*




*

BORGES AND THE RAVENS

I'm in Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a cold autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few rays that cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic tradition. The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect cemetery: the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across from the grave of some government minister. It's really more like a park than a cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I the keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and tells me how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From what he says it's clear that visitors always coming and going. But this morning the cemetery is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no one nearby. I think about Calderon, I think about the English and German Romantics, I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all. I just look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges, the date of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse. And then I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a croak, a few steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a poem by Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens, enormous black ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees or run through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like walking, looking at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what I do, growing more and more uneasy, with the ravens following me, always keeping within the bounds of the cemetery, although I suppose that one occasionally flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of the lake to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.

Roberto Bolano: Between parentheses

Note: Tay Bolano này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến, cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết về… BHD, hà hà!

Borges và những con quạ

Tôi ở Geneva và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời lạnh, mặc dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân Geneva, một giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên lên.
Plainpalais, nghĩa địa Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công viên mà Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1), nơi, cứ xế trưa là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của một đấng, khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa, một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẩu đất cũng được chăm sóc. Khi tôi hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống đất, gật gật cái đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều ông ta nói, thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó, quái làm sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai lảng vảng quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng Mao và Đức. Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ cái mẹ gì hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày ông sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái băng ghế đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn ngữ quoạc quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì ở Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ. Và tôi cảm thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu may mắn, tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi lúc một thêm bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong nghĩa địa, và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1 chuyến bay tới đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái vẻ dè bỉu, khinh khi, tất nhiên!

(1)

Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Lần Cuối Sàigòn


Borges by Cioran

Cái ý tưởng Borges đúng ra “không nên ca ngợi, người của bóng tối”, thực ra, nhiều người đã nói tới, trong số đó, có Borges, như lần ông phàn nàn Callois, người giới thiệu ông với nước Pháp, hay lần ông cho biết, sách của ông in ra, chỉ bán được lèo tèo có mấy cuốn, thế rồi đùng 1 phát, nổi tiếng khắp thế giới!
Hay như Steiner, khi cho rằng cái giải thưởng cho Borges và Beckett khiến cả hai ông này đều được biết đến, làm khổ cả hai ông, và làm khổ chính độc giả của ông, một dúm người thực tình đọc được ông, coi ông là gia tài của riêng họ….  

Theo Gấu, Borges ghê gớm ở chỗ, ông rất “xoàng”, đối với người không đọc được ông. Thí dụ, Naipaul, hay Yann Martel, tác giả “Life of Pi”.
Mà đúng thế thực! Thơ của ông, “hay vì xoàng”, theo Gấu. Chính Borges cũng nhận ra, và thú nhận, tớ làm thơ xoàng, nhưng vẫn mê làm thơ!

Tưởng niệm Borges

Tôi muốn kể về cái lần tôi gặp Borges. Tôi được bà bạn Victoria Ocampo mời dùng bữa trưa có Borges cùng dự, và được phái đi đón ông, tại Thư Viện Quốc Gia, để đưa ông tới căn phòng của bà, bởi vì ông mắt ông mù không còn nhìn thấy đường. Ngay khi cánh cửa thư viện đóng lại phía sau, là chúng tôi bắt đầu nói chuyện văn chương. Borges nói tới ảnh hưởng của G. K. Chesterton, và của Robert Louis Stevension ở hậu thời ở nơi ông. Thơ xuôi của Stevenson ảnh hưởng lớn lên tôi, ông cho biết. Nhân tiện, tôi châm vô 1 cú. Robert Louis Stevenson ít nhất là đã từng làm thơ, và ít nhất, tôi còn nhớ một bài của ông ta. Một bài thật là bảnh. Viết về tổ tiên. Ðã từng xây những ngọn hải đăng lớn nơi bờ biển Scotland, và tổ tiên là một đề tài ruột của Borges.

Bài thơ bắt đầu:

Ðừng nói với tôi chuyện,
tôi chẳng khoái sinh con đẻ cái,
để nối giái tông đường, và,
thay vì vậy,
thì đánh bài chuồn ra biển
Những cái tháp mà chúng ta xây, và những ngọn đèn mà chúng ta thắp
Ðể chơi ở nhà với tờ giấy như một đứa bé.

Con phố Buenos Aires đông người, quá ồn. Borges dừng lại ở hè đường, đọc trọn bài thơ cho tôi nghe, không hỏng một từ. Sau bữa ăn dễ chịu, ông ngồi tại sô pha và lèm bèm tới chỉ về văn chương Anglo-Saxon, tung ra những tảng lớn, như những khúc cây. Tôi chịu, không thể theo kịp. Nhưng nhìn vào mắt ông khi đọc những tảng lớn thơ văn đó, tôi hết sức ngạc nhiên về cái sự biểu hiện của chúng. Chúng chẳng có chi là mù lòa. Nhìn, có cảm tưởng, như thể, chúng nhìn vào chính chúng, một cách thật là kỳ cục, và chúng thật là bảnh, thật thanh lịch, cao nhã.
Borges, tất nhiên cũng có cùng một cảm nghĩ như vậy về tổ tiên, về những “gauchos” trong quá khứ. Những truyện ngắn hậu thời của ông, thì đầy những câu chuyện về những “gauchos”, một trong đó, ông viết, “Thì cũng như những con người của một vài xứ sở thờ phụng và cảm thấy tiếng gọi của biển, người Á Căn Ðình chúng tôi hú vọng về những cánh đồng bạt ngàn sôi reo dưới móng ngựa."
Ông là một người đàn ông can đảm cùng mình. Thời kỳ đệ nhị Peron, một lần, khi ông sống cùng dưới mái nhà với bà mẹ già, thì có 1 cú phôn bí ẩn. Một giọng đàn ông, “Chúng ông tới làm thịt mi, và bà mẹ của mi ngay bi giờ.” Bà cụ Borges trả lời, “ta chín chục bó, tới lẹ lên không không kịp, còn thằng con ta, nó thì mù, chuyện dễ ợt”. Giai thoại này theo tôi đưa ra 1 bức tranh toàn cảnh về gia đình ông.
Lần nào cũng như lần ấy, và thật nhiều lần, mỗi lần giở 1 cuốn sách của ông, tôi đều tìm thấy những câu, mà một thằng nhà văn như tôi, cũng từng có kinh nghiệm viết lách, thì thấy, cũng chẳng khác gì kinh nghiệm của tôi!
Ông gọi, viết là một “giấc mơ được dẫn dắt”, và trong một dịp, ông viết:

“Ta đếch viết cho một thiểu số được chọn lọc, chúng là cái chó gì mà viết cho chúng, ta cũng đếch viết cho một thực thể lý tưởng ưa nịnh hót, được biết dưới cái tên “Quần Chúng”. Cả hai lũ khốn, trừu tượng, đó, ta đều không tin, tuy chúng thật là đáng quí đối với những tên mị dân. Ta viết cho chính ta, và cho bạn bè của ta, và ta viết để làm dịu thời gian trôi qua."

Phán như thế, thành ra, bất cứ 1 nhà văn, thứ thiệt, thì đều cảm thấy ông thật gần gụi với họ.

.... Hỏi, chúng ta học được gì từ Mỹ Châu La Tinh, thì chẳng khác gì, chúng ta học được gì từ "King Lear", những thảm kịch của Shakespeare. Tôi nghĩ đến hoàn cảnh bi đát, the tragic situation, của Mỹ Châu La Tinh. Thật khó mà biết chúng ta học đưọc gì từ đó, nhưng chúng ta phải học được một điều gì đó, và nó tác động lên trí tưởng tượng của chúng ta.
Một điều như cú làm thịt Archbishop Romero, thí dụ.
Cám ơn Trời chúng ta không vướng vào hoàn cảnh như vầy, nhưng tôi tin rằng một cách nào chúng ta học được 1 điều gì đó, nó tác động lên vô thức của chúng ta.

Graham Greene

Note: Đây chính là câu trả lời, “cũng” cho xứ xở chúng ta, mà Thầy Kuốc than là, sao bất hạnh quá!

Không lẽ suốt “một thuở mang gươm đi dựng nước, ngàn năm thương nhớ Đất Thăng Long”, và làm thành 1 cái dải đất hình chữ S, sau khi làm cỏ không biết bao nhiều giống dân, sau cùng làm thịt luôn thằng em ruột thịt, và chỉ trong 40 chục năm làm cỏ cả 1 nền văn minh bốn ngàn năm, là chuyện...  bất hạnh?

Chúng ta phải học được một điều gì đó, một điều gì tác động, không phải lên vô thức, mà lên lương tâm, của 1 tên Mít, nhất là 1 tên Bắc Kít, tên “thắng trận”?

Những tác giả nào ảnh hưởng mạnh nhất lên ông, khiến ông thành nhà văn?

Vào những ngày ngu ngơ, thì những tác giả ảnh hưởng mạnh lên tôi, tôi phải nói, bây giờ đếch ai còn đọc họ: Henry, Captain Brereton, Percy Westerman, Marjorie Bowen. Họ làm tôi thèm viết những câu chuyện, hơn là kinh nghiệm tiểu thuyết.
Sau đó, khi tôi bắt đầu viết, tôi bị ảnh hưởng tồi tệ của Conrad. Tồi tệ, ấy là tôi muốn nói, tôi bị ảnh hưởng bởi 1 cuốn tiểu thuyết dở của ông, The Arrow of Gold. Và cuốn này, thì chính Conrad lại chịu ảnh hưởng nặng nề của Henry James. Ông này cũng ảnh hưởng lên tôi, về mặt kỹ thuật. Từ Henry James, tôi học được điều gọi là sự quan trọng của quan điểm, point of view. Nhưng Stevenson m
ột bà con về phía mẹ tôi ảnh hưởng lên tôi như là 1 người kể chuyện

Note: Nhà văn Mít có ai chịu ảnh hưởng của…  mũi lõ, cũng như…  mũi tẹt nào chăng?
Đéo có!
Đéo đọc ai làm sao mà ảnh hưởng!
Tao ị ra cho người khác đọc, chứ sao lại phải đọc 1 kẻ nào khác!

Hà, hà!

V/v can đảm cùng mình

On cowardice:

Tôi nghĩ tôi hèn nhát, về mặt thể chất nhưng không, về mặt đạo hạnh
I think I’m a physical coward but not an ethical coward

Về đạo hạnh

Tôi cố làm một người đạo hạnh

I try to be an ethical man

[Borges on Borges]
*

*


Note: Tay Bolano này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến, cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết về… BHD, hà hà!

BORGES AND THE RAVENS

I'm in Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a cold autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few rays that cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic tradition. The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect cemetery: the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across from the grave of some government minister. It's really more like a park than a cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I the keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and tells me how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From what he says it's clear that visitors always coming and going. But this morning the cemetery is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no one nearby. I think about Calderon, I think about the English and German Romantics, I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all. I just look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges, the date of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse. And then I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a croak, a few steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a poem by Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens, enormous black ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees or run through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like walking, looking at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what I do, growing more and more uneasy, with the ravens following me, always keeping within the bounds of the cemetery, although I suppose that one occasionally flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of the lake to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.

Roberto Bolano: Between parentheses

Borges và những con quạ

Tôi ở Geneva và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời lạnh, mặc dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân Geneva, một giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên lên.
Plainpalais, nghĩa địa Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công viên mà Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1), nơi, cứ xế trưa là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của một đấng, khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa, một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẫu đất cũng được chăm sóc. Khi tôi hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống đất, gật gật cái đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều ông ta nói, thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó, quái làm sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai lảng vảng quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng Mao và Đức. Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ cái mẹ gì hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày ông sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái băng ghế đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn ngữ quoạc quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì ở Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ. Và tôi cảm thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu may mắn, tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi lúc một thêm bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong nghĩa địa, và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1 chuyến bay tới đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái vẻ dè bỉu, khinh khi, tất nhiên!

(1)

Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Lần Cuối Sàigòn


 THE WOMEN READERS OF WINTER

During the winter they seem to be the only ones brave enough to venture out into the icy cold. I see them at the bars in Blanes or at the station or sitting along the Paseo Maritimo by the water, alone or with their children or a silent friend and always carrying some book. What do these women read? wondered Enrique Vila-Matas a few years ago. Whatever they can. Not always great literature (though what is great literature?). Sometimes it's magazines, sometimes the worst best sellers. When I see them walking along, bundled up, buffeted by the wind, I think about the Russian women who fought the revolution and who endured Stalinism, which was worse than winter, and fascism, which was worse than hell, and they always had books with them, when suicide would have been the logical choice. In fact, many of those winter readers ended up killing themselves. But not all of them. A few days ago I read that Nadezhda Yakovlevna Khazina, exceptional reader, author of two memoirs, one of them called Hope Against Hope, and wife of the assassinated poet Osip Mandelstam, took part, according to a recent biography, in a threesome with her husband, news that inspired astonishment and disappointment in the ranks of her admirers, who took her for a saint. I, however, was happy to hear it. It told me that in the middle of winter Nadezhda and Osip didn't freeze and it confirmed for me that at least they tried to read all the books. The saintly readers of winter are women of flesh and blood, and they couldn't be braver, Some, it's true, committed suicide. Others endured the horrors and returned to their books, the mysterious books that women read when it's cold and it seems as if winter will never end.

Roberto Bolano

Note: Bài này thú quá. Đúng giọng cà chớn của Gấu Cà Chớn. Sẽ đi 1 đường dịch liền, để tặng nữ độc giả của Tin Văn, nhân dịp SN GCC!

Nữ độc giả của mùa đông

Vào mùa đông, có vẻ như chỉ có họ, là những người, đủ can đảm, để “ai đi ngoài băng giá”: Tôi nhìn thấy họ, ở những ba ở Blanes, hay ở nhà ga, hay ngồi dọc Paseo Maritimo, kế bên dòng nước, một mình, hay với nhóc của họ, hay với 1 người bạn, và luôn luôn, với cuốn sách nào đó.
Đờn bà đọc, OK, nhưng họ đọc cái giống chi, “nhẩy”?
Cách đây vài năm, Enrique Vila-Matas đã lầu bầu 1 câu hỏi như thế. Thì bất cứ cái gì họ có thể. Không phải luôn luôn, thứ văn chương nhớn (nhưng nè, văn chương nhớn là cái đéo gì vậy, hà, hà!]
Khi thì tạp chí, khi thì sách bán chạy nhất, thứ tệ nhất. Khi tôi nhìn họ dảo bước, co dúm người vì gió, tôi nghĩ tới những phụ nữ Nga chiến đấu cuộc cách mạng và chịu đựng chế độ Xì Ta Lin, tệ hại hơn mùa đông, chế độ Phát Xít, tệ hại hơn địa ngục và họ vưỡn có sách cùng với họ, khi mà tự tử là cách lựa chọn bảnh nhất, hợp lý nhất. Sự thực, rất nhiều độc giả của mùa đông đó chấm dứt, cả đọc lẫn họ, bằng tự tử. Nhưng không phải tất cả họ. Cách đây vài ngày, tôi đọc mẩu tin, Nadezhda Yakovlevna Khazina, một nữ  độc giả đặc biệt, tác giả của hai hồi ký, một có cái tên là “Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng”, vợ của nhà thơ Osip Mandelstam, bị Xì làm thịt, theo một cuốn tiểu sử mới đây cho biết, bà đã tham dự 1 trò chơi ba người, cùng với ông chồng. Một mẩu tin như thế gây ngỡ ngàng và bất bình, trong số những người ái mộ bà, vì họ vốn coi bà là vì thánh. Tôi, khi đọc mẩu tin đó, thì lại cảm thấy rất ư là hạnh phúc. Bởi là vì nếu như vậy, thì là kệ cha mùa đông, kệ mẹ giá lạnh, cả hai ông bà, súng ống, bãi đáp….   thì đều OK cả, nó xác nhận với tôi, ít ra cả hai đã cố đọc tất cả những cuốn sách. Những độc giả thánh nữ của mùa đông là những phụ nữ bằng xương bằng thịt, bằng máu bằng huyết, và họ can đảm rất mực, không ai có thể can đảm hơn. Một vài người tự tử, đúng như thế. Những người khác chịu đựng những điều ghê rợn, khủng khiếp, và trở lại với những cuốn sách của họ, những cuốn sách bí ẩn mà phụ nữ đọc khi trời lạnh, và có vẻ như mùa đông sẽ chẳng bào giờ chấm dứt.