*

Album


30.4.2015

30.4.2015

3 hrs ·

Xin giới thiệu một bài viết tuyệt vời của nhạc sĩ Tuấn Khanh.

https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2015/05/08/su-that/

Nhạc sĩ Tuấn Khanh viết:

Lịch sử đã mở ra nhiều góc cạnh của sự thật, cho dù sự thật đó được rao giảng, bị cưỡng ép như thế nào đi nữa. Sự thật là lối đi mà số phận dân tộc nào may mắn mới qua suốt được trên con đường đó, để lớn khôn qua thời gian. Nếu không, dối trá sẽ làm mù lòa dân tộc và đẩy quốc gia vào tăm tối.

Với xứ Mít, với VC, làm sao có sự thực lịch sử. Chúng bịp suốt, làm sao biết đâu là sự thực?

Theo GCC lịch sử Mít, chỉ có thể biết nhờ/qua… giả tưởng.
Đọc tiểu thuyết, thí dụ!
Với lịch sử thời kỳ 1954, đọc "Bếp Lửa" của TTT.
Với cú CCRD, đọc "Ba Thằng Lăng Nhăng" của Tô Hoài…

Kẹt quá thì đọc trang... Tin Văn!

Ngay cả với thế giới, họ cũng phải sử dụng cách này, khi không làm sao kiếm ra được sự thực, thì bèn đề nghị 1 thứ sự thực của…  giả tưởng
Trường hợp Hitler, thí dụ, đám tiểu thuyết gia đưa ra hằng hà giả tưởng, để giải thích lịch sử Hitler, do làm sao mà ông thù Do Thái đến như thế.
Cũng thế, với xứ Mít.
Có hai đề nghị của… GCC, xem ra có lý, về hai cuộc chiến thần thánh, chống Tẩy, và chống Mẽo. Cả hai đều do VC bịp và cả nước Mít bị bịp.
Bịp ra làm sao thì GCC đã giải thích rồi.
Hilary Mantel, một nữ tiểu thuyết gia, chuyên viết những đề tài lịch sử, khi trả lời tờ The Paris Review, cho biết, bà hụt cơ may làm sử gia nên đành chọn thứ sái của nó!
Tuyệt!

INTERVIEWER
You started with historical fiction and then you returned to it. How did that happen?

MANTEL
I only became a novelist because I thought I had missed my chance to become a historian. So it began as second best. I had to tell myself a story about the French Revolution-the story of the revolution by some of the people who made it, rather than by the revolution's enemies.

INTERVIEWER
Why that story?
*

Milovan Djilas - Nói chuyện với Stalin

Phạm Nguyên Trường dịch (a)

Lời nói đầu của tác giả: Trí óc con người ta thường tự xoá đi những cái vô ích, chỉ giữ lại những điều cần thiết nhất cho những mối quan hệ về sau. Nhưng đây cũng chính là thiếu sót của nó. Trí óc luôn luôn thiên vị, nó luôn luôn cải biến hiện thực đã qua cho phù hợp với nhu cầu của hiện tại và hi vọng của tương lai.

Note: Ý này, Tsvetan Todorov viết, theo GCC, thú/đúng hơn:
Commemoration
is always the adaptation of memory to the needs of today.
Tưởng nhớ, hoài niệm…  luôn luôn là sự sửa lại hồi ức cho hợp với nhu cầu hiện tại.
Cynthia Ozick trích dẫn, trong bài viết “Who owns Anne Frank?"
(1)
Chính là vì sửa lại hồi ức, mà cuốn nhật ký của Anne Frank, bị chính ông bố làm cho nó biến dạng, để cho hợp với nhu cầu hiện tại!
Bởi thế mà thế giới, khi chúng bịa ra lịch sử, chúng bèn ghi lại, và 50 năm sau, bạch hóa. Tụi Mẽo, khi chúng phịa ra cú Vịnh Bắc Bộ, 50 năm sau, tự chúng khui ra, để cho nhân loại biết, chúng ông phịa ra để dội bom Bắc Kít, phong toả Cảng Hải Phòng, để bắt Bắc Kít vô bàn hội nghị, để rút khỏi xứ Mít trong danh dự!

Xứ Mít VC không có trò bạch hóa. Không làm sao biết sự thực lịch sử với VC. Vô phương!

Nhật Ký Đặng Thuỳ Trâm, một em Bắc Kít bị trù, bị tống đi Miền Nam chiến đấu, nghe nói còn bị bồ đá đít, vậy mà dưới bàn tay phù thuỷ của VC biến thành 1 thứ "Đường Ra Trận Mùa Này Đẹp Lắm"!

Hai cuộc chiến, như GCC chứng minh, đều do VC phịa ra, để có cớ chiếm cả nước Mít, cho tham vọng của chúng.
Cả hai cuộc chiến, đều có thể tránh được hết. Đau thế.
Thành ra phải có 1 tên VC đủ can đảm, bản lãnh, mà phải thứ cực bự, tay đầy máu Mít, tức những tên mà chúng gọi là Việt Gian, là Ngụy, là tội đồ, là có nợ máu với nhân dân...  phải có 1 tên đó, sám hối, thì may ra mới có hy vọng.

Hàng triệu triệu con người chết, trong và sau cuộc chiến, cả 1 đất nước ly tán, không bao giờ có thể hàn gắn - hận thù Nam Bắc chỉ trở nên khủng khiếp kể từ sau 30 Tháng Tư 1975 - chỉ để đưa 1 tên chăn trâu, 1 tên y tá, một tên lú lẫn, lên làm nguyên thủ quốc gia, tất cả đều do VẸM gây ra.

Đó là sự thực lịch sử của xứ Mít.

Mistaken ideas always end in bloodshed, but in every case it is someone else's blood. This is why our thinkers feel free to say just about everything.  
-CAMUS
Tư tưởng lầm lạc đưa đến biển máu, nhưng máu của kẻ khác, đếch phải của những tổ sư VC, như chính trị viên NN, thí dụ!

Sacrifice the children-an old story, pre-Homeric-so that the nation will endure, to create a legend.
-ALEKSANDER WAT
Hy sinh con nít - chuyện cổ xưa, từ hồi tiền sử, tiền-Homer - nhờ vậy xứ VC còn hoài, như huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương về anh lính Cụ Hồ!

-

Một chị, một em.

Nhưng Hồng Quân đang hướng về Auschwitz, và vào tháng Chạp, lệnh đưa ra, giấu biệt tất cả những chứng cớ về phòng hơi độc, và phá huỷ lò thiêu. Hàng ngàn con người, những thây ma kiệt quệ bị lùa ra ngoài, di tản, trong cuộc đi tử thần. Rất nhiều người bị bắn. Cuộc di tản xẩy ra vào ngày 28 tháng Tháng Mười hoặc 2 Tháng 11.

Anne và Margot được đưa đi tới trại Bergen-Belsen. Margot, cô chị, quỵ trước. Một người sống sót kể lại, thấy cô gái té xuống, nằm chết, và làm mồi cho lũ rận, chấy. Còn Anne, vỡ tim, gầy trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách, chết một, hay hai ngày sau đó.

Ozick: Ai sở hữu Anne Frank?

Sau cùng, có thể nói, Anne Frank biểu tượng hóa quyền uy, của chỉ một cuốn sách. Do cuốn nhật ký mà cô giữ và viết, từ 1942 đến 1944, cô trở thành một hình tượng đáng nhớ nhất, bật ra từ cuộc thế chiến thứ hai – ngoài Hitler ra, tất nhiên, người lèm bèm [proclaimed] về cuộc đời, và những niềm tin của mình, ở trong một cuốn sách.
Một cách nào đó, có thể coi Lò Thiêu bắt đầu bằng một cuốn sách và chấm dứt bằng một cuốn sách khác.
Tuy nhiên, chính là cuốn của Anne Frank, sau cùng đã vượt lên - một tác phẩm của sự từ tâm, rắc rối, đa đoan sống dai hơn một tác phẩm đơn giản và độc ác - và đưa được đứa bé thứ nhì (1) nổi tiếng nhất trong lịch sử, vào vòng tay của thế giới.
*

(1) Đứa bé thứ nhất, là Chúa Giê Su

From:
To:
CC:
Subject: Re: Help
Date: Sat, 05 Jan 2008 16:50:15 -0500
Dung roi,
Chua Giesu Hai Dong, l'enfant Jesus.
----- Original Message -----
From:
To:
Cc:
Sent: Saturday, January 05, 2008 4:21 PM
Subject: Help

(Thethaovanhoa.vn) – Khi cả thế giới mãn nhãn với màn phô trương sức mạnh quân sự tối tân nhân kỷ niệm 70 năm ngày chiến thắng phát xít (9/5) của Nga, hàng nghìn người dân cũng đã tụ tập ở thủ đô Washington của Mỹ để chiêm ngưỡng màn trình diễn của hàng chục phi cơ từ thời Thế chiến II.
Cuộc duyệt binh mừng Ngày chiến thắng vừa diễn ra ở Quảng trường Đỏ, Moskva đã thực sự khiến người xem mãn nhãn, không hổ danh là lễ duyệt binh hoành tráng nhất trong lịch sử từ trước tới giờ. (b)

Note: Cuộc diễn binh của Nga, có gì tương tự với VC nhân ngày 30 Tháng Tư vừa rồi. Có cái gì giống như ngọn đèn trước khi tắt bèn rực lên 1 phát!
Tờ The New Yorker cũng có ý này, qua bài viết của họ:

By Masha Lipman

“The May 9 parade in Moscow is not a parade commemorating the victims and the heroes of the war—it is a parade of loyalty to Putin and his state,” Oleg Kashin, a Russian blogger, wrote.

The commemoration of the Second World War has gone through several phases in Russia. Immediately following the war, Stalin played down the enormous sacrifice of the Soviet people. The death toll was reported as seven million, so that it would be the same as Nazi Germany’s losses; severely disabled soldiers were removed to the remote Valaam Island, so that their presence would not remind people of the monstrosity of the war. Georgy Zhukov, the most prominent war general, was appointed military commander of a provincial region, so that his glory would not interfere with Stalin’s absolute power. Three years after the victory, the May 9th holiday was made an ordinary work day—Stalin was concerned that too much celebration would imbue veterans with excessive pride and feelings of independence.

Ngày kỷ niệm Chiến Thắng của Liên Xô, biến đổi ý nghĩa theo thời gian, theo từng ông Trùm Đỏ. Với VC, ngày 30 Tháng Tư năm nay, quả có 1 ý nghĩa đặc biệt.
Nó thật cần như 1 ngày hòa giải, nếu như VC thật sự muốn hòa giải.
Nhưng nó cũng thật cần, như 1 cú giẫy chết của VC!
Chím Báo Bão, là thế!
Từ điển VC không có từ Nazi. Chúng gọi chiến thắng Nazi là chiến thắng Phát Xít.
Tếu thế!

*

Mỗi cổ tay mỗi cái đổng!
[L'Express, 6&12 Mai, 2015]

&

Cuộc đời Khaldei thật là bi thảm, và khác thường. Là con, trong một gia đình Do-thái nghèo tại Ukraine. Mẹ chết trong vụ thanh trừng vào năm 1918, viên đạn xuyên qua thân thể bà nằm luôn trong đứa con trai mới gần năm. Cả gia đình, hai thập niên sau đó bị lính Đức giết hết, còn trơ mình ông. Học tới lớp tư phải bỏ, lo kiếm sống. Thiên tài bẩm sinh, máy hình đầu tiên là do ông tự làm lấy, và vào nghề thợ chụp ngay từ khi còn nhỏ. Vác máy hình, đi trọn cuộc chiến, làm cho thông tấn TASS và nhật báo Pravda. Bức hình chụp tấm băng đỏ gói trọn vẻ ngạo nghễ của Tòa Nhà Quốc Hội Đức, Reichstag, là của ông. Tuy trọn đời hiến dâng cho nghệ thuật Xô-viết, nhưng ông mất việc hai lần. Ông mất tháng Mười 1997, sau khi bộ sưu tập của ông được in ra. Có một số hình trong đó chưa hề được biết đến, và chúng cho thấy một điều là những cái trước, và sau cuộc chiến như thuộc hai con người khác nhau. Những tấm sau là những thí dụ tồi tệ nhất, về Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng không phải những tấm trước đó không có điều khác thường. Tolstaya cho biết về bức hình nổi tiếng nhất của ông, trang 60-61, chụp người lính Xô-viết giương cao tấm băng đỏ trên đỉnh Reichstag: một người sĩ quan phải giữ chân người lính, cho anh ta khỏi té. Tay viên sĩ quan đeo đồng hồ. Sau khi rửa hình, người ta nhận ra viên sĩ quan không phải chỉ đeo có một, mà tới hai cái đồng hồ lận! Lại phải cạo sửa lịch sử! Còn tấm băng đỏ, ở đâu mà có sẵn, nhanh như vậy? Hóa ra là, nhiếp ảnh viên Khaldei, vốn đã sửa soạn sẵn cho tấm hình nổi danh của đời mình, ngay từ Moscow, và đã cẩn thận mang theo, không phải một mà tới ba tấm băng đỏ! Người viết nghe nói bức hình lịch sử chụp cảnh xe tăng CS san bằng cổng dinh Độc Lập cũng đã phải chụp tới hai lần. Ủi sập rồi, lại phải ra lệnh dựng lên, chụp lại. Nguồn tin rất đáng tin, nhưng vì không tận mắt chứng kiến (lịch sử), cho nên đành ngưng tại đây. (1)

NQT

Note: Bức hình trên, có 1 bạn post lại trên FB, GCC thoáng thấy, nhưng sơ ý, vuột mất, chưa kiếm ra lại. Tks. Tuy nhiên đọc còm thì thấy 1 vị cho biết, đã được đấng VC Dương Trung Quốc post rồi, trong cuốn gì gì đó!

Nhảm quá!

Bức hình này, như chú thích bằng tiếng Tẩy, cho thấy, là bản gốc, chưa được xẩy xoá, thành ra còn cả hai cái đổng.
Làm sao mà bức của Dương Tiên Sinh lại có được?

Cũng thế, là cái hình xe tăng đầu tiên vô dinh Độc Lập, không phải cái xe tăng số đó, số đó, mà là cái khác, người đầu tiên cắm cờ, đúng ra cũng người khác.

Toàn 1 lũ tranh công, bịp bợm.

. **

*

Điện Biên Phủ dởm

**

Cả hai cuộc chiến chống Pháp, và chống Mẽo đều có thể tránh được hết, nếu đừng dính đến anh Tẫu. Kầu kíu nó, là chết, đơn giản có thế thôi!
Ta thà ngửi kít Tẩy 10 năm, còn hơn ngửi kít Tẫu cả đời, Bác Hồ đã phán như thế rồi.

Cả hai miền Nam Bắc đúng ra là đều phải nhớ ơn anh Tẫu hết. Hai cuộc chiến thần kỳ làm sao thần kỳ nếu thiếu Thiên Triều?
Miền Nam, đám Ngụy đúng ra là đều chết sạch nếu không có cuộc chiến biên giới dạy cho VC một bài học?

DTH gọi cuộc chiến ngu xuẩn cực kỳ ngu xuẩn của Mít. Đúng thế thực. Mấy quốc gia Á Châu khác, đều tránh được nó, khi chấp nhận là 1 quốc gia tự do, ở trong Liên Hiệp Anh, thí dụ. Trừ anh Mít Bắc Kít. Cả 1 quốc gia, cả 1 dân tộc, cả 1 chiều dài lịch sử bốn ngàn năm, hàng triệu triệu con người chết, để đưa 1 thằng chăn trâu học lớp Một, 1 tên y tá dạo, lên cầm đầu nhà nước. Khủng khiếp thực.

Cái “cơ may hòa bình mất mẹ nó mất”, mà anh Tẩy, phán, là cái mà Vẹm gây ra, khi nằng nặc đòi đánh Tẩy, nếu không làm sao thịt lũ Việt Gian bán nước.
Ngay bây giờ thì cũng thế. Ở trong nước, bất cứ 1 ai đòi hỏi dân chủ, là chúng làm thịt, đổ cho tội này, tội nọ.
Đâu có khác gì những ngày 1945?


Ngô Nhật Đăng

4 hrs ·

Tolstaya cho biết về bức ảnh nổi tiếng nhất của ông, chụp người lính Xô-viết giương cao lá cờ đỏ trên đỉnh Reichstag: một người sĩ quan phải giữ chân người lính, cho anh ta khỏi ngã. Tay viên sĩ quan đeo đồng hồ. Sau khi rửa ảnh, phát hiện ra viên sĩ quan không phải chỉ đeo có một, mà tới hai cái đồng hồ! Lại phải cạo sửa

Nguồn : blog Nguyễn Quốc Trụ

Quang Hà Nguyễn Ảnh này đã đăng trong tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam năm 1998, do Mr Dương Trung Quốc làm Tổng Biên tập.


30.4.2015

Lê Công Định

3 hrs ·

Xin giới thiệu một bài viết tuyệt vời của nhạc sĩ Tuấn Khanh.

https://nhacsituankhanh.wordpress.com/2015/05/08/su-that/

Nhạc sĩ Tuấn Khanh viết:

Lịch sử đã mở ra nhiều góc cạnh của sự thật, cho dù sự thật đó được rao giảng, bị cưỡng ép như thế nào đi nữa. Sự thật là lối đi mà số phận dân tộc nào may mắn mới qua suốt được trên con đường đó, để lớn khôn qua thời gian. Nếu không, dối trá sẽ làm mù lòa dân tộc và đẩy quốc gia vào tăm tối.

Tất nhiên như thế, tuy nhiên với xứ Mít, với VC, làm sao có sự thực lịch sử. Chúng bịp suốt, làm sao biết đâu là sự thực?

Theo GCC, muốn biết lịch sử Mít, chỉ có biết qua… giả tưởng. Đọc tiểu thuyết, thí dụ!

Với lịch sử thời kỳ 1954, đọc Bếp Lửa.

Với cú CCRD, đọc Ba Thằng Lăng Nhăng.

Kẹt quá thì đọc trang... Tin Văn!

Ngay cả với thế giới, họ cũng phải sử dụng cách này, khi không làm sao kiếm ra được sự thực thì bèn đề nghị 1 thứ sự thực của…  giả tưởng
Trường hợp Hitler, thí dụ, đám tiểu thuyết gia đưa ra hằng hà giả tưởng, để giải thích lịch sử Hitler, do làm sao mà ông thù Do Thái đến như thế.
Cũng thế, với xứ Mít.
Có hai đề nghị của… GCC, xem ra có lý, về hai cuộc chiến thần thánh, chống Tẩy, và chống Mẽo. Cả hai đều do VC bịp và cả nước Mít bị bịp.
Bịp ra làm sao thì GCC đã giải thích rồi.
Hilary Mantel, một nữ tiểu thuyết gia, chuyên viết những đề tài lịch sử, khi trả lời tờ The Paris Review, cho biết, bà hụt cơ may làm sử gia nên đành chọn thứ sái của nó!
Tuyệt!

INTERVIEWER

You started with historical fiction and then you returned to it. How did that happen?

MANTEL

I only became a novelist because I thought I had missed my chance to become a historian. So it began as second best. I had to tell myself a story about the French Revolution-the story of the revolution by some of the people who made it, rather than by the revolution's enemies.

INTERVIEWER

Why that story?



Lê Công Định shared BBC Vietnamese's photo.

28 mins ·

Hoan hô nhà văn Võ Thị Hảo! Thứ văn nô, bồi bút đứng chung xuồng với họ làm chi.

Note: Ít ra phải có 1 người.
Nhưng không ép phê bằng tên già NN, thí dụ, cha đẻ quái vật Núp, tay đầy máu Ngụy, khi dám xổ toẹt. 
Hay đao phủ MT.

Hay anh hùng Cổ Thành, Bọ Lập (?)
Hay anh hùng Trường Sơn
Tạ lỗi chưa đủ.
Phải sám hối thế nào đó cơ!

VTH “tay sạch” [chữ từ Sartre,"les mains sales"] quá!

Epitaph for a Poet

He wanted to sing, to sing
to forget
his true life of lies
and to remember
his lying life of truths. 

Bia mộ nhà thơ

Anh ta muốn hát, hát
Để quên
Cuộc đời thực toàn dối trá
Và để nhớ
Cuộc đời dối trá toàn sự thực
Của anh ta

Octavio Paz: Poems [1941-1948]

DL: Nếu rõ ràng hội NVVN là một tổ chức của đảng CSVN nhằm thao túng và khống chế lực lượng cầm bút ở VN, đã góp phần giúp chế độ toàn trị của đảng CS bưng bít thông tin, tô hồng xã hội và nô lệ hóa dân trí thì tại sao trong một dân tộc có truyền thống văn chương như VN, lại rất ít tiếng nói phản đối hành động đó của hội ? Liệu những nhà văn ưu tú và được hâm mộ một thời, cha đẻ của những tác phẩm mang nặng tính nhân đạo, tinh thần khai sáng như „Nỗi buồn chiến tranh“, „Vàng lửa“, „Tướng về hưu“, „Thời xa vắng“, „Mùa lá rụng trong vườn“... có biết những điều đó không?

VTH: Tôi nghĩ rằng nhiều người biết, rất biết nhưng họ đã chọn im lặng khi đụng đến những vấn đề nước sôi lửa bỏng mà người dân cần nhà văn lên tiếng một cách trực diện. Người Việt vẫn tự che đậy sự vô cảm của mình bằng câu „im lặng là vàng“, hoặc là „tôi không thích tuyên ngôn“, „tôi không quan tâm đến chính trị“…đó là những câu nói không những lệch lạc mà còn mang tính phản động – tức phản lại tiến bộ xã hội và sự minh bạch, che đậy sự hèn mà thôi. Thật đáng tiếc. Tôi mong những nhà văn có tài năng và nhân cách, đã được bạn đọc trong nước nhiều năm nay ngưỡng mộ và ủng hộ, ngoài việc bày tỏ thái độ trong những tác phẩm hư cấu, lại càng phải lên tiếng trực diện, luôn luôn để bảo vệ lẽ công bằng. Vì hậu quả của việc né tránh không lên tiếng là có nhiều người chết đuối khi anh chỉ đứng trên bờ nhìn họ kêu cứu, lý do rằng tôi chỉ biết viết văn, tôi đang bận xây dựng hình tượng một anh hùng cứu người chết đuối, hoặc tâm trạng của một người sắp chết đuối chứ tôi không có trách nhiệm cứu người. (1)

Grass, who was born in 1927, never pretended to have escaped the war unstained.
Lịch sử, hay chính xác hơn, lịch sử Đức quả đúng là một cái nhà xí bị tắc. Chúng ta cứ thế móc cứt và cứt cứ thể đùn lên. Một nhân vật của Grass lầu bầu.
Bây giờ cứt ngập đến tận cổ me-xừ Grass.
Nhưng đây là một con người đếch chịu trốn thoát lịch sử mà không có tí cứt ở trên người...

Grass và SS

Nếu như thế, thì không thể có chuyện 1 cú Nhân Văn được lập lại, như bà Hảo cảnh cáo, về cái chuyện ông Trùm gạch tên 1 số vị ra khỏi Hội Nhà Thổ, và bà Hảo, thì tự mình cho phép mình xóa tên ra khỏi sổ đoạn trường, chẳng cần khúc sông Tiền Đường.
Già rồi, quỹ thời gian đâu còn?

Nói rõ hơn, để ra ngoài trường hợp tay sạch của bà Hảo, với đám còn lại, phải là 1 tay tay đầy máu Ngụy, thì mới xứng với cas của Grass, cứt ngập đến tận cổ!
Chứ cái kiểu, "không có câu đó", "sợ anh hùng quá rồi", nhưng toàn tập vẫn "vũ như cẩn", vưỡn có quái vật Núp ở trỏng, thì còn ra cái đéo gì nữa!
Vậy mà một…. “Nhăn Dzăng” khác ư?
Vậy mà cũng bày đặt “ni hôn” [hình như tên 1 tác phẩm của 1 đấng văn sĩ VC],  ra ở riêng, thành lập văn đàn riêng…
Ra cái điều mấy đứa chúng ông “sạch”



May 1 at 11:46am · Edited ·

Chơi với ai đây?

Tối qua thấy VTV khoe là có tới ... 3 nước cử quan chức sang chúc mừng ngày 30/4. Đó là ...Campuchia, Lào và Cuba. Hai nước được kể ơn huệ là Trung Quốc và Liên Xô (Nga) cũng chẳng thèm gửi người qua. Ông Putin thì chỉ gửi điện mừng.

Tại sao việc "giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" lại gặp phải sự thờ ơ của cộng đồng quốc tế? Thật ra thì ai cũng biết sự thực đằng sau những mỹ từ ấy là gì rồi.

... See More

Bốn ngàn năm, chỉ cần 40 năm là ô hô ai tai!

Thực sự, Gấu không hiểu, hay đoán ra được, có xứ nào, như xứ Mít VC, 1 thằng chăn trâu, học lớp một, hay tên y tá dạo, chuyên nghề thiến, chích heo nọc, lên làm nguyên thủ quốc gia?
Chắc là không có xứ nào như thế cả, vì là không có thứ người nào, tên nào, học lớp 1, chăn trâu mà lại vô liêm sỉ đến mức ngồi lên đầu cả 1 đất nước!
Tướng Râu Kẽm, đã từng có ít ngày học Thầy Khoan, vậy mà còn bị dân Miền Nam lôi ra diễu.
Một ông bố mắng con, mi không chịu học, lớn lên làm gì. Ông con bèn dõng dạc trả lời, làm Phó Tổng Thống!

40 năm, có thể có tí ánh sáng dọi lên lời nguyền của tên thợ rèn (1) bởi là có vẻ như dân Mít bắt đầu nổi sùng với lũ VC. Và trong đám chúng, cũng bắt đầu xì ra những sự kiện, cho thấy tất cả chỉ là dối trá, và tranh ăn. Nào xe tăng nào húc đổ cổng sắt Dinh Độc Lập, tên VC nào mới là tên đích thực cắm cờ…

Nhưng thôi, bữa nay, chán VC quá rồi, Gấu đếch thèm nhắc tới chúng nữa, làm chuyện gì khác hẳn là phải thú hơn nhiều!

(1)

Câu chuyện thời sự, một người cán chết người, phải ở tù mỗi năm một ngày, đúng cái ngày cán chết người, làm Hai Luá nhớ tới một câu chuyện kinh dị đọc từ hồi còn nhỏ, của Hoffmann, và khủng khiếp hơn nữa, là cứ hơi bị liên tưởng đến ngày 30 Tháng Tư.

Câu chuyện của Hoffmann, như Hai Lúa còn nhớ được đại khái như sau.

Một anh chàng xa quê hương quá lâu, bèn về. Tới làng, thì đã đêm, bèn trọ lại ở quán nước đầu làng. Ở đây, anh ta chú ý tới một ông khách lạ dáng vẻ hết sức bồn chồn, tay đeo một chiếc nhẫn chạm nổi hình một chiếc xe ngựa, bốn con ngựa dáng thật hung hãn, đang phi nước đại.
Sau hồi làm quen, ông khách cho biết, ông là chủ chiếc xe ngựa được khắc trên mặt chiếc nhẫn, và đây là một kiệt tác của một thợ nổi tiếng tại làng này, cách đây năm trăm năm. Ông khách lạ là vị lãnh chúa của vùng này. Mê xe ngựa, mê cho xe chạy như điên trên đường làng, và một lần, đã cán chết đứa con gái nhỏ của ông thợ.

Quá đau đớn, và cũng để trả thù cho đứa con, người thợ này cặm cụi khắc chiếc xe ngựa lên chiếc nhẫn, và nguyền: Mi mê phóng ngựa, thì ta cho phóng ngựa. Cứ mỗi năm, đúng vào ngày mi cán con ta, mi sẽ phải trở về đây, cưỡi chiếc xe này, phóng vòng đua này, rồi sau đó, đi lang lang như người Do Thái phạm tội giết Chúa, đến ngày đến tháng lại trở về.
Khi vòng đua cuối cùng của năm trăm năm được thực hiện, chiếc xe ngựa trên chiếc nhẫn mà ông khách trao tặng anh chàng kể chuyện này, cứ thế mờ dần, và biến mất.

Nhân câu chuyện thời sự, Hai Lúa bỗng nhớ lại câu chuyện ma quái trên, và cứ tưởng tượng một cách thật là ma quái rằng thì là có một dân tộc bị lời nguyền, cứ đến ngày 30 Tháng Tư, là lại diễn lại cái tuồng cuộc chiến 30 năm mới có ngày 30 Tháng Tư này, vui sao nước mắt lại trào?
*
Này coi chừng, tẩu hỏa nhập ma đấy, cha nội!
Hai Lúa lại bỗng nhớ đến một lời cảnh cáo của một vị độc giả Tin Văn.
*
Lần này thì không kêu lên “Coi chừng bị THNM”, mà gật gù đồng ý, rằng đúng như thế, dân tộc kia rõ ràng là bị một lời nguyền độc địa, khiến mỗi lần chỉ nghe nói đến 30 Tháng Tư là đã rợn cả người, không biết nên quên hay nên nhớ.

Chao ôi, chẳng lẽ chúng ta cũng bị một ông thợ rèn nào đó trù yểm, một ngàn năm nô lệ chú Chệt, một trăm năm nô lệ thằng Tây, ba mươi năm nội chiến từng ngày, và năm trăm năm sau vẫn còn lang thang chờ khóc một 30-4?
K.

Blogger Điếu Cày gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama

Đây cũng là 1 “tín hiệu” soi sáng- hay làm mờ (?) - lời nguyền của anh hàn nồi!
Có thể nói, DC là người đầu tiên thắng hai trận giặc, VC ở trong nước và Ngụy, nhất là lũ CCDC -Chống Cộng Điên Cuồng - ở hải ngoại!

Bộ lạc Cờ Lăng thèm làm quen anh lắm!

*

HỘI NGHỊ Á-PHI BANDUNG 2015 TẠI INDONESIA

http://www.aacc2015.id/images/foto/galeri/1429854802.jpg   << web site này hơi chậm

http://www.aacc2015.id/?p=detberita&id=385    << diễn văn của TT Indonesia, cũng có hình 3 cờ vàng

Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện tại HỘI NGHỊ Á-PHI BANDUNG ngày 24/4/2015  tại INDONESIA.
Có hai hàng cờ, cờ vàng 3 sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng đứng gần nhau ở hàng thứ nhất.
Từ phải sang trái, cờ vàng ở vị trí thứ hai, cờ đỏ ở vị trí thứ ba.
Có cả Trương Tấn Sang đứng chụp hình (hàng đầu)  ....
Chủ Tịch nhà nước TQ, Tập Cận Bình đang bước xuống bậc thềm dưới bóng cờ VNCH......

Đầu tháng, lòi ra bài này, tếu thế:
/Tribute_1/30.4.14.html
30 Tháng Tư, năm ngoái!
*

30.4.2014

 Chính là trong số báo trên, cho biết, “mẫu quốc” gần như quỳ lạy Vẹm, xin đừng gây chiến, nhưng Vẹm nói, không được.
[Không "toàn quốc kháng chiến", là không làm sao làm cỏ đám Việt Gian - tức những tổ chức đảng phái quốc gia không theo Vẹm]


Nghe cô giảng giải về một miền đất không hoàn toàn giản dị. Phải nhạy cảm lắm mới nhận ra chút dấu hiệu thật mơ hồ, mong manh của sự chuyển mùa: Mối tình lúc đầu giống như chớm thay đổi thời tiết.... Sau này nhớ lại, đã thực sự yêu thương, không phải lần vì quá cô đơn, lén viết lên trang tiểu thuyết Tô Hoài cô đang đọc, trong lúc cô lui vào trong, Je vous aime, nhưng khi tới báo tin đứa em trai tử trận, không gặp, đành nhờ một cô bạn ở chung nhà nói giùm, tin chắc cô sẽ hiểu.

Cõi Khác

Elegy for a Country’s Seasons

Bi khúc dành cho “Mùa Hè Miền Nam”

Zadie Smith

April 3, 2014 Issue 

There is the scientific and ideological language for what is happening to the weather, but there are hardly any intimate words. Is that surprising? People in mourning tend to use euphemism; likewise the guilty and ashamed. The most melancholy of all the euphemisms: “The new normal.” “It’s the new normal,” I think, as a beloved pear tree, half-drowned, loses its grip on the earth and falls over. The train line to Cornwall washes away—the new normal. We can’t even say the word “abnormal” to each other out loud: it reminds us of what came before. Better to forget what once was normal, the way season followed season, with a temperate charm only the poets appreciated.

What “used to be” is painful to remember.

Ui chao, không lẽ khí hậu, con người Bắc Kít khắc nghiệt làm khí hậu Nam Kít cũng bị ảnh hưởng:
Chúng ta không chỉ mất quê hương, mà còn mất luôn cả khí hậu hiền hòa ngày nào của nó.
Cái “vốn xưa kia” mới đau nhức làm sao, khi nhớ lại.

THNM nặng quá rồi, hà, hà!

Oh, what have we done! It’s a biblical question, and we do not seem able to pull ourselves out of its familiar—essentially religious—cycle of shame, denial, and self-flagellation. This is why (I shall tell my granddaughter) the apocalyptic scenarios did not help—the terrible truth is that we had a profound, historical attraction to apocalypse. In the end, the only thing that could create the necessary traction in our minds was the intimate loss of the things we loved. Like when the seasons changed in our beloved little island, or when the lights went out on the fifteenth floor, or the day I went into an Italian garden in early July, with its owner, a woman in her eighties, and upon seeing the scorched yellow earth and withered roses, and hearing what only the really old people will confess—in all my years I’ve never seen anything like it—I found my mind finally beginning to turn from the elegiac what have we done to the practical what can we do?

Ui chao Nam Kít đã làm cái gì để xẩy ra như vầy? Và bây giờ, chúng ta có thể làm gì?
Thì đành “hồi hộp trở về”, chứ biết “nàm sao” bi giờ!

*

TRUCE TREACHERY As festive crowds shopped, VC sappers prepared to strike. While the intensity of the onslaught was unknowable, MPs were ready to react quickly, as they did at the U.S. Embassy.

'Accompanied by an NYA radio specialist with prerecorded tapes, the sappers were prepared to broadcast the fall of the Saigon government'.

Quả lừa ngưng bắn ăn Tết của VC. Trận Mậu Thân, Bắc Kít đã thu sẵn những cuộn băng phát thanh ăn cướp Miền Nam OK rồi, từ Hà Nội.





*&

Số báo tuyệt vời, Tháng Tư 1975

"Tôi mang cái chết đến cho những người thân của tôi
Hết người này tới người kia gục xuống.
Ôi đau đớn làm sao! Những nấm mồ
Đã được tôi báo trước bằng lời."

"I brought on death to my dear ones
And they died one after another.
O my grief! Those graves
Were foretold by my word."

Anna Akhmatova 

Saigon, qui meurt…

Saigon, qui meurt…

Khi người ta chôn một thời đại
Chẳng lời hát tang chế nào cất lên.
Để trang trí cho mộ phần kia
Chỉ thấy cúc gai với tầm ma
Và chỉ có bọn đào huyệt hối hả
Ra tay nhanh gọn vùi lấp nó.
Giữa niềm im lặng sâu không đáy
Khiến ta nghe được thời gian đi qua.
Rồi thời đại nổi lên như thi thể
Lênh đênh sông nước lúc xuân về.
Nhưng đứa con chẳng còn nhìn ra mẹ
Và thằng cháu quay lưng vì quá chán.
Nhựng các cái đầu càng cúi thấp hơn
Dưới đòn cân chậm chạp của vầng trăng .

Niềm im lặng ấy trị vì
Trên Paris đang chờ chết.

Note: Thi sĩ Chân Phương, có thể giỏi tiếng Tẩy, tiếng Anh, nhưng tiếng Việt, theo GCC, quá tệ. “Qui meurt” làm sao mà là “đang chờ chết”?
Tệ lắm, thì cũng “đang chết”!

Bài thơ làm năm 1940, tức là cùng thời với Kinh Cầu.
Bèn lục tìm bản tiếng Anh, của Lyn Coffin: 

IN 1940

1.

When they bury an epoch,
No psalms are read while the coffin settles,
The grave will be adorned with a rock,
With bristly thistles and nettles.
Only the gravediggers dig and fill,
Working with zest. Business to do!
And it's so still, my God, so still,
You can hear time passing by you.
And later, like a corpse, it will rise
Ride the river in spring like a leaf,-
But the son doesn't recognize
His mother, the grandson turns away in grief,
Bowed heads do not embarrass,
Like a pendulum goes the moon.

Well, this is the sort of silent tune
That plays in fallen Paris.

2. To LONDONERS

The twenty-fourth drama by William Shakespeare
Time is writing with a careless hand.
Since we partake of the feast of fear
We'd rather read Hamlet, Caesar, Lear,
By the river of lead where today we stand,
Or carry Juliet, sweet as a kiss,
To her grave, with songs and torches to lead,
Or tremble in darkness as in an abyss
With a hired killer Macbeth will need,-
Only . . . not this, not this, not this,
This we don't have the strength to read!

5.

I warn you, that's the way things are:
This is my final lifetime.
Not as a swallow, reed, or star,
Not as a bell to ring or chime,
Not as the water in a spring,
Not as a maple, branch or beam-
I won't alarm those who are living,
I won't appear in anyone's dream,
Unappeased and unforgiving.

1940

*

Bản tiếng Anh, fallen Paris/Saigon, cho thấy, bị Nazi/VC lấy mẹ nó rồi, "đang chờ chết" cái con khỉ gì nữa!

*

Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Nội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Nội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.

Bài thơ trên, kỳ cục thay - tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong bài thơ nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.
Bài thơ thần sầu nhất của Thơ Ở Đâu Xa: Bài Nhớ Thi Sĩ

Đây là bài thơ khóc Paris vào năm 1940 khi nước Pháp thua trận và thủ đô bị quân Đức chiếm đóng. Tại sao nhà Gallimard lại cho đăng bài thơ này khi Sài gòn đang hấp hối từng ngày? Ban biên tập của NRF có chủ ý gì chăng? Dân Pháp làm gì không biết là Nam Việt Nam sắp mất!

Chân Phương

Theo GCC, đây là tờ báo nhắn dân Miền Nam, tụi mi sẽ chịu chung với chúng ông, mẫu quốc ngày nào của mi, cái nhục đô hộ.
Chứng cớ rõ ràng, là cũng vào đúng thời điểm đó, trước đó tí ti, tức là khi Sài Gòn còn ngấp ngoải đang chờ chết, thì Solzenitsyn, khi trả lời chương trình Apostrophes trên TV Tẩy, của Pivot, đã tiên đoán, chắc như bắp, Bắc Kít sẽ ăn cướp Miền Nam, và đây cuộc chiến xâm lược, tranh giành ảnh hưởng giữa những tên thực dân, chẳng phải giải phòng dân tộc cái con mẹ gì hết. (1)

(1)

Cái cú khẳng định, tôi sẽ trở về trước khi chết, và khi đó đế quốc Đỏ đã sập tiệm, Solz phán gần như ngay sau khi bị tống xuất, trong chương trình văn học Apostrophes của đài truyền hình Pháp, của Bernard Pivot, vào tháng Tư 1975, tức là đúng lúc Miền Nam đi đoong. Vì vậy ngoài khẳng định sẽ về, còn tiên đoán về số phận Miền Nam: Miền Bắc sẽ chiếm đóng Miền Nam, chẳng có giải phóng giải phiếc gì hết [Soljenitsyne prophétisant la mainmise du Nord sur le Sud. Bernard Pivot: Le métier de lire, Nghề đọc]
Tay Pivot này phỏng vấn Solz hai lần [cho chương trình Apostrophes do ông chủ trì, sau đó, cho chương trình Bouillon de culture, khi Apostrophes sập tiệm]. Lần đầu, vừa kể, nhân dịp cuốn Le Chêne et le Veau, bản tiếng Tây, tất nhiên, ra lò ở Tây. Lần thứ nhì, tại Vermont, nơi cư ngụ của Solz. Lần đầu, chỉ bốn tháng sau khi chương trình văn học Apostrophes xuất hiện. Pivot, khi nhớ lại, vẫn còn cảm động, ui chao tôi nhớ là tui hơi run run khi đứng trước người khổng lồ, sống sót ba trận đại dịch của thế kỷ 20: chiến tranh, ung thư, và trại tù. Tôi thấy mình thật nhỏ bé trước người khổng lồ và cuốn sách mới ra lò… Người ta chê trách tôi, tại sao không mời thêm một tay trí thức CS để đấu tay đôi với ông ta. Lúc đó, thì thứ này vẫn còn ở Tây.
Tôi [Pivot] không nghĩ, Solz chấp nhận, nhưng còn vấn đề này căng hơn nhiều: Làm sao để một người khổng lồ kế bên một con bọ?

Ngay cả cái chuyện Y Tá Dạo, chuyên chích heo nọc, Sáu Dzũng, tố cáo Mẽo xâm lược, gây ra cuộc chiến Mít, cũng bố láo.
Bắc Kít cố tình gây ra cuộc chiến, để dzụ Mẽo vô Miền Nam rồi khiến chúng sa lầy, khi phịa ra cú đầu độc tù VC.
Bao nhiêu tội ác của Mẽo, sau đó, là do trúng cái đòn giả này, và sợ mất Miền Nam sẽ ảnh hưởng tới trật tự cả vùng.
Bài viết mới nhất của Người Kinh Tế, về cuộc chiến Mít 40 năm sau, vẫn nêu lên vấn nạn này:

*

Banyan

Forty years on

The strategic order in place in Asia since the Vietnam war is being challenged

Trong Về những nhà thơ và những người khác, On poets and Others, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài về Gulag, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước. Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN, bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến giành độc lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của ông [dù hạn chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1 chứng liệu.

Note: Không hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê Solz?
GCC sợ rằng, Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực dân cũ [Tẩy], và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.
Làm đếch gì cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú…  ăn cướp? Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!




*

Toronto Star, 30.4.2015

*

*

Giấc mơ sắp sửa trở thành hiện thực, thì đúng lúc đó, số mệnh chen vô.
Nó lấy hết, chừa lại mình tôi.
Tại sao?
Nguyễn Ngọc Ngạn.

Ký giả, phóng sự gia, nhiếp ảnh viên Toronto Star và chuyến đi có ông, và con tầu chật cứng thuyền nhân vào năm 1975.
Chừng 77 ngàn người Việt được tái định cư tại Canada.

EMPIRES

My grandmother prophesied the end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet. 

One of your heroes was giving a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.

There was no need to. They were all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure 1 understood.

Charles Simic

 

Đế Quốc [Đỏ]

Bà tôi tiên đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.

Một trong những anh hùng, Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà. 

Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.


*

Search and Rescue

On the evening of May 22, 1988, a hundred and ten Vietnamese men, women, and children huddled aboard a leaky forty-five-foot junk bound for Malaysia. For the price of an ounce of gold each—the traffickers’ fee for orchestrating the escape—they became boat people, joining the million or so others who had taken their chances on the South China Sea to flee Vietnam after the Communist takeover. No one knows how many of them died, but estimates rose as high as one in three. The group on the junk were told that their voyage would take four or five days, but on the third day the engine quit working. For the next two weeks, they drifted, while dozens of ships passed them by. They ran out of food and potable water, and some of them died. Then an American warship appeared, the U.S.S. Dubuque, under the command of Captain Alexander Balian, who stopped to inspect the boat and to give its occupants tinned meat, water, and a map. The rations didn’t last long. The nearest land was the Philippines, more than two hundred miles away, and it took eighteen days to get there. By then, only fifty-two of the boat people were left alive to tell how they had made it—by eating their dead shipmates.

*

TATYANA TOLSTAYA

Mặc khải về Cái Ác Bắc Kít, cội nguồn của cuộc chiến Mít hồi I [chống Việt Gian & Tẩy] và hồi II [chống Mỹ Ngụy], của GCC, là từ bài viết của Tolstaya, khi tới được Trại Tị Nạn Thái Lan, đọc 1 số báo Thế Kỷ 21, của 1 thuyền nhân, chắc là được 1 bà con ở Mẽo gửi qua.
Đùng 1 phát, cái rìu phá băng [của Kafka] bổ trúng đầu, vỡ hết cái ngu về huyền thoại VC, Vẹm, về chiến thắng vĩ đại, đỉnh cao chói lọi cái mẹ gì đó!
Cái tít của bài báo, là Những Thời Ăn Thịt Người.
Mãi sau này, mới đây đúng hơn, GCC mới có được nguyên bản tiếng Anh của bài viết.
Nhân 30 Tháng Tư năm nay, bèn scan & post trên Tin Văn, thủng thẳng dịch lai rai hầu quí vị độc giả thân quí.

The Great Terror and the Little Terror

Review of The Great Terror: A Reassessment, by Robert Conquest (Oxford University Press, 1990)

LAST YEAR Robert Conquest's The Great Terror was translated into Russian and published in the USSR in the journal Neva. (Unfortunately, only the first edition was published. I hope that the second, revised and enlarged edition will be published as well, if it is not suppressed by the censorship recently revived in the Soviet Union.) The fate of this book in the USSR is truly remarkable. Many of those who opened Neva in 1989-90 exclaimed: "But I know all this stuff already!" How did they know it? From Conquest himself.
    The first edition appeared twenty years ago in English, was translated into Russian, and infiltrated what was then a closed country. It quickly became an underground best seller, an there's not a thinking person who isn't acquainted with the book in one form or another: those who knew English read it in the original, while others got hold of the Russian text, made photocopies at night, and passed them on. The book gave birth much historical (underground and émigré) research, the facts were assimilated, reanalyzed, argued, confirmed, elaborated. In short, the book almost achieved the status of folklore, and many Soviet people measure their own history "according to Conquest," sometimes without realizing that he actually exists. This is why many readers, especially the younger ones, thought of Conquest's book as a compilation of "commonly known facts" when they read it for the first time. The author should be both offended and flattered.
    This is a book about the Stalinist terror, about the Great Terror, which began in the thirties and continued-growing and fading- until the death of the Great Tyrant in 1953.
    The very expression "Great Terror" leads to the idea of the "Little Terror," which remains necessarily outside the confines of this book. Of course, no one can write a book about Russia that includes everything, explains everything, weaves together the facts and motifs of history, revealing the root system that every so often puts out shoots and suddenly blossoms into the frightful flower of a Great Terror. I'm reminded of the protagonist of Borges's story "Aleph," who tried to create a poem that described the entire universe- but failed, of course. No one can possibly accomplish such a task. The Little Terror in Russia has been around from time immemorial. It has lasted for centuries and continues to this very day. So many books have been written about the Little Terror! Virtually all the literature of the nineteenth century, which is so valued in the West, tells the story of the Little Terror, sometimes with indignation, sometimes as something taken for granted, and tries to understand its causes, explain its mechanisms, give detailed portraits of its victims: individual personalities, entire classes, and the country as a whole. What is Russian society and why is it the way it is? What can and must be done in order to free ourselves of this all-permeating terror, of total slavery, of fear of any and everyone? How do we ensure that an individual's fate does not depend on others' whims? Why is it that any revolution, any attempt to rid Russia of terror, leads to an even greater terror?
    Russia didn't begin yesterday and won't end tomorrow. The

EMPIRES

My grandmother prophesied the end
Of your empires, O fools!
She was ironing. The radio was on.
The earth trembled beneath our feet. 

One of your heroes was giving a speech.
"Monster," she called him.
There were cheers and gun salutes for the monster.
"I could kill him with my bare hands,"
She announced to me.

There was no need to. They were all
Going to the devil any day now
"Don't go blabbering about this to anyone."
She warned me.
And pulled my ear to make sure 1 understood.

Charles Simic

 

Đế Quốc [Đỏ]

Bà tôi tiên đoán ngày tàn của đế quốc [VC].
Ôi, lũ khùng, điên, vô lại, bất nhân…
Bà đang ủi đồ. Đài phát thanh thì đang ra rả, "Nối Vòng Tay Nhớn".
Mặt đất rung chuyển dưới chân chúng tôi.

Một trong những anh hùng, Sáu Dân, đang diễn thuyết.
“Tên Quỉ Đỏ,” bà tôi la lên.
Có những tiếng vỗ tay, tiếng súng hoan hô chào mừng Sáu Dân.
"Ta có thể giết nó, bằng đôi tay trần của ta".
Bà tôi tuyên bố với thằng cháu của bà. 

Bà ui, đâu cần làm dzậy.
Tất cả bọn chúng thành Quỉ thành Ma thành Bọ liền tức thì mà Bà.
“Đừng có mà rỉ tai cho bất cứ ai nghe Tin Mừng đó!”
Bà tui cảnh cáo.
Và kéo tai tôi đến đỏ ửng, để tin chắc thằng cháu của bà đã hiểu.


*

Search and Rescue

On the evening of May 22, 1988, a hundred and ten Vietnamese men, women, and children huddled aboard a leaky forty-five-foot junk bound for Malaysia. For the price of an ounce of gold each—the traffickers’ fee for orchestrating the escape—they became boat people, joining the million or so others who had taken their chances on the South China Sea to flee Vietnam after the Communist takeover. No one knows how many of them died, but estimates rose as high as one in three. The group on the junk were told that their voyage would take four or five days, but on the third day the engine quit working. For the next two weeks, they drifted, while dozens of ships passed them by. They ran out of food and potable water, and some of them died. Then an American warship appeared, the U.S.S. Dubuque, under the command of Captain Alexander Balian, who stopped to inspect the boat and to give its occupants tinned meat, water, and a map. The rations didn’t last long. The nearest land was the Philippines, more than two hundred miles away, and it took eighteen days to get there. By then, only fifty-two of the boat people were left alive to tell how they had made it—by eating their dead shipmates.


Ẩn dụ bóc hành đã một lần được Günter Grass sử dụng ngoạn mục trong một chương gần cuối cuốn "Cái trống sắt". Ông cho giới khá giả ở thành phố Düsseldorf đêm đêm đến một tiệm ở tầng hầm, nơi họ được phát dao, thớt và một củ hành để bóc, để thái, để tràn nước mắt, những giọt nước mắt mà tự họ không biết khóc nếu thiếu chất kích thích. Bóc hành, họ được khóc thả cửa, được xả hết những lời sám hối và thú nhận, những ẩn ức, mặc cảm tội lỗi và những nhát cắn của lương tâm. Nửa thế kỉ xen vào giữa hai lần bóc hành. Lần đầu là nước mắt của các nhân vật tiểu thuyết. Lần sau là nước mắt của chính nhà văn.
Nhà văn Việt Nam, ai sẽ phải bóc hành để trả lời biết bao nhiêu câu hỏi từ di sản của những cuộc chiến tranh cũng đầy tội lỗi? 

FB / PTH 

Gấu Cà Chớn đọc Grass, mà không biết là Grass, từ hồi còn Miền Nam, qua 1 truyện ngắn đăng trên tờ Bách Khoa, Quán Củ Hành, mà ý nghĩa của nó, không ghê gớm như Sến giải thích, ở trên, mà chỉ như 1 nơi chốn, đến để xả xú bắp, như thường gọi.
Bạn cần 1 chỗ để khóc, hay để cười, như trong bài viết dưới đây, của Simic cho thấy (1) 

Sau này, ra hải ngoại, có biết đến Grass, qua những bài viết của thí dụ, Rushdie, nhưng ông không phải thứ nhà văn thuộc dòng Gấu mê, như, thí dụ Faulkner, Borges. 

(1)  Trên tràng kỷ với Philip Roth, Ở nhà xác, với Pol Pot 

Như là luật, tôi đọc thơ ở trên giường; triết và tiểu luận nghiêm túc ngồi trên ghế, ở nơi bàn viết; báo chí khi ăn sáng hay trưa, và tiểu thuyết thì nằm dài trên tràng kỷ.
Căng nhất là tìm ra một chỗ thật ngon để đọc lịch sử, bởi vì cái thứ mà bạn đọc đó, thì đầy rẫy những bất công, những điều ghê rợn, và một khi bạn đọc nó, thì có lẽ nên đọc ở ngoài vườn, vào một ngày hè đẹp trời hay là khi đi xe buýt trong thành phố, bạn cảm thấy bực bội, bị làm phiền, nhờ vậy mà thành ra may mắn. Nhưng có lẽ nhà xác của một thành phố là chỗ thật thích hợp để đọc về Stalin và Pol Pot.
Lạ lùng làm sao, cũng như vậy, là với hài kịch. Ðâu có dễ mà tìm được đúng chỗ, và hoàn cảnh để tự cho phép mình cười một cách thoải mái, tự do. Tôi lại nhớ cái lần đọc Joseph Heller’s Catch 22 cách đây nhiều năm, khi ngồi trên xe điện ngầm đông người ở New York, trên đường đi làm, và cứ vài phút lại cười hô hố một cách thật là sảng khoái. Một vài hành khách nhìn tôi mỉm cười, trong khi những người khác tỏ ra rất ư là bực bội. 

Tuy nhiên, câu cuối của bài viết của Sến, về ông thầy đã hết còn là thầy của Sến, làm Gấu nghĩ đến cõi văn Bắc Kít.
Bà này quá hoang tưởng về đám Bắc Kít.
Làm gì ra 1 tên Bắc Kít….  bóc hành.
Một tên già như NN, sau khi tuyên bố, quá sợ anh hùng, bản thân anh già là cha đẻ quái vật Núp, sau khi cho xb toàn tập tác phẩm, đâu có dzục thùng rác quái vật Núp?
Phải có 1 tên ngập máu Ngụy dám sám hối, thì mới mong có chuyện bếp núc bóc hành thường ngày.

*

Bếp Lửa Ottawa

*

Grass cực bảnh, theo GCC. Cái cú thú tội của ông thần sầu, khó có ai bắt chước được.
Chỉ cần 1 tên nhà văn Bắc Kít làm được như ông, là lịch sử xứ Mít đổi khác.
Lũ tinh anh của chúng, tên nào, não cũng bị thiến 1 mẩu, là thế!
*

Bức "Tự họa & Hành", chính tay Grass vẽ, cho cuốn sách của ông. Báo Người Quan Sát Mới, số 24-30 Tháng Tám.
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài phỏng vấn Daniel Cohn-Bendi, một nghị viên Âu Châu, của tờ Người Quan sát Mới, nhân cú Tự Thú Trước Bình Minh của Grass.
Tại sao lại phải để bằng đó năm tháng, mới dám xì ra, chỉ một cú bốc đồng của tuổi trẻ, nhất là đây lại là một nhà văn lớn, một ông luật sư của sự thực?
Cái đầu đề bài phỏng vấn, mới thật là ngộ: "tache", vết chàm, "lâcheté", sự hèn nhát, hai từ đọc lên na ná, lại còn kéo thêm từ "tâche", bổn phận, nhiệm vụ.

*

-Ông nghĩ sao về cái cú tự thú của Grass?
Daniel Cohn-Bendi: Tôi nghĩ đến cuốn tiểu thuyết Vết Chàm của Philip Roth. Sau cùng vậy là ai cũng có một vết chàm trong cuộc đời của mình, ngay cả những ông tổ sư đạo đức của thời đại chúng ta. Gunter Grass như vậy là cũng có vết chàm của ông ta trong đời. Thật buồn cho ông ta, và những lời giải thích của ông ta thì thật là thảm hại. Nhưng như vậy làm cho ông càng thêm người hơn. Theo một nghĩa nào đó, điều này còn làm cho chúng ta an tâm.
-An tâm, khi tiếng tăm của ông ta trở thành tăm [tai] tiếng? Một người như Grass?
Tôi nghĩ như vậy. Điều này làm cho chúng ta an tâm, về chính cuộc đời đáng thương của chúng ta! Nó cho thấy, ngay cả trong văn chương, cũng đếch có siêu nhân!
...

-Nhưng còn giải thưởng Nobel văn chương thì sao? Chẳng lẽ Grass phải trả lại?
Hỏi gì ngu thế. Nếu phải trả lại, thì Garcia Marquez cũng phải trả. Nobel văn chương, cho ông nhà văn, chứ đâu cho ông thánh!

*

Chuyện của Grass làm Gấu nhớ một câu chuyện ngụ ngôn đọc khi còn nhỏ, về một anh chàng cứ mỗi lần phục vụ Quỉ Sứ là bèn đóng một cái đinh lên "thập tự thơ". [Chữ này Gấu chôm của thi sĩ NĐT khi ông vinh danh một nhà thơ đang còn sống và hiện đang sống ở trong nước]. Sau này, khi đã buông dao đồ tể, mỗi lần làm được một việc phúc đức, thì lại nhổ một cây đinh ra khỏi thập tự ác. Thế rồi, cây thập tự sạch đinh. Anh ta mừng quá, ngồi... khóc.
Hỏi tại sao. Vưỡn còn những dấu đinh!
Ôi chao còn dấu đinh, là một điều quá tuyệt vời, chứ sao lại khóc?
Một cái thập tự không có dấu đóng đinh, thì ai thèm!
Mong sao nhà thơ ở trong nước vào lúc này đang hì hục nhổ những cái đinh ra khỏi thập tự thơ, cùng với cả thế hệ nhà văn nhà thơ của ông ta! NQT.


Tầm nhìn ở đầu gối

Note: Cái tít làm GCC nhớ đến cuốn sách của ông thầy tiếng Anh, năm học Đệ Thất, hay Đệ Lục, ở trường Nguyễn Trãi, Hà Nội, “She stoops to conquer”, nàng cúi xuống để chinh phục!
Bài viết này cũng nhắm đúng ý đó.
Tưởng dzậy mà không phải dzậy!
Biết chết liền!
NQT


The Life of Images

On the Couch with Philip Roth, at the Morgue with Pol Pot

Charles Simic

As a rule, I read and write poetry in bed; philosophy and serious essays sitting down at my desk; newspapers and magazines while I eat breakfast or lunch, and novels while lying on the couch. It’s toughest to find a good place to read history, since what one is reading usually is a story of injustices and atrocities and wherever one does that, be it in the garden on a fine summer day or riding a bus in a city, one feels embarrassed to be so lucky. Perhaps the waiting room in a city morgue is the only suitable place to read about Stalin and Pol Pot?

Oddly, the same is true of comedy. It’s not always easy to find the right spot and circumstances to allow oneself to laugh freely. I recall attracting attention years ago riding to work on the packed New York subway while reading Joseph Heller’s Catch 22 and bursting into guffaws every few minutes. One or two passengers smiled back at me while others appeared annoyed by my behavior. On the other hand, cackling in the dead of the night in an empty country house while reading a biography of W.C. Fields may be thought pretty strange behavior too. 

Wherever and whatever I read, I have to have a pencil, not a pen—preferably a stub of a pencil so I can get close to the words, underline well-turned sentences, brilliant or stupid ideas, interesting words and bits of information, and write short or elaborate comments in the margins, put question marks, check marks and other private notations next to paragraphs that only I—and sometimes not even I—can later decipher. I would love to see an anthology of comments and underlined passages by readers of history books in public libraries, who despite the strict prohibition of such activity could not help themselves and had to register their complaints about the author of the book or the direction in which humanity has been heading for the last few thousand years.

Witold Gombrowicz says somewhere in his diaries that we write not in the name of some higher purpose, but to assert our very existence. This is true not only of poets and novelists, I think, but also of anyone who feels moved to deface pristine pages of books. With that in mind, for someone like me, the attraction some people have for the Kindle and other electronic reading devices is unfathomable. I prefer my Plato dog-eared, my Philip Roth with coffee stains, and can’t wait to get my hands on that new volume of poetry by Sharon Olds I saw in a bookstore window late last night.

December 14, 2009 12:55 p.m.

Trên tràng kỷ với Philip Roth,
 Ở nhà xác, với Pol Pot

Như là luật, tôi đọc thơ ở trên giường; triết và tiểu luận nghiêm túc ngồi trên ghế, ở nơi bàn viết; báo chí khi ăn sáng hay trưa, và tiểu thuyết thì nằm dài trên tràng kỷ.
Căng nhất là tìm ra một chỗ thật ngon để đọc lịch sử, bởi vì cái thứ mà bạn đọc đó, thì đầy rẫy những bất công, những điều ghê rợn, và một khi bạn đọc nó, thì có lẽ nên đọc ở ngoài vườn, vào một ngày hè đẹp trời hay là khi đi xe buýt trong thành phố, bạn cảm thấy bực bội, bị làm phiền, nhờ vậy mà thành ra may mắn. Nhưng có lẽ nhà xác của một thành phố là chỗ thật thích hợp để đọc về Stalin và Pol Pot.
Lạ lùng làm sao, cũng như vậy, là với hài kịch. Ðâu có dễ mà tìm được đúng chỗ, và hoàn cảnh để tự cho phép mình cười một cách thoải mái, tự do. Tôi lại nhớ cái lần đọc Joseph Heller’s Catch 22 cách đây nhiều năm, khi ngồi trên xe điện ngầm đông người ở New York, trên đường đi làm, và cứ vài phút lại cười hô hố một cách thật là sảng khoái. Một vài hành khách nhìn tôi mỉm cười, trong khi những người khác tỏ ra rất ư là bực bội.

Mặt khác, quang quác như gà mái đẻ trong cái chết của một đêm đen, trong một căn nhà ở miền quê, khi đọc tiểu sử W.C. Fields thì tâm thần có vấn đề, hơi bị mát dây, hẳn là như vậy.
Ở đâu, đọc, bất cứ cái chi chi, là tôi phải thủ cho mình 1 cây viết chì, không phải viết mực - tốt nhất là một mẩu viết chì, như thế tôi có thể tới thật gần với những chữ, gạch đít những câu kêu như chuông, viết tới chỉ, những ý nghĩ sáng láng, hay, ngu thấy mẹ, những từ thú vị, đáng quân tâm, những mẩu thông tin, và chơi một cái còm ở bên lề trang sách, một cái dấu hỏi, đánh dấu trang, đoạn, đi 1 đường mật mã mà chỉ tôi mới hiểu được, [và có khi, chính tôi cũng chịu thua], như là dấu chỉ đường, nhằm đọc tiếp những trang sau đó. Tôi rất mê đọc một tuyển tập những cái còm, và những đoạn được gạch đít, của những độc giả, trong những cuốn sách lịch sử ở trong thư viện công cộng, đã từng có mặt ở trên trái đất này hàng ngàn năm, mặc dù sự cấm đoán rất ư là chặt chẽ.
Witold Gombrowicz có nói đâu đó, trong nhật ký của ông, là chúng ta viết không phải là để nhân danh những mục đích cao cả, nhưng chỉ để khẳng định cái sự hiện hữu rất ư là mình ên của mình. Ðiều này không chỉ đúng với thi sĩ, tiểu thuyết gia, mà còn đúng với bất cứ 1 kẻ nào cảm thấy bị kích thích, chỉ muốn làm xấu đi 1 trang sách cổ xưa.
Với ý nghĩ này ở trong đầu, một kẻ như tôi thật không thể chịu nổi cái sự ngu si của người đời, khi bị quyến rũ bởi ba thứ quỉ quái như là sách điện tử, “tân bí kíp” Kindle! Tôi khoái cuốn Plato quăn góc của tôi, cuốn Philip Roth của tôi với những vết cà phe, và nóng lòng chờ đợi cái giây phút cực khoái: được mân mê tuyển tập thơ mới ra lò của Sharon Olds mà tôi nhìn thấy vào lúc thật khuya đêm qua, tại khung kính của 1 tiệm sách.

ELEGY IN A SPIDER'S WEB

In a letter to Hannah Arendt, Karl Jaspers describes how the philosopher Spinoza used to amuse himself by placing flies in a spider's web, then adding two spiders so he could watch them fight over the flies. "Very strange and difficult to interpret," concludes Jasper. As it turns out, this was the only time the otherwise somber philosopher was known to laugh.

A friend from Yugoslavia called me about a year ago and said, "Charlie, why don't you come home and hate with your own people?"
    I knew he was pulling my leg, but I was shocked nevertheless. I told him that I was never very good at hating, that I've managed to loathe a few individuals here and there, but had never managed to progress to hating whole peoples.
    "In that case," he replied, "you're missing out on the greatest happiness one can have in life."

I’m surprised that there is no History of Stupidity. I envision a work of many volumes, encyclopedic, cumulative, with an index listing millions of names. I only have to think about history for a moment or two before I realize the absolute necessity of such a book. I do not underestimate the influence of religion, nationalism, economics, personal ambition, and even chance on events, but the historian who does not admit that men are also fools has not really understood his subject.

    Watching Yugoslavia dismember itself, for instance, is like watching a man mutilate himself in public. He has already managed to make himself legless, armless, and blind, and now in his frenzy he's struggling to tear his heart out with his teeth. Between bites he shouts to us that he is a martyr for a holy cause, but we know that he is mad, that he is monstrously stupid.

Bi khúc trong mạng nhện

Trong 1 lá thư viết cho Hannah Arendt, Karl Jaspers kể, về triết gia Spinoza, giải khuây bằng cách bắt mấy con ruồi bỏ vô một cái mạng nhện, và sau đó, bỏ thêm vô hai con nhện, và theo dõi hai đấng nhện quần thảo lẫn nhau, tranh giành mồi.
“Thật khó giải thích, diễn nghĩa”, to interpret, Jaspers kết luận.
Hoá ra là, đó là những khoảnh khắc độc nhất, mà người đời được biết, triết gia nổi tiếng là u sầu này, bật cười.
Một tên bạn của tôi, từ Yugoslavia [Nam Tư ngày nào], một năm trước đây, gọi điện cho tôi, và nói, “Charlie, tại sao mi không về nhà, mà thù hận với đồng bào của chính mi?
Hắn chọc quê tôi. Tuy biết, nhưng tôi vẫn quê. Tôi bèn trả lời, cái chuyện thù hận, thù ghét, tớ không quen, rằng, lâu lâu ghét thằng này, ưa thằng kia, giữa lũ lưu vong hải ngoại, OK, nhưng làm sao mà thù hận trọn dân tộc của tớ cho được.

"Vậy là mi đánh mất cái hạnh phúc lớn lao nhất mà 1 con người có được ở trên cõi đời này rồi!”

Tôi ngạc nhiên, tại sao không có Lịch Sử của sự Ngu Đần, và bèn mơ tưởng một tác phẩm, rất nhiều tập, một bách khoa toàn thư, tích luỹ, thu thập…  với 1 index gồm rất nhiều tên. Cứ mỗi lần nghĩ đến lịch sử, chừng một, hai phút là tôi thèm viết nó, và bèn nhận ra cái sự cần thiết của cuốn sách như thế. Tôi không coi thường, đánh giá thấp, ảnh hưởng của tôn giáo, chủ nghĩa quốc gia, kinh tế học, tham vọng cá nhân, và ngay cả cái gọi là cơ may trong những sự kiện, nhưng một sử gia mà không thừa nhận rằng, con người là lũ khùng, thì người đó chưa thấu đáo về cái đề tài của mình.

           

THE TRUE ADVENTURES OF FRANZ KAFKA'S CAGE

A cage went in search of a bird.
                                 -KAFKA

Cái lồng bèn lên đường làm cách mạng, để tìm con chim.

It occurred to Chairman Mao one day to find out from his chief of secret police how many empty cages there were in China and whether they were being carried about at night by suspicious individuals he was not aware of or were they ghosts of some of his old party comrades whom he had imprisoned and tortured over the years?

Những cuộc phiêu lưu thực của cái lồng chim của Kafka

Khác với "Bác Hồ có 1 con chim, hỏi thăm chị Định, để xìn[xin] cái lông", Bác Mao, một bữa, qua Cớm Tẫu báo cáo, biết được con số lồng trống rỗng, bèn ra lệnh điều tra, liệu chúng đã được những phần tử nghi ngờ làm chuyện hồ nghi trong đêm khuya, hay là đó là hồn ma của những cựu đảng viên bị Bác cầm tù, tra tấn dòng dã qua bao năm tháng.

"Birdcages of the world, free yourself from filthy birds," shouted the young Peruvian revolutionary as he was being led blindfolded before the firing squad.

Vùng lên, hỡi những cái lồng chim trầm luân ở trên thế gian này,"
Anh Trỗi la lớn, trước khi bị Ngụy làm thịt.

Kafka Poet


TTT 2006-2015

Nguyễn Quang Lập

Tháng 4 năm 1976 tôi tròn 20 tuổi, lần đầu tiên nghe ca khúc "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao tôi đã khóc. Tôi khóc không phải chỉ vì đây là điệu valse hay nhất mọi thời đại của ca khúc Việt, chính là vì con người phải sống trong đau khổ bức bối vì một cuộc sống bị kiềm thúc là tác giả của điệu valse hào sảng và thơ mộng, ngọt ngào ấm áp tình người trong niềm vui thống nhất đất nước, không hề thấy một gram khổ đau nào trong từng nốt nhạc của ông.

Lần đầu tiên tôi biết thế nào là tâm hồn một nghệ sĩ lớn.
Chỉ tiếc ước mơ của ông sau ngày thống nhất:"Từ đây người biết quê người/ Từ đây người biết thương người /Từ đây người biết yêu người" ... đã không thành sự thật.

Note: Bài hát này, nếu lời đúng như trên, thì cùng 1 air bánh vẽ với “Như có Bác Hồ”, hay,Thắng trận này sẽ xây dựng cái nhà to đùng....
Bánh vẽ làm sao thành sự thực?

Rõ ràng là, nếu lời đúng như trên, thì tại sao bản nhạc bị cấm, mà phải Đài Moscow mới dám hát, lần đầu tiên?
Lời nhạc thực sự, theo GCC, là, “từ nay người biết quên Người”, tức là quên Vua Bịp.
Đó là thông điệp của Văn Cao ngày 30 Tháng Tư
Văn Cao, giết người, đau quá, bặt tiếng, đến 30 Tháng Tư mới lên tiếng, nhắn nhủ Mít, phải quên Người [viết hoa] đi, thì mới biết thương người [không viết hoa].
Trên TV hình như đã lèm bèm về vụ này.
Nhưng, hỏi Bọ Lập, có lần nào "tôi đã khóc" cho 1 tên...  Ngụy chưa?
Hình như chưa có tên VC nào thỏ thẻ, tớ có lần thương lũ Ngụy bị nhà nước cải tạo lâu quá, bật khóc?
Phải 1 Bọ Lập đã khóc vì đã từng dúng tay vào máu Ngụy, thì mới đáng nói, chứ bánh vẽ khóc hoài, chán lắm!
Phải có 1 tên VC có dũng khí nói ra lời thực, như DTH, thí dụ, thì may ra mới có thay đổi.
Nên nhớ, và phải nên nhớ, cả hai cuộc chiến dân Mít đều bị VC bịp. Cả hai đều bị VC cố tình làm cho nó xẩy ra để thủ lợi.
Khốn nạn nhất, chúng lạy thằng Tẫu, kẻ thù truyền kiếp của Mit, để chiến thắng, và đẩy dân Mít vào cái thế như hiện nay.
Làm đéo gì có sự thực mà "không thành sự thực", đúng như câu của Wat sau đây:

Sacrifice the children-an old story, pre-Homeric-so that the nation will endure, to create a legend.
-ALEKSANDER WAT

Mistaken ideas always end in bloodshed, but in every case it is someone else's blood. This is why our thinkers feel free to say just about everything.
-CAMUS

Charles Simic trích dẫn, trong bài viết Bi khúc trong mạng nhện, ELEGY IN A SPIDER'S WEB, The Life of Images
Tư tưởng lầm lạc tận cùng trong biển máu, nhưng trong mọi trường hợp, máu người khác, đếch phải máu Bọ Lập, hay NN!

/Tuong_niem/mua_xuan_dau_tien.html

Chú thích của Tin Văn:
Bài Mùa Xuân Đầu Tiên, do những câu như: "Từ đây người biết quên Người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu Đời...",  ngay sau khi sáng tác xong, đã bị cấm. Nơi trình diễn đầu tiên, mùa xuân đầu tiên của bài hát, là đài phát thanh Moscow, nơi cất lên những âm thanh, và những lời ca đầu tiên của nó.

Câu hỏi của người con Văn Cao, "Vậy là bố lại sáng tác ca khúc?", là muốn nhắc tới lời của ông bố, trong cuộc nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sau đăng trên Hợp Lưu, trích đoạn:

Hồi nhận viết Tiến Quân Ca tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát mà một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viên biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng vào một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy. Thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng và chỉ viết nhạc không lời.
Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca

Dostoevsky bắt đầu viết Những Con Quỉ năm 1869, khi đó ông 48 tuổi. Ông vừa hoàn tất và cho in Gã Khờ; ông viết xong Người Chồng Muôn Thưở. Ông sống ở Âu châu (Florence và Dresden), từ hai năm trước đó, vừa để trốn chủ nợ, vừa kiếm một chỗ tương đối thanh thản. Ông có trong đầu một cuốn tiểu thuyết về niềm tin và cái sự mất nó, và ông đặt tên là Atheism, the Life of a Great Sinner [Vô thần, cuộc đời một tay tổ sư tội lỗi]. Ông quá tởm đám Hư vô chủ nghĩa, những kẻ mà chúng ta có thể gọi là nửa vô chính phủ, nửa tự do [liberal], và ông đang viết một cuốn tiểu thuyết chính trị chế nhạo bọn này về sự thù hận truyền thống Nga, say mê Tây phương, và không có niềm tin của họ. Sau khi loay hoay với cuốn sách được một dạo, ông mất hứng, và hứng khởi lại bùng lên, (chỉ một tay lưu vong mới có thể có được cái sự thú vị này], khi ông đọc báo chí Nga [chắc giống như bi giờ đọc VN-Express?], và nghe qua một người bạn của bà vợ, về một vụ sát nhân có tính chính trị. Năm đó, một sinh viên đại học tên là Ivanov đã bị bốn ông bạn quí, cũng sinh viên, làm thịt, vì nghi anh ta là ăng ten của cảnh sát. Cái tổ cách mạng mà mấy ông bạn quí giết lẫn nhau đó, là nằm trong một màng lưới lớn lao hơn, được cầm đầu bởi Nechayev, thông minh, xảo quyệt, và ma quỉ. Trong Những Con Quỉ, nhân vật Stefanovich Verhovensky đóng vai Nechayev, và, như trong đời thực, anh ta và mấy ông bạn quí (Tolchenko, Virginski, Shigalev, và Lamshin) giết chết ông bạn quí Shatov, vì nghi làm ăng ten, tại một công viên, rồi ném xác xuống một cái hồ.

Vụ giết người khiến Dostoevsky có dịp nhìn lại những giấc mơ, cách mạng và không tưởng, của đám Hư vô chủ nghĩa Nga, và những kẻ sùng bái Tây phương, và khám phá ra, có một sự ham muốn quyền lực dữ dằn, có một nỗi đam mê được ngự trị ở trên đầu trên cổ, vợ con, bạn bè, những người chung quanh, và rộng ra, cả thế giới của chúng ta. Và chính vì vậy, mà tôi, [Pamuk], khi còn trẻ, một tên tả phái, [as a young leftist], đọc Những Con Quỉ, với tôi, có vẻ, đây là câu chuyện không phải về một nước Nga một trăm năm trước đó, nhưng mà là về Thổ Nhĩ Kỳ, cái xứ sở ngã quỵ, quy hàng trước cái đám chính trị gia mê cải tổ, mê tiến bộ, mê đổi mới, nhưng lại ngập đầu, cắm rễ ở trong bạo lực.

 Ui chao, cứ như thể Dostoevsky thì thầm vào tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí mật của linh hồn, đẩy tôi vào xã hội của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những giấc mộng thay đổi thế giới, nhưng bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và hơi bị thích thú cái trò khốn nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách mạng (1), đầy đọa, làm nhục, làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách mạng, không chịu cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.

 (1) Đúng là tình cảnh nước Mít, năm 1945, trong có hoàn cảnh một nhạc sĩ, nhà thơ, vì bát cơm của tổ trưởng tổ cách mạng, me-xừ Vũ Quí nào đó, mà phải cầm súng đi làm thịt tay ăng ten cho hiến binh Nhật, Đỗ Đức Phin, và sau này, sám hối, viết Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca. (a)

Ui chao, cứ như thể Dostoevsky thì thầm vào tai tui, dậy cho tui cái ngôn ngữ bí mật của linh hồn, đẩy tôi vào xã hội của đám tiến bộ, tuy, bừng bừng vì những giấc mộng thay đổi thế giới, nhưng bị khoá chặt ở trong những hội kín hội hở, và hơi bị thích thú cái trò khốn nạn, đánh lừa những kẻ khác, nhân danh cách mạng, đầy đọa, làm nhục, làm mất nhân phẩm, những người không nói thứ ngôn ngữ cách mạng, không chịu cùng chia sẻ viễn ảnh về một ngày mai ca hát của chúng.

Pamuk đọc Dos, và nhìn ra đất nước Thổ của ông. Cũng thế, GCC đọc Dos, đọc Pamuk, và nhìn ra xứ Bắc Kít những ngày 1945.
Khi GCC trở về lại Đất Bắc, là cũng muốn chứng nghiệm cái đọc, cái sống của mình, ở 1 Miền Nam tự do, ở hải ngoại, khi đối diện với quá khứ Bắc Kít của mình. Và nhất là, để tìm hiểu, tại làm sao ông cụ của Gấu không theo Việt Minh, và nhờ thế, tránh cho đám con cái cái nhục, con của liệt sĩ!

Weil, khi nhìn quân đội Nazi tiến vô Paris, nhìn nước Pháp bị Nazi đô hộ, đã vui mừng thốt lên, đây là ngày hội của những nước bị Pháp bắt làm nô lệ, trong có xứ Đông Dương.

Nước Pháp sau khi nhờ Đồng Minh giải phóng, đau cái nhục đô hộ mà đến những ngày giờ này vưỡn còn đau, qua 1 ông Nobel văn chương Modiano cho thấy, không hề muốn uýnh nhau với Vẹm.
Chúng năn nỉ Vẹm hết lời. Gấu đọc những tài liệu mới nhất cho thấy rõ sự kiện này.
Nhưng Vẹm phải làm cho cuộc chiến xẩy ra, để làm cỏ sạch các đảng phái khác, không theo chúng.
Cuộc chiến thứ nhìn mới khủng khiếp. Bắc Kít ra lệnh cho đám miệt vườn phịa ra cú Diệm đầu độc tù VC, mà lấy cớ đó, thành lập MTGP, ngòi nổ gây ra cuộc chiến chống Mỹ.
Mỹ sợ mất Miền Nam đổ quân vô, gây nên hàng hàng tội ác, là thế.
Bây giờ, sự thực lịch sử ngày càng lộ ra. Và 1 sự thực lịch sử mới mẻ xuất hiện: Dân Mít bây giờ nhìn rõ kẻ thù: chính là cái chế độ VC hiện thời là kẻ thù của họ.


Domain www.tanvien.net Base info : (1)

Domain Ip Address:
192.254.190.216
Domain IP Server Addr
CH / Geneva / Plan-les-Ouates
Domain Value: 7,350,646$

            Trị giá trang TV, như net cho thấy, bảy triệu rưởi!
Xạo!
Hà, hà!

30.4.2015

20 năm trước ở Sài Gòn tôi gặp Thanh Huyền, người biên tập phóng sự này, một cô em Bắc kỳ nho nhỏ, tóc demi-garcon, có giọng nói mê hoặc lòng người.

20 năm sau, nàng vẫn xinh đẹp và giọng nói vẫn quyến rũ như xưa. Huyền đề nghị phỏng vấn, tôi khó lòng từ chối.

Bây giờ xem phóng sự càng cảm thấy thán phục, vì nó được biên tập và trau chuốt bởi bàn tay nhà nghề.

— with Lê Công Định.

Quốc hội Canada thông qua Luật '30/4'

Đọc tin này thì GCC lại nhớ đến vị trưởng phái đoàn Canada của UNHCR, lần được chấp nhận cho tái định cư tại Xứ Lạnh, 1994.
Gấu đã viết đôi ba lần rồi.
Chính trong tinh thần này, Canada chấp nhận Luật 30/4.

tha

&

Nhân đây cũng xin được nói lời cảm tạ đất nước đã cưu mang Gấu tui trên mười năm trời, kể từ ngày lên máy bay, rời trại chuyển tiếp Panat Nikhom ở Thái Lan, với tờ giấy mầu vàng "landed immigrant" [di dân thường trú], vượt hai đại dương, tới thành phố Toronto, vào đúng một ngày bão tuyết, trận bão tuyết khủng khiếp nhất kể từ 40 năm, theo như báo chí địa phương lúc đó, 44 độ âm. Đó là ngày 23 tháng 11 năm 1994.
Trên mười năm trời, mới thỏ thẻ một lời cám ơn, liệu như vậy là quá trễ chăng?
Trong một câu chuyện mà Gấu tôi đọc từ hồi còn nhỏ, [hình như trong tập "Những Tâm Hồn Cao Thượng" do Hà Mai Anh dịch từ một tác giá Ý, De Amicis (?)], có một cô bé bị câm, được một bác sĩ chữa trị. Một đêm nọ, cô bé trong lúc cố tập nói, bất thình lình âm thanh phát ra. Thế là cô bé cứ âm thầm ngậm những âm thanh đầu tiên đó, đợi tới sáng, khi vị bác sĩ tới giường cô, bấy giờ cô mới thốt lên mấy âm thanh mà cô tập nói suốt trong đêm: Con cám ơn bác sĩ.

Trường hợp của Gấu tôi cũng tương tự như vậy, nhưng không phải những âm thanh đầu tiên, mà có thể, cuối cùng, của một người già cảm thấy sắp sửa đi hết cuộc đời của mình. (1)

Canada thường được 1 số Mít coi như nơi tạm trú, thay vì quê hương thứ nhì, theo nghĩa, tạm qua đây, chờ dịp chuồn qua thiên đường Mẽo.
Và không phải nhà nước Canada không biết trò mù tịt này. Họ biết và rất ư là bực. Họ có nói với Gấu, là, chúng tao bực lắm.
Đừng có nghĩ là Gấu phịa ra. Trên TV Gấu đã từng kể ra rồi, nhưng cám ơn thêm Canada nhiều lần cũng không có dư, bèn kể thêm 1 lần nữa, giai thoại “thần sầu”, về cái sự hào sảng của Xứ Lạnh!

Huế Mậu Thân

*

Tắm trong cái ánh sáng làm nhớ tới tuyệt tác của danh họa Vermeer, TQLC Mẽo chiến đấu từ nhà này qua nhà khác với VC ở Huế, Tết Mậu Thân 1968.





*

Banyan

Forty years on

The strategic order in place in Asia since the Vietnam war is being challenged

AT THE time, the events in Indochina of April and May 1975 seemed to mark in the starkest way the end of a period of unchallenged American hegemony in Asia and the Pacific. Cambodia fell to the brutal Khmers Rouges, South Vietnam was absorbed by the North and communists took power in Laos. Famous pictures of an evacuation by helicopter from the American embassy roof in Saigon (now Ho Chi Minh City) captured the apocalyptic mood: the humbling of the superpower, in bedraggled retreat from Asia. Yet, 40 years later, as Vietnam marks the anniversary of unification, America’s defeat in Vietnam looks in retrospect no more than a blip in a prolonged Pax Americana. Only now is the durability of the American-led regional order being seriously questioned.

Jonathan Schell, an American journalist who covered the Vietnam war, wrote that what had led America to enter and expand it was not over-optimism about its chances of victory, but “overly pessimistic assessments of the consequences of losing”. These entailed not just the tumbling of other Asian “dominoes” to the communist menace, but a catastrophic loss of American prestige and credibility. Indeed, for a while after the war America did seem in global retreat. Jimmy Carter, elected president the following year, oversaw what Lee Kuan Yew, Singapore’s late patriarch, called in his memoirs “four years of pious musings about America’s malaise”, during which Iran’s revolution and the Soviet invasion of Afghanistan further dented America’s standing.

It soon turned out, however, that Mr Carter’s predecessor, Gerald Ford, had been right in a speech he made on April 23rd 1975 in which he said that events in Indochina “tragic as they are, portend neither the end of the world nor of America’s leadership in the world.” Communism did not advance beyond Indochina to elsewhere in Asia. And by then, partly in response to the quagmire in Vietnam, America had already tilted towards China with Richard Nixon’s visit in 1972. This softened the strategic impact of the humiliations three years later.

A de facto alliance with China against the Soviet Union left America’s supremacy in Asia uncontested. After the war, the region boomed. American intervention in Vietnam no longer looked such an unmitigated disaster. Lee Kuan Yew portrayed it almost as a triumph: without it, South-East Asia would probably have fallen to the communists. America bought the region time and, by 1975, its countries were “in better shape” to stand up to them. The prosperous emerging-market economies they have become “were nurtured during the Vietnam war years”.

The greatest beneficiary of the new global alignment was China itself, which embarked in 1979 on its great economic transformation, against the backdrop of a stable region secured by America’s unchallenged primacy. China has done so well out of this arrangement that many Americans struggle to understand that it might want to challenge and to change it. But growing numbers of analysts now believe that it does: that its goal is to supplant America as the Asia-Pacific’s—and eventually the world’s—leading power. Hugh White, an Australian writer on strategic affairs, argues that China is achieving by totally different means under its current leader, Xi Jinping, what it failed to attain under Mao Zedong: wealth, power and a dominant role in its own region.

Most American strategic thinkers have tended until recently to argue that China can be accommodated in the existing world order; and that even if it harbours greater ambitions, it is so far behind America in economic and military terms that it will set them aside for the foreseeable future. A more alarmist school of thought is gaining strength, however. A new report for the Council on Foreign Relations, an American think-tank, by two analysts who have worked in government, Ashley Tellis and Robert Blackwill, calls for a new “grand strategy” for dealing with China, including strengthening America’s army and stepping up military co-operation with its allies. It argues that “the American effort to ‘integrate’ China into the liberal international order has now generated new threats to US primacy in Asia—and could eventually result in a consequential challenge to American power globally.” In a similar vein, Michael Pillsbury, another former American government official, has published a book with a self-explanatory title: “The Hundred-Year Marathon: China’s Secret Strategy to Replace America as the Global Superpower”.

The American administration itself seems to be adopting a harder line towards China. It has always denied that its “pivot” or “rebalancing” towards Asia was aimed at China’s containment. But it was certainly intended to reassure its friends and allies in the region that it was not simply going to stage a strategic withdrawal to make way for a rising China. And it is becoming more open in its rivalry. Recently it tried in vain to persuade its allies to shun a Chinese-led development bank. To garner support for its ambitious trade agreement, the Trans-Pacific Partnership, it has stressed how the deal is essential if America is to prevent China from writing the rules for the region.

Full circle

China, for its part, constantly suspects America of trying to contain it; and it argues that the alliances that tie America to Asia, notably its defence treaty with Japan, are cold-war relics that should be dismantled. None of the allies wants that; and none wants to be forced to choose between its security ties with America and its links with China. But, if the pessimists are right, they may one day find they have to. As Mr White sees it, America’s experience in the Vietnam war is an “Aesop’s fable of the perils of statecraft”. America, having fought in Vietnam to stop China building a sphere of influence that excluded it, was driven by the war into opening to China and has since facilitated China’s rise—and that rise has been so successful that China now threatens to build a sphere of influence that excludes America.
Note: GCC sử dụng Google mở được hết trang bị cấm, do hết credit!



Live at Club Revolution 

Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll
In a slow, absentminded striptease.
Her shoulders are already undraped,
And so is one of her sagging breasts.
The kisses she blows to us
Are as cold as prison walls 

Once we were a large wedding party.
It was a sunny weekend in June.
Women wore flowers on their straw hats
And white gloves over their hands.
Now we run dodging cars on the highway.
The groom, someone points out, looks like
President Lincoln on a death notice. 

It's time to burn witches again,
The minister shouts to the congregation
Tossing the Bible to the ceiling.
Are those Corinna Brown's red panties
We see flying through the dark winter trees,
Or merely a lone crow taking home
His portion of the day's roadkill? 

Charles Simic

 

Tương lai xứ Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống tắc nghẹn
Trong một xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ để trần
Cũng thế, là một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em ban cho chúng ta
Lạnh như tường nhà tù Phan Đăng Lưu 

Một lần tụi này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi này đang chạy xe lắt léo trên xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một tay nào chỉ ra,
Sao giống y chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử. 

Đã đến giờ lại thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1 chú quạ
đem về nhà
phần chia những xác chết vì xe cán trong ngày?

/tap_ghi_5/gach_bac_ho.html
[Tháng nào cũng hot, cũng Top Ten: Viên Gạch Của Bác Hồ]

Đầu những năm 70' của thế kỷ XX, sau khi Người đã qua đời được vài năm, một tổ công tác chính trị được thành lập. Đa số các thành viên của tổ là các khoa học gia về bảo tồn, bảo tàng, lịch sử và khảo cổ học. Đó là tiền thân của Bảo tàng HCM sau này.
Nhiệm vụ của tổ công tác là đi khắp đất nước, và một số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật dụng hàng ngày... của Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước. Một nhóm công tác đặc biệt được cử sang Pháp cũng không ngoài mục đích đó.
Một nhiệm vụ cụ thể của nhóm công tác là tìm hiểu về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm mùa đông khi Người đang là anh thanh niên 25 tuổi đẹp trai nhưng nghèo khổ ở Paris, sống ở nhà số 9 ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công Poăng tầng dưới là quán cà phê, tầng trên Người thuê ở, người làm nghề rửa ảnh. Phòng kê vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn con.
Nhóm công tác đã phỏng vấn nhiều người dân sống trong khu vực này cùng thời với sự kiện viên gạch, và kết quả là không có người dân nào biết về sự kiện này.
Đến ngày cuối cùng trong thời gian làm việc. Nhóm công tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn nheo móm mém nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan sắc thời trẻ sống tại nhà số 11 ngõ Công Poăng. Khi được hỏi về sự kiện viên gạch Người dùng sưởi ấm trong mùa đông giá rét ở Paris, bà cụ già công nhận là có biết chuyện này. Nhóm công tác mừng rỡ và đề nghị bà cụ giúp đỡ để tìm lại viên gạch để mang về Việt Nam, bà cụ gật đầu mỉm cười duyên dáng và nói:
- "Viên gạch đó chính là tôi đây!"

IN THE JUNK STORE

A small, straw basket
Full of medals
From good old wars
No one recalls.

I flipped one over
To feel the pin
That once pierced
The hero's swelling chest.

Charles Simic: The Little Something

Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành Hồ

Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy chương
Của hai cuộc chiến thần thánh
Chống hai tên thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!

Gấu lật lật 1 cái huy chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi đinh ghim
Đã 1 thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng Núp
Của nhà văn truyền kỳ Đất Nước Đứng Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!

Hà, hà!

Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….

... không thể có hòa giải với chính quyền cộng sản Việt Nam mà chỉ có thể giải thể chế độ cộng sản này đi. Một khi chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì tự dưng sẽ có sự hòa giải giữa các quan điểm khác nhau. Bởi vì lúc đó, chế độ sẽ là dân chủ-đa đảng, ai cũng có quyền nói lên quan điểm của mình, không còn ai bị coi là thù địch với ai nữa, mà đó chỉ là sự khác biệt hay đối lập về mặt chính trị mà thôi.
Cù Huy Cận’s fils

Đúng như thế. Mà muốn được như thế, phải có 1 tên ngập máu Mít, như đao phủ Mậu Thân, hay cha đẻ quái vật Núp, những tên này công khai thú tội trước nhân dân, thì mới có ép phê!
Bởi là vì cả hai cuộc chiến dân Mít đều bị lũ Việt Minh, trước, và Bắc Kít, sau, giật giây, xỏ mũi.

Đau thế.
Thảm thế.
Note: "ngập máu Mít", theo nghĩa biểu tượng.
Có thể, cả hai tên chưa từng thực sự dúng tay vào máu, như 1 Văn Cao, thí dụ. NQT

Cha mẹ nạn nhân vụ đánh bom ở Boston chống án tử hình đối với bị cáo

Hoá giải hận thù thì phải như thế này, ở về phía nạn nhân, hay, đao phủ thủ Mậu Thân, hay, chủ nhân quái vật Núp, ở phía kẻ phạm tội ác.

Lê Công Định with Lê Công Định

21 mins ·

Vì sao chưa bầu được Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam?

Cha đẻ quái vật Núp chắc là có đọc bài viết này?
Quái thai Liên Đoàn LS VC, là 1 trong những quái thai, nhờ quái vật Núp mà có.
Cái chính thể VNCH, mà VC chê bai, là thể chế dân chủ nhất mà xứ Mít có được, chắc chắn như vậy, theo GCC, vì dù chê bai, chửi nó thế nào, thì nó cũng thoát thai từ những thể chế dân chủ của thế giới.
Bắc Kít, xuyên suốt lịch sử bốn ngàn năm, chưa hề biết mùi vị của dân chủ nó ra làm sao.
Đây có thể là do tụi Tẩy mà ra.
Không phải chia để trị, như VC thường rêu rao, mà là, bằng 1 cách nào đó, ngay từ lúc thoạt đầu, chúng hửi ra được, cái gọi là mentalité của lũ Nam Kít [có gì giống chúng chăng?] và chúng cho xứ Nam Kít hưởng chế độ tự trị, khác hẳn xứ Bắc Kít, bảo hộ.
GCC lấy chuyện này chứng minh, cái gọi là mentalité của Nam Kít, khác Bắc Kít. Ngay sau khi Diệm bị làm thịt, Phòng Thông Tin của VNCH ở Saigon cho chơi 1 bản nhạc nhái, nhạo Bác Hồ, cái gì gì, xon mì xon chúng mình yêu nhau đi, nhờ Bác Hồ mà chúng ta mê ly.
Được đâu 1, 2 ngày là phải dẹp bỏ, vì dân Miền Nam không quen cái trò làm nhục, nhạo báng kẻ thù.
Trong khi Bắc Kít, khi lấy được Nam Kít, bày ra đủ trò làm nhục Ngụy.

Now we must choose, said Mercier
    Between what? said Camier
    Ruin and collapse, said Mercier
    Could we not somehow combine them? said Camier.

-Samuel Beckett, Mercier and Camier

Chúng ta phải chọn, Mercier nói
Giữa những cái đéo gì? Camier hỏi
Điêu tàn và sụp đổ
Liệu chúng ta có thể phối hợp chúng?


Làm sao hóa giải, hòa giải, combine, hai cái mentalité đó?

... không thể có hòa giải với chính quyền cộng sản Việt Nam mà chỉ có thể giải thể chế độ cộng sản này đi. Một khi chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì tự dưng sẽ có sự hòa giải giữa các quan điểm khác nhau. Bởi vì lúc đó, chế độ sẽ là dân chủ-đa đảng, ai cũng có quyền nói lên quan điểm của mình, không còn ai bị coi là thù địch với ai nữa, mà đó chỉ là sự khác biệt hay đối lập về mặt chính trị mà thôi.
Cù Huy Cận’s fils

Đúng như thế. Mà muốn được như thế, phải có 1 tên ngập máu Mít, như đao phủ Mậu Thân, hay cha đẻ quái vật Núp, những tên này công khai thú tội trước nhân dân, thì mới có ép phê!
Bởi là vì cả hai cuộc chiến dân Mít đều bị lũ Việt Minh, trước, và Bắc Kít, sau, giật giây, xỏ mũi.

Đau thế.
Thảm thế.
Note: "ngập máu Mít", theo nghĩa biểu tượng.
Có thể, cả hai tên chưa từng thực sự dúng tay vào máu, như 1 Văn Cao, thí dụ. NQT

Cha mẹ nạn nhân vụ đánh bom ở Boston chống án tử hình đối với bị cáo

Hoá giải hận thù thì phải như thế này, ở về phía nạn nhân, hay, đao phủ thủ Mậu Thân, hay, chủ nhân quái vật Núp, ở phía kẻ phạm tội ác.

Lê Công Định with Lê Công Định

21 mins ·

Vì sao chưa bầu được Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam?

Cha đẻ quái vật Núp chắc là có đọc bài viết này?
Quái thai Liên Đoàn LS VC, là 1 trong những quái thai, nhờ quái vật Núp mà có.
Cái chính thể VNCH, mà VC chê bai, là thể chế dân chủ nhất mà xứ Mít có được, chắc chắn như vậy, theo GCC, vì dù chê bai, chửi nó thế nào, thì nó cũng thoát thai từ những thể chế dân chủ của thế giới.
Bắc Kít, xuyên suốt lịch sử bốn ngàn năm, chưa hề biết mùi vị của dân chủ nó ra làm sao.
Đây có thể là do tụi Tẩy mà ra.
Không phải chia để trị, như VC thường rêu rao, mà là, bằng 1 cách nào đó, ngay từ lúc thoạt đầu, chúng hửi ra được, cái gọi là mentalité của lũ Nam Kít [có gì giống chúng chăng?] và chúng cho xứ Nam Kít hưởng chế độ tự trị, khác hẳn xứ Bắc Kít, bảo hộ.
GCC lấy chuyện này chứng minh, cái gọi là mentalité của Nam Kít, khác Bắc Kít. Ngay sau khi Diệm bị làm thịt, Phòng Thông Tin của VNCH ở Saigon cho chơi 1 bản nhạc nhái, nhạo Bác Hồ, cái gì gì, xon mì xon chúng mình yêu nhau đi, nhờ Bác Hồ mà chúng ta mê ly.
Được đâu 1, 2 ngày là phải dẹp bỏ, vì dân Miền Nam không quen cái trò làm nhục, nhạo báng kẻ thù.
Trong khi Bắc Kít, khi lấy được Nam Kít, bày ra đủ trò làm nhục Ngụy.

Now we must choose, said Mercier
    Between what? said Camier
    Ruin and collapse, said Mercier
    Could we not somehow combine them? said Camier.

-Samuel Beckett, Mercier and Camier

Chúng ta phải chọn, Mercier nói
Giữa những cái đéo gì? Camier hỏi
Điêu tàn và sụp đổ
Liệu chúng ta có thể phối hợp chúng?


Làm sao hóa giải, hòa giải, combine, hai cái mentalité đó?

Làm gì để hóa giải hận thù ngày 30/04?

Hận thù 30 Tháng Tư?
Trước, hay sau 30 Tháng Tư mới là vấn đề, theo GCC

Cái gọi là hận thù mà cứ 30 Tháng Tư, Mít nhắc lại, với lũ VC, là hận thù do cuộc chiến gây ra. Và phải quên đi. 
Phải "giái hỏa" nó đi, như VC "hóa giải" đám "phỏng giái", ngay sau 30 Tháng Tư 1975
Hận thù do cuộc chiến gây nên, GCC nghĩ là chẳng ai thèm nhớ làm gì. Cái gì gì, cuộc chiến nào, bên khốn nào, thì nhân dân đều bại, cuộc chiến nào cũng chỉ có nạn nhân…
Nhưng cái hận thù sau cuộc chiến, thì phải nhớ mãi.
Bà DTH gọi là cuộc chiến ngu xuẩn.
Charles Simic, trong 1 bài viết về cái đất nước mà ông sinh ra, Bi Khúc trong cái Mạng Nhện, Elegy in a Spider’s Web, trong cuốn GCC mới tậu, The Life of Images, ngạc nhiên tự hỏi, liệu có thứ lịch sử gọi là Lịch Sử của sự Ngu Đần.
Nhân ngày 30 Tháng Tư, lèm bèm chuyện cũ chán lắm, chửi nhau quá nhiều rồi, chán lắm, hận thù chồng chất, khổ lắm, đành nói chuyện nước khác, người khác.
Tin Văn sẽ đi bài này, thay vì chửi / hận thù VC.

Vả chăng, hóa giải hận thù vào lúc này, cũng không làm sao làm được.
Dân chúng trong nước, bây giờ, trở thành kẻ thù của nhà nước VC rồi. (1)

(1)

*

Những người trưởng thành trong chế độ đó, muốn hòa giải, là nhà nước VC bỏ tù.
Lấy ai đứng ra hòa giải, mà hòa giải với ai? Với lũ VC bỏ tù những người như  Bọ Lập, Lê Công Định, Đoan Trang…. ?
Chúng đâu có biết cái gọi là hòa giải?

Now we must choose, said Mercier
    Between what? said Camier
    Ruin and collapse, said Mercier
    Could we not somehow combine them? said Camier.

-Samuel Beckett, Mercier and Camier

Trong “Hài Kịch của sự Vô Tri, Comdedy of Ignorance”, viết về Beckett, trong "Những Đứa Trẻ của sự Im Lặng, Về Giả Tưởng Đương Đại", [Children of Silence: On Contemporary Fiction], Michael Wood coi đây là nan đề, “cái gì cũng đã được nói rồi”, hay dùng chữ của Beckett, do Wood trích dẫn, đếch làm sao tưởng tượng được nữa, tưởng tượng chết, “dead imagining”.
Rõ ràng có câu hỏi cấp bách, 40 năm rồi, hòa giải đi thôi, hóa giải hận thù, nhưng ai đứng ra làm điều này, ở tầm mức “kuốc gia”, như nhà văn hải ngoại Nam Dao đề nghị?
Ngụy thì mất mẹ từ 40 năm rồi
VC thì những đấng "một triệu người buồn", cũng chết từ đời nảo đời nào rồi.

Liệu Y Tá Dạo Sáu Dũng đứng ra hòa giải?
Hay Tổng Lú?
Hay Đứa Con Tư Sinh của Bác Hồ?

Làm sao hòa giải, giao lưu, phối hợp, combine, giữa sụp đổ và điêu tàn?

Sụp đổ, rõ là để chỉ 30 Tháng Tư
Điêu tàn, là xứ Mít hiện giờ

Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn?
Xuân Sách

Chúng ta phải chọn, Mercier nói
Giữa những cái đéo gì? Camier hỏi
Điêu tàn và sụp đổ
Liệu chúng ta có thể phối hợp chúng?

Hình như chưa có 1 tên Bắc Kít thứ thiệt, nhà văn, đề nghị hóa giải hận thù?
Hay sám hối?
Toàn lũ Miền Nam bỏ chạy, cỡ DT, ND, đề nghị hóa giải hận thù?
Hay VC nằm vùng, kiểu TDBC?
Liệu có khi nào đao phủ Mậu Thân, sám hối, đề nghị hóa giải hận thù?
Hay 1 tên già, cha đẻ quái vật Núp, sám hối?
Não của chúng bị thiến mất một mẩu, đúng mẩu có lương tri con người, làm sao sám hối, hòa giải?
           

ELEGY IN A SPIDER'S WEB

In a letter to Hannah Arendt, Karl Jaspers describes how the philosopher Spinoza used to amuse himself by placing flies in a spider's web, then adding two spiders so he could watch them fight over the flies. "Very strange and difficult to interpret," concludes Jasper. As it turns out, this was the only time the otherwise somber philosopher was known to laugh.

A friend from Yugoslavia called me about a year ago and said, "Charlie, why don't you come home and hate with your own people?"
    I knew he was pulling my leg, but I was shocked nevertheless. I told him that I was never very good at hating, that I've managed to loathe a few individuals here and there, but had never managed to progress to hating whole peoples.
    "In that case," he replied, "you're missing out on the greatest happiness one can have in life."

I’m surprised that there is no History of Stupidity. I envision a work of many volumes, encyclopedic, cumulative, with an index listing millions of names. I only have to think about history for a moment or two before I realize the absolute necessity of such a book. I do not underestimate the influence of religion, nationalism, economics, personal ambition, and even chance on events, but the historian who does not admit that men are also fools has not really understood his subject.
    Watching Yugoslavia dismember itself, for instance, is like watching a man mutilate himself in public. He has already managed to make himself legless, armless, and blind, and now in his frenzy he's struggling to tear his heart out with his teeth. Between bites he shouts to us that he is a martyr for a holy cause, but we know that he is mad, that he is monstrously stupid.
    People tell me I predicted the tragedy years ago. This required no extraordinary wisdom. If our own specialists in ethnic pride in the United States ever start shouting that they can't live with each other, we can expect the same bloodshed to follow. For that reason, what amazed me in the case of Yugoslavia was the readiness with which our intellectuals accepted as legitimate the claim of every nationalist there. The desirability of breaking up into ethnic and religious states a country that had existed since 1918 and that had complicated internal and outside agreements was welcomed with unreserved enthusiasm by everybody from the New York Times to the German government. It probably takes much longer to get a fried chicken franchise than it took to convince the world that Yugoslavia should be replaced by as many little states as the natives desired.

                    Isn't "we" the problem, that little words "we" (which I distrust so profoundly, which I would forbid the individual man to use).
                    Cái từ "chúng tôi" gây phiền phức, phải chăng, cái từ nhỏ xíu "chúng tôi" (mà tôi quá ghê tởm, đếch tin cậy, và cấm 1 cá nhân 1 con người xử dụng)

                                                                                                                                                                 -WITOLD GOMBROWICZ

Dr. Frankenstein's descendants do not dig up fresh graves anymore on dark and stormy nights to make monster. They say home and study national history, making up lists of past wrongs. We hear people say in Yugoslavia, "I didn't used to hate them, but after I read what they've been doing to us, I'd like see them all dead."
    Nationalism is a self-constructed cage in which family members can huddle in safety when they're not growling and barking at someone outside the cage. One people baring their teeth at all comers is the dream of every nationalist and religious fanatic the world over. The real horror movie monsters would run at the sight of these people, who only yesterday were someone's quiet and kind neighbors and who will probably resume being that after the killing is done.


What are you? Americans ask me. I explain that I was born in Belgrade, that I left when I was fifteen, that we always thought of ourselves as Yugoslavs, that for the last thirty years I have been translating Serbian, Croatian, Slovenian, and Macedonian poets into English, that whatever differences I found among these people delighted me, that I don't give a shit about any of these nationalist leaders and their programs ...

    "Oh, so you're a Serb!" they exclaim triumphantly.
    I remember an old interview with Duke Ellington, the interviewer saying to him with complete confidence, you write your music for your own people, and Ellington pretending not to understand, asking what people would that be? The lovers of Beaujolais?
    I have more in common with some Patagonian or Chinese lover of Ellington or Emily Dickinson than I have with many of my own people. The proverbial warning "Too many cooks spoil the broth" was the way I was concocted. I have always considered myself lucky to be that way.
    The strange thing is that 1 find more and more people who do not believe me, who assure me that life has no meaning outside some kind of tribe.

[Suite]

Charles Simic: The Life of Images

Một tên BVVC của Gấu, một năm trước đây, mail Gấu, tại làm sao mà mi không về nước mà thù đồng bào Mít của riêng, của chính mi?
Hắn chọc quê Gấu.
Tuy nhiên, Gấu cũng quê.
Gấu bèn trả lời, cái chuyện thù hận, thù ghét, Gấu không quen, rằng, lâu lâu ghét thằng này, ưa thằng kia, giữa lũ Mít hải ngoại, OK, nhưng làm sao mà thù hận trọn dân Mít của Gấu được?
Vậy là mi đánh mất cái hạnh phúc lớn lao nhất mà 1 tên Mít có được ở trên đời rồi!

... không thể có hòa giải với chính quyền cộng sản Việt Nam mà chỉ có thể giải thể chế độ cộng sản này đi. Một khi chế độ cộng sản Việt Nam bị giải thể thì tự dưng sẽ có sự hòa giải giữa các quan điểm khác nhau. Bởi vì lúc đó, chế độ sẽ là dân chủ-đa đảng, ai cũng có quyền nói lên quan điểm của mình, không còn ai bị coi là thù địch với ai nữa, mà đó chỉ là sự khác biệt hay đối lập về mặt chính trị mà thôi.

Cù Huy Cận’s fils

Đúng như thế. Mà muốn được như thế, phải có 1 tên ngập máu Mít, như đao phủ Mậu Thân, hay cha đẻ quái vật Núp, những tên này công khai thú tội trước nhân dân, thì mới có ép phê!
Bởi là vì cả hai cuộc chiến dân Mít đều bị lũ Việt Minh, trước, và Bắc Kít, sau, giật giây, xỏ mũi.
Đau thế.
Thảm thế.

30.4.2015

Phòng Ngủ Thiên Đàng

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/12.html

Ba triệu Mít chết
Mọi Mít đều ngây thơ,
Đếch tên nào có tội
Gấu ngồi trong phòng
Ba Dzũng, Tông Tông Mít,
Giao liên VC, y tá dạo ngày nào
Lèm bèm về Cuộc Chiến Mít
Như về Thần Dược Sex
Gấu trợn mắt, kinh ngạc
Trong gương, Gấu nhìn Gấu
Chẳng khác gì một con tem bị phế thải tới hai lần

Gấu sống được, nhưng đời thì thật là khốn nạn
Ngày đó đó, đâu đâu cũng thấy lính
Ui chao Mít di tản đầy đường
Lẽ tất nhiên tất cả biến mất,
Chỉ nhìn thấy bóng dáng 1 tên VC
Lịch sử Mít liếm góc mép đầy máu của nó

Trên băng phải trả tiền,
Một người đàn ông và một người đàn bà
Trao đổi những cái hôn thèm khát
Xé nát quần áo của nhau
Gấu trố mắt nhìn
Âm thanh tắt và căn phòng tối
Trừ màn hình,
Đỏ như máu
Hồng như Đông Phương Hồng

**

Thông báo, lấy từ Blog Bùi Văn Phú (1)
Bùi Văn Phú published an article on WordPress.
5 hrs ·

Bùi Văn Phú Hôm 20/3 vừa qua, một toà án xử những vụ kiện vì thiệt hại nhỏ (small claim court) ở San Jose, California đã ra một phán quyết liên quan đến tác quyền, buộc các ông Phạm Phúc và Lê Huy trả cho ông Phạm Duy Hùng số tiền 1200 đôla, cộng với 180 đôla án phí, vì tổ chức văn nghệ có hát nhạc Phạm Duy mà không xin phép. [ 2923 more words. ]

EXAMPLE

A gale
stripped all the leaves from the trees last night
except for one leaf
left
to sway solo on a naked branch.

With this example
Violence demonstrates
that yes of course-
it likes its little joke from time to time.

Wislawa Symborska: Here

Thí dụ

Một trận gió lạnh
Vặt trụ lá cây, tối hôm qua
Trừ 1 cái
Trơ cu lơ trên cành cây trần trụi 

Với thí dụ này
Lịch sử Mít những ngày 1945
Bèn chứng tỏ rằng thì là,
Thì tất nhiên, đúng như thế rồi
Lâu lâu, thi thoảng, ta cũng khoái chuyện tiếu lâm của ta! 

Ui chao, VC quả đã làm thịt ông bố, nhưng chừa ông con
Để sau này làm nhạc chào mừng ngày 30 Tháng Tư 1975:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!

Bạn có thể áp dụng bài thơ trên, cho rất nhiều trường hợp,
Với những kẻ lịch sử tha chết để sau đó, làm 1 công việc, như trên! 

Nào họ Trịnh hầu đờn Hồ Tôn Hiến
Nào người tri kỷ của ông, hầu đờn Bắc Bộ Phủ.

Virtue, after all, is far from being synonymous with survival;
duplicity is.
J. Brodsky: "Collector's Item"
(Sống sót, nói cho cùng, là do nhập nhằng, không phải bởi đạo hạnh).

Đành phải cám ơn VC 1 phát!

*

Bếp Lửa Ottawa

Trong bài viết về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges.

Tò mò, Gấu kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ cho đọc, không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên nàng”.

Borges coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:

Như thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn, và thấy Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!

"The Intruder," a very short story recently translated into English, illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman. One of them kills her so that their fraternity may again be whole. They now share a new bond: "the obligation to forget her."

Borges himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is as if Borges, after his rare voyage through languages, cultures, mythologies, had come home and found the Aleph in the next patio.

Steiner cho rằng cái sự nổi tiếng của Borges làm khổ dúm độc giả ít ỏi, như là 1 sự mất mát riêng tư.
Và theo ông, nó bắt đầu, cùng với sự kiện, cả hai đấng rất ư được người đời ít biết đến, và đọc được họ, là Beckett và Borges, khi hai đấng này chia nhau giải thưởng Formentor Prize, vào năm 1961.
Năm sau, cuốn Mê Cung và Giả Tưởng của Borges có bản tiếng Anh.
Vinh danh rớt xuống, như mưa: Honors rained.

Vào cái tuổi già chín rục, Borges tếu táo, tôi bắt đầu nghi, rằng thì là bi giờ cả thế giới biết tới mình!
Quả là 1 ngạc nhiên, bởi là vì vào năm 1932, cỡ đó, tôi có cho xb 1 cuốn  sách, và cuối năm, tôi khám phá ra, chỉ bán được có 37 cuốn!
Beckett thì cũng rứa! Gấu nhớ là 1 tay xb từ chối ông, sau quá ân hận.

TTT cũng thế.

May sau đó, nhờ Nguyễn Đình Vượng, đổ mớ sách ra hè đường Xề Gòn, nhờ thế cuốn sách tái sinh, từ tro than, từ bụi đường!
Khủng nhất, là, ông già NDV như tiên đoán ra được số phận của cả 1 nền văn chương của cả 1 Miền Nam, sau đó, sau 1975!

Gấu là thằng may nhất, nếu không có cú bán xon của NDT, Gấu không làm sao được đọc Bếp Lửa!

The Intruder

 Viết

*

A brief survey of the short story: Italo Calvino

"My author is Kafka", Calvino once told an interviewer when asked about his influences, and his presence is discernible throughout Calvino's work, from The Argentine Ant to the 1984 story Implosion. Here Calvino links two of literature's most introspective characters, the doomed prince Hamlet (the story begins: "To explode or to implode – said Qfwfq – that is the question") and the mole-like creature from Kafka's death-haunted story The Burrow, in a beautiful but deeply melancholic rumination on black holes and the death of the universe, and an apprehension that obliteration lies at the heart of each individual consciousness:

    "Don't distract yourselves fantasizing over the reckless behaviour of hypothetical quasi-stellar objects at the uncertain boundaries of the universe: it is here that you must turn your attention, to the centre of our galaxy, where all our calculations and instruments indicate the presence of a body of enormous mass that nevertheless remains invisible. Webs of radiation and gas, caught there perhaps since the time of the last implosions, show that there in the middle lies one of these so-called holes, spent as an old volcano. All that surrounds it, the wheel of planetary systems and constellations and the branches of the Milky Way, everything in our galaxy rests on the hub of this implosion sunk away into itself."

Thầy của tôi là Kafka.

Không 1 tên Mít nào viết nổi 1 câu thật là bình thường như vậy.
Bài viết này, nằm trong loạt bài nghiên cứu về truyện ngắn của tờ Guardian. Bài này cũng thật là tuyệt

*

Cái hình này, bữa ghé thăm Ottawa, làm nhớ, cũng ngày này, SN Bác Hồ, tới Bangkok. Một bữa Thứ Bảy, năm 1989, 90 cỡ đó. Hai vợ chồng, cũng có cái túi đựng ba thứ vật dụng cần thiết, từ thành phố U Bôn, nơi biên giới Lào Thái, đến được thủ đô Thái Lan, đi lang thang đến mệt lả, sau được Chúa thương tình ra lệnh cho 1 anh lái xe lam, xe túc túc, hay tắc xi, không nhớ rõ, chở tới nhà thờ St Francis, Gấu đã kể lại vài lần trên Tin Văn.

*

Chợ Cũ Hàm Nghi.

Sau 30 Tháng Tư 1975, thời gian còn được VC sử dụng, Gấu làm việc ở tòa nhà ngay đầu đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngã tư Hồng Thập Tự/NBK. Tòa nhà này là 1 cơ quan của Bưu Điện. Gấu lúc đó chuyên việc kiểm tra tần số tầu biển làm việc với viễn thông quốc tế, trụ sở Genève. Tay trưởng phòng, do quen biết giới tầu biển, bèn đi liền, trước 30 Tháng Tư ít ngày. Từ trong chung cư 29/8D, đi ra quẹo trái, đi vài bước là tới.
Chiều chiều, trước khi tan sở, chôm một mớ giấy cũ, nhét vô áo, ra Chợ Cũ, ghé 1 trong những cái sạp trên.
Bà chủ sạp đưa ngay lên cái cân phía trước mặt, và sau khi đọc con số, lấy tiền trong cái rổ kế bên đưa Gấu, thẩy mớ giấy vô 1 cái sọt: Giấy gói đồ!
Cầm tiền, Gấu đi qua phía bên kia đường, ghé 1 tay bán ken quen, chìa tay ra, thế là lên thiên đường!
Ui chao, nhớ ơi là nhớ!
Nhớ Xuân Thu, Quán Chùa  sao bằng nhớ… Chợ Cũ!

Hai vợ chồng tôi tới Bangkok ngày 19 tháng Năm, năm 1990. Đúng ngày sinh của ông Hồ. Sau này, tôi tăng thêm một ngày, trong lý lịch Cao Uỷ.

Đó là một bữa thứ bẩy. Sau khi đi lang thang trong thành phố tới rã người, trước viễn ảnh một buổi tối thật đen tối, chợt nhớ tới cái địa chỉ đã từng là cứu tinh những ngày đói rã họng ở quê nhà, tụi này bèn kêu tắc xi, nói "Vạt, vạt" (Vạt, tiếng Thái, có nghĩa là chùa chiền, tu viện). Anh chàng tắc xi người Thái đưa, không phải tới cái địa chỉ mà chẳng ai còn biết đó, mà là nhà thờ St. Francis, tại một khu sang trọng thuộc trung tâm thành phố. Tới sân nhà thờ, nhìn thấy một chiếc xe hơi với hàng chữ tiếng Anh, Cơ quan Cứu Trợ Cao Uỷ Tị Nạn, tôi la thầm trong bụng: Chúa cứu ta rồi!

Vị cha già trụ trì nhà thờ là người Pháp. Ông không dấu vẻ ngạc nhiên, khi nghe gã đàn ông ốm đói, mệt lả, nhưng "thao thao bất tuyệt" xổ ra hàng tràng tiếng Tây, (sau này, nghĩ lại, tôi cũng không thể hiểu nổi tại sao bữa đó, mình lưu loát đến như thế! Nhất là đây là lần đầu tiên, kể từ tháng Tư 1975, tôi mới có dịp "thực tập" tiếng Tây!)
Sau đó, Cha cho trú ngụ tại một căn phòng ở bên trường học, kế ngay bên nhà thờ, do nhà thờ quản lý, bỏ qua tất cả những lời khuyên nên báo cảnh sát để cho nhà thờ khỏi bị liên lụy.
Chúng tôi ở đây hết ngày thứ bẩy và chủ nhật. Sáng thứ hai, Cha đưa tụi này tới cơ quan ODP, nằm bên trong tòa nhà khổng lồ City Bank. Ông trình giấy tờ, yêu cầu được coi hồ sơ ODP của tụi này. Chỉ tới khi đó, Cha mới thực sự tin tưởng, và có thể, hài lòng, vì đã làm đúng ý Chúa!
Cha yêu cầu cho gặp một vị luật sư của ODP. Vị này khuyên, chỉ có mỗi một cách: đưa mấy người này vào đồn cảnh sát. Sau khi hết hạn tù, ông sẽ báo bên Cao Uỷ cho xe "rước’ về trại tị nạn.
Cha đưa tụi này tới một đồn cảnh sát Thái.
Trước khi từ biệt, Cha đã dịch cho tôi nghe những lời cảnh cáo của viên cảnh sát: Tôi có thể bắt Cha, vì tội chứa chấp những người nhập cảnh bất hợp pháp.
Sau đó, Cha còn tới nhà tù thăm tụi này, cho tiền, đưa lại mớ "bản thảo", là mấy cuốn tập ghi vắn tắt một số sự kiện về những ngày ở Đất Phật, và chuyến vượt sông Mekong vào đất Thái của tôi. (1)

*

Ðúng trưa ngày 19/5/1989, (1), chiếc xe taxi chở vợ chồng Gấu tới đây. Ở cái sân có cái xe van nhỏ chở đồ cứu trợ, với hàng chữ UNHCR.
Gấu tạ ơn Trời Phật, và nghĩ thầm, tới nơi rồi!
Ðúng bữa Thứ Bảy. Ngày 19 tháng 5 là sinh nhật Bác H.
Sau này, trước khi đi xa, thật xa, nghĩ lại, thì mới ngộ ra là, cái thông điệp của chuyến đi, là cái phim coi trên chiếc xe buýt chở vợ chồng Gấu, chạy suốt đêm từ thành phố biên giới Lào Thái, Ubon, phía bên kia sông Cửu Long, bên này là Parksé. Có 1 cái gì đó trong phim liên quan đến cuộc đời sắp tới của Gấu, và nó còn liên quan đến những lần mò xuống sông Mekong tắm, sau giấc ngủ trưa nằm bên dưới tượng Quan Công, ở hành lang phía sau chùa Long Vân, Parksé.
Có cái gì đó liên quan đến câu của Heraclitus.
Có cái gì đó liên quan tới dòng sông cuối cùng Ðường Tam Tạng phải vượt qua trước khi vô Ðất Phật!

(1)

1990 mới đúng, vì 1989 là năm xẩy ra cú Thiên An Môn, trong lúc gia đình Gấu đang trên đường bỏ chạy quê hương, tới Vientiane đọc báo thì mới biết.
Khi ở Trại tị nạn, viết Lần Cuối Sài Gòn, bèn đưa sự kiện này vô, cho cho có tí mùi lịch sử:

Koestler, enfin, retrouvé, cuốn "Le Zéro et l'Infini", tôi lục lọi cách chuyến đi không xa, trong mớ sách "ký gởi" - một hình thức mới của sách vỉa hè- tại một tiệm phía bên kia cầu Thị Nghè. Cái thiểu số hỗn độn may mắn sống sót sau những ngày tháng Tư, trở thành những nạn nhân đầu tiên thay con người Sài-gòn dãi dầu mưa nắng Trong số những người đang lục lọi quanh tôi, có kẻ chỉ tò mò lật vài trang đầu, tìm tên chủ nhân, có thể kèm theo đó là một lời đề tặng của chính tác giả cuốn sách. Cả hai đều đã đi xa, vợ con ở nhà mang mớ sách kỷ niệm đổi lấy một vài mớ rau, một hai lon gạo.
 Gặp lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.

Đêm chong đèn nhớ Trịnh.

Đọc bài này, thì bất giác nhớ bài thơ của Brodsky, “Gửi Con Gái Tôi”, và cái ước mong, nếu Ông Giời cho tớ một đời nữa, thì tớ sẽ hát ở 1 phòng trà.  
Và tất nhiên, nhớ bài viết của Gấu về TCS, có lẽ bài viết sớm nhất về chuyện ông đi xa, và, bảnh nhất, theo Đặng Tiến.
Tuy nhiên, sau này, GCC khui ra, có hai hình ảnh tuyệt vời nhất, về ông, một, từ nhạc của ông, và một là từ thơ của Anna Akhmatova, cũng là để nói về ông.
Một hình ảnh do Le Huu Khoa khui ra khi viết về ông, trong Mảng Lưu Vong: Chim Thiêng hát lời Mệnh Bạc.

To My Daughter

Give me another life, and I’ll be singing
in Caffè Rafaella. Or simply sitting
there. Or standing there, as furniture in the corner,
in case that life is a bit less generous than the former.
 

Yet partly because no century
from now on will ever manage
without caffeine or jazz, I’ll sustain this damage,
and through my cracks and pores,
varnish and dust all over,
observe you, in twenty years, in your full flower.

On the whole, bear in mind that I’ll be around.
Or rather,
that an inanimate object might be your father,
especially if the objects are older than you, or larger.
So keep an eye on them always,
for they no doubt will judge you.

Love those things anyway, encounter or no encounter.
Besides, you may still remember a silhouette, a contour,
while I’ll lose even that, along with the other luggage.
Hence, these somewhat wooden lines
in our common language.

1994

Gửi Con Gái Tôi

Cho tôi một đời khác, và tôi sẽ đang hát
ở Caflè Rafaella. Hay giản dị ngồi
ở đó. Hay đứng ở đó, như cái bàn cái ghế ở góc phòng,
trong trường hợp cuộc đời sau không rộng lượng bằng cuộc đời trước. 

Mà có lẽ, một phần, là còn do điều này:
không một thế kỷ nào kể từ nay, mà lại có thể xoay sở, nếu thiếu cà-phê-in và nhạc jazz,
bố sẽ cố chịu chuyện đó, như cái bàn cái ghế, với những vết nứt, nẻ, véc ni, mớ bụi bặm trên mình,
ngắm con gái của bố, trong hai mươi năm, nở hết những cánh hoa, và trở thành một đóa hoa rạng rỡ. 

Thôi thì thôi, cũng thế thôi, nhưng hãy nhớ điều này,
rằng bố vẫn quanh quẩn bên con,
cái bàn cái ghế vô hồn, bất động,
có thể là bố đó
nhất là khi chúng già nua, cồng kềnh, kịch cợm hơn con
Vậy thì hãy để mắt tới chúng
bởi vì, không nghi ngờ chi, chúng sẽ cân nhắc mọi chuyện giùm cho con,
[hoặc cau mày nhắc nhở con, một điều gì đó]. 

Yêu mọi điều, mọi chuyện ở trên đời, dù gì đi chăng nữa, dù gặp hay không gặp.
Ngoài ra còn điều này:
Con vẫn còn nhớ một hình bóng, một dáng vẻ,
Trong khi bố mất tất cả, cùng với cả một hành lý khác.
Thí dụ như là những dòng đời khô héo,
của cái tiếng nói chung,
của cha con ta...

Gởi con gái tôi (Joseph Brodsky)

Cái tít bài viết của Bọ Lập, là cũng từ 1 bản nhạc của TCS, Huyền Thoại Mẹ.
Về những cuộc tình của TCS, nhiều thì nhiều thực, nhưng theo ý riêng của GCC, đều không thực.
Thực, là khi xa nhau, họ đều cảm ơn Ông Trời, đã cho gặp nhau, dù chẳng để làm 1 chuyện gì.
Và, 1 khi như thế, thì chỉ 1 cuộc tình, là đủ cho 1 con người. Một khi nó sống thực cuộc tình, thì những cuộc tình sau đó, nếu có, là để lập lại – theo 1 nghĩa thật đẹp - cuộc tình thứ nhất, vưỡn theo GCC, khi ngộ ra 1 lời phán về GCC, của 1 độc giả/thân hữu/bạn văn.
TCS không có cuộc tình nào thực cả. Đó là nỗi đau của ông, và nỗi mừng của những người tình của ông, đau thế.
Em nào cũng khoe, đã từng yêu và được Trịnh yêu, và đều mừng, vì...  an toàn sau cuộc tình.
Quá đau cho họ Trịnh!
Khác hẳn nhạc sĩ VTA. Hay PD. Cuộc tình nào của những đấng này đều có cú làm ăn tới chỉ cả.

Trong Một Chủ Nhật Khác, khi Oanh từ chối cái hôn của Kiệt, - em yêu ông thầy của mình, bèn gặp, để nói ra điều đó, rồi bỏ đi - và Kiệt bèn quê, đếch thèm làm gì cả, và khi Oanh đi rồi, em mới hiểu ra “chân ní”, bèn đánh điện, “ới” 1 tiếng, là em lên liền, thầy muốn “biên tập” - từ này của 1 em nữ thi sĩ ở trong lước – thầy muốn làm gì thì… làm!
Thê lương nhất, là sau đó, khi nghe 1 cô bạn học, kể lại cuộc tình của Kiệt với Hiền, em thấy đời mình thừa thãi, bỏ đi, mơ màng đã thành đàn bà, đếch cần 1 thằng đàn ông nào…. biên tập!
Thê lương hơn nữa, là lần gặp gỡ sau cùng của họ, ở 1 tiệm ăn, hình như thế, ở phiá bên  ngoài, hay hành lang rạp Rex. Oanh mua tặng Kiệt cái kèn, và chàng mang về Đà Lạt, để chết. Bạn còn nhớ cái xen Kiệt thổi kèn cho bạn là Duy nghe, trước khi “bị” ngỏm?
Quái là GCC cũng có 1 cú gặp gỡ sau cùng với BHD, ở 1 quán, ở đâu đó, gần Chợ Bến Thành.
Cuộc gặp gỡ của Gấu cảm động hơn nhiều, thực hơn nhiều.
GCC cũng kể đâu đó, vài lần rồi...

-C’est ridicule, c’est formidable, c’est merveilleux… c’est toi. Oanh. Pleure pas. Pleure pas.
Thật kỳ cục, thật kinh khủng, thật tuyệt vời, thật em. Oanh. Đừng khóc, đừng khóc. 

Đúng buổi sáng ngày Kiệt bị quật ngã, chàng mới có quyết định đánh bức điện tín cho Oanh. Chàng đội mưa chạy đến Bưu Điện. Cơn sốt đã bập bùng bên lỗ tai như tiếng sấm. Chàng viết bức điện tín, tay run như đuôi con thằn lằn đứt. Chàng viết, chàng nhớ đúng như in chàng đã nói: S.O.S. Au secours. Bớ người ta cứu tôi với. Kiệt. Kiệt nghĩa là hết sạch, chẳng còn gì, chẳng còn tí tẹo nào. Cô nhân viên Bưu Điện vốn quen vì gặp hàng tuần, trợn mắt: Ông không điên chứ ông Kiệt? -Tôi điên chớ, rõ ràng là tôi điên đây thôi. –Ông nhất quyết gửi bức điện này?  -Chớ sao nữa, còn gì nữa. Tôi đang cần tiền, hết tiền tiêu rồi, phải kêu kiểu đó mới có tiền. Kiệt cười hộc. Chàng ra khỏi Ty Bưu Điện chạy xuống hồ lại vòng lên xin rút bức điện lại. Chàng ướt còn hơn buổi sáng đưa Oanh đi. Mưa nhòa hết cảnh vật, nhòa hết cảm xúc, ý nghĩ, và quyết định. Oanh cũng bó tay mà thôi.
-Anh coi thường em quá. Oanh ngăn xúc động, dịu dàng nói.
-Rồi em sẽ hiểu, nên để người ta coi thường mình. Kiệt trở giọng giận dữ. – Mình là cái quái gì. Anh chỉ mong mọi người coi thường anh. Được coi thường, thường hết, dễ sống. Không có ai là ghê gớm, là thiết yếu đối với ai ở đời này. Rỡn chơi vậy. Em hiểu không, nói rỡn vậy mà chơi thôi. Chẳng đáng một đồng bạc cắc. Anh đâu có thiết yếu cho em, mà em đâu có thiết yếu cho anh.
Oanh như bị cái tát trái, tá hỏa, cứng đơ. Nàng run rẩy lắp bắp không thành lời.
-Em nghe cho thật kỹ đây. Kiệt như thể được đà. -Với mọi người đàn bà anh đều nói: đàn bà là đàn bà, muôn đời vẫn chỉ là đàn bà không hơn không kém. Anh… (1)

Trịnh Công Sơn vs Lịch Sử

Milosz, trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán một lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.

Trong ý nghĩ đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS đã được "thanh toán".
Milosz cho rằng, cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ lưng đụng vô tường, hết đường lui.

Cũng trong bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak, khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.

Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài người.

Hãy hát tình ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:

Nếu có gì có thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã mất.

“Cái từ, giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người, là hai chữ: Tình Yêu.”

*

Tôi thu tôi lại...
Hạt bụi nào...

He has turned into the life-giving ear of grain
Or into the gentlest rain of which he sang

Akhmatova

Người thi sĩ ấy biến thành mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó

D.M. Thomas trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak.
 
Trịnh Công Sơn:

Chim Thiêng Hót Lời Mệnh Bạc

L'oiseau sacré chante le destin tragique

*

Un jour se noyer et flotter
[Cũng sẽ chìm trôi]

Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
La course de l'eau la limpidité
Mon âme l’eau trouble
Les hérons s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la vie proches
Mais les pas ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
Les chemins tordus
La lumière soudaine
Depuis l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de l'infini
Se noie disparaît sans appel de retour

Lời Việt::

Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm

Partir et revenir
[Một cõi đi về]

Les années écoulées les départs
Partir tourner la vie les fatigues
Les épaules aux deux bouts de la lune
Le reflet transversal de cent ans partir et revenir
Quelle sera la parole des arbres
Quelle sera la parole de l'herbe étrangère
Un seul coucher du soleil dans l'ivresse
Quelle vie légère appartient déjà au passé
Ruine du printemps ruine de l'été
Un jour d'automne l'écho du galop au loin
Nuage couvre la tête soleil sur les épaules
Les pas s'en vont les rivières savent rester
\Soudain l'otage de l'amour m'appelle
A l’intérieur apparaît l'ombre de l’être
Le détour de la pluie dans l'âme
Une pluie fine
Cent ans l'infini la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu sera chez moi
Les chemins les détours les cercles en ruine
Le côté a' herbe le côté de rêve
Chaque parole du crépuscule
Chaque parole de la terre des tombes
Voix de la mer des fleuves de leurs sources.
Alors qu'on rentre on se souvient déjà qu'on partira
Partir vers les monts
Revenir vers le large
Les bras de la vie n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent impossible souffle tout au long de la
jeunesse

Trinh Cong Son

Traduit par Le Huu Khoa

Connu avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel, Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.

Được biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.

Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]

*

Note: Tks K. Gấu

Conversations with the Dead

Reading has always been for me a sort of practical cartography. Like other readers, I have an absolute trust in the capability that reading has to map my world. I know that on a page somewhere on my shelves, staring down at me now, is the question I’m struggling with today, put into words long ago, perhaps, by someone who could not have known of my existence. The relationship between a reader and a book is one that eliminates the barriers of time and space and allows for what Francisco de Quevedo, in the sixteenth century, called “conversations with the dead.” In those conversations I’m revealed. They shape me and lend me a certain magical power.

Trò chuyện với người chết

Đọc đối với tôi là 1 cách vẽ bản đồ. Như những độc giả khác, tôi có sự tin vậy tuyệt đối vào khả năng, đọc phải vẽ ra thế giới của tôi. Tôi biết, trong 1 trang sách đâu đó, trên những kệ sách của tôi, ngó xuống tôi, thì là 1 câu hỏi mà tôi đang đánh vật với nó, bữa nay, được đặt thành những từ ngữ từ lâu lắm rồi, bởi 1 người nào đó, có thể chưa từng biết đến có tôi ở trên đời. Liên hệ giữa 1 độc giả với cuốn sách, là 1 liên hệ triệt tiêu những biên cương của thời gian, không gian, và cho phép điều mà Francisco de Quevedo, thế kỷ thứ 16, gọi là “những cuộc trò chuyện với người đã chết”.
Trong những cuộc trò chuyện như thế, tôi lộ ra, bật mí. Chúng tạo hình dáng tôi và cho tôi 1 quyền năng thần kỳ.

Những nhận xét, như trên, quá đúng, nhưng chỉ với từ ngữ. Với âm thanh, lời nhạc, GCC nghĩ, sai, như có lần GCC phán, bạn phải sống cùng thời với TCS, cùng 1 Miền Nam với ông, thì mới cảm hết nhạc của ông.

Thí dụ, cái lần GCC vô Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, lần đầu, đúng thời gian gần Tết, thời tiết lạnh lạnh, TCS thì mới cho ra lò bản Tình Nhớ, và trong đêm khuya, 1 tay tân binh như Gấu cứ huýt sáo hoài bản nhạc đó. Gấu đau quá, vì cùng với nó, còn là nỗi đau thằng em vừa mới tử trận - cô bạn vừa mới từ giã, và cùng với cô, là Sài Gòn - có thể, từng nằm, đúng cái giường sắt Gấu đang nằm.

Khủng khiếp lắm. Một Bắc Kít, sinh ở Bắc Kít, sau 1975, mê nhạc Trịnh, không thể nào hiểu được nỗi đau này. Một đấng Nam Kít, bỏ chạy, như Đặng Tiến, thì cũng đếch cảm ra nỗi đau này, nên ông phán Tình Nhớ mà mắc mớ gì tới cuộc chiến, phản chiến!

Những ngày Trịnh Công Sơn

Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua Nguyễn Đình Toàn, tại một bàn cà phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn, và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán, ấy là tôi suy đoán ra như vậy.
Thời gian này, tôi chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn. Nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.

Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi.
Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu.
Một bạn văn của người viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng", có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó dễ, anh phải vô Sài Gòn, và có than thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói, thì cứ dzô đây, gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những ngày cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã được đại tá không quân Lưu Kim Cương che chở.
Trong số những quân cảnh tại thành phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.



*

The Scene of the Crime

Chuyến đi Mỹ Lai của 1 phóng viên và những bí mật của quá khứ

Seymour M. Hersh

Nguyen Qui Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular bar and restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen. Thirty-one years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning journalist and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to come back and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and living as someone else in the United States. I was grateful for the opportunities in America, but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time as a reporter for National Public Radio, and fell in love with it."

The New Yorker, My Lai Revisited, Mar 30 2015

NQD nhà văn Mít 57 tuổi, chủ nhân 1 nhà hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi. Tớ luôn muốn về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ chưa xong, không đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi 17 tuổi, và sống như 1 ai đó ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó ban cho tớ. Nhưng cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền.


*

Cột Đồng Cuộc Chiến Mít

*

&

*

*

*

Nguyen Qui Duc, a fifty-seven-year-old writer and journalist who runs a popular bar and restaurant in Hanoi, fled to America in 1975 when he was seventeen. Thirty-one years later, he returned. In San Francisco, he was a prize-winning journalist and documentary filmmaker, but, as he told me, ''I'd always wanted to come back and live in Vietnam. I felt unfinished leaving home at seventeen and living as someone else in the United States. I was grateful for the opportunities in America, but I needed a sense of community. I came to Hanoi for the first time as a reporter for National Public Radio, and fell in love with it."

NQD nhà văn Mít 57 tuổi, chủ nhân 1 nhà hàng tại Hà Nội, chạy qua Mẽo năm 1975 khi 17 tuổi. Tớ luôn muốn về sống ở xứ Mít. Tớ thấy tớ chưa xong, không đầy đủ, bỏ nhà ra đi khi 17 tuổi, và sống như 1 ai đó ở Mẽo. Tớ biết ơn Mẽo với những cơ may mà nó ban cho tớ. Nhưng cái tớ cần là 1 cảm quan, ý nghĩa cộng đồng. Gặp Hà Nội, là tớ mê liền

The New Yorker, My Lai Revisited, Mar 30 2015