thắng cuộc chiến,
thì Cái Ác Bắc Kít mới lộ diện, cái lý tưởng chỉ là “cái cớ”, mặt nổi, để
đẩy Bắc Kít nhỏ máu ngón tay, viết đơn, tình nguyện vô Nam chiến đấu. Nhưng,
để thắng cuộc chiến, Bắc Kít phải mời anh Tẫu vô đến tận giường ngủ của chúng,
nhục như thế, làm sao còn lý tưởng gì nữa!
Cái chuyện ông Hồ cực kỳ lưu manh, lưu manh mạt hạng, Gấu biết được là nhờ
đọc Hồ Sơ Đệ Tứ, cuốn sách được ông bạn Vũ Huy Quang cho, lần tới San Jose,
tham quan Cầu Vàng, khi tá túc nhà 1 bà bạn cùng học với Gấu Cái, từ thời
tiểu học, cũng dân Cai Lậy.
Hồ Sơ Đệ Tứ, phần điểm cuốn Giọt Nước Mắt Trong Biển Cả, của Hoàng Văn Hoan,
có vài chi tiết thú vị về Hồ Chí Minh.Thí dụ như, [Hoàng Văn Hoan] được giao
trách nhiệm thảo một bức thư gửi nhà cầm quyền Trung Quốc... HVH đưa bản
nháp cho Hồ Chí Minh duyệt. "Bác Hồ" bôi xóa vài chữ và thêm vào vài chữ
khác. HVH lấy làm lạ, vì như vậy, nội dung thư không thay đổi, nhưng văn
pháp thì sai. "Bác Hồ" mới trả lời ông rằng:
"Chú chỉ biết viết thư là viết thư, chứ chưa biết chính trị... Người Việt
Nam ở những nơi xa xôi hẻo lánh viết chữ Trung Quốc làm sao đúng văn phạm
được? Viết như vậy, họ mới tin là do anh em viết.."HVH kết luận: "Việc tuy
nhỏ nhưng đối với tôi, là một bài học rất sâu sắc về công tác quần chúng
và công tác thực tế."
Chi tiết Bác Hồ bị cướp, đọc trên talawas, trích HVH.
NKTV
Cái cú xóa thư, Bác Hồ thuổng Tào Tháo, và, Gấu nghi, sư phụ của Bác, là Tào Tháo.
Đại Lưu Manh, Đại Gian Hùng.
Nhưng, vẫn theo Gấu, Bác
Hồ không làm sao với tới cái “status” [thế giá vương giả], của Tào Tháo,
thí dụ, trong cách đối xử với những người thực sự có tài, như TT đối xử với
Quan Công.
HCM, gặp kẻ hơn mình, là tìm cách thịt, hoặc gài bẫy, vu cho đủ
thứ tội, y chang đám đệ tử bây giờ.
Thành ra, cái chuyện HCM tố cáo những nhà cách mạng lớp trước ông, với Cớm Tẩy, chắc… có!
Cái câu trồng người, Bác cũng thuổng, Quản Trọng, như trong 1 bài viết trên Việt Báo cho biết.
Đúng là vua ăn cắp!
Tuyên ngôn Độc Lập, ăn cắp Mẽo. Trồng người, Quản Trọng. Xóa thư, Tào Tháo.
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Đó là
câu của chiến lược gia Tàu Quản Trọng. Ô. Hồ chí Minh ăn cắp xài, CSVN
khoái chí tử nên khoe là tư tưởng Hồ chí Minh.
Note: Bài điểm sách trên Người Kinh Tế. Bài này thật tuyệt. Nó cho thấy 1 số điều, về kháng chiến Pháp, thời bị Nazi đô hộ.
Số này còn có bài ai điếu, một vật lý gia, được coi là 1 Newton của môn chơi thể thao tennis, cũng thật là tuyệt.
Bạn còn nhớ định luật vật lý, nếu 1 vật, không có lực nào tác động vô nó,
và nếu nó đứng yên, thì đứng yên hoài, và nếu nó chuyển động, thì chuyển
động hoài, vận tốc không đổi....
Howard Brody, Vật lý học về môn tennis
Mới thấy status này của ông Trịnh Lữ viết kèm theo link dẫn bài phỏng vấn của vua Bảo Đại:
"Sự chính danh của chính thể dân chủ cộng hòa ra đời cách đây 70 năm
thoát thai từ cử chỉ thoái vị rất đường hoàng và khoáng đạt của vị vua
cuối cùng của đất nước này. Chắc chỉ có Hồ Chí Minh mới hiểu hết nhân
cách của người này. Và họ mới hiểu nhau thật sự, như hai bậc vương giả
biết rõ thời thế của mình."
Lời bình của tôi:
1/ Dĩ nhiên ông Hồ hiểu rõ nhân cách của vua Bảo Đại nên mới lừa được Bảo Đại, cũng như đã lừa vô số những trí thức khác.
2/ Đây không phải là quan hệ giữa hai bậc vương giả, mà là giữa một bâc vương giả và một tiện dân.
3/ Trí thức Bắc Hà nói gì thì nói rốt cuộc vẫn tôn sùng ông Hồ, ông
Giáp. Và điều này khiến tôi hoàn toàn tuyệt vọng về tương lai
Note: Đây là vấn đề mà Gấu đang tính viết, nhân 1 vị order 1 số bài viết về Cái Ác Bắc Kít.
Có thể, nó liên quan đến vấn đề, tại sao thằng Tẩy coi Miền Nam, tự trị mà
Bắc Kít, bảo hộ. Lịch sử Bắc Kít, mấy ngàn đời không biết đến cái gọi tự
do, về bất cứ tự do gì.
Chế độ Ngụy, sở dĩ bảnh như thế, là do nó được “garantir”, bằng 1 cái nền Miền Nam [mentality, the Deep South…]....
HCM... vương giả?
Tên TL này khùng rồi!
Bợ đít VC mà đến cỡ “bửn” như thế này ư?
Khi Gấu phán, Bác Hồ là tên lưu manh mạt hạng - bởi là vì là tên học Toán - là phải có chứng cớ.
Trên TV chưa từng phán nhảm về bất cứ một ai.
Và hơn thế, do rất rành về Toán, có thể, mà còn hiểu ra được những câu phán
nhảm nhí, về Bác, ngay cả của 1 tên, suốt đời sống dưới bóng của Bác, không
phải chỉ anh ta, mà cả hai cha con, như VTH.
Khi Thầy Kuốc, thí dụ, phán, tớ đếch cần biết Bác có mấy vợ, là đếch biết
1 tí chó gì Bác, và cái hệ thống, chủ nghĩa… cái con mẹ gì đó, dựng lên 1
nhân vật như Bác.
Bác không thể có vợ được. Có vợ, là biến thành người thường rồi. Bác là Thần,
là Thánh, là Thiên Sứ… Ông Trời cho xuống để kíu dân Mít mà làm sao có vợ
được?
Cũng thế, khi tên VHT trách Bác, để cho đệ tử, Trùm Kớm VC, hãm hiếp vợ, là quá khốn nạn, theo Gấu, đếch phải như thế.
Bác Hồ có khi còn ra lệnh cho thủ hạ làm cú này, theo Gấu.
Bởi là vì bà vợ cứ bắt Bác phải công khai hóa mối tình của đôi ta!
V/v Bác Hồ là Thần. Dân Việt ở Thái Lan, lần Gấu vượt sông Mekong qua,
tá túc tại một cộng đồng người Việt, nhà nào cũng có hình Bác, và thờ như
Thần, như Thánh, và đều coi Bác được Trời phái xuống để cứu dân Mít.
Cũng thế, là với tướng Giáp.
Nhận xét về họ, như về 1 nhân vật “đời thường” là không hiểu cái mentality của Bắc Kít và Trung Kít.
Bắc Kít chưa từng biết đến tự do nghĩa là gì?
Đây là 1 sự thực lịch sử của cả 1 miền đất. Suốt thời phong kiến, không, tới những thời sau, lại càng không.
Cái sự lưu vong của Bắc Kít, là do cái đói, cái thèm tự do thôi thúc, phải
bứt phá ra khỏi luỹ tre làng. Cuộc Nam Tiến, đơn giản, có thể hiểu theo cách
này.
Nam Tiến có nghĩa lịch sử, là… lưu vong.
VC đem đến cho Bắc Kít lý tưởng, thống nhất đất nước, là có tất cả. Bởi thế
mà Gấu dám phán, dân Mít, tức Bắc Kít, được ông Trời cho có mặt ở trên cõi
đời này, để thực hiện cuộc chiến Mít vừa qua. Chỉ đến lúc thắng cuộc chiến,
thì Cái Ác Bắc Kít mới lộ diện, cái lý tưởng chỉ là “cái cớ”, mặt nổi, để
đẩy Bắc Kít nhỏ máu ngón tay, viết đơn, tình nguyện vô Nam chiến đấu. Nhưng,
để thắng cuộc chiến, Bắc Kít phải mời anh Tẫu vô đến tận giường ngủ của chúng,
nhục như thế, làm sao còn lý tưởng gì nữa!
Giải thưởng Goncourt 1997 của Pháp về tay một nhà văn chuyên môn “bắt chước”
người khác: Marguerite Duraille, tức Patrick Rambaud. Marguerite Duraille,
là từ Marguerite Duras, một nhà văn nữ nổi tiếng của Pháp. Tác phẩm của ông
vua ăn trộm này cũng từ Duras: Mururoa mon amour (Hiroshima mon amour). Chúng
ta tự hỏi, chuyện “mô phỏng” trong văn chương, là do quá say mê thần tượng,
hay là do thiếu khả năng sáng tạo. Dù thế nào, thì đây cũng là một dòng văn...
Note:
Đọc 1 stt, trên FB một thân hữu, thì biết tin ông này qua đời. Đọc bài viết,
thì có vẻ như là 1 tên Ngụy, vì cái phần học vấn cho thấy, rồi đọc cái phát
biểu 1 tên nhà báo ở trong nước…
“Trần
Hạnh giỏi, nhiệt huyết, có nghề và là người Việt đầu tiên làm Trưởng ban
Việt ngữ Đài BBC. Qua nói chuyện tôi biết Hạnh là nhà báo rất có tâm với
Việt Nam.”
Không thấy 1 tên Ngụy nào lên tiếng cả, tếu thế!
Đây
là cái kiểu viết lách, loan tin... của 1 lũ “bồi”, Hồng Mao, đầu óc chúng hư mẹ mất rồi,
không có 1 chút công tâm nào khi viết, khi loan tin.
Gấu nhớ là, có đọc đâu đó, 1 cái nhận xét, cũng 1 hình ảnh, mà nếu nó được
đăng trên báo Ngụy, thí dụ, thì ý nghĩa khác, nếu nó được báo VC đăng, ý
nghĩa khác, dù không có lời bàn Mao Tôn Cương, gì hết.
Như
vậy, là me-xừ Trần Hạnh này, cũng gốc Ngụy, bị Bi Bi Xèo cho về vườn, thay
bằng 1 lũ vô học, không biết 1 chút ứng xử có tí văn minh - thí dụ như, len
lét sửa lỗi, do dốt nát, viết sai, không hề cám ơn độc giả chỉ cho thấy?
In the Belgian city of Bruges a few hundred years ago, a nine-year-old chorister
who had sung a wrong note in a mass that was being performed before the entire
royal court in the Bruges cathedral is said to have been beheaded. It seems
that the queen had fainted as a result of the wrong note sung by the chorister
and had remained unconscious until her death. The king is supposed to have
sworn an oath that, if the queen did not come round, he would have not only
the guilty chorister but all the choristers in Bruges beheaded, which he
did after the queen had not come to and had died. For centuries no sung masses
were to be heard in Bruges.
Nốt nhạc sai
Ở thành phố Bruges, Bỉ, vài trăm năm trước đây, một bé gái
9 tuổi, trong giàn thánh ca nhà thờ, trong một thánh lễ, trước hoàng
gia, đã bị chặt đầu, do hát sai một nốt nhạc.
Nốt nhạc sai của cô bé khiến
hoàng hậu giật mình, rồi hôn mê, rồi chết.
Theo kể lại, vị hoàng đế thề rằng, nếu hoàng hậu không tỉnh lại, thì, không
chỉ cô bé gái, mà tất cả giàn thánh ca đều bị chặt đầu, và chuyện đã xẩy
ra đúng như thế.
Bởi thế mà hàng thế kỷ sau đó, thành phố này không có thánh
ca.
Whatever
Happened
Whatever
happened had already happened.
Four tons of
death lie on the grass
and dry
tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever
happened will stay with us
and with us
will grow and diminish. But we must
live,
the rusting
chestnut tells us.
We must
live,
the locust
sings.
We must
live,
the hangman
whispers.
Adam
Zagajewski
Bất Cứ Cái
Chó Gì Xẩy Ra
Bất cứ cái
chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người
chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người
chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt
nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện
Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc
lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy
ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với
chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi.
Nhưng chúng
ta phải sống,
[Thằng Còi,
Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ
sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải
sống,
con châu chấu
hát.
Chúng ta phải
sống,
HPNT thì thầm
bên tai Gấu.
Mấy hôm anh Tường cứ đòi ra Huế chơi, cái Líp con gái anh
bận lắm nhưng vẫn cố sắp xếp đưa ba mạ ra Huế. Ra Huế được ba ngày, thăm
bạn bè đầy đủ xong đột nhiên anh đổ bệnh thập tử nhất sinh. Sự sống tính
từng giờ. Cái Líp khóc quá, nó làm bài thơ:" Xin ba vài năm nữa" rất cảm
động, anh Tô Nhuận Vĩ nói ai đọc bài thơ cũng ứa nước mắt. Có lẽ anh Tường
cảm động quá nên làm theo ý con. Từ sáng nay anh đã khá lên phần nào, tuy
vẫn nằm thở ô xy.
P/S: Anh Tường đang ốm đau, kẻ nào chĩa mồm vào đây biêu riếu anh ấy sẽ bị coi là quân mất dạy và sẽ bị chặn ngay lập tức.
*****
Sợ lâu lắm mới đi được.
Cầu được như Võ Tướng Quân!
GCC
« Ce n'était pas seulement le temps de l'horreur, c'était aussi le temps du lyrisme! Le poète régnait avec le bourreau ".
Nguyễn Đức Tùng:
Ngày ấy tôi thường hay đến đây Đăm đăm soi mặt nước hồ đầy Khói sương nhả tự trên trời xuống Chỉ một mình tôi với bóng cây
Mặc dù bút ký và tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường là thành tựu lớn nhất
của anh, tôi nghĩ sau này nhiều thứ có thể qua đi, nhưng thơ anh, vài
bài hay nhất, sẽ còn đứng mãi với thời gian.
Đâu chỉ là thời của ghê rợn, của CCRD, của Đấu Tố, của Nhân Văn Giai Phẩm,
mà còn là thời của thơ ca trữ tình, Mặt Trời Chân Lý Chói Qua Tim, Đường
Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm.
Tên HPNT này, tởm hơn Văn Cao.
Văn Cao, viết “Tại Sao Tôi Viết Tiến Quân Ca”, như 1 lời sám hối, và sau TQC, bặt tiếng luôn.
Đọc báo thấy tin hắn sắp ngỏm.
Cũng, vừa thi sĩ vừa đao phủ. Chắc là vì thế mà nhà thơ hải ngoại NDT phải đi vội 1 bài ai điếu, trên Da Màu.
Tên HPNT này, ngay cả khi cùng đồng bọn nằm vùng biểu tình
chống đối Ngụy, vẫn được Ngụy coi là người; chứng cớ, hãy coi những bức hình
do chính chúng khoe khoang, sau 1975, trong khi, vợ chồng chúng ra Bắc, bị coi như chó; chứng cớ, hãy đọc bài viết của Nhật Tuấn.
Đọc bài trả lời phỏng vấn do tên thi sĩ dởm hải ngoại thực hiện, mới hỡi ơi,
hắn vẫn tin vào 1 thứ giải pháp hòa hợp hòa giải dân tộc! Làm sao mà có cho
được, khi lũ VC thực chất là 1 băng cướp, chúng có bao giờ hoà giải với ai
đâu, ngay từ 1945 cho tới bây giờ. Bất cứ ai chống chúng, là chúng thịt sạch.
Những tên như Bọ Lập cúc cung theo chúng, chúng đâu tha?
Hồi năm
1978, ông bạn họa sĩ Trịnh Tú, lúc đó là thư ký bác sĩ Tôn Thất Tùng,
GĐ bệnh
viện Phủ Doãn một hôm rủ tôi :
“ Tới thăm vợ
chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường đi !”
Tôi ngần ngại
:
“ Có việc gì
cần không ? Nếu không thì ngồi quán bà Dậu làm chén rượu chẳng hơn à ?’
Hồi đó tôi ở
phố Ấu Triệu sát ngay bệnh viện Phủ Doãn nên Trịnh Tú thưởng lẻn sang
rủ tôi uống
rượu ở quán bà Dậu ngay đầu phố tôi. Nguyên là ông bạn vàng này mới nhờ
tôi đưa
bồ hắn từ Sàigòn ra đi thăm nuôi chồng vốn là sĩ quan quân đội cộng hòa
đang cải
tạo mãi tại vùng rừng núi heo hút Thanh Hóa. Vì không phải thân nhân
nên tôi
không được vào trại, phải ngủ rừng một đêm muỗi cắn gần chết. Sợ ông
bạn lại
“sai” việc nữa, tôi giao hẹn trước :
“ Tới chơi
thôi, còn có việc thì thôi nhé !”
Trịnh Tú cười
cười :
“ Tới giúp
bà Mỹ Dạ, vợ ông Tường đi khám bệnh…”
Tôi gật gật:
“ Vậy thì được…”
Tôi tưởng vợ
chồng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phải ở một căn hộ nào đó ở khu hồ
Tây hoặc
khu nghỉ dưỡng Quảng Bá, không ngờ Trịnh Tú đưa tôi lên đường đê La
Thành vào trường
viết văn Nguyễn Du tới một căn buồng mái tranh, vách đất, trống huếch
trống
hoác, giữa nhà trải chiếc chiếu, một người đàn ông gày guộc, ngồi xệp,
hai đầu
gối quá tai. Chắc đã hẹn trước, nhà văn vồn vã mời ngồi, còn chị vợ- nhà thơ Lâm thị Mỹ Dạ thì xin phép vào bếp
rang…lạc đãi khách. Trịnh Tú vội xua tay :
“ Thôi
thôi…tôi tới coi sức khỏe chị sao ? Liệu có giúp được gì rồi phảivề ngay…”
Trong lúc Trịnh
Tú hỏi chuyện chị vợ thì tôi ngắm nhà văn. Ôi chao ôi, người đàn ông
gày gò, ốm
đói kìa lại là người viết ra bút ký “ Rất nhiều ánh lửa “đăng trang
nhất báo
Văn Nghệ ư ? Điều kiện sống tối tăm và ẩm thấp thế này ông lấy đâu ra
lửa ?
Trên đường về
tôi la oai oái. Thật không thể tưởng tượng được, một “nhà văn viết bút
ký hay
nhất của văn học ta hiện nay” ( Nguyên Ngọc), hồi Tổng tấn công Tết Mậu
Thân
1968 ở Huế là tổng thư ký Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và
Hoà bình
Thành phố Huế, soạn “Lời hiệu triệu” kêu gọi quần chúng nổi dậy, thu
băng phát
đi khắp các nẻo đường, phố phường Huế Tết Mậu Thân, có thành tich lớn
trong
phong trào “diệt ác, trừ gian”, theo đồn đại đã từng ngồi ghế Chủ tọa
Tòa án
Nhân dân tại trường Gia Hội. Năm 1972 được điều ra làm Trưởng ty Văn
hoá tỉnh
Quảng Trị ở Đông Hà(vùng mới giải phóng
của Mặt trận Giải phóng), 17 năm kiên trì làm “đối tượng Đảng” rồi được
kết nạp…
Một người đã
bỏ đô thị “lên xanh” theo cách mạng với thành tích lớn thế sao ra Bắc
lại bị
“đãi ngộ” nghèo nàn đến vậy.
Ra khỏi nhà
Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi lo lắng hỏi bệnh tật chị Mỹ Dạ, Trịnh Tú gạt
đí :
“Bệnh tật gì
đâu…bệnh thiếu… protide ấy mà… ăn uống thiếu thốn, kham khổ nên sinh
bệnh thế
thôi.”
Tôi nổi cáu
:
“Một cặp
nhà văn –nhà thơ có nhiều đóng góp cho cách mạng sao giờ lại đối xử
vậy?”
Trịnh Tú cười
hề hề :
“Cậu đi hỏi
mấy ông trên, sao hỏi tớ? Thôi, ghé quán bà Dậu làm chén “cuốc lủi”,
mặc mẹ sự
đời .”
Sau này vợ
chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường rời Hà Nội trở về Huế và nghe nói được “đãi
ngộ” khá
hơn. Ở Đại hội Nhà văn lần thứ V (1995), văn phòng Tổng Bí thư Đỗ Mười
đưa xe đến
mời nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tới gặp riêng Tổng bí thư. Dịp Tết Ất
Dậu, ông
Đinh La Thăng, giờ là Bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tảinổi tiếng vụ “trảm tướng” sân bay Đà Nẵng,
đòi đánh thuế cả xe máy dân nghèo, lúc đó là Phó bí thư thường trực
Tỉnh ủy đến
tận nhà, tặng vợ chồng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường một dàn máy tính
xịn.
Năm
1980-1981, được Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam với tập “Rất
nhiều ánh
lửa” (1979).
Năm 2007, đượcGiải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật,
cùng đợt với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Ông từng làm
Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương và Tạp chí Cửa Việt.
Tháng
7-1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường sang thăm Paris. Khi được bà Thụy Khuê
(RFI) hỏi :
“Nhìn từ
phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã
xẩy ra
trong một trình tự như thế nào"
Ông đã trả lời
:
“Điều quan
trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của
Huế, đã ra
đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về
những tang
tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành
động giết
oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm
không thể
nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm
chiến
tranh cách mạng…”
Phải chăng
vì những oan hồn đó, sau này trên giường bệnh, ông làm những câu thơ
đậm chất
“tâm linh” :
Những chiều
Bến Ngự dâng mưa
Chừng như ai
đó mơ hồ gọi tôi
Tôi ra mở cửa
đón người
Chỉ nghe tiếng
gió thổi ngoài hành lang.
Hoặc :
“Nợ người một khối u sầu Tìm
người tôi trả ngày sau luân hồi ……”
Cũng trên
giường bệnh, trả lời nhà báo, Hoàng Phủ Ngọc Tường thành thực :
“Nhà văn phải
nói lên sự thật…”
Quá đúng, với
ông, có lẽ trước hết là sự thật về cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm Mậu
Thân ở
Huế.
Nhà thơ Xuân
Sách có lẽ hiểu khá thấu đáo Hoàng Phủ Ngọc Tường nên đã hạ bút :
“Trăm năm
ông phủ... Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên
xanh giũ sạch rồi
Cửa Việt
tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng
lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi Thành
Cổ buồn nao dạ
Chuyện mới
Đông Hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn
xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông
phủ... Ngọc Tường ơi!”
(còn tiếp)
V/v Dọn, bới
rác này, sự thực, Gấu muốn noi gương Walter Benjamin, khi ông đề nghị
viết lại
lịch sử, từ đáy của nó, từ những rác rưới, tủi nhục thay vì từ đỉnh cao
chói lọi.
Ông này có hai tham vọng, một, như trên, và một, viết một đại tác phẩm,
chỉ bằng
những trích dẫn.
Tin Văn đúng là cái tác phẩm mà Walter Benjamin muốn thực hiện!
Bởi thế, nó mới có tên là Tin Văn, nghĩa là toàn đồ của người, của lũ
mũi lõ. Gấu
không hề có ước muốn viết ra cái mới, cái còn trinh, cái của mình
[“của” nhe!],
mà chỉ đi chôm cái cũ của thiên hạ, làm cái mới của xứ Mít.
Mấy vị độc
giả không hiểu ý của Gấu, nghĩ thằng này chỉ muốn bới kít ra để ngửi!
Giải thưởng
Nobel, những năm gần đây, là đúng theo tinh thần của Walter Benjamin,
phát cho
thứ lịch sử viết từ đáy, lịch sử 1 cá nhân chống lại lịch sử nhân loại,
tác phẩm
của những tác giả sám hối Lò Thiêu.
Những
cái vụ nhắm vô Gấu, xẩy ra lâu rồi. Chỉ đến khi rảnh rang, Gấu mới nhìn
lại, và
viết về chúng, theo tinh thần trên. Bởi vì, Gấu nghĩ, chỉ có cách đó,
mới đổi mới văn học Mít.
Nhưng thôi, lỡ hứa rồi.
Nhất quyết bỏ Rác, không lượm nữa! (1)
Hà, hà!
Vụ Khờ Me Đỏ
thì cũng đã 30 năm rồi, vẫn phải bới ra, như… cái mới, cái còn trinh!
(1)
Vị độc giả
mail, chê Gấu “hiểu lầm”, “đọc không ra” cái mail; “tui” nói ông đừng
viết ba
cái lẻ tẻ, Thầy Cuốc, Thầy Kiếc… viết
như thế là coi thường... tui!
Hà, hà!
Đa tạ. Xin lãnh
ý!
NQT
Sau 30 Tháng Tư 1975,
bà chị ruột, thằng em trai ruột, còn ở lại Miền Bắc, không vô thăm Gấu và
bà cụ Gấu, vì nghe tin từ những người bà con đã từng vô Nam, cho biết, nghèo
lắm, lại ghiền nữa.
Phải đến khi ra được hải ngoại, khi có phương tiện, Gấu mới trở lại Đất
Bắc, vì vài chuyện gia đình, như hỏi coi bố chết ra sao, chết ngày nào…
Và
mới biết chuyện, tuy bị thằng học trò, 1 ông Trùm VNQDD, sát hại, nhưng mấy
đứa con không được coi là con liệt sĩ.
Ông cụ Gấu không chịu theo Việt Minh, dù cả họ theo, và chỉ được coi là cảm tình viên của Đảng!
Hóa ra ông cụ muốn tránh cho con cái, cái nhục, là con 1 tên Vẹm!
Hẳn là ông cụ đã từng chứng kiến Vẹm thủ tiêu một người nào đó!
Như vậy,
"technically", việc cụ Diệm và cụ Nhu không muốn để người Mỹ tham dự
vào chiến trường và chính trường Miền Nam là một thất sách, thua thiệt
hay một
điều đáng ca ngợi, ủng hộ?
Note: Một vị
độc giả, rất thân với trang TV, mail hỏi mấy câu, liên
quan tới bài viết trên. GCC xin được tuần tự trả lời:
Ông Diệm với
ông Nhu, do chưa từng có kinh nghiệm làm bồi Mẽo, vả chăng, chắc cũng
chưa từng
đọc “Người Mẽo Trầm Lặng” của Graham Greene, nên không làm sao hiểu
được ý
đồ của tụi
Mẽo.
Mẽo không hề
có 1 ý đồ nào xấu cả, trong cái việc dính dáng vào Việt Nam cũng như
nhiều nơi
khác trên thế giới.
Chúng tới đâu, là cũng do thiện ý mà tới, thế mới
khổ.
Bạn
đọc TV có thể đọc thêm. bài viết về Huế, dưới đây, của Somerset Maugham,
cho thấy thái độ, của Tẩy mũi lõ, so với Yankee mũi lõ. Một bên, có thể coi
lũ cô lô nhần là bạn, được, còn 1 bên, chỉ coi như… bồi. Gấu có viết về
hai thái độ này, trong bài viết làm quen talawas, Dịch Là Cướp, Sến đọc,
mê quá, nói, chưa từng thấy ai viết tếu như anh!
Note: Bài viết Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân, Gấu viết, theo order của bạn
quí NXH, khi đó làm Tổng Thư Ký tờ Nguời Việt của bộ lạc Cờ Lăng, cho số
báo Xuân của nó, nhưng, có thể, do “ông số 2” can thiệp vào phút chót, nên
không xuất hiện trong số báo, mà, nghe nói, có, trong số Tân Xuân.
Sau đó, Gấu gửi cho Phạm Chi Lan, khi đó làm trang VHNT trên lưới, cô lắc
đầu, nói cho bài khác, như mail trả lời, đây là 1 nhân vật “controversial”
- chữ của PCL - không lẽ anh muốn cái duyên văn giữa anh và chúng tôi bị
xui xẻo… nhớ đại khái. Sau đó, khi làm trang Tin Văn, Gấu có viết thêm 1
khúc, Vườn Thú Tuổi Thơ.
Vườn
Thú Tuổi Thơ
Ông Hồ muốn trong thơ phải có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Sau khi lấy được Miền Nam, những người Cộng Sản đã từng lên lớp về thái
độ an phận thủ thường, chỉ muốn làm một phó thường dân của những nhà
văn Miền Nam. Bây giờ trong số người viết ở trong nước, có người đã
bằng lòng với vai trò khiêm tốn, làm một nhà văn bình thường.
Những bài viết ngắn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, trên tuần báo Thanh Niên,
cho thấy một văn tài, nhất là khi ông trở lại với tuổi thơ của ông.
Bài viết ngắn, về những đồ chơi con nít bằng tre, bằng đất; dưới con
mắt trẻ thơ của ông, chúng thật tuyệt vời, chúng đẩy trí tưởng tượng
non nớt tới những vùng trời xa lạ. Miền của những giấc mơ mà loài người
có lẽ còn lâu lắm mới thực hiện nổi. Nhưng buồn thay, chỉ chơi được một
chốc một lát là chúng bị gẫy, bể. Tôi không hiểu khi viết như vậy, ông
có muốn ám chỉ những giấc mộng lớn mà những người như ông đã từng theo
đuổi, cuối cùng vỡ ra như những thứ đồ chơi con nít. Những giấc mộng
càng lớn lao bao nhiêu, càng phù du bấy nhiêu. Chúng bắt buộc phải như
thế, để cho nhân loại cứ trẻ thơ mãi, về những giấc mơ chẳng bao giờ
đạt được.
Hay là ông tự trách móc những con người như ông đã không đủ khả năng
tạo ra được một thiên đường bền vững ở trên trái đất này.
Tôi vẫn nghĩ, nếu có một thành quả nào đó, của việc "giải phóng" Miền
Nam, đó là nó đã cho chúng ta được đọc những trang sách như của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, về vườn thú tuổi thơ của ông. Hoặc của một số người
viết ra đi từ Miền Bắc, về một Hà-nội giấu kín tận đáy sâu tâm hồn
những đứa con của nó, không phải chiến thắng Miền Nam, mà chính những
đợt bom B. 52 đã khui quật lên.
Tôi đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường rất ít, trước và sau 1975. Cũng lại do
thành kiến. Hoặc do kỷ niệm một lần đọc Vũ Hạnh. Một truyện ngắn đăng
trên Bách Khoa, kể chuyện một người làm công cho một ông chủ ở thành
phố. Nhân dịp nhà nước phát hành giấy bạc mới, người làm công xin phép
ông chủ về quê chơi, thăm bà con họ hàng, và xin chủ cho mượn tờ giấy
bạc mới đó. Về nhà, ông cho con chơi, như một bức tranh con gà con chó,
cho phép con mang khoe với con ông địa chủ kế bên, nhưng không được đổi
lấy bất cứ một thứ gì.
Đến đây, chắc độc giả nhận ra ẩn dụ độc địa của câu chuyện: ông địa
chủ, do biết giá trị của tờ giấy bạc, xúi con đổi đủ loại đồ chơi cho
thằng nhỏ hàng xóm nghèo.
Trở lại thành phố, ông làm công trả lại chủ, kèm theo lời kết luận:
giấy bạc mới ra, ở nhà quê chẳng ai biết, cứ tưởng là đồ chơi con nít;
ông chủ đất kế nhà tôi cũng lầm.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ qua bài viết kể trên, tôi nhớ đến
tuổi thơ của tôi và những món đồ chơi đầu đời của một đứa con nít nghèo
nhà quê. Trong đó, có cây viết chì mầu. Ôi chao, lần đầu tiên, tôi thấy
được cây chì mầu, vẽ hình con gà, con chó lên giấy, nó khác hẳn cái mầu
đen của cây viết chì tôi vẫn có. Bởi vì cây viết chì mầu là của một ông
cậu tôi, bà ngoại tôi đi tận Hà Nội mua về. Thấy tôi năn nỉ mãi, nhìn
cặp mắt thèm thuồng của thằng cháu, rốt cuộc ông cậu nói, thôi tao cho
mày, nhưng giấu kỹ đi, kẻo mẹ tao nhìn thấy.
Kỷ niệm về cây viết chì mầu, tôi nhớ lại, khi đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đọc Rushdie, và giấc mơ về một quê hương, một thành phố Bombay mầu
Cinémascope, Technicolor của ông.
Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi còn nhớ đến Vũ Hạnh. Và André Gide. Nhà
văn Pháp này, sau khi đi Liên-xô về phang một câu: Tất cả những tình
cảm tốt đẹp chỉ đẻ ra một thứ văn chương tồi. (C’est avec les plus
beaux sentiments qu’on fait de la mauvaise littérature). Đúng là một
lời trù ẻo văn chương hiện thực xã hội. Có một thời gian dài, tôi tâm
đắc với câu văn, nhưng dần dần, theo tuổi đời, sau bao giấc mộng, bao
tình cảm đẹp hao hụt dần, tôi nhận ra một sự thực cay đắng: câu của
Gide không phải trù ẻo văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa không
thôi, mà là tất cả những tình cảm tốt đẹp của con người.
Đặt ngược lại vấn đề, với câu chuyện của Vũ Hạnh làm một cái cớ, chúng
ta có thể hỏi: ai cho phép anh nhân danh những tình cảm đẹp để quyết
định số phần của cả một đất nước? Và liệu có phải đó là những beaux
sentiments thực sự không?
Ai cho phép anh... Solzhenitsyn cũng đã từng đặt câu hỏi như vậy, trong
Khu Ung Thư. Nhân vật của ông được một bác sĩ hết lòng chữa trị, nhưng
anh ta cứ lắc đầu bai bải, không được, không được. Con người tôi có
đây, là nhờ một tí bịnh, một tí xấu đó. Nó là một phần thân thể của
tôi. Chữa hết bịnh rồi, tôi làm sao sống, tôi ở với ai.
Đọc những tác phẩm hậu-Solzhenitsyn, từ một nước Nga rã rời sau Cách
Mạng, chúng ta mới cảm thấy sự trớ trêu, mà chủ nghĩa Cộng Sản bầy ra
cho toàn thể loài người: Chưa có một chế độ nào lại đẩy con người tới
một mức thoái hóa thê thảm như chế độ toàn trị.
Chủ nghĩa CS, và những trại cải tạo của nó, là thử nghiệm tối hậu về
đạo đức con người. (Tzvetan Todorov).
Note: Mấy bài viết,
như bài trên, khi viết, cũng lâu lắm rồi, Gấu vẫn nghĩ những tên như tên Tường này, vẫn còn
chút…. nhân tính. Cũng thế, là với tên BL.
Chúng không hiểu ra là, giả như tên HNPT này, còn được biêu riếu, là hắn còn có gì đó, để được tha thứ.
Cái tên ăn trộm vịt, trong Mất Vịt Không Chửi, chỉ mong được bà hàng xóm
chửi, để lông vịt trên người rụng đi, để được lại làm người.
Tên HPNT, này, khi trả lời phỏng vấn, vẫn khăng khăng, lúc đó tôi ở trên rừng.
Tếu thế!
Gấu đã từng lèm bèm, giả như không có lũ nằm cùng, có thể Miền Nam còn.
Nhưng nói chuyện “giả như", thì cũng như, mong cho cái mũi của nàng Cleopatra dài thêm 1 chút nữa, hà, hà!
Oui sait de quoi hier sera
fait?
A l'est de l'ancien rideau de
fer
Oublier le communisme?
Par Sophie Cœuré
Le système communiste avait
confisqué le passé. Redoutable épreuve, pour les nouvelles démocraties,
que de
renouer le fil de l'histoire, sans rouvrir les plaies ni céder à la
tentation
de l'amnésie.
VC tịch thu quá khứ!
Thử thách mới đáng sợ làm
sao: Làm sao nối lại được sợi dây lịch sử, mà không cần mở banh những
vết thương,
và không lạc vào vườn quên lãng?
Giải
thưởng Goncourt 1997 của Pháp về tay một nhà văn chuyên môn “bắt chước” người
khác: Marguerite Duraille, tức Patrick Rambaud. Marguerite Duraille, là từ
Marguerite Duras, một nhà văn nữ nổi tiếng của Pháp. Tác phẩm của ông vua
ăn trộm này cũng từ Duras: Mururoa mon amour (Hiroshima mon amour). Chúng
ta tự hỏi, chuyện “mô phỏng” trong văn chương, là do quá say mê thần tượng,
hay là do thiếu khả năng sáng tạo. Dù thế nào, thì đây cũng là một dòng văn
chương hoàn toàn riêng lẻ, với những đại gia như De Reboux, Eco... Một trong
những cuốn sách của Eco, riêng tựa đề thôi, đã là một xúc phạm tới những
đầu óc nghiêm túc: Làm thế nào dạo chơi với một chú cá hồi. Tác phẩm nổi
tiếng của nhà văn này, Tên của bông hồng, là một món dựa mận, nào Conan Doyle,
Borges, cùng với cả lô tác giả thời trung cổ. Mộc tồn hai lửa mới ngon, dân
nhậu chúng ta đã có kinh nghiệm về chuyện này rồi. Nội từ mộc tồn không thôi,
là đã trải qua mấy kiếp mô phỏng; mộc tồn=cây còn= con cầy.
Đây là một câu chuyện nghiêm túc: Những giáo sư trường Mỹ Nghệ, khi bắt học
trò tới cọp dẽ những họa phẩm tại Louvre, tại Sorbonne, đã coi mô phỏng là
bài tập bắt buộc, không thể thay thế được. Nhiều nhà văn, trước khi nhẩy
xuống nước, đã phải học bơi ở những tiền bối. Trước khi vào trận với “Đi
tìm”, Proust đã tam kiến thảo lư hàng lô Khổng Minh. Đề tài mà ông quan tâm:
một chuyện ăn trộm (escroquerie) làm say mê dư luận. Và ông đã thử kể, cùng
một câu chuyện, bằng 9 cây viết khác nhau: Renan, Sainte-Beuve, anh em nhà
Goncourt, Michelet, Saint-Simon, Balzac... Trong khi hì hục mô phỏng như
vậy, ông trở thành ngang hàng với họ.
Patrick Rambaud, Goncourt 1997 với cuốn Trận đánh, La Bataille (nhà xb Grasset),
rất say mê mấy trò mô phỏng của bậc đàn anh Proust. Trong một cuộc phỏng
vấn dành cho tờ Đọc (Lire), ông phân biệt giữa mô phỏng (pastiche), và nhại
(parodie). Giữa say mê, ngưỡng mộ, và chế nhạo. Cùng với chế nhạo là sự
độc ác, ở một mức độ nào đó. Là một độc giả trung thành của Reboux và Muller,
qua cuốn Phỏng theo... (A la manière de...), ông tự hỏi, liệu có thể tái
tạo kinh nghiệm này với những tác giả đồng thời. Và sau đó, với sự cộng tác
của một người bạn, chừng 40 tác phẩm nhạo, nhại đã ra đời, như “Roland Barthes,
dễ thôi” (R. Barthes sans peine); Francois Sagan: Một con tầu trong mắt em
(nhại Một chút mặt trời trong nước lạnh). Simone de Beauvoir La Farce (Chuyện
hề) des choses (La Force des choses). Rồi Aragon, de Gaulle, Phillipe Sollers,
André Malraux... Những nạn nhân phản ứng ra sao? Họ đau, đau lắm. Nhiều người
giận điên lên. Theo ông, kẻ bị nhại càng lớn đầu, càng dễ đập, niềm vui càng
kéo dài. Thí dụ như M. Duras. Bà ta quá gồng mình, quá tự mãn đến nỗi, chẳng
khó khăn gì, tôi có ngay hai tác phẩm: Virginie Q. và Mururoa mon amour,
cùng ký tên M. Duraille.
Ở Việt Nam, Xuân Sách cũng thật sắc sảo trong trò chơi mô phỏng mấy đàn anh
văn nghệ. Nghe kể lại, có những bậc trước khi nhắm mắt, còn ân hận, không
được ông chiếu cố! Đến đây, tôi lại nhớ đến nghệ thuật chửi, của mấy bà già
nhà quê. Chửi cũng là một hình thức lập lại, những câu chửi có sẵn trong
nhân gian, rồi thậm xưng, sáng tạo thêm. Trong những câu chuyện chửi tốt,
có một, từ Liêu Trai, sau được Hiếu Chân mô phỏng. Đó là câu chuyện mất vịt
không chửi. Đại khái như sau: một bà già nhà quê có một bầy vịt, cứ hao hụt
dần. Nhưng chẳng bao giờ bà ra đầu ngõ, chổng mông, vén váy tố “mả cha, mả
bố thằng nào, con nào bắt trộm của bà...”. Anh chàng hàng xóm khoái món thịt
vịt luộc chấm mắm gừng, một bữa thức dậy, bỗng thấy lông vịt mọc lên, trước
còn ít sau cứ thế lan khắp người! Hoảng quá, lên chùa, cầu cứu Phật. Phật
nói, muốn hết bệnh, phải đến nhờ bà cụ mất vịt chửi cho! Chửi đến đâu, lông
vịt rụng tới đó!
Nhìn theo kiểu mô phỏng, “xỏ xiên” như vậy, chúng ta mới thấy giá trị của
những lời “giải oan” của dòng văn chương “phản kháng”: giả sử không có những
lời “chanh chua” của một Phạm Thị Hoài, thí dụ vậy, không hiểu lông vịt sẽ
còn tràn lan tới đâu, trong thế giới toàn trị đó! Trường hợp của Xuân Sách,
và những bài thơ của ông, khác với tác giả ăn giải Goncourt là vậy. Nhân
đây cũng nên tụng thêm một vài lần, đôi ba vần thơ của ông.
Về Chế Lan Viên:
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Về Huy Cận:
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gầy quá, còn tôi béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày một sáng có sao đâu!
Trang
đầu cuốn tiểu thuyết Trận Đánh, là những lời đề tặng, cũng hơi khác thường:
Gửi Bà Pham Thi Tieu Hong với yêu thương, Cô Xuan với cảm mến, Ông de Balzac
với những lời xin lỗi của tôi. Tại sao lại có những lời xin lỗi ở đây?
Tác
giả giải thích:
"Tôi muốn dẫn các bạn tới tất cả những kinh tởm, tất cả những vẻ đẹp của
chiến trường; trận đánh của tôi, đó là trận Essling. Cuốn tiểu thuyết này,
Balzac đã tính viết, ông nghĩ về nó, ông đi thăm những nơi chốn, gặp gỡ những
nhân chứng, ghi chú. Ông tuyên bố ý định của mình, trong một lá thư dài,
gửi bà Hanska, nhưng bị chi phối bởi cả ngàn dự án này nọ, ông chẳng bao
giờ cho chúng ta được đọc cuốn sách đã ám ảnh ông.
Tại sao Balzac muốn kể lại (trận đánh) Essling? Tại sao ông muốn đưa chúng
ta tới ngưỡng cửa thành phố Vienne, vào năm 1809, cùng với Nã Phá Luân? Tại
sao không phải (là những trận đánh khác): Marengo, Aboukir, Austerlitz, hay
Wagram? Tại sao chỉ nội trong hai ngày trời tàn khốc này, khi con người chẳng
còn ham muốn chém giết nhau, vậy mà con số nằm xuống cánh đồng lúa mì là
40 ngàn người? Để tìm hiểu, chỉ còn mỗi một cách là, đến lượt tôi vượt sông
Danube, phi ngựa cùng Lames và Masséna, ngửi mùi lửa cháy, run sợ cùng những
tiếng đại bác của quân Áo... Thoạt đầu, chỉ là một tra vấn, tiếp theo là
tò mò, sau đó là ham muốn, và sau cùng, là một cần thiết."
"Nào lên ngựa!"
NQT
Nhà báo Trần Hạnh vừa qua đời
Note:
Đọc 1 stt, trên FB một thân hữu, thì biết tin ông này qua đời. Đọc bài viết,
thì có vẻ như là 1 tên Ngụy, vì cái phần học vấn cho thấy, rồi đọc cái phát
biểu 1 tên nhà báo ở trong nước…
“Trần
Hạnh giỏi, nhiệt huyết, có nghề và là người Việt đầu tiên làm Trưởng ban
Việt ngữ Đài BBC. Qua nói chuyện tôi biết Hạnh là nhà báo rất có tâm với
Việt Nam.”
Không thấy 1 tên Ngụy nào lên tiếng cả, tếu thế!
Đây
là cái kiểu viết lách của 1 lũ “bồi”, Hồng Mao, đầu óc chúng hư mẹ mất rồi,
không có 1 chút công tâm nào khi viết, khi loan tin.
Gấu nhớ là, có đọc đâu đó, 1 cái nhận xét, cũng 1 hình ảnh, mà nếu nó được
đăng trên báo Ngụy, thí dụ, thì ý nghĩa khác, nếu nó được báo VC đăng, ý
nghĩa khác, dù không có lời bàn Mao Tôn Cương, gì hết.
Như
vậy, là me-xừ Trần Hạnh này, cũng gốc Ngụy, bị Bi Bi Xèo cho về vườn, thay
bằng 1 lũ vô học, không biết 1 chút ứng xử có tí văn minh - thí dụ như, len
lét sửa lỗi, do dốt nát, viết sai, không hề cám ơn độc giả chỉ cho thấy?
HUE IS A pleasant little town with something of the leisurely
air of a cathedral city in the West of England, and though the capital of
an empire it is not imposing. It is built on both sides of a wide river,
crossed by a bridge, and the hotel is one of the worst in the world. It is
extremely dirty, and the food is dreadful; but it is also a general store
in which everything is provided that the colonist may want from camp equipment
and guns, women's hats and men's reach-me-downs, to sardines, pate de foie
gras, and Worcester sauce; so that the hungry traveler can make up with tinned
goods for the inadequacy of the bill of fare. Here the inhabitants of the
town come to drink their coffee and fine in the evening and the soldiers
of the garrison to play billiards. The French have built themselves solid,
rather showy houses without much regard for the climate or the environment;
they look like the villas of retired grocers in the suburbs of Paris.
The French carry France to their colonies just as the English carry England
to theirs, and the English, reproached for their insularity, can justly reply
that in this matter they are no more singular than their neighbors. But not
even the most superficial observer can fail to notice that there is a great
difference in the manner in which these two nations behave towards the natives
of the countries of which they have gained possession. The Frenchman has deep down in him a persuasion that all men are equal and that mankind is a brotherhood. He
is slightly ashamed of it, and in case you should laugh at him makes haste
to laugh at himself, but there it is, he cannot help it, he cannot prevent
himself from feeling that the native, black, brown, or yellow, is of the
same clay as himself, with the same loves, hates, pleasures and pains, and
he cannot bring himself to treat him as though he belonged to a different
species. Though he will brook no encroachment on his authority and deals
firmly with any attempt the native may make to lighten his yoke, in the ordinary
affairs of life he is friendly with him without condescension and benevolent
without superiority. He inculcates in him his peculiar prejudices; Paris
is the centre of the world, and the ambition of every young Annamite is to
see it at least once in his life; you will hardly meet one who is not convinced
that outside France there is neither art, literature, nor science. But
the Frenchman will sit with the Annamite, eat with him, drink with him, and
play with him. In the market place you will see the thrifty Frenchwoman with
her basket on her arm jostling the Annamite housekeeper and bargaining just
as fiercely. No one likes having another take possession of his house,
even though he conducts it more efficiently and keeps it in better repair
that ever he could himself; he does not want to live in the attics even though
his master has installed a lift for him to reach them; and I do not suppose
the Annamites like it any more than the Burmese that strangers hold their
country. But I should say that whereas the Burmese only respect the English,
the Annamites admire the French. When in course of time these peoples inevitably
regain their freedom it will be curious to see which of these emotions has
borne the better fruit.
The Annamites are a pleasant people to look at, very small, with yellow
flat faces and bright dark eyes, and they look very spruce in their clothes.
The poor wear brown of the color of rich earth, a long tunic slit up the
sides, and trousers, with a girdle of apple green or orange round their waists;
and on their heads a large flat straw hat or a small black turban with very
regular folds. The well-to-do wear the same neat turban, with white trousers,
a black silk tunic, and over this sometimes a black lace coat. It is a costume
of great elegance.
But though in all these lands the clothes the people wear attract our
eyes because they are peculiar, in each everyone is dressed very much alike;
it is a uniform they wear, picturesque often and always suitable to the climate,
but it allows little opportunity for individual taste; and I could not but
think it must amaze the native of an Eastern country visiting Europe to observe
the bewildering and vivid variety of costume that surrounds him. An Oriental
crowd is like a bed of daffodils at a market gardener's, brilliant but monotonous;
but an English crowd, for instance that which you see through a faint veil
of smoke when you look down from above on the floor of a promenade concert,
is like a nosegay of every kind of flower. Nowhere in the East will you see
costumes so gay and multifarious as on a fine day in Piccadilly. The diversity
is prodigious. Soldiers, sailors, policemen, postmen, messenger boys; men
in tail coats and top hats, in lounge suits and bowlers, men in plus fours
and caps, women in silk and cloth and velvet, in all the colors, and in hats
of this shape and that. And besides this there are the clothes worn on different
occasions and to pursue different sports, the clothes servants wear, and
workmen, jockeys, huntsmen, and courtiers. I fancy the Annamite will return
to Hue and think his fellow countrymen dress very dully.