|
Mit Critic
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2015/07/vai-dat-su-ve-nhuong-tong.html?showComment=1481188185941
Vài dật sự về Nhượng Tống
Nếu trước 1945 ở Việt
Nam có một thiên tài văn chương đích thực,
đúng nghĩa và trọn vẹn nhất, thì thiên tài
ấy là Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân.
Không có đâu như ở Việt Nam, một thiên tài
văn chương đã hoàn toàn vắng bóng khỏi văn
học sử chính thống. Sau rất nhiều thập kỷ, Nhượng Tống đã
gần như bị quên hẳn, một số người có nhắc đến thì hầu
như xuất phát từ một sở thích đối với những thứ mờ ảo mà
bản thân họ cũng chỉ biết lờ mờ, để tỏ vẻ lập dị, đặc biệt. Phê
bình (critique) văn học của Việt Nam vô cùng gần với
tội ác (crime) chính ở những trường hợp như thế này.
Thật ra suốt gần một thế kỷ qua, các nhà phê bình
đã làm gì?
Cuốn của Tolstaya, order, bữa
nay về. Trong có tất cả những bài đã giới thiệu trên
TV, đã từng đăng trên NYRB. Cố tìm bài “Những
thời ăn thịt người”, Gấu đã từng đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan,
bản dịch, đăng trên tờ Thế Kỷ 21, nhưng không
thấy. (1)
(1) Kiếm ra rồi: Bài
điểm cuốn của Robert Conquest: The Great
Terror (Oxford University Press, 1990): “The Great Terror
and the Little Terror”: Khủng Lớn & Khủng Nhỏ. Bài viết này,
đọc ở Trại Tị Nạn Thái Lan, mở ra cho
Gấu một cái nhìn mới mẻ về xứ Bắc Kít.
Cuốn hồi ký của Pico
Iyer cũng tuyệt lắm. Viết về sư phụ của ông, là Graham Greene,
và nhân vật ông thật mê, là Người Mẽo Trầm
Lặng, Pyle.
TTT biểu thằng em, trong 1 lần ngồi Quán Chùa, nhà
văn An Nam chết non, cứ viết hết thời thanh xuân, là ngỏm.
Về già Gấu nhận ra, nhà văn Mít chết non vì
“đéo” có Thầy.
Thầy mũi lõ, không thể có, vì dốt quá,
không đọc được chữ mũi lõ, Thầy mũi tẹt thì lại càng
không có, vì, có thằng nào hơn tao đâu,
mà Thầy mới lại chẳng Thầy!
Nên nhớ, nếu bạn thực tình mê văn chương, thực
tình muốn có ngày trở thành nhà văn:
Phải có Thầy!
Nguyễn Tuân mà
chẳng xứng đáng là Thầy ư. Vậy mà Gấu đọc lũ nhà
văn Mít, tên nào cũng chê ông!
Hẳn là có nhiều người bực mình, nhất là
mấy đấng nhà văn cũng có tí tên tuổi, cũng
có 1, hoặc 2 cái truyện ngắn được đời biết tới, chúng
ông cũng nổi tiếng vậy, mà đâu cần Thầy.
Đúng như thế, và đây chính là cõi
văn Mít, làng nhàng 1 lũ, áo thụng vái
nhau, "đếch" cần Thầy!
Cuốn trên, cũng đi làm từ thiện mất rồi!
Robert Conquest
Đời người thì ngắn ngủi. Với nhiều người, cái việc đào
bới quá khứ thì chán ngấy, chưa kể đáng sợ, và
họ chẳng có thì giờ. Vả chăng, ở 1 xã hội Tây
Phương, ý niệm lịch sử yếu dần nếu không muốn nói, biến
mất theo với năm tháng: Tây phương không sống với lịch
sử, nó sống với văn minh (qua cái từ này, tôi muốn
nói 1 thứ tự quan hoài, của 1 nền văn hóa liên
quốc gia, mang tính kỹ thuật, đối nghịch với dòng tiềm thức,
không tra hỏi của lịch sử). Nhưng ở Nga, gần như không có
cái gọi là văn minh, và lịch sử thì nằm trong
những tầng sâu, chưa ai mó tới, trên những làng
xóm, thành phố nhỏ mấp mé bờ tiền sử, thời hoang sơ,
trên những thành phố lớn ở những khu vực rộng, không biết
đến cái gọi là có văn hóa, nơi ngăn cấm những
người nước ngoài, và chính họ cũng chẳng dám mò
tới. Ngay cả ở trung tâm thành phố Moscow, vẫn có những
khu vực mà đời sống ở đó, thì “huy hoàng thế
kỷ” 15, hay 11; thế kỷ 11 thì dễ hiểu, dễ thông cảm hơn, vì
vào thời kỳ này, nước Nga phát triển nhiều về mặt văn
hóa, văn minh, so với thế kỷ 15)
Tây Phương sống bằng văn minh, Mít sống bằng lịch sử. GCC
thuổng ý này, khi viết về Bác Hồ, giống như cái
xác ướp của Đức Thánh Trần, thí dụ, từ quá khứ
bốn ngàn năm bèn sống lại, hoặc, buồn quá, bèn
vỗ vai Hùng Vương, “toa” có công dựng nước, còn
“moa”, giữ nước!
Trong bài viết "Những Thời Ăn Thịt Người" (Thế Kỷ 21, bản dịch),
bà cho rằng, Á Châu sống bằng lịch sử, trong khi Âu
Châu, bằng văn minh. Có thể vì sống bằng lịch sử, cho
nên, những nhân vật từ đời thuở nào vẫn "bị", hoặc "được"
đội mồ sống dậy, nhập thân vào những anh hùng, cha
già dân tộc.
Có thể cũng vì vậy, câu nói "sĩ phu Bắc Hà
chỉ còn có tôi", của Nguyễn Hữu Chỉnh, và hình
ảnh một Nguyễn Huệ tới Thăng Long, làm tan hoang phủ Chúa,
cung Vua, rồi bỏ đi, vẫn "nhức nhối" cho tới bây giờ.
Tôi cũng cố tưởng tượng ra một Nguyễn Huệ "của tôi", và
tôi nghe Người vừa lắc đầu, vừa lẩm bẩm, khi đứng trước những miếu
đền, những ngàn chương sử nay chỉ là một đống tro tàn:
"Ta tìm gì ở đây?" "Nơi này, ta không sinh
ra, và cũng chẳng hề muốn sống ở đó".
During Stalin's time, as I see it, Russian society, brutalized by centuries
of violence, intoxicated by the feeling that everything was allowed, destroyed
everything "alien": "the enemy," "minorities"-any and everything the least
bit different from the "average." At first this was simple and exhilarating:
the aristocracy, foreigners, ladies in hats, gentlemen in ties, everyone
who wore eyeglasses, everyone who read books, everyone who spoke a literary
language and showed some signs of education; then it became more and more
difficult, the material for destruction began to run out, and society turned
inward and began to destroy itself. Without popular support Stalin and his
cannibals wouldn't have lasted for long. The executioner's genius expressed
itself in his ability to feel and direct the evil forces slumbering in the
people; he deftly manipulated the choice of courses, knew who should be
the hors d' oeuvres, who the main course, and who should be left for dessert;
he knew what honorific toasts to pronounce and what inebriating ideological
cocktails to offer (now's the time to serve subtle wines to this group;
later that one will get strong liquor).
It is this hellish cuisine that Robert Conquest examines.
And the leading character of this fundamental work, whether the author intends
it or not, is not just the butcher, but all the sheep that collaborated with
him, slicing and seasoning their own meat for a monstrous shish kebab.
Tatyana Tolstaya
Lần trở lại xứ Bắc, về lại làng cũ, hỏi bà
chị ruột về Cô Hồng Con, bà cho biết, con địa chỉ, bố mẹ bị
bắt, nhà phong tỏa, cấm không được quan hệ, và cũng chẳng
ai dám quan hệ. Bị thương hàn, đói, và khát,
và do nóng sốt quá, khát nước quá, cô
gái bò ra cái ao ở truớc nhà, tới bờ ao thì
gục xuống chết.
Có thể cảm thấy đứa em quá đau khổ, bà an ủi, hồi
đó “phong trào”.
Tolstaya viết:
Trong thời Stalin, như tôi biết, xã hội Nga, qua bao thế
kỷ sống dưới cái tàn bạo, bèn trở thành tàn
bạo, bị cái độc, cái ác ăn tới xương tới tuỷ, và
bèn sướng điên lên, bởi tình cảm, ý nghĩ,
rằng, mọi chuyện đều được phép, và bèn hủy diệt mọi
thứ mà nó coi là “ngoại nhập”: kẻ thù, nhóm,
dân tộc thiểu số, mọi thứ có tí ti khác biệt với
nhân dân chúng ta, cái thường ngày ở xứ
Bắc Kít. Lúc đầu thì thấy đơn giản, và có
tí tếu, hài: lũ trưởng giả, người ngoại quốc, những kẻ đeo cà
vạt, đeo kiếng, đọc sách, có vẻ có tí học vấn….
nhưng dần dần của khôn người khó, kẻ thù cạn dần, thế
là xã hội quay cái ác vào chính
nó, tự huỷ diệt chính nó. Nếu không có
sự trợ giúp phổ thông, đại trà của nhân dân,
Stalin và những tên ăn thịt người đệ tử lâu la không
thể sống dai đến như thế. Thiên tài của tên đao phủ,
vỗ ngực xưng tên, phô trương chính nó, bằng khả
năng cảm nhận, dẫn dắt những sức mạnh ma quỉ ru ngủ đám đông,
khôn khéo thao túng đường đi nước bước, biết, ai sẽ là
món hors d’oeuvre, ai là món chính, ai sẽ để
lại làm món tráng miệng…
Đó là nhà bếp địa ngục mà Conquest săm soi.
Và nhân vật dẫn đầu thì không phải chỉ là
tên đao phủ, nhưng mà là tất cả bầy cừu cùng cộng
tác với hắn, đứa thêm mắm, đứa thêm muối, thêm tí
bột ngọt, cho món thịt của cả lũ.
Cuốn "Đại Khủng Bố", của Conquest, bản nhìn lại,
a reassessment, do Oxford University Press xb, 1990.
Bài điểm sách, của Tolstaya, 1991.
GCC qua được trại tị nạn Thái Lan, cc 1990.
Như thế, đúng là 1 cơ may cực hãn hữu, được đọc
nó, khi vừa mới Trại, qua tờ Thế Kỷ 21, với cái tên “Những
Thời Ăn Thịt Người”. Không có nó, là không
có Gấu Cà Chớn. Không có trang Tin Văn.
Có thể nói, cả cuộc đời Gấu, như 1 tên Bắc Kít,
nhà quê, may mắn được ra Hà Nội học, nhờ 1 bà
cô là Me Tây, rồi được di cư vào Nam, rồi được đi
tù VC, rồi được qua Thái Lan... là để được đọc bài
viết!
Bây giờ, được đọc nguyên văn bài điểm sách,
đọc những đoạn mặc khải, mới cảm khái chi đâu. Có
thể nói, cả cái quá khứ của Gấu ở Miền Bắc, và
Miền Bắc - không phải Liên Xô - xuất hiện, qua bài
viết.
Khủng khiếp thật!
Tatyana
Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ đọc đã lâu,
khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời
Ăn Thịt Người (đăng trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản
không phải từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên
chế không phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô
lên từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân
Nga, dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không
ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. ["We Russians don't need to eat; we eat one
another and this satisfies us."].
Chính cái phần Á-châu man rợ đó đã
được đưa lên làm giai cấp nồng cốt xây dựng xã
hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không có sự yểm trợ
của nhân dân Nga, chế độ Stalin không thể sống dai như thế.
Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến
một cuộc cách mạng Nga! "God forbid we should ever witness a Russian
revolt, senseless and merciless," our brilliant poet Pushkin remarked as
early as the first quarter of the nineteenth century.
Trong bài viết, Tolstaya kể, khi cuốn của Conquest, được tái
bản ở Liên Xô, lần thứ nhất, trên tờ Neva, “last
year” [1990, chắc hẳn], bằng tiếng Nga, tất nhiên, độc giả Nga, đọc,
sửng sốt la lên, cái gì, những chuyện này, chúng
tớ biết hết rồi!
Bà giải thích, họ biết rồi, là do đọc Conquest,
đọc lén, qua những ấn bản chui, từ hải ngoại tuồn về!
Bản đầu tiên của nó, xb truớc đó 20 năm, bằng tiếng
Anh, đã được tuồn vô Liên Xô, như 1 thứ sách
“dưới hầm”, underground, best seller.
Cuốn sách đạt thế giá folklore, độc giả Nga đo lường lịch
sử Nga, qua Conquest,"according to Conquest,"
Review of “The Great Terror:
A Reassessment, by Robert Conquest” (Oxford University Press, 1990)
LAST YEAR Robert Conquest's The Great Terror was translated into Russian
and published in the USSR in the journal Neva. (Unfortunately, only the
first edition was published. I hope that the second, revised and enlarged
edition will be published as well, if it is not suppressed by the censorship
so recently revived in the Soviet Union.) The fate of this book in the USSR
is truly remarkable. Many of those who opened Neva in 1989-90 exclaimed:
"But I know all this stuff already!" How did they know it? From Conquest
himself. The first edition appeared twenty years ago in English, was translated
into Russian, and infiltrated what was then a closed country. It quickly
became an underground best seller, and there's not a thinking person who
isn't acquainted with the book in one form or another: those who knew English
read it in the original, while others got hold of the Russian text, made
photocopies at night, and passed them on. The book gave birth to much historical
(underground and emigre) research, the facts were assimilated, reanalyzed,
argued, confirmed, elaborated. In short, the book almost achieved the status
of folklore, and many Soviet people measure their own history "according
to Conquest," sometimes without realizing that he actually exists. This is
why many readers, especially the younger ones, thought of Conquest's book
as a compilation of "commonly known facts" when they read it for the first
time. The author should be both offended and flattered.
He [Conquest] later called Marxism a “misleading
mental addiction”. Ông sau đó gọi chủ nghĩa Mác là
thứ “say mê, nghiện ngập về mặt tâm thần lầm lạc”.
Ngày “Một ngày
trong đời Ivan Denisovich” của Solzhenitsyn chính thức ra lò,
Thứ Bẩy, 17 Tháng 11, 1962.
Cứ như ở trong nhà thờ, ông chủ báo Novy Mir kể
lại cho tác giả, tình hình tòa soạn, độc giả
lặng lẽ vô, lặng lẽ đưa ra 70 kopeck, lặng lẽ lấy một số báo,
và lặng lẽ ra ngoài, nhường chỗ cho độc giả khác!
Nhưng, nếu như thế, liệu “Một ngày trong đời Ivan” có
thể dài quá một số báo Novy Mir?
Không thể, theo Gấu.
Đúng như Lukacs, khi nhận định, vào thời điểm Cái
Ác lên ngôi, cả văn chương và đời sống bỏ chạy
có cờ, thì truyện ngắn đúng là cái anh
chàng cảm tử đóng vai hậu vệ, cản đường tiến của nó.
(1)
“Bếp Lửa, Kẻ Xa Lạ, Một ngày, Tướng về hưu”… bắt buộc phải
là truyện ngắn, không thể khác.
Hơn thế nữa, chưa cần đọc, chỉ đọc mỗi cái tên truyện không
thôi, là đã đủ ngộ ra chân lý.
Nhân đang ồn ào về Dương Nghiễm Mậu, lịch sử không
thể lập lờ, thế thì, tại nàm sao, trong danh sách trên,
lại thiếu, những Rượu Chưa Đủ, Cũng Đành, Ngoại Ô Dĩ An và
Linh Hồn Tôi, Con Thú Tật Nguyền, Trăng Huyết, Trái Khổ
Qua, Dọc Đường, Tư, và, lẽ dĩ nhiên: “Tứ tấu khúc” viết
về Lan Hương và Sài Gòn!
Ôi chao, hoá ra Lukacs mới kỳ tài làm sao:
ông biết trước, Cái Ác sẽ lên ngôi, và
thiên tài của nơi chốn [ông thần đất, ông thành
hoàng, ông địa...] sẽ ban cho miền đất bị trù ẻo này
hơn một truyện ngắn, trong khi chờ, được chúc phúc trở lại.
*
(1) G. Lukacs, phê bình gia Mác xít, đọc
Một ngày, và đưa ra nhận định như trên, về thể loại
truyện ngắn.
Trớ trêu là, Robert Conquest, và tiếp theo, Martin
Amis, cũng dựa trên kinh nghiệm của Solz, của trại tù Stalin,
để giải thích sự dài ngắn của một cuốn sách.
Amis mở ra cuốn “Koba The Dread” của ông, bằng câu văn thứ
nhì của Robert Conquest, trong cuốn “Mùa Gặt Buồn: Tập thể
hóa Xô viết và Trận Đói-Kinh Hoàng: The
Harvest of Sorrow: Soviet Collectivization and the Terror-Famine”:
Nếu lấy chữ mà so với mạng người, thì những chuyện gì
xẩy ra ở trong cuốn sách của tôi, cứ hai mươi mạng người thì
tương đương với, không phải một từ, mà một con chữ.
Câu tiếng Anh của Conquest, “We may perhaps put this in perspective
in the present case by saying that in the actions here recorded about twenty
human lives were lost for, not every word, but every letter, in this book”,
tương đương với 3,040 mạng người. Cuốn sách của ông dài
411 trang.
Conquest trích một câu của Grossman, câu
này tương đương với 3.880 mạng trẻ em:
"And the children's faces were aged, tormented, just as if they were
seventy years old. And by spring they no longer had faces. Instead, they
had birdlike heads with beaks, or frog heads-thin, wide lips-and some of
them resembled fish, mouths open"
[Mặt trẻ em thì già cằn, tả tơi, cứ như thể chúng
70 tuổi đầu. Tới mùa xuân chẳng em nào còn có
mặt, thay vì mặt thì là những cái đầu giống như
đầu chim...]
Ai Điếu Robert Conquest
Tay này, khui ra sự thực về Stalin: Một Con Quỉ
Robert Conquest obituary
Historian and poet who exposed the full extent of Stalin’s terror during
the Soviet era
http://www.theguardian.com/books/2015/aug/05/robert-conquest
Trong
những sử gia Tây Phương về Liên Xô, Robert Conquest, mất
3/8/2015, 98 tuổi có 1 vị trí độc nhất. Ông không
chỉ là người thứ nhất viết về khủng bố Stalin, mà còn
là người chi tiết nhất, chính xác nhất về nó:
Người nói sự thực về khủng bố Xì, và về tên bạo
chúa sát nhân, the man who told the truth about the terror,
and Stalin’s murderous tyranny.
Thay
vì đi 1 đường tưởng niệm, Tin Văn sẽ dịch bài viết của Tolstaya,
khi điểm cuốn của Conquest. Nhờ bài viết này, đọc bản dịch,
hay tóm tắt chẳng biết nữa, “Những Thời Ăn Thịt Người”, trên
tờ Thế Kỷ 21, tại Trại tạm cư Panat Nikhom, cc 1989, Gấu mới ngộ ra Cái
Ác Bắc Kít
My Old Saigon
The Turkish Nobel laureate Orhan
Pamuk had warm personal memories: “Grass learned a lot from Rabelais and
Celine and was influential in development of ‘magic realism’ and Marquez.
He taught us to base the story on the inventiveness of the writer no matter
how cruel, harsh and political the story is,” he said.
Ông học nhiều từ Rabelais và Céline, và ảnh
hưởng bởi hiện thực thần kỳ và Garcia Marquez. Ông ta dạy chúng
ta, hãy viết, bằng phát kiến của nhà văn, đếch thèm
để ý đến câu chuyện, cho dù nó độc địa, dữ dằn
hay bị chính trị cấu xé, tới cỡ nào.
The Greatness of Günter Grass
By Salman Rushdie
He danced
across history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because
of his personal grace.
Sự vĩ
đại của GG.
Ông
khiêu vũ qua những ghê tởm, gớm ghiếc của lịch sử, tới cái
đẹp của văn chuơng, sống sót cái ác, nhờ ân sủng
cá nhân của mình.
Ui
chao, thèm câu phán quá, đeo ở cổ... Gấu
Cà Chớn, như cái tai người, của 1 nhân vật, của NMG trong
Mùa Biển Động.
Hà, hà!
[Note:
Bạn chỉ cần dịch, từ "ân sủng", là "nhân hậu và
cảm động", là ra GCC, thay vì GG!]
Noel coming I MISS U SO MUCH
Grass cực bảnh, theo GCC. Cái
cú thú tội của ông thần sầu, khó có ai
bắt chước được.
Chỉ cần 1 tên nhà văn Bắc Kít làm được như
ông, là lịch sử xứ Mít đổi khác.
Lũ tinh anh của chúng, tên nào, não cũng bị
thiến 1 mẩu, là thế!
Quê Hương Tưởng Tượng
Trong tập tiểu luận Quê
Hương Tưởng Tượng, (Patries imaginaires), Salman Rushdie có nhắc
tới một hình ảnh theo ông thật là tuyệt vời trong tác
phẩm "Mùa Đông của ông Khoa trưởng" của nhà văn
Mỹ, Saul Bellow, Nobel văn chương. Nhân vật chính, ông
khoa trưởng, Corde, nghe tiếng chó sủa một cách man rợ ở đâu
đó. Và ông ta tưởng tượng ra được rằng, tiếng sủa đó
là sự nổi loạn của con chó chống lại sự hữu hạn của kinh nghiệm
loài chó. "Thượng Đế hỡi, con chó nói, xin làm
ơn mở rộng thế giới ra một chút xíu nữa". Rồi Rushdie kết
luận: Bởi vì Bellow thực sự không nói chuyện mấy con
chó, hoặc không phải chỉ nói chuyện về chúng
mà thôi, tôi có cảm tưởng cơn cuồng nộ, và
khát vọng của con chó cũng là của chúng tôi,
của chúng ta, những người ở trên thế gian này.
Không hiểu sao, khi đọc
bài phỏng vấn nhà văn Thảo Trường trên Văn, số tháng
Chạp, 1996, tôi bỗng nhớ đến S. Rushdie, cùng cơn cuồng nộ,
và khát vọng của ông. Nhà văn Thảo Trường khẳng
định một điều: "Văn Học Việt Nam thì phải viết bằng Quốc Ngữ. Viết
bằng chữ khác thì không nên gọi là văn học
Việt Nam." Không ai có thể phủ nhận điều này. Và
bởi vì ngay cả khi khẳng định, chúng ta vẫn còn tra
hỏi, bởi vì câu hỏi nhiều khi cần thiết hơn là câu
trả lời; cho nên ở đây, người viết chỉ xin đưa ra một đề nghị,
liệu chúng ta có nên thêm vào Văn Học Việt
Nam một "mảng văn chương viết bằng tiếng Anh".
Bởi vì Thượng Đế quả
tình đã nghe được lời khẩn cầu của S. Rusdhie, và thế
giới đối với ông quả có rộng thêm, không phải một
chút xíu, mà thật rộng, ít ra cũng rộng hơn nhiều,
so với đám di dân, tỵ nạn chúng ta.
Cùng với những nhà
văn như Michael Ondaatje, Kazuo Ishiguro... họ đang đại diện cho dòng
văn chương thế giới hiện đại: dòng văn chương viết bằng tiếng Anh
của những người di dân. Họ cũng đã từng đoạt giải thưởng The
Booker, một giải thưởng văn chương của "đế quốc Anh". Nếu không có
những người như họ, liệu tiếng Anh, dòng văn chương viết bằng tiếng
Anh có trở nên giầu có, trở thành niềm hãnh
diện không phải của một số sắc dân mà coi như của toàn
thể nhân loại. Bản thân người viết, khi đọc họ, thí dụ
như nhà văn nữ Amy Tan, chỉ thấy đây là một người đàn
bà Trung Hoa, viết về những đề tài muôn thuở của con
người, và những xung đột, những mâu thuẫn... khi họ, những
"đứa con của Trung Nguyên, của ông Trời", phải đụng đầu với
thế giới Tây Phương; trong niềm tin tưởng mãnh liệt, chỉ cho
họ đặt chân xuống đất Trung Hoa là họ trở thành người
Trung Hoa "một trăm phần trăm".
Trong cuốn "Tàn Ngày",
(The Remains of the Day), tác phẩm đoạt giải The Booker, nhà
văn gốc Nhật, Kazuo Ishiguro đặt thẳng vấn đề, "người ta không thể
có nhân phẩm, một khi là một tên nô lệ",
và có nên trung thành với "ông chủ", Lord
Darlington, một nhân vật biểu tượng cho vương quốc Anh, cho sự cao cả,
la grandeur, của vương quốc đó, đến nỗi đẩy người yêu vào
tay kẻ khác, cuối cùng khám phá ra ông
chủ chỉ là một kẻ cộng tác với Nazi.
Cũng trong Quê Hương Tưởng
Tượng, S. Rusdhie, trong bài viết Luận về phê bình,
Essai de critique, bàn về vấn đề di dân, về những tác
phẩm văn học thế giới, và của nhà văn Đức, Gunter Grass. Ông
viết: Có những tác phẩm mở ra những cánh cửa cho độc
giả, những cánh cửa ở trong đầu, những cánh cửa mà
họ chẳng bao giờ nghi ngờ đến sự hiện hữu của chúng. Và có
những độc giả mơ ước trở thành nhà văn; họ tìm kiếm
một cánh cửa lạ lùng nhất trong số tất cả những cánh
cửa... Lại có những độc giả khác đọc và bắt đầu mơ mộng.
Với những Alice như vậy, họ ao ước "di cư" từ Thế Giới vào trong Những
Cuốn Sách. Đối với họ, có những cuốn sách (nếu họ may
mắn) cho phép họ du lịch, cho phép họ trở thành "nhà
văn có sẵn ở trong họ"... Một cuốn sách cũng giống như một
tờ thông hành, và những tờ thông hành của
tôi, gồm có Hồi Ký của Serge Eisentein, Con Quạ của Ted
Hugues, Những Giả Tưởng của Borges, và trong mùa hè
1967, Cái Trống, của Gunter Grass.
G. Grass là đứa trẻ nổi
tiếng nhất của Danzig (Lech Walesa, người độc nhất có thể tranh giành
với ông danh hiệu này, thực ra sống ở Gdansk). Ông cũng
là nhân vật quan trọng "trung tâm" của dòng văn
chương di dân, và di dân lại là nhân vật
trung tâm và quyết định của thế kỷ 20 này. Như rất nhiều
di dân, như rất nhiều người đã mất một thành phố, ông
tìm lại được nó trong hành trang của ông, dấu
kỹ trong một cái hộp cũ bằng sắt. Thành phố Prague của Kundera,
Dublin của Joyce, Danzig của Grass: Ôi chao, cái đám
lưu đầy xứ người, cái đám tỵ nạn, cái đám di
dân gói ghém không biết bao nhiêu là
thành phố trong hành trang của họ theo suốt những cuộc hành
trình "lang thang Do thái" đó! Và đừng coi thường
sự cứng đầu của họ, những nhà văn như thế. Họ không cho phép
bất cứ ai được "Gdansk hóa" quá khứ của họ. Trong cái
thành phố mà Grass mang theo, Labesweg vẫn là Labesweg,
và những xưởng đóng tầu nhìn thấy sự ra đời của Solidarnosc
không gọi là Lénine, nhưng mà là Schichau.
Theo một nghĩa nào đó,
Grass chỉ có một nửa "di dân". Một di dân chính
hiệu đau nỗi đau ba lần "đứt phim": mất nơi chốn, sống ở một nơi có
một tiếng nói xa lạ hoàn toàn, sống với những người
xa lạ hoàn toàn, nhiều khi còn tỏ vẻ thù nghịch
đối với người đó. Chính ba lần đứt phim này đã
biến di dân trở thành quan trọng vì ba điều vừa kể trên
là ba thành phần quan trọng nhất để định nghĩa một con người.
Mất cả ba, họ bắt buộc phải tìm những cách thức mới để tự
diễn tả, những cách thế mới để là người.
Di dân dâng hiến
cho chúng ta "ẩn dụ" giầu có nhất của thời đại. Từ "ẩn dụ",
métaphore, theo gốc Hy Lạp của nó, có nghĩa "mang qua",
diễn tả một trạng thái thiên di, từ ý tưởng qua hình
ảnh. Di dân do đó là những sinh vật ẩn dụ tự bản chất.
Grass còn là một
di dân đối với quá khứ của ông. Không phải đợi
đến khi người Mỹ tới, và cuộc chiến chấm dứt ông mới nhận ra
chuyện gì thực sự đã xẩy ra ở Đức. Một kinh nghiệm mới đắng
cay làm sao khi khám phá ra rằng hình ảnh toàn
diện về thế giới mà người ta có được là giả, không
những giả mà còn được tạo nên từ Quỷ, từ Ma. Và
trách nhiệm mới lớn lao làm sao đối với chỉ một cá
nhân: xây dựng lại, tái tạo thực tại từ những mảnh vụn,
những điêu tàn. Theo nghĩa đó, Grass là một di
dân trong Lịch Sử. Ông là di dân "kép",
chứ không chỉ một nửa.
Quê Hương Tưởng Tượng,
tại sao vậy?
Trong bài viết được dùng
làm tên cho cả tập, S. Rushdie viết về một kỷ niệm lần ông
trở lại Bombay. Như những di dân, những kẻ lưu đầy xứ người, ông
luôn bị ám ảnh bởi một nỗi mất mát, và sự cần
thiết phải "tái chinh phục" quá khứ, phải quay về với nó,
cho dù có bị biến thành tượng muối. Nhưng nếu chúng
ta quay lại, chúng ta phải biết rằng là, sự xa mặt đã
làm cho chúng ta không thể nào tái chinh
phục được cái đã mất; một cách ngắn gọn, chúng
ta sẽ chỉ xây dựng được, không phải những thành phố,
những làng mạc thực mà là những quê hương tưởng
tượng.
Những Việt Nam, Sài-gòn,
Mỹ Tho, Cai Lậy... của trí tưởng.
NQT
Note: Bài viết này,
Gấu viết, hình như 1997, khi bắt đầu giữ mục Tạp Ghi của tờ VH, của
NMG. Nay, để tưởng niệm G. Grass, Tin Văn đi hết bài viết của Rushdie,
về ông, trong Quê Hương Tưởng Tượng.
Tính đi bài trên
The New Yorker, nhưng hết credit, tờ báo đếch cho đọc!
Đọc được rồi, dùng 1 cái PC khác, hà hà!
In 1982, when I was in Hamburg
for the publication of the German translation of “Midnight’s Children,”
I was asked by my publishers if I would like to meet Günter Grass.
Well, obviously I wanted to, and so I was driven out to the village of Wewelsfleth,
outside Hamburg, where Grass then lived. He had two houses in the village;
he wrote and lived in one and used the other as an art studio. After a certain
amount of early fencing—I was expected, as the younger writer, to make my
genuflections, which, as it happened, I was happy to perform—he decided,
all of a sudden, that I was acceptable, led me to a cabinet in which he stored
his collection of antique glasses, and asked me to choose one. Then he got
out a bottle of schnapps, and by the bottom of the bottle we were friends.
At some later point, we lurched over to the art studio, and I was enchanted
by the objects I saw there, all of which I recognized from the novels: bronze
eels, terracotta flounders, dry-point etchings of a boy beating a tin drum.
I envied him his artistic gift almost more than I admired him for his literary
genius. How wonderful, at the end of a day’s writing, to walk down the street
and become a different sort of artist! He designed his own book covers,
too: dogs, rats, toads moved from his pen onto his dust jackets.
After that meeting, every German
journalist I met wanted to ask me what I thought of him, and when I said
that I believed him to be one of the two or three greatest living writers
in the world some of these journalists looked disappointed, and said, “Well,
‘The Tin Drum,’ yes, but wasn’t that a long time ago?” To which I tried to
reply that if Grass had never written that novel, his other books were enough
to earn him the accolades I was giving him, and the fact that he had written
“The Tin Drum” as well placed him among the immortals. The skeptical journalists
looked disappointed. They would have preferred something cattier, but I
had nothing catty to say.
I loved him for his writing,
of course—for his love of the Grimm tales, which he remade in modern dress,
for the black comedy he brought to the examination of history, for the playfulness
of his seriousness, for the unforgettable courage with which he looked the
great evil of his time in the face and rendered the unspeakable into great
art. (Later, when people threw slurs at him—Nazi, anti-Semite—I thought:
let the books speak for him, the greatest anti-Nazi masterpieces ever written,
containing passages about Germans’ chosen blindness toward the Holocaust
that no anti-Semite could ever write.)
On his seventieth birthday,
many writers—Nadine Gordimer, John Irving, and the whole of German literature—assembled
to sing his praises at the Thalia Theatre in Hamburg, but what I remember
best is that when the praise songs were done music began to play, the theatre’s
stage became a dance floor, and Grass was revealed as a master of what I
call joined-up dancing. He could waltz, polka, foxtrot, tango, and gavotte,
and it seemed that all the most beautiful girls in Germany were lining up
to dance with him. As he delightedly swung and twirled and dipped, I understood
that this was who he was: the great dancer of German literature, dancing
across history’s horrors toward literature’s beauty, surviving evil because
of his personal grace, and his comedian’s sense of the ridiculous as well.
To those journalists who wanted
me to diss him in 1982, I said, “Maybe he has to die before you understand
what a great man you have lost.” That time has now arrived. I hope they
do.
Vào năm 1962, khi tôi
tới Hamburg nhân dịp ra lò
ấn bản tiếng Đức, "Những Đứa Con Giờ Tý", nhà xb gợi ý
hay là tụi mình đi thăm GG?
Why not? Thế là chúng tôi làm 1 chuyến ghé
thăm ông, ở 1 cái làng; ông có hai ngôi
nhà ở trong làng, một để viết, và sống, một để vẽ vời,
ông là 1 họa sĩ ra trò.
Sau cú đi thăm, mọi tên ký giả Đức mà tôi
gặp, đều hỏi tôi, nghĩ gì về GG, và tôi bèn
phán, ông ta là 1, hoặc, 1 trong 2, hoặc 1 trong 3, nhà
văn vĩ đại nhất hiện còn sống trên thế giới; vài tên
ký giả ngó bộ thất vọng, thằng chả đó ư, "Cái
Trống Thiếc", OK, nhưng Xưa rồi Diễm ơi, thằng chả teo chim rồi, hết viết
được rồi, hà, hà!
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/12/su-ky.html#more
Cái dở của việc đọc sách
hồi nhỏ là cứ đọc đi đọc lại rồi lại đọc đi đọc lại, thậm chí
đến nỗi thuộc lòng rất nhiều đoạn. Sao hồi bé chúng
ta ngu thế nhỉ?
NL
Note: Cái chết của nền giáo dục Bắc Kít, là
do dạy con nít hận thù - trồng người 100 năm - tức
là 1 nền giáo dục hận thù, đúng như Borges
chỉ ra, khi viết về Nazi.
Bởi thế mà Naipaul, theo Gấu, không đọc được Borges,
khi chê ông suốt đời mê mải với cái vĩnh cửu.
Nhưng chính cái “bài luận mẫu”, cũng giết
giáo dục Bắc Kít.
GCC, "đau đáu" với cái đau, tại sao lũ tinh anh Mít
Miền Nam, nhất là lũ học Triết, rồi tới lũ bỏ chạy cuộc chiến...
không tên nào viết được cái gì cho ra
hồn, và sau cùng ngộ ra, chính cái chính
sách “hoãn dịch vì lý do học vấn’ làm
hại chúng!
Những đấng như Thầy Đạo, Thầy Quân, Thầy Thục... không
tên nào viết cho ra hồn, vì cứ ngồi xuồng bàn
viết 1 phát, là cours của Thầy lại hiện ra ở trong đầu
của họ, rõ mồn một rồi.
Nói rõ hơn, chúng học thuộc cours của Thầy,
đến không làm sao quên được nữa!
Gấu đã kể về cái lần thi lấy chứng chỉ Triết Tây
Phương, có thể nói, trúng tủ, vì gặp đúng
đề tài, đã từng đọc trong cours Sorbonne, mua ở Lê
Phan, đếch thèm học cours của Thầy NVT - vì lúc đó
đi làm Bưu Điện rồi, ghi danh học theo kiểu hàm thụ
-, và bị đánh rớt- mày không học thuộc cours
của tao, Gấu cứ như nghe Thầy NVT phán – thế là bèn
bye bye Văn Khoa Saigon, sau khi lấy được cái Triết Dự Bị.
Thầy khốn nạn, đẻ ra học trò khốn nạn.
Gấu nhớ là, đọc cái đề thi, mừng quá, nghĩ
thầm, xong rồi!
Mấy
Thầy Đạo, Thầy Thục, do học thuộc cours quá, thế là “thoát
chết, sống sót”, nhưng không sao viết được nữa!
Steiner cũng đã kể về lần gặp 1 ông Thầy Mẽo, khi
vô học Đại Học, và bị Thầy chửi, mi học theo kiểu Tây,
học thuộc lòng, “hư mẹ mi” mất rồi!
Note: Bài trả lời phỏng vấn The Paris Review này,
cực kỳ quan trọng, vì có rất nhiều vấn đề liên quan
đến Mít chúng ta, thí dụ Cái Ác Nazi.
Steiner, thoát chết Lò Thiêu, nhưng không làm
sao quên nổi tro than của nó. Nhờ những người như ông,
hay như Levi, mà có thể nói, Âu Châu đã
được cứu thoát, bởi cái họa Nazi, và sau đó,
cái họa Đỏ.
Hai cái họa này, kể như "còn nguyên"
với xứ Mít.
http://www.tanvien.net/Tuong_niem/trinh_cong_son_tuong_niem.html
Đường may mắn.
Hình trên, là một bài toán
lớp Đệ Ngũ.
Trên hai cạnh một góc nhọn, lấy hai đoạn bằng nhau
AB và CD. Chứng minh:
MN - đường nối trung điểm AC và BD - song song với đường
phân giác của góc.
Gấu đã giải được, nhờ phịa ra thêm một đường.
Thiếu đường vẽ thêm đó, là vô phương!
Có những con đường may mắn
như thế, phải đợi tri âm của nó, hàng bao nhiêu
thế kỷ!
Koestler, trong Hành động sáng tạo, The
Act of Creation, viết về trường hợp Kepler: Hình học "cô
níc" đã từng được Apollonius of Perga nghiên cứu từ
thế kỷ thứ tư, trước BC, chỉ để vui đùa, giải trí, và
phải đợi Kepler, hai ngàn năm sau, mới biết cách sử dụng
nó, vào việc nghiên cứu quĩ đạo các hành
tinh. Mấy định luật về cô-níc, [hình e-líp, ở
đây], Kepler khám phá ra, là nhờ đo đạc đường
bay của mặt trời, và khi biết, nó là hình e-líp,
ông đã hoảng hồn, ghi vào nhật ký, tôi
phải là một tên khùng, một kẻ sát nhân,
bởi vì điều tôi khám phá ra đó, từ thời
Pythagore người ta đã biết rồi!
Gấu viết đến đây, bỗng nhớ lại kỷ niệm tự mình kiếm
ra phương trình đường thẳng, vội vàng đi khoe với bạn
học, và bị ông bạn nhìn với cặp mắt thương hại, ôi
chao, sao lại có thằng ngu như mày, hả Gấu, điều sơ đẳng
đó, người ta đã kiếm ra từ đời nảo đời nào rồi.
Đây cũng là kinh nghiệm để đời cho mấy ông
nghệ sĩ: một thằng cha sáng tạo ra cái mới phải là
một thằng thuộc lòng quá khứ, và chán quá
khứ quá, nên mới phịa ra cái mới, chỉ để vui chơi
mà thôi!
Vì quá mê chơi đổ hột xí ngầu mà
Chevalier de Méré tìm gặp Pascal để nhờ ông
này cố vấn, làm sao đổ xí ngầu cho ngon lành,
và thế là môn học xác xuất ra đời.
Có khi, tưởng là may mắn, nhưng thực sự, chỉ lập
lại, một hành động trong đời xưa, kiếp trước.
Hành động sáng tạo của cô khỉ đột Nueva,
a young female chimpanzee, Koestler kể ra, trong Hành động
sáng tạo, ông cho rằng, đã được lập lại, từ
đời trước, earlier life.
Gấu đã từng gặp "một vài lần", như vậy.
*
Nhân chuyện học, ở trong nước, mới có một em được
điểm 10 cao quí nhất của môn văn, là nhờ nhớ như
in, một bài văn mẫu!
Đây là một trường hợp quá tuyệt vời của kiểu
giáo dục 100 năm trồng người. Thành công một trăm
phần trăm! Trồng sao, thì quả vậy.
Gấu bỗng nhớ, một trường hợp y chang, nhưng hơi bị ngược lại,
của học sinh Miền Nam. Chuyện này hoàn
toàn "non-fiction", không phải giả tưởng, vì xẩy ra
với một người học trò của Gấu: Cô con gái của ông
Chú của Gấu, mà Gấu khi đó làm nghề kèm
trẻ tại gia. Ông chú này Gấu đã nhắc tới nhiều
lần, thí dụ như trong Tên của cuộc chiến.
Năm đó, cô học thi lấy bằng tiểu học. Bài
luận văn trong kỳ thi y hệt một bài cô đã từng được
Gấu dậy. Nghĩa là trúng tủ. Và thế là đậu.
Lạ một điều, là thi vô Đệ Thất trường công,
cũng một bài luận văn tương tự. Cô gái về nhà
mếu máo, bài thi y hệt bài cũ, đã ra thi
kỳ thi tiểu học vừa rồi, em không dám lập lại bài
thầy đã dậy, vì nghĩ, như vậy là không được
đàng hoàng!
Một cách nào đó, cô gái mơ
hồ hiểu ra cái gọi là học. Học, cũng chẳng khác
gì sáng tạo, nghĩa là không hề lập lại, ngay
chính mình.
Gấu nhớ đến câu chuyện một ông thợ làm đồ
sành đồ gốm, xong, trang trí bằng những hoa văn. Khách
thấy đẹp quá, bèn order, cho thêm vài cái
nữa. Mấy cái sau, ông thợ tính giá gấp đôi,
gấp ba. Khách ngạc nhiên. Ông thợ phán: Lập lại
chán chết!
Ôi chao, tại sao lại có một cách dậy học
sinh tuyệt vời đến như thế, tại sao lại có những người học sinh
tuyệt vời đến như thế!
Vậy mà tụi khốn nạn làm hư hỏng hết, thê
thảm chưa!
Không chỉ một, mà, chẳng biết, bao nhiêu thế
hệ.
Như vậy mà không đau, không xót, không
chửi?
Viết Lại Truyện Kiều
Czeslaw Milosz, trong 1 bài
viết ngắn về Dos, đã đưa ra nhận xét, không phải
chỉ sự quan tâm của Dos về 1 nước Nga đã đem đến cho ông
sức mạnh, nhưng còn là những sợ hãi của ông
về tương lai nước Nga đã bắt ông phải viết để đưa ra 1 lời
cảnh báo. [It was not only his concern for Russia that gave him
strength, but also his fears about Russia’s future that forced him to
write in order to issue a warning]. Nhìn như thế, thì Mít
không cần thứ văn chương “Đĩ Thúi”, bởi nó chỉ là
1 thứ ẩn dụ cởi truồng nhắm chửi xéo chế độ - khi nhà văn
vô lại không dám trực diện đồi đầu với nó, như
1 Phương Uyên, chẳng hạn.
Cái thứ văn chương ẩn dụ cởi truồng này, vốn được
đám nhà văn VC ưa sử dụng, nhằm tránh kiểm duyệt,
mà vẫn được coi là “liều mạng”, “cách mạng”, theo
Gấu, hết thời rồi. Đây là cái mặt “side-effect”,
phản ứng phụ, của một NHT, chuyên sử dụng nhân vật lịch sử
để nói chuyện hiện tại. Đám đàn em bắt chước, nhưng
thiếu tài, thiếu tâm, vả chăng đều đã từng cúc
cung phục vụ chế độ, khi bị đá, bèn "ở về phía nước
mắt", cực tởm.
It is good to be born in a small
country where nature is on a human scale, where various languages and
religions have coexisted for centuries. I am thinking here of Lithuania,
a land of myth and poetry.
Thật lốt lành khi sinh ra tại một xứ nhỏ, nơi thiên
nhiên không so le với con người, nơi ngôn ngữ và
tôn giáo cùng rong ruổi bên nhau qua nhiều đời.
Tôi đang nghĩ về Lithuania, miền đất của huyền thoại và thi
ca.
Czeslaw Milosz, Diễn văn Nobel văn chương.
Lần đầu đọc, khúc trên,
Gấu bèn nghĩ đến cái xứ Bắc Kít ngày nào
của Gấu. Cái miền đất của huyền thoại đó, có thiệt,
ở thằng Gấu Bắc Kít nhà quê, mắt lé, lùn,
một phần, có sẵn trong máu, một phần, có thể là
nhờ đọc những tác phẩm đầu đời, loại Sách Hồng, như “Những
chiếc ấm đất”, “Ông Đồ Bể”. Lớn thêm 1 tí, thì
là nhờ đọc Nguyễn Tuân, qua “Vang Bóng Một Thời”,
hay Nguyễn Công Hoan, qua “Bước Đường Cùng”, thí dụ.
Phải đến mãi sau này, đi hết cuộc chiến, cuộc
tình, với Cô Bạn, và với Cô Ba, nhìn
lại lũ con tư sinh của một miền đất, trong có Gấu, và đọc
câu của Nguyễn Du, “thiện căn ở tại lòng ta”, Gấu bèn
đi tìm cái thiện căn, của những đấng “tư sinh”, Bắc Kít
di cư, và phát giác, có, nhưng không
chỉ có nó, mà còn có Cái Ác
Bắc Kít, "rong ruổi bên nhau".
Rõ nhất là ở những đấng “tay phải vẽ hình
vuông, tay trái vẽ hình tròn”, như Duyên
Anh, thiện căn thì đẻ ra “Con sáo của em tôi”, ác
căn Bắc Kít, thì ra ông Thương Sinh cực độc. Rồi ông
Lê Tất Điều cũng có “Những Giọt Mực” rong ruổi kế bên
ông Kiều Phong chuyên “trừ tà”, giống như nhân
vật trong “Cửa Tùng Đôi Cánh Gài”, của Nhất
Hạnh.
Trừ Tà ghê quá, biến thành Tà
hồi nào, đếch biết!
Ông Số 2 thì “Thơ Trong Tiếng Mít”, kế bên
những bài viết của Đạo Cấy.
Cấy gì?
Cái Độc, Cái Ác Chống Cộng Điên Cuồng,
nhưng đằng sau thì chứa Cộng trong nhà, trong tòa
soạn NV.
Bạn đọc bài viết kể chuyến anh y tá dạo công
du, mà chẳng thấy thổi VC còn bảnh hơn nhiều, so với trong
nước ư? (1)
Với tên nhà văn vô lại, NV, đếch còn
tí thiện căn nào cả!
Không chỉ với ông ta mà với toàn bộ
đám VC nhà văn Bắc Kít.
Dòng văn chương “thiện căn” Bắc Kít chấm dứt với
NHT.
Cực độc đấy, nhưng vẫn còn mầm thiện!
Bởi
vậy mà khi Sến cô nương đăng "Đĩ Thúi", bèn
phán, có ta ở trong đó!
Nói toàn bộ nhà
văn VC Bắc Kít, hẳn là nhiều người bực mình. Nhưng
đúng như thế đấy.
Đám Bắc Kít bây giờ viết văn là để
tự cứu họ, chưa xong, làm sao nghĩ đến cái ác,
cái thiện?
Trong cuộc tử đấu tay đôi giữa nhà văn và
thế giới, hãy cứu mình trước đã!
Nói rõ hơn, họ không bị mắc míu với
câu hỏi thiện ác, có thể nói như vậy.
Có vẻ như họ đếch đau khổ một chút nào
khi viết, nói như Milosz, khi viết về Akhmatova.
Chỉ thấy sướng điên lên, vì sáng tạo,
có thể!
Cthể, cái cuộc xung đột
thiện ác của 1 miền đất, chấm dứt với ngày 30 Tháng
Tư 1975?
Gấu có ý nghĩ đó, khi vừa chơi xong bài
thơ ngắn của Milosz, sau đây:
Quà tặng
Một ngày thật hạnh phúc
Sương tan sớm, tôi làm vườn
Chim đậu trên cành
Đếch có cái gì trên mặt đất mà
tôi muốn sở hữu
Đếch biết 1 ai xứng đáng cho tôi thèm
Cái Ác, bất cứ gì gì, mà
tôi đã từng đau khổ, tôi quên mẹ mất rồi.
Nghĩ, có thời, tôi cùng là 1 người,
cũng chẳng làm phiền tôi.
Trong thân thể tôi, tôi không cảm thấy
đau
Khi ngẩng đầu lên, đứng thẳng dậy, tôi nhìn
thấy biển xanh và những cánh buồm.
Berkeley, 1971.
Milosz là 1 nhà
thơ mà cái phần cực độc, cực ác, không thua
bất cứ ai, có thể nói như vậy. Suốt đời, ông thèm
được như Brodsky, sống 1 cuộc đời gần như sống 1 phép lạ. Nhưng
sau ông nhận ra, chính cái phần nhơ bẩn ác
độc, với ông, cần hơn nhiều, so với “thiện căn”.
Sự tương phản giữa thiện và
ác, của miền đất Bắc Kít, rõ nhất, là qua
Tô Hoài của “Dế Mèn”, và của “Ba Người Khác”.
Với Tô Hoài, không có sự cứu rỗi, và
có vẻ ông cũng chẳng hề bận tâm, về 1 "evil" mà
ông đã từng đau khổ, và quên mẹ mất rồi. Nhưng
với Milosz, nếu có cứu chuộc, là nhờ đọc Simone
Weil, và cái gốc Ky Tô của ông, theo Gấu.
Bữa nào rảnh, TV sẽ đi 1 đường chuyển ngữ, bài của Milosz,
“Sự quan trọng của Simone Weil”, hầu độc giả thân mến TV!
Hà, hà!
http://www.tanvien.net/thu_tin/ghet_talawas.html
Vào giây 0:11,
dù không có nhà văn Nguyễn Quốc Trụ, đoàn
biểu tình vẫn hô to “không thích talawas”
rất là rõ.
Đỗ Kh. [Talacu]
Tks. Take care. NQT
V/v Một số thư góp ý của độc giả
talawas khi bài viết ‘Vì sao ghét talawas’
được post lại trên diễn đàn này.
Tin Văn là một
trang nhà. Không phải là một diễn đàn.
Đừng nghĩ là Gấu này phách lối, nhưng ‘như là
một trang nhà’ độc giả ghé thăm, thích thì
ở lại lâu, không thích, có thể bỏ đi liền.
Như đã từng thưa
nhiều lần, Tin Văn thực sự không phải là một trang
văn học theo nghĩa thuần túy của nó. Đào Hiếu,
trong một bài viết cho BBC, đã coi báo chí
trong nước có một tổng biên tập.
Trang Tin Văn cũng thế, cũng có một tổng
biên tập, và ông này ra lệnh: Tất cả
những bài viết trên Tin Văn, bằng mọi cách,
cố làm sao trả lời cho được câu hỏi hắc búa: Giả
như dân Mít chúng ta biết đến cái độc
cái ác đưa đến Lò Thiêu Người tại Âu
Châu, liệu chúng ta có tránh đi vào
vết xe đổ, nghĩa là không để xẩy ra cú tàn
khốc tàn độc 10 ngày Lò Cải Tạo?
Những trích
dẫn trên Tin Văn quả là nhiều khi chẳng ăn nhập tới bài
viết, và những bài viết thì không
đầu không đuôi, chẳng có bài nào
hoàn tất, như một lần bà chủ talawas đã nhận
xét. Chúng, trên một bình diện rộng, đều
nhắm trả lời câu hỏi trên.
Những trích
dẫn, thường là, hoặc để cho khỏi quên, vì liên
quan tới một vấn đề sắp tới, mà bài viết đề ra, [câu
hỏi cần hơn câu trả lời, và câu trả lời, nếu có
được, lại biến thành câu hỏi mới, phát sinh từ bài
viết, cứ thế cứ thế], hoặc là, như những qui chiếu về nhiệm vụ mà
ông tổng biên tập đề ra, ở trên. Chúng,
đa số đều là những tài liệu Tin Văn bỏ tiền ra mua,
post lên, hy vọng độc giả nào cần tới, thì lấy
ra xài. Bởi vậy, không hề có vấn đề uyên
bác, khoe chữ ở đây. Được gợi hứng bởi Steiner, như
Gấu đã từng lèm bèm, lải nhải rất nhiều lần,
sau 10 năm lụi cụi, một mình một ngựa, ý tưởng trên
ngày càng lộ ra.
Còn chuyện hiệu đính, thì
sẽ trả lời trong lần tới. NQT
*
Koestler trong cuốn Những Kẻ Mộng Du viết, đại
khái, những hiện tượng thiên nhiên, thí
dụ như thuỷ triều lên xuống theo mặt trăng, vật thể tung
lên trời là bắt buộc phải rớt xuống đất… chúng
có vẻ chẳng mắc mớ gì tới nhau, cho tới khi Newton xuất
hiện, và, như một vì nhạc trưởng, giơ cây đũa thần,
và thế là, những hiện tượng rời rạc kia, giống như những
nhạc sĩ, cùng nhau theo hiệu lệnh của ông, tấu lên
bản đại hòa tấu có tên là ‘vạn vật hấp dẫn’!
Bạn đọc Tin Văn, cứ
nghĩ mình là Newton thử xem, coi bản đại hoà tấu diệt
trừ Cái Ác Bắc Kít có biến thành hiện
thực?
Hay thử coi đây
là mê cung nhốt… dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy ngày
nào, sau 30 Tháng Tư, gen đột biến, biến thành
quái thú. Và đến lượt bạn, trở thành
dũng sĩ, xâm nhập mê cung, trang bị sợi dây
Adriane, là tấm lòng nhân hậu của mình…
Mit Critic
THƯ KHỐ TẠP CHÍ VĂN HỌC (Hải Ngoại)
lưu trữ toàn
bộ các tờ Văn Học (hải ngoại)
xuất bản
tại Santa Ana, California
Từ năm 1978
- 2008
tài liệu (PDF)
Note: Thấy trên Gió
O. Bèn bệ về. Có bài của GCC, khi giữ mục Tạp
Ghi.
Trân trọng giới thiệu.
Tin Văn
Trên số báo Văn
Học 126, 1976, thấy có đăng 1 truyện ngắn của GCC, trong có
cái tít Mắt Bão, 1969!
Có lẽ đây là bài đầu tiên
GCC viết cho Văn Học, và số sau đó, là bài
Tạp Ghi, chắc là đầu tiên!
Như vậy cho thấy, cái tít Mắt Bão này
của GCC, không phải của ông anh nhà thơ, như ông
viết cho Đảo Xa!
Đọc lại những bài Tạp
Ghi, quả là có tí bồi hồi. Dạng pdf, không
biết làm sao copy, chán thế. Quả có cái
vụ, tên khốn kiếp - Gấu đã từng hiệu đính bài
viết, qua lời yêu cầu của ông anh nhà thơ, khi ông
giao lại trang VHNT của tờ Tiền Tuyến - trong 1 bài trả lời phỏng
vấn của VH, cho biết, hắn đã từng theo lệnh của Lữ Phương, làm
cái danh sách những tên nhà văn Miền Nam phản
động đồi truỵ, 12 tên, GCC đứng thứ 7, đăng trên tờ Tin Sáng.
Mai Thảo, trong 1 bài
Sổ Tay về Vũ Hoàng Chương, không biết nghe ở đâu,
phán, danh sách này, do những tên Bắc Kít
ở Hà Nội mang vô!
Ông hơi quan trọng hóa lũ nhà văn Ngụy,
trong có ông. Chúng làm gì được
Đảng ưu ái đến như thế!
Có bài tạp chi
của GCC, về Sài Gòn lần đầu, tới ba khúc, thêm
khúc nữa thì thành Tứ Tấu Khúc!
Rồi bài về Beckett, cũng tuyệt quá sá
quà sa!
Lại tự thổi!
Nhưng tuyệt thật!
Chân Dung Nhà Văn
Note: Bài viết về Vũ
Hoàng Chương, trong có nhắc tới cái danh sách
đầu tiên, những nhà văn đồi trụy, gồm 16 tên…
Tôi đọc những người có tên
trong bản danh sách được gọi là danh sách Hoàng
Trinh cho ông nghe. Hoàng Trinh là thông
gia với Trường Chinh. Y vào Nam sớm nhất và được Bộ Chính
Trị Trung Ương Đảng Ủy cho toàn quyền xử lý vụ "Văn Học
Nghệ Thuật Miền Nam". Sau này thêm bớt con số người bị
bắt, có nhiều danh sách khác. Như danh sách
21, danh sách 44. Nhưng danh sách Hoàng Trinh, 16
người được lập ra sớm nhất và tôi được biết ngay nhờ sự tiết
lộ của một cán bộ đảng quen biết ngày trước, hắn đi theo Hoàng
Trinh lên Đà Lạt, và được cho xem bản án
tử hình này
theo GCC, không đúng.
Danh sách này,
gồm 12 tên, có GCC, thứ 7, trong 12 tên, là
do 1 tên đàn em của Lữ Phương làm. Tên này,
hiện ở Pháp.
V/v DNM, cũng sai, chính
DNM cho biết, khi được hỏi, trên blog NL có cái
note về vụ này.
V/v TTT, cũng sai. Sai như thế nào, thì GCC
cũng đã lèm bèm rồi.
V/v NDT. MT coi NDT thuộc tiểu
thuyết mới. Và chỉ có NDT là thành công
trong cú “mới” này, sai.
Đọc, thì hiểu ra câu
của Todorov, hồi nhớ là 1 cách nhớ quá khứ sao
cho hợp với hiện tại. MT viết về bạn, sao cho có mình
ở trong đó, trong 1 vị trí thích hợp nhất.
Nhưng Brodsky phán, mới thú, đây là
những bài ai điếu của MT dành cho bạn, mà dưới
mắt ông, thì đều đã chết rồi!
Trở lại với tiểu thuyết mới.
Me-xừ Mít Butor, có phán, đâu đó,
khi được hỏi, không có cái gọi là TTM ở Việt
Nam. Sai. Có, mà có chỉ
ở Mít Butor: Cách viết của Hoàng Ngọc Biên,
tức Mít Butor, là từ Butor, mà ra, và đúng
là nằm trong “trường phái của cái nhìn”,
như MT viết.
Nhưng TTM không phải chỉ có vậy. Cả đám
này, mỗi người viết 1 kiểu, được gọi chung là TTM. Robbe-Grillet
mới cho ra lò 1 cuốn, và đám phê bình
phát sốt vì những cái nhìn bịnh hoạn ở
trỏng. Bà vợ của ông là con gái của ông,
một nữ tài tử nổi tiếng.
Văn MT thú thực Gấu không
mặn. Ông cũng chẳng ưa gì Gấu. Có thể, vì
cả đám Gấu hồi đó, chỉ mê TTT!
Đám GCC được gọi chung là TTM Mít, theo
Gấu, có cái lý của nó. Mỗi thằng viết mỗi
kiểu, chơi với nhau, hay ngồi nhà hàng La Pagode…
Steiner có 1 từ để gọi
MT, 1 tay chơi trong cõi văn chương. Tuyệt.
Một cách nào
đó, đây cũng là dáng dấp của rất nhiều
nhà văn Mít, kéo cái cổ áo lên
1 chút, khoác cái mưa vô, đi lãng
đãng dưới mưa... đại khái thế!
Nhưng câu của Camus, mới thú, chúng ta
luôn có dáng điệu của 1 kẻ sắp sửa ra đi….
Hà, hà!
Nhớ Em quá.
Yêu… người quá!
V/v danh sách. Sự thực,
tên này không hẳn thú nhận, tôi viết
danh sách đó. Trong 1 cuộc trả lời phỏng vấn trên
tờ Văn Học của NMG, tên này cho biết, sau 30 Tháng
Tư 1975, anh ta yết kiến đàn anh LP, tên này ra lệnh
viết. Về, ghét ai là đưa vô danh sách đen.
Hắn trả lời trên tờ VH như thế! Gấu bị ghét, vì… trí
thức quá! Hắn cũng viết ra điều này, trong 1 bài
viết khác, trong 1 cuốn viết theo kiểu hồi ký về văn học
Miền Nam trước 1975.
bài viết đã mười năm
nay thấm vân mới có dịp đọc, cám ơn anh hồ trường
an thật nhiều
~~~~~
Trong vòng 10 năm gần đây,
chúng ta đều biết nhà văn nữ Lê Thị Thấm Vân
có một văn phong táo bạo nhằm bóc trần những ngôn
từ thô tháp của dân gian, không e ngại cấm
kỵ để lướt vèo vèo qua mọi thành kiến gắt gao,
những tabou ác nghiệt trong ngôn ngữ. Do đó, chị
mang tiếng là viết khiêu dâm táo tợn. Lại
nữa...
...
Bài viết này, theo GCC, dở. Gấu đọc rồi, được
vài dòng là vứt sọt rác.
Ấy là vì người viết, tức HTA, chỉ khoe khoang
cái đọc của anh ta, rồi khoác vô tác
phẩm của LTTV, rồi khen loạn cào.
Viết phê bình, đọc sách, rất cần 1 con
mắt cực kỳ sắc bén, ra đòn 1 phát, là…
xong.
Khi Gấu vừa mới bước chân vào chốn giang, hồ,
và bèn viết điểm sách, và do viết thứ
“nhơ bẩn” này, đành phải dùng đến cái tên
cúng cơm của mình, chứ đâu có thèm
bịa ra 1 cái nick, rồi núp váy, không chỉ
1 mà tới hai vị nữ lưu trong chốn giang hồ, để chửi Gấu đâu?
Một trong những bài viết đầu tiên đó,
là về cuốn “Mây Bay Đi” của Nguyên Sa, và
đòn phạng ra, đúng ngay tim của xừ luỷ, là, “mi
là 1 tên
nhà văn dễ dãi và hạnh phúc, cả đời của
mi sẽ chẳng biết đến khổ đau là cái gì đéo
gì hết!”
Hà, hà!
Đúng như thế. Và
vào lúc cuối đời, ông cũng nhận ra mình
là 1 tên đúng như thế, đúng như Chúa
phán, ta cho mi 1 cuộc đời, và cấm mi biết đến sự đau khổ
của kẻ khác!
Hà, hà!
Ra đến hải ngoại, khi chửi Vẹm - ông ta than, đúng
hơn - vì chúng mà tôi mất mẹ cái
trường to tổ bố ở Sài Gòn!
Y chang Nabokov. Ông này cũng thù CS
Liên Xô, như vậy, cũng than, mất mẹ gia sản đời đời của
gia đình nhiều đời, ở Nga.
Nhưng, nói thêm, không có lũ VC
Nga, là tôi vẫn chỉ làm mỗi 1 việc là
săn bướm.
Đời ông, ông chỉ mê có vậy!
Văn chương của LTTV, là văn chương… sex, đúng
như thế.
Viết về sex cực khó, không dễ. Và viết
điểm sách, viết về thứ này, lại càng khó.
Dễ sa vào chốn dung tục.
Khi còn viết cho báo
Văn Học, Gấu có nhận được mấy cuốn của bà, qua NMG, chắc
là có ý muốn viết bài giới thiệu, đọc,
điệc này, nọ, và Gấu thua, vì không đọc được
văn sex.
Không đọc được, và cũng không viết được.
Chỉ mới mãi gần đây, sắp xuống lỗ, mới đọc
văn sex, xem hình nuy, và bắt đầu thấy thèm,
thấy thích, nhảm thế!
Và nhân kết bạn FB với vị nữ tác giả
nổi danh này, bèn đọc, và bèn ngộ ra, cái
phần “không thể đọc được”, cái phần mà LTTV, "giấu",
khi viết về sex.
Đọc LTTV là phải tìm ra cái phần tác
giả giấu, khi viết về mình, về sex.
Nên nhớ, viết không phải chỉ để làm lộ ra, mà còn
là để giấu, mình, chính mình!
Gấu đang lăm le, hay hăm he,
với chính mình, là sẽ đi 1 đường, sẽ viết 1 bài về vụ này,
thì đọc bài này!
Cái gì làm cho bài viết của
tên này dở?
Thiếu đạo hạnh. Ưa khoe khoang. Đố kỵ. Thù ghét
những ai viết hơn hắn.
Tên này, là 1 trong hai người mà
Gấu đã từng hiệu đính bài viết, khi mới tập
tành viết, khi giữ trang VHNT cho tờ Tiền Tuyến, của quân
đội VNCH. Vụ này cũng đã lèm bèm nhiều rồi.
V/v đạo hạnh
Nên nhớ đạo hạnh mắc mớ đến
đẳng cấp, đến "hay, dở" của 1 bài viết, và đây là
ý của Milosz, khi viết về Brodsky:
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính
ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn
là vì lý do này, ông tạo sự hài
hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó
con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá
ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận
cùng. Lặn
sâu vô mê cung, chúng ta khám phá
ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả
của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp.
Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống
rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi],
là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng
hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt.
Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là
khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.
Nhớ, những ngày đầu ra hải ngoại, tình
cờ đọc đám hải ngoại, trong có Duyên Anh, và
HTA. Cả hai chửi GCC không hết lời, Gấu ngạc nhiên quá
đỗi.
Gấu chưa từng viết về cả hai, sao mà chúng chửi
Gấu dữ thế. DA, thì trong "Nhìn Lại Những Bến Bờ", còn
HTA, "Trong cõi ký ức xanh xanh" cái con mẹ gì
đó.
DA thì chửi NQT từ trước 1975, vì dám đụng
đến Nguyên Sa, và 1 lần gặp nhau ở bàn xì,
Gấu hỏi, anh trả lời, đây là tinh thần ê kíp,
mày không đụng tao nhưng đụng tới băng của tao, là
tao chửi.
Sự thực, là do Gấu không hề viết về anh ta. Không
viết về tao, là không khen tao rồi, là tao chửi!
Còn tên HTA, quái thật, sao hắn thù
Gấu, cho dù chính Gấu là 1 trong những kẻ có
ơn với hắn?
Nhưng chỉ đến khi biết hắn là tác giả cái
"bảng tử thần", mới vỡ ra được. Hắn thù những ai viết hơn hắn,
nổi tiếng hơn hắn.
Hồi qua Pháp, tá túc nhà KT, anh cho biết, hắn đã từng
lê la ở nhà anh, sau cũng chửi, vì anh nổi tiếng
hơn hắn!
Chính hắn viết ra điều này, khi viết thư chửi
anh.
Tếu nhất, là hắn còn biết cả chuyện, anh nhận
thư, là
vứt ngay vô thùng rác, hắn bèn chửi ngay ở
phong bì thư!
Quái đản đến như thế!
Cái lòng thù hận, đố kỵ, khủng khiếp thật.
Nhất là trong lũ viết lách!
MT mà chẳng thù TTT ư?
Tưởng bạn quí đi tù VC là hết đường về,
thế là bịa chuyện lầm bạn quí với 1 tên thợ sắp chữ, tên
khốn còn dám mở miệng xin Công Tử Hà Thành
1 điếu thuốc lá!
Cõi văn Mít khốn nạn, là do vậy. Không
tên viết lách nào có chút đạo hạnh!
Tên TTCD, khi cùng đồng bọn làm trang eVăn,
Gấu mặt dầy viết bài, để cho hắn và đồng bọn có
sự đóng góp của hải ngoại, hắn đè nghiến bài viết ra để hiệu đính.
Hỏi, hắn chìa ra cái đoạn dịch trật, Gấu ngớ người, thực
sự là vậy.
Dịch trật, là thường, nhưng thay vì hắn mail,
đề nghị sửa, hoặc sửa, rồi cho biết, và hỏi ý kiến, không,
đè nghiến bài dịch ra, phán 1 phát, khốn
kiếp thật!
Y chang thái độ Sến, khi Gấu viết bài cộng tác!
Bẩn suốt 1 cõi, từ Bắc xuống Nam, từ Nam ra Bắc, làm
sao khá cho được!
http://tanvien.net/Viet/5.html
FERRARI. You always talk of ethics,
you've told me that having ethics is even more crucial-as Kant saw it-than
having a religion.
BORGES. Religion can only be
justified on the basis of ethics. On the other hand, ethics, as Stevenson
said, is an instinct. It's not necessary to define ethics-ethics is
not the Ten Commandments. It's something we feel every time we act. At
the end of the day, we will, doubtless, have made many ethical decisions.
And we will have had to choose+-I am simplifying the theme-between good
and evil. And when we have chosen good, we know we have chosen good; when
we have chosen evil, we know that too. What's crucial is to judge each
act for itself and not for its consequences. The consequences of any act
are infinite, they branch into the future and, in the end, become equivalent
or complimentary. Thus, to judge an act for its consequences seems to me
to be immoral.
Borges, Conversations,
Ethics and Culture
Borges, ông luôn
nói đạo hạnh cần hơn tôn giáo...
Tôn giáo chỉ có thể được chứng thực trên
căn bản đạo hạnh. Và về mặt khác, đạo hạnh có
tính trực giác. Đếch cần phải định nghĩa nó. Đạo
hạnh thì đâu có phải là 10 điều giáo
lệnh!
Bài viết này,
cuộc lèm bèm này, giữa bạn quí của Borges, và
Borges, liên quan tới vấn nạn “may mà có Ngụy”,
tức cái gọi là văn hóa, đẳng cấp, chính nó,
phân biệt lũ Ngụy với lũ VC.
Tin Văn sẽ scan và dịch sau.
Looking on a Russian Photograph, 1928/1995
It's the classic picture of doom.
Three great poets stand together in 1928, the Revolution just a decade old,
their hearts and brains soon to be dashed out on the rocks of Russian fascism,
the flower of their achievements destined to be crushed by the new czar,
Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - each will die in his
own tortured way. Mayakovski, rebuffed in love, imprisoned in Moscow,
will kill himself in 1930, at the age of thirty-six. Eisenstein's
broken heart will give out in 1948, cherished projects betrayed, the
fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely watched at home.
Pasternak, long denied by his government, will finally survive Stalin
- yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize
in 1958, he will not be permitted to accept, his book burned, his name
excoriated in his homeland.
But there they stand in 1928, brave young hearts, frozen
in triumph, the last symbols of a civilization about to go mad. Yet
I find. myself thinking - how lucky they are, these three, able to experience
lives of great crisis and choice. Were they not gifted with an energy
that brought them each full-bore into what Justice Oliver Wendell Holmes
called the "passion and peril of their times"?
We shall all lose, it is inevitable. The issue is how we
lose, on what terms. These three men played out their lives across
the dark landscape of a cursed country, each sought as a solace from
a mad czar, who with quasi-Asiatic mind tortured them with the impossibility
of reason.
I do not seek such death. I choose the milder climes of the
USA circa the late twentieth century - although these times, less sinister
certainly than Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is
in danger, in the largest sense, is the soul. And the soul that dies
in its lifetime is the sterile, timid, cynical soul that is never tested
by its time. Though tests too can be boredom. Luxury, television and
the accelerating sameness of information can be far more ruthless than
war or disease.
So I say-in death, rest. There is much time later to sleep.
Until then party - party hard, suffer hard. Live lives suffused
with cycles of joy and sorrow. Participate above all in the travails
of your time, as artists your shoulders equal to all working and struggling
people, neither higher nor lower but equal to its spirit in its own time.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak -
I salute you.
- Oliver Stone
The Paris Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật. Ở cái
xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng,
phò Đảng thì cũng bảnh, cực bảnh, như bộ ba trên
đây.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak -
Gấu Cà Chớn chào các bạn.
Ở cái xứ Bắc Kít,
toàn Kít!
Một bức hình
cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn
chụp chung với nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì
mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ nát bấy ra trên
những hòn đá của phát xít Nga, bông
hoa thành tựu sẽ bị nghiền nát dưới gót giầy của
sa hoàng mới của Nga – Stalin. Eisenstein, Mayakovski, Pasternak
- mỗi người một cái chết, mỗi người
một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự tuyệt trong tình
yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm
1930, ở tuổi đời 36. Trái tim bể của Eisenstein ngưng đập vào
năm 1948, những đồ án nâng niu bị phản bội, nhà làm
phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh trừng
chặt chẽ khi ở nhà.
Pasternak, đã
từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng
sống sót chế độ Stalin – tuy nhiên khi tuyệt tác
của ông Bác Sĩ Zhivago được
trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách
bị đốt, tên bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.
Nhưng, như bức
hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào
năm 1928, ba trái tim trẻ, can đảm, đông lạnh trong chiến
thắng, những biểu tượng sau cùng của 1 nền văn minh trước khi
khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi,
thì lại nhận ra 1 điều, họ mới hạnh phúc, may mắn biết
bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những cuộc khủng hoảng lớn, và
chọn lựa lớn.
Tại sao 1 tên như anh già
NN không đủ can đảm để mà sổ toẹt ba cái dơ dáy,
do hắn viết ra, dám làm những điều như Lukacs - từ bỏ gốc gác
“de”, gốc quí tộc của mình, như Walter Benjamin, hay, như Nguyễn
Tuân, đã từng muốn dùng ngọn lửa đốt cháy cái
thân xác cũ – khi chưa biết Cách Mạng?...
Tại sao Nga có những tay,
lỡ tin theo Cách Mạng, nhưng khi vỡ mộng, vẫn giữ được nhân cách?
Câu trả lời, là
từ Brodsky, qua Milosz, khi vinh danh ông:
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính
ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và
hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài
hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó
con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá
ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có
tận cùng. Lặn
sâu vô mê cung, chúng ta khám phá
ra cái gì sống sót quá khứ là kết
quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp.
Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống
rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi],
là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng
hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt.
Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là
khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài.
Như thế, chính cái
gọi là đẳng cấp, phân biệt Ngụy với VC.
Điều mà DTH gọi là "văn minh thua bạo tàn",
chính là vấn đề thuộc về đẳng cấp, văn hóa.
Văn minh có thể thua bạo tàn, ngu đần.
Nhưng đẳng cấp, văn hóa, không.
Một tên già như NN, không làm được
1 hành động như những Eisenstein, Mayakovski, Pasternak
đã từng làm, chưa nói tới cỡ như Brodsky.
May mà có lũ Ngụy - như Vương đại gia phán
- là theo nghĩa này.
Viên y sĩ đồng quê,
khi nghe tiếng kêu kíu của con bịnh Miền Nam, cần cặp
ngựa quá, tìm quanh quẩn ở trong nhà, sau khi sai
cô hầu đi mượn hang xóm ai cũng lắc đầu, và gặp…
cặp ngựa, ở trong chuồng lợn.
Gặp luôn con quỉ, chủ cặp ngựa. Nó bèn
OK, đây ngựa đây, bù lại, cho tớ cô người
hầu. Con quỉ, là Cái Ác Bắc Kít, mà
cũng còn là bạn quí láng giềng, Tẫu. Thành
thử cô người hầu mới chửi
ông chủ, trong nhà của mi, mà mi cũng không
biết có cái gì: Có Cái Ác Bắc
Kít. Có con quỉ Tẫu lúc nào cũng nằm chờ
dịp xuất hiện, ở chuồng lợn.
Cái
hợp đồng giữa con quỉ và viên y sĩ, chính là
cái nguyên nhân của cuộc chiến Mít. Đâu
có phải chỉ 1 tên Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đi
dự hội nghị Thành Đô, mà cả Miền Bắc, cả tầng lớp
sĩ phu, tinh anh đi họp, và ký tên vô tờ hợp
đồng của Quỉ đó. Tên già NN này, giả như hắn
còn tí dũng khí, thì bèn sổ toẹt
ba cái quỉ ma, quái vật Núp Niếc, tuy quá
trễ, nhưng trễ còn hơn không, phải có 1 tên Bắc
Kít dám làm chuyện này, bất cứ 1 tên
nào.
NQT
Amoz Oz đọc Y Sĩ Đồng Quê
của Kafka
Bạn
đọc Y Sĩ Đồng Quê,
và tưởng tượng ra rằng thì là, đây chính
là linh hồn của một miền đất, nghe tiếng cầu cứu của một con
bệnh trầm trọng ở mãi tận miền nam, và, tìm đủ
mọi cách để đến bên giường người bệnh, do không có
ngựa, nên phải mượn đôi ngựa của con quỉ ở nơi chuồng lợn,
và vì thế mà phải hy sinh cô hầu gái,
cuối cùng nhận ra, chỉ là báo động hoảng, và
ngửa mặt lên trời la lớn: "Ta bị lừa, bị lừa, bị lừa!"
Và
đây là hình ảnh của viên y sĩ sau khi bị
lừa:
"Trần
trụi, phơi người ra trong giá lạnh vào cái thời
bất hạnh nhất, với cỗ xe trần thế, với cặp ngựa ngược đời, già
như tôi, tôi bơ vơ lạc lõng" ("Naked, exposed to
the frost of this most unhappy of ages, with an earthly vehicle, unearthly
horses, old man that I am, I wander astray."
Một
cách nào đó, viên y sĩ của Kafka còn
xuất hiện dưới cái mặt nạ của một vua Lear, của một ông
tướng về hưu.
Thê
thảm nhất, là, sau khi đã xây dựng xong địa ngục,
với sự đóng góp của mình ở trỏng, viên tướng
già về hưu, và phải sống nhờ vào cái chuồng
lợn của cô con dâu, được vỗ béo bằng những thai
nhi !
Cái
chết của Lucien de Rubempré là một bi kịch lớn trong
đời tôi, Oscar Wilde đã từng tuyên bố.
Nhưng
Lucien de Rubempré là ai?
Một
nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của Balzac.
Varga
Llosa, "chuẩn" Nobel như tin của AFP ở trên, tin rằng, lời
tuyên bố của Wilde, là phải được hiểu theo nghĩa 'thực
tại ở đời", theo nghĩa đen!
Bởi
vì có những nhân vật giả tưởng còn thực
hơn cả sự thực!
Viên y sĩ
đồng quê của Kafka là một "vĩ nhân" như thế!
(1)
Tôi là kẻ may mắn
sống sót, nhưng đếch còn muốn làm nhà văn
nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì xẩy ra. Bao giờ thì
tôi có thể?
Đây là vấn nạn của
“Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby, trong 1 bài viết
trên Người Nữu
Ước, Jan 10, 2011, khi phim này lại được đem ra trình
chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì
nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái kinh nghiệm
đi tù, và luôn cả trại tù VC kể như không
có!
Đâu có phải tự nhiên
mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí
trọng, ngay cả VC cũng quí, có thể còn hơn cả cái
đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì sợ lại phải chứng
kiến 1 lần nữa Lò Thiêu, Lò Cải Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái chuyện đó
đừng bao giờ xẩy ra nữa!
2 Years Ago
See Your Memories
Ta La Tai
Cái sự
lầm lẫn cõi văn Sến Cô Nương, của Gấu, tưởng “nữ bồ tát”
hóa ra “đại ma đầu”, y chang của cô gái, con một
nhà xuất bản trong cuốn “Eva” của J.H...
See More
Note:
Nhắc đến SCN, là có liền!
Thế rồi bữa đó,
cô bé gọi cho Gấu.
Cô nói, cô đọc Gấu. Gấu cũng chẳng hỏi đọc
ở đâu, nhưng liền đó, cô nói giọng thủ thỉ,
đúng cái giọng cô con gái con ông chủ
nhà xuất bản, trong Eva, người duyệt bản thảo của anh chàng
đạo văn [Đọc một cái là rụng rời chân tay, “đây
rồi, chàng đây rồi, đúng là chàng rồi."],
nhưng khác một chút, trong giọng thủ thỉ của cô bé,
là ước mơ trở thành nhà văn, chứ không phải
trở thành người yêu của Gấu nhà văn, "ôi chao,
làm sao, làm thế nào, ước gì cháu viết
được như thế, chú viết đúng như là cháu tưởng
tượng ra, cháu sẽ viết như thế…"
Gấu sướng mê tơi, nhưng chợt giật mình, hỏng rồi,
hỏng rồi, có cái gì ngài ngại ở đây,
phải coi chừng, coi chừng…
Vào thời gian đó, có cái trò,
mấy bà mượn một cô nào đó, gọi điện thoại,
tán tỉnh ông chồng của mình, và sau đó,
chọc quê đấng lang quân cứ tuởng bở.
Và khi cô bé nói, nhà cô
không có điện thoại, phải mượn điện thoại nhà cô
bạn gọi cho Gấu, Gấu bèn nói, cô có số điện
thoại của Gấu, có biết địa chỉ của Gấu, bữa nào rảnh, ghé
thăm vợ chồng Gấu.
Nghe nhắc đến Gấu Cái, cô bé cúp điện
thoại.
Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn của Gấu chỉ có vậy.
Rất nhiều đêm, Gấu vẫn được nghe giọng thủ thỉ của cô
bé, tiếp tục câu chuyện dang dở ngày nào.
Giọng Bắc Kít. Đúng giọng Cô Hồng Con của
Gấu. Đúng giọng Bông Hồng Đen của Gấu. Đúng giọng
tất cả những cô gái Bắc Kít quê hương ngày
nào của Gấu.
Sau này, Gấu đoán, có thể cô bé
đọc Cõi Khác, hoặc Ký Ức Còn
Mãi.
Thời gian đó, Gấu cho đăng, chỉ có hai truyện đó,
đều viết về cô bạn, nhân gặp lại nơi xứ lạnh, mà
viết được, và còn đẻ ra được thêm một dúm
thơ.
Tất cả là nhờ cô bạn.
Nhờ cô ra lệnh, đọc vậy đủ rồi, viết đi.
Chắc là cô muốn nói, viết về tôi đi,
nhưng cũng ngượng!
*
Cái mẩu sáng tác đầu tiên, khi tới
xứ lạnh, Ký Ức Còn Mãi, Gấu
viết theo ‘order’, của một đệ tử của NTV, tay này lúc
đó phụ trách một đặc san sinh viên học sinh Mít,
Gấu nhớ đại khái.
Cô bạn là người đầu tiên đọc bản thảo, than,
anh đâu phải là tôi, anh đâu phải là
đàn bà, mà sao anh đọc ra hết lòng dạ của
tôi, như thế?
Còn Gấu Cái, thì bực lắm, và, lẽ
dĩ nhiên, chê, đúng là thứ văn cải lương,
vãi lệ!
Mẩu văn sau mất tiêu luôn cùng tờ báo,
và Gấu viết lại, nhưng, mất mát, phiêu lạc, quên
lãng, tất cả, chỉ còn một câu độc nhất:
Tôi cứ tưởng tượng ra một người đàn
bà, sau khi làm hết bổn phận với chồng với con, với cuộc
đời nặng nề này, trong đêm khuya, đợi cho người thân
yên giấc, lặng lẽ thả từng cánh hoa xuống lòng giếng
sâu là hồn mình, rồi hồi hộp, âu lo, đợi chờ
tiếng vọng của một thời nào đã xưa, đã cũ…
Câu độc nhất còn nhớ lại được đó, là
để nói về một… cô gái khác, khiến cô
hiểu lầm, ‘chú viết như vậy không được kín đáo’,
cô viết mail than phiền.
Ấy là vì, cô, dung nhan, phong thái
y hệt cô bạn ở trong Cõi Khác, và
trong Ký Ức Còn Mãi. Cái
cô than thở, anh đâu phải là tôi, mà
sao đọc ra lòng dạ của tôi, tại sao bao nhiêu năm rồi,
mà những tình cảm của anh dành tôi ngày
nào vẫn y như vậy?
Cái cô bạn, mà Gấu những ngày còn
trẻ, khi, vừa nghe nói tên một cái, là đã
đinh ninh, đây là một nửa linh hồn của mình, vậy
mà vẫn muộn màng, không kịp với số mệnh, số mệnh
theo nghĩa, đến thần thánh, Thượng Đế, ma quỉ… bất cứ cái
gì gì cũng phải cúi đầu khuất phục!
Ngay cả Gấu Cái, lần đầu tiên nhìn thấy cô
sau, cũng giật mình, sao mà giống ’cô phù
dâu’ ngày nào thế!
A Different Kafka
by John Banville
Note: Tay này, John Banville , nhà văn số 1, phê
bình, điểm sách cũng số 1.
Phê bình gia Mít, ít khi viết
điểm sách, vì lười đọc, và đọc, cũng đếch biết
viết 1 bài điểm sách cho ra hồn!
Đó là sự thực.
Thử đếm coi, Thầy Kuốc điểm sách
của ai, khui ra được nhà văn nào. Mũi lõ cũng không,
mà mũi tẹt lại càng không?
Thầy Phúc thì cũng rứa.
Nữ phê bình gia viết bằng tiếng Tẩy, DCT,
cũng thế.
TK y chang.
GCC ư? Nhiều lắm.
Bảo Ninh, thí dụ, Gấu phát giác ra,
ở hải ngoại, và cái ông BN mà Gấu viết,
cũng khác ông ở trong nước.
Vầng Trăng Góa, Gấu chỉ ra.
Nhà dzăng đang lú lên,
Bà Tám nào đó, cũng GCC phát giác!
(1)
Hà, hà!
Miêng, Mai Ninh, Trần Thanh Hà, Trần Thị NgH...
Gấu đều trân trọng viết về họ.
(1)
Ông cũng
chả có công mẹ gì trong cái vụ
bà Tám ló ra ló vào
văn chương này cả. Lý do là trang của
ông chỉ một mình ông tự sướng. Bà
Tám thì gửi bài cho nhiều nơi khác
như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán
Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác.
Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác giới
thiệu cùng một lúc, mà ông nào
có phải là nhà phê bình và
là chủ bút một tờ báo nào đâu
mà ông bảo là ông xúc bà
Tám lên.
LB
Tên LB này
quả là 1 độc giả hết sức “cần mẫn” của TV.
Trong 1 dịp tự
hào về cái chiều dài 20 năm làm
trang TV, Gấu quả có khoe, đã khám
phá ra khá nhiều tác giả, trong
có vị chủ trang blog Bà Tám nói
trên, và Gấu thú thực, rất hãnh
diện về chuyện này.
Nhưng cái
sự nổi tiếng của Bà Tám, không
có Gấu ở trỏng.
Thú thực
cái trò có bài đăng búa
xua ở những nơi như trên, chỉ làm bẩn mắt
độc giả, vì, vừa mới đọc ở đây, lại phải đọc ở
kia, hay đã khổ, mà dở thì thực là
khốn nạn.
Steiner, trong
1 lần xoa đầu Sartre, lôi đúng câu
mà Gấu trích dẫn, trong bài viết
về LMH, “Bếp Lửa” trong văn chương:
Sartre (Situations,
I) nhắc tới "ý hướng tính", coi đây
là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl
đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê
rợn và sự quyến rũ vào trong những sự vật.
Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và
của những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù
nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với những bến
cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình
yêu."
LMH. Lần đầu tiên
vợ chồng Gấu gặp gỡ gia đình, trong chuyến
ngao du Paris cuối thiên niên, Bà nhắc
tới bài biết của Gấu đăng trên Văn Học, và
nói, làm sao mà ông lại kiếm ra đúng
câu văn cháu giấu thật kỹ ở trong đó, không
hề tin rằng có người tìm ra nó, để mà
khen?
Cũng thế, là
với Bà Tám. Câu văn mà
Gấu, đọc 1 phát, đúng là bị chấn động
khủng khiếp, nhưng khác câu của LMH, ai cũng
đọc nó, không thể bỏ qua, nhưng thực sự, chưa
đọc:
Trước khi thấy
biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có
chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.
Bà Tám
này, đúng ra là rất sợ nổi
tiếng, theo Gấu.
Có lần chính
Bà thú nhận, tôi sợ đau, nên
không dám đụng vô những chỗ đau.
Và mỗi lần
lỡ đụng vô, là có 1 bản văn thật
được!
GCC mới đọc 1 truyện,
đúng thứ đó.
Mời bạn nghe truyện ngắn Màu
Mắt Chưa Quên qua giọng đọc của
Ngọc Phụng. Cám ơn chị Ngọc Phụng và
Gió O. Nhắn nhỏ: Truyện hoàn toàn
là tưởng tượng.
https://chuyenbangquo.wordpress.com/2016/09/06/mau-mat-chua-quen/
Thời
gian viết cho Văn Học của NMG, Gấu được Thấm Vân
gửi cho mấy tác phẩm của Bà, chắc cũng có
ý nhờ đi 1 đường điểm sách.
Thú thực, lúc
đó, Gấu không đọc được, do cái khẩu
vị của mình không hợp.
Phải đến những ngày
mới đây, tò mò theo dõi,
khi được Bà yêu cầu/ra lệnh, ta cho phép
mi là bạn FB của ta, thì mới nhận ra cái
phần “ngộ nhận” của Gấu về chuyện sex của Thấm Vân: Tác
giả cũng có “giấu”, khi đụng vô nỗi đau này.
Quái “1 phát”,
là đây chính là nội dung “thư
toà soạn” của tờ Văn Học Pháp, Le Magazine
Littéraire, số đặc biệt về Lò Thiêu, lấy
từ 1 câu của Melville, “Tôi chọn đừng”.
Đây cũng là câu
TTT viết, khi “ngừng viết”, sau khi ra khỏi Trại Tù
VC, qua 1 ấn bản khác của nó:
Tôi tự hỏi khi nào
tôi lại-viết?
Truyện ngắn của HH, theo tôi,
đúng là thứ "tôi chọn đừng", như
vậy, khi viết về nỗi đau/hạnh phúc:
Tôi không tiến
tới dù chưa có người đàn ông
nào làm tôi cơ thể thèm muốn đến
thế. Tôi nhớ cái mùi đàn ông
của anh đến ngây ngất. Tim tôi vẫn đập rộn ràng
khi nghĩ đến buổi sáng dưới chân cầu. Scott thích
mái tóc dài, dáng dấp nhỏ nhắn,
nước da màu mật của tôi. Anh không ngần ngại
nói với tôi điều này và ngạc nhiên
khi tôi nói thật là tôi vẫn thường mang mặc
cảm xấu xí. Màu da của anh và màu da của
tôi thường làm tôi liên tưởng đến cà
phê sữa và kem vanilla hay con ong bầu đậu trên
hoa lan trắng. Anh thường bảo, “mỗi sáng em phải soi gương và
tự bảo mình là Scott thấy em rất là xinh xắn.”
Tôi nói xa xôi, “quan hệ làm việc không
nên để lẫn tình cảm cá nhân. Những người
làm việc chung dễ ghét nhau vì tranh tài
giành chức giành quyền, tình cảm riêng tư
thường bị tổn thương và chết sớm.” Anh hay nói đùa
là tôi là hiện thân của sắt (thành
cầu) và đá (chân cầu). Anh nói nếu vợ anh
làm lương cao hơn, anh tình nguyện ở nhà nấu cơm
và viết văn. “Nếu em trở thành xếp của tôi, tôi
sẵn sàng nâng xếp lên khỏi đầu bằng hai cánh
tay tôi.” Tôi dùng một ẩn dụ của dân kỹ thuật
trả lời, “thép này đã từng đổ biết bao nhiêu
mồ hôi đấy nhé!”
Điều mà tôi muốn
nói nhưng giữ lại lời là, tôi là
một phiến đá biết sầu tư!
Tên số 2, tên Phén, thi sĩ LH….
Cả 1 băng văn học này, hình như đều được gia đình
của chúng bảo lãnh qua Xứ Lạnh. Chúng chưa từng
biết cái nhục ở Trại Tị Nạn, vừa lo bị trả về, vừa lo không
nước nào nhận, vừa đói, vừa nhục, đủ thứ. Chúng
tưởng vô xứ người dễ lắm. Không tên nào thở
ra được 1 câu cám ơn cái xứ sở đã nhận chúng
cả. Tên số 2 than thở, ở xứ lạnh tôi chỉ có bạn
mũi lõ, không có 1 tên bạn mũi tẹt nào.
Nó đâu có coi cái băng đảng văn học Montreal
là thằng nào thằng nào đâu. Được dịp là
tếch đi Mẽo, làm chủ bộ lạc Cờ Lăng, làm Thái Thượng
Hoàng cơ sở Người Vịt, cực kỳ khốn nạn. Lần đầu Gấu đọc hắn, là
1 bài viết ngắn, trên tờ Thế Kỷ 21, hình như cũng
đã viết ra rồi, một buổi sang hắn vô tòa báo,
nhấp nhấp ly cà phê, phán, Sài Gòn có
người chết đói rồi đấy, ngay bên hông Chợ Bến Thành.
Một vị bằng hữu mới quen biết, Bắc Kít,
sau 1975, rất quí Gấu, trên FB, có đi 1 đường về GCC,
ông ta bị chửi cũng dữ, và ông ta chửi lại cũng không
thua gì, sợ còn dữ hơn!
Không hẳn như thế!
GCC ra hải ngoại quá trễ, ra được 1 phát,
là bèn ôm lấy giấc mộng vá bướm Mít,
của Borges, thành ra thèm có bạn, thèm
viết, như đã từng báo cáo nhiều lần rồi
Chẳng hề muốn ôm lại cái
nick tên “sa đích văn nghệ” được Nguyên Sa
ban cho, những ngày đầu bước chân vô làng
văn.
Những tên khốn kiếp như tên này,
hay tên “ngồi bên ly cà phê”, đều là
những người Gấu đã từng mong được là bạn của chúng,
y chang những ngày đầu quen đám bạn quí, đêm
nằm ngủ, mơ gặp bạn
ở Quán Chùa, là chuyện rất thường.
Gấu cho đến bây giờ, vẫn còn nhớ
rõ như in, bữa gặp băng đảng văn học Montreal, tại 1 bữa
ăn, ở nhà 1 người bạn của đám này, ở Toronto,
khi chúng kéo xuống chơi, và Nguyễn Tiến Văn
kéo Gấu tới, dù không quen biết, không
được mời.... Nhớ, Gấu lúc đầu cũng ngại, nhưng NTV phán,
ngại cái gì, làm việc lớn, ngại gì ba cái
lẻ tẻ.
Lần Gấu bị tên Hoặc Ngữ lôi ra cà
khịa trên talawas, đúng thời gian Gấu về Hà
Nội, khi trở về Canada, tính quit job, rồi NTV cần liên
lạc, và gửi bài của Nguyễn Khánh Long cho
Sến, anh phán, ui dào, ba cái lẻ tẻ, thế là
lại tiếp tục cầm rổ theo hầu Sến tiếp.
Những sự kiện như thế cho
thấy, Gấu thèm kết bạn với "lũ chó hải ngoại" đến như
thế nào!
Chỉ 1 khi biết là
vô ích, Gấu mới lụi cụi 1 mình làm
trang Tin Văn dòng dã 20 năm trời, đâu có
phải để tự sướng, như
tên Lang Băm nhơ bẩn nghĩ, mà là do cần quá, không
thể không làm, bởi vì chỉ còn mỗi cách đó, may ra đem đến cho lũ Mít,
không chỉ tri thức, thông tin... không thôi,
nhưng mà là, biết đâu đấy, 1 chút
đạo hạnh, chút phẩm giá, theo cách nghĩ của
Brodsky, mỹ mới là mẹ của đạo hạnh.
Sở dĩ cõi văn Mít
tệ hại đến như thế, là
do đạo hạnh của lũ viết lách không có, cả
ở trong lẫn ngoài nước.
Cái mail của Sến, cũng
thực là “nhơ bửn”, theo GCC.
Nó cho thấy, HNH không hề biết sự kiện,
GCC type bài viết cho đăng trên e-VHNT, và
cùng lúc, cho thấy, Sến, talawas mới là kẻ
được phép đăng bài viết của HNH.
HNH có thể không biết việc bài
của ông đã được đăng, ở hải ngoại.
Nhưng Sến biết.
Bửn là ở chỗ đó.
GCC đã nói rồi.
Đạo hạnh của lũ viết lách Mít có
vấn đề, và nó làm cho văn của chúng
thúi như kít.
NQT
Mới đọc trên FB của đấng Phén:
TIẾC
*SONG THAO
Thương xá
Tax vừa bị xóa sổ. Vậy là thêm một mảng Sài
Gòn xưa bị vỡ vụn. Dân Sài Gòn chúng
ta ai cũng tiếc nuối trước sự vong thân của thành
phố thân yêu. Sài Gòn đang bị dày
vò, không còn là Sài Gòn
của chúng ta. Nhớ về Sài Gòn, chúng ta
có nhiều thứ để vịn vào. Nhưng có một thứ không
thuộc về Sài Gòn mà mỗi khi nhớ về chúng
ta ngẩn ngơ. Trong bài “Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn”,
nhà thơ Du Tử Lê nhớ lung tung: Thị Nghè, Hàng
Xanh, Trương ...
Continue Reading
Vong thân, là
từ triết học, triết học Mác Xít, có nghĩa,
mất bản thân, tha hóa, aliéné.
Vong thân trong cần lao, làm ra của
cải, vật chất mà không được hưởng, tụi chủ, tụi tư
bản hưởng hết.
Vong thân trong tôn giáo: Chúa
xực hết cái đẹp, cái tốt của con người...
Đây là 1 từ cực quan trọng trong Mác
Xít. Có thể nói, chủ nghĩa Mác ra đời, là
do hiện tượng "vong thân" trong xã hội tư bản, và
nó có nghĩa vụ, lý tưởng "đạt thân", récupérer,
lấy lại cho con người sự vong thân kia.
Chúng ta đau lòng
vì Sài Gòn bị VC làm mất hết những vẻ
đẹp ngày nào của nó. Còn thành
phố thì đau đớn vì bị chúng lăng trì, xẻ thịt,
vạc [không phải vạch] mặt... làm mất hết vẻ đẹp có
từ bao nhiêu
đời, và nhờ thế có cái tên Hòn Ngọc
Viễn Đông, viết như thế thì còn có thể hiểu
được... thay vì vậy, thì là:
Thành phố bị vong thân!
Rõ ràng là hắn không hiểu
"vong thân" nghĩa là gì!
Đọc cả 1 đoạn, cũng muốn "vong
thân" luôn!
Chữ, của người, chôm chĩa, dùng ẩu,
dùng tả, không nắm được nghĩa, viết 1 câu tiếng
Việt không nên thân, vậy mà, hàng chục
tác phẩm, truyện ngắn, hàng mấy chục tác
phẩm, Phén, Phiếc, viết bằng 1 thứ văn phong Ba Tư, Càn
Khôn Đại Nã Di, như Bạn Cà ca ngợi, thường nhân
như Gấu chẳng hạn, thì gọi là mô phỏng, hay nói
thẳng, ăn cắp.
Hắn cũng giữ một mục hàng tuần trên 1
tờ báo địa phương,
mỗi tuần phải ị ra 1 bãi, thế là cứ báo mũi
lõ, cũng những tờ lá cải, thuổng dài dài, phăng
dài dài....
Chuyện hắn rối rít bê về trang cá
nhân, bài viết của HNH, do Gấu post, rối rít cám ơn đại phê bình
gia VC, vờ Gấu, là từ hồi 2001, nghĩa là từ
hồi Gấu về Hà Nội, được 1 đấng đưa tới vấn an nhà đại
giáo sư, đại phê bình gia của chế độ ta.
Gấu đâu có thèm để ý tới.
Bây giờ, nghĩ lại, biết đâu đấy, chơi
thử 1 cú rìu phá băng, hắn "khác"
đi chăng?
Brodsky, tưởng niệm bà
vợ góa của Osip Mandeltstam, phán, về hai cuốn hồi
ký của Bà:
Một tay ly khai nổi tiếng
vừa tuyên bố vừa lắc lắc chòm râu: "Bà
đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta". Những kẻ khác
bèn chạy vội về nhà, đóng kín cửa lại,
và ngồi viết phản-hồi ký!
Đúng thế đấy, những năm đầu của thập niên
1970 đã bắt đầu như vậy, và chừng sáu năm sau
đó, cũng đám người đó, đã xào xáo,
chia năm sẻ bẩy, trước thái độ của Solzhenitsyn đối với những
người Do Thái.
"Bà đã ỉa lên cả
một thế hệ".
Một cái việc làm như thế, đối với
lũ Hội Nhà Thổ ở Hà Nội, bà DTH đã làm.
Ở hải ngoại, chưa có ai ...
Quốc hội Canada thông qua Luật '30/4'
Đọc tin này thì GCC
lại nhớ đến vị trưởng phái đoàn Canada của UNHCR, lần được
chấp nhận cho tái định cư tại Xứ Lạnh, 1994.
Gấu đã viết đôi ba lần rồi.
... khi thi đậu quốc tịch, và
được phát thẻ công dân Canada,
Gấu gọi điện thoại về Sài Gòn báo tin cho Bà
Trẻ, bà mừng quá, nói: Bây giờ, cháu
lại được làm
người rồi!
Nhân đây cũng xin được
nói lời cảm tạ đất nước đã cưu mang Gấu tui trên mười
năm trời, kể từ ngày lên máy bay, rời trại chuyển tiếp
Panat Nikhom ở Thái Lan, với tờ giấy mầu vàng "landed immigrant"
[di dân thường trú], vượt hai đại dương, tới thành phố
Toronto, vào đúng một ngày bão tuyết, trận bão
tuyết khủng khiếp nhất kể từ 40 năm, theo như báo chí địa phương
lúc đó, 44 độ âm. Đó là ngày 23
tháng 11 năm 1994.
Trên mười năm trời, mới thỏ thẻ một lời cám ơn, liệu
như vậy là quá trễ chăng?
Trong một câu chuyện mà Gấu tôi đọc từ hồi còn
nhỏ, [hình như trong tập "Những Tâm Hồn Cao Thượng" do
Hà Mai Anh dịch từ một tác giá Ý, De Amicis
(?)], có một cô bé bị câm, được một bác
sĩ chữa trị. Một đêm nọ, cô bé trong lúc cố
tập nói, bất thình lình âm thanh phát
ra. Thế là cô bé cứ âm thầm ngậm những âm
thanh đầu tiên đó, đợi tới sáng, khi vị bác
sĩ tới giường cô, bấy giờ cô mới thốt lên mấy âm
thanh mà cô tập nói suốt trong đêm: Con cám
ơn bác sĩ.
Trường hợp của Gấu tôi cũng tương tự như vậy, nhưng không
phải những âm thanh đầu tiên, mà có thể, cuối
cùng, của một người già cảm thấy sắp sửa đi hết cuộc đời
của mình. (1)
Canada thường được 1 số Mít coi như nơi tạm trú,
thay vì quê hương thứ nhì, theo nghĩa, tạm qua đây,
chờ dịp chuồn qua thiên đường Mẽo.
Và không phải nhà nước Canada không biết
trò mù tịt này. Họ biết và rất ư là
bực. Họ có nói với Gấu, là, chúng tao bực
lắm.
Thời gian ở Trại Tị Nạn Thái Lan, đã đậu thanh lọc,
chờ gặp phái đoàn nhận cho tái định cư, Gấu làm
nghề viết đơn muớn bằng tiếng Anh, cho 1 số trường hợp bị phái đoàn
chê, trong có hai đấng thanh niên Mít, chỉ
thèm đi Mẽo, vì mê Mẽo, tất nhiên, và
vì có bà mẹ ở Mẽo. Khi được phái đoàn
Canada nhận, họ từ chối, và phái đoàn phán,
OK, ký vô cái đơn từ chối. Đến khi gặp phái đoàn Mẽo, họ đếch nhận. Hai
vị này không biết tính sao, cầu cứu Gấu. Gấu bèn
viết cái thư cho phái đoàn Canada, kể rõ trường
hợp, và giải thích, họ thèm đi Mẽo để phụng dưỡng
Mẹ, mà thằng Mẽo khốn nạn quá đếch nhận. Mấy ông nhận
họ đi, và sau đó họ tìm cách rước mẹ qua Canada
để phụng dưỡng, chẳng hơn là ở Mẽo ư.
Họ nhận lại.
Cú này chấn động cả 1 trại tị nạn, đúng như
thế. Thiên hạ đồn ầm lên, viết cái đơn thế nào
mà đã ký đơn từ chối, lại còn nhận!
Phái đoàn Mẽo rất ư là
hách dịch. Họ đã nhận hồ sơ, mà chưa giải quyết,
là không có phái đoàn khác dám
nhận. Lần Gấu viết cái đơn cho 1 gia đình, có ông
bố bảo lãnh vợ và mấy đứa con. Đấng này, do có
vợ bé, bỏ luôn vợ con ở Trại, mấy năm trời dòng dã.
Họ cầu cứu Gấu, Gấu bèn đi 1 đường, xin phái đoàn
Mẽo tha cho họ, đừng treo [pending] hồ sơ của họ nữa, vì cả bà
vợ lẫn mấy đứa con quá nhục nhã ông chồng ông
bố rồi. Có cho họ đi Mẽo, họ cũng đếch thèm đi đâu.
Tha cho họ, để họ đi nước khác, làm lại cuộc đời của họ.
Phái đoàn Mẽo OK. Và biểu bà mẹ, về
nhớ cám ơn thằng nào viết cái đơn này!
Tuy ơn anh cho
tiệm mượn tên, nhưng nói thật với anh, anh viết quá
hại sức khỏe người đọc. Mỗi lần đọc sách anh viết, em có
cảm giác mình bị thiếu oxy. Và lần nào, (quyển
tiểu thuyết nào) anh cũng đùng phát vứt người ta ngay
vào trong một bối cảnh lạ hoắc lạ huơ mà có vẻ anh
đã ở đó rất lâu, ít lâu hoặc đã
tìm hiểu để tới, nhưng cuối cùng anh cũng lạc xừ nó
ở trỏng. Quá khổ cho em, anh đã không chỉ đường cho
em thì thôi chớ anh cũng xà quần xà quần ngơ
ngơ ngác ngác em theo a...
See More
http://www.tanvien.net/Notes_New/1.html
Bọ Lập đi nằm ấp
Walter Benjamin nhận xét,
không phải tự nhiên mà cái cú Hóa
Thân - đang là người, buổi sáng ngủ dậy, thấy biến
thành bọ - xẩy ra ở nhà, mà không ở nơi quán
trọ, với 1 tên suốt đời chạy long nhong để bán hàng,
nuôi thân, nuôi gia đình. Anh chàng tên
Tâm, trong Bếp Lửa, của TTT, lưu
vong, viết thư về cho em gái ở nơi quê nhà, buộc vào
quê hương, không phải bạn bè, mà phải là
máu mủ. Nhà văn Mẽo, Philip Roth, trong 1 lá thư
viết cho bạn, được dùng làm epitaph cho bài viết “Hãy
nhìn về phía nhà mình, hỡi Thiên Thần”,
trong "Roth Unbound”, của Claudia Roth Pierpont, viết: Kafka mới khôn
khéo làm sao khi để cho cái cú Hóa
Thân xẩy ra trong gia đình.
Gia đình ở đây đứng như là, stands for,
[gạch đít, trong nguyên tác], cái nhận ra,
điều mà chúng ta trông mong từ gia đình, the
recognizable, we know just what to expect from the family.
Thành ra không
thể nói, Bọ Lập không biết, ông sẽ bị "gia đình"
bắt nằm ấp. Ông biết, và nói cho bạn của ông, là,
gia đình sẽ cho ông đi nằm ấp.
Gia đình, của ông, với chúng ta, lũ Ngụy, là
cái địa ngục VC, những người như Bọ Lập, hay Tướng Về Hưu, hay
Quái Vật Siêu Nhân Anh Hùng Núp, làm
nên.
Đếch có Ngụy, đếch có
Gấu Cà Chớn ở trong “gia đình” đó!
Có thể lũ Bắc Kít
sẽ rất ư là bực mình, khi lũ Ngụy cứ khăng khăng nghĩ rằng
là văn học miền nam trước 1975, của chúng, bảnh hơn nhiều
so với Bắc Kít. Nhưng quả là nó bảnh hơn, nhưng, do
đâu, vì lý do gì?
Ở đây, chính là cốt lõi của cái
gọi là Cái Ác Bắc Kít. Điều này, không
phải Gấu nói, mà là Brodsky nói.
Coetzee, viết, trong 1 lá
thư ngỏ, gửi Vaclav Havel, Brodsky đề nghị tông tông Havel
vứt mẹ cái quan điểm, chủ nghĩa CS Đông Âu bị hải ngoại
đặt để, mà nó nằm trong tim, trong hồn, trong não
Đông Âu, 1 thứ tội tổ tông. Và cái sự tái
giáo dục nó, là phải bằng thức ăn hàng ngày,
với những liều lượng của Proust, Kafka, Faulkner, hay Camus.
Cái làm cho văn
chương miền Nam trước 1975, bảnh như vậy, là do như thế: Nó
được tiêm thuốc chủng độc CS, từ những liều lượng như trên!
Though On Grief and
Reason intermittently alludes to, and sometimes directly addresses, Brodsky's
own exile/immigrant status, it does not, except in an odd and inconclusive
exercise on the spy Kim Philby, address politics pure and simple. At the
risk of oversimplifying, one can say that Brodsky despairs of politics
and looks to literature for redemption.
Thus, in an open letter to Vaclav
Havel, Brodsky suggests that Havel drop the pretense that Communism in
Central Europe was imposed from abroad and acknowledge that it was the
result of "an extraordinary anthropological backslide" whose basis was no
more and no less than original sin. As president of the Czech state, Havel
would be well advised to operate on the premise that man is inherently evil;
the reeducation of the Czech public might begin with doses of Proust, Kafka,
Faulkner, and Camus in the daily papers (On Grief, pp. 218-22).
(Elsewhere Brodsky criticizes Aleksandr Solzhenitsyn on the same
grounds: for refusing to accept what his senses plainly tell him, that
humankind is "radically bad"; Less Than One, p. 299.)
Coetzee: The Essays
of Brodsky [in Stranger Shores]
Bao giờ thì Bọ Lập quay
về nhỉ? Khi biết tin Bọ Lập bị bắt, tôi lại nhớ Việt Khang, Trần
Vũ Anh Bình… Lẽ nào con người hát và viết,
nói điều mình nghĩ lại có thể là tội phạm? Hơn
nữa, đó lại là những con người yêu nước. Buổi chiều
dừng chân trú cơn mưa ở vỉa hè, chợt thấy nơi đó
bày bán những cây gậy bằng tre. Tôi nhìn
địa chỉ và ghi lại. Biết đâu Bọ Lập khi bước ra, ông vẫn
cần một cây gậy mới để đi cùng, trong vòng vây
thương mến của mọi người chào đón ông.
Tuấn Khanh
Nếu những người như Bọ Lập không
thể là tội phạm, thì lũ Ngụy là tội phạm vậy!
Cái địa ngục Mít bây giờ, như thế đó,
là có sự đóng góp của Bọ Lập.
Ông đẻ ra lũ người bắt ông bây giờ, làm
sao nói, không tội phạm?
NQT
Con thuyền của anh Lập, dập dìu
sóng vỗ khi nào, là một con thuyền lẻ loi. Lật bởi sự
tồi tệ của thể chế chính trị. Chìm bởi sự đơn độc của chính
nó giữa vài ba con thuyền đơn độc khác. Đắm bởi sự bạc
bẽo của phần lớn chúng ta.
Note: Đây là câu
văn của Sến, trong bài viết về Bọ Lập, được VOA trích dẫn
Đọc, thấy... tếu quá!
Bà này viết văn, vưỡn kênh kiệu như mọi “khi
nào”!
Hãy đốt cuốn sách
này!
Trong cuốn này, có
hai bài viết, bảnh nhất, theo GCC, thì đều mở ra bằng 1
ý của Kafka.
Bài của người chủ biên,
Toni Morrison [cuốn sách nhỏ, mỏng dính, nhưng do PEN Mẽo
xb], Peril: Hiểm Nguy.
Có 1 câu bảnh nhất, tặng Bọ Lập thì chàng sướng
điên lên được, dù đang nằm ấp:
Cuộc đời và tác phẩm của một nhà văn đếch
phải là một món quà cho nhân loại. Chúng
là sự cần thiết của nó.
Peril
Toni Morrison
Authoritarian regimes, dictators, despots
are often, but not always, fools. But none is foolish enough to give perceptive,
dissident writers free range to publish their judgments or follow their
creative instincts. They know they do so at their own peril. They are
not stupid enough to abandon control (overt or insidious) over media.
Their methods include surveillance, censorship, arrest, even slaughter of
those writers informing and disturbing the public. Writers who are unsettling,
calling into question, taking another, deeper look. Writers-journalists,
essayists, bloggers, poets, playwrights-can disturb the social oppression
that functions like a coma on the population, a coma despots call peace;
and they stanch the blood flow of war that hawks and profiteers thrill to.
That is their peril.
Ours is of another sort.
How bleak, unlivable, insufferable existence
becomes when we are deprived of artwork. That the life and work of writers
facing peril must be protected is urgent, but along with that urgency we
should remind ourselves that their absence, the choking off of a writer's
work its cruel amputation, is of equal peril to us. The rescue we extend
to them is a generosity to ourselves.
We all know nations that can be identified by
the flight of writers from their shores. These are regimes whose fear
of unmonitored writing is justified because truth is trouble. It is trouble
for the warmonger, the torturer, the corporate thief, the political hack,
the corrupt justice system, and for a comatose public. Unpersecuted,
unjailed, unharassed writers are trouble for the ignorant bully, the
sly racist, and the predators feeding off the world's resources. The
alarm, the disquiet, writers raise is instructive because it is open
and vulnerable, because if unpoliced it is threatening. Therefore the
historical suppression of writers is the earliest harbinger of the steady
peeling away of additional rights and liberties that will follow. The
history of persecuted writers is as long as the history of literature
itself. And the efforts to censor, starve, regulate, and annihilate us
are clear signs that something important has taken place. Cultural and
political forces can sweep clean all but the "safe," all but state-approved
art.
I have been told that there are two human responses
to the perception of chaos: naming and violence. When the chaos is simply
the unknown, the naming can be accomplished effortlessly-a new species,
star, formula, equation, prognosis. There is also mapping, charting, or
devising proper nouns for unnamed or stripped-of-names geography, landscape,
or population. When chaos resists, either by reforming itself or by rebelling
against imposed order, violence is understood to be the most frequent response
and the most rational when confronting the unknown, the catastrophic, the
wild, wanton, or incorrigible. Rational responses may be censure, incarceration
in holding camps, prisons, or death, singly or in war. There is however
a third response to chaos, which I have not heard about, which is stillness.
Such stillness can be passivity and dumbfoundedness; it can be paralytic
fear. But it can also be art. Those writers plying their craft near to
or far from the throne of raw power, of military power, of empire building
and counting-houses, writers who construct meaning in the face of chaos must
be nurtured, protected. And it is right that such protection be initiated
by other writers. And it is imperative not only to save the besieged writers
but to save ourselves. The thought that leads me to contemplate with dread
the erasure of other voices, of unwritten novels, poems whispered or swallowed
for fear of being overheard by the wrong people, outlawed languages flourishing
underground, essayists' questions challenging authority never being posed,
un-staged plays, canceled films-that thought is a nightmare. As though a
whole universe is being described in invisible ink.
Certain kinds of trauma visited on peoples are
so deep, so cruel, that unlike money, unlike vengeance, even unlike justice,
or rights, or the goodwill of others, only writers can translate such
trauma and turn sorrow into meaning, sharpening the moral imagination.
A writer's life and work are not a gift to mankind;
they are its necessity.
TM
Bài viết của TM quả là
hách xì xằng, mở ra cuốn sách nhỏ, với cái
tít thật chửi bố nhật ký ĐTT gì gì đó:
Hãy đốt cuốn sách này!
Có vài thứ chấn
thương viếng thăm con người, sâu quá, tàn bạo quá…
chỉ lũ khốn kiếp là nhà văn mới chuyển dịch được nó,
và biến đau buồn thành cái có ý nghĩa,
làm nhọn hoắt trí tưởng tượng về mặt đạo hạnh.
Nadine Gordimer, trong bài
viết Witness: The Inward Testimony,
trích dẫn Kafka, nhà văn nhìn, giữa những điêu
tàn, nhiều điều, và trong nhiều điều đó, có
những điều khác những điều người trần mắt thịt nhìn thấy
[tạm dịch cụm từ, the writer sees among ruins “different (and more) things
than others…”], it is a leap out of murderers ‘row, it is a seeing of what
is really taking place [đó là cú vọt ra từ dẫy sát
nhân, đó cái nhìn cái thực sự xẩy ra],
và từ ý đó, bà đưa ra cái ý nội
chứng (inward testonomy), mà chỉ nhà văn nhà thơ mới
làm được: A leap from muderers’row that only the poet can make.
Bài viết của Nadine Gordimer
cũng quá khủng, Gấu “loay hoay hì hục” [chữ của TTT] đọc
hoài, mà cũng chưa vỡ ra được: Cái nhìn vọt
ra từ dẫy sát nhân!
Bài của David Grossman,
nhà văn Do Thái, “Viết trong bóng tối”, GCC đọc cùng
với cuốn sách cùng tên của ông, cũng khởi từ
một ngụ ngôn của Kafka, “A Little Fable”: Khi tên ăn thịt sống
khép lại gần bạn, thì thế giới của bạn nhỏ mãi lại,
và cùng với nó, là cái ngôn ngữ
diễn tả nó, when the predator closes in on you, your world does
get smaller. So does the language that describes it.
Đây là thực trạng
của thế giới văn chương… VC. Những đấng nhà
văn của nó, đã không đọc, và đọc thì
cứ quanh quẩn mãi ở những tác giả…. vô hại, thế giới
cứ thế nhỏ mãi đi, chưa kể tên ăn thịt sống, là nhà
nước của chúng, do chúng bắt buộc chọn, sau khi làm
thịt Ngụy: cái sự cả triệu người “viu” trang Quê Choa, là
1 thảm họa - "bất hạnh" thuổng tên K - chứ đâu phải hãnh
diện?
GCC tin chắc Bọ Lập mừng quá,
khi bị VC cho nằm ấp, như vậy, là ta trốn được trang Quê
Choa!
Do ít đọc, ánh
lửa ma trơi nhoáng lên rồi tắt ngấm, từ lâu rồi, với
nhà văn nhớn NQL.
Franz Kafka
A Little Fable
"Alas," said the mouse, "the
whole world is growing smaller every day. At the beginning it was so big
that I was afraid, I kept running and running, and I was glad when I saw
walls far away to the right and left, but these long walls have narrowed
so quickly that I am in the last chamber already, and there in the corner
stands the trap that I must run into."
"You only need to change your direction," said the
cat, and ate it up.
Nguyễn quang Lập (đứng dậy, chống
hai tay vào hông cho đỡ nóng):
Tôi muốn hỏi lại, các
anh đã bị đưa ra khỏi Hội Nhà Văn ba năm, sau đó
thành ba mươi năm. Tại sao khi người ta yêu cầu các
anh viết đơn để được vào lại, thì các anh lại viết?
(1)
Note: Bảnh thật!
Cái hiểm nguy mà
Morrioson báo động, ở về phía chúng ta, nhà
văn, là, ngay cả đến ánh lửa ma trơi cũng đã tắt ngúm
từ đời nào rồi: rằng cái cuộc sống của chúng ta
mới thảm hại làm sao, nếu đếch có tác phẩm nghệ thuật.
Rằng cuộc sống và tác phẩm của nhà văn phải được bảo
vệ, điều này thì thực là khẩn thiết, nhưng song song
với khẩn thiết này, là 1 khẩn thiết mà chúng
ta phải nhắc nhở chúng ta, là sự thiếu vắng cái ánh
lửa ma trời hiếm hoi kia, và đây mới là nỗi hiểm nguy
của chúng ta:
How bleak, unlivable, insufferable
existence becomes when we are deprived of artwork. That the life and work
of writers facing peril must be protected is urgent, but along with that
urgency we should remind ourselves that their absence, the choking off
of a writer's work, its cruel amputation, is of equal peril to us. The
rescue we extend to them is a generosity to ourselves.
Mit Critic
Hoàng
Ngọc Hiến
[NQT chụp tại nhà riêng của ông, tại
Hà Nội, Tháng Sáu, 2001.
Bức hình này, được nhiều trang văn
học trên net chôm, kể cả Bi Bì Xèo, không
hề ghi nguồn.
Truy ra, toàn gốc Bắc Kít cả!]
Hồ Sơ Một Bài
Viết
Miễn xong một “sô”
(Vài nhận xét về Văn Học Hải Ngoại của Hoàng Ngọc Hiến) [I]
Cảm giác của tôi sau khi đọc chuyên
luận được tài trợ bởi trung tâm William Joiner của Hoàng
Ngọc Hiến là rất hụt hẫng. Tôi tự hỏi: kết quả của một
công trình nghiên cứu gây vô số tranh
luận, kiện tụng hàng năm trời, rốt cuộc chỉ là một bài
viết sơ sài vậy sao?
[Trích bài viết của Phan Nhiên Hạo,
trên talawas].
Chú thích: (1) V/v bản đăng trên
talawas. Tin Văn mới nhận được mail:
Hi,
HNH gửi
bài đó cho talawas và cho biết rằng bài
viết này chưa đăng chính thức ở đâu, vì
ông chưa cho phép ai đăng nó.
talawas.
Cái mail của Sến cho thấy,
bài viết của HNH, GCC mất công lụi hụi type, và
cho đăng trên VHNT trên lưới của Phạm Chi Lan, thời gian
Tin Văn còn ăn nhờ, ở đậu trên trang báo này,
và trên Việt Báo, không được phép của
ông.
Quả đúng là như thế.
Gấu cũng không tin, ông ta biết việc làm
của GCC.
Khi ông ta tặng bài viết cho Gấu, ông
không nghĩ là Gấu mất công làm những chuyện
như thế.
Một việc làm quá sức tưởng tượng của bất
cứ 1 tên Bắc Kít nào, viết văn hay không
viết văn.
Vậy mà không được 1 lời cám ơn của
tên khốn kiếp “Phén Phiếc”.
Thay vì cám ơn, hắn còn đi 1 đường
chọc quê Gấu, bằng cách cám ơn nhà đại
phê bình gia VC!
Cái gì làm cho hắn nhơ bửn đến như
thế?
Đạo hạnh của hắn có gì bất thường.
Tên này, cũng như tên số 2, đều được
Canada nhận.
Cả hai đều chưa từng nói được 1 lời cám ơn
Canada, và đều mong có dịp là chuồn đi Mẽo.
Tên này khoe được Mẽo nhận rồi, nhưng phút
chót, giấc mộng đi Mẽo tan tành, do Mẽo tiết kiệm
ngân quỹ cái con mẹ gì đó!
Một vị bằng hữu mới quen biết, Bắc
Kít, sau 1975, rất quí Gấu, trên FB, có
đi 1 đường về GCC, ông ta bị chửi cũng dữ, và ông ta chửi
lại cũng không thua gì, sợ còn dữ hơn!
Không hẳn như thế!
GCC ra hải ngoại quá trễ, ra được 1 phát,
là bèn ôm lấy giấc mộng vá bướm Mít,
của Borges, thành ra thèm có bạn, thèm
viết, như đã từng báo cáo nhiều lần rồi
Chẳng hề muốn ôm lại cái
nick tên “sa đích văn nghệ” được Nguyên Sa ban
cho, những ngày đầu bước chân vô làng văn.
Những tên khốn kiếp như tên này, hay
tên “ngồi bên ly cà phê”, đều là
những người Gấu đã từng mong được là bạn của chúng,
y chang những ngày đầu quen đám bạn quí, đêm
nằm ngủ, mơ gặp bạn ở
Quán Chùa, là chuyện rất thường.
Gấu cho đến bây giờ, vẫn còn nhớ rõ
như in, bữa gặp băng đảng văn học Montreal, tại 1 bữa ăn, ở nhà
1 người bạn của đám này, ở Toronto, khi chúng
kéo xuống chơi, và Nguyễn Tiến Văn kéo Gấu tới,
dù không quen biết, không được mời.... Nhớ, Gấu
lúc đầu cũng ngại, nhưng NTV phán, ngại cái gì,
làm việc lớn, ngại gì ba cái lẻ tẻ.
Lần Gấu bị tên Hoặc Ngữ lôi ra cà khịa
trên talawas, đúng thời gian Gấu về Hà Nội, khi
trở về Canada, tính quit job, rồi NTV cần liên lạc,
và gửi bài của Nguyễn Khánh Long cho Sến, anh
phán, ui dào, ba cái lẻ tẻ, thế là lại
tiếp tục cầm rổ theo hầu Sến tiếp.
Những sự kiện như thế cho thấy, Gấu thèm kết bạn với "lũ chó
hải ngoại" đến như thế nào!
Chỉ 1 khi biết là vô ích, Gấu mới lụi
cụi 1 mình làm trang Tin Văn dòng dã
20 năm trời, đâu có phải để tự sướng, như tên Lang
Băm nhơ bẩn nghĩ, mà là do cần quá, không thể
không làm, bởi vì chỉ còn mỗi cách đó, may ra đem đến cho lũ Mít,
không chỉ tri thức, thông tin... không thôi,
nhưng mà là, biết đâu đấy, 1 chút đạo hạnh,
chút phẩm giá, theo cách nghĩ của Brodsky, mỹ
mới là mẹ của đạo hạnh.
Sở dĩ cõi
văn Mít tệ hại đến như thế, là do đạo hạnh
của lũ viết lách không có, cả ở trong lẫn ngoài
nước.
Cái
mail của Sến, cũng thực là “nhơ bửn”, theo GCC.
Nó cho thấy, HNH không hề biết sự kiện, GCC type
bài viết cho đăng trên e-VHNT, và cùng
lúc, cho thấy, Sến, talawas mới là kẻ được phép
đăng bài viết của HNH.
HNH có thể không biết việc bài của ông
đã được đăng, ở hải ngoại.
Nhưng Sến biết.
Bửn là ở chỗ đó.
GCC đã nói rồi.
Đạo hạnh của lũ viết lách Mít có vấn
đề, và nó làm cho văn của chúng thúi
như kít.
NQT
Mới đọc trên FB của đấng Phén:
TIẾC
*SONG THAO
Thương xá
Tax vừa bị xóa sổ. Vậy là thêm một mảng Sài
Gòn xưa bị vỡ vụn. Dân Sài Gòn chúng
ta ai cũng tiếc nuối trước sự vong thân của thành phố thân
yêu. Sài Gòn đang bị dày vò, không
còn là Sài Gòn của chúng ta. Nhớ
về Sài Gòn, chúng ta có nhiều thứ để vịn
vào. Nhưng có một thứ không thuộc về Sài
Gòn mà mỗi khi nhớ về chúng ta ngẩn ngơ. Trong bài
“Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn”, nhà thơ Du Tử Lê
nhớ lung tung: Thị Nghè, Hàng Xanh, Trương ...
Continue Reading
Vong thân, là từ triết
học, triết học Mác Xít, có nghĩa, mất bản thân,
tha hóa, aliéné.
Vong thân trong cần lao, làm ra của cải, vật
chất mà không được hưởng, tụi chủ, tụi tư
bản hưởng hết.
Vong thân trong tôn giáo: Chúa xực
hết cái đẹp, cái tốt của con người...
Đây là 1 từ cực quan trọng trong Mác Xít.
Có thể nói, chủ nghĩa Mác ra đời, là
do hiện tượng "vong thân" trong xã hội tư bản, và
nó có nghĩa vụ, lý tưởng "đạt thân", récupérer,
lấy lại cho con người sự vong thân kia.
Chúng
ta đau lòng vì Sài Gòn bị VC làm
mất hết những vẻ đẹp ngày nào của nó. Còn
thành phố thì đau đớn vì bị chúng lăng trì,
xẻ thịt, vạc [không phải vạch] mặt... làm mất hết vẻ đẹp
có từ bao nhiêu
đời, và nhờ thế có cái tên Hòn Ngọc Viễn
Đông, viết như thế thì còn có thể hiểu được...
thay vì vậy, thì là:
Thành phố bị vong thân!
Rõ ràng là hắn không hiểu "vong
thân" nghĩa là gì!
Đọc cả 1 đoạn, cũng muốn "vong
thân" luôn!
Chữ, của người, chôm chĩa, dùng ẩu, dùng
tả, không nắm được nghĩa, viết 1 câu tiếng Việt không
nên thân,
vậy mà, hàng chục tác phẩm, truyện ngắn, hàng
mấy chục tác phẩm, Phén, Phiếc, viết bằng 1 thứ văn phong
Ba Tư, Càn Khôn Đại Nã Di, như Bạn Cà ca ngợi,
thường nhân như Gấu chẳng hạn, thì gọi là mô
phỏng, hay nói thẳng, ăn cắp.
Hắn cũng giữ một mục hàng tuần trên 1 tờ báo địa phương, mỗi tuần phải
ị ra 1 bãi, thế là cứ báo mũi lõ, cũng
những tờ lá
cải, thuổng dài
dài, phăng dài dài....
Chuyện hắn rối rít bê về trang cá nhân,
bài viết của HNH, do Gấu post, rối rít cám ơn đại phê bình
gia VC, vờ Gấu, là
từ hồi
2001, nghĩa là từ hồi Gấu về Hà Nội, được 1 đấng đưa tới
vấn an nhà đại giáo sư, đại phê bình gia của
chế độ ta.
Gấu đâu có thèm để ý tới.
Bây giờ, nghĩ lại, biết đâu đấy, chơi thử 1 cú
rìu phá băng, hắn "khác" đi chăng?
Brodsky,
tưởng niệm bà vợ góa của Osip Mandeltstam, phán,
về hai cuốn hồi ký của Bà:
Một
tay ly khai nổi tiếng vừa tuyên bố vừa lắc lắc chòm râu:
"Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng ta". Những
kẻ khác bèn chạy vội về nhà, đóng kín
cửa lại, và ngồi viết phản-hồi ký!
Đúng thế đấy, những năm đầu của thập niên 1970 đã
bắt đầu như vậy, và chừng sáu năm sau đó, cũng đám
người đó, đã xào xáo, chia năm sẻ bẩy, trước
thái độ của Solzhenitsyn đối với những người Do Thái.
"Bà đã ỉa lên
cả một thế hệ".
Một cái việc làm như thế, đối với lũ Hội
Nhà Thổ ở Hà Nội, bà DTH đã làm.
Ở hải ngoại, chưa có ai ...
Mit Critic
From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
-----
Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i
cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n
Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n
vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n
na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay
vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng? To^i
i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c
gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y
ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.
Để có được
bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà
Nội, và là người đầu tiên dám mở
đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy,
tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới
viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang
Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn
kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn
chọc quê GCC, bằng cách cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu
có biết gì đâu?
Subject:
Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do
to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va`
dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c,
su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c
se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t
la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i
PTH Việt Báo
Đa tạ
NQT
Lũ này, chỉ quen cái chuyện áo
thụng vái nhau, thơ văn như kít, nhưng vịn thơ nhau
mà đứng dậy, cái gì gì dựa
hơi [hơi gì ?] nhau mà viết, thế là ô
hô ai tai cả 1 giấc mộng xâm nhập văn chương nước người,
thế giới. Không tên nào đọc được văn chương mũi
lõ, điều này không hẳn là do dốt tiếng mũi
lõ, mà phần nhiều là do tâm thức, thói
quen, khẩu vị… Gấu đã kể, vào lúc mới lớn, mê
Buồn Nôn, La Nausée, của Sartre, ông anh rể là
Hiếu Chân phán đưa tao đọc thử, đọc chỉ vài dòng
là quăng lại, và quả thế thực, phần nhật ký không
ngày tháng mở ra cuốn này, cực khó đọc,
hà, hà!
Một ý nghĩ:
Đối với nhà
văn đích thực, ngày mai phải viết hay hơn hôm
qua, đó không chỉ là một đòi hỏi mang
tính thẩm mỹ mà còn là, thậm chí
trước hết là, một đòi hỏi mang tính đạo lý
- cũng bức thiết và tự nhiên giống như ngày mai
phải sống đẹp hơn hôm qua.
Tuy nhiên, mặt khác, nếu bạn không làm được
như vậy, thì ít nhất bạn hãy bao dung với mình
nếu biết bạn đã cố hết sức.
... See More
Đấng
này, Gấu đọc, ngay từ khi vừa xuất hiện trên diễn đàn
VHNT trên lưới, của PCL, và thú thực, không
có ý kiến.
Khác hẳn trường hợp Nguyễn Quang Lập, cũng xuất
hiện, cũng trên VHNT, đọc 1 phát là trúng
đòn liền, và là cái mẩu Cục Uất của anh
ta.
Bọ Lập sau đó, nổi như cồn, với loạt bài,
trên TV có post lại. Nhưng sau đó, là hết.
Gấu đã từng dùng hình ảnh ánh lửa ma trơi,
để diễn tả trường hợp của anh ta.
Nhưng vấn đề của TTCD, khác hẳn.
Thì nói toạc ra ở đây, anh ta viết
hoài thì cũng vẫn mãi như thế.
Và quả nó liên quan đến mỹ, đến đạo
lý, nhưng không
phải như anh ta hiểu.
Trường hợp của TTCD, là trường hợp của… GCC,
thời mới lớn, và Sartre diễn tả thật là thần sầu. Nhớ,
Gấu, thú thực, đọc 1 phát, lại 1 phát, là
thấm cả 1 đời.
Sartre phán: Vảo mỗi thời đại, con người nhận ra
mình, lọc ra mình, khi đối diện với tha nhân, tình
yêu và cái chết
A chaque époque, l'homme se choisit en face d'autrui,
de l'amour et de la mort.
Theo GCC, TTCD, như cả 1 thời của anh ta, khôn quá,
hoặc nhát quá, chẳng chọn gì!
Anh ta không dám lọc mình ra, giữa cả 1 thời của anh ta! (1)
(1)
http://www.tanvien.net/tap_ghi_7/chuoi_5.html
Tại
sao mày cứ viết về mấy chuyện "chính trị", nhắc đến
tụi chúng nó làm gì vậy? Chúng
nó đâu có đáng để cho mày viết?
Một ông nhà văn Miền Nam, cũng bạn văn của
Hai Lúa ngày nào, tỏ ra bực mình.
Nhưng Hai Lúa đâu có viết về chúng
nó, mà viết về những người mà chúng
nó ngồi lên đầu!
http://www.tanvien.net/gioithieu_02/cuc_uat.html
Ui
chao, Sartre, Camus và thời mới lớn của Gấu, và những
câu thần chú.
Con người bị kết án phải tự do. L’homme est condamné
à être libre.
Địa ngục là tha nhân. L’enfer, c’est les autres.
Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về siêu hình
học của tiểu thuyết gia, une technique romanesque renvoie toujours à
la métaphisique du romancier. Sartre đọc Âm Thanh và
Cuồng Nộ của Faulkner. Câu phán này quả là
quá khủng khiếp, vì nó trở thành kim chỉ nam
đối với cái việc điểm 1 cuốn sách. Sartre đọc Faulkner, và
khám phá 1 siêu hình học về thời gian: Trong
Âm Thanh và Cuồng Nộ, Faulkner đập nát thời gian của
tiếng tích tắc của đồng hồ, và xây dựng 1 thời gian
khác, với tiếng hú của 1 tên khùng, đây
là câu chuyện được kể bởi 1 tên khùng, đầu âm
thanh và cuồng nộ, và chẳng có ý nghĩa gì
hết
1. Thế kỷ 20 của ai?
Triết gia người Pháp, Bernard-Henry
Lévy trả lời bằng cả một cuốn sách: Thế kỷ của Sartre
(nhà xb Grasset, Paris).
G. Steiner, trong bài viết "Triết gia cuối cùng?"
trên tờ TLS (The Times Literary Supplement 19 May, 2000), đã
nhắc tới một phương ngôn của người Pháp, theo đó,
trong những thập kỷ cuối thế kỷ 20, ngôi sao của Sartre lu mờ so
với những "địch thủ" của ông như Camus, Raymond Aron, bởi vì
thời gian này, ông còn ở trong lò luyện ngục
(purgatoire). Và đây là "phần số", chỉ dành
cho những triết gia lớn, tư tưởng lớn. Theo ông, hiện nay, ở Pháp,
Đức, Ý, Nhật, và một số quốc gia Đông Âu, thế
giá và huyền thoại của nhà văn đã từng từ chối
giải thưởng Nobel văn chương này, đang ở trên đỉnh. Ở đâu,
chứ ở Pháp thì quá đúng rồi: sau 20 năm ở
trong lò luyện ngục, Sartre trở lại, và đang tràn
ngập trong những tiệm sách, với nào là tiểu sử (loại
multi-volume), nào hội thảo, đối thoại, gặp gỡ (rencontres)… Theo
như Jennifer Trần tôi được biết, tạp chí Văn, trong tương lai,
sẽ dành trọn một số báo để nhìn lại "triết gia cuối
cùng của nhân loại", đặc biệt bởi những nhà văn Miền
Nam đã một thời coi ông là "thần tượng", như Huỳnh Phan
Anh, Đặng Phùng Quân…
"Địa ngục là
những kẻ khác", "Người ta không thể bỏ tù Voltaire",
"Con người bị kết án phải tự do", "Con người là một đam
mê vô ích", "Tự do phê bình là
hoàn toàn ở Liên Bang Xô-viết (La liberté
de critique est totale en URSS), "chủ nghĩa Cộng sản là chân
trời đừng mong chi vượt được của thời đại chúng ta (Le marxisme
est l’horizon indépassable de notre temps)… nhưng hình ảnh
một ông già mù phải nhờ bạn dẫn tới bàn hội
nghị, để tranh đấu cho một con thuyền cho người vượt biển, vì muốn
cứu những xác người trên biển Đông mà đành
phải bắt tay với kẻ thù và cũng đã từng là
bạn… hình ảnh đó đã vượt lên tất cả… nhưng thôi,
xin hẹn gặp Văn, số đặc biệt!
Cái
tay TTCD này, khi anh ta và đồng bọn làm trang
e-Văn, Gấu mặt dầy gửi bài liền, chẳng đợi mời. Chỉ đến khi GCC
gửi 1 bài dịch trên TLS, kèm luôn bản tiếng
Anh, và khi bài post lên, thấy đề TTCD hiệu đính,
Gấu bèn mail hỏi, anh ta chỉ ra mấy chỗ Gấu dịch sai, mà
sai thật, Gấu mới hỡi ơi, vì cái đạo hạnh của anh ta.
Cái từ hiệu đính, như Gấu đã từng nói,
rất cao quí, không thể đem ra dùng 1 cách
khinh xuất như thế, mà dùng như thế là làm
nhục tòa soạn e- Văn, chứ không phải người cộng sự.
Sến cũng y chang, vô tư đè bài viết của
GCC ra đề tên 1 tên khốn kiếp vô, hiệu đính!
Đây là sự khác biệt giữa văn minh và
dã man mà DTH đã từng chỉ ra.
Với đám Ngụy, đây là công việc bếp
núc của 1 toà soạn, khi họ “edit”, biên tập, một bài viết của cộng sự, và
nó không chỉ hạn hẹp trong việc sửa những lỗi dịch sai.
Khi biên tập xong, họ gửi cho tác giả, và
xin ý kiến, nếu OK, họ đăng, không, họ gửi trả lại bài
viết.
Từ “hiệu đính” được dùng trong những nghi lễ trang
trọng hơn nhiều.
Một tay mới viết, biết sức mình, bèn nhờ 1 đàn
anh mà anh thực tình coi trọng, coi lại bài viết,
“xin anh hiệu đính cho em, và cho phép em để tên
anh lên đầu bài viết”
Đó là 1 vinh dự của lũ văn minh, vậy mà
bị tên này, cũng như Sến, làm thành 1 trò
nhục mạ người cộng sự.
Sến chẳng đã từng đăng bài viết của Nguyễn Văn Lục, và khi từ chối, ông
ta viết mail hỏi, Sến làm nhục ông ta bằng câu trả
lời, viết dưới tầm của trang của tôi!
Gấu đã từng làm những
công việc như vậy, mà chưa từng để tên Gấu vô,
như 1 kẻ hiệu đính. Nhờ vậy mà thoát chết trong
nhà tù VC, như đã từng lèm bèm nhiều
lần, khi sửa bài viết của Nguyễn Mai, khi phụ trách phụ trang
văn học của tờ Tiền Tuyến
Những Hình Hài Nobel
http://www.tanvien.net/chuyen_ngu_2/nobel_bodies.html
Nguồn:
Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo London (TLS), số ngày
15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích: Đăng lại bản dịch trên e-Văn.
Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm một số sai
sót.
NQT
http://phovanblog.blogspot.ca/2016/10/jane-eyre-ban-tay-che-dong-bao.html
Nhân loại ngày
nay thừa hưởng không ít những tác
phẩm văn học thường được gọi là kinh điển. Chúng
là những công trình trước tác
của nhiều thiên tài thuộc nhiều dân
tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay,
trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá
trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua
nhiều thử thách và những biến đổi ý
thức hệ, lịch sử, chính trị, xã hội, chúng
vẫn không hề có dấu hiệu chìm vào
quên lãng. Nếu cần chúng ta có
thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như
Don Quixote của văn hào
Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến
tranh và hoà bình của văn hào
Nga Lev Tolstoy, hay cuốn Những người khốn khổ của
văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng là
gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng
ta, không riêng một ai, và đóng góp
một phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi
sắc dân trên thế giới.
TYT
Note: GCC sợ đấng này
lộn từ kinh điển, academic, với từ cổ điển, classic.
Bởi thế, Calvino
mới hỏi và cùng lúc, trả lời
bằng cả 1 cuốn sách: Tại sao chúng ta vưỡn
đọc cổ điển? Và cái câu khen bảnh nhất
1 cuốn sách vừa mới ra lò, là đã
thành cổ điển!
Đã 1 bạn
Cà lầm “kinh điển” với “kinh nguyệt”, khiến
cả 1 một diễn đàn Bi Bi Xèo lầm theo.
Giờ đến đấng này!
GCC đã nói rồi, lưu vong, trễ quá,
càng trễ, mộng càng lớn, nghĩa là chỉ mong
kết bạn với đám viết lách, cái sự chửi bới, dọn dẹp như sau này,
là sau khi được bẩy bó, bèn dùng
cái bonus thời gian vào cái việc nhơ bẩn.
Hai vị hộ pháp của TV có lúc
bực mình, sao ưa cà khịa như thế, chửi người, dù
thắng, thì cái phần người của mi cũng bị sứt mẻ.
Nhưng theo GCC, rõ ràng là,
trong giới viết lách hải ngoại, gần như không có
lấy 1 tên,
có lấy 1 chút đạo hạnh.
Đó là sự thực.
Và phải có 1 tên dám vào
địa ngục, làm cái việc, chỉ cho chúng thấy,
chúng nhơ bẩn quá, hà, hà!
Bởi là vì, không lẽ lui cui mất
20 năm, làm trang Tin Văn, không được tí quà?
Quà làm trang TV là vạch ra
cái phần vô hạnh, vô đạo đức của lũ Mít
cầm viết!
Chúng viết như kít, là do đạo
hạnh khốn nạn quá!
Cái gì làm cho tên ngồi
bên ly cà phê, làm thơ, nhớ bạn hiền,
chôm thơ Joseph Huỳnh Văn, trên trang Tin Văn nhưng
lại nhớ mang máng là đọc trên tờ Thời Tập của
VL?
Cái gì làm 1 tên núp
váy đàn bà viết cực nhơ bẩn về những người
viết đã chết, như TTT, NXH, hay những vị còn sống,
như MN, TTNgh, đều là những người thành danh, có
tác phẩm nổi tiếng, chẳng hề thù oán gì
hắn, và, như Gấu, chẳng hề biết hắn là thằng chó
nào?
From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
----- Original Message
-----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong
nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t
ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn
cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y
co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay
kho^ng? To^i
i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c
gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y
ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.
Để có
được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà
Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu,
không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách
giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra
quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám
ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC,
bằng cách cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết
gì đâu?
Subject:
Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+'
Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+.
nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh
(nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n
va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i
PTH Việt Báo
Mit Critic
Nhân loại ngày nay
thừa hưởng không ít những tác phẩm văn học thường
được gọi là kinh điển. Chúng là những công
trình trước tác của nhiều thiên tài thuộc
nhiều dân tộc, và từ khi tác phẩm ra đời cho đến
nay, trải qua nhiều thế hệ người đọc, vẫn không phai nhạt giá
trị nghệ thuật lẫn nhân sinh. Dù trải qua nhiều thử thách
và những biến đổi ý thức hệ, lịch sử, chính trị,
xã hội, chúng vẫn không hề có dấu hiệu chìm
vào quên lãng. Nếu cần chúng ta có
thể liệt kê vài cuốn tiêu biểu như Don Quixote của
văn hào Tây Ban Nha Miguel de Cervantes, hay cuốn Chiến tranh
và hoà bình của văn hào Nga Lev Tolstoy, hay
cuốn Những người khốn khổ của văn hào Pháp Victor Hugo. Chúng
là gia sản văn hóa chung muôn đời của tất cả chúng
ta, không riêng một ai, và đóng góp một
phần không nhỏ vào đời sống tinh thần của mọi sắc dân
trên thế giới.
TYT
Note: GCC sợ đấng này lộn từ kinh điển, academic, với
từ cổ điển, classic.
Bởi thế, Calvino mới hỏi và cùng lúc,
trả lời bằng cả 1 cuốn sách: Tại sao chúng ta vưỡn
đọc cổ điển? Và cái câu khen bảnh nhất 1 cuốn sách
vừa mới ra lò, là đã thành cổ điển!
Đã 1 bạn Cà lầm “kinh điển” với “kinh nguyệt”,
khiến cả 1 một diễn đàn Bi Bi Xèo lầm theo.
Giờ đến đấng này!
http://www.tanvien.net/Notes/why_classic.html
http://www.tanvien.net/Review/Taisao_Codien.html
Đấng
này, cũng 1 thứ quái nhân, theo GCC. Còn
nhỏ, theo cha mẹ di cư vô Nam, rồi di cư qua Mẽo, rồi được Mẽo
cho ăn học, rồi trở về mái nhà xưa, tức Hà Nội, rồi
nhìn thấy hai vết đạn của thực dân Pháp trên
thân thể Em [Hà Nội], khóc ròng, và khi
được 1 đấng bạn văn VC hỏi, về đâu, Người trả lời, Hà Nội
chứ đâu nữa!
Người đem sách về cho đầu nậu “tóc bạc” in,
rồi viết bài thổi, đấng này chơi ngay 1 bài
viết của GCC, chán thế!
Ở hay Về ?
Kinh... Nguyệt là gì?
Tại
sao đọc Kinh... Nguyệt?
Hà,
hà!
Một cuốn
sách, và 1 bài viết quan trọng.
Bài
viết mở ra cuốn Stranger Shores, tập tiểu luận của Coetzee.
Coetzee mở ra cuốn
Những bến bờ lạ lẫm hơn, Stranger Shores, bằng bài viết
Cái Gì Là Cổ Điển ? thật tuyệt.
Bài này Mít chắc thú hơn bài của
Calvino, vì ông chú trọng tới cái thời của
riêng chúng ta, khi đọc một cổ điển.
Theo cái kiểu, sống sót Lò Cải Tạo, một
buổi chiều nơi xứ Mẽo, nhớ Sài Gòn, bèn lôi
Nguyễn Du ra đọc!
[Gấu sẽ đi luôn cả hai bài, trong khi chờ... ,
en attendant M mail!]
Coetzee dẫn lời nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của thời
của riêng chúng ta, nhà thơ Ba Lan Zbigniew Herbert.
Ông này phán: đối nghịch của cổ điển thì
không phải là hiện đại, mà là man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man rợ” không hẳn một đối
nghịch, mà là một đối đầu [not so much an opposition as
a confrontation].
Từ đó suy ra, những “Thơ ở đâu xa”, “Tôi
cùng gió mùa”… đều là… cổ điển: Chúng
dám đối đầu với man rợ.
[Ui chao, đọc lại mới thấm dữ. Khen nó, kiếm cho
được địa chỉ, để gửi sách tặng nó, mong mỏi gặp nó.
Gặp, nó đếch thèm bắt tay!]
*
Câu trả lời
của Coetzee, cho câu hỏi, “Cổ điển là cái gì?”:
Cổ điển là cái sống sót, … that the classic is what
survives…. the classic defines itself by surviving… what survives the
worst of barbarism, surviving because generations of people cannot afford
to let go of it and therefore hold on to it at all costs – that is the
classic.
Cái sống sót những gì tệ hại nhất của
man rợ, sống sót theo cái nghĩa, hết thế hệ này
qua thế hệ khác, con người không thể chịu nổi chuyện buông
xuôi, cố ôm lấy nó, không thể cho man rợ thắng
thế, cái đó gọi là cổ điển.
Gấu này tin rằng, cái gọi là cổ điển của
Mít, chính là văn chương Miền Nam trước
1975. Chỉ có nó sống sót trong trận chiến "cổ điển
vs man rợ"!
Ba cái
thằng bỏ chạy bợ đít VC, mà là… sống sót
ư?
*
“Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino gồm những bài
viết về một số tác giả. Cách đọc “Bác sĩ Zhivago”
của ông, trong bài “Pasternak và cách mạng”,
thật là tuyệt. Ông không đồng ý với Lukacs,
khi tin rằng, chẳng phải ngẫu nhiên mà thế kỷ của chúng
ta là của truyện kể, récit, của tiểu thuyết ngắn [roman
court, không phải sử thi], của những chứng từ có tính
tiểu sử, tự thuật [témoignage autobiographique]. Calvino viết câu
sau đây - có thể là để vinh danh một số câu văn
thần sầu của… Gấu, [vừa thôi cha nội!], thí dụ như câu:
"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành
phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình
đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần
đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái
phần đời đó mới đáng kể", hay câu "Những ngày Mậu Thân
căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ
bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng
khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng
với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu", [thì đã nói rồi, cái
đám bỏ chạy làm sao viết nổi những câu như thế, và
đây chính là điều Calvino "ngộ" ra, khi không
đồng ý với phê bình gia tổ sư Mạc xít Lukacs,
khi viết]: de nos jours, une prose narrative véritablement moderne
ne peut faire porter sa charge poétique que sur le moment….
Cái gọi là ‘sur le moment’, vào
đúng khoảnh khắc đó, đám
bỏ chạy làm sao có?
Zbigniew Herbert
Why The Classics
WHY THE CLASSICS
I CHOSE
THIS POEM (1) after some hesitation. I do not consideration the best
poem I've written, nor is it one that can represent my poetic program.
I think it does have two virtues: it is simple, dry, and speaks of matters
that are truly close to my heart, without superfluous ornament or stylization.
The poem has a three-part structure. In the
first part, it speaks of an event taken from the work of a classical
author. It is, as it were, a note on my reading. In the second part I transfer
the event to contemporary times to elicit a tension, a clash, to reveal
an essential difference in attitude an behavior. Finally, the third part
contains a conclusion or moral, and also transposes the problem from the
sphere of history to the sphere of art.
You don't have to be a great expert on contemporary
literature to notice its characteristic feature-the eruption of despair
and unbelief. All the fundamental values of European culture have been
drawn into question. Thousands of novels, plays, and epic poems speak
of an inevitable annihilation, of life's meaninglessness, the absurdity
of human existence. I don't mean to subject pessimism to easy ridicule
if it is a response to evil in the world. However, I think that the black
tone of contemporary literature has its source in the attitude its writers
take to reality. And that is what I tried to attack in my poem.
The Romantic view of the poet who bares his
wounds, relates his misfortunes, still has many supporters today, despite
changes in style and literary taste. It is universally held that the
artist has a sacred right to ostentatious subjectivism, to a display of
the tender "I." If a school of literature existed, one of its basic exercises
should be description not of dreams but of objects. Beyond the artist's
reach, a world unfolds- difficult, dark, but real. One should not lose the
faith that it can be captured in words, that justice can be rendered it.
Very early on, near the beginning of my writing
life, I came to believe I hat I had to seize on some object outside of
literature. Writing as a stylistic exercise seemed barren to me. Poetry
as the art of the word made me yawn. I also understood that I couldn't
sustain myself very long on the poems of others. I had to go out from myself
and literature, look around in the world and lay hold of other spheres of
reality.
Philosophy gave me the courage to ask primary
questions, fundamental, basic questions: does the world exist, what is
its essence, and can it be known? If this discipline can be made useful
to poetry it is not by translating systems but by recreating the drama
of thought.
I do not turn to history to draw from it
an easy lesson of hope, but to confront my experience with that of others,
to acquire something I might call universal compassion, and also a sense
of responsibility, responsibility for the state of my conscience.
It is an old dream of poets that their work
may become a concrete object like a stone or a tree, that what they make
from the material of language- itself subject to constant change-may
acquire a lasting existence. One of the ways to achieve this, it seems
to me, is to cast it far away from oneself, to erase the ties that connect
it to its creator. This is how I understand Flaubert's recommendation: "The
artist must be in his work as God is in nature."
1966
Lời dẫn:
Đoạn văn dưới đây đề cập tới một số truyện của tôi,
được trích từ một bài viết về Văn Học Việt Nam tại Hải Ngoại của ông Hoàng Ngọc Hiến,
nhà phê bình văn học, hiện cư ngụ tại
Hà Nội. Tôi chưa được hân hạnh quen biết
hay gặp gỡ ông Hoàng Ngọc Hiến nên chưa có
cơ hội xin phép trích đăng đoạn văn này. Tôi
xin mạn phép tác giả lấy từ trang nhà của Việt
Báo Online. Việt Báo Online đã đăng bài
phê bình này trong nhiều kỳ báo. Quý
vị độc giả muốn có toàn văn bài viết xin vào
www.vietbao.com số ngày 30 tháng 7 năm 2001 và các
số kế tiếp. ( ST )
[Trích trang net của Song Thao].
GCC, ở Xứ Lạnh như hắn, đã từng gặp gỡ băng đảng
của hắn, đã từng làm MC ca ngợi vinh danh sách
& thơ của bạn bè hắn, và đã từng là
người, nhà văn hải ngoại đầu tiên, về Hà Nội,
yết kiến nhà phê bình nhớn VC, HNH, và
được ông ta tặng bản văn viết về bộ mặt Mít lưu vong,
trong đó ca ngợi ngất trời nhà văn hải ngoại ST, và đã từng lụi cụi
type bài viết cho đăng trên Tin Văn, cùng lúc
trên Việt Báo, vậy mà hắn vờ hẳn!
Hoàng
Ngọc Hiến
[NQT chụp tại nhà riêng của ông,
tại Hà Nội, Tháng Sáu, 2001].
http://www.tanvien.net/tg3/ho_so_mot_bai_viet.html
Hồ Sơ Một Bài Viết
Miễn xong một “sô”
(Vài nhận xét về Văn Học Hải Ngoại của Hoàng Ngọc Hiến) [I]
Cảm giác của tôi sau khi đọc chuyên
luận được tài trợ bởi trung tâm William Joiner của Hoàng
Ngọc Hiến là rất hụt hẫng. Tôi tự hỏi: kết quả của
một công trình nghiên cứu gây vô số
tranh luận, kiện tụng hàng năm trời, rốt cuộc chỉ là
một bài viết sơ sài vậy sao?
[Trích bài viết của Phan Nhiên Hạo,
trên talawas].
Tuy
nhiên, giữa lúc talawas đăng hàng loạt bài
khảo luận như của Hoàng Ngọc Hiến dạy đời về cách làm
văn chương hay dạy hải ngoại về văn học hải ngoại, mà khi
đọc xong, thấy tức giùm cho talawas. Không hiểu talawas
nể trọng cái bằng cấp giáo sư tiến sĩ hay tài
năng mà hết đăng tin Hoàng Ngọc Hiến thăm đại học Mỹ,
hết phỏng vấn tốn công tốn sức để rồi lại lại khổ công
đính chánh, xin lỗi.
[Trích
bài viết của Trần Hoài Thư, trên talawas].
ĐỌC VĂN
HỌC HẢI NGOẠI
Hoàng Ngọc Hiến
Lời dẫn:
Đoạn văn dưới đây đề cập tới một số truyện của tôi,
được trích từ một bài viết về Văn Học Việt Nam tại Hải Ngoại của ông Hoàng Ngọc Hiến,
nhà phê bình văn học, hiện cư ngụ tại Hà
Nội. Tôi chưa được hân hạnh quen biết hay gặp gỡ ông
Hoàng Ngọc Hiến nên chưa có cơ hội xin phép
trích đăng đoạn văn này. Tôi xin mạn phép
tác giả lấy từ trang nhà của Việt Báo Online. Việt
Báo Online đã đăng bài phê bình này
trong nhiều kỳ báo. Quý vị độc giả muốn có toàn
văn bài viết xin vào www.vietbao.com số ngày 30 tháng
7 năm 2001 và các số kế tiếp. ( ST )
[Trích trang net của Song Thao].
Bài
viết của HNH, đăng lần đầu, trên trang Tin Văn của NQT, khi
đó còn nằm nhờ bên tờ VHNT trên lưới của
Phạm Chi Lan.
Trong khi đăng từng kỳ trên Tin Văn, tôi
[NQT] có cho đăng song song trên Việt Báo online.
Tôi tin là ‘me-xừ’ Song Thao biết rõ
điều này. Lý do nào, ông chỉ nhắc tới
Việt Báo Online, mà vờ đi Tin Văn?
Liệu có phải vì những dòng, ghi
trên đầu bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, sau đây:
Lời người giới thiệu: Nhân chuyến về
Hà Nội, được gặp giáo sư Hoàng Ngọc Hiến và như
để kỷ niệm buổi trưa hôm đó, ông tặng bài viết
sau đây. Ông cho biết thêm, đây chỉ là bản
sơ thảo.
Cám
ơn tác giả, và xin trân trọng giới thiệu bạn
đọc.
NQT
Liệu, cái
chuyện ‘tôi chưa hân hạnh, và chưa được gặp
gỡ’ của ST, và cái chuyện dám viết về một tác
giả hải ngoại chưa từng gặp gỡ - như ST - như HNH đã
từng dám viết, là một chi tiết rất ư là đáng
kể và đã 'sơ ý, hơi bị quên đi', ở một
số người viết về ông, chăng?
Cũng nên nhớ thêm, một điều nữa, về Hoàng
Ngọc Hiến, là, ông đã từng "chúc dữ" Nguyễn
Huy Thiệp :Đừng may mắn, em ơi, đừng may mắn! [nhại nhạc TCS]. ['Tôi
không cầu chúc ông thuận buồm xuôi gió",
tôi nhớ ông đã từng viết về NHT như vậy]
Liệu, nếu không có bản đăng trên
Tin Văn, sẽ vẫn có bản đăng trên talawas? (1)
Trong những kỳ tới, NQT sẽ trở lại với bài viết
của HNH, và đặt nó song song với bài Nếu Đi
Hết Biển, của Trần Văn Thuỷ.
Chú thích: (1) V/v bản
đăng trên talawas. Tin Văn mới nhận được mail:
Hi,
HNH gửi
bài đó cho talawas và cho biết rằng bài
viết này chưa đăng chính thức ở đâu.
Cái chuyện HNH cho đăng
bài của ông ta, trên talawas, là mãi
sau này, trong khi cũng bài đó, được đăng trên
VHNT trên lưới của Phạm Chi Lan, do GCC post, cùng lúc
cho đăng trên Việt Báo, là từ hồi ông Bành
Tổ.
Nếu như HNH không cho phép thì ông
ta đã hê lên rồi. Đây là cái
trò nhát nhúa, để tránh trách
nhiệm.
Đám VC ở trong nước, chúng sợ như thế thì
còn có lý.
Giả như GCC chỉ post bài của HNH, trên e-VHNT
của PLC, liệu Song Thao có bệ về trang của ông ta không?
Bài của GCC, đăng trên VHNT, PCL cho Gấu
riêng 1 account, độc lập.
GCC đã phán rồi, có thằng nào
có chút đạo hạnh đâu, làm sao viết?
Ông số 2 Thái Thượng Hoàng,
Trùm cả 1 bộ lạc, cả 1 cơ sở báo chí hải ngoại,
chôm thơ ông số 1. Ông thi sĩ ngồi bên tách
cà phê, chôm thơ TV, nhưng "thú thực", đọc
trên Thời Tập.
Hai tên khố rách áo ôm, ỷ vào
cái bằng trốn lính, đã không thấy nhục
vì sống sót cuộc chiến, Lò Cải Tạo, vậy mà
lên giọng tố cáo, thằng đó đâu phải dân
phê bình, không phải dân khoa bảng như chúng
ông.
Cả 1 tầng lớp "kẻ sĩ" như thế, làm sao mà không
mất Miền Nam cho được.
Rồi cả cái đám được Ngụy cho đi du học,
có thằng nào có tác phẩm?
Steiner nhờ ông bố khôn quá, đưa được
cả gia đình, trong chuyến tầu chót rời Cụu Lục Địa,
nên thoát chết ở Lò Thiêu, nhưng suốt 1 đời
đau nỗi đau sống sót. Primo Levi vặc lại Ông Giời, tại sao
tôi được chọn để thoát chết Lò Thiêu. Cái
lũ tinh anh Miền Nam, được Ngụy cho đi du học, nhờ vậy thoát chết
trong cuộc chiến, thì cũng giống như Steiner, nhưng không
1 tên nào cảm thấy nỗi đau sống sót cả. Tếu thế. Cũng
tếu thế là những tên như tên khốn Lang Băm, Thầy Đạo.
Học Triết, là thứ dễ nhất, vì chỉ cần học thuộc cours của
Thầy là đậu. Chúng chọn học Triết là để mỗi năm mỗi
đậu, để được hoãn dịch. Có ghê gớm gì đâu
mà khoe hoài. Do thầy như thế, học như thế, nên ra đời
không tên nào viết nổi bài viết, cứ bài
thầy nhai đi nhai lại. Những nhà văn thứ thiệt của Miền Nam trước
1975, có tên nào xuất thân Văn Khoa đâu?
Cái chết của chúng, mà có tên nào
nhận ra. Cái chúng viết, do với cái Gấu viết, khác
hẳn nhau, bởi là vì với Gấu, mỗi bài viết là
1 có 1 cái gì đó, ở trỏng. Đừng có nghĩ
là Gấu tự sướng. Hai mươi năm trời, 1 mình lụi cụi dịch, viết,
là để trình ra điều như trên, tự sướng gì mà
mất nhiều thời giờ như thế? Năm ba phút là đủ!
Một
tên, nhờ Gấu lụi cụi type bài viết, mà thấy mình
được 1 đại giáo sư Vẹm xoa đầu, mừng quá, lọ mọ lôi
về blog, không thèm cám ơn cái kẻ mất công
ngồi gõ lọc cọc, “quên” không cám ơn cả cái
vị đại giáo sư, đạo hạnh như thế, làm sao viết, dù
chỉ 1 thứ sáng tác tầm phào, bá láp?
Tên này, nhờ xứ lạnh mà được thoát
kiếp tù VC, cả 1 đời không 1 lời cám ơn xứ lạnh,
dân xứ lạnh, chỉ mong được lũ Yankee đoái hoài,
y chang tên số 2. Chính hắn đã từng khoe được Mẽo
nhận, nhưng do bớt kinh phí con mẹ gì đó, nên
không đi Mẽo được!
Bẩn thật!
Đâu có phải là xứ lạnh không
biết những điều tụi khốn làm, cách sử sự khốn nạn của
chúng đâu? Trên TV, GCC đã từng kể, khi
còn ở Trại Tị Nạn, đã từng cứu 1 số người, bị Canada
từ chối, vì họ nghi, những người này, đến Canada, có
dịp là chuồn đi Mẽo.
Auden, nhà thơ Ăng Lê, sư phụ của Brodsky,
chẳng mắc mớ cái con mẹ gì đến sống sót, lò
thiêu… vậy mà đâu có thoát… đau.
Ông phán, những chức vụ mà tôi
giữ - ông qua Mẽo sống – không làm sống lại được
chỉ 1 người Do Thái.
Gấu thực sự không tin có thứ văn chương vô
hại, chỉ là đồ chơi.
Bạn chọn viết, thì cũng dễ, nhưng chính cây
viết chọn bạn, và nếu nó không chọn bạn, thì
phải viết sao cho
nó chọn bạn.
Có lẽ chân lý văn chương đơn giản chỉ có
vậy, "viết, là/và để cây viết chọn bạn".
all the positions I took in the thirties didn't save a single
Jew. These writings, these attitudes only help oneself.
Auden
Tất cả những chức vụ mà tôi giữ thập niên
30 không cứu được 1 mạng Do Thái. Những cái viết,
thái độ này chỉ giúp bản thân.
Nhưng chính ông, trong bài tưởng niệm
Yeats đã chỉ ra thơ "dùng để làm gì":
Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honours at their feet.
Time that with this strange
excuse
Pardoned Kipling and his views,
And will pardon Paul Claudel,
Pardons him for writing well.
In the nightmare of the dark
All the dogs of Europe bark,
And the living nations wait,
Each sequestered in its hate;
Intellectual disgrace
Stares from every human
face,
And the seas of pity lie
Locked and frozen in each
eye.
Follow, poet, follow right
To the bottom of the night,
With your unconstraining
voice
Still persuade us to rejoice;
With the farming of a verse
Make a vineyard of the
curse,
Sing of human unsuccess
In a rapture of distress;
In the deserts of the heart
Let the healing fountain start,
In the prison of his days
Teach the free man how to praise.
February 1939
Thờ phụng ngôn ngữ và
tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí
trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.
Thời gian với nó là
lời bào chữa lạ kỳ
Tha thứ cho Kipling và những quan điểm của ông
ta
Và sẽ tha thứ cho… Gấu Cà Chớn
Tha thứ cho nó, vì nó viết bảnh quá!
Trong ác mộng của bóng
tối
Tất cả lũ chó Âu Châu sủa
Và những quốc gia đang sống, đợi,
Mỗi quốc gia bị cầm tù bởi sự thù hận của
nó;
Nỗi ô nhục tinh thần
Lộ ra từ mỗi khuôn mặt
Và cả 1 biển thương hại nằm,
Bị khoá cứng, đông lạnh
Ở trong mỗi con mắt
Hãy đi thẳng, bạn thơ
ơi,
Tới tận cùng của đêm đen
Với giọng thơ không kìm kẹp của bạn
Vẫn năn nỉ chúng ta cùng tham dự cuộc chơi
Với cả 1 trại thơ
Làm 1 thứ rượu vang của trù eỏ
Hát sự không thành công của
con người
Trong niềm hoan lạc chán chường
Trong sa mạc của con tim
Hãy để cho con suối chữa thương bắt đầu
Trong nhà tù của những ngày của anh
ta
Hãy dạy con người tự do làm thế nào
ca tụng.
Mit Critic
Ông cũng không phải
là nhà phê
bình văn học như ông Cuốc
Kức thì làm sao mà đòi
đào mả tên tuổi các
ông bà nhà văn nhà
thơ hải ngoại.
LB
Tất cả những nhà văn nhà
thơ hải ngoại, do
GCC lưu vong trễ, vừa ra được 1 phát là đều tìm
cách làm quen, như đã kể, nhiều lần.
Diễn đàn nào Gấu cũng đều có
mặt, có thể nói, nào talawas, nào
hậu vệ, nào cánh én, nào gió đông...
Chỉ đến khi cả 1 bầy chó xúm lại
tính làm thịt con sói cô đơn, Gấu
mới đành phải bò về núi Tản Viên.
Nhưng, vấn đề ở đây, là, cái
gì làm cho lũ khốn này khốn nạn như thế?
Đạo hạnh, đúng như Brodsky chỉ ra.
Đạo hạnh liên quan đến đẳng cấp, đến sống
sót, đến Cái Đẹp Cứu Chuộc Thế Giới.
Một khi bạn viết ra hay đọc được bản văn, 1 bài thơ, cực bảnh là bạn biết rằng cái
giờ phán quyết cuối cùng đã được vặn lui
đi 1 phút phù du!
Đó là ý nghĩa bài thơ
Bài Thơ Chống Lại Tận Thế của Szymborska
Wislawa Szymborska's "Vermeer"
A poem against the apocalypse
Một bài thơ chống lại Tận Thế
Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent
Life, A.R. | NEW YORK
I HAPPENED upon this poem on
the New York Review of Books's website, and was startled by
how beautifully Wislawa Szymborska captures the dance between
motion and stillness in Vermeer's "The Milkmaid"—a moment frozen
yet continually happening.
Vermeer
So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration
keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn’t earned
the world’s end.
I love the shape of the poem—it thins
like a stream of milk, pouring itself out. I also love the tension
she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical
but is also slippery.
"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated
from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak
Note: Bài thơ này,
TV đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng Việt, của TV, cũng phân biệt ra
hai từ "W", và "w".
GNV cũng đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới thú chứ!
Một khi mà người đàn
bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình
ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái
sự tận cùng của thế giới.
Source
I love the shape of the poem—it
thins like a stream of milk, pouring itself out. I also love the
tension she sets up between the "W" and the "w", which appears hierarchical
but is also slippery.
Tôi mê cái
dáng của bài thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó
đổ nó ra, chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng
mà thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm
lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn trượt.
Có thể nói, như trường hợp NXT trên
đây, nhà văn nhà thơ hải ngoại nào,
Gấu cũng mặt dày tìm cách làm quen
trước!
Cái băng đảng văn học đầu tiên, ra
hải ngoại Gấu mặt dày làm quen, là băng đảng
ở Montreal.
Gấu đang sinh hoạt VHNT
lé, lác xệch, trợn ngược cả mắt lên, vì
nền VHNT hải ngoại!
To be a litterateur is to live under the sign of mere intellect,
just as prostitution is to live under the sign of mere sex.
[W. Benjamin: Schriften II, 179].
Just as a prostitute betrays love, a litterateur betrays the
mind.
Hannah Arendt: Tựa, cho cuốn Illuminations của Walter
Benjamin.
[Nhà văn sống với chữ, thì cũng giống như bướm
sống với cái số ta.
Và nếu như thế, bướm phản bội tình yêu,
cũng như nhà văn phản bội cái đầu của mình].
Hồi mới qua, nhân đám này xuống
Toronto chơi, ăn uống ở nhà 1 người bạn, dân địa
phương, Nguyễn Tiến Văn kéo Gấu tới, Gấu cũng ngại, anh nói,
ngại cái gì, phải thế thì mới "dấn thân,
kíu nước Mít.... " được chứ, Gấu nghe có lý,
bèn tới, và ngay lần gặp đầu tiên như thế, Gấu
hỏi thẳng, có phải tờ báo của các anh là
của Mặt Trận. Một anh trong bọn, nhận liền. Cảm động vì sự
chân thực của anh, Gấu bèn viết cho tờ báo này,
thay vì tờ LV ở Toronto.
Bài điểm cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo
Ninh, đăng lần đầu
ở Nắng Mới, của băng đảng này.
Rồi mấy bài thơ. Rồi nhận làm MC
quảng cáo sách, thơ của băng này.
Nhớ, lần Hoàng Ngọc Hiến đi Mẽo nhận tiền
Xịa "vẽ bộ mặt lưu vong" của Mít, trong lần về Hà
Nội, Gấu được ông tặng copy bài viết, cảm tình
tri ngộ, Gấu cho đăng, trên Tin Văn và cùng lúc
trên Việt Báo.
Đấng Song Thao, thuộc băng này, vì
được HNH xoa đầu tới quá, bèn lôi về trang
của anh ta, nhưng thanh minh thanh nga, [chắc là vì sợ bị lũ chống cộng điên
cuồng xin tí
huyết, vì dám quen VC ?], tôi không
có quen ông này, nhưng thấy bài này
đăng ở Việt Báo
nên lôi về.
Anh ta biết rõ ràng, từ nguồn Tin
Văn, nhưng vờ.
Đạo hạnh như thế, làm sao…. mỹ?
Đấng ST, chuyên viết phiếm, đọc ba chớp ba nhoáng
báo lá cải của mũi lõ, rồi phăng ra, nghe
nói đã sản xuất, vài ba tá, tác phẩm.
Bạn của ông, là Du Tử Cà gọi,
đây là võ công Ba Tư, Càn Khôn
Đại Nã Di cái con mẹ gì đó, kinh thế!
Canada còn 1 ông nữa, cũng chuyên
viết kiểu này, và giữ 1 mục tạp ghi cho 1 tờ báo
ở Mẽo. Một bữa, gấp quá, không kịp sào nấu,
phăng phiếc, ông
chơi đại 1 bài viết của 1 nữ tác giả. Bà
này, bạn cho biết,
bèn la lên,
và giải thích, tôi đâu có muốn
la, nhưng ông ta có cả 1 lố tác phẩm, nếu không
la lên, thì người ta lại nghĩ, tôi mới là
kẻ cắp!
Thú nhất, là, ông này,
viết thư xin lỗi, và thú thực, đúng như GCC
vừa kể lại!
Cái kiểu viết này,
vào thời internet, viết hoài còn hoài.
Đừng nghĩ là GCC phán, cả 1 lũ ăn cắp, nhưng mà thời nào văn chương
đó!
Trang TV thì cũng làm thế, nhưng ghi
rõ nguyên tác, nguồn.
Ông Trùm của thứ tạp
ghi kiểu này, mà không hề ăn cắp, là Robert
Walser.
Cái tay tác giả bài Bạt cho cuốn
GCC mới mua, vừa mới ra lò, 2016, cho biết, Walser cũng
sống bằng nghề ký sự gia, viết phiếm, nhưng phiếm của
ông khủng lắm, từ từ Tin Văn giới thiệu vài bài!
Gấu, nhà văn
Notes About Brodsky
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky
chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa,
và hẳn là vì lý do này, ông
tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của
thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống
người, khám phá ra quá khứ như là một
mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô
mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì
sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý
phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag,
điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao
lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài
bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án
phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là
khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài
Một con người đàng hoàng, 1 nhà
văn có tí đạo hạnh, thì phải cho biết nguồn
gốc, thơ văn trích dẫn.
Câu thơ của Joseph Huỳnh Văn, tên thi sĩ
ngồi bên tách cà phê đọc trên Tin
Văn, vậy mà phịa ra là, hình như đọc trên
Thời Tập của Viên Linh.
Đấng “Vua Phiếm”, biết rõ nguồn bài viết
của HNH, là từ Tin Văn, vì GCC cho đăng cùng
lúc trên Tin Văn và Việt Báo, chính
GCC là người "type" bài viết, và cho đăng trên Việt Báo.
Hắn không biết ơn thì
chớ, còn vờ luôn nguồn.
Nguyễn
Du nói, tâm bằng ba tài.
Brodsky, trong diễn văn Nobel, mỹ là mẹ của
đạo hạnh (1).
Kafka, kỹ thuật là “hữu thể”, [être],
của văn chương.
Có vẻ như mấy ông này ăn nói
ngược ngạo, giữa họ, nhưng, theo Gấu, cả ba, “tâm” “kỹ thuật”,
“mỹ” đều liên quan tới, chỉ một câu hỏi, ‘viết thế nào’,
[comment écrire].
Chính vì thế mà
Brodsky mới nói tiếp, ‘bad style’ [viết dở], là do
cái tâm khốn nạn, cái tà ma ác
quỉ gây ra!
(1) In his Nobel Prize lecture, Brodsky
sketches out an aesthetic on the basis of which an ethical public
life might be built. Aesthetics, he says, is the mother of ethics,
in the sense that making fine aesthetic discriminations teaches one
to make fine ethical discriminations. Good art is thus on the side of
the good. Evil, on the other hand, "especially political evil, is always
a bad stylist" (On Grief, p.49).
Coetzee: Joseph Brodsky
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch
ra một mỹ tín mà cuộc sống đạo đức của dân chúng
sẽ được xây dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như
ông nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con
người càng trọng mỹ tới đâu thì sàng lọc
ra cái vô đạo tới đó. Và nếu như vậy, nghệ
thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt. Cái ác,
cái tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là
cái ác chính trị, luôn luôn là
một thứ văn phong tồi tệ”
Nguồn
Mit Critic
Ông anh nhà thơ
ngồi Quán Chùa, đọc, bật cười, phán, mày
viết về bạn mày thì như thế này, mà mày
viết về NS thì như thế kia, làm sao chúng không
chửi. Mày viết về bạn mày đúng như mày
viết về NS, thì thành nhà phê bình
được đấy.
Mé sau Chùa
Long Vân, Parksé.
Gấu nằm ngủ trưa dưới tượng Quan Công.
Dậy, xuống mé sông Mekong tắm.
Loạt bài này, GCC
viết, theo tinh thần, nếu bạn ngồi quá lâu bên bờ sông,
thì thể nào cũng sẽ nhìn thấy xác kẻ thù
lềnh bềnh trôi qua. Nhưng trong một lần, tắm sông Mekong, trong
khi chờ dịp qua Thái Lan, vô Trại Tị Nạn, Gấu nhìn thấy,
không phải xác của kẻ thù, hay của bạn quí, nhưng
mà là của… GCC!
Borges viết, đây là
1 đề tài xưa như trái đất: Kẻ Khác. Một đề
tài mà Stevenson rất mê, vẫn theo ông.
Lê Kim hay Hà Ích, thì cũng vẫn chỉ là
một. Trong tiếng Anh, Kẻ Khác có tên là fetch, hay dịch 1 cách văn vẻ,
thì là wraith of the living.
Và tôi [Borges] nghi ngờ, một trong những tên gọi, désignation,
của Kẻ Khác, là “alter ego”. Cái bóng ma là
kẻ khác đó, là hình ảnh của chính bạn,
phản chiếu từ lưỡi dao [đâm sau lưng chiến sĩ], hay từ cái
mặt ao, lưu cữu từ bao thế kỷ, ở 1 cái làng Bắc Kít,
có một thằng cu Gấu Bắc Kít, đầy Cái Ác Bắc Kít….
The Double
Suggested or stimulated by reflections
in mirrors and in water and by twins, the idea of the Double is
common to many countries. It is likely that sentences such as A friend
is another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger,
which means "double walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man
to bring him to his death; there is also the Scottish word
wraith for an apparition
thought to be seen by a person in his exact image just before death.
To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad "Ticonderoga"
by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this theme. There is also
the strange picture by Rossetti ("How They Met Themselves") in which
two lovers come upon themselves in the dusky gloom of a woods. We may
also cite examples from Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky,
Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The
Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese
Ghosts).
The ancient Egyptians believed
that the Double, the ka, was a man's exact counterpart,
having his same walk and his same dress. Not only men, but gods and
beasts, stones and trees, chairs and knives had their ka, which was invisible
except to certain priests who could see the Doubles of the gods and were
granted by them a knowledge of things past and things to come.
To the Jews the appearance of one's Double was not
an omen of imminent death. On the contrary, it was proof of having
attained prophetic powers. This is how it is explained by Gershom
Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the story of a man who,
in search of God, met himself.
In the story "William Wilson"
by Poe, the Double is the hero's conscience. He kills it and dies.
In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel stabs his portrait
and meets his death. In Yeats’s poems the Double is our other side,
our opposite, the one who complements us, the one we are not nor will
ever become.
Plutarch writes that the Greeks
gave the name other self to a king's ambassador.
Kẻ
Kép
Ðược đề xuất, dẫn dụ, huých huých
bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song sinh,
ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong
nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là
một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư tưởng
Hãy Biết Mình
của trường phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong
tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger,
có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”. Trong
tiếng Scotland thì là từ fetch,
cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông
bạn quí này đem cái chết đến cho bạn. Còn
có từ wraith, tiếng Scottish, có
nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn
thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí
là Gấu”, ngồi bờ sông lâu thể nào cũng
thấy xác của mình trôi qua, quả đáng ngại
thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương "Ticonderoga"
của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này.
Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào,
"How They Met Themselves"], hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu
rừng âm u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí
dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred
de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror
of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the
“ka”, là cái phần đối chiếu đích thị của 1
con người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng
chiếc áo dài. Không chỉ con người mà thần
thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có
“ka” của chúng, vô hình, trừ một vài ông
thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những
vị thần và được thần ban cho khả năng biết được những sự vật
đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép
không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ
lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm
sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, như Võ Ðại
Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi,
là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu
chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?]. Ngược
lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành,
đạt được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách
giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu
chuyện một thằng cha GNV, suốt đời tìm hoài Thượng
Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Note: Trong bài viết khép
lại Ways of Escapes, Graham Greene kể, về những lần ông đụng
độ với Kẻ Khác, trong đời.
Tin Văn đang nhẩn nha đọc, hầu độc giả.
Thì cũng là 1 cách phúc
đáp Thầy Cuốc, có mấy tên vừa lùn vừa
lé như mi!
Lý
do là trang của ông chỉ một mình ông
tự sướng.
LB
Gấu
đề nghị, mi thử làm 1 trang văn học, rồi tự sướng một năm, thay
vì 20 năm, coi được không?
Hết núp váy Bà này, tới Bà
khác [Bà nào thì mi biết], thì
cũng được đi, nhưng, đã thế, còn nói xấu đàn
bà 1 cách thật nhơ bẩn, mà toàn những vị
có tác phẩm thật xứng đáng.
Thú thật, GCC chưa thấy/chưa gặp 1 thằng đàn ông nào
nói xấu đàn bà mà sống cho ra hồn, có
tí đạo hạnh cả!
Mit Critic
Ông
cũng chả có công mẹ gì trong cái
vụ bà Tám ló ra ló vào
văn chương này cả. Lý do là trang của ông
chỉ một mình ông tự sướng. Bà Tám
thì gửi bài cho nhiều nơi khác như Da Màu,
Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán Bản Thảo, Sài
Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác. Như vậy bà
Tám được nhiều nơi khác giới thiệu cùng một
lúc, mà ông nào có phải là
nhà phê bình và là chủ bút
một tờ báo nào đâu mà ông bảo là
ông xúc bà Tám lên.
LB
Tên LB này quả
là 1 độc giả hết sức “cần mẫn” của TV.
Trong 1 dịp tự hào về
cái chiều dài 20 năm làm trang TV,
Gấu quả có khoe, đã khám phá ra
khá nhiều tác giả, trong có vị chủ trang
blog Bà Tám nói trên, và Gấu
thú thực, rất hãnh diện về chuyện này.
Nhưng cái sự nổi tiếng
của Bà Tám, không có Gấu ở
trỏng.
Thú thực cái trò
có bài đăng búa xua ở những nơi
như trên, chỉ làm bẩn mắt độc giả, vì,
vừa mới đọc ở đây, lại phải đọc ở kia, hay đã khổ,
mà dở thì thực là khốn nạn.
Steiner, trong 1 lần xoa đầu
Sartre, lôi đúng câu mà Gấu
trích dẫn, trong bài viết về LMH, “Bếp Lửa”
trong văn chương:
Sartre (Situations, I) nhắc
tới "ý hướng tính", coi đây là
tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl đã tái
tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự
quyến rũ vào trong những sự vật. Ông tái
tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những nhà
tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng
trùng, với những bến cảng, nơi trú ẩn của ân
sủng và tình yêu."
LMH. Lần đầu tiên vợ chồng
Gấu gặp gỡ gia đình, trong chuyến ngao du Paris
cuối thiên niên, Bà nhắc tới bài
biết của Gấu đăng trên Văn Học, và nói, làm
sao mà ông lại kiếm ra đúng câu văn
cháu giấu thật kỹ ở trong đó, không hề tin rằng
có người tìm ra nó, để mà khen?
Cũng thế, là với Bà
Tám. Câu văn mà Gấu, đọc 1 phát,
đúng là bị chấn động khủng khiếp, nhưng khác
câu của LMH, ai cũng đọc nó, không thể bỏ
qua, nhưng thực sự, chưa đọc:
Trước khi thấy biển tôi
thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi
mộ của người tị nạn.
Bà Tám này,
đúng ra là rất sợ nổi tiếng, theo Gấu.
Có lần chính Bà
thú nhận, tôi sợ đau, nên không
dám đụng vô những chỗ đau.
Và mỗi lần lỡ đụng vô,
là có 1 bản văn thật được!
GCC mới đọc 1 truyện, đúng
thứ đó.
Mời bạn nghe truyện ngắn Màu
Mắt Chưa Quên qua giọng đọc của Ngọc Phụng.
Cám ơn chị Ngọc Phụng và Gió O. Nhắn
nhỏ: Truyện hoàn toàn là tưởng tượng.
https://chuyenbangquo.wordpress.com/2016/09/06/mau-mat-chua-quen/
Thời
gian viết cho Văn Học của NMG, Gấu được Thấm Vân gửi
cho mấy tác phẩm của Bà, chắc cũng có ý
nhờ đi 1 đường điểm sách.
Thú thực, lúc đó,
Gấu không đọc được, do cái khẩu vị của mình
không hợp.
Phải đến những ngày mới đây,
tò mò theo dõi, khi được Bà yêu
cầu/ra lệnh, ta cho phép mi là bạn FB của ta,
thì mới nhận ra cái phần “ngộ nhận” của Gấu về chuyện
sex của Thấm Vân: Tác giả cũng có “giấu”, khi
đụng vô nỗi đau này.
Quái “1 phát”, là
đây chính là nội dung “thư toà
soạn” của tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire,
số đặc biệt về Lò Thiêu, lấy từ 1 câu của Melville,
“Tôi chọn đừng”.
Đây cũng là câu TTT
viết, khi “ngừng viết”, sau khi ra khỏi Trại Tù VC,
qua 1 ấn bản khác của nó:
Tôi tự hỏi khi nào tôi
lại-viết?
Truyện ngắn của HH, theo tôi, đúng
là thứ "tôi chọn đừng", như vậy, khi viết về
nỗi đau/hạnh phúc:
Tôi không tiến tới dù
chưa có người đàn ông nào làm
tôi cơ thể thèm muốn đến thế. Tôi nhớ cái
mùi đàn ông của anh đến ngây ngất. Tim
tôi vẫn đập rộn ràng khi nghĩ đến buổi sáng
dưới chân cầu. Scott thích mái tóc dài,
dáng dấp nhỏ nhắn, nước da màu mật của tôi.
Anh không ngần ngại nói với tôi điều này
và ngạc nhiên khi tôi nói thật là tôi
vẫn thường mang mặc cảm xấu xí. Màu da của anh và
màu da của tôi thường làm tôi liên
tưởng đến cà phê sữa và kem vanilla hay con ong
bầu đậu trên hoa lan trắng. Anh thường bảo, “mỗi sáng em
phải soi gương và tự bảo mình là Scott thấy em
rất là xinh xắn.” Tôi nói xa xôi, “quan hệ
làm việc không nên để lẫn tình cảm cá
nhân. Những người làm việc chung dễ ghét nhau vì
tranh tài giành chức giành quyền, tình cảm
riêng tư thường bị tổn thương và chết sớm.” Anh hay nói
đùa là tôi là hiện thân của sắt (thành
cầu) và đá (chân cầu). Anh nói nếu vợ anh
làm lương cao hơn, anh tình nguyện ở nhà nấu cơm
và viết văn. “Nếu em trở thành xếp của tôi, tôi
sẵn sàng nâng xếp lên khỏi đầu bằng hai cánh
tay tôi.” Tôi dùng một ẩn dụ của dân kỹ thuật
trả lời, “thép này đã từng đổ biết bao nhiêu
mồ hôi đấy nhé!”
Điều mà tôi muốn nói
nhưng giữ lại lời là, tôi là một phiến
đá biết sầu tư!
Đi tìm phê bình
gia Mít
Nguyễn
Viện
22 hrs ·
Có người nói tôi "ông
ăn nói tự do vậy còn muốn gì nữa?". Xin
thưa, cũng ko đơn giản. Thấy vậy mà ko phải vậy. Khi lần
đầu tiên xuất hiện trên văn đàn hải ngoại (tạp
chí Hợp Lưu đăng tiểu thuyết Đâm Sừng Vào Bóng
Tối), tôi bị đuổi việc khỏi báo Thanh Niên, dù
đó chỉ là 1 truyện tình, thậm chí hơi sến
(năm 2001). Lần thứ hai, tôi bị an ninh ép ko được cộng
tác cho BBC (năm 2005). Lần thứ ba, an ninh làm áp
lực với Thông Tấn Xã, tôi bị đuổi việc khỏi báo
Đẹp. Và từ đó đến nay, tôi vẫn được các anh
an ninh lai rai chăm sóc sức khỏe, khi thì mời làm
việc, khi canh cửa... May là chưa bị đánh hay đạp xe, quăng
mắm tôm.... (khoản này thì xin đa tạ).
Trong những lúc khó khăn nhất
của cuộc đời, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
của quý thân hữu, bạn bè... trong đó
có cả những quan chức: Nhà thiết kế Minh Hạnh, nhà
thơ Ý Nhi, bạn Hoàng Hoài Sơn (đã chết),
chị Loan (báo Pháp Luật, trung ương), các nhà
thơ Trương Nam Hương, Trần Quang Quí, Nguyễn Quang Thiều,
Trần Đăng Khoa (đưa tôi về báo Gia Đình-Xã
Hội), đặc biệt chị Phan Thanh Lệ Hằng (kính trọng), bạn
Beo - Hồ Thu Hồng (kính mến), em Phạm Tường Vân (kính
yêu), em Hồng Nga BBC (kính tín)... Tôi xin
vài dòng riêng để cám ơn nhà văn
Nguyễn Thành Phong đã giúp in tiểu thuyết Thời
Của Những Tiên Tri Giả (tác phẩm bị thu hồi). Đặc biệt
cám ơn vợ chồng Dương Minh Long - Từ Phương Thảo, khi tôi
ngặt nghèo nhất về cơm áo, đã đặt hàng
tôi làm một loạt phỏng vấn mà tiền nhuận bút
mỗi bài bằng 1 tháng lương của tôi lúc đó
(các phỏng vấn này chưa in).
Nói chung, tôi luôn luôn
muốn văng tục chửi thề... nhưng tận đáy lòng tôi
không bao giờ quên ơn các bạn...phù suy.
Còn 1 ân nhân nữa thường cafe với nhau mà
lại quên, nhà thơ Nguyễn Quốc Thái (anh Thái
tính đưa về báo Doanh Nghiệp nhưng ko thành, tuy
nhiên anh Thái ko bao giờ từ chối in thơ cho tôi
kiếm tiền lẻ).
Tên này, Gấu phát hiện
cũng sớm lắm, như Bọ Lập.
Chỉ đến khi hắn, nhân lần 1 số dân
Miền Nam, từ các tỉnh đổ về Sàigòn "khiếu hiện"
đòi đất, hắn đi 1 đường bình luận cực kỳ mất dậy,
và khốn nạn hơn nữa, hắn nhân đó quảng cáo
sách của hắn!
Trên Tin Văn có viết về vụ này.
Cùng lúc, Gấu đọc 1 bài
viết thật ngắn của 1 độc giả gửi cho BBC, nói về lũ Cớm
VC cấm các hàng rong đến gần dân biểu tình,
cố tình để họ đói khát.
Rồi mưa xuống. Vị này, về đến nhà
rét run, tắm cho ấm lại người, và chỉ đến lúc
nâng ly cà phê nóng, lên, thì
cơn đau mới thật là khủng khiếp!
Gấu thù tên này, từ lúc
đó.
Cũng như thù những tên như Bọ
Lập.
Tay của chúng cũng đầy máu dân
Mít, đâu có thua gì những tên
già như NN, chính uỷ viên cái con mẹ gì
đó.
Note: GCC mò ra vị độc
giả nói trên, khi gõ đầu Bác Gúc.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2007/07/070715_land_dispute_update.shtml
Thanh
Thảo, TP HCM
Tôi thấy những người lãnh
đạo đang hành xử thật sự quá đáng! không
một lên tiếng hay có bất cứ phản ứng gì công
khai, và báo chí cũng vậy! Vô cùng
quá đáng và đáng hổ thẹn! Một con mèo
có khi còn được tọa lạc cả thườn thượt một trang báo,
đằng này, con người thì không! Tối hôm qua và
sáng hôm nay trời mưa rất to, tôi đi mưa chỉ khoảng
trên dưới 1 giờ đồng hồ mà đã muốn xỉu vì
lạnh, về tới nhà tôi còn có nước nóng
áo lạnh và mùng mền. Còn họ ở đó thì
có gì chứ? ăn dầm nằm dề, vật vã ngòai
vỉa hè như vậy, ai muốn? Người ta muốn nông dân Việt
Nam chết hết đi cho rảnh mắt hay sao đó mà?
Không tên
Theo tôi, VN đang theo đường lối sai nhất có
thể, thua việc được Pháp quản trị, và nhất là thua
xa việc VN độc lập thân Tây phương như chính quyền
miền Nam VN. Hàng triệu người từng làm việc trong chính
phủ miền Nam VN đều có thể làm chứng, không hề
có việc người Mỹ đàn áp, gây bất công
quá đáng. So với hiện nay thì khác xa một
trời một vực. Quân Mỹ tuy lương cao nhưng họ rất hòa đồng,
không hề hống hách trịch thượng như quan chức VN hiện nay
đối xử với dân VN. "Làm sở Mỹ" là cụm từ đồng nghĩa
với "ăn ngon mặc đẹp, làm chung với người văn minh, nhẹ nhàng
không nặng nhọc, lại hay được thưởng". Không ai thấy "nhục"
gì cả như chính quyền Hà nội mô tả vào
lúc đó để làm lý do "giải phóng miền
Nam".
Hàn quốc và Nhật bản
đều giống chính phủ miền Nam VN ở chỗ họ tuy "lép vế"
trước người Mỹ trong nhiều việc, nhưng Mỹ là một quốc gia rất
công bằng với bạn bè và đồng minh, nên không
phải vì vậy mà Mỹ đàn áp bất cứ người Hàn
quốc, Nhật, và trước kia là đồng minh miền Nam VN. Ai chống
lại họ, liệng lựu đạn, giật mìn, thì quả thật họ phải
đánh trả, nhưng với đồng minh và ngay cả với bất cứ ai
không làm hại họ thì người Mỹ không hề phá
hại điều gì. Thử hỏi bất cứ con cái quan chức đang du học
tại Mỹ xem họ có đồng ý không, khác với tất
cả lời tuyên truyền sai bét của CSVN mà theo đó
Mỹ sang VN gặp ai giết đó không bằng. Một miền Nam VN thân
Mỹ, hoặc toàn bộ VN thân Mỹ, thì đã bứt phá
ra khỏi vũng lầy Đông Nam Á từ lâu, bằng hoặc hơn Hàn
quốc từ cả mấy chục năm nay.
No name
Cùng lắm người ta có thể phê phán
thời Pháp đô hộ, nhưng chính quyền miền Nam VN
thời 1954-1975 thì không làm gì sai trái
đáng để miền Bắc bỏ ra 21 năm xâm lăng, tốn phí
mấy triệu sinh mạng và biết bao sự tổn thất khác về văn
hóa, tài nguyên, hòa hợp dân tộc. Pháp
xây dựng cho VN còn nhiều hơn VN tự xây hiện nay
gấp trăm lần. Sài Gòn mà thôi, không
có Pháp thì vẫn là vũng lầy khổng lồ, và
nay hình như đang trở lại như vậy.
Pháp vào VN vì lý do danh dự,
muốn có ảnh hưởng tại phương Đông như nhà giàu
muốn mua nhà nghỉ mát, chứ Pháp không lợi
ích gì về tài chánh mà còn
lổ nặng tại VN. Một Nhà Thờ Đức Bà tại Sài Gòn
mà thôi thử hỏi ngay cả bây giờ muốn xây cất
phải tốn bao nhiêu tiền, bao lâu, và quan trọng hơn
là VN có đủ kỹ thuật không, đang khi điều vô cùng
mỉa mai là tượng đồng Điện Biên đang trơ gan xanh lè
rỉ đồng cùng tuế nguyệt. Pháp nếu ở lại VN thì VN cũng
giống như Hồng Kông trước năm 1997 khi còn được Anh Quốc
quản trị.
Không thể lấy vài mẩu chuyện không bằng
chứng về việc "Pháp đàn áp dân Việt" trong
các năm đầu thế kỷ rồi suy ra họ sẽ vĩnh viễn như vậy, vì
lúc đo Pháp giết đa số là các người chống
Pháp, và cho dù họ từng phạm tội ác thì
đó là vào lúc khác, thời khác,
chứ sau 1945 Pháp là một quốc gia khác, văn minh
hơn, có lẽ vào các năm 1960 theo phong trào
trao trả thuộc địa thì Pháp đã trao chính
quyền lại cho một chính phủ VN, hoặc cho dù ngày
nay Pháp còn quản trị thì VN vẫn tốt đẹp hơn hiện
nay rất nhiều - như HK 1997 so với TQ.
Bạn
đọc, đọc mấy cái còm, chắc là nhận ra, Vẹm khốn
kiếp hơn nhiều, so với Tẩy.
Lần về
lại đất Bắc, cc 2001, Gấu canh cánh 1 điều, tại làm
sao ông già của Gấu, bị 1 tên học trò cũ,
lúc đó cầm đầu 1 lực lượng QDĐ chiếm giữ Việt Trì
thủ tiêu, vậy mà mấy người con của ông, còn
ở lại đất Bắc, không được công nhận là con của liệt
sĩ.
Gấu tìm gặp cô con gái của 1 ông
chú, Chú Cầm, vào thời kỳ đó, là
huyện uỷ Vẹm ở Việt Trì, cũng bị QDĐ bắt, nhưng trốn thoát.
Cô cho biết, cha của cô xác nhận với
Vẹm, ông cụ của Gấu chỉ là cảm tình viên
của Đảng [VC], nên dù bị QDĐ thanh toán, con cái
không được hưởng ân huệ của Cách Mạng!
Gấu tới lúc đó, mới ngộ ra, món quà
của ông bố để lại cho con cái: không
phải là con liệt sĩ!
Ông cố tránh cho các con của ông
mang nỗi nhục, con của 1 tên Vẹm, tức 1 tên sát
nhân.
Chắc chắn, ông đã từng chứng kiến cảnh tượng
Vẹm thủ tiêu những nhà ái quốc không theo
chúng, như 1 Phạm Quỳnh, thí dụ.
Bạn thử nêu 1 trường hợp Vẹm tỏ ra nhân từ,
trong suốt thời kỳ dựng nước Vẹm, tức là từ 1945, từ 1
“mùa thu năm qua, cách mạng tiến ra” [nhạc PD]
Sách
&
Báo
Ấn
bản mới, có cái intro, viết năm 1992, của tác
giả.
Có thể nó là cuốn đầu tiên
của Le Carré, mà Gấu đọc, khi Saigon tràn
ngập sách Tẩy, thứ sách bỏ túi, Livre de poche,
qua chương trình IC, Thông tin & Văn hóa,
bán bằng giá ở Tẩy.
Đọc nhưng lại bỏ qua. Phải đến khi vớ được cuốn
Gián điệp đến từ miền đất lạnh,
cũng qua bản tiếng Tẩy, ở nhà sách Xuân Thu,
mới sững sờ.
Có thể nói, lúc đó, chưa tên Mít nào
biết đến Le Carré. Phải đến khi ở tù Bangkok, thì
mới lại gặp nó, qua bản tiếng Anh.
Với GCC, cuốn này bảnh hơn nhiều, so với
Gián điệp về từ miền đất lạnh, do hai đòn,
phải nói là của bậc thầy, trong nghề viết trinh thám
điệp viên nghẹt thở.
Đành phải mau, vì mấy cuốn cũ Cô
Út đem cho nhà thương, làm từ thiện!
Bố đừng đọc sách nữa, vui với cháu
chẳng sướng hơn ư!
http://www.tanvien.net/Roman/goi_nguoi_da_chet_1.html
A CRITIC AT LARGE
I SPY
John le Carré and the
rise of George Smiley
http://www.newyorker.com/magazine/2011/12/12/i-spy-anthony-lane
Smiley is compared to a "surgeon
who has grown tired of blood":
Smiley được so sánh với 1 y sĩ giải phẫu
quá mệt mỏi với máu.
Bộ dạng hắn
như cũng phản chiếu sự thiếu thoải mái này dưới
dạng suy nhược thể chất, khiến cho hắn hơn bất cứ lúc nào,
ngày một thêm lọng cọng, giống y chang một con cóc.
Hắn nhấp nháy con mắt nhiều hơn, và mang thêm
biệt danh Chuột nhũi. Nhưng cô
thư ký mới vào nghề khâm phục hắn, và
luôn gọi hắn là "Gấu cưng" của tôi.
JOHN LE CARRÉ
GỌI NGƯỜI ĐÃ CHẾT
CALL FOR THE DEAD
Lời
giới thiệu:
John
Le Carré là bút hiệu của David Cornwell,
người Anh. Sinh năm 1931. Học Đại học Berne, Oxford. Dạy học tại
Eton. Sau làm Bộ Ngoại Giao, vì vậy ông không
được phép dùng tên thật khi viết. Bút hiệu
Le Carré, tiếng Pháp có nghĩa là hình
vuông, do ông tình cờ nhìn thấy trên
kính một cửa tiệm ở Luân đôn.
Tuần báo Time đã mô tả ông:
Người viết truyện gián điệp số một của thời đại ông
ta hiện đang sống. Và có lẽ của mọi thời.
Gọi Người Đã Chết, tác
phẩm đầu tay trong đó gói ghém tất cả ước vọng
của tác giả, muốn sử dụng thể loại gián điệp, một hình
thức phổ cập, đại chúng, dể giải quyết những vấn đề lớn lao,
như văn chương, chính trị, thời đại... Ông còn
muốn tìm lại cội rễ của nó, vốn bắt nguồn từ bi hùng
kịch Hy Lap. — Màn Cuối (The Last Act) trong Gọi Người Đã
Chết, độc giả, và có thể, chính tác giả
cũng không tiên đoán được kẻ thù sẽ phản ứng
như thế nào: Chúng sẽ làm một điều gì đó.
Chắc chắn như vậy. Chúng ta còn có cơ hội...
Đối những độc giả quá
quen thuộc với Smiley, nhân vật chính của Le Carré
qua những tác phẩm The Spy who came in from the Cold, The
Smiley People... cơ hội đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa
Cộng sản, chấm dứt Chiến Tranh Lạnh.
Ai điếu Elie Wiesel
Đi tìm phê bình
gia Mít
Cái
tên đệ tử Lữ Phương, là kẻ chịu ơn TTT và
GCC. Thay vì biết ơn, hắn đưa cả hai vô danh sách
12 nhà văn phản động, đồi trụy. Không chỉ thế. Ra
hải ngoại, sớm sủa, trở thành 1 nhà văn nổi tiếng,
hắn viết sách, trong đó chửi GCC, không biết
bao nhiêu lần, không làm sao nhớ nổi, cái
“gì gì” trong cõi ký ức trong xanh.
Tại sao hắn lại làm như thế?
Tên Lang Băm, GCC đâu biết là thằng
củ xê nào [từ này Duyên Anh &
Thương Sinh ban cho GCC], vậy mà cũng chửi, giọng đầy
hằn học.
Đây là vấn đề liên quan đến đạo hạnh,
đẳng cấp, sống sót, đúng như Milosz phán,
khi viết về Brodsky, như Brodsky, khi viết về Mandelstam.
Bản thân những tên này, chúng
tự biết, chúng không thể viết được cái
thứ mà chúng mong viết được.
Mỹ là mẹ của đạo hạnh, là như thế.
TTT, trong Thơ Ở Đâu Xa, 1 bi khúc,
như NL gọi, tặng thơ rất nhiều người, những bạn tù của
ông, những kẻ đồng hội, đồng thuyền, như ông gọi.
Khi về đời, một số trong lũ này, thay vì cảm thấy
thật là tuyệt vời, vì đã từng được là
bạn tù của ông, không chỉ thế, mà còn
được ông tặng thơ, thì lại rất ư là tức giận,
khi thấy ông không uống cà phê nhớ bạn
hiền với chúng!
Thế là trở mặt!
Đạo hạnh như kít làm sao làm thơ
hay cho được!
Tên khốn đệ tử Lữ Phương, hắn thừa biết, khi làm
cái danh sách những nhà văn phản động đồi
trụy, trong có hai kẻ, hắn chịu ơn, là ký bản
án tử hình đối với họ.
Cái gì làm hắn làm như thế?
Đố kỵ, thù hận những kẻ viết hơn hắn, có dịp là
không tha.
Ai biểu mày viết hơn tao?
Ký bản án tử hình, cho mày chết, là vừa!
Mấy đấng bạn
quí, khi thấy Gấu vướng Cô Ba, mừng rơn là vậy!
Sở
dĩ lũ Mít, hầu hết, viết như kít, là do đạo
hạnh quá tệ hại, mà ra.
Một tên bỏ chạy cuộc chiến, dù với chiêu bài
hợp pháp, bằng lý do hoãn dịch vì lý
do học vấn, đi du học vì bằng cấp hạng Ưu, Bình....
thì đạo hạnh đã có vết chàm rồi, đó
là sự thực.
Tại sao tui, Primo Lévi vặc lại Ông Trời.
Steiner viết từ nỗi đau thoát chết Lò Thiêu,
vì có ông bố quá khôn.
Lũ tinh anh Miền
Nam, những tên Triết Mít, đâu có tên
nào thấy đau vì... sống sót, vì
"vết chàm
đạo hạnh"?
Không "chỉ"
không đau, mà còn hãnh diện, mày
đâu phải dân khoa bảng như chúng ông!
Mày học trường Mít, tiếng Tây ăn đong, vậy
mà cũng bày
đặt đọc Sartre, Camus!
Cái
tên đệ tử Lữ Phương, là kẻ chịu ơn TTT và
GCC. Thay vì biết ơn, hắn đưa cả hai vô danh sách
12 nhà văn phản động, đồi trụy. Không chỉ thế. Ra hải
ngoại, sớm sủa, trở thành 1 nhà văn nổi tiếng, hắn viết
sách, trong đó chửi GCC, không biết bao nhiêu
lần, không làm sao nhớ nổi, cái “gì gì”
trong cõi ký ức trong xanh.
Tại sao hắn lại làm như thế?
Tên Lang Băm, GCC đâu biết là
thằng củ xê nào [từ này Duyên Anh &
Thương Sinh ban cho GCC], vậy mà cũng chửi, giọng đầy hằn
học.
Đây là vấn đề liên quan đến
đạo hạnh, đẳng cấp, sống sót, đúng như Milosz phán,
khi viết về Brodsky, như Brodsky, khi viết về Mandelstam.
Bản thân những tên này, chúng
tự biết, chúng không thể viết được cái thứ
mà chúng mong viết được.
Mỹ là mẹ của đạo hạnh, là như thế.
TTT, trong Thơ Ở Đâu Xa, 1 bi khúc,
như NL gọi, tặng thơ rất nhiều người, những bạn tù của ông,
những kẻ đồng hội, đồng thuyền, như ông gọi. Khi về đời, một
số trong lũ này, thay vì cảm thấy thật là tuyệt
vời, vì đã từng được là bạn tù của ông,
không chỉ thế, mà còn được ông tặng thơ, thì
lại rất ư là tức giận, khi thấy ông không uống cà
phê nhớ bạn hiền với chúng!
Thế là trở mặt!
Đạo hạnh như kít làm sao làm
thơ hay cho được!
Đi tìm phê
bình gia Mít
Nguyễn Viện
22 hrs ·
Có người nói tôi "ông
ăn nói tự do vậy còn muốn gì nữa?". Xin thưa,
cũng ko đơn giản. Thấy vậy mà ko phải vậy. Khi lần đầu tiên
xuất hiện trên văn đàn hải ngoại (tạp chí Hợp
Lưu đăng tiểu thuyết Đâm Sừng Vào Bóng Tối), tôi
bị đuổi việc khỏi báo Thanh Niên, dù đó
chỉ là 1 truyện tình, thậm chí hơi sến (năm 2001).
Lần thứ hai, tôi bị an ninh ép ko được cộng tác cho
BBC (năm 2005). Lần thứ ba, an ninh làm áp lực với Thông
Tấn Xã, tôi bị đuổi việc khỏi báo Đẹp. Và
từ đó đến nay, tôi vẫn được các anh an ninh lai rai
chăm sóc sức khỏe, khi thì mời làm việc, khi canh
cửa... May là chưa bị đánh hay đạp xe, quăng mắm tôm....
(khoản này thì xin đa tạ).
Trong những lúc khó khăn nhất của
cuộc đời, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của quý
thân hữu, bạn bè... trong đó có cả những
quan chức: Nhà thiết kế Minh Hạnh, nhà thơ Ý
Nhi, bạn Hoàng Hoài Sơn (đã chết), chị Loan
(báo Pháp Luật, trung ương), các nhà thơ
Trương Nam Hương, Trần Quang Quí, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng
Khoa (đưa tôi về báo Gia Đình-Xã Hội), đặc
biệt chị Phan Thanh Lệ Hằng (kính trọng), bạn Beo - Hồ Thu Hồng
(kính mến), em Phạm Tường Vân (kính yêu), em
Hồng Nga BBC (kính tín)... Tôi xin vài dòng
riêng để cám ơn nhà văn Nguyễn Thành Phong
đã giúp in tiểu thuyết Thời Của Những Tiên Tri Giả
(tác phẩm bị thu hồi). Đặc biệt cám ơn vợ chồng Dương
Minh Long - Từ Phương Thảo, khi tôi ngặt nghèo nhất về cơm
áo, đã đặt hàng tôi làm một loạt phỏng
vấn mà tiền nhuận bút mỗi bài bằng 1 tháng
lương của tôi lúc đó (các phỏng vấn này
chưa in).
Nói chung, tôi luôn luôn
muốn văng tục chửi thề... nhưng tận đáy lòng tôi
không bao giờ quên ơn các bạn...phù suy.
Còn 1 ân nhân nữa thường cafe với nhau mà
lại quên, nhà thơ Nguyễn Quốc Thái (anh Thái
tính đưa về báo Doanh Nghiệp nhưng ko thành, tuy
nhiên anh Thái ko bao giờ từ chối in thơ cho tôi kiếm
tiền lẻ).
Tên này, Gấu phát hiện cũng
sớm lắm, như Bọ Lập.
Chỉ đến khi hắn, nhân lần 1 số dân
Miền Nam, từ các tỉnh đổ về Sàigòn "khiếu
hiện" đòi đất, hắn đi 1 đường bình luận cực kỳ mất
dậy, và khốn nạn hơn nữa, hắn nhân đó quảng cáo
sách của hắn!
Trên Tin Văn có viết về vụ này.
Cùng lúc, Gấu đọc 1 bài viết
thật ngắn của 1 độc giả gửi cho BBC, nói về lũ Cớm VC cấm
các hàng rong đến gần dân biểu tình, cố
tình để họ đói khát.
Rồi mưa xuống. Vị này, về đến nhà
rét run, tắm cho ấm lại người, và chỉ đến lúc
nâng ly cà phê nóng, lên, thì
cơn đau mới thật là khủng khiếp!
Gấu thù tên này, từ lúc
đó.
Cũng như thù những tên như Bọ Lập.
Tay của chúng cũng đầy máu dân
Mít, đâu có thua gì những tên
già như NN, chính uỷ viên cái con mẹ gì
đó.
Kundera chẳng đã tố cáo “1984” của
Orwell, đếch phải tiểu thuyết, mà là chính
trị giả danh văn chương. Nó thêm vào danh sách
chống cộng rẻ tiền, một số tội ác, và như thế, nó
cũng đen kịt tội ác như mọi cuốn sách chống cộng!
Phải là văn chương, mới được!
Sở dĩ lũ mũi lõ OK cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh,
1 phần là do, chỉ tới cuốn đó, có cái
nỗi sợ chết của lũ bộ đội Bắc Kít. Trước đó, tên
nào cũng là Robot, Thần, Thánh, Quỉ Sứ, Phù
Đổng Thiên Vương, đếch phải con ngưòi.
Kể từ NBCT, Bắc Kít mới có thứ văn
chương, là giả tưởng, nhưng thực hơn cả đời sống.
Như Brodsky, (1) Bảo Ninh đánh dấu chấm
hết thứ văn chương “cứt đái, dởm, XHCN” của Bắc Kít
Cái câu phán của Kafka, trong
cuộc đấu sinh tử, tay đôi, giữa mi và thế giới, hãy
đâm vào lưng mi, thay vì thế giới, ý
nghĩa của nó, là ở đây.
Thấy vậy là không phải vậy, là
sao?
(1)
Coetzee, trong bài viết về Joseph Brodsky,
đã nhắc tới một nhận định của nhà thơ Olga Sedakova,
theo đó, thành tựu lớn lao nhất của Brodsky, là
đã "đặt một cái dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn
học Xô Viết."
Ông làm được vậy, theo Coetzee, là
do, đã lấy lại cho văn học Nga cái chất quí
hiếm mà nền kỹ nghệ văn hóa Xô Viết, nhân
danh chủ nghĩa lạc quan, đã vứt vào thùng rác:
Thân phận bi đát được làm người, hay, cảm nhận
bi đát về đời sống, a tragic perception of life.
Một vị độc giả
hỏi, có biết Nguyễn Vịt không mà sao chửi
dữ thế. Gấu không quen biết NV. Lần đầu đọc, khi ông viết,
đăng trên BBC hay đâu đó, về vụ dân lục tỉnh
kéo về Sài Gòn biểu tình đòi đất,
và lũ VC để mặc họ chết đói, rét, lạnh dưới mưa.
Mấy gánh hàng rong cũng không dám bén
mảng, vì sợ Cớm VC bắt. Giọng văn hết sức khốn nạn, trâng
tráo, đểu cáng, chọc quê bao nhiêu con người,
và, chưa hết, tiện dịp, còn quảng cáo sách
sắp xb của anh ta, và đề nghị xếp hàng mua!
Gấu cố kiếm trên TV, để nói có
sách mách có chứng, nhưng chịu. Sorry.
Còn cái
kiểu ẩn dụ cởi truồng của anh ta, với những nhân vật lịch
sử hay văn học, là trò đám nhà văn VC
thường làm, 1 cách tránh né kiểm duyệt,
nhưng nó cũng đã trở thành 1 thứ “đĩ tinh ròng”
(chữ của NV) rồi.
Đọc, chỉ lộ ra
tâm địa khốn nạn của người viết.
Kafka có
1 câu, phải nói là hết sức khủng khiếp, Barthes
mê quá, bệ ngay về, đặt ngay lên đầu bài
viết của ông.
Khi ông bệ
về như thế, hẳn là ông nghĩ tới những tên viết vô
lại như tên Nguyễn Vịt, với thứ văn chương được Sến choàng
cho những vòng hoa “phản hiện thực, phản tiểu thuyết… chúng
ta hình như đều có ở trong đó"....
Đọc mấy đấng “lề trái”
ở trong nước, như tên vô lại NV, thấy cực tởm, so
với đám lề phải, ấy là vì chúng nghĩ
chúng chọn “phiá của nước mắt”, như ông Dương Tường
phán, thành ra tên nào tên đó
chửi nhà nước dữ lắm, và giọng văn rất càn dỡ,
đểu giả, tinh ròng độc Bắc Kít, ấy là vì
chúng nghĩ, lương tâm chúng trong sạch.
Ở bên dưới những câu
văn độc địa của NHT, ở những tác phẩm đầu, tinh ý
thì lại nhận ra tấm lòng nhân hậu của ông,
nhận ra cái ý của Kafka, trong cuộc đấu sinh tử tay
đôi, duel, giữa nhà văn và thế giới, nhà
văn chọn thế giới.
Làm sao mà có chúng
ta ở trong thứ văn chương nhơ bẩn của NV được.
Trong bài viết “Con người,
con vật chính trị, L’homme, une bête politique”, trong
số Văn Học
Pháp, Le Magazine Littéraire, 7&8 2007, đặc
biệt về cái ngu đần, một phát kiến hiện đại (la bêtise, une invention moderne),
tác giả Perrine Simon-Nahum phán, một xã hội
dân chủ vận hành tốt đòi hỏi công dân
của nó một sự phán đoán sáng sủa, rõ
ràng (un jugement éclairé). Nhất là khi mà
những đấng trí thức, tầng lớp tinh anh, chính chúng,
lại là bằng cớ của sự phạm tội mù quáng (Surtout
quand les “intellectuels” font eux-mêmes preuve d’un coupable
aveuglement). Trong phần “Sự đồi bại trí thức” (“Perversions intellectuelles”),
tác giả bài viết viện dẫn Raymond Aron: Tiếp theo những
nghiên cứu của Élie Halévy về bản chất của những
chủ nghĩa toàn trị và sự yếu hèn của những chế
độ dân chủ, R. Aron bèn tóm lấy đề tài này,
ngay từ năm 1937, trong 1 bài viết trên “Tập san siêu
hình và đạo đức” (Revue de métaphysique et de morale)
nhắm vào chính trị kinh tế của “Front populaire” (Mặt Trận
Bình Dân?). Áp dụng vào tầng lớp trí
thức, trong 1 bài viết vào năm 1948, trên tờ
Le Figaro, Aron đề ra trước tiên, những “nghịch
lý của chủ nghĩa CS”: "Được coi thuộc giai đoạn giải phóng
con người, một chế độ thành lập những trại tập trung, những hộ
chiếu đi lại trong nước, les passeports intérieurs, cảnh sát
chính trị, une police politique, siêu việt hơn thứ của
những sa hoàng, như vậy là vượt quá giới hạn của
sự ngu đần, cà chớn, đồi bại mà ngay cả 1 tên trí
thức sau cùng cũng chấp nhận”.
Điều
Aron kết án thì không nhắm vào chuyện,
tôi chọn lề phải hay lề trái (nguyên văn, sự
tham dự ý thức vào một ý thức hệ), mà là
sự đồi bại trí thức.
Chúng ta gặp đúng
trường hợp những những đấng tinh anh Bắc Kít ở đây,
những đấng như Nobel Toán, Diễn đàn Bô xịt,
hay tên vô lại NV.
Sở dĩ Bảo Ninh hụt giải thưởng
to tổ bố của VC năm nay, có thể là do, lũ Bắc Kít,
cay đắng cảm nhận ra 1 điều, nếu cho nó,
là xổ toẹt cả 1 nền văn học dởm, và đồng ý với Vương
Đại Gia, VTN, may quá có Ngụy.
Đau thế.
Phải như thế thôi. Văn học Bắc Kít, về
hùa với Cái Ác Bắc Kít, gây họa,
là nước Mít như hiện nay.
Đây là điều Steiner nhận ra, với văn
học, đúng hơn, với tiếng Đức, ngôn ngữ Đức:
For let us keep one fact clearly in mind: the German
language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ
Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê
gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ Hổng (The
Hollow Miracle)
Phép Lạ Hổng
Khi những người lính tiến
vào cuộc chiến 1914, những con chữ cũng vậy. Những binh lính
sống sót, trở về, bốn năm sau đó, tả tơi, rơi rụng.
Theo một nghĩa thực, những con chữ không trở về. Chúng
ở lại chiến trường, và xây dựng bức tường huyền thoại, giữa
tinh thần Đức và những sự kiện. Chúng phóng ra,
những lời dối trá lớn lao đầu tiên; nước Đức hiện đại, đa
số đã được nuôi nấng bằng những lời dối trá này:
"đâm sau lưng chiến sĩ". Quân đội oai hùng Đức đã
không thất trận; họ đã bị đâm sau lưng bởi những
tên "phản bội, bại hoại, Bolsheviks". Hiệp ước Versailles không
phải là một toan tính vụng về của một Âu châu
rã rời, nhằm thu lượm những mảnh vụn, nhưng là một mưu
đồ độc ác giáng lên Đức quốc, của những địch thủ
đói khát. Trách nhiệm gây ra cuộc chiến
là do Nga, hay Áo, hay những âm mưu thuộc địa của
nước "Anh nham hiểm", chứ không do nước Đức thuộc Phổ.
Có người
nói tôi "ông ăn nói tự do vậy còn
muốn gì nữa?". Xin thưa, cũng ko đơn giản. Thấy vậy mà
ko phải vậy. Khi lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn
hải ngoại (tạp chí Hợp Lưu đăng tiểu thuyết Đâm Sừng Vào
Bóng Tối), tôi bị đuổi việc khỏi báo Thanh Niên,
dù đó chỉ là 1 truyện tình, thậm chí
hơi sến (năm 2001). Lần thứ hai, tôi bị an ninh ép ko được
cộng tác cho BBC (năm 2005). Lần thứ ba, an ninh làm áp
lực với Thông Tấn Xã, tôi bị đuổi việc khỏi báo
Đẹp. Và từ đó đến nay, ...
See More
Chúng ta thử trò
đểu giả; có vài tên thành công
Chúng ta thử thời gian; nó nhạt thếch như
nước lã
Adam Zagajewski
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=2666&rb=0301
Cũng cần nhắc lại chuyện
hồi đó Mai Thảo có đi một bài của Nguyễn
Văn Trung trên Sáng Tạo, bài Trường Hợp Francoise
Sagan, nhưng sau đó độc giả và anh em trí
thức cho Mai Thảo biết đó là một bài trên
một tạp chí văn chương của Pháp, Nguyễn Văn Trung đã
dịch nguyên con nhưng lại ký tên mình
là tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó
Mai Thảo rất “sợ” những bài viết của những nhà “nghiên
cứu” triết lý hiện sinh.
DTD
Cái vụ này, như Gấu còn
nhớ mài mại, NVT dịch 1 bài trên báo
Tẩy, về Sagan, không ký tên NVT, mà
là 1 nick khác, Hoàng Trúc Linh
hay gì gì đó.
Gấu thực sự không tin ông tính
đạo đạo cái con mẹ gì. Dịch, không coi mình
là tác giả, thì ký 1 cái tên
khác, chuyện đó thường xẩy ra.
Đạo, là ký tên NVT.
Vào thời gian Thầy Đạo học Văn Khoa,
chắc chắc NVT đang dậy Văn Khoa, như thế, ông ta là
Thầy của Thầy Đạo. Gấu học trước Thầy Đạo. Gấu cũng ghi tên
học chứng chỉ Triết Tây, do NVT phụ trách, nhưng do
học bằng cours Sorbonne, không hề biết đến cours của NVT, nên
bị đánh rớt.
Lúc đó Gấu đã đi làm,
đã viết lách, có tí tên tuổi,
mà nửa chữ cũng là Thầy, đi đâu Thầy cũng
nói thằng đó học tao, chịu sao thấu.
Thế là bye Văn Khoa.
Mai Thảo sợ....
MT biết gì về hiện sinh, sao không
sợ?
Một tên viết lách
Miền Nam, chỉ cần 1 chút tự trọng, là không
thể viết 1 bài viết, tố cáo những người viết trước 1975,
chưa nói người đó là Thầy của hắn.
Bản thân Thầy Đạo, cả 1 đời quanh quẩn với
mớ chữ, trước 1975, không có 1 tác phẩm, rồi
sau 1975, ra hải ngoại sớm hơn Gấu rất nhiều, cũng chẳng có
lấy 1 tác phẩm. Giả như không có diễn đàn
của Bà Huệ, rồi Thầy Đạo, Thầy Quân... viết ở đâu?
Hỏi cũng là trả lời. Vào thời diễn
đàn free, hà cớ gì mà không mở
ra cho riêng mình 1 cái blog, rồi tha hồ mà
viết, núp bóng quần hồng, đâu có gì
bảnh?
Chẳng cần đến diễn đàn free, Gấu, ra hải
ngoại trễ nhất, thấy quá cần, là tự mình
làm trang Tin Văn, gần 20 năm rồi, nếu kể cả thời gian tá
túc nơi VHNT của PCL. Trước đó, nghĩ, phải làm
sao kết thành 1 mối, diễn đàn nào Gấu cũng
viết, không cần được mời, và viết với 1 thái độ
thật khiêm cung, chỉ đến khi thấy không thể nào kết
với bất cứ ai, thế là đành lui cui làm 1 mình.
Và tới lúc đó, chẳng tha
tên nào!
Cái tên Lang Băm, nếu có chút
đạo hạnh, thì đã không bịa ra 1 cái
nick, rồi núp váy đàn bà, bôi bẩn
gần như hầu hết những nhà văn tên tuổi của Miền Nam,
sống có, chết có, trong có hai vị nữ lưu. Làm
sao 1 nhà văn nữ, chủ 1 blog, lại cho phép 1 tên
khốn kiếp như thế, làm nhục hai người này, điều này
không thể hiểu nổi.
Nó sẽ như 1 vết chàm, không
làm sao viết được nữa, theo GCC.
Còn như tiếp tục viết, như chẳng có
gì xẩy ra, thì, như Brodsky viết:
Sau cái thứ này, tôi biết
anh ta vẫn tiếp tục viết, nhưng làm sao anh ta tiếp tục
sống?
Cũng cần
nhắc lại chuyện hồi đó Mai Thảo có đi một bài
của Nguyễn Văn Trung trên Sáng Tạo, bài Trường Hợp
Francoise Sagan, nhưng sau đó độc giả và anh em trí
thức cho Mai Thảo biết đó là một bài trên
một tạp chí văn chương của Pháp, Nguyễn Văn Trung đã
dịch nguyên con nhưng lại ký tên mình là
tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó Mai Thảo rất
“sợ” những bài viết của những nhà “nghiên cứu” triết
lý hiện sinh.
DTD
Cái vụ này, như Gấu còn nhớ
mài mại, NVT dịch 1 bài trên báo Tẩy,
về Sagan, không ký tên NVT, mà là
1 nick khác, Hoàng Trúc Linh hay gì gì
đó.
Gấu thực sự không tin ông tính
đạo đạo cái con mẹ gì. Dịch, không coi mình
là tác giả, thì ký 1 cái tên
khác, chuyện đó thường xẩy ra.
Đạo, là ký tên NVT.
Vào thời gian Thầy Đạo học Văn Khoa, chắc
chắc NVT đang dậy Văn Khoa, như thế, ông ta là Thầy
của Thầy Đạo. Gấu học trước Thầy Đạo. Gấu cũng ghi tên học
chứng chỉ Triết Tây, do NVT phụ trách, nhưng do học bằng
cours Sorbonne, không hề biết đến cours của NVT, nên bị
đánh rớt.
Lúc đó Gấu đã đi làm,
đã viết lách, có tí tên tuổi, mà
nửa chữ cũng là Thầy, đi đâu Thầy cũng nói thằng
đó học tao, chịu sao thấu.
Thế là bye Văn Khoa.
Mai Thảo sợ....
MT biết gì về hiện sinh, sao không sợ?
Một tên viết lách
Miền Nam, chỉ cần 1 chút tự trọng, là không thể
viết 1 bài viết, tố cáo những người viết trước 1975, chưa
nói người đó là Thầy của hắn.
Bản thân Thầy Đạo, cả 1 đời quanh quẩn với mớ
chữ, trước 1975, không có 1 tác phẩm, rồi sau
1975, ra hải ngoại sớm hơn Gấu rất nhiều, cũng chẳng có lấy 1 tác phẩm. Giả như
không có diễn đàn của Bà Huệ, rồi Thầy Đạo
Thầy Quân... viết ở đâu?
Hỏi cũng là trả lời. Vào thời diễn đàn
free, hà cớ gì mà không mở ra cho riêng
mình 1 cái blog, rồi tha hồ mà viết, núp
bóng quần hồng, đâu có gì bảnh?
Chẳng cần đến diễn đàn free, Gấu, ra hải ngoại
trễ nhất, thấy quá cần, là tự mình làm
trang Tin Văn, gần 20 năm rồi, nếu kể cả thời gian tá túc
nơi VHNT của PCL. Trước đó, nghĩ, phải làm sao kết thành
1 mối, diễn đàn nào Gấu cũng viết, không cần được
mời, và viết với 1 thái độ thật khiêm cung, chỉ
đến khi thấy không thể nào kết với bất cứ ai, thế là
đành lui cui làm 1 mình.
Và tới lúc đó, chẳng tha tên
nào!
Cái tên Lang Băm, nếu có chút
đạo hạnh, thì đã không bịa ra 1 cái nick,
rồi núp váy
đàn bà, bôi bẩn gần như hầu hết những nhà
văn tên tuổi của Miền Nam, sống có, chết có, trong
có hai vị nữ lưu. Làm sao 1 nhà văn nữ, chủ 1 blog,
lại cho phép 1 tên khốn kiếp như thế, làm nhục hai
người này, điều này không thể hiểu nổi.
Nó sẽ như 1 vết châm, không làm
sao viết được nữa, theo GCC.
Đi tìm phê
bình gia Mít
Mỗi
lần từ Nga trở về, hành trang của Tolstaya chật
cứng những bản thảo của những thi sĩ, văn sĩ trẻ. "Cũng không
nặng gì lắm đâu. Xin trao tận tay thi sĩ. Nói
ông ta đọc. Tôi chỉ cần ông ta đọc". Ông
đã đọc, đã nhớ và đã nói, thơ của
họ tốt... Và ca ngợi điều may mắn. Và những nhà
thơ trẻ của chúng ta đã hất hất cái đầu, ra vẻ:
"Thực sự, chỉ có hai nhà thơ thứ thiệt tại Nga, Brodsky
và chính tôi".
Ông tạo nên một cảm tưởng giả, ông là một thứ ‘Bố
già văn nghệ’. Nhưng chỉ một số ít ỏi thi sĩ trẻ đã
từng nghe ông rên rỉ: Sau cái thứ này, tôi
biết anh ta vẫn tiếp tục viết, nhưng làm sao anh ta tiếp tục
sống!
Cái lũ Văn Khoa Mít,
như tên lên "danh sách đen" tố cáo
bạn bè Ngụy, với 1 em Bắc Kít, hay tên lên
danh sách những nhà văn phản động
đồi trụy, với tên VC nằm vùng Lữ Phương, hay tên
Lang Băm, dùng nick dởm, núp váy đàn bà,
bôi bẩn, làm nhục những nhà văn tên tuổi,
trong có những người đã chết, chúng sẽ vẫn tiếp
tục viết văn, làm thơ, như chẳng có chuyện gì xẩy
ra, nhưng làm sao chúng "sống"?
Sợ, chúng không hiểu nổi,
1 điều thật đơn giản như thế.
Những tên kể trên, Gấu
chưa từng đụng độ với chúng.
Khác hẳn trường hợp Nguyên
Sa, Gấu vừa bước vô làng văn, là đã
lôi ông ra choảng cho 1 cú!
Nhà văn dễ dãi và
sung sướng!
Ông nhớ tới già, tới chết!
Tên làm danh sách
nhà văn phản động đồi trụy, liền sau 30 Tháng Tư 1975, trình
Lữ Phương - danh sách đầu tiên, 12 tên,
Gấu đứng thứ bẩy - còn là người mang ơn TTT và
Gấu, như đã
kể trên Tin Văn.
Cả 1 lũ thù Gấu, quái
đản thế.
http://tanvien.net/tg/tg14_tieu_thuyet_moi.html
Chân Dung Nhà Văn
Note: Bài viết về Vũ Hoàng
Chương, trong có nhắc tới cái danh sách đầu tiên,
những nhà văn đồi trụy, gồm 16 tên…
Tôi đọc những người có tên
trong bản danh sách được gọi là danh sách
Hoàng Trinh cho ông nghe. Hoàng Trinh là
thông gia với Trường Chinh. Y vào Nam sớm nhất và
được Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Ủy cho toàn quyền
xử lý vụ "Văn Học Nghệ Thuật Miền Nam". Sau này thêm
bớt con số người bị bắt, có nhiều danh sách khác.
Như danh sách 21, danh sách 44. Nhưng danh sách
Hoàng Trinh, 16 người được lập ra sớm nhất và tôi
được biết ngay nhờ sự tiết lộ của một cán bộ đảng quen biết ngày
trước, hắn đi theo Hoàng Trinh lên Đà Lạt, và
được cho xem bản án tử hình này
theo GCC, không đúng.
Danh sách này,
gồm 12 tên, có GCC, thứ 7, trong 12 tên,
là do 1 tên đàn em của Lữ Phương làm.
Tên này, hiện ở Pháp.
****
Theo GCC, lũ này không
hiểu nổi câu của Brodsky, "làm sao chúng tiếp
tục sống".
Đây là vấn đề liên
quan đến "mỹ là mẹ của đạo hạnh", và vấn đề này,
như Borges phán, thì lại còn mắc mớ tới tôn
giáo....
FERRARI. You always talk of ethics,
you've told me that having ethics is even more crucial-as Kant saw it-than
having a religion.
BORGES. Religion can only be
justified on the basis of ethics. On the other hand, ethics,
as Stevenson said, is an instinct. It's not necessary to define
ethics-ethics is not the Ten Commandments. It's something we
feel every time we act. At the end of the day, we will, doubtless,
have made many ethical decisions. And we will have had to choose+-I
am simplifying the theme-between good and evil. And when we have
chosen good, we know we have chosen good; when we have chosen evil,
we know that too. What's crucial is to judge each act for itself and
not for its consequences. The consequences of any act are infinite, they
branch into the future and, in the end, become equivalent or complimentary.
Thus, to judge an act for its consequences seems to me to be immoral.
Borges, Conversations,
Ethics and Culture
Borges, ông luôn
nói đạo hạnh cần hơn tôn giáo...
Tôn giáo chỉ có
thể được chứng thực trên căn bản đạo hạnh. Và về
mặt khác, đạo hạnh có tính trực giác.
Đếch cần phải định nghĩa nó. Đạo hạnh thì đâu
có phải là 10 điều giáo lệnh!
Bài viết này, cuộc
lèm bèm này, giữa bạn quí của Borges, và
Borges, liên quan tới vấn nạn “may mà có Ngụy”,
tức cái gọi là văn hóa, đẳng cấp, chính nó,
phân biệt lũ Ngụy với lũ VC.
Tin Văn sẽ scan và dịch sau.
Tôi là kẻ may mắn
sống sót, nhưng đếch còn muốn làm nhà
văn nhà thơ nữa.
Viết như thể chẳng có gì
xẩy ra. Bao giờ thì tôi có thể?
Đây là vấn nạn của
“Shoah”,
một phim của Lanzmann, theo David Denby, trong 1 bài
viết trên Người Nữu Ước, Jan 10, 2011,
khi phim này lại được đem ra trình chiếu ở Mẽo.
Đẩy đến cực điểm, thì
nó như thế này:
Nếu bạn [lại] viết lại, thì cái
kinh nghiệm đi tù, và luôn cả trại tù
VC kể như không có!
Đâu có phải tự nhiên
mà Ông Số 1 được toàn dân Mít quí
trọng, ngay cả VC cũng quí, có thể còn hơn cả cái
đám bạn bè cá chớn của ông đâu?
Tao “đếch” có viết nữa, vì
sợ lại phải chứng kiến 1 lần nữa Lò Thiêu, Lò
Cải Tạo!
Tao không viết nữa, để cho cái
chuyện đó đừng bao giờ xẩy ra nữa!
Hồi mới ra hải ngoại,
Gấu tò mò đọc, mấy tên này, chắc cũng
nghĩ, như những đấng bạn quí của GCC, tên xì
ke, chắc chết rồi. Chúng không tha.
DA thì trong “Nhìn
lại những bến bờ”, tên HTA thì “Trong cõi ký
ức trong xanh” cái con mẹ gì đó.
Tên HTA chửi GCC, “bày đặt
trí thức”, trong khi chính hắn, than, làm
trí thức mệt bã người!
DA chửi, là do không bao giờ
nhắc tới DA, khen không, mà chê cũng không.
Thế là điên lên, chửi
ròng rã gần 1 năm trời, ngày nào
cũng chửi.
Ra hải ngoại vẫn tiếp tục chửi!
Cái vụ ơn iếc này, có
thể có bạn đọc TV chưa tường, xin kể vắn tắt. Thời gian
làm trang VHNT cuối tuần trên nhật báo Tiền
Tuyến. Lúc đầu TTT phụ trách. Sau ông
chán, giao cho thằng em. Gấu bèn kêu Huỳnh Phan
Anh phụ 1 tay, măng xét để tên cả hai, sau bạn quí
bực bội gì đó, bèn rãn ra, Gấu bèn “một
mình một ngựa” [cái tít này thuổng Nguyên
Sa, khi ông đi loạt bài phạng GCC].
Trước khi giao trang báo, TTT đưa cho Gấu
1 mớ bài độc giả/tác giả gửi. Mày coi được
thì đăng cho họ, nếu cần sửa, thì sửa.
Gấu bèn sửa, bèn đăng. Có
hai đấng, lúc đó, cũng mới tập tành viết
lách, là Nguyễn Mai, và HTA.
NM biết ơn, sau đó bèn trả ơn, bằng
cách giới thiệu GCC dịch sách cho nhà xb Vàng
Son, của ông Nhàn.
Nhờ dịch sách, Gấu thoát chết ở
nông trường Đỗ Hòa.
Còn HTA, biến thành oán.
Tên này làm danh sách nhà văn phản
động đồi trụy Ngụy, đưa hết đám ST vô, thêm GCC!
Hồi Thảo Trường còn sống, nghe Gấu kể chuyện
này trên TV, do đi tù VC 17 năm, đâu
có biết gì, đọc, thú quá, bèn mail,
này, ông Gấu có tôi ở trỏng không.
Gấu bèn cười hô hố, ông thuộc
băng Trình Bày, phản chiến, làm sao có
ông, hà, hà!
Lũ này, đúng là 1 lũ, thực
không còn 1 chút đạo hạnh.
Chúng vẫn cứ tiếp tục viết, bởi thế, văn
chương Mít ngày càng bại hoại, là vậy.
Phi Gấu ra, không tên Mít
nào dám vô.... Lò Thiêu!
Nghe thì cực lớn lối, nhưng 1 cách
nào, quả chỉ một GCC, qua được cái test của Kafka,
khi không hề bỏ chạy cuộc chiến Mít, hà, hà!
Lạ, là, Gấu có rất nhiều cơ hội chuồn, như đã trình
bày trên TV, nhưng cứ đến giờ phút chót,
là lại ngãng ra, như có 1 kẻ nào đó
phá bĩnh, nè, mi mà đi là đừng có
mong có ngày trở về, mà dù có trở
về, thì Xề Gòn của mi, cũng đếch còn vưỡn thế!
Vào những ngày cai được xì
ke, cố tình ở lại, thì lại bị đám bạn quí,
thí dụ Mít Butor, vứt mẹ lá thư xin làm
tà lọt cho tờ Thanh Niên, dưới trướng Trùm Huỳnh
Tấn Mẽm, vào sọt rác!
Đó có lẽ là thời
gian, GCC qua được test, được Ông Trời bèn gật đầu,
OK, ta ban cho mi món quà/cái họa Lò Thiêu!
Lần
Thầy Đạo đi 1 đường "danh sách đen", tố cáo
lũ viết lách Miền Nam, nào Nguyễn Văn Lục, Huỳnh
Phan Anh… tuy cũng khoa bảng như ông ta, nhưng chưa có
tên nào làm thèse, như Thầy Quân,
thằng cha Gấu
thì còn tệ hơn nữa, không phải dân khoa
bảng, tố luôn cả Thầy của Thầy là Nguyễn Văn Trung, là
đạo văn Tây, với Bu Bắc Kít, là Sến Cô Nương
[bài này còn trên talawas, những tên
tuổi như trên, là như trong danh sách đen], Gấu thực
sự ngạc nhiên.
Đó là sự thực.
Tại làm sao mà tên này
làm 1 việc quái đản - bửn, đúng hơn – như
thế?
Nhưng chính là nhờ cái
danh sách đen, cái sự phân biệt giữa Gấu
và đám Văn Khoa Sài gòn, hồi đó,
làm Gấu ngộ ra 1 sự thực:
Gấu không có thứ bằng cấp giống
như lũ đó, và cách viết của GCC, khác
hẳn lũ đó.
Cái nguyên nhân, Gấu
cũng ngộ ra: Mi chưa từng học để kiếm lấy 1 cái lợi ích
nhơ bẩn nào cho cá nhân của mi cả!
Rõ ràng là như thế,
thế mới tếu!
Thí dụ.
Gấu cố học tiếng Tây, là để
viết 1 cái thư bằng tiếng Tây, để cám ơn
1 ông Tây thuộc địa đã thương hại Gấu, và
qua ông, Gấu được ăn học ở Hà Nội, và luôn
cả sau này, ở Sài Gòn
Rồi có tí vốn rồi, cố đọc
sách Tẩy, để hiểu cuộc chiến Mít tại sao lại xẩy
ra. Chứng cớ, những tác giả hồi mới lớn, như Trần Đức Thảo,
Lukacs, Nguyễn Đình Thi, Hồ Hữu Tường…
Chưa bao giờ có ý nghĩ, học
để bỏ chạy cuộc chiến như lũ khốn đó, hà, hà!
Sau này, khi nghĩ lại, Gấu cứ tự
hỏi, cứ giả như Gấu học chậm như lũ đó, và cũng
vướng vào cái tròng ở cổ, hoãn dịch vì lý
do học vấn, như chúng, Gấu có muối mặt học Văn
Khoa, như chúng?
Ai đã từng
học Văn Khoa trước 1975, thì đều biết, phải học thuộc
cours của Thầy, ra thi, cứ cours Thầy trả Thầy, là đậu.
Đâu khó khăn gì đâu. Gấu ra trường Bưu Điện,
đi làm, có nhà nhà nước cấp, từ khi còn độc
thân, làm hai jobs, muốn đọc sách gì có
sách đó, Sài Gòn không có
thì ra Xuân Thu, order, từ bên Tây gửi về.
Muốn học Đại Học nào mà chẳng được, trừ Khoa Học, vì
phải đến trường, đến lớp.
Khó cái gì cái
bằng Văn Khoa.
Sở dĩ Gấu không học, là vì
nếu học, thì phải coi Thầy Trung là Thầy, mà
như Gấu đã từng “bố cáo”, Thầy Trung có cái
tật, đi đâu cũng nói, thằng đó học tao, Gấu
không thích, nên không học. Vả chăng,
những bài viết của Thầy Trung đa số là từ Sartre, thí
dụ, ca tụng thân xác, thành ra cố đọc thẳng
từ Sartre, chẳng thú hơn sao, thế là bye bye Văn Khoa.
Hơn thế nữa, có cái bằng Triết
Mít, đâu có nghĩa, là nhà
văn, nhà phê bình.
Thầy Đạo, hay tên Lang Băm có
bằng Triết Mít,
hẳn thế, nhưng đâu
có viết được bất cứ cái gì, nói gì
phê bình.
Cả 1 lũ này, cay cú Gấu, vì
Gấu viết dữ quá, chúng phát điên
lên, giản dị chỉ có thế.
Đẩy lên 1 cấp nữa, chính cái
bằng của lũ này, khiến chúng không thể
nào viết được.
Đây là 1 thực tế hiển nhiên.
Bạn chỉ cho Gấu, 1 tên Mít viết
văn, viết phê bình, khảo luận, ra hồn, gốc Văn Khoa,
Mít?
Đâu có.
Một khi bạn phải khuất tất, để có
1 cái gì đó, là vứt đi!
V/v Khuất tất. Ý này, Gấu suy ra
từ Joseph Brodsky.
Như Coetzee giải thích:
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch
ra một mỹ tín [aesthetic credo] mà cuộc sống đạo
đức của dân chúng sẽ được xây dựng trên
nền tảng đó. Mỹ học như ông nói, là mẹ của
đạo đức, theo nghĩa, con người càng trọng mỹ tới đâu thì
sàng lọc ra cái vô đạo tới đó. Và
nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái tốt.
[Good art is thus on the side of the good]. Cái ác, cái
tà ma, về mặt còn lại, ‘đặc biệt là cái
ác chính trị, luôn luôn là một thứ
văn phong tồi tệ” [Evil, on the other hand, ‘especillay political evil,
is always a bad stylist”. On Grief… trang 49].”
Một khi bạn bắt đầu biên
tập đạo hạnh, đạo đức của bạn, cái này nên,
cái này không nên, bạn đang tán
tỉnh thảm họa.
When you start editing your ethics, your morality
–according to what is or isn't allowed today - then you're already
courting disaster.
Trò chuyện với Joseph Brodsky. Solomon
Volkov.
Cái chuyện đi lính,
ai mà không ớn. Cố học, mỗi năm mỗi đậu, đừng để rớt,
rớt là đi lính. Học cái gì dễ đậu nhất..
Cố giỏi tiếng Tây, cố đậu cao, để đi du học...
Một cách nào đó, những ưu
tiên trên đây, làm lũ tinh anh Miền Nam
biến thành những tên không còn 1 chút
lý tưởng, không có 1 chút chí khí.
Đó là sự thực.
Tuy nhiên, bạn phải cảm thấy nỗi đau, nỗi
nhục sống sót, mới... được.
Bởi thế mà Primo Levi vặc lại Ông
Trời, tại sao tôi?
Tôi khốn nạn hơn nhiều, so với những người
đã được chọn để đi vô Lò Thiêu? Tại sao
tôi?
Thử hỏi, có tên nào,
trong số những tên Văn Khoa Mít, đau nỗi đau, "thoát
chết"?
Bởi thế, vẫn Brodsky, phán, lũ mày sống sót là do bửn quá,
không phải do đạo hạnh!
Đạo hạnh gì 1 tên lên danh sách
đen?
Núp váy đàn bà, bôi
bẩn cả những người đã chết?
Nhơ bẩn đến như thế, làm sao viết?
Nóng hổi
Trên
TV đã từng giới thiệu Ozick. Gấu đọc bà, lần đầu,
là bài viết về Anne Frank.
Trong cuốn mới ra lò, có 1 bài
về Kafka, đọc loáng thoáng thấy lạ, cực lạ:
Transcending the Kafkaesque.
Trong 1 bài viết, Ozick cho biết, cuốn sách
thay đổi đời bà, là cuốn của Henry James, Washington
Square, đúng cuốn Gấu thật mê, khi còn Sài
Gòn, và đã tính dịch cho nhà xb Sóng
của Nguyễn Đông Ngạc
http://tanvien.net/Diary/50.html
Cynthia Ozick, trả lời phỏng vấn, "Cuốn sách
thay đổi đời tôi", cho biết, đó là cuốn Washington Square, của Henry James.
Bà viết:
Một bữa, khi tôi 17 tuổi, ông anh mang
về nhà một tuyển tập những câu chuyện bí mật,
mystery stories, trong, lạ lùng sao, có truyện The Beast in the Jungle của Henry James.
Đọc nó, tôi có cảm tưởng đây là
câu chuyện của chính đời tôi. Một người đàn
ông lớn tuổi, đột nhiên khám phá ra, ông
bỏ phí đời mình hàng bao năm trời.
Đó là lần đầu tiên Henry James
làm quen với tôi. Washington Square tới với tôi
muộn hơn. Câu chuyện của cô Catherine được kể một cách
trực tiếp, cảm động, và gây sốc. Đề tài xuyên
suốt tác phẩm này là: Sự giả đò. Giả đò
làm một người nào đó, mà sự thực mình
không phải như vậy. Ở trong đó có một ông bố
tàn nhẫn, ích kỷ, giả đò làm một người
cha thương yêu, lo lắng cho con hết mực. Có, một anh chàng
đào mỏ giả đò làm người yêu chân thành
sống chết với tình, một bà cô vô trách
nhiệm, ngu xuẩn, ba hoa, nông nổi giả đò làm một kẻ tâm
sự ruột, đáng tin cậy của cô cháu. Và sau cùng,
cô Catherine, nạn nhân của tất cả, nhập vai mình: thảm
kịch bị bỏ rơi, biến cô trở thành một người đàn bà
khác hẳn.
Ozik cho rằng, ý tưởng giả đò đóng
vai của mình, là trung tâm của cả hai vấn đề,
làm sao những nhà văn suy nghĩ và tưởng tượng, và
họ viết về cái gì. Không phải tất cả những nhà
văn đều bị vấn đề giả đò này quyến rũ, nhưng, tất cả
những nhà văn, khi tưởng tượng, phịa ra những nhân vật
của mình, là khởi từ vấn đề giả đò, nhập vai.
Tuy nhiên, nguy hiểm khủng khiếp của vấn đề
giả đò này là:
Những nhà văn giả đò ở trong đời thực,
sẽ không thể nào là những nhà văn thành
thực của giả tưởng. Cái giả sẽ bò vô tác
phẩm.
[Writers who are impersonators in life cannot be
honest writers in fiction. The falsehood will leach into the work].
Gấu
đọc Washington Square khi
còn Sài Gòn, và bị nó đánh
cho một cú khủng khiếp, ấy là vì cứ tưởng tượng,
sẽ có một ngày, bắt cóc em BHD ra khỏi cái
gia đình có một ông bố tàn nhẫn, ích
kỷ, đảo ngược cái cảnh tượng thê lương ở trong cuốn tiểu thuyết:
Khi ông bố không bằng lòng cho
cô con gái kết hôn cùng anh chàng
đào mỏ, cô gái quyết định bỏ nhà ra đi,
và đêm hôm đó, đợi người yêu đến đón,
đợi hoài, đợi hoài, tới tận sáng bạch...
Và
Gấu nhớ tới lời ông anh nhà thơ phán, mi yêu
thương nó thì xách cổ nó ra khỏi cái
gia đình đó, như vậy là may mắn cho cả nó
và cho cả mi!
Ôi chao giá mà Gấu làm
được chuyện tuyệt vời đó nhỉ.
Đi tìm phê
bình gia Mít
Tiểu thuyết "Nỗi
buồn chiến tranh" nhìn từ Mỹ
(Tin Bảo Ninh
"trượt" Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật
năm nay ở hội đồng cuối cùng, tôi nghe mà mừng
cho anh và tiểu thuyết "Nỗi buồn chiến tranh" của anh. Biết
là anh không thích các thứ giải thưởng,
nhưng như thế là anh đã cho thấy những người không
bỏ phiếu cho anh là thế nào. Bằng trường hợp của mình,
anh đã cho thấy làm văn chương đích thực là
văn chương ở nước mình khó đến thế nào, khổ đến đến
thế nào. Nhưng văn c...
Continue Reading
Đây
là cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gấu điểm, thời
gian vừa mới ra hải ngoại, trên tờ Nắng Mới, của 1 nhóm
văn học ở Montreal chủ trương. Có thể vì bài
điểm này, mà sau này NMG gật đầu nhận Gấu là
1 tên viết mướn có trả tiền, phụ trách mục
tạp ghi cho tờ Văn Học của ông, vì Gấu nhớ là,
ông có nói, anh ra trễ, chứ ra sớm, mà viết
về đám trong nước, mà không gọi là lũ “văn
nô”, là chúng làm thịt anh liền!
Thời kỳ “hậu” cái tai người, NMG đang
rất cần 1 tay như GCC.
Tuy nhiên bài viết của ông
Trùm Đầu Bạc, có 1 số vấn đề.
Trong bài viết ông vờ hẳn lũ
Ngụy ở hải ngoại, mà chỉ lèm
bèm "về phía Mỹ", trong khi tờ Guardian, là
của Anh.
Ông Trùm phán, kỹ thuật
viết, độc thoại nội tâm, viết không theo kiểu tự
sự cổ điển, xáo lộn tứ lung tung, Mẽo đọc không được..
Một nhận xét như thế, quá nhảm.
Bởi là vì độc giả/tác giả Mẽo rất rành về nó. Thí dụ, Faulkner, với Âm
Thanh và Cuồng Nộ, Hemingway, Mặt Trời Vẫn Mọc,
đều sử dụng lối viết
dòng
ý thức, độc thoại
nội tâm. Còn
xáo trộn dòng kể, sợ Bảo Ninh chưa đáng là
học trò Faulkner!
Vấn đề ở đây,
là, ở đâu ra cái cách viết này,
với Bảo Ninh?
Nữa. Khi coi Nỗi Buồn bảnh hơn
Mặt Trận Miền Tây, ông Trùm không giải thích
được tại sao.
Đây là 1 vấn đề được đám
phê bình gia Tây Phương, thí dụ như
Steiner, giải thích rõ ràng.
Mặt Trận Miền Tây, là viết về Đệ
Nhị Chiến. Nó là 1 cuốn cuối cùng viết
về chiến tranh, theo kiểu cũ. Sau đó, chiến tranh đổi khác.
Cần 1 cách viết khác. Làm gì có
pháo bầy, B52 rải thảm trong Mặt Trận Miền Tây, thí
dụ.
Những trích dẫn, người này,
người kia nói, vào thời bác Gúc,
cần phải cho biết nguồn. Phán loạn cào cào,
làm sao kiểm chứng?
Tay Trùm Đầu Bạc này, theo
Gấu cũng… dởm!
Có lần, ông chôm bài
của Gấu, để xoa đầu 1 đấng hải ngoại, về trong nước in sách,
nhờ ông lancer! Cũng chẳng thèm nói gì
với khổ chủ cả!
Chán, như con rán!
Cái kỹ thuật viết Nỗi Buồn, theo Gấu,
Bảo Ninh ảnh hưởng đám Miền Nam.
Đoạn cuối Nỗi Buồn rất giống đoạn
cuối Tiếng Động của TTT, Gấu đã chỉ
ra 1 lần rồi.
Không có cú ăn cướp,
không có những nhà văn như Bảo Ninh, đó
là sự thực.
Thành ra, thay vì về phía
Mỹ, viết, về phiá Ngụy, thú hơn nhiều.
Mỹ mà chúng đâu cần đọc
Nỗi Buồn.
Ăng Lê khen nó, có. Không
phải Mẽo
Nếu Mẽo khen, thì sợ là từ
ổ VC ở Mẽo, WJC.
GCC đọc "Nỗi buồn chiến tranh"
Đường Bờ Hồ và hố tránh bom.
Hình của ký giả Harrison E.
Salisbury.
"Có lẽ cũng phải bật mí
tí ti, và cho người ta biết chúng ta có
một người ở Hanoi".
[I think we ought to advertise a bit and
let people know that we have a man in Hanoi]
Một chút tư liệu
Trước 1975, tôi quen một tay làm
cho tờ Time, chỉ qua cái tên Cao Bồi. Anh bề ngoài
hiền khô, ít nói, về bản thân lại càng
ít nói, vả chăng, tôi cũng chẳng hề hỏi . Chúng
tôi thường gặp nhau ở quán Cái Chùa, đường
Tự Do, những lúc rảnh rỗi, bên ly cà phê,
chờ đợi đám bạn cùng một đam mê “nặn xì” [đánh
xì phé]. Thời gian đó,
ngoài công việc của một cán sự kỹ thuật
Bưu Điện, tôi còn làm thêm cho hãng thông
tấn UPI, chuyển hình ảnh bằng phương pháp vô tuyến
điện, radiophoto-operator.
Một lần qua chuyện gẫu, Cao Bồi cho
biết Time tính làm một số đặc biệt về Việt
Nam,
có bài giới thiệu hai nhà văn của hai miền.
Tôi cũng muốn nói thêm,
theo kiểu ngoài lề, ở đây. Khi còn ông
Diệm, báo chí trong nước khỏi nói, đám
báo chí ngoại quốc bị theo dõi rất gắt. Tin tức,
hình ảnh chuyển đi ra ngoài nước đều bị kiểm duyệt,
nhất là sau các vụ đảo chính hụt, dinh Độc Lập
ăn bom, vụ Phật Giáo… Văn phòng chính của họ
phải cho người giả dạng du khách, ghé sân bay Tân
Sơn Nhất, ở đó có người chờ sẵn, nhận bản tin, hình
ảnh.. rồi sau đó, trở lên máy bay, hệt những điệp
viên. Mạch điện đàm Saigon-Hongkong thường được các
hãng tin “book” sẵn, mỗi lần ngửi có mùi gì
lạ, “something in the air”. Chỉ sau khi ông Diệm mất, mới có
những mạch viễn ký như UPI, AP, và những mạch vô tuyến
viễn ảnh, các giờ đọc tin cho các hãng truyền hình
CBC, NBC, ABC…
Tôi nghĩ, Time muốn có
tiếng nói nhà văn của cả hai miền Nam Bắc, vì
lúc này cuộc chiến đang vào giai đoạn ác
liệt. Câu chuyện gẫu trên xẩy ra sau khi ông Diệm
mất, cỡ 1966 gì đó. Người Mỹ đổ quân xuống
bãi biển Đà Nẵng năm 1965. Horst Faas, trưởng phòng
hình ảnh hãng AP đổ ra hàng ngàn thước phim,
chỉ để chụp cảnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ từ những chiếc tầu há
mồm chạy xuống bãi biển. Cuối năm 1966, ký giả Harrison
E. Salisbury của tờ Nữu Ước Thời Báo, được nhà cầm quyền
Miền Bắc cho phép ‘tới [Miền Bắc, Hà Nội để] có
một cái nhìn nóng hổi về những gì xẩy
ra’ [Harrison E. Salisbury: Behind the lines-Hanoi].
Đó là một cuộc chiến mà
người Mỹ muốn, là của họ. Theo nghĩa, rút ra bằng chiến
thắng. “Mọi người bắt đầu gọi nó, một cuộc chiến bẩn thỉu nho
nhỏ. Bẩn thì vẫn bẩn nhưng nho nhỏ thì hết rồi… Đừng vùi
dập nó. Đây là cuộc chiến độc nhất mà chúng
ta có”, một tên phi công đểu giả Mẽo tuyên bố
như vậy [sđd, trang 3]. Dĩ nhiên, báo chí Mẽo cũng phát
động một cuộc chiến ,của Mẽo, của riêng họ, của riêng báo
chí Mẽo. Trong cuộc chiến Việt Nam, hãng tin Reuters
của Anh cố tình vờ đi, chẳng thèm đặt văn phòng tại
Sài Gòn theo như người viết được biết. Cách loan tin
cũng chẳng có vẻ gì là thân thiện Mẽo, hay Miền
Nam.
Hãng thông tấn Pháp AFP, tuy có văn
phòng tại Sài Gòn nhưng không có
mạch viễn ký, mạch vô tuyến viễn ảnh, cách loan
tin cũng đầy ác ý với Mẽo và VNCH.
Cao Bồi cho biết nhà văn Miền Bắc
mà Time tiếp xúc là Nguyễn Tuân. Còn
Miền Nam, một người hiện ở Mỹ, người viết bài có quen
biết, nhưng do không được sự đồng ý nên không
thể nêu tên ở đây. Tuy nhiên sau, Time
bỏ ý định, không rõ lý do. Người viết
có đọc một phóng sự của tờ Time Life về cuộc sống ở
Miền Bắc, không hiểu có phải vì có phóng
sụ này, nên Time bỏ ý định, hoặc không
được Nguyễn Tuân đồng ý?
Sỡ dĩ nhắc chuyện cũ vì thời gain
sau này, Time có bài giới thiệu cuốn Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh.
Khi mới qua đây được ít
lâu, tôi được một người quen cho hay, rồi nhân
đọc Hoa Xuyên Tuyết của Bùi Tín, thấy hình
"ông bạn cũ": Cao Bồi là Phạm Xuẩn Ẩn, sĩ quan tình
báo của Miền Bắc.
Trước 1975, thời gian phụ trách
trang Văn Học Nghệ Thuật của tờ nhật báo quân đội Tiền
Tuyến, trong một bài giới thiệu tác phẩm đầu tay của
một nhà văn đã có vài tuổi lính,
nhớ tới nhà văn Y Uyên vừa mới tử trận, tôi có
đưa ra một nhận xét: Hãy cố gắng sống sót, và,
nếu may mắn sống sót, nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ còn
phải đụng với một cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém
trận đầu: văn chương!
Ý nghĩ này, tôi
gặp lại, sau 1975, khi đọc Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn
Thi, chết trận Mậu Thân, hình như ở khu Chợ Thiếc,
Chợ Lớn, Sài Gòn. Liên tưởng tới bạn bè,
phóng viên nước ngoài đã từng có
dịp được quen biết, và đã tử trận, như Huỳnh Thành
Mỹ, Sawada... tôi bỗng nhận ra một điều, cuộc chiến thật thâm
hiểm, tàn nhẫn: nó nuốt sạch những ai thực sự dám
đương đầu với nó.
Theo cách suy nghĩ đó,
tôi nghĩ, Bảo Ninh may mắn hơn nhiều người: ông
may mắn ở cả hai cuộc chiến.
Trong văn chương, ông vượt qua
được khúc nguy hiểm nhất, mà đa số nhà văn Miền
Bắc gục ngã. Đọc họ, những tác phẩm xuất hiện cùng
lúc với Nỗi Buồn, tôi không thấy, cho dù
chỉ một chút thiện cảm, khi họ viết về Miền Nam.
Có thể, họ chẳng hiểu gì
về Miền Nam, ngoài những
gì được Đảng nhồi nhét.
Thượng Đế, trong một cơn giận dữ, tạo
ra con người-con vật chính trị [Merleau-Ponty].
Cố quên đi sự giận dữ của Người,
tôi đọc những tác phẩm của những tác giả Miền
Bắc. Đọc Nguyễn Thi, tôi có được những hình
ảnh tuyệt vời của người phụ nữ Miền Nam, tình bà con
lối xóm, theo dõi bước chân người mẹ đi suốt hai
cuộc chiến, trong đêm vội tạt về nhà cho con bú
trước giờ vào trận. Đọc Nguyễn Huy Thiệp, thời gian ông
dậy học ở một bản làng miền núi, trong văn ông thấp
thoáng chất huyền thoại, cái nôi của văn chương,
của chuyện kể, chưa vướng mùi lý luận, giải thích,
lên lớp… vốn là một thói quen không thể bỏ của
đa số tác giả Miền Bắc. Đến “Tướng Về Hưu”, người đọc nhận ra
không khí vất vưởng, cô đơn bao trùm lên
tính khô khan của nhân vật, tính tàn nhẫn
của sự kiện báo hiệu sự xuất hiện của
những bạo chúa Caligula sau này.
Tiểu thuyết, nói cho cùng,
chỉ là một lời dối trá toan tính nói
lên sự thực: Je suis un mensonge qui dit toujours la vérité.
Và sự thực thường là manh nha xuất hiện, ở những trang
cuối, dòng cuối. Meursault, [trong Kẻ Xa Lạ của Camus] mở lòng
ra trước vẻ xa lạ dịu dàng của cuộc đời: Je m’ouvrais pour
la première fois à la tendre indifférence du monde.
Julien Sorel trong Đỏ và Đen của Stendhal, ‘vào đời,
trang bị bằng khí giới độc nhất, tham vọng’, cuối cùng
tìm được tình yêu chân thật ở bà Renal,
một nạn nhân của anh. Kỳ cục thay, con đường văn học xã
hội hiện thực chủ nghĩa như ngược lại: Từ thành công, khi
miêu tả những cuộc đời thực của từng nhân vật, những tình
cảm, mong ước chân thật của họ… đến thất bại: chủ nghĩa Cộng Sản
như một giải đáp thỏa đáng nhất cho một cõi thực
chưa hề có.
Không giống như Mặt Trận Miền
Tây Vẫn Yên Tĩnh, đây là một cuốn
tiểu thuyết không chỉ về chiến tranh. Một cuốn sách
về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là
một câu chuyện tình đẹp, nghẹn ngào [Lời giới
thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in lại trong bản dịch
tiếng Anh của Nỗi Buồn].
Về kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là
một hồi ức lộn xộn, một cách hết sức tự nhiên,
như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có
thể nhẩy vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn
bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất thơ của hồi tưởng, kỷ
niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về pháo
bầy, bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần
của ông: “Đây chỉ là một sáng tác
dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và Cuồng
Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của
sự hỗn độn, và ông khẳng định: Kỹ thuật tiểu thuyết
luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu thuyết
gia. Với Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể mường
tượng ra trục thời gian của nó, của chuyện tình
đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến tầu định mệnh,
khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy
theo, rồi “tai nạn” xẩy ra.
Và, đây mới là ý
nghĩa đích thực, mang tính “uyên nguyên, bi
đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha
thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ cho cuộc tình”.
Như chúng ta đã biết, truyện lúc đầu có
tên “Thân phận tình yêu”. Cái tít
này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả
một miền đất.
Toàn truyện, mọi hồi tưởng, về
chiến tranh, lập tức kèm theo, một hồi tưởng về cuộc tình,
về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để lỡ. “Chẳng còn đem nào
như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp
gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí
đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này".
Đi tìm phê
bình gia Mít
1.
Lang Băm | March
8, 2014 at 4:00 pm
Ông T
Tôi nghĩ ông nên
từ tốn và tiêu hóa
điều mình muốn phát biểu
trước khi viết xuống. Ông hơi tự sướng quá
đà.
Ông ở tận Canada ông
làm sao biết ở Calif mối liên
lạc giữa các trùm sò
văn chương hải ngoại thời đó với các
bà cỡ Mai Ninh thấu tới đâu. Những
áp phe tình ái của Khánh
Trường với các bà nổi lều bều trên
tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu hiệp. Khánh Trường chủ
tờ Hợp Lưu và các “đàn anh văn nghệ”
của Khánh Trường mới là những người được
hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham danh dâng
hiến, í lộn, do các bà nữ dzăng thơi
sỡi quyên góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu ngày
Khánh Trường chưa ngồi xe lăn.
Quyển sổ áp phe của bà
Trần Thị Ng.H thì cỡ ông
làm gì được chấm mút.
Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng,
Nguyễn Đình Toàn thì
cũng chưa nhằm nhò gì so với các
áp phe khủng của bà này
Ông cũng không phải
là nhà phê bình
văn học như ông Cuốc Kức thì
làm sao mà đòi đào
mả tên tuổi các ông bà
nhà văn nhà thơ hải ngoại.
Ông cũng chả có công mẹ gì
trong cái vụ bà Tám
ló ra ló vào
văn chương này cả. Lý do là trang
của ông chỉ một mình ông tự
sướng. Bà Tám thì gửi bài
cho nhiều nơi khác như Da Màu, Việt Văn
Mới (newvietart.org), Thư Quán Bản Thảo,
Sài Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác.
Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác
giới thiệu cùng một lúc, mà ông
nào có phải là nhà phê
bình và là chủ bút một tờ báo
nào đâu mà ông bảo là
ông xúc bà Tám lên.
Một đời viết lách, cả
1 thế kỷ văn học Mít ở nơi ông ta- như Diệt Tuyệt
Sư Thái, Đại Ma Đầu Nghé Ọ, có lần xoa
đầu, thời gian GCC làm 1 tên cắp rổ theo hầu, rảnh
rang thì viết cho tờ Sài Gòn Nhỏ - Gấu chưa từng
gặp 1 tên khốn nạn như tên này.
Bịa ra 1 tên dởm, núp
váy 1 người đàn bà, qua blog của người
này, bôi bẩn cả người sống lẫn người chết, toàn
những bậc có danh phận, có tác phẩm văn học
xứng đáng, trong khi hắn ta chỉ là 1 tên
cắc ké, chẳng ai biết tới.
Tiêu hóa điều
mình muốn phát biểu?
Tiêu hoá điều đã
đọc, uốn lưỡi bảy lần trước khi nói, đắn đo trước
khi viết.... thì còn nghe được. Viết 1 câu
không nên thân.
Tại làm sao ở 1 cái
blog văn học mà lại để xẩy ra 1 chuyện nhơ bẩn như thế
này, thật khó hiểu được.
Rồi làm sao viết tiếp, làm
sao ăn nói với người còn sống, như Mai Ninh,
như Trần Thị NgH, hay những người đã mất, như TTT,
như NXH?
Người chết rồi, không nói,
với những người còn sống, họ đâu biết tên
Lang Băm này là ai?
Chẳng lẽ cứ tự nhiên như người
Hà Nội, bôi bẩn họ, rồi tiếp tục viết văn, làm
thơ?
NQT
Chuyện xẩy ra từ năm 2014,
GCC mang về Tin Văn, vì sợ bửn blog của vị nữ chủ nhân.
Tính viết liền, nhưng lại ngại, lỡ hai vị nữ lưu trên
bực quá, lôi chủ nhân cái blog ra tòa,
vì tội nhục mạ người khác. Đã xẩy ra nhiều
lần rồi trong giới giang hồ lá cải. Vị nữ đại ma đầu Cali,
mất nghiệp vì chuyện bôi nhọ người khác. Bà
vợ cũ của VQ lôi NHN ra tòa... Nhiều lắm.
Đành nín khe. Nhưng
may quá, mấy vị này, chắc là chưa đọc
cái blog của vị nữ văn sĩ nổi tiếng này, hoặc quá
tởm, nên chẳng thèm nhắc tới.
Trong viết lách, bửn nhất là
lôi chuyện đời tư của người khác ra khoe, ra cái
điều ta rành xó giường thiên hạ.
Tên khốn này sợ không
còn tính người. Có vẻ như hắn cay cú,
với tất cả những người viết lách có chút
tên tuổi.
Brodsky viết, mỹ là mẹ của
đạo hạnh.
Sợ, cái vô hạnh của tên
này ảnh hưởng
đến cái mỹ của cái blog!
Claude Lanzmann, xin làm
người yêu de Beauvoir, Bà Hoàng của chủ nghĩa
hiện sinh.
Bà Hoàng gật đầu, và
cho biết em đứng số 7, nghĩa là sau 6 người đấy, chịu
không?
Chịu quá đi sao không chịu!
Đọc những lá thư Lỗ Bình
Sơn viết cho Đảo Xa, thì thấy, đây là 1
mối tình văn học
thuần tuý, chẳng có gì dính dáng
đến chuyện trai gái.
Tên khốn Lang Băm, đầu óc
quá nhơ bẩn, mi làm nhục cả những người đã
chết.
Cứ giả như họ thực sự yêu nhau,
theo cái nghĩa trai gái, đàn ông đàn
bà yêu nhau, thì cũng chuyện thường tình
trong cõi đời.
Tên Lang Băm này, Gấu đọc
trên net, biết là tên nào, những
thôi, kệ cha hắn. Tâm địa như hắn, suốt đời hậm hực
cũng kệ cha hắn.
Chỉ tiếc, là tại làm sao
lại để xẩy ra ở 1 cái blog đàng hoàng.
Subject: Xin được ở trong mailbox
Date: Fri, 22 Jan 2010 14:40:55
-0800
To: GNV
Ông là một trong
những "Niềm Kinh Ngạc" đối với tôi.
Nên chỉ mỗi ông đọc thư
của tôi là đủ cho tôi lấy làm hân
hạnh rồi.
Xin GNV đừng đưa H/A lên web.
Tôi thích ở trong mailbox hơn.
Xin cảm ơn.
H/A
Plse Forgive. NQT
Vị độc giả trên, rất thân,
với toàn gia đình GCC. (1) Vị này không
muốn trang TV biến thành 1 trang có nhiều dấu vết riêng
tư, và thuần chỉ là 1 trang văn học, như có lần
căn dặn GCC.
Trong khi GCC thì coi đây
là “nhà của mình”, cái gì
cũng đưa lên... khoe!
Nhà của mình mà!
Không phải như trường hợp “Nhà
có cửa đếch chịu khoá”!
(1)
Bac Gau oi, dung lien luy nhieu
voi cay viet khac. Enjoy your works, your life and family.
Your readers and your family need you
and are more important.
I don't have Vietnamese unicode so it's
difficult to write long.
Please keep email personal, not for
TV.
Soon,
Đám thanh thiếu niên
ồn ào, náo động là lũ chúng tôi đó
dần dần rã ra cùng với mùa hè kết thúc,
và rồi những cơn bão lodos chợt tới với thành phố,
quất túi bụi lên những bến cảng vào mỗi tháng
Chín, đuổi chạy có cờ mấy chiếc thuyền buồm, ghe máy
chậm chân. Trong khi mưa cứ thế trút xuống, Bông
Hồng Đen, lúc này đã mười bẩy tuổi, chẳng biết
làm gì cho qua thì giờ, bèn ghé thăm
căn phòng mà tôi thường ngồi vẽ, vào những
giờ phút trọng đại như thế, tôi ban cho nó một cái
tên thật xứng đáng với nàng: xưởng họa của tôi.
Tất cả những bạn bè của tôi cũng thỉnh thoảng ghé,
cũng bầy đặt thử tài hội họa, này, đưa tao cây bút
chì, cho tao tờ giấy vẽ, trong khi nhìn với cặp mắt đầy
nghi ngờ những cuốn sách của tôi, và chuyện này
thì cũng chẳng có gì là lạ, so với tai tiếng
của Gấu. Như tất cả hầu hết đám chúng tôi sống ở
Thổ nhĩ kỳ thời kỳ này, giầu hay nghèo, nam hay nữ, Bông
Hồng Đen cũng cần chuyện vãn để cho qua ngày, và
đỡ buồn.
Tình Đầu
26.6.2010
Đọc "Istanbul" bỗng dưng thấy nhớ Việt Nam, nhớ những ngày
xưa kinh khủng.
HÂ.
Tks. NQT
Đi tìm phê
bình gia Mít
Mây Bay Đi
Đọc
trên net, FB, Gấu nghĩ là, tên Lang Băm,
là ai. Cũng 1 tên cắc ké, y chang Thầy Đạo, chắc
là học sau GCC, như Thầy Đạo, và chắc là
– vẫn “chắc là” – có được cái triết Mít,
nên mới viết, như Thầy Đạo, khi mượn cái bằng tiến sĩ
của Thầy Kuốc, để chửi GCC:
Ông cũng không
phải là nhà phê bình văn học như
ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi
đào mả tên tuổi các ông bà nhà
văn nhà thơ hải ngoại.
Có điều lạ,
là, Thầy Đạo có thể thù Gấu, là
vì, do GCC viết cho tờ Văn Học của NMG, nên tờ này
đếch thèm đăng bài của Thầy nữa, dù đăng
free.
Trong khi GCC không hề biết đến
khốn kiếp này là ai, sao mà tên khốn
thù Gấu đến như thế!
Cái chuyện thù GCC “đến
như thế”, thì không chỉ hắn.
Thời gian trước 1975, sau khi đi 1
đường đọc Mây Bay Đi của Nguyên
Sa, Gấu bị Duyên Anh – không phải NS - qua cái
nick Thương Sinh chửi ròng rã gần 1 năm trời, mỗi ngày,
trên nhật báo Sống, thấy mặt Gấu nhăn như bị mỗi
lần gặp ở Quán Chùa, ông anh TTT thương hại,
an ủi, làm người, phải có người yêu, kẻ ghét,
cứ tròn như hòn bi, lăn đâu cũng lọt, thì
sống làm khỉ gì!
Ui chao, hóa ra ông anh
cũng có quá nhiều kẻ thù, và trong
số đó, có rất nhiều bạn quí của ông!
Có thể, khi Gấu viết bài
điểm sách trên, tên khốn kiếp Lang Băm còn
đang mài đũng quần, cao lắm, là ở Văn Khoa, mong
đậu 1 chứng chỉ Đại Học, để thoát đi lính, như Thầy
Đạo!
Gấu đã từng có chứng chỉ
Dự Bị Triết, Văn Khoa, như đã từng tường trình,
sau khi ra trường Bưu Điện, làm 1 chuyên viên
kỹ thuật, học hàm thụ, mấy ông thầy khi đó là
Lê Tôn Nghiêm, Kim Định, Gấu chưa từng gặp.
Chỉ đến khi ghi tên học chứng
chỉ Triết Tây, Thầy là Nguyễn Văn Trung, khi làm
bài thi, thay vì dùng cours của Thầy, thì Gấu lại
dùng cours
Sorbonne, thời gian đó, bán đầy ở nhà sách
Lê Phan. Nhớ, Gấu nghĩ là mình trúng
tủ, vì đề tài về triết hiện sinh, đúng 1 chương
của cours Sorbonne, cái gì gì về hiện sinh,
existence, sức căng, tension.
Rớt! Do đếch thuộc cours của Thầy!
Thế là bye bye Văn Khoa.
Cái chết của đám Mít
khoa bảng, nhất là thứ học văn khoa, 1 phần là
do phải thuộc cours của Thầy, nếu muốn đậu, muốn thoát
quân dịch.
Thầy khốn nạn, mày không
“citer” cours của tao, là rớt!
Trò khốn nạn, vì cứ phải
học cours của Thầy đến thuộc lòng, nếu không rớt
sao?
Ra trường rồi, suốt đời không
bỏ được thói quen học thuộc lòng, bài
viết mẫu….
Rõ ràng là, có
tên nào học Văn Khoa Sài Gòn, sau
trở thành nhà văn, nhà biên khảo,
nhà phê bình đâu?
Toàn 1 lũ không làm
sao quên được cours của Thầy!
Khốn nạn hơn nữa, chúng coi cái
mảnh bằng như là cái chứng chỉ chứng nhận, chúng
là nhà văn, nhà phê bình, nhà
điểm sách!
Mi đâu phải là nhà phê
bình như ông Cuốc/Kức, là nghĩa như thế:
Mi đâu có bằng tiến sĩ
như Thầy Quốc, mi đâu phải dân khoa bảng, như
chúng ông?
Ui chao, Gấu có bằng, thứ thiệt,
nó đòi cái khả năng sáng tạo của con người, chứ không
phải thứ học thuộc lòng!
Khi bạn giải 1 bài toán,
làm sao bạn học thuộc lòng?
Tất cả những bài viết của Gấu,
khác hẳn lũ này, là 1 bài toán,
nó có 1 vấn đề, cần phải giải cho ra.
Thay vì 1 định lý, 1 đáp
số, thì là 1 viễn ảnh.
Một khi không có viễn ảnh,
là bài viết kể như vứt đi.
Cái viễn ảnh của trang Tin Văn,
là 1 cái gì tương tự như luật vạn vật hấp dẫn của Newton, như Koestler
định nghĩa. (1)
Sở dĩ thơ
TTT, không có truyền nhân, 1 phần là
do lý do nêu trên.
TTT làm thơ, khi viết văn. Và
thơ, với ông, không phải là ẩn dụ, mà
là viễn ảnh,
thi ảnh, ảnh tượng, image, hay image poétique.
Cái gì gì:
Buổi sáng sớm
tinh mơ như 1 vết thương mới lên da non
[Note: Sau này, đọc
thư gửi Đảo Xa, GCC suy ra, ở cái nền của cuốn Bếp Lửa,
là Hà Nội, và những câu thơ được Bachelard
trích dẫn, khi viết Thi học của Không Gian.
Bây giờ đọc Thư gửi Đảo Xa, GCC mới
thấm. Lúc đầu bực quá]
http://www.tanvien.net/Tribute_1/TTT_Dao_Xa.html
Anh thích
những buổi sáng không thể tưởng. Ở Sài Gòn
có nhiều bữa anh ra đường khi trời chưa rạng, chạy xe
kiếm một quán cà phê chệt ngồi. Buổi sáng
khi Pagode vừa mở cửa thường khi anh là người khách
đầu tiên lúc còn làm ở Tiền Tuyến. Ở đây
không thể ra ngoài. Sợ lạnh vả lại trong trại binh đi
lang thang bậy bạ nguy hiểm không chơi. Hồi còn yên,
mới vô lính, 4 giờ sáng dậy đi tuần xong chạy từ
Cầu Kinh qua xa lộ vào Sài Gòn. Nhớ hoài
những buổi sáng. Anh chỉ mới đón em, gọi dậy có mỗi
một buổi sáng thôi. Buổi sáng của anh khó có
người chia xẻ. Dường như các bạn thân thiết của anh chẳng
có ai dậy sớm cả. Buổi sáng sớm chẳng bao giờ làm người
ta chán đời cả. Sáng sớm dậy, thở, đi ngửa mặt khoan khoái
thấy sống tỏa tràn trề không hề nghĩ ngợi bậy bạ nhảm nhí.
Lần ra Huế anh cũng còn nhớ những
buổi sáng ở bên Hương Giang lắng nghe tiếng chợ
họp dấy bên kia sông. Nhớ con đường hẹp như đường làng
từ hồ Tịnh Tâm ra con đường phố trổ ra cửa Thượng Tứ hàng
cây trồng cách sao mà ngả đầu vào phía
trong như ngửa ưỡn người. Khu Gia Hội anh cũng đã sang. Đã
ăn một bữa tối ở tiệm ăn Tầu bàn bầy ngoài vườn, chẳng
hiểu có còn không (cùng phía với
rạp hát bóng, đi quá lên trên).
Anh lại vừa nhớ đến những buổi sáng
thức dậy trong Sở Thú. Hồi Tết Mậu Thân, tái
ngũ, làm ở Tiền Tuyến, trong đợt tấn công thứ 2 vào
Sg, cứ 4 tối anh lại bị một đêm dẫn lính qua nằm phục
bên Sở Thú. Ngủ trên bãi cỏ dưới tàn
cây. Ngủ trong nhà chòi bát giác sát
bờ sông Thị Nghè. Ngủ dưới chân cái patio
thẳng cổng chính vào trông thấy. Ngủ trong cái
quán nước đã dẹp bàn ghế. Nửa đêm ve kêu
râm ran. Sáng dậy nghe khỉ nghe voi kêu. Mời hết
cả đám lính đi với mình mỗi người một ly cà
phê sữa cho tỉnh trước khi về trại. Năm đó anh nhớ anh đánh
bạc quanh năm, được liên tu bất tận. Về vứt ống súng
là chạy ra Pagode ngồi đến 9 - 10 giờ về làm việc.
Bây giờ thì buổi sáng chong đèn - luật
phòng thủ tối kỵ - viết thư. Viết ba lăng nhăng, chẳng ra đâu
vào đâu. Và nếu cứ viết kiểu này hoài,
chắp lại dám thành quyển tiểu thuyết tình dầy.
Có khác chi Under the volcano?
Ui chao, đúng thời gian
GCC đã từng kể ra. Cái chuyện ông đánh bạc
được liên tu bất tận, Gấu vô ý có kể cho
bà cụ C nghe. Bữa sau, ông mắng, tại làm sao mà
chuyện gì mày cũng kể cho Cụ nghe.
Đúng câu, ông trách
bà cụ, tại làm sao mà chuyện gì Mẹ cũng
kể cho thằng Trụ nghe?
Flamme seule, je suis seul
Bruler seule, rêver seul
Grand symbole, double symbole incompris
Le premier pour la femme,
toute brulante, doit rester seule, sans
rien dire;
Le second pour l'homme taciturne qui n'a
qu'une solitude à offrir. (1)
Trong một đêm anh đọc đoạn
trên trong một quyển sách mỏng của Bachelard, chép
lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu là thơ của Tzara.
Đoạn sau quãng diễn của Bachelard - philosophe già,
tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô
cùng. Anh có ý lấy đoạn này để cho Mắt
Bão. Em thích không ?
Thư gửi đảo xa
(1)
Ngọn lửa cô đơn, tôi
cô đơn
Cháy một mình, mơ mộng một
mình
Biểu tượng lớn, biểu tượng kép không
được thấu hiểu
Cái thứ nhất là cho người
đàn bà,
Cháy rạng ngời, phải một mình,
không nói gì
Cái thứ nhì, cho người đàn
ông lầm lì
chỉ có nỗi cô đơn của mình
để dâng hiến
Kiệt buộc miệng kêu: A,
cháy rừng. Chốc lát nữa, ngọn núi sẽ bốc
lửa tỏa rực một vùng. Chàng ngây sững đón
chờ cảnh tượng. Lửa thiêu hủy cây cối trong đêm sẽ
soi tới chỗ chàng đứng. Tàn lửa và tro than,
gió cũng thổi bay tới.
Thêm những đám lửa nhỏ rải
rác bập bùng nhưng đám lửa đầu tiên
không lan rộng. Mặc dầu sự mong mỏi của Kiệt, đám cháy
trên triền núi không xẩy ra. Đêm ít
gió. Những chùm lửa cách biệt, lơ lửng rồi lụi
tàn.
Kiệt đứng như trời trồng.
Hai người từ phòng chiếu bóng
ra qua lưng Kiệt trên bãi cỏ. Họ không chú
ý đến Kiệt, bàn tán chê bai cuốn phim xem
bỏ dở nửa chừng.
Kiệt tưởng tượng tiếng nổ lách tách
của những thân cây khô già khi bị lửa
bám đốt. Trong mắt Kiệt rập rờn bóng lửa trên núi.
Chàng thật cô đơn.
Kiệt sống lại đêm tháng sáu
Bắc Âu, đêm mùa hè của miền lạnh lẽo
với mặt trời cháy suốt đêm trên đầu núi.
Người ta kéo nhau ra đồng, ăn uống, ca hát, khiêu
vũ, ngắm mặt trời đêm nguyên hình một khối đỏ ối.
Năm ấy Thùy tốt nghiệp, hai người rủ nhau sang chơi Thụy Điển,
Đan Mạch, Na Uy trong dịp hè. Cả hai người đều còn
trẻ. Đêm hội mùa hạ, họ nằm bên đống rơm, ngây
ngất trước khối lửa lạ lùng, hôn nhau, và yêu
nhau. Đó là đêm tân hôn.
Kiệt thấm thía nỗi cô đơn.
Và Thùy hiểu lẽ yếu đuối cần được phủ ấp. Họ yêu
nhau lần thứ hai lúc nửa đêm. Mặt trời đã lên
đỉnh như chiếc bóng lửa tròn xoay. Hơi ấm gờn gợn giá.
Văng vẳng bên tai Kiệt một khúc ca yêu đời của
Grieg. Chàng ghé tai Thùy thì thào:
Flamme seule, je suis seul. (2)
Đêm nay chàng sống lại nỗi
cô đơn, trong cảnh trơ trọi.
Còn Thùy? Dường như nàng
đã quên bặt khối lửa đêm ấy hoặc nàng
chỉ còn thấy chiếc bóng của nó ghi trong ký
ức như thấy hình chụp trên tấm bưu thiếp giữ làm
kỷ niệm.
Nàng quên bẵng sự yếu đuối,
nhỏ nhoi, tuyệt vời của nàng.
Một chủ nhật khác
(1)
http://www.tanvien.net/Tribute_1/TTT_10_Yeras_Memoriam.html
Lần
Sến cô nương lôi bài viết ‘sao dám
ghét ta la bà’ về Chợ Cá, và ‘bạn
hàng’ chê ỏng chê eo, Gấu bèn đi một đường
‘tự sướng’:
Phải đọc Tin Văn trong tinh thần
chờ đợi, tự mình khám phá ra, một định
luật văn học, định luật này chẳng thua gì định
luật “vạn vật hấp dẫn” ở trong vật lý học, của Newton!
Ấy là Gấu mô phỏng
Koestler, khi ông coi Newton như là một ông
nhạc trưởng của một dàn nhạc đại hoà tấu. Theo
nghĩa:
Những hiện tượng vật lý,
thí dụ như thuỷ triều, làm sao anh qua nổi con
trăng này?, trái sầu riêng rớt trúng
đầu… chúng có vẻ như chẳng ăn nhập gì với
nhau, cho đến khi Newton xuất hiện, và giơ cao cây đũa
thần, thế là mọi thứ y khuôn một phép, ai
vào vị trí đó, cùng tấu bản đại hoà
tấu “vạn vật hấp dẫn”!
Những trang Tin Văn tản mạn, không
đầu không đuôi, làm xàm, bá
láp… cũng đang chờ một độc giả xuất hiện, và
giơ cao cây đũa thần, và thế là bản “Diệt
Cái Ác Bắc Kít” được tấu lên!
*
Ui chao, vừa vừa thôi cha
nội!
Sắp chết, hiền đi là vừa
rồi!
*
Nếu vậy, thì lấy câu
dưới đây, làm "blast" cho Tin Văn:
"These fragments I have shored
against my ruins”
[Những mảnh miểng này, tôi
vun vén nhằm chống lại nỗi điêu tàn của
tôi:
Ôi, ôm Em trong tay
mà đã nhớ Em những ngày sắp tới].
Đây là câu thơ
– These fragments… - kết thúc Hoang Địa, The Waste
Land, của Eliot.
Câu thơ đưa chúng
ta trở về với Xuân Sách, khi ông hỏi Chế
Lan Viên:
Điêu Tàn ư,
Đâu chỉ có Điêu
Tàn? (1)
Đi tìm phê bình gia Mít
QUÊ HƯƠNG
Nhớ, có
ai đó nói câu này rất hay: Một mảnh
đất chỉ trở thành quê hương khi có hài
cốt của ít nhất một hai thế hệ chôn cất ở đó.
Quê hương, như vậy, k...
See More
QUÊ HƯƠNG
Nhớ, có
ai đó nói câu này rất hay: Một mảnh
đất chỉ trở thành quê hương khi có hài
cốt của ít nhất một hai thế hệ chôn cất ở đó.
Quê hương, như vậy, không phải chỉ là đất đai
mà còn là máu thịt của cha ông và
của đồng bào. Tính chất thiêng liêng
của lãnh thổ nằm ở phần máu thịt ấy. Đó chính
là lý do tại sao người ta, một mặt, không
dễ dàng chấp nhận một quốc gia mới nào đó
mình đang định cư là quê hương; mặt khác,
có thể sẵn sàng đổ máu để bảo vệ một mảnh
đất xa lơ xa lắc do cha ông để lại.
FB Thầy Kuốc
Note: Ý đó
của Garcia Marquez, Thầy vừa mới đi 1 đường tưởng niệm.
Vỗ ngực xưng tên nhà
tiến sĩ phê bình, mà “có ai nói
hoài”.
Tuy nhiên, có thể
Thầy vờ GM, vì GCC là người khui ra hình
ảnh thần sầu đó.
Khi GG mất, 1 tay trên tờ
Người Nữu Ước cũng nhắc tới chi tiết này, khi tưởng
niệm ông.
Thầy Kuốc chôm
không chỉ, mà hơn… 1 lần. Câu phán
trứ danh của Todorov, chủ nghĩa CS là con đường
“nhức nhối”, đi từ chủ nghĩa tư bản đến… chủ nghĩa tư
bản, Thầy cũng chôm, nhưng đổi thành, con đường “đẫm
máu”, và cũng, “ai đó nói”!
Tên thi sĩ dởm bạn quí
của TTT, chôm thơ Joseph Huỳnh Văn, nhưng đi 1 đuờng
chú thích, nhớ đọc đâu đó, hình
như trên tờ Thời Tập của VL!
Tên Lăng Băm thì
cũng rứa.
Ông cũng
không phải là nhà phê bình văn
học như ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi
đào mả tên tuổi các ông bà nhà
văn nhà thơ hải ngoại.
Quả thế, Gấu không
phải là nhà phê bình như Thầy Quốc!
Gấu chưa hề ăn
cắp, chôm chĩa, của bất cứ ai. Và luôn sẵn sàng
xin lỗi, bất kỳ 1 sai sót. Và rất tởm, phê
bình gia.
Khi bắt đầu bước chân vô
làng văn, Gấu
cũng bày đặt viết phê bình,
đọc sách, nhưng 1 khi ra được hải ngoại, Gấu đã
tự hứa với mình, không để mình vướng vào cái chốn
nhơ bẩn đó nữa.
Chỉ từ khi lập trang Tin Văn, thì
Gấu mới cầm lại cái nick tên "sa đích
văn nghệ", được thi sĩ Nguyên Sa ban cho, bởi vì,
chỉ có cách đó, may ra mới có thay đổi.
Một tên như… Gấu Cà
Chớn, gần như cả 1 đời người sống với chữ Mít, vậy mà
tên Lăng Băm này phán, ai cho phép
mi dám đào mồ mả nhà văn Mít, trong khi hắn,
1 tên cha căng chú kiết, vậy mà, chỉ trong 1 cái
còm, bôi bẩn, không chỉ những nhà văn Mít,
còn sống, mà luôn cả những người đã chết,
làm nhục 2, trong số 5 nhà văn nữ nổi tiếng nhất nhì
của Miền Nam trước 1975, và làm bẩn luôn cả 1
blog văn học, của 1 vị nữ chủ nhân?
Mi có thấy nhục không, khi viết
ra toàn những chuyện nhơ bửn như thế?
Bếp lửa trong văn chương
"Nơi chốn không chết
như con người, nhưng chúng tang thương dâu bể đến nỗi
chẳng còn chi được giữ lại, về một thời nó đã
là..." , W. Trévor viết về miền thơ ấu (Ái
Nhĩ Lan) của ông.
Tôi chỉ muốn thêm vô: "...
chẳng còn chi được giữ lại, cho một con người ngày
xưa đã từng ở đó."
Tôi cũng có đọc một lời khuyên,
nên viếng thăm nghĩa địa, mỗi lần ghé một thành
phố. Buendia, trong Trăm Năm Cô Đơn, (Garcia Marquez), muốn
bỏ Macondo, tìm một đất lành khác. Anh giải thích:
"con người thuộc về nơi chốn, khi dưới đất có một người chết".
Ursula, bà vợ dịu dàng, nhưng quyết liệt, "nếu cần một
cái mả, tôi sẽ ra đó nằm." Còn nhớ một cụ
già, khi nghe tin máy bay Mỹ oanh tạc miền Bắc, bà
cụ giật mình, vậy là động mồ động mả, ông bà
mình làm sao ngủ yên ?...
Sự không đọc "một số" tác giả,
ở một vài người, theo tôi, có thể là
do ngần ngại không dám gặp lại một số nhân vật,
một vài nơi chốn quá thân thiết với họ. Hà-nội,
thí dụ vậy. Như một nơi chốn. Như một nhân vật quá
đỗi thân thương; Eurydice, chẳng hạn. Đó cũng là
lý do, theo T. Tolstaya, khiến thi sĩ Joseph Brodsky không
thể trở về: ông sợ những ngôi mộ bị đào bới, sợ
quá khứ, kỷ niệm, những gì nhà thơ đã làm
được, cho St. Petersburg của ông.
Còn nhớ, cuốn truyện đầu tay, khi ra
ngoài này, tôi "ngỡ ngàng" thấy được
tái bản, "đau xót" khi đưa cho một người bạn coi, và
khi anh ta trả lại, với lời trách nhẹ nhàng, đại khái,
treo đầu dê, bán thịt chó. Ra ý, tên
truyện, Những ngày ở Sài-gòn, chỉ thấy, Hà-nội.
Đó là cuốn sách sau cùng,
thành phố được nhắc tới, "một thành phố của hương
thơm và mặt trời ve vuốt". Một anh bạn làm nghề xuất
bản, liền sau đó đã bị Phòng Kiểm Duyệt từ
chối một tập truyện. Cũng không thể khác được, chiến
tranh lúc đó đã trở nên ác liệt.
Khi Nguyễn Tuân than, "chúng ta"
có ít trang sách về Hà-nội, tôi
nghĩ, ông không muốn chấp nhận, "một số" trang sách
viết về nó. Về một Liên, ở đâu đó trong
Hà-nội, của Thanh Tâm Tuyền (Ung Thư; Liên, Đêm,
Mặt Trời Tìm Thấy). Lại càng không thể chấp nhận
một anh chàng Đại, trước khi bỏ Hà-nội ra "bưng",
đã để lại một cái bầu cho một cô gái. "Nó
là một thằng hèn! Tôi sẽ đập vào mặt
nó!", nhân vật chính trong Bếp Lửa đã giận
giữ, về người bạn của anh...
Có thể, Nguyễn Tuân không
biết tới những trang sách đó, những tác giả
đó. Cũng vậy, Lê Đạt chắc cũng chưa từng đọc, bản dịch
bài thơ Hoàng Hạc Lâu, của Vũ Hoàng
Chương.
Theo thi sĩ, và cũng còn là
ông thầy Việt văn của người viết - năm học Đệ Nhị, trường
Hồng Lạc, của thầy Đoàn Viết Lưu, khi còn là một
căn hộ, ở đường Sương Nguyệt Anh, Sài-gòn - bản dịch
của Tản Đà dùng vần bằng, thể thơ lục bát,
cho nên không diễn đạt hết ý nghĩa "bất phục phản"
- toàn "vần trắc" - trong nguyên bản. Bất phục phản! Nhân
một cơn say, ông nổi hứng, dịch một lần nữa, tạo thế chân
vạc cho bài thơ.
Họ Vũ vốn là dân toán, ông
vẫn bị ám ảnh bởi những hệ thống trục tọa độ, khi làm
thơ. Nhưng cái tam giác của ông, vô tình
làm tôi nhớ tới tam giác bếp núc của
C. Lévi-Strauss.
Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss,
chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên là
sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú vật.
Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa.
Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống.
Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó là
ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss. Phiền
một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói",
bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng,
đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như
gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu
kỳ văn minh.
Bắt chước Vũ Hoàng Chương, C. Lévi-Strauss,
tôi cũng tưởng tượng ra một thế chân vạc của Hà-nội.
Ở đây, không có nguyên bản, cứ coi như
vậy. Chỉ có dịch bản. Một Hà-nội, của những người di
cư, 1954. Một, của những người ra đi từ miền Bắc. Và một
của những người tù cải tạo, chưa bao giờ biết tới Hà-nội,
như của Nguyễn Chí Kham, trong lần ghé ngang, trên
chuyến tầu trở về với gia đình.
"Treo đầu dê, bán thịt chó".
Quả thế thật. Khi viết Những ngày ở Sài-gòn,
là lúc tôi quá nhớ Hà-nội. Mới lớn,
vừa mới kịp yêu mến cái cột đèn, cái
Hồ Gươm, cái Tháp Rùa, đùng một cái,
phải bỏ hết. Vào Nam, cố biến nó thành hiện
thực, qua hình ảnh một cô bé Hà-nội. Mối tình
tan vỡ, chỉ vì người nghe kể, là một cô bé
miền Nam: "Mai, để anh kể cho em nghe, về một thành phố thỉnh
thoảng buổi sáng có sương mù...".
Hà-nội của Nguyễn Chí Kham khác
hẳn. Cũng khác hẳn, Hà-nội của những người ra đi
từ miền Bắc. Ga Hàng Cỏ của Nguyễn Chí Kham không
có cảnh đưa tiễn những người đi vào Nam chiến đấu, và
một cô gái, trong một truyện ngắn của Lê Minh Hà,
(Trăng Goá, Văn), chỉ ngửi thấy chỗ nào cũng sặc mùi
nước đái, và đó là một trong những lý
do khiến cô chấp nhận lời cầu hôn, của "thủ trưởng" đám
bộ đội trẻ. Xin đừng nghĩ đến sự thô tục ở đây. Chỉ có
mùi nước tiểu "quyến rũ" đó mới tương xứng với lưỡi bom,
liếm đến đúng căn nhà của cô học trò thì
dừng lại, như có hẹn với cô gái, tuy đã đi
sơ tán, nhưng hôm đó phải trở về Hà-nội để lấy
phần gạo. Như thể lưỡi hái B.52 đến lúc đó mới thở
hắt ra hết hơi nóng của nó.
Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý hướng
tính", coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện
tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller)
sự ghê rợn và sự quyến rũ vào trong những
sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và
của những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch,
nguy hiểm trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú
ẩn của ân sủng và tình yêu." Tôi
đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta lại được đọc những trang
sách tuyệt vời, về Hà-nội. Có thể là do
một câu thơ và viễn ảnh khủng khiếp nó gây
ra ở nơi tôi. "Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ" (Trần Dần),
câu thơ như một "Apocalypse Now" (Tận Thế Là Đây),
không phải chỉ riêng cho Hà-nội. Làm sao mà
thi sĩ lại nhìn thấy suốt cuộc chiến sau đó, không
phải chiến thắng, mà huỷ diệt, một thành phố, rồi cùng
với nó, là biểu tượng của cả một dân tộc ?
Bạn hãy thử tưởng tượng Hà-nội,
như một cuốn sách, một bài thơ, một văn miếu, và
cơn thử thách của nó: lửa. Trong Farenheit 451, Ray
Bradbury tưởng tượng, một Nhà Nước ra lệnh huỷ diệt mọi cuốn
sách. Và một bà già đã chịu
chết trong thư viện của bà, giữa những cuốn sách đang
cháy. Người ta túa ra khắp nơi, để học thuộc lòng
những cuốn sách bị huỷ diệt. Họ trở thành những cuốn
sách sống. "Chỉ cần một kẻ ném lửa, tương tư, rồi bắt
đầu đọc một cuốn sách, là sự ghê tởm, tính
quái vật của Nhà Nước lộ rõ." (Thử thách
lửa, L'épreuve du feu, M. Delon, Magazine littéraire, Văn
Học Pháp, số tháng Chạp, 96). Ở đây, có một
điều gì thật trớ trêu, của định mệnh: một cách nào
đó, sự hung bạo của ngọn lửa, cũng "hung bạo" như giấc mơ của
loài người, về một cuốn sách toàn thể, về một
con người toàn thể. Nhân vật trong Lột Xác của Nguyễn
Tuân còn mơ tưởng một cuộc phần thư, chính thân
xác của mình.
Nhưng thư viện và cơn thử thách
của nó, lửa, với Hà-nội, chỉ mang tính
"ẩn dụ". Với Sài-gòn, nó bắt nguồn từ cuộc hỏa
thiêu thư viện đầu tiên của nhân loại, thư viện
(thành phố) Alexandrie. Người ta buộc tội ông tướng Ả
Rập, Amrou Ben Al-As, người đã chiến thắng Ai Cập vào
năm 642, là thủ phạm. Ông tướng này đốt thư viện
thành phố, sau khi "thăm dò" ý kiến Omar, người
kế tục Mahomet. Ông này trả lời: "Nếu tất cả những cuốn
sách đều hợp với (tinh thần) Coran, chúng vô dụng,
phải đốt hết. Nếu không hợp, chúng nguy hiểm, phải đốt
hết."
Sartre viết, Husserl không hề là
một nhà hiện thực. Nhà thơ như Trần Dần, nhà
văn như Lê Minh Hà, lại càng không. Đừng coi
những dòng kể của bà về Hà-nội, là hiện
thực chủ nghĩa, theo một nghĩa thô bạo nhất của nó. Vẫn
Sartre, trong bài viết đã dẫn, "Hiểu, là vỡ òa
về...", (Connaitre, c'est "s'éclater vers"), và đó
là ý nghĩa câu nói nổi tiếng của Husserl:
Ý thức chỉ là ý thức về một điều gì (Toute
conscience est conscience de quelque chose): y hệt như vết bom ngưng lại,
vì biết rằng, có một người, sau này sẽ viết ra,
điều này.
Trong một truyện ngắn khác, của cùng
tác giả, "bãi dâu xanh mênh mông,
hoa muồng muồng vàng rực, đình tám mái sân
đầy cứt chim..." như phô hết sự quyến rũ của chúng dưới
bầu trời: máy bay Mỹ đánh phá khắp nơi.
Hà-nội của Nguyễn Chí Kham đi
từ văn chương ra ngoài đời. Một Hà-nội của tưởng
tượng, của mơ tưởng, hoang tưởng, không tưởng... Chỉ là
những chi tiết, mọc lên từ hư không, dứt ra từ tưởng tượng.
Anh tù cải tạo, tới Hà-nội, tần ngần, ngơ ngẩn, giấu
biệt "căn cước" của mình, nhất là những ngày
tù ghê rợn. Bố anh là quân nhân. Mẹ anh
làm nghề nấu hàng cơm. Anh giúp mẹ đưa cơm tháng
cho cô giáo. Rồi nhờ cô kèm thêm. Anh
học trò ngày xưa, thành sĩ quan như bố, đi cải
tạo, mang theo cùng với anh vầng trăng thơ ấu, chiếu vào
hai mái đầu. Cô giáo trong Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi
(tập tuyện, nhà xb Tân Thư, Cali, 1997), mơ mộng về một
cái chết của người chồng phi công. Anh mất tích, như
một lần thất bại không thể mang trả bầu trời, những cơn mưa, những
cánh rừng... cho người vợ ở nhà.
Với Hà-nội của Nguyễn Chí Kham,
chúng ta lại phải đương đầu với một hoàn cảnh
trái ngược, tựa thể bầu trời mùa thu, chiếc áo
trắng phất phơ bay trong gió, những chiếc lá bàng...
toàn những tưởng tượng, trong tiểu thuyết (như trong
Đôi Bạn, của Nhất Linh...), bỗng biến thành hiện thực.
Cái cô học trò mà anh tù cải tạo
gặp ở nhà ga, trên cùng chuyến tầu, như mang
bóng dáng cô giáo, của cậu học trò
ngày nào. Làm sao mà không chia sẻ
với vầng trăng thơ ấu một kỷ niệm đẹp đẽ như vậy!
Vẫn cái tam giác bếp núc:
liệu chúng ta có thể nhìn ra, hiện tượng mất
cân bằng "sinh thái", - sự phân phối nước - ở hai
nhánh văn chương, tạo thành dòng văn học
hải ngoại? Phạm Thị Hoài, trong bài viết về vị thủ lĩnh
trong bóng tối, (Văn Học, Cali), có nhắc một câu của
Trần Dần, tôi đợi bọn trẻ chôn tôi. Bà cũng
coi, văn chương phản kháng ở trong nước, hiểu theo một nghĩa nào
đó, là Nhân Văn II. Người đọc vẫn chờ đợi Nhân
Văn II đi hết lưỡi lửa của nó, chờ đợi bao nhiêu chua chát,
cay đắng, bao nhiêu cái xấu, cái ác của
nhân vật, hoàn cảnh, trong tác phẩm của Dương Thu
Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... qua đi. Những trái
núi, bờ đê, "đập ngăn chặn Thái Bình Dương"
(M. Duras) phải được dẹp bỏ, hoặc trở nên dư thừa, khi những "cây
non" như Lê Minh Hà vượt cao hơn, sẵn sàng đương đầu
với sức nóng mặt trời. Thâm tâm những tác giả
"đàn anh, đàn chị" kể trên vẫn hằng mong như vậy.
Và đó là ý nghĩa "hoài bão" của
Trần Dần.
Trong hoàn cảnh đó, người tù
Nguyễn Chí Kham thấy thật cần thiết, phải giấu biệt những
khổ đau, (như một nạn nhân, của Hà-nội?), khi ghé
thăm thành phố.
Con người là tổng số những kinh nghiệm
về thời tiết (Faulkner). Tổng số những kinh nghiệm về khổ đau,
anh có rồi. Về thời tiết, chỉ thiếu Hà-nội. Người
tù đi qua cầu Long Biên, thò tay sờ lên thành
cầu, như rụt rè hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao
dấu vết bom đạn. Anh đang trên đường vào Hà-nội,
mang theo với anh tro than của những cuốn sách...
Nguyễn Quốc Trụ
Người tù đi qua cầu Long Biên,
thò tay sờ lên thành cầu, như rụt rè
hỏi thăm bao mùa nóng lạnh, bao dấu vết bom đạn. Anh đang
trên đường vào Hà-nội, mang theo với anh tro
than của những cuốn sách...
Bài viết này,
thoạt đầu tính viết như là lời giới thiệu cho 1 tập truyện
ngắn, của NCK, nhưng khi đọc, cả người viết nó, lẫn tác
giả tập truyện ngắn, đều nhận ra, cái phần của LMH nặng hơn cái
phần của NCK.
Và GCC phải viết 1 bài khác
thay thế, và đó là bài
Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi
Tôi
quen Nguyễn Chí Kham đã lâu, từ cái
hồi Nghệ Thuật. Truyện "đầu tay" của tôi, Nghệ Thuật số 9.
Của anh, số 10. Thành thử, giữa hai người viết, không
có tinh thần trên, dưới. Trộm nghĩ, cũng còn may,
ra tới ngoài này, được chiêm ngưỡng chiếu bồ đoàn
của một vị nữ tu, thí dụ vậy, chuyện trên, dưới tựa giấc
chiêm bao, hoặc thuộc tiền kiếp.
Dẫn nhập, theo kiểu thù tạc, cũng không.
"Thì cứ lảm nhảm đi, anh già này cũng
làm cho tụi mình vui lên được một vài phút!",
hình như tôi đã loáng thoáng nghe,
có một người trẻ, nói về thế hệ cha chú của mình,
những chủ xị, "mastermind" của cuộc chiến thịt da nát tan,
người chết hai lần...
Khi đọc sơ mấy truyện anh đưa, (Trăng Ơi Thơ
Ấu Mãi], tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, hay là
mình thử đề nghị với anh, với người đọc, một cách viết
"kép", theo kiểu Faulkner, khi viết Những Cây Cọ Dại,
The Wild Palms: hai truyện viết song song, xen kẽ, bề ngoài
chẳng có chi liên hệ.
Ở đây, có quá nhiều liên
hệ. Hai đứa cùng thời, cùng bị cuộc chiến hành
hạ, và khi thoát ra, mỗi đứa một cách. Và
tôi cũng tin rằng, khó có ai còn lành
lặn, sau một cuộc chiến như thế. Sau những ngày học tập dài
như thế. Tuy vậy, vết thương của anh, có vẻ không nặng nề,
qua những truyện ngắn kế bên. Anh mang theo vầng trăng qua những
trại tù, và nó cứ thơ ấu mãi, như một cậu
học trò ở trong anh. Cái cậu học trò này, ngày
xưa, chỉ mong được cô giáo gõ cho vài cái
vào tay, sau này bắt chước Anatole France, nhẹ nhàng
an ủi cô giáo, khi cô nằm trên giường bệnh:
"Hãy ngủ đi, ngày mai chúng ta sẽ lên đường."
Cậu học trò, không có những bước chân sáo,
không đi qua vườn Lục Xâm Bảo, nhưng ngày ngày
mang cơm cho cô giáo của mình. Cậu có một
ông bố ở trong quân đội, có một bà mẹ phải tần
tảo nuôi con... Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có
mãi một vầng trăng thơ ấu, như thế, trong một cuộc sống như thế.
Sau một cuộc chiến như thế. Đây là một phép lạ của
những bài toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ
chăng? Nếu cậu không gặp một cô giáo như thế, liệu
cậu có tìm ra vầng trăng "thề" thơ ấu mãi hay không?
Và cái bài học văn chương, phải chăng nó cũng
bắt nguồn từ đó?
Có những truyện ngắn thuộc loại "kiệt
xuất"; đọc, ta ngỡ ngàng, đến nghẹt thở, nhưng kể cả tác
giả, lẫn người đọc, đều không tin, nó sẽ có
những "đàn em". Tác giả khi viết, và độc giả,
khi đọc, đều cảm thấy sẽ có lúc phải chia tay với nhân
vật trong truyện. Truyện ngắn Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus,
hay Rượu Chưa Đủ của Dương Nghiễm Mậu, chẳng hạn. Tôi cứ nghĩ
đến cảnh chia tay của họ Dương, với bầy sư tử của ông. Tôi
vẫn nghĩ, những truyện ngắn như vậy, là những ẩn ức, những phẫn
nộ, những nỗi đau, của đời sống, nhiều hơn là của văn chương.
Với Nguyễn Chí Kham, độc giả không
gặp những truyện ngắn như vậy. Truyện ngắn của anh không
tạo những cú sốc, theo cả hai nghĩa văn chương, lẫn cuộc
đời. Cô giáo trong truyện Trăng ơi, thơ ấu mãi
không làm người đọc bận tâm với một con quỷ của
sự tò mò: cô có những nét riêng,
để người đọc nhớ, và làm cho cậu học trò mới
lớn phải bâng khuâng. Người đọc có thể tưởng tượng,
nhưng đừng quyết đoán, việc cô tức giận, khi cố gắng làm
cho cậu học trò hiểu một bài toán: một cố gắng để
ngăn chặn tình cảm, chỉ ở mức đó, giữa hai người. Có
thể chính vì vậy mà cậu học trò không
thể chia tay với cô giáo, và tìm cách
cho cô giáo sống lại mãi mãi, cùng với
vầng trăng thơ ấu. Chúng ta sẽ còn gặp cô, ở trong
những truyện sau.
Và tôi cứ tưởng tượng ra cậu học
trò ngày xưa, đã nói với cô giáo
như thế này:
"Đó là một điều cô dậy em,
tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều điều. Trước tiên,
cô đã nhốt em trong nụ cười của cô, như người học
trò trong lớp học tháng tám. Rồi cô trả
em về thế gian, với bổn phận viết về nó, như nó là:
đen rợn người ở bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên
dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme.
Tu m' as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé
dans ton rire comme un écolier dans la classe au mois d'aout,
puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme
il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."
(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê rợn, phải chăng
là những ngày dài, trước, trong, và
sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là vầng trăng
thơ ấu mãi?
NQT
Lũ Mít, ai
không biết, riêng với GCC, đọc/viết không phải là
duyên mà là... họa!
Cái đọc trước 1975, là để rước cái
họa Lò Thiêu sau này!
Là, để vào lúc,
tới được Xứ Lạnh, vô thư viện Toronto và cầm lên
cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng
của Steiner!
Primo Levi phán y chang:
Viết và cho xb Đây có
phải là 1 người, và
Hưu Chiến, đánh 1 cái
dấu quyết định lên đời tôi, không
chỉ như là 1 nhà văn...
Kafka mà không thế ư. Ông Trời
năn nỉ thiếu điều lạy lục tôi, đừng viết.
NO!
Since then, at an
uncertain hour,
That agony returns:
And till my ghastly
tale is told,
This heart within
me burns.
Kể từ đó, đâu biết
giờ nào,
Cơn hấp
hối đó trở lại,
Và
cho tới khi câu chuyện thê lương của tôi
được kể
Trái
tim này trong tôi bỏng rát.
Để "minh họa" cho cái ý
tưởng, cái đọc trước 1975, giống như 1 cuộc xét
nghiệm, the test, của Kafka, hay, như 1 sửa soạn, trained, theo
bài viết trên tờ Guardian, theo đó,
can đảm là phải được rèn luyện, để sau này, ra hải
ngoại, được hưởng cái họa/món quà của Thượng
Đế… : Lò Thiêu, GCC kể chuyện tù VC ở
nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè.
The test, the trained,
tên tù VC....
"Cho đến khi câu
chuyện thê luơng được kể,
Trái tim này
trong GCC bỏng rát"
Đã tính
không kể, mang đi theo, nhưng ông Trời chưa
cho đi....
V/v cái họa, món
quà…. vị bằng hữu O. cho biết, nó chỉ là
“sự nhẹ nhàng”:
Câu này của
OVID, người La Mã, chết trước Chúa Giêsu
khoảng chục năm
Bác tìm
câu Mathêu, chương 11, "hãy mang lấy
ách của Ta' tìm trong usccb.org của các giám
mục Mỹ, bác sẽ thấy light nghĩa là nhẹ nhàng.
Hãy đến với Ta,
hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Và
Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức:
29 Hãy mang lấy
ách của Ta vào mình, hãy thụ
giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ
tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn. 30 Vì
chưng ách Ta thì êm ái, và
gánh Ta lại nhẹ nhàng".
Bible Mathew chpter 11
27 “All things have been
committed to me by my Father. No one knows the Son except
the Father, and no one knows the Father except the Son and
those to whom the Son chooses to reveal him.
28 “Come to me, all you
who are weary and burdened, and I will give you rest.
29 Take my yoke upon you and learn from me, for I am gentle
and humble in heart, and you will find rest for your souls.
30 For my yoke is easy and my burden is light.”
28 « Venez à
moi, vous tous qui peinez sous le poids du fardeau,
et moi, je vous procurerai le repos.
29 Prenez sur vous mon
joug, devenez mes disciples, car je suis doux et humble
de cœur, et vous trouverez le repos pour votre âme.
30 Oui, mon joug est facile
à porter, et mon fardeau, léger. »
Lịch sử tan rã ra
bằng hình ảnh, không phải bằng tự sự."
"History decomposes into images, not into
narratives." Walter Benjamin
Hình ảnh mấy nấm mồ
che tầm nhìn, đằng sau nó, là biển cả trấn ngự,
và cùng với nó, là tất cả tai ương Mùa
Biển Động, của dân Mít, mà không nói
hết ra được thảm họa
Bắc Kít chiếm nước Mít bây
giờ ư?
Hình ảnh mấy nấm mồ, quá cả lịch sử,
theo nghĩa quá khứ, còn cưu mang trong
nó, tương lai, hy vọng.
INTERVIEWER:
Do you make a distinction-as E. M. Forster does-between
"flat" and "round" characters?
HEMINGWAY: If you describe
someone, it is flat, as a photograph as, and from my
standpoint a failure. If you make him up from what you know,
there should be all the dimensions.
Nếu bạn miêu tả
một ai đó, bèn bẹt, như là 1 tấm hình,
theo quan điểm của tôi, thì đó là
1 thất bại. Nếu bạn viết về người đó, quá người
đó, quá cái mà bạn hiểu về người đó,
thì đó mới là thần sầu
The Paris Review, May
1954.
Đây là
cái mà GCC gọi là viễn ảnh, của 1 bài
viết
Một khi bạn không
có cái viễn ảnh, cho bài viết của
bạn, thì kể như bài viết vứt đi.
Walter Benjamin phán,
bảnh nhất:
Lịch sử rã ra bằng
hình ảnh, không phải bằng tự sự (1)
Viễn ảnh, có khi nằm
ngay trong bài viết, của 1 tác giả, và, nếu
bạn là phê bình gia, bạn phải lôi được
nó ra.
Hình ảnh anh
chàng lỡ độ đường, ôm cái bọc quần aó,
đứng lom khom bên lu nước, in lên bầu trời, mỗi lần
hoả châu rực
sáng, trong Dọc Đường, của TTT, không ai dám
chứa anh ta, chẳng phải là hình ảnh 1 tên Mít,
vượt biển, không nơi nào dám chứa, nhận... ư?
Đâu chỉ xứ Mít?
Hình ảnh mấy nấm mồ che
tầm nhìn, đằng sau nó, là biển cả trấn
ngự, và cùng với nó, là tất cả tai ương Mùa
Biển Động, của dân Mít, mà không
nói hết ra được thảm họa Bắc Kít chiếm nước
Mít bây giờ ư?
Hình mấy nấm mồ, quá
cả lịch sử, theo nghĩa quá khứ, còn cưu
mang trong nó, tương lai, hy vọng.
(1)
http://www.tanvien.net/Tribute_1/NMG_1.html
"Lịch sử tan rã ra bằng
hình ảnh, không phải bằng tự sự." ["History
decomposes into images, not into narratives." Walter Benjamin,
trích dẫn bởi Coetzee].
Hình ảnh cái
đầu khổng lồ rã ra từ một bức tượng khổng lồ của
Lênin. Hình ảnh một con người chặn cả đoàn
xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn. Cái
bóng (có thực, hoặc tưởng tượng) của một người đàn
ông lỡ độ đường, lom khom với bọc quần áo, in lên
nền trời, mỗi lần hoả châu rực sáng, trong truyện ngắn
"Dọc Đường" của Thanh Tâm Tuyền.
Pleiku - Chút Gì Để Nhớ
Bài này mới thần
sầu. GCC khám phá ra tác giả HH, qua
bài này.
Trong bài viết, Pleiku
là thành phố tưởng tượng, vì đã tới
đó bao giờ đâu. Nhưng mấy nơi chốn kia thì
có thực, vì đã từng thăm viếng.
Dùng cái
thực để dựng lên cái ảo, thế mới tuyệt.
Trước khi thấy
biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi
mộ của người tị nạn.
"Khói củi ướt nhóm
trong lò bốc lên màu xám
trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương"
Thực.
Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây
buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên
tóc em ướt. Nên mắt em ướt. . .
Đó là
lần đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong
bài thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc.
Ảo
Được Ông Gấu khen thì
đúng là lên thiên đàng!
Tks again
Take care
NQT
Note: Cái tên Lang
Băm đâu có biết là GCC đọc Bà Tám,
ngay khi vừa xuất hiện?
Đọc Lê Minh Hà,
khi cả xứ Bắc Kít chê, hoặc chưa hề nghe nói
tới...
Ngay cả Nhà Có
Cửa Khóa, thì cũng GCC khám phá
ra, khác hẳn cái em ông tiên chỉ VP
nức nở khen cái xì...
Chẳng cần tới Lạc Đạn, Trần Thị NgH
đã nổi tiếng. Trong bài viết "Nhìn lại
văn chương hải ngoại năm 1999" (đã đăng trên tuần
báo VHNT trên internet, do Phạm Chi Lan chủ trương),
người viết có đưa ra nhận xét, đây là
một năm được mùa. Mùa gặt mới trong đó có
cả lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác
giả như Trần Thị NgH. Một tác giả trước 1975 tại Miền Nam,
vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách
ở Sài Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá
Trái. Theo tôi, truyện đầu tay của bà là
về một người đàn ông có vợ, nhân bữa chủ nhật
được nghỉ, đi thăm một người đàn bà không chồng
nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng
đi mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng tôi
vẫn còn nhớ cái cảnh cô đơn của người đàn ông
gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác trước tiệm thuốc
tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm.
Truyện được viết bằng một giọng văn rất trung tính (neutre),
rất không độ ("Không độ của cách viết", Roland Barthes),
không lạm dụng những thủ pháp tu từ, không thảm
kịch hóa hoàn cảnh, không có chất ngổ ngáo,
rất NgH như nguời ta thường nhận định về bà.
Phê bình gia Mít
1.
Lang Băm | March 8, 2014
at 4:00 pm
Ông T
Tôi nghĩ ông nên
từ tốn và tiêu hóa điều
mình muốn phát biểu trước khi viết
xuống. Ông hơi tự sướng quá đà.
Ông ở tận Canada ông
làm sao biết ở Calif mối liên
lạc giữa các trùm sò văn chương
hải ngoại thời đó với các bà
cỡ Mai Ninh thấu tới đâu. Những áp phe tình
ái của Khánh Trường với các bà
nổi lều bều trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu hiệp.
Khánh Trường chủ tờ Hợp Lưu và các “đàn
anh văn nghệ” của Khánh Trường mới là những
người được hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham
danh dâng hiến, í lộn, do các bà nữ
dzăng thơi sỡi quyên góp tiền bạc nuôi Hợp
Lưu ngày Khánh Trường chưa ngồi xe lăn.
Quyển sổ áp phe của bà
Trần Thị Ng.H thì cỡ ông làm
gì được chấm mút. Thanh
Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn
Đình Toàn thì cũng chưa nhằm
nhò gì so với các áp phe
khủng của bà này
Ông cũng không phải
là nhà phê bình
văn học như ông Cuốc Kức thì làm
sao mà đòi đào mả tên tuổi
các ông bà nhà văn nhà
thơ hải ngoại.
Ông cũng chả có công mẹ gì
trong cái vụ bà Tám
ló ra ló vào văn chương
này cả. Lý do là trang của ông
chỉ một mình ông tự sướng. Bà
Tám thì gửi bài cho nhiều nơi khác
như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org),
Thư Quán Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và
nhiều nơi khác. Như vậy bà Tám được
nhiều nơi khác giới thiệu cùng một lúc,
mà ông nào có phải là
nhà phê bình và là chủ bút
một tờ báo nào đâu mà ông
bảo là ông xúc bà Tám lên.
Note:
Cái vụ, như của
tên Lăng Băm, đã từng xẩy ra, với NHN, “người ở Na Uy”,
như ông ta tự giới thiệu với GCC, khi gặp ở Cà Phê
Factory, lần NHN qua
Cali ra mắt
sách, cùng với bà vợ, vốn là
phu nhân của TBS, bạn đường của Nhất Linh, khi NHN đụng vô
bà vợ của VQ, trên tờ LV ở Canada.
Bà vợ VQ, bỏ chồng lấy Mẽo, sau 30 Tháng
Tư, di tản qua Mẽo, viết sách nói
xấu chồng cũ và cả 1 lô sĩ quan thượng cấp của VQ.
Bà này, dữ lắm, bèn
đưa ông NHN ra tòa.
Khi tên LB lợi dụng blog của
người quen, viết cái còm, bôi xấu, hạ
nhục, vấy bẩn… cả 1 lô văn thi sĩ, trong có GCC, Gấu
bèn
mang về TV, tính đi 1 đường đáp lễ, nhưng lại ngại
chuyện bé xé ra to, ảnh hưởng tới vị chủ blog. Nên
đành nín khe. Chỉ một khi thấy êm ru bà
rù, chắc là mấy vị nữ văn sĩ Mít, không
đọc cái blog nổi tiếng của nữ “dzăng sĩ” nổi tiếng - mấy
nhà văn nam, như TTT, NXH thì đi xa hết rồi - GCC mới
dám lôi ra lèm bèm, lèng èng,
sau khi truy ra tên thực – tên thường dùng khi viết
của tên LB.
Quả đúng là 1 tên
vô danh tiểu tốt, hắn thù hận, đố kỵ với, hầu
như tất cả những người có chút tên tuổi.
Thầy Quốc, thí dụ, hẳn là
chẳng biết hắn là ai, và hắn, cũng chưa từng đụng
độ. Vậy mà dùng từ mới bửn làm sao, "chỉ để
chửi Gấu", mi đâu
phải phê bình gia.
Đúng ra, khi để cho tên
này muợn blog làm chuyện vô hạnh như vậy,
là phải delete liền, và bắt buộc phải đi 1 đường xin lỗi những người
bị tên khốn này bôi bẩn.
Nhưng thôi, bỏ.
Chẳng bõ.
Vả chăng TV lên tiếng, 1
phần là vì những vị nữ lưu.
Gấu chửi thiên hạ, sợ còn
hơn cả
thiên hạ chửi Gấu, đâu thèm để ý
đến 1 tên như tên LB!
NQT
V/v "Chẳng bõ", từ này của chính TTT,
qua nhân vật Kiệt, trong MCNK, nói với cô
học trò tên Oanh, khi cô ngỏ ý, bỏ hết,
theo Thầy..
TTT, NXH chết cả rồi, mà còn
bị tên khốn này lôi ra bôi bửn.
Đi tìm phê bình gia Mít
Tuần
này, ba tờ Guardian Weekly, NYRB, và
The New Yorker đều có những bài tuyệt
vời, và đều như dành riêng cho TV.
Thực sự là thế,
thế mới thú.
Truyện ngắn trên,
gửi theo ông anh & ông via của GCC & DS mà chẳng tuyệt cú
mèo sao?
TV sẽ có bản tiếng
Việt soonest possible.
Bài trên Guardian
cuối tuần, mới cực bảnh.
GCC vừa mới phách
lối về.... GCC:
Mi được lọc ra để đối mặt
với Cái Ác Bắc Kít & Lò
Thiêu, ngay từ những năm bắt đầu học trung học, khi mi
chọn làm 1 tên thợ máy Bưu Điện.
Guardian
Weekly phán tiếp, đúng
như thế!
Bài
này quá tuyệt. Đúng thứ Mít
cần. Can đảm không mắc mớ đến triết học, đến trừu tượng. Nó thực, cụ thể còn hơn cả đời sống.
Mi cần một động cơ, một mục đích mà mi cảm thấy mê mẩn
vì/về nó
Tại làm
sao mà GCC.... can đảm như thế?
Tớ được đào
luyện, trained.
Can đảm, đào
luyện?
Polly Morland
True grit lies in knowing that you
can change. And although transformation is sometimes
hard to imagine, both courage and resilience can be learned.
Thanks to the findings of
the US psychologist Angela Duckworth, what gives you
grit - and whether you can change to develop it - is very much
on the agenda. We once intoned "Every day in every way, I'm
getting better and better;' or we machinated about winning friends
and influencing people.
But we barely paused for breath
before turning to the cultivation of (seven) habits
of highly effective people and, not long after, the winning
ways of outliers. And on it rolls - our hunger for remedies
for mediocrity is as insatiable as ever.
Of course,
the question at the heart of this, and of every self-improvement
project since Aristotle codified the virtues, is the
extent to which any of us is up to the daunting job of changing
who we are and what we do in order to live better lives.
For having pinned down this "why" of change (in this case,
success), the "whether" and the "how" still set our heads spinning.
The problem is exacerbated by the fact that much academic literature
can be unapproachable; or when the ideas are packaged for a popular
audience they often become slogan-driven, formulaic and even
trite.
But if
my work as a writer and film-maker has taught me anything,
it's that if you listen to ordinary people you hear complex
philosophical and psychological ideas expressed with great clarity.
Their experiences can often provide more real-world nuance than
scholarly or self-help tomes because they're not driven by proving
or disproving a particular theory; people are just telling their
stories.
Giving
a voice to those stories has inspired much of my work:
first on courage, and whether and how people learn to be brave;
next on risk, how we learn to mediate risk in an uncertain world;
and most recently on how and why we change. In each case I met
men and women with real grit, and, sure enough, they were full
of remarkable insight. The point here is that real- world stories
can make a real-world difference. Change is hard because it is
difficult to imagine. And if it is hard to imagine, then it is even
harder to do. Recent research from Harvard University identified
the "end-of-history illusion", the peculiar cognitive blind spot whereby,
regardless of age, people acknowledge they've changed significantly
in the past, while anticipating little change in looking to the future.
This, researchers suggest, is because it is simply tougher in terms
of the cognitive process to imagine a new story than it is to reconstruct
an old one.
If you
consider the deliberate changes that some of us want or
need to make, the end-of- history illusion can be a considerable
obstacle
'Bravery doesn't come in the abstract.
It's more concrete. You need a cause you feel passionate
about'
-
not least because other research, from Stanford University,
has shown that a belief in your own ability to change
turns out to be a key indicator of whether you actually can.
In other words, if real-world stories of change, with all their
untidy individuality, convince people that change is possible
- even that it is the norm - this can prove more powerful than any
one-size-fits-all change paradigm, whether it's grit you're after
or some other transformation of your daily status quo.
In 2011,
I met a man with more grit than most. Bernard Lafayette is
a veteran of the American civil rights movement. He was there on
the freedom rides, was twice targeted by the KKK, and was with Martin
Luther King at the Lorraine Motel the night before his assassination
in 1968. Lafayette told me about the night in 1960 he was nearly
lynched by a mob of taxi drivers after an all-night sit-in at the
Nashville bus station cafe- teria. He described the beating in great
detail - the fear, the pain, and how in the end he'd got up, wiped a
shoe print from his face and said, "If you gentlemen are through, would
you please excuse me," and walked away.
Asked
how he'd been capable of that kind of composure, Lafayette
said: "Because I'd been trained."
"Literally?"
I asked. "You can learn to be brave in that situation?"
To which
he replied: "Yes you can. Bravery . doesn't come in the abstract.
It's more concrete than that. You have to have a goal or
a cause that you feel passionate about, and if it's important enough
to you, then you learn to strengthen!' His faith in the teachability
of sudi'grit was indeed because he had been taught it through
nonvio- lence workshops for activists in the American south
in the late 50S. What Lafayette does now is pass that teaching
on. And it's as powerful a testimony as any that something as complex
and elusive as courage can, at least in part, be learned.
This
truth sits at the heart of so many lives, so much change, around
us. And whether you're losing weight, changing your job or your partner,
overcoming personal disaster, beating addiction, fighting for
freedom or simply mustering your own inner grit, the recollection
that it can done - not on the page or in theory but in the real world
- is one that we should all hold on to.
Một vị thân hữu
của TV - K, thì cứ nói đại ra ở đây - hỏi
Gấu, trong cuộc chiến, anh trốn nó, bằng đọc sách.
Ra hải ngoại, tại sao đọc?
Cái đọc của Gấu bây
giờ, khác hẳn trước đây, trước là chạy
trốn, bây giờ là chạy vô, cố giải ra được Cái
Ác Bắt Kít, thì cứ gọi đại như vậy.
Nhưng phải đến chót
đời, “mai tớ đi rồi”, thì mới ngộ ra, mi là
người được “trained”, để làm cái việc đó!
Hà, hà!
Một vị bằng hữu, sĩ quan Ngụy-
cũng hay ngồi Quán Chùa, coi GCC như anh,
cũng mê TTT như GCC- NCK, nhận xét, trước 1 sau 10,
đúng như lời Bác Hồ, ấy là nói về cái
đọc, cái viết của GCC, trước 1975, và sau đó,
ở hải ngoại.
Phải đến giờ này, thì
GCC mới hiểu ra, cái đọc/viết trước đây, là
để sửa soạn, trained, cho cái đọc/viết sau này.
Cho cái việc làm
trang TV.
Nghĩa là, sau khi gặp
K [vị bằng hữu K, K. của Buzzati, và Kafka], và
qua được cú xét nghiệm, the test, của Kafka!
"Mai anh đi rồi", bốc phét
kinh quá!
Le K (nouvelle)
https://fr.wikipedia.org/wiki/Le_K_%28nouvelle%29
Ui chao, nhìn cái
hình, thì lại nhớ ra Rule "number 1" của art2all!
Résumé:
Le K raconte l'histoire d'un garçon,
Stefano, poursuivi par un monstre marin aux allures de
squale géant, appelé « le K ». Il
le fuit toute sa vie en restant loin des côtes d'abord. Mais
ensuite l'appel de la mer et du K se font ressentir et il devient
un marin qui parcourt le monde sur son bateau, voyant le K comme
une malédiction. Alors qu'il est sur le point de mourir de
vieillesse, il décide d'aller à la rencontre de son
destin en affrontant le K ; ce dernier est aussi exténué
que lui et lui transmet enfin le message qui lui était destiné.
Il était en fait chargé de lui remettre une perle magique
capable de lui assurer réussite, richesse et bonheur durant toute
sa vie. Cet homme a refusé son destin jusqu'au crépuscule
de sa vie, refusant en fait la promesse de bonheur éternel qui
lui était destinée...
Analyse : Le K est à rapprocher
d'autres nouvelles de Dino Buzzati qui ont pour thème
récurrent la fuite du temps, la vie qui passe sans que
l'homme ne s'en aperçoive : tout à coup le personnage
du récit découvre qu'il est vieux, et qu'il a passé
sa vie à la poursuite d'une illusion : le K, bien sûr,
mais aussi Jeune fille qui tombe, tombe, la tour Eiffel par exemple.
On note que le "voyage" dans le temps se fait de façon horizontale,
sur la mer, dans le K, et de façon verticale dans les deux
autres nouvelles citées (de haut en bas dans '"Jeune fille qui
tombe" et de bas en haut dans "la tour Eiffel) . Dans la nouvelle
" sept étages" (sette piani) on retrouve aussi cette thématique
de la verticalité : un homme est hospitalisé dans
un établissement des plus modernes qui compte sept étages
: le parcours des malades les amène de plus en plus haut dans
l'hôpital, jusqu'à la mort. Ces nouvelles sont évidemment
des métaphores de la vie humaine : chez Buzzati l'homme
s'étourdit dans la vie active, dans les relations mondaines
etc. pour fuir la vieillesse et la mort, qui arrivent brutalement
sans qu'il en ait eu conscience.
Khi Drogo chết (như là
một anh già, với ước mơ chiến thắng Rợ Tác Ta mũi
tẹt không thoả nguyện), Buzzati có đó,
để an ủi bồ tèo của mình. Khi Don Quixote ngỏm, Cervantes
ú ớ, không biết nói câu giã
từ kẻ mà mình sáng tạo ra, bèn lắp ba
lắp bắp: "Cái phần tinh anh của Ngài [Đức Ông, Don],
đã bỏ Ngài, tôi muốn nói, Ngài ngỏm
rồi". Trước cái chết của Drogo, Buzzati an ủi kẻ mà
mình tạo ra, này, vưỡn còn một trận uýnh,
bảnh lắm, rất xứng đáng với bồ tèo!
Không phải trận đánh
chống Rợ Tác Ta mũi tẹt, cũng không phải
trận đánh chống lại "những con người như bồ tèo
- những con người bị tra tấn, như bồ tèo đang bị tra trấn
- bằng chờ đợi, chờ hoài chờ huỷ một trận đánh đếch xẩy
ra, bằng đau khổ, với thịt da rất dễ bị bầm dập, với bộ mặt mà
một con người có thể nhìn vô, [và nhỏ
lệ, như BHD đã từng nhỏ lệ, lần Gấu ăn mìn VC!]” nhưng
mà là một trận đánh chống lại "một sinh vật
vừa quỉ ma vừa quyền lực vô biên, vô cùng
tận" [Cái Ác Bắc Kít]. Và Buzatti bèn
nói thêm, điều này:
“Hãy can đảm, Drogo, đây
là con bài chót của bồ tèo – đi tới cái
chết, như là một người lính, và cho phép cuộc
đời lầm lẫn của bồ có được một cái tận cùng thật bảnh.
Cuối cùng, bồ đã chơi cho số mệnh một cú thật hách.
Chẳng có ai ca ngợi bạn, chẳng có ai gọi bạn là anh
hùng [Núp], hay dũng sĩ diệt Mỹ Ngụy, hay một cái tên
na ná như vậy, và, chính vì lý do này,
mà thật đáng công, bõ chết. Bước qua lằn ranh
mờ mờ ảo ảo bằng một bước thật vững vàng, đầu ngẩng cao như đang đi
diễn hành trước Lăng Bác, và nếu có thể, mỉm
cười. Nói cho cùng, luơng tâm của bạn sẽ không đến
nỗi quá nặng nề. Bạn sẽ không phải tự vấn, tự kiểm, tôi
là một thằng hèn, tôi đang đi tìm cái
tôi đếch có, cả đời tôi ăn bánh vẽ... Và Thượng Đế bèn mỉm cười,
trao tặng bạn gói quà, là lời tha thứ của Người.”
Vào cái giờ sắp
đi, đó là những dòng mà Gấu
mong, mình sẽ nhớ, và lẩm bẩm mang theo cùng
với Gấu!
Trong những “sửa
soạn”, mà Ông Trời dành cho GCC, để qua
được cuộc xét nghiệm của Kafka, có, cuộc “diễn tập”,
trước khi thưởng thức món “chuột đồng”, thời gian ở nông
trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng
Sát thời nào.
Vào Nam, đi học, ra truờng, cày
hai jobs, Gấu quên hẳn cái đói, ám
ảnh đói cũng không luôn, cho tới khi đi tù
VC.
Suốt thời gian dài như thế đó,
Gấu không hề được thưởng thức món thịt chuột,
một đặc sản thần sầu của Miền Nam.
Nhờ Gấu Cái thăm nuôi lần
đầu, sau mấy tháng bặt tin, vì/và lo cho
thằng con trai vượt biên đường bộ Kampuchia, bị bắt, bị đưa
vô khám Chí Hòa.
Lo cho thằng con xong, vừa lúc
1 ông nhóc con trốn thoát Đỗ Hòa,
đến nhà cho biết Gấu, bị tống lên đó.
Thằng nhóc trốn thoát
Đỗ Hòa, là nhờ GCC.
Cám ơn
12/29/11 at 8:14 PM
Cám ơn Bác Trụ.
Những lời ưu ái của Bác làm HH cảm
động vô cùng. Xin chúc hai Bác năm mới
bình an, con cháu thành công. Chúc
Bác khỏe và sáng tạo dồi dào.
https://chuyenbangquo.wordpress.com/category/cam-on/
Cám ơn
Có việc đi xa, về nhà
thấy nhà có khách viếng rôm
rả. Xem lại té ra Bác Gấu làm một cái
PR dùm cho cái blog hiu quạnh này.
Cám ơn Bác lắm, nhưng xin Bác làm ơn
lấy chữ dzăng sĩ lại giùm, viết ấm ớ lăng nhăng mà
Bác khen quá sợ đâm ra hư.
Note: Tính đi 1 đường "lèng
èng", theo air PD, trả hết cho người, nào chữ
người viết.... nào môi người cười - cái này thì
phải tưởng tượng - nhưng sợ bị chửi, 1 tên biến thái, giờ thêm 1 tên già mất nết, chịu sao nổi!
Hà, hà!
Ui chao, lại nhớ lần xém
được chiêm ngưỡng dung nhan Cô Tú.
Mi muốn gặp ta ư, bữa nay ta làm
MC ra mắt sách cho bộ lạc Cờ Lăng, ở nhà hàng
đó đó...
Summary |
|
Reported period |
Month
May 2016 |
First visit |
01 May 2016 - 00:00 |
Last visit |
29 May 2016 - 13:51 |
|
Unique visitors |
Number of visits |
Pages |
Hits |
Bandwidth |
Viewed traffic * |
3,105
|
13,254
(4.26 visits/visitor) |
403,194
(30.42 Pages/Visit) |
458,315
(34.57 Hits/Visit) |
130.42 GB
(10318.23 KB/Visit) |
Not viewed traffic * |
|
43,729 |
68,321 |
9.13 GB |
|
Một vị khách TV thường
ghé 4 lần/1 ngày. Có thể là nhờ FB, bây
giờ tăng lên thành 4,26.
Câu
chuyện người đẹp lầu xanh trầm mình cùng kho
tàng, GCC đọc, khi làm anh bán báo,
cái sạp báo của mình, ở trước chung cư 29/8D Nguyễn
Bỉnh Khiêm, trong 1 tuyển tập truyện tình thần sầu
của Tẫu.
Tẫu, theo GCC, là số 1 về những
truyện tình, và họ chia ra nhiều thứ truyện tình,
tình si, tình hiệp, tình nghiệt…
Trong số ngọc ngà châu
báu mà người đẹp mang theo cùng với mình,
có 1 bảo vật, thuộc thứ đệ nhất kỳ quan, và người đời suýt soa,
thế là tuyệt tích giang hồ.
Một tên GCC “nào đó”,
đọc, mê
nàng quá, bèn mò tới chỗ nàng trầm
mình, đốt hương, khóc nàng 1 phát, rất
ư là thảm thiết, và trong đêm, nàng hiện về,
cùng với bảo vật, ta cho mi đấy, chỉ mi xứng đáng…
Quả có 1 tên GCC nào
đó, thiệt.
Hắn viết:
Như người xưa đánh rớt cây
gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
chàng trở lại quán xưa, tìm vết hài
trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của BHD vưỡn
còn văng vảng đâu đây!
Ôi, thật là vãi
lệ!
Sách
Báo
Đi tìm phê bình gia Mít
Tên khốn
Lang Băm này hẳn là 1 trong những độc giả TV,
thế mới chán. Bởi là vì, chỉ trong những lúc
phởn quá, vả lại, trang của mình, nhà của
mình, Gấu có khoe khoang, đã từng khám
phá ra nhà văn mũi tẹt này, mũi lõ kia.
Vả chăng, đây chính là tâm niệm của
Gấu, ngay từ khi mới viết. Khi giữ mục “tạp ghi” cho tờ Vấn Đề,
Gấu giới thiệu những tác giả mà xứ Mít chưa từng
có ai nhắc tới, hoặc có nhắc tới, vậy vậy. Beckett, Barthes,
Kafka, Genette, Lukacs… Thật sự Gấu không tin tên Lang
Băm đã từng đọc 1 trong họ. Ngay cả những nhà văn nữ
xứ Mít mà tên này lôi ra làm
nhục, họ đều là những nhà văn có tài, có
tác phẩm. Viết cực bẩn như thế, làm sao ăn nói
với chính nữ tác giả, chủ cái blog lỡ quen tên
khốn này?
[Lại] vả chăng, có bài
viết, đăng trên blog này, chưa đã cơn
háo danh, bèn cho đăng trên blog khác,
hết Da Mùi, tới Văn Vịt…. , như thế là làm hoen ố, nhơ bửn, đứa con
tinh thần của mình.
Một bài viết ở hải ngoại,
bản thân nó, đâu muốn về đầu thú
lũ Vẹm?
Khi
Gấu làm trang Tin Văn, chưa có blog free như bây
giờ. Trang art2all cũng chưa. Giả như có rồi, có
khi khỏi cần lập trang TV. Bởi là vì, có 1, hoặc
cao lắm, 2 diễn đàn, bạn hãnh diện được đăng bài
ở đó.
Nó, hãnh diện?
Chưa chắc!
Ông cũng chả có công mẹ gì
trong cái vụ bà Tám ló
ra ló vào văn chương này
cả. Lý do là trang của ông chỉ
một mình ông tự sướng. Bà Tám
thì gửi bài cho nhiều nơi khác
như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org),
Thư Quán Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và
nhiều nơi khác. Như vậy bà Tám được
nhiều nơi khác giới thiệu cùng một lúc,
mà ông nào có phải là nhà
phê bình và là chủ bút
một tờ báo nào đâu mà ông
bảo là ông xúc bà Tám lên.
LB
Cám
ơn
12/29/11 at 8:14 PM
Cám ơn Bác Trụ. Những
lời ưu ái của Bác làm HH cảm động vô
cùng. Xin chúc hai Bác năm mới bình
an, con cháu thành công. Chúc Bác
khỏe và sáng tạo dồi dào.
https://chuyenbangquo.wordpress.com/category/cam-on/
Cám ơn
Có việc đi xa, về nhà
thấy nhà có khách viếng rôm rả. Xem
lại té ra Bác Gấu làm một cái PR dùm
cho cái blog hiu quạnh này. Cám ơn Bác
lắm, nhưng xin Bác làm ơn lấy chữ dzăng sĩ lại giùm,
viết ấm ớ lăng nhăng mà Bác khen quá sợ đâm
ra hư.
Tưởng tượng. Thử tưởng tượng,
bà chủ blog đi 1 đường thăm Paris, kinh đô ánh
sáng. Tình cờ sao, gặp nữ văn sĩ Mưa
Mùa Xa.
Chuyện trò 1 “tăng”, bà
văn sĩ già, hỏi nữ dzăng sĩ trẻ, cái tên
biến thái đó, thù oán gì tôi,
mà viết khốn nạn như thế?
Gấu,
ngay từ khi mới bước chân vào chốn giang hồ, đã
bày đặt viết phê bình, điểm sách.
Vứt bỏ hết, chỉ giữ lại tập truyện ngắn.
Ngay từ trước 1975
Những bài viết phê
bình, điểm sách này, lâu lâu
cũng nhớ, sao không, và, nếu có tiếc, thì
chỉ 1 bài, viết về cuốn Bếp Lửa của ông anh, khi cùng
bạn bè làm tờ Tập San Văn Chương, đúng hơn, để
kỷ niệm cuộc gặp gỡ Joseph Huỳnh Văn. Vì anh mà
Gấu viết bài đó, HV nhận ra liền.
Đâu ngờ, về già,
ở hải ngoại, nhờ những người bạn văn chưa từng gặp,
ở trong nước, Gấu có lại đa số những bài viết
đó.
Một vị, sau khi gửi cho
1 bài viết sau đây, còn nhận xét,
bây giờ đọc lại, vẫn thấy có giá trị!
Tks all there.
NQT
Thầy Đạo, học sau Gấu. Tên
Lang Băm này, hẳn là còn học sau cả Thầy
Đạo. Gấu chưa từng nghe đến hắn, dù dưới tên thật,
hay bút hiệu hay dùng. Vậy mà, đọc cái
còm, thực cay cú, và cái sự cay cú,
y chang Thầy Đạo, quái thế.
Cùng 1 air, mi
đâu có bằng cử nhân triết, mi đâu
phải trong giới khoa bảng, làm sao mi dám viết
phê bình?
Mấy tên này,
còn tệ hơn cả thi sĩ Nguyên Sa.
Ông này
ở Tây về, bằng cấp cùng mình, vậy mà
khi Gấu dám đụng tới ông, chưa 1 lần
ông lôi bằng ra để khoe cả.
Mây Bay Đi
1.
Lang Băm | March 8, 2014 at 4:00
pm
Ông T
Tôi nghĩ ông nên
từ tốn và tiêu hóa điều mình
muốn phát biểu trước khi viết xuống.
Ông hơi tự sướng quá đà.
Ông ở tận Canada ông
làm sao biết ở Calif mối liên lạc giữa
các trùm sò văn chương hải
ngoại thời đó với các bà cỡ Mai
Ninh thấu tới đâu. Những áp phe tình ái
của Khánh Trường với các bà
nổi lều bều trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu
hiệp. Khánh Trường chủ tờ Hợp Lưu và các “đàn
anh văn nghệ” của Khánh Trường mới là những
người được hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham
danh dâng hiến, í lộn, do các bà nữ
dzăng thơi sỡi quyên góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu
ngày Khánh Trường chưa ngồi xe lăn.
Quyển sổ áp phe của bà
Trần Thị Ng.H thì cỡ ông làm
gì được chấm mút. Thanh Tâm
Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình
Toàn thì cũng chưa nhằm nhò gì
so với các áp phe khủng của bà này
Ông cũng không phải
là nhà phê bình văn học
như ông Cuốc Kức thì làm
sao mà đòi đào mả tên tuổi
các ông bà nhà văn nhà
thơ hải ngoại.
Ông cũng chả có công mẹ gì
trong cái vụ bà Tám ló
ra ló vào văn chương này cả. Lý
do là trang của ông chỉ một mình
ông tự sướng. Bà Tám thì gửi
bài cho nhiều nơi khác như Da Màu, Việt
Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán Bản Thảo, Sài
Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác. Như vậy
bà Tám được nhiều nơi khác giới thiệu
cùng một lúc, mà ông nào có
phải là nhà phê bình và là
chủ bút một tờ báo nào đâu mà
ông bảo là ông xúc bà Tám
lên.
Tên này, quả là
1 tên biến thái.
Ngay Gấu, tuy đụng độ
với Thầy Quốc, mà chưa từng dùng tới
những chữ thúi tha đến như vậy về ông.
Chưa kể những dòng
viết về mấy nhà văn nữ.
Gấu không tin
rằng những vị này, đã từng nghe nói
đến tên của hắn, nói chi quen biết.
Mượn ngay 1 cái
blog, của 1 ngưòi quen của hắn, một nữ tác
giả, để mà nói, toàn những chuyện chấm mút,
áp phe tình ái...
V/v Bà Tám.
Đúng là Gấu chẳng
có công mẹ gì trong cái vụ nổi tiếng
này.
Nhưng thử hỏi, có
tên nào trong chốn giang hồ gió tanh
mưa máu đó, có 1 nhận xét nào
nghe được, về cõi văn của bà Tám?
Bất giác, Gấu bèn
nhớ tới 1 câu chuyện trong Liêu Trai, về 1
anh chàng con nhà giàu, nhà quê,
được bố mẹ cho lên Trường An ăn học. Anh nhà
quê này, cũng đi học, nhưng ngoài ra, còn
lân la xóm lầu xanh, gặp một em, mê quá,
bèn chuộc về. Bữa từ giã bạn bè, mỹ nhân
lầu xanh được bạn bè tặng quà, bèn bỏ hết vào
mấy cái rương... Chuyện đến tai gia đình, bèn bắt
về. Hai vợ chồng đi đò, đến 1 bến sông, đậu kế thuyền
1 tên bợm giang hồ. Tên này, nhìn thấy bà
vợ tên học trò, trúng đòn liền, bèn
dụ anh học trò qua thuyền, dụ đánh bạc, thua, tất nhiên,
bèn đưa cho mượn, thua nữa, đến phải gán vợ cho tên
bợm. Ngưòi đẹp bèn OK, thay thuyền, và trước khi
từ giã anh chồng học trò, bèn cho mở mấy cái
rương. Ôi chao, cả 1 trời vàng bạc, hột soàn, đá
quí. Anh chồng ngẩn người, quỳ xuống tạ tội, người đẹp cầm từng
món, thả xuống sông, rồi buông mình theo, phán,
mi không xứng làm chồng ta, làm chủ kho tàng
này.
Tóm tắt sơ sài
như vậy, nhưng đây là 1 trong những truyện
tình thê lương nhất của Tẫu.
Gấu nhớ là, lần đầu
đọc mê
quá, nhưng khi bớt mê, thì lại cay đắng quá.
Tại làm sao đẹp như thế, từ tâm hồn đến thể xác,
mà lại ngu si như thế. Lầm 1 thằng cà chớn như thế là
người tri kỷ.
Thua GCC xa!
Hà, hà!
Vào cái thời FB,
chỉ cần click “unfriend” 1 phát, là tên
khốn này đi vào thùng rác của không
gian ảo liền!
Bằng cử nhân Triết Mít
thì mắc mớ gì đến phê bình. Vả chăng,
khi mấy ông thầy Mít bắt buộc, muốn đậu thì
phải thuộc cours của ta, họ làm nhục sinh viên, và,
khi sinh viên, phải thuộc cours của Thầy, ra đời, họ không
thể viết, dù chỉ 1 bài điểm sách, nói
chi phê bình. Cái bằng cấp đại học, với lũ
mũi lõ, chỉ là điều kiện cần, còn thiếu điều kiện
đủ. Bạn học đánh cờ thì phải rành luật cờ, phải
sạch nước cản, nhưng chỉ thế thôi, thì làm sao
thắng, chỉ 1 bàn cờ.
Cái đọc, cái viết
của GCC hoàn toàn là từ kinh nghiệm toán
học, kỹ thuật. Trong đám bạn bè của GCC, băng đảng
tiểu thuyết mới, không tên nào đọc, hay "đọc
được" Roland Barthes vì ông này không
phải dân khoa bảng, ngôn ngữ sử dụng thì là
cơ cấu luận, mà cơ cấu luận, là từ toán học. Những
đấng phê bình gia hàng đầu hải ngoại - tên
Lang Băm không có trong đó - như Thầy Đạo, Thầy
Quân, Thầy Phúc, Thầy Thục, không Thầy nào
điểm nổi 1 cuốn sách, giới thiệu hay khám phá
1 tác giả, không làm sao viết nổi 1 tiểu luận
văn học, hay phê bình, là do học thuộc cours
của Thầy, trước mắt, là vì cái vụ trốn lính
hợp pháp – hoãn dịch vì lý do học vấn
– “sau mắt”, thì, do học thuộc Thầy quá, mất luôn
khả năng sáng tạo, cứ như lũ cừu, đọc, sống, viết…
tất tật dưới bóng của vị Thầy vĩ đại, là Thầy NVT, thí
dụ.
Nhớ, lần thi lấy cái
chứng chỉ Triết, đề, trúng ngay 1 chương trong cours
triết của Sorbonne, Gấu mừng quá, chắc mười muơi đậu.
http://www.tanvien.net/Viet/chia_tay.html
Hôm qua tôi
đưa con gái út ra phi trường. Cô xin được công
việc làm mùa hè ở tiểu bang Wisconsin.
Làm research. Cô nhắm công việc này từ mùa
hè năm trước nhưng khi ấy cô còn đang
học năm thứ hai, mà người ta đòi điều kiện phải
ít nhất là năm thứ ba. Năm nay cô lại nộp đơn và
người ta nhận. Ông Tám, chị Ách Cơ của
cô, và tôi tiễn cô ra phi trường. Ông
Tám và Ách Cơ xách hành lý
đưa cô vào bên trong. Tôi ngồi chờ ngoài
xe. Chia tay, tôi ôm cô. Chúng tôi
hôn nhau và cô nói. “Thế thôi à?”
Dường như cô ngỡ ngàng, nhận ra đến lúc mình
phải xa tất cả những thứ quen thuộc an toàn, bố mẹ, chị, và
con mèo. Hay là cô ngỡ ngàng tôi không
đưa cô vào tận bên trong.
Còn tôi,
mãi đến khi người ta bảo, thuyền ra đến hải phận
quốc tế rồi, tôi mới chợt nhận ra tôi đã
mất hết. Không còn đường về. Tôi mất má
tôi rồi.
Khi tôi ngồi
chờ trên xe, tôi thấy có một chiếc xe BMW mui
trần đậu vào trước xe tôi. Người lái
xe là một phụ nữ độ ngoài năm mươi. Bà chở cô
con gái và đứa bé, chắc là cháu
ngoại. Bà bế cháu cho cô con gái sửa
soạn khuân hành lý từ trên xe xuống. Cô
con gái trạc ba mươi. Cô mang chiếc ghế dành
riêng cho em bé xuống, bỏ vào bao, bọc lại.
Đeo nịt mang đứa bé trên ngực. Một cái túi
đeo trên lưng. Tay kéo va li hành lý, và
chiếc ghế em bé đi. Trước khi đi bà mẹ hôn con
gái và cháu ngoại.
Tôi thấy khóe
môi người đàn bà run rẩy. Bà cắn môi
nhưng những giọt nước mắt vẫn tràn ra trên má
long lanh. Tôi đoán có lẽ lâu lắm bà mới
có thể gặp lại con gái và cháu ngoại.
Tôi chợt nhận
ra tôi không khóc khi tiễn cô út.
Vì cô đi chỉ hơn hai tháng là về.
Thật ra tôi còn thấy nhẹ nhõm khi biết là
mình không phải bận rộn nấu ăn cho cô trong
hai tháng cô vắng nhà. Tôi thuộc loại bà
mẹ lười biếng. Mặc dù tôi chưa bao giờ bỏ con ở nhà
để đi nghỉ hè, nhưng mỗi khi tôi tránh được chuyện
nấu cơm, rảnh rỗi để lười biếng thì tôi hoan hỉ lắm.
Tôi nhớ, khi
tôi nhận ra là tôi sẽ vĩnh viễn xa rời má
tôi, trong cơn say sóng dữ dội, tôi quì
gối gục đầu xuống khoang thuyền, lặng lẽ ứa nước mắt.
Những cuộc chia lìa khởi
từ đây…
Tên khốn Lang
Băm này hẳn là 1 trong những độc giả TV, thế
mới chán. Bởi là vì, chỉ trong những lúc
phởn quá, vả lại, trang của mình, nhà của
mình, Gấu có khoe khoang, đã từng khám
phá ra nhà văn mũi tẹt này, mũi lõ kia.
Vả chăng, đây chính là tâm niệm của Gấu,
ngay từ khi mới viết. Khi giữ mục “tạp ghi” cho tờ Vấn Đề, Gấu giới
thiệu những tác giả mà xứ Mít chưa từng có
ai nhắc tới, hoặc có nhắc tới, vậy vậy. Beckett, Barthes, Kafka,
Genette, Lukacs… Thật sự Gấu không tin tên Lang Băm đã
từng đọc 1 trong họ. Ngay cả những nhà văn nữ xứ Mít
mà tên này lôi ra làm nhục, họ đều là
những nhà văn có tài, có tác phẩm.
Viết cực bẩn như thế, làm sao ăn nói với chính nữ
tác giả, chủ cái blog lỡ quen tên khốn này?
[Lại] vả chăng, có bài
viết, đăng trên blog này, chưa đã cơn háo
danh, bèn cho đăng trên blog khác, hết Da Mùi,
tới Văn Vịt…. , như thế là làm hoen ố, nhơ bửn, đứa
con tinh thần của mình.
Một bài viết ở hải ngoại, bản
thân nó, đâu muốn về đầu thú lũ Vẹm?
Khi Gấu làm trang Tin
Văn, chưa có blog free như bây giờ. Trang art2all cũng
chưa. Giả như có rồi, có khi khỏi cần lập trang TV. Bởi
là vì, có 1, hoặc cao lắm, 2 diễn đàn,
bạn hãnh diện được đăng bài ở đó.
Nó, hãnh diện?
Chưa chắc!
Cái bằng cử nhân
Triết Mít của mấy tên này, là vết chàm
trên lương tâm của chúng, đó là
sự thực.
Rớt, là phải đi lính,
thế là phải mỗi năm mỗi đậu, cours của Thầy thuộc
như cháo, không, rớt sao?
Cái tên Lang Băm
này mới cực tởm. Mấy tên kia, thù Gấu,
thì còn có lý, chúng thấy Gấu
viết ghê quá, thù do đố kỵ, do có tí
quen biết. Mấy đấng bạn quí của Gấu thù Gấu là
cũng cùng lý do. Tại làm sao mà mi viết
như thế, chúng tao thù mi. Đến khi do chuyện gia đình,
Gấu lậm vào xì ke, tên nào tên nấy mừng
ra mặt.
Tên Lăng Băm này,
ngay cả dưới cái tên thật của nó, Gấu
đâu biết là thằng nào. Vậy mà cay cú
Gấu ra mặt.
Tếu thế.
Vả chăng, cái chuyện
bằng cấp với phê bình chỉ là 1 điều kiện
cần.
Roland Barthes, Trùm
phê bình Tẩy, đâu có bằng cấp
cái con khỉ gì?
NTV nhận xét về GCC, mi sống
đời thường, thì thực là ngây thơ, cù
lần, nhưng viết, cực độc.
Đó là trước kia,
và sau này.
Trước kia, là hồi mới
bước chân vô làng văn. Thi sĩ NS chẳng
đã từng ban cho cái nick tên “sa đích
văn nghệ”, sau khi trúng, chỉ 1 đòn?
Sau này, là từ
hồi bị chúng đánh cho tơi bời hoa lá,
phải ôm đầu máu chạy về núi Tản Viên.
Lúc mới ra hải ngoại,
Gấu viết thật khiêm cung, "thật hiền, khác
hẳn mấy người kia", như 1 vị ra đi từ Miền Bắc, nhận xét.
V/v Viết ghê quá.
Có tên nào
"maintain" 1 website gần 20 năm trường, như trang TV?
Có tên nào
giới thiệu được 1 tên mũi tẹt, hay mũi lõ?
Lò Thiêu ư, lũ này
mù tịt!
Date:
Tue, 5 Apr 2005 13:44:01 -0700 (PDT)
From:
Subject: Hỏi thăm
To:
Site của anh là một trong
những site mà người viết thư này hay vào.
Tuy không quen, không biết anh, người viết cũng đánh
bạo mà xin anh cho vài câu trả lời dùm
: Làm cách nào mà anh đọc nhiều, viết
thật nhiều, maintain cái site của anh, giữ mối liên
lạc bằng hữu và người thân, mà không thức
trắng đêm, ngày này sang ngày khác
vậy???
*
K.
rất thương,
Không ngờ bức thư đó
là K. viết. Lần đầu khi đọc thư đó, nghĩ
ai mà viết giống ta thế! Ai ngờ, là bạn ta!
Ta rất ngại khi viết thư cho
các tác giả, và chính nhờ bức
thư đó của K. mà ta có can đảm làm quen
với tay Hai Lúa này. Cách viết, cách
nói của Hai Lúa có một cái gì thân
mật, chân tình nên cũng đáng nói
chuyện!
Tks. NQT
Nhờ làm trang TV quen được
hai vị này, quả là không uổng quãng
đời lưu vong!
Lũ tinh anh Ngụy, như mấy tên
Lang Băm, Thầy Đạo, Thầy Quân… nhờ cái chủ
trương hoãn dịch
vì lý do học vấn, nên “sống sót”
cuộc chiến, và chính vì thế mà lương tâm
của chúng có 1 vết chàm, tên nào
hiểu được thì còn khá, nhưng hình như không
có 1 tên nào hiểu được cả.
Bỗng Gấu lại nhớ đến Steiner. Một
cách nào đó, S cũng sống sót
Lò Thiêu, như lũ khốn này, nhờ ông bố khôn
tổ cha. Trở thành 1 tên Trùm văn nghệ,
Trùm phê bình, Trùm Trùm… ở
xứ Mẽo, chúng cho nhà, cho chức tước, cho địa vị gì
gì đó, ghê gớm lắm, để ông ở lại Mẽo vĩnh
viễn, ông tính OK, bèn về nói với ông
bố. Ông bố chửi, nếu mày làm như thế, thì
thằng Hitler có lý rồi, còn nói mẹ gì
nữa. Ông con hiểu ra, bèn bỏ hết, trở về lại Âu
Châu quanh quẩn bên đống tro than Lò Thiêu.
Giấc mộng lớn của Hitler, chính
là “giải pháp chót”, làm sao sạch
bóng Do Thái tại Cựu Lục Địa.
Có tên tinh anh Ngụy
nào sống sót cuộc chiến nhờ bỏ chạy “hợp pháp”,
viết lách được cái gì cho ra hồn?
Có vết chàm rồi, viết
khỉ gì được nữa!
Trong số những người Nguyễn
Văn Lục nêu tên ở trên có lẽ chỉ có Ðặng
Phùng Quân trình luận án về “Hiện hữu tha
nhân trong triết lý Gabriel Marcel” còn Huỳnh Phan
Anh chưa bao giờ trình luận án cao học ngành Triết,
Nguyễn Quốc Trụ không phải thuộc giới khoa bảng, Trần Nhựt Tân
chuyên ngành văn chương Pháp.
Cũng cần nhắc lại chuyện
hồi đó Mai Thảo có đi một bài của
Nguyễn Văn Trung trên Sáng
Tạo, bài Trường Hợp Francoise
Sagan, nhưng sau đó độc giả và anh em trí thức
cho Mai Thảo biết đó là một bài trên
một tạp chí văn chương của Pháp, Nguyễn Văn Trung
đã dịch nguyên con nhưng lại ký tên mình
là tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó
Mai Thảo rất “sợ” những bài viết của những nhà “nghiên
cứu” triết lý hiện sinh.
Nguồn
Gấu bye bye Văn Khoa, vì đụng NVT ở chứng
chỉ Triết Tây. Nửa chữ cũng là Thầy. GCC không
muốn nửa chữ của NVT.
Thầy Đạo học sau Gấu. Nếu thế, NVT là
Thầy của ông ta.
Không lẽ học trò lại tố
Thầy với 1 em Bắc Kít?
“Chuyên khảo” có đẻ ra được
tác phẩm nào không, hay, vào lúc
cuối đời vẫn trên răng dưới dế?
Trong
số bạn bè, Gấu là tên học
xong sớm nhất, ra trường, đi làm, trong khi chúng
bạn thì còn đang mài đũng quần, trên
ghế nhà trường.
Lần qua Cali, 1998,
nhân dịp phát hành cuốn Lần Cuối
Sài Gòn, Gấu tình cờ gặp Thầy Đạo ở nhà
sách VK. Ông có vẻ bực, khi Gấu không
biết ông là ai, mà làm sao biết
được, cho dù sau đó, ông cho biết, đã
từng tới nhà Gấu, khi còn ở hẻm Đội Có,
Phú Nhuận, với ông anh của BHD. Khi đó, Gấu
đang học Toán Đại Cương, MG. Như thế, ông đang học
thi tú tài. Bởi là vì chính
là qua lần gặp đó, Gấu biết ông anh BHD. Cả hai
vô hẻm, để gặp ông bạn của họ, là bạn Uyển, cũng
đang học thi tú tài, sau khi rớt.
Gấu học MG mất
1 năm. Đến ngày thi, không hiểu bài
toán nói gì, do chỉ có cái
cours quay ronéo của Thầy Monavon, bèn bỏ
MG, năm sau học MPC, Toán Lý Hoá, cùng
với ông anh BHD, khi đó vừa vô Đại Học. Ông
cũng bỏ phòng thi liền, vì không làm
sao giải nổi bài toán, còn Gấu làm
như máy, vì đã từng học MG. Đó là
sự thực, vì ông Thầy, khi đứng coi thi, đứng ngay kế
bên Gấu, nhìn Gấu, không thèm làm nháp, cứ thế, cứ
thế, giải thẳng 1 lèo, 10 bài toán,
lắc đầu, nói, kỳ sau, tôi ra bài khó
hơn!
Gấu rớt kỳ 1, khi
không làm nổi bài thực tập, không
phải bài viết, khi cứ đến giờ thực tập, ký
tên 1 phát, rồi nhảy ra hành lang đọc… Camus,
Kẻ Xa Lạ. Gấu biết Camus, đúng thời gian này.
Kỳ 2, cũng rớt, do
quá kiêu ngạo, không ôn bài;
kỷ niệm này, cũng đã lèm bèm đâu
đó rồi, trên TV, và nó liên
quan đến khoa trưởng Đại Học Khoa Học, giáo sư Nguyễn Quang Trình.
Năm học MPC, Gấu
đã thi vô trường Quốc Gia Bưu Điện, đậu,
nhưng không đi học, vì cứ muốn học tiếp Đại Học.
Đến năm sau, đến
văn phòng trường QGBD xin lại hồ sơ, tính
thi vô Đại Học Sư Phạm, chỉ số lương khi ra trường
cao hơn, ông giám thị trường, kiêm trưởng
phòng bèn biểu Gấu, sao mi ngu quá,
đậu Bưu Điện rồi, không chịu học, trong khi thi vô
sư phạm chắc gì đã đậu, sao bằng học Bưu Điện, xong,
ra trường, có tiền, muốn học Đại Học nào mà
chả được!
Quả thế.
Tuy không học
năm đầu, nhưng nhờ Thầy
Trần Văn Viễn, hiệu trưởng, đặc cách, cho
vô học năm thứ nhì, do thấy GCC giỏi toán.
Chuyện này
cũng đã lèm bèm rồi.
Nếu không học Bưu Điện, là
cuộc đời của Gấu hỏng hết. Học BD, ra trường, đi
làm, có tiền, có nhà, có
thêm cái job làm UPI, quen đám báo
chí, ngồi trên đỉnh cồn là Đài
Liên Lạc VTD số 5 PDP Saigon chẳng khác gì
Mắt Bão, gửi hình chiến tranh khắp bốn vùng
chiến thuật, ui chao, đúng là ông Trời quá
chu đáo với GCC!
Nếu không làm
thêm cho UPI, là kể như không có
"đời sau": Ngoài
cái chuyện, ban cho cái chỗ ngồi ở ngay "mắt bão" - đời
trước - , còn
cái chuyện, sửa soạn cho nhập được vào dòng
chính của văn chương thế giới, khi ra được hải
nggại, nhờ có tiền mua đủ thứ sách đọc. Ông
anh TTT mà còn phải biểu Gấu, mi đưa ta
cái cours của Saussure, đọc thử coi!
Có thể nói, ông
Trời sửa soạn cho Gấu nhập được vào dòng
văn chương Lò Thiêu, ngay từ khi bắt đầu học
Bưu Điện!
NTV [Nguyễn Tiến Văn] cũng đã từng biểu GCC, anh
đọc Steiner, ngay từ khi còn Sài Gòn, vậy
mà không nhận ra Lò Thiêu, điều này
cho thấy, "ông" - GCC - phải có cái
gì đó,
của Lò Thiêu, ở trong ông!
Gấu viết cho Văn Học,
của NMG, năm 1998, khi qua Cali, có
đưa 1 số bài dịch Steiner, cho anh, anh lắc đầu, cao
quá, không hợp với độc giả VH.
Chính vì
NMG từ chối, mà Gấu bỏ mục Tạp Ghi, làm
trang Tin Văn, dành hết thì giờ cho.... Lò
Thiêu!
V/v Steiner. Trước khi qua
Cali, Gấu đã nghi NMG không chịu nổi Steiner,
và, bèn gửi cho Khánh Trường, của tờ Hợp
Lưu, bài "Nhà Văn và chủ nghĩa CS". Đăng
liền.
Khi gửi cho HL, là
cũng để kiếm chỗ tá túc, khi qua Cali.
Qua, ở mobile home của Lê
Giang Tran, qua giới thiệu của Khế Iêm, 1 đêm.
Hôm sau NMG đón
về nhà anh.
Khi tờ Diễn Đàn Thế
Kỷ 21, Phạm Phú Minh, điểm cuốn "Nơi Người Chết Mỉm
Cười", để cám ơn, Gấu gửi bài "Nhân Văn", của
Steiner, bài mở ra cuốn "Ngôn ngữ và Câm
Lặng". Anh mail, cám ơn, và cho biết sẽ đăng. Nhưng
sau đó, lại viết mail, từ chối, nói cao quá,
không hợp với báo Thế Kỷ 21. Gấu nghi, do lệnh của
Ông Số 2.
Steiner, theo GCC, khó
đọc, 1 phần là do cái đau Lò Thiêu
- dù thoát chết - của ông. Vargas Llosa,
Rushdie, là hai trong số những người chê Steiner,
mà, theo GCC, do không có cái nỗi
đau này, nên không đọc được ông.
GCC là tên Mít
độc nhất được ông Trời dành cho món quà
Lò Thiêu, có thể, vì Gấu là
tên qua chậm nhất, do chẳng hề muốn dời bỏ xứ Mít,
kể cả trước, và, sau 1975, và Gấu tin rằng đây
là 1 điều kiện tối cần thiết để nhập được vô dòng
văn chương Lò Thiêu. Nhà văn hàng đầu hải
ngoại Võ Đình, rất ư là ngạc nhiên, khi
đọc tạp ghi của Gấu, trong trích câu của Ardorno,
sau Lò Thiêu mà còn làm thơ thì
thật là dã man. Người phán, tên này
là tên nào mà “vung tay quá chán”
như thế? Sau Lò Thiêu, chẳng còn có Đêm
Tận Thất Thanh của Mít ư?
VD còn là đứa
con nít, đã được gia đình cho đi du học, Gấu đoán
thế.
Nhưng đâu chỉ ông.
Những tên tinh anh của
Miền Nam, cố học tiếng mũi lõ, cố đậu cái
bằng tú tài hạng bình, hạng bình thứ,
hay bẩn hơn nữa, cố kiếm được cái chân Ngụy làm
cho các toà đại xứ, để chuồn, vừa thoát
cuộc chiến vừa chửi Ngụy, ngựa Ngụy hí gió Bắc, không
hề có 1 tên biết đến tai ương Lò Thiêu. Quái
đản thế!
10
Đêm Tận Thất Thanh.
Văn Học số Xuân Đinh Sửu [129&130],
trong phần Tạp Ghi, ông Nguyễn Quốc Trụ viết:
"... rằng sau Auschwitz, 'nếu cá nhân nào
đó mà còn làm được thơ thì thật
là dã man' (sic), và 'mọi văn hóa
sau Auschwitz chỉ là rác rưởi'.
Tôi chưa từng được quen biết,
trong lãnh vực văn học, ông Adorno này, nên
không lạm bàn rông rài. Chỉ "trộm" nghĩ
rằng câu nói của ông [ta] có vẻ như... "vung
tay quá trán". Có thể đổi được chăng những câu
phê phán này thành... "sau Auschwitz mà còn làm
thơ... Trời ơi, Tuyệt!"? Hay là, "Mọi
văn hóa sau Auschwitz là những nhánh kỳ
hoa bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng sâu
bọ lúc nhúc, thối um"?
Đêm
Tận Thất Thanh là một nhánh
kỳ hoa đó...
Tôi không may mắn (?) từng
đọc tác giả Adorno nói trên....
Loxahatchee, Florida 5-2-97
24 tiếng trước Tết Đinh Sửu,
ở Việt Nam
Võ Đình
Trên đây trích
từ bài viết của Võ Đình, ở cuối cuốn
Đêm Tận Thất Thanh
của "bạn ta" là Phan Nhật Nam. Trong cuốn sách
bạn ta tặng, buổi tối tại nhà Nguyễn Đình Thuần.
Với lời đề tặng:
Của Ông Sơ Dạ Hương
[1] với tình thân 30 năm Nguyễn Quốc Trụ, La
Pagode.
CA Oct/28/2003.
PNN ký tên.
Hai Lúa quả đã
từng ngồi với nhà văn người tù hiển hách
này ở Quán Chùa, thời gian liền sau khi PNN
cho ra lò cuốn đầu tay, Dấu Binh Lửa [?], chắc vậy, vì
HL còn nhớ rõ, đây là tác phẩm
đầu tay, và chắc đó là lần ra Quán Chùa
cũng "đầu tay" [đầu tiên] của chàng, để trình
diện.
Lính Mới mà!
Nhớ rõ, đó là
thời gian ra đời Thuế Kiệm Ước, và do thuế đó,
giá giấy sẽ tăng.
Chàng mừng quá,
nói, đại khái:
May quá mình
là nhà văn rồi! Có tác phẩm trình
diện anh em rồi. Nếu không, thì bỏ mẹ với Kiệm
Ước!
Nhớ, bữa đó, "bạn ta"
mặc đồ nhà binh, một bộ quân phục kaki mầu vàng.
Trông chàng còn trẻ măng!
[1] Sơ Dạ Hương là
bút hiệu của Hai Lúa, khi mới tập tành
viết.
*
Nguyễn Quốc Trụ, La Pagode!
Hai Lúa chưa từng được
quen biết, trong lãnh vực văn học, ông Võ
Đình này, nên không lạm bàn rông
rài. Nhưng với riêng bạn ta, thì, với
tình thân 30 năm - một quãng đời cũng khá
dài, của tên sa đích văn nghệ, chữ của
Nguyên Sa tặng Hai Lúa ngày nào - Nguyễn
Quốc Trụ, La Pagode, quả là có quá nhiều chuyện
vui buồn để mà bù khú. Chỉ xin bật mí một
tí ở đây, là khi Dấu Binh Lửa ra lò, lập tức
Phan Nhật Nam nổi lên như cồn, nhưng tách biệt hẳn ra với
đám văn nhược ở Quán Chùa, cái đám
nhà văn nhà thơ chẳng bao giờ dám ra khỏi thành
phố, chưa hề biết mùi thuốc súng là gì, khoan
nói chuyện mùi chiến tranh, mùi cái chết...
Còn điều này
nữa. Như bìa sau Đêm Tận
cho biết, Dấu Binh
Lửa ra lò năm 1969. Còn Những Ngày của Hai Lúa,
1970. Như vậy, là bạn ta còn đi trước Hai
Lúa, trong cái việc trình làng
tác phẩm.
Lính mới hả? Tôi
cho anh nói lại...
"Tôi cho anh nói
lại.", là câu nói của anh chàng
sinh viên Luật, làm cái công việc thẩm
tra, thanh lọc Hai Lúa, coi có được coi là
một thứ tị nạn chính trị, hay chỉ là một di dân
kinh tế, và trong trường hợp sau, là bị trả về Việt
Nam. Lần hỏi cung bữa đó, còn rất nhiều chi tiết thú
vị, liên quan tới cả văn chương lẫn cuộc đời!
*
Tiểu thuyết chính là
thể loại văn chương của sự trưởng thành hùng
tính (Le roman est la forme de la maturité virile).
Lưu Vong và Tiểu Thuyết.
Đêm Tận Thất Thanh
là một nhánh kỳ hoa đó...
Võ Đình
Thành
thực mà nói, cho dù "vung tay quá
trán" tới tận đâu đâu, "Đêm tận thất thanh"
cũng không thể nào là một nhánh
kỳ hoa "bung lên từ bãi dơ bầy nhầy, ruồi nhặng
sâu bọ lúc nhúc, thối um", nhưng "Dấu Binh
Lửa" thì quả thật xứng đáng là một cuốn
"tiểu thuyết", theo như định nghĩa của G. Lukacs: Rất đàn
ông, rất vững vàng, giữa một bầy than khóc "kỳ
khu" [chữ này tôi muợn của Đặng Tiến, trong bài
viết về Trịnh Công Sơn]: Nào nỗi buồn da vàng,
thân phận nhược tiểu, nào nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang....
Nó tách biệt hẳn ra khỏi cái tâm thức khốn
nạn đó...
Ra trường, làm Cán
Sự Kỹ Thuật Bưu Điện, ghi tên học Văn Khoa, học theo kiểu
hàm thụ, lấy cours, chẳng bao giờ nghe giảng, dù
có dư thời gian, do thường làm cas tối, dù
vẫn thường lảng vảng nơi Văn Khoa, vì gần ngay nhà,
để hy vọng gặp cô bạn, học Việt Hán. Lấy cái
Dự Bị Triết, nhưng khi học lấy chứng chỉ Triết Tây, thì
đành bye bye Văn Khoa, do đụng Thầy NVT. Thầy có thói
quen, thằng đó học tao, nghe thật nực, vì lúc đó,
Gấu cũng đã viết lách, có chút tên
tuổi trong chốn giang hồ, nhưng đúng hơn, Thầy Mít bắt phải
học của Thầy, mới cho đậu, trong khi Gấu bày đặt, đọc cours Sorbonne,
bán đầy ở nhà sách Lê Phan.
Thành thử cái
cử nhân Triết Mít thì có gì
ghê gớm đâu, mà những tên như Lăng Băm,
hay Thầy Đạo tự hào. Một cách nào đó,
nó làm nhục sinh viên. Mi phải thuộc cours của
tao, thì tao cho đậu. Trường hợp của Gấu, đúng như
thế. Nhớ, “đề thi” là về hiện sinh, thứ Gấu quá rành,
nhưng chẳng rành 1 tí nào cours của Thầy, thế
là Thầy đánh rớt.
Sau Lò Thiêu, chỉ
có thể viết giả tường
http://www.tanvien.net/dich/kertesz_lire.html
Note:
"Cái này" do O. dịch. Tks
NQT
Dựa trên cái gì
mà ông cho rằng sống còn sau trại tập trung ["sống
sót" Lò Thiêu. NQT] không phải là
một chiến thắng?
Kertesz: Người ta không bao giờ
sống còn được sau khi đã sống trong trại tập trung.
Trại tập trung lúc nào cũng hiện diện trong tâm
tưởng. Để sống còn sau trại tập trung, phải băng ngang hỏa ngục.
Vào hỏa ngục, mình bẩn theo! Những người ngây thơ
vô tội đích thực là những người chết. Chính
vì thế tôi cho Spielberg có một cái nhìn
quá giản lược về lịch sử khi ông trình chiếu những
người sống sót là những người chiến thắng. Thật phi lý.
Không có một chiến thắng nào khả dĩ có thể
có được trong hệ thống chủ nghĩa tập trung. Nơi Benigni, chữ “chiến
thắng” được một người lớn biết mình thua cuộc nói lên.
Ông thấy ông đứng ở đâu
so với các chuyện do Elie Wiesel hay Primo Levi
kể?
Kertesz: Chỉ vừa mới gần đây tôi
mới được đọc Đêm Đen - La nuit, của Elie Wiesel,
bởi vì vào năm 1960, quyển sách này không
có ở Hung. Tôi choáng váng khi đọc: tôi
khám phá hóa ra lúc đó chúng
tôi cùng ở Buchenwald. Wiesel để lại trong lòng
tôi rất nhiều ấn tượng. Còn Primo Levi thì khác.
Ông ta chưa tận căn cho đủ. Tôi muốn nói ông
không bao giờ rời tầm nhìn nhân văn của sự việc mà
đối với tôi điều này thật hoàn toàn xa lạ. Với
tôi, kiệt nhân của trại tập trung là văn sĩ người
Pháp: Jean Améry. Ông ta mới là người đi rất
xa, nhất là trong quyển Vượt quá tội ác và
hình phạt - Par-delà le crime et le châtiment.
Tuyệt đối phải đọc các bài trao đổi giữa ông và
Primo Levi: Améry nói đến cái thiết yếu. Chưa ai
đi xa hơn ông trong cách suy nghĩ về chế độ tập trung chủ
nghĩa [chủ nghĩa toàn trị]
Lang Băm, nếu đúng
là cái tên mà GCC, đọc net - một
số FB - nghi là hắn, và, cứ kể như là
hắn, thì có ra gì đâu, 1 thứ cha căng
chú kiết. Quá nữa, rõ ràng là,
giới khoa bảng Mít, Miền Nam, không tên
nào viết nổi sáng tác. Thầy Đạo khoe,
viết từ hồi Sáng Tạo, hình như 1 cái truyện ngắn, sau đăng
lại, đâu đó, trên net, như kít, thứ
truyện tình thời mới lớn, bất cứ ai trong chúng
ta cũng lâm vào nỗi xấu hổ này. Lớn lên
chút, là quên, hoặc vờ, hoặc quên hẳn, quên
tiệt. Thầy Quân thì cũng rứa! Cũng đã
từng sáng tác, và mô phỏng sang tác,
nghĩa là viết lại sáng tác của người khác:
Cái truyện ngắn của DPQ, sau đăng lại trên
tờ Văn Học/NMG, quả là được “gợi hứng” từ “Bức Tường”
của Sartre.
Koesler đọc “Le Mur”, phán,
truyện bảnh nhất, viết về cuộc nội chiến Tây Ban
Nha. Nhưng cái thời nhà phê bình
kiểu Vũ Ngọc Phan, qua rồi. Phê bình gia thời nay, phải là
nhà sáng tác.
Cả 1 lũ, do
không sáng tác nổi, thành
ra tên nào tên nấy, chỉ còn mỗi con đường
cà khịa GCC, mi không phải là nhà
phê bình, vì phê bình là
phải có bằng cấp, phải ở trong giới khoa bảng.
Cái
tên sinh viên người Thái, khi thanh
lọc Gấu, cũng nghĩ thế, khi phán, tôi cho anh
nói lại.
NQT vs DPQ
Cuốn bảnh nhất của Heidegger,
theo Gấu, là Những con đường chẳng
đưa tới đâu, và trong cuốn này,
bảnh nhất là bài “Tại sao thi sĩ”, Pourquoi
des poètes, và “Lời của Anaximandre”,
La Parole d’Anaximandre.
Khi viết về thơ Nguyễn Xuân
Thiệp, tình cờ Gấu khám phá ra là
cả hai, Lukacs, khi viết về nguồn gốc của tiểu thuyết, và
Heidegger, khi viết về Đêm đen, Hố thẳm, thì đều
coi, là do, Thần đi vắng, Thần bỏ chạy.
Có thể vì lý
do đó, mà Mít, chỉ 1 Bùi
Giáng, thi sĩ, thì mới đọc nổi Heidegger.
Hai Thầy Quân
và Đạo, No!
Lukacs, trong
Lý thuyết về Tiểu thuyết (1916),
coi lưu vong có nghĩa: trục xuất ra khỏi Hy Lạp
cổ. Theo chân Hegel, Lukacs tin rằng thế giới Hy Lạp
trở thành ngạt thở đối với những thời đại tiếp theo sau
nó. Đây là một thế giới khép kín.
Chúng ta không thể thở được nữa trong một thế giới
khép kín. Hùng ca Homer do đó mở đường
cho tiểu thuyết. Tiểu thuyết: hùng ca của một thế giới bị
thần thánh bỏ rơi. Nói một cách khác,
tiểu thuyết bắt đầu cùng với cái chết của thượng đế.
Tiểu thuyết bắt đầu cùng với giấc mơ của con người: tìm
lại tính siêu việt đã mất. Những xã
hội nặng chất tôn giáo không phải là môi
trường thuận lợi của giả tưởng, là vậy. Don Quixote
(của Cervantes) cho thấy một điều: Thần Ky-tô đã
tự ý vắng mặt, ra khỏi thế giới, và những cá
nhân con người bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa và
bản chất, và chỉ có thể tìm thấy, trong cái
linh hồn "vô gia cư vô địa táng" của họ.
*
Heidegger, chú
giải thơ Holderlin, "Tại sao thi sĩ trong
thời điêu đứng?": Chữ "thời" [time] ở đây,
là thời mà chúng ta còn thuộc về
[Thời gian của Người]. Với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin,
sự xuất hiện và hy sinh của Chúa Ky Tô
đánh dấu buổi đầu của sự tận cùng của ngày
của những vị thần [mark the beginning of the end of the day of
the gods]. Đêm xuống. Kể từ đó, ba ngôi hợp một,
"the united three" - Herakles, Dionysos, Christ - rời bỏ thế giới,
buổi chiều của thời đại thế giới cứ thế chúi vào đêm
của thế giới cứ thế trải dài bóng đen của
nó. Đó là thời đại được định nghĩa
như là sự thất bại của thần linh đến với thế gian.
Khiếm thần.
Về truyện ngắn Bức Tường của Sartre
TV post 1 đoạn trong tiểu sử
của Koestler, trong
có nhắc tới Bức Tường.
KOESTLER WAS REASONABLY SURE
that most of his literary and political allies
in France were to be found among that small group of
writers known as existentialists. He considered Sartre's
short story "The Wall"
to be "the profoundest thing ever written" on the Spanish
Civil War, and was aware that Sartre had coined
the term existentialism to describe a philosophy of the
cosmic loneliness and freedom of the individual that obligated
him, in a cold and unfeeling world, to shoulder his ethical
responsibilities and commit to some form of political activism.
Sartre in turn had been influenced by Koestler's
Dialogue with Death;
and Andre Gide had noted of Scum
of the Earth that it was "the best possible illustration
of Sartrism - if not of existentialism proper." Sartre was its acknowledged
prophet, and his recently published novel, The Age of Reason, one of existentialism's
bibles. Another prophet was Albert Camus, whose "absurdist"
works, The Stranger
and The Myth of Sisyphus, were obligatory
reading for French intellectuals of the period; and
the third, decidedly junior, musketeer of existentialism was
Sartre's lifelong partner, Simone de Beauvoir, nicknamed "Castor,"
or "the Beaver," whose novel The Blood of Others, along
with her essays, had helped to popularize the new philosophy
among the young.
Michael Scammell: Koestler
Cũng
trong đoạn này, tác giả kể là,
de Beauvoir thức suốt đêm đọc ngấu nghiến Đêm
Giữa Ban Ngày, và cảm thấy rất ấn tượng,
hớp hồn, 'enthrallling'.
Anne Applebaum
nhận xét về nó mới khủng: Chỉ nó,
và bạn của nó, là Trại Loài
Vật, tránh cho Âu Châu không bị
nhuộm đỏ.
Cung kính không
bằng tuân lệnh:
“Ðành”
“vỗ ngực xưng tên”, ta là nhà phê
bình “lệch pha” [mắt lé, lệch..] vậy!
Saturday, August 27, 2011 12:13
AM
Hi anh Bắc kít,
Anh về bên
ấy có nhớ dân CA chưa?
Thôi
anh đừng có mà "Ôi giấc mộng đã
tan sao ảo tưởng vẫn còn" (1), tụi em vẫn luôn
nhắc ông anh Bắc kít!
Cho em hỏi
thăm chị.
HL
Tks.
NQT/TT
(1)
http://www.tanvien.net/Al/tsh_1.html
Câu này, Gấu đã
từng nghe 1 tay cầu thủ bóng đá, Brazil
thì phải, than, khi thua trận chung kết: Ôi
giấc mộng đã tan, sao ảo tưởng vẫn còn!
GNV đã chôm
để viết về BHD. Ôi em đã đi ra khỏi đời Gấu
từ đời nảo đời nào, và bây giờ, em có
lẽ cũng đã đầu thai kiếp khác, vậy mà cả
giấc mộng lẫn ảo tưởng vẫn còn nguyên!
Câu nói cuối
cùng, của băng Văn Học NMG, với GCC, là của
bà NMG, qua điện thoại, khi Gấu, từ Canada phôn, hỏi
thăm gia đình.
Ông NQT phải
viết như thế nào thì chồng tôi mới
trả tiền [nhuận bút] chứ!
Tks. NQT
GCC là tên
độc nhất viết báo văn học, ở hải ngoại, được
trả tiền. Những tờ báo địa phương, sống bằng quảng cáo,
thì vẫn trả tiền, cho 1 số bài viết thường kỳ,
không nói.
Những người khác,
qua trước Gấu, đều
không lấy tiền, vì họ không cần
tới nó, nhiều như là GCC.
Đó là
1 trong những lý do GCC bị Thầy Đạo không
ưa, có thể, vì, kể từ khi GCC viết cho VH, ông
bèn đi chỗ khác chơi, cho được việc nhà
nước!
Nhưng, sự kiện, tên
Lang Băm này thù hằn GCC, dù GCC chẳng
hề quen biết hắn,
thật quái lạ.
Tên này, cũng
quái làm sao, rất rành chuyện nhơ bửn
của giới viết lách!
Cái chuyện - Gấu, trong
1 lúc quá phởn, khoe khoang, đã từng
khám phá ra nhà văn này, nhà
văn kia, cũng là thường tình, và chỉ ở trên
trang Tin Văn, trang nhà - làm hắn bực mình,
lên tiếng, thì cũng được đi, nhưng từ đó, đến
chuyện lôi mấy nhà văn nữ ra để mà làm
nhục họ, thì chỉ có thể giải thích, đây là
1 tên biến thái, 1 tên bệt xà lù.
Một tên bệnh hoạn.
Nguyễn Mộng Giác, ở
ngoài đời, là một người rất chí tình với
bè bạn. Tôi sở dĩ viết lại được, và lại có
được tí tên tuổi, là nhờ “bạn ta”, qua tờ Văn
Học của ông.
Thời gian giữ mục Tạp Ghi, tình
trạng của tôi rất khó khăn về nhiều mặt, vật chất, tinh
thần, và sức khoẻ. Khi đó, tôi ở Vancouver,
sau một thời gian làm công nhân cho một hãng
chế biến đồ biển, do suốt ngày ngâm hai chân trong
nước lạnh, tôi bị bịnh tim, phải nghỉ việc, ăn trợ cấp xã
hội, và... viết tạp ghi cho VH. Căn hộ tôi mướn,
thuộc một building đa số là dân nghiền, hở một chút
là mất cắp, hộp thư chung của building, không hiểu làm
sao, bọn đó mở được, và chôm hết thư từ, ngân
phiếu..
Ngân phiếu, money order,
của ông Giác gửi cho tôi, một lần
lọt vào tay chúng, cho dù tôi thường xuyên
ở nhà, mỗi ngày mỗi đợi nhân viên
bưu điện ghé building, ông ta vừa đi là bèn
mở hòm thư riêng trước khi kẻ cắp họp chợ.
Lần đó, NMG đã phải gửi
một ngân phiếu thứ nhì. Tức là trả
tiền bài viết tới hai lần.
Trước 1975, tôi
không được quen NMG, dù đã có lần điểm
sách của ông, và chê!
Tôi không
hề nhớ, cho tới khi gặp ông ở Cali, lần ra mắt
cuốn hậu-đầu tay [tôi muốn nói, tác phẩm
đầu tay sau 1975] của tôi, Lần Cuối Sài
Gòn [1998, nhà xb Văn Mới, Cali].
Cũng không phải ông,
mà là NCK nhắc lại cho tôi sự kiện
trên. Nhắc lại rồi, mà tôi cũng vẫn không
nhớ, đành phải hỏi ông, và ông xác
nhận, có, và nói thêm, tuy chê,
nhưng đó là một bài viết đàng hoàng.
Có thể, vì chuyện đó,
trong một lần khác, nói về một tác
giả khác, có bài đăng trên Văn Học, ông
cho biết, tay này, trước 1975 chửi tôi dữ lắm,
nguyên nhân rất nhỏ nhen, chứ không giống
như trường hợp anh viết về tôi.
Sau, cũng lại NCK nói
cho tôi rõ, cuộc đụng độ giữa nhà văn
trên và NMG.
Trước 1975, tôi chưa hề viết một
bài điểm sách, hay bất cứ một bài viết,
về bất cứ đề tài nào, với ý định thù
hằn.
Thù hằn, ở đây,
xin hiểu theo một nghĩa rộng, không hẳn chỉ là
thù hằn cá nhân một người nào.
Nếu có chăng, là thù
hằn cuộc chiến đó. Vì nghĩ, chỉ có
cách đó, để chứng tỏ, tao "bảnh" hơn mày!
Bây giờ, nhìn
lại, thấy, ngay cả ý niệm, viết để nhổ vào
mặt cuộc chiến đó, cũng có gì sai, và
là nguyên nhân thất bại, của "văn nghiệp",
của Gấu.
Một cách nào
đó, chúng tôi đã không "ôm
lấy" cuộc chiến đó, cả trong ý nghĩa, "chống
lại" nó.
Chúng tôi tởm
nó, trong khi chúng tôi chỉ có nó,
như là phần đời đáng thương nhất, và cũng
đáng yêu nhất, của chúng tôi.
Thử tính lại đi, bao
nhiêu bạn thân, người thân, đã nằm
xuống, vì nó?
Ông
cũng không phải là nhà phê bình văn
học như ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi
đào mả tên tuổi các ông bà nhà
văn nhà thơ hải ngoại.
Lang Băm
Ý của tên này,
GCC còn thua cả Thầy Kuốc, vì ông
Kuốc"Kức" có bằng Tiến Sĩ.
Thầy Đạo cũng “mét”
bu Sến y chang:
Trong số những người Nguyễn Văn
Lục nêu tên ở trên có lẽ chỉ có Ðặng Phùng
Quân trình luận án về “Hiện hữu tha nhân trong
triết lý Gabriel Marcel” còn Huỳnh Phan Anh chưa bao giờ trình
luận án cao học ngành Triết, Nguyễn Quốc Trụ không phải
thuộc giới khoa bảng, Trần Nhựt Tân chuyên ngành văn chương
Pháp.
Cũng cần nhắc lại chuyện
hồi đó Mai Thảo có đi một bài của
Nguyễn Văn Trung trên Sáng
Tạo, bài Trường Hợp Francoise
Sagan, nhưng sau đó độc giả và anh em trí
thức cho Mai Thảo biết đó là một bài trên
một tạp chí văn chương của Pháp, Nguyễn Văn Trung
đã dịch nguyên con nhưng lại ký tên mình
là tác giả! Có lẽ vì vậy từ đó
Mai Thảo rất “sợ” những bài viết của những nhà “nghiên
cứu” triết lý hiện sinh.
Nguồn
Sự thực, Gấu không
thể hiểu nổi, làm sao mà mấy tên này coi
trọng cái bằng tiến sĩ, cử nhân của chúng đến
như thế.
Bằng cấp, OK, nhưng phải ỉa
ra tác phẩm chứ?
Suốt 1 đời, như bị diệt dục,
chẳng đẻ đái gì hết, vậy mà vẫn lên
giọng chê bai người khác!
Thử viết, cái gì,
bất cứ cái gì cho thiên hạ đọc coi?
Đừng viết “trường thi triết”.
Đếch ai đọc đâu, vì làm sao đọc?
Gấu
đậu Tú Tài toàn phần ban Toán,
năm 1958, nhà nghèo, làm bồi bàn ở tiệm
chả cá Thăng Long, làm trợ giáo, précepteur,
sau nhờ bà cô, me Tây, ở Pháp, tháng
tháng gửi tiền, bèn làm 1 anh học trò
thực thụ, trọ học ở bên Thủ Thiêm. Đậu xong Tú tài,
hỏi ông anh nhà thơ TTT, làm sao học tiếp,
ông nói, kiếm cái gì làm, vừa làm
vừa học. Khi đó trường Quốc Gia Bưu Điện vừa thành
lập. Bèn thi vô, đậu, hai năm sau ra trường làm
anh Cán Sự Kỹ Thuật Bưu Điện. Bằng cấp của Gấu là thứ
thiệt, bằng toán, kỹ thuật, đâu phải thứ cử nhân
văn khoa trốn lính của những tên như Lang Băm, Thầy Đạo.
Vả chăng, tụi này thực
sự cũng không viết nổi thứ gọi là phê
bình. Có tên nào viết nổi 1 bài
tiểu luận, 1 bài đọc sách ra hồn.
Cũng chẳng khám phá
ra 1 tài năng mới mẻ nào.
Mít không, mũi
lõ lại càng không.
Steiner coi nhà phê
bình là 1 tên hoạn. Nhưng không phải
là ông không trọng phê bình. Trong
bài Nhân Văn, mở ra cuốn Ngôn ngữ và Câm
Lặng, ông viết:
Mỗi thế hệ có chọn lựa
của nó. Có thi ca trường tồn, vĩnh cửu nhưng
thật khó mà có phê bình mãi
mãi "vũ như cẩn". Tennyson sẽ có "ngày
của ông ta", và Donne, "buổi nhật thực". Hay là,
để đưa ra một thí dụ chẳng liên quan gì tới thói
ham mốt này mốt nọ: trước chiến tranh, tại những trường
Pháp nơi tôi theo học, nói chung là ai
cũng coi Virgil như là một kẻ bắt chước Homer một cách
ngây ngô, bắng nhắng. Tất cả học sinh đều khẳng định
với bạn bằng một thái độ rất ư là tự tin như thế.
Cùng với thảm họa, chuyện thường ngày về "cuộc tháo
chạy tán loạn", và lưu vong, cách nhìn
trên đã thay đổi một cách triệt để. Bây
giờ, Virgil trở nên một chứng nhân thật chín
mùi, thật cần thiết. Simone Weil và cách đọc ngang
bướng sử thi "Iliad", hay "Death of Virgil" ("Cái Chết của Virgil")
của Hermann Broch, cả hai đều góp phần trong việc tái
thẩm định. Thời gian, theo dòng lịch sử và với cuộc sống
cá nhân của từng con người, đã làm thay đổi
cái nhìn của chúng ta đối với một tác phẩm,
hay là phần chủ yếu của nghệ thuật. Có thi ca của những
người trẻ, có văn xuôi dành cho những ông già.
Bởi vì tiếng kèn rộn rã của họ về một tương lai
huy hoàng, tương phản trớ trêu làm sao, với kinh
nghiệm hàng ngày của chúng ta. Những kẻ lãng
mạn đâu còn là trung tâm của vấn đề? Thế kỷ
16 và đầu thế kỷ 17, mặc dù ngôn ngữ thường mơ hồ
và rắc rối, lại có vẻ gần gụi với lời nói chúng
ta. Phê bình có thể làm cho những thay đổi do
yêu cầu này trở thành có ích, loại bỏ
những gì không cần thiết. Nó có thể chiêu
tập từ quá khứ, những gì thiên tài của hiện
tại, nhờ vả (đằng sau cái đẹp nhất của văn xuôi ở Pháp
vào lúc này, là sợi gân của Diderot).
Và nó có thể nhắc nhở chúng ta rằng, những
phán đoán trước sau, này nọ của chúng ta chẳng
tuyệt đối chẳng vĩnh cửu. Nhà phê bình sẽ "tiên
cảm" (feel ahead); anh ta sẽ ngả người về phía chân trời, và
sửa soạn mảnh đất cho những mùa gặt tương lai. Đôi khi,
anh ta nghe tiếng vọng, khi tiếng nói đã chìm vào
quên lãng; hay là trước khi nó cất lên.
Vào những năm 1920, có một số người đã cảm thấy
thời của Blake và Kierkegaard đang ở trong tầm tay; hay là
10 năm sau, một số đã nhận ra sự thực phổ cập, trong cơn ác
mộng riêng tư của Kafka. Đây không phải vấn đề chọn kẻ
thắng, nó có nghĩa: biết, rằng tác phẩm nghệ thuật
tự khẳng định qua một tương quan phức tạp, theo nhu cầu, so với thời
gian.
Thứ hai, phê bình
có thể kết nối. Vào một thời đại mà sự
mau lẹ của truyền thông kỹ thuật, nó thực sự che giấu
những rào cản chính trị, ý thức hệ thuộc loại
bướng bỉnh; nhà phê bình có thể xử
sự như một kẻ trung gian, và người bảo quản. Đây là
một phần của công việc của anh ta, để thấy rằng một chế độ
chính trị không thể giáng yểm một tác phẩm
của một nhà văn vào cõi quên lãng
và bóp méo nó, rằng những cuốn sách
[dù có bị] thiêu huỷ, tro than được vun vén,
và được giải mã.
Ngay cả khi tìm
cách tạo cuộc thoại, giữa quá khứ và hiện
tại, nhà phê bình sẽ cố gắng, giữ cho thênh
thang những con đường giao tiếp, giữa những ngôn ngữ.
Phê bình mở rộng, làm rắc rối đa đoan, bức
bản đồ cảm tính. Nó nhấn mạnh, rằng văn chương không
thể sống, trong cách biệt, trơ trọi, mà trong một môi
trường nhiều ngôn ngữ, nhiều quốc gia. Phê bình
nở rộ, trong tương đồng, theo bước nhẩy xa, của giả dụ. Nó
biết rằng, những kích động của một tài năng lớn hay một
thể loại thi ca, trải dài theo những mẫu mã phức tạp
của sự phổ biến, truyền đạt. Nó làm việc "à l'insigne
de Saint-Jérôme" ("dưới huy hiệu của Saint-Jérôme")
(4), biết chẳng có tương đương thực sự, giữa những ngôn
ngữ, mà chỉ có bội phản; nhưng toan tính chuyển
dịch là một yêu cầu hoài hoài, nếu bài
thơ [được viết ra là để] sống trọn cuộc đời đầy ứ của nó.
Cả hai, nhà phê bình và nhà dịch thuật,
cố làm điều: truyền đạt khám phá.
Trong thực hành,
điều này có nghĩa, rằng văn chương được giảng
dậy, và dẫn giải theo con đường so sánh. Không
làm quen trực tiếp với hùng ca Ý Đại Lợi,
khi phán đoán Spenser, không nắm bắt được Boileau
khi đánh giá Pope, không gần gụi với Balzac,
Stendhal, Flaubert khi "xem xét" sự thành công
của tiểu thuyết thời Victoria hay của Henry James: như vậy là
đọc một cách hời hợt, giả tạo. Chỉ có chủ nghĩa phong
kiến của những đại học mới chia rẽ thẳng thừng giữa nghiên cứu
tiếng Anh và Những Ngôn Ngữ Hiện Đại. Thế ra là tiếng
Anh không phải là một ngôn ngữ hiện đại, có
thể tổn thương, và có khả năng hồi phục, tại bất cứ một
thời điểm nào trong lịch sử của nó, trước sức ép
của những thổ ngữ Âu Châu, của truyền thống lục địa về phép
tu từ và thể loại? Nhưng câu hỏi sắc bén, chém
sâu hơn là cái kỷ luật mang tính hàn lâm
kể trên. Nhà phê bình nào tuyên
bố rằng, con người có thể biết một ngôn ngữ cho tới nơi tới
chốn, rằng việc thừa kế gia tài thi ca hay truyền thống quốc gia
về tiểu thuyết, vậy là có giá trị, hay cao cả rồi;
người đó đang đóng mọi cánh cửa, khi đúng ra
chúng phải được mở rộng; người đó đang làm hẹp cái
đầu, khi đúng ra, nó phải được mở ra cho một thành
tựu rộng lớn, đồng đều hơn. Trong chính trị, chủ nghĩa Sô-vanh
[chủ nghĩa ái quốc cực đoan] đã rống lên cuộc tàn
phá, trận huỷ diệt; nó không có chỗ, trong văn
chương. Nhà phê bình - lại ở đây, anh ta khác
với nhà văn - không phải là người đóng trụ
trong khoảnh vườn của riêng mình.
Chức năng thứ ba của nhà
phê bình mới thật tối quan trọng. Nó
liên quan tới sự phán đoán văn chương đương
thời. Có một sự khác biệt giữa đương thời và
tức thời. Tức thời tóm lấy những nhà điểm sách.
Nhưng rõ ràng nhà phê bình còn
có những trách nhiệm đặc biệt với nghệ thuật chính
thời đại của mình. Anh ta phải tra hỏi, không chỉ chuyện,
hoặc là nó trình bầy một tiến bộ kỹ thuật hay
một tinh luyện, hoặc là nó thêm vô một cú
xoắn về văn phong hay chơi một đòn vụng về lên cân
não thời điểm; nhưng còn về những gì nó
đóng góp, hay lấy đi, từ những tài nguyên
nghèo nàn của đạo đức trí tuệ. Tác phẩm
này đề nghị chi, nếu nói về chuyện cân đo đong đếm
vóc dáng, hình ảnh con người? Đây không
phải là một câu hỏi dễ nói ra, nó còn
dễ bị coi là thiếu tế nhị. Nhưng thời đại chúng ta là
một thời đại không bình thường. Nó "lao động" dưới
sức ép (stress) của phi nhân, được kinh nghiệm theo một
qui mô khổng lồ, đặc thù, và ghê rợn; và
khả năng của một điêu tàn thì lấp ló chẳng
đỗi xa. Người ta thích ban cho mình trò xa xỉ, là
chùm chăn, đợi thời, nhưng vô phương.
Dùng 1 cái nick
dởm, viết cực là nhơ bửn, về những tác giả nữ
đã thành danh, ở 1 diễn đàn mà chủ cũng
là nữ, một tên vô học cũng không dám
làm, vậy mà tên Lang Băm này dám
làm.
Đọc loáng thoáng
trên net, Gấu lần ra 1 tên, có thể là
tên này, Gấu chưa từng quen biết, làm sao mà
hắn có thể cay cú đến như thế?
Lần viết cho talawas, đang lúc
trở về xứ Mít, Gấu được Gấu Cái cho biết,
có 1 tên chửi mi dữ lắm, bà Sến mail, cho biết.
Gấu trả lời, nói với bà Sến là để khi nào
Gấu về lại Canada, rồi tính. Bà cho biết, không
thể chờ được.
Về, hóa ra là 1
tên Hoặc Ngữ nào đó. Thấy giọng cũng đàng
hoàng, Gấu bèn trả lời. Lúc đó, ông
ta mới lộ bộ mặt thực, tôi là tên đó đó.
Và đề nghị trao đổi trên diễn đàn talawas, thay
vì trên Tin Văn. Nếu là tên đó đó,
thì Gấu không thể. Vì tên này, cũng
thứ cực tởm.
Bạn viết, về những người, những
tác giả có thực, điều bạn viết, cần chất
chính, trao đổi, là phải dùng tên thực.
Đó là cái đảm bảo đầu tiên của đạo hạnh,
của 1 cây viết, bằng cấp hay không bằng cấp.
Chỉ đích danh, họ, như tên
LB làm, có thể bị những tác giả này
đưa ra tòa về tội vu khống, mạ lỵ đúng hơn, với
tên này. Cũng 1 tên chuyên nằm gầm giuờng
thiên hạ, biết toàn chuyện dơ dáy trong cõi
giang hồ.
Một nữ đại ma đầu giới giang hồ
Cali chết, là vì vậy.
Đây cũng là cái
giá liên quan đến đạo đức làm người, phải
trả, khi ngậm máu/kức phun người.
Đi tìm phê bình gia Mít
INTERVIEWER:
Do you make a distinction-as E. M. Forster does-between
"flat" and "round" characters?
HEMINGWAY: If you describe
someone, it is flat, as a photograph as, and from my
standpoint a failure. If you make him up from what you know,
there should be all the dimensions.
Nếu bạn miêu tả một
ai đó, bèn bẹt, như là 1 tấm hình,
theo quan điểm của tôi, thì đó là
1 thất bại. Nếu bạn viết về người đó, quá người đó,
quá cái mà bạn hiểu về người đó, thì
đó mới là thần sầu
The Paris Review, May 1954.
Đây là cái
mà GCC gọi là viễn ảnh, của 1 bài viết
Một khi bạn không
có cái viễn ảnh, cho bài viết của bạn,
thì kể như bài viết vứt đi.
Walter Benjamin phán,
bảnh nhất:
Lịch sử rã ra bằng hình
ảnh, không phải bằng tự sự (1)
Viễn ảnh, có khi nằm
ngay trong bài viết, của 1 tác giả, và,
nếu bạn là phê bình gia, bạn phải lôi
được nó ra.
Hình ảnh anh chàng
lỡ độ đường, ôm cái bọc quần aó, đứng
lom khom bên lu nước, in lên bầu trời, mỗi lần hoả
châu rực sáng,
trong Dọc Đường, của TTT, không ai dám chứa anh
ta, chẳng phải là hình ảnh 1 tên Mít,
vượt biển, không nơi nào dám chứa, nhận... ư?
Đâu chỉ xứ Mít?
Hình ảnh mấy nấm mồ che
tầm nhìn, đằng sau nó, là biển cả trấn
ngự, và cùng với nó, là tất cả tai ương Mùa
Biển Động, của dân Mít, mà không
nói hết ra được thảm họa Bắc Kít chiếm nước
Mít bây giờ ư?
Hình mấy nấm mồ, quá
cả lịch sử, theo nghĩa quá khứ, còn cưu mang
trong nó, tương lai, hy vọng.
(1)
http://www.tanvien.net/Tribute_1/NMG_1.html
"Lịch sử tan rã ra bằng
hình ảnh, không phải bằng tự sự." ["History
decomposes into images, not into narratives." Walter Benjamin,
trích dẫn bởi Coetzee].
Hình ảnh cái đầu
khổng lồ rã ra từ một bức tượng khổng lồ của Lênin.
Hình ảnh một con người chặn cả đoàn xe tăng ở quảng
trường Thiên An Môn. Cái bóng (có
thực, hoặc tưởng tượng) của một người đàn ông
lỡ độ đường, lom khom với bọc quần áo, in lên nền trời,
mỗi lần hoả châu rực sáng, trong truyện ngắn "Dọc
Đường" của Thanh Tâm Tuyền.
Pleiku - Chút Gì Để Nhớ
Bài này mới thần
sầu. GCC khám phá ra tác giả
HH, qua bài này.
Trong bài viết, Pleiku
là thành phố tưởng tượng, vì đã tới
đó bao giờ đâu. Nhưng mấy nơi chốn kia
thì có thực, vì đã từng thăm viếng.
Dùng cái
thực để dựng lên cái ảo, thế mới tuyệt.
Trước khi
thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi
mộ của người tị nạn.
"Khói củi ướt nhóm
trong lò bốc lên màu xám
trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương"
Thực.
Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây
buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên
tóc em ướt. Nên mắt em ướt. . .
Đó là lần
đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong bài
thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc.
Ảo
Được Ông Gấu khen thì
đúng là lên thiên đàng!
Tks again
Take care
NQT
Note: Cái tên Lang
Băm đâu có biết là GCC đọc Bà Tám, ngay
khi vừa xuất hiện?
Đọc Lê Minh Hà,
khi cả xứ Bắc Kít chê, hoặc chưa hề nghe nói
tới...
Ngay cả Nhà Có
Cửa Khóa, thì cũng GCC khám phá
ra, khác hẳn cái em ông tiên chỉ VP
nức nở khen cái xì...
Chẳng cần tới Lạc Đạn, Trần Thị NgH
đã nổi tiếng. Trong bài viết "Nhìn lại văn
chương hải ngoại năm 1999" (đã đăng trên tuần báo
VHNT trên internet, do Phạm Chi Lan chủ trương), người
viết có đưa ra nhận xét, đây là một năm
được mùa. Mùa gặt mới trong đó có cả
lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác
giả như Trần Thị NgH. Một tác giả trước 1975 tại Miền Nam,
vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách
ở Sài Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa
Khoá Trái. Theo tôi, truyện đầu tay của bà
là về một người đàn ông có vợ, nhân bữa
chủ nhật được nghỉ, đi thăm một người đàn bà không
chồng nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng
đi mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn
còn nhớ cái cảnh cô đơn của người đàn ông
gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác trước tiệm thuốc
tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm.
Truyện được viết bằng một giọng văn rất trung tính (neutre),
rất không độ ("Không độ của cách viết", Roland Barthes),
không lạm dụng những thủ pháp tu từ, không thảm kịch
hóa hoàn cảnh, không có chất ngổ ngáo,
rất NgH như nguời ta thường nhận định về bà.
Đi tìm phê bình gia Mít
V bảo chú Trụ dịch
và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình,
ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi cọ. Có
lẽ văn chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm
tri kỷ, phải dạy người ta một diều gì đó nhưng không
dạy đời.
Thư độc giả
Tôi chẳng thế
nào mà tỏ ra khiêm tốn được. Có
quá nhiều điều cháy bỏng ở trong tôi; những
lời giải cũ tán loạn ra, rời rụng ra, những cái
mới thì chẳng ra làm sao, chẳng ra đầu ra đuôi.
Thế là tôi
bắt đầu, mọi chuyện, mọi điều, liền tù tì,
cùng một lúc.
Như thể tôi
có cả một thế kỷ ở phía trước tôi.
Canetti, 1943.
Susan Sontag trích
dẫn, trong Under the Sign of Saturn [đây là
tên bài viết về Walter Benjamin, sử dụng cho toàn
tập], chương Mind as Passion: Cái đầu như là
đam mê.
Ông Canetti
này là nhà văn Đức, Nobel văn chương.
Phán bảnh thực.
Ông cũng không
phải là nhà phê bình văn học
như ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi
đào mả tên tuổi các ông bà
nhà văn nhà thơ hải ngoại.
Lang Băm
Y chang giọng Thầy
Đạo mét bu Sến: Thằng đó đâu phải
dân chuyên khảo.
Tên này,
viết bằng cái nick dởm, không biết là
tên nào trong số những kẻ thù/bạn quí,
nhưng ngay cả Thầy Đạo, Gấu chưa từng đụng độ.
Hà cớ chi
chúng cay cú như thế?
Gấu cực tởm phê
bình, có thể là do lúc mới vào
nghề, bày đặt viết phê bình, điểm sách
bằng 1 cái giọng coi trời bằng vung, bị chúng
đánh tơi tả,
cho nên, khi ra được hải ngoại, thoát mấy kiếp
địa ngục, bèn tự hứa, không bao giờ viết phê
bình, điểm sách, và viết cái gì
thì cái gì, phải viết bằng cái giọng
cực kỳ nhũn nhặn.
Một độc giả nhận
xét, khi viết cho talawas, ông ta viết
cực kỳ khiêm cung, chỉ đến khi mở trang Tin Văn, thì
giọng khác hẳn đi.
Đúng như thế,
khi Gấu mở trang Tin Văn, 1 trong những mục đích
nó là “dẹp loạn trong giang hồ”, hà, hà!
Nhưng, giả như Gấu
không viết phê bình, điểm sách,
trước 1975, chắc gì đã qua được cửa ải thanh
lọc.
-Tôi cho anh nói
lại. Ở đây, thấy ghi anh học hết trung học, có
một văn bằng đại học. Anh nói anh làm thơ,
viết truyện ngắn, tôi tin. Nhưng phê bình
văn học, tôi không tin. Tôi cho anh nói
lại.
Ông ở tận Canada ông
làm sao biết ở Calif mối liên lạc giữa các
trùm sò văn chương hải ngoại thời đó
với các bà cỡ Mai Ninh thấu tới đâu. Những áp
phe tình ái của Khánh Trường với các
bà nổi lều bều trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu
hiệp. Khánh Trường chủ tờ Hợp Lưu và các
“đàn anh văn nghệ” của Khánh Trường mới là
những người được hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham
danh dâng hiến, í lộn, do các bà nữ dzăng
thơi sỡi quyên góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu ngày
Khánh Trường chưa ngồi xe lăn.
Lang Băm
Cái chuyện
KT khoe, làm điếm đực, viết truyện khiêu
dâm để nuôi tờ HL, nhiều người biết, không cứ
phải ở Cali.
Mai Ninh là
nhà văn ở Pháp, họ có thể quen biết
nhau, cả đến chuyện có thời có tình cảm
với nhau, là chuyện thường tình, sao tên
này viết nhơ bửn đến như thế, thực là khó
hiểu.
Mà tại sao
lại lôi chuyện này ra, khi mượn trang blog
của người quen, để biêu riếu họ, làm ngượng lây
đến chủ blog, và độc giả của blog?
Không lẽ mi
không có lấy 1 chút tế nhị?
Muốn chửi GCC, thì
phải mở 1 trang blog, và cũng đừng rây
rưa đến người khác.
Trên TV đã
từng giới thiệu Mai Ninh, và cách đọc
Mai Ninh của TV cũng chẳng hề giống lũ “mắt trắng dã” đã
từng đọc bà.
Lời giới thiệu:
Là một nhà
văn nổi tiếng ở hải ngoại, nhưng với một độc giả,
thí dụ như tôi, và có lẽ, với chính
tác giả, đến bây giờ, cả hai mới nhận ra
giọng văn đích thực, của mình.
Hy vọng sẽ có
dịp nói thêm, về một thứ tùy bút,
giống như mưa mùa xa, theo nghĩa chưa từng có,
chợt về với khí hậu văn chương Việt Nam.
Nhưng cũng không
hẳn như vậy, bởi vì đọc Mưa Mùa Xa, bỗng
nhiên tôi liên tưởng tới... Mưa Mùa Khác:
Mưa vô mùa,
nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi
về quê, má tôi chặt lá, giúc
nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu
một nồi tám đầy vun bánh, tôi hỏi má
gói chi nhiều vậy, má cười...(1)
Như vậy, đâu
phải bốn, mà chỉ có hai mùa, mưa và
nắng, nhất là mưa, ở trong Mưa Mùa Xa:
"Mưa Sài Gòn
độ rất nhỏ.."
Và "nhất là"
những câu như thế này:
"Rồi tôi, cô
bé mười ba bấy giờ biết những chấn động đầu tiên
trong đời qua màn mưa phả suốt đêm giới nghiêm,
ngập ngụa những tờ truyền đơn ướt nát, những manh
biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang đèn
vung vãi trên vỉa hè sau cuộc biểu tình
tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh rền
rĩ niệm kinh suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước đập rộn rã
vào cửa liếp và những chậu kiểng mẹ trồng thay hàng
dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng chùm đã đốn
đi, thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh
tuần tiễu chạy rút giữa lòng đường."...
Bạn nhận ra ngay,
Sài Gòn của những ngày xuống đường,
ở trong Mưa Mùa Xa,
Bạn nhận ra ngay,
Miền Nam ở trong Xa Mùa Mưa,
Ông cũng không phải
là nhà phê bình văn học như ông Cuốc Kức
thì làm sao mà đòi đào mả tên
tuổi các ông bà nhà văn nhà thơ hải
ngoại.
Lang Băm
Cũng cái air, “mi đâu
phải dân khoa bảng”, của Thầy Đạo, cho thấy, tên
Lang Băm này, chắc cũng có tí bằng cấp, cử
nhân Triết Văn Khoa, Sài Gòn hay Đà
Lạt.
Luật hoãn dịch vì
lý do học vấn đòi hỏi mỗi năm mỗi lên lớp,
mỗi đậu đạt, khiến học sinh Miền Nam đành phải chọn những
môn ngon ăn, thay vì toán, khoa học. Ghê
gớm chi đâu mà khoe hoài. Gấu học sớm, ra trường
sớm, đi làm sớm, và sau đó, thì lại
được hoãn dịch vì lý do chuyên viên
tối cần thiết!
Ông bạn cùng học của
Gấu, cùng trọ học Thủ Thiêm với Gấu, Phạm Văn
Hàm, đậu đạt sau Gấu, có cái bằng cử nhân
Luật, sau làm chánh án, vẫn phàn nàn,
khi nghe tin Gấu vô Bưu Điện, làm anh thợ máy.
Nhưng đúng là nếu
không học Bưu Điện, làm thợ sửa máy, thì
đời Gấu hỏng.
Do làm Bưu Điện mà
có cái job làm cho UPI, có tiền, mua
sách thả giàn, đọc đủ thứ trên đời, nhờ
cái
vốn liếng đó, đến khi ra được hải ngoại, bước vào cửa
lớn, mở ra cõi văn thế giới, đúng là cá hóa
long!
Tên này tởm hơn
nhiều, nếu phải so với Thầy Đạo.
Mét bu, OK, nhưng dùng
tên thực.
Dùng nick dởm, viết toàn
điều thô bỉ, về những người đã có danh phận
trong giới giang hồ, quá tởm!
Đi tìm phê bình gia Mít
1.
Lang Băm | March 8, 2014 at 4:00 pm
Ông T
Tôi nghĩ ông nên
từ tốn và tiêu hóa điều mình muốn
phát biểu trước khi viết xuống. Ông
hơi tự sướng quá đà.
Ông ở tận Canada ông
làm sao biết ở Calif mối liên lạc giữa các
trùm sò văn chương hải ngoại
thời đó với các bà cỡ Mai Ninh thấu tới
đâu. Những áp phe tình ái
của Khánh Trường với các bà nổi lều bều
trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu hiệp. Khánh
Trường chủ tờ Hợp Lưu và các “đàn anh
văn nghệ” của Khánh Trường mới là những người được hưởng
nhiều bổng lộc do các bà ham danh dâng hiến,
í lộn, do các bà nữ dzăng thơi sỡi quyên
góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu ngày Khánh Trường
chưa ngồi xe lăn.
Quyển sổ áp phe của bà
Trần Thị Ng.H thì cỡ ông làm gì
được chấm mút. Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân
Hoàng, Nguyễn Đình Toàn thì cũng
chưa nhằm nhò gì so với các áp phe
khủng của bà này
Ông cũng không phải
là nhà phê bình văn học như ông
Cuốc Kức thì làm sao mà đòi đào
mả tên tuổi các ông bà nhà
văn nhà thơ hải ngoại.
Ông cũng chả có công mẹ gì
trong cái vụ bà Tám ló
ra ló vào văn chương này cả. Lý
do là trang của ông chỉ một mình
ông tự sướng. Bà Tám thì gửi bài
cho nhiều nơi khác như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org),
Thư Quán Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ,
và nhiều nơi khác. Như vậy bà Tám
được nhiều nơi khác giới thiệu cùng một lúc,
mà ông nào có phải là nhà
phê bình và là chủ bút một tờ báo
nào đâu mà ông bảo là ông
xúc bà Tám lên.
Note: Cái này,
ở bên Blog một chỗ quen biết, lôi
về đây cho tiện để chửi cho đã!
(1)
Và
cũng để cho chỗ quen biết khỏi bực, vì những chuyện
nhơ bửn như vậy.
Gấu &
độc giả Tin Văn, thì quen rồi.
Vả như
không quen/ chưa quen [Bi giờ chán TV rùi],
thì tạm lánh đi chỗ khác.
Chúa có khi còn
vắng mặt, đúng vào lúc xẩy ra Lò
Thiêu, nữa là!
Hà, hà!
GCC nghi, tác giả là
1 tên thuộc băng đảng Hậu Vệ, hoặc đệ tử Thầy Cuốc.
Cái
câu, “ông cũng không phải là nhà
phê bình văn học như Thầy Kuốc”, khiến Gấu
nghi tên khốn này là đệ tử
của ông ta. Và, cái giọng nhơ bửn của
nó. Lũ khốn này, khi TV mới mở ra mục Dọn,
xúm vô như ruồi nhặng, sau thấy quê quá,
lặn dần. Bây giờ lại thấy xuất hiện.
Note: Vụ này,
nay mới lôi ra để đáp lễ.
Tên
này, Gấu nghi, cũng 1 thứ Thầy, như Thầy Đạo,
cay cú GCC, thằng khốn đâu có bằng cấp
con khỉ, 1 tên thợ máy Bưu Điện mà cũng
bày đặt!
Cái
chuyện liên quan đến Bà Tám, là
như thế này. Gấu đọc Bà Tám, khi còn
ký tên Lì, trên 1 blog, và
quá mê bài viết về Pleiku, bèn
lôi ra khen. Cái chuyện nổi tiếng, là
sau đó. Và không liên can gì tới
GCC. Tuy nhiên, post bài nhiều diễn đàn
đâu có nghĩa là nổi tiếng? Lũ hải ngoại, viết
được 1 bài như kít, sau khi đăng ở hải ngoại, là
thể nào cũng cho đăng lần nữa ở Văn Vịt, thí dụ, như thế,
đâu có nghĩa là nổi tiếng, chỉ làm khổ
người đọc thêm 1 lần nữa.
Trang Tin
Văn, là 1 thứ trang nhà, khác blog.
Blog có chế độ public, tức là mời người đọc vô
đọc, rồi có thể góp ý, qua còm.
Tên này, rõ ràng là đọc
trang Tin Văn, rồi chửi GCC, tự sướng. Nói thẳng
ra ở đây, ta đâu có mời mi vô trang
TV? Đọc, thấy bửn quá, thì đừng vô nữa.
Còn
mấy cái chuyện nhơ bửn liên quan tới nữ
văn sĩ Mít. Gấu gia nhập chốn giang hồ gió tanh
mưa máu, từ khi còn trẻ. Còn Sài Gòn.
Đâu
có phải đợi đến khi ra hải ngoại, rồi phải ở
Cali mới biết những chuyện như tên này lôi
ra để làm nhục họ?
Biết, nhưng
chưa hề 1 lần nhắc tới.
Làm
sao tên này toàn biết những chuyện
nhơ bửn như thế, rồi còn lên giọng dậy đời?
… mà ông nào có phải
là nhà phê bình và là
chủ bút một tờ báo nào đâu mà
ông bảo là ông xúc bà Tám
lên.
Phải là
nhà phê bình, phải là chủ
báo, phải đăng bài tác giả gửi tới thì
mới có quyền nhận xét về 1 tác giả?
Giả như GCC
không phải là nhà phê bình,
thì mi là gì, mà cũng lên
tiếng làm nhục những nhà văn mà mi
nhắc tới?
Mi đã
từng có tác phẩm nào, hay cũng 1 thứ
như Thầy Đạo, sống đến chót đời không có
1 tác phẩm lận lưng?
GCC, ngay khi
vừa vô chốn giang hồ, là đã được nhà
thơ NS tặng cho cái nick, “tên sa đích
văn nghệ”, vì dám phán, ông là
1 nhà văn dễ dãi, sung sướng.
Coi văn chương
của NTH là khủng khiếp.
Chỉ nêu
hai thí dụ, để cho thấy, rõ ràng tên
này đố kỵ, khi coi GCC đếch phải nhà phê
bình!
Trong suốt đời cầm viết, Gấu
tởm nhất, cái gọi là phê bình,
và cái tên, vỗ ngực xưng tên, là
phê bình gia. Tên hoạn. Như Steiner nói.
Một thứ tầm gửi, giây leo, sống nhờ vào sáng
tác của người khác. Hãy thí cho nó
1 bài thơ.
Cái viết
của Gấu, nếu bắt buộc lắm, mới có mùi phê
bình.
Tên này,
1 thứ cha căng chú kiết, có ai biết là
ai đâu?
Giọng thật cay cú,
với GCC. Y chang Thầy Đạo, khi mét Sến.
Không phải Thầy
Đạo, nhưng cũng 1 thứ như Thầy.
Trước 1975, sở dĩ GCC phải dùng
tên cúng cơm NQT, là do viết những bài
phê bình, điểm sách. Dùng 1 cái
nick, để viết nhơ bửn về những tác giả đã có
tên tuổi, tác phẩm, là 1 điều 1 kẻ có
chút đạo hạnh không thể làm.
V/v Bà Tám nổi
tiếng, đâu cần đến mi... thì... OK, nhưng mi thử
đưa ra 1 lời phê bình, từ lũ mắt trắng dã, hay
1 nhận xét nào đó, nghe được về cõi
văn của Bà Tám, nghe coi?
Đi tìm phê bình gia Mít
Ukraine
Trong bài viết “Phát
Xít, Nga và Ukraine”, Snyder nói
ra cái điều mà GCC lèm bèm hoài, chính
Cái Ác Á Châu đã làm
cho nhân dân của nó hướng về Âu Châu, được
coi như thiên đàng đếch có Cái Ác
Á Châu. Trong ao ước gia nhập Liên Minh Âu
Châu của nhân dân Ukraine, có giấc mơ đó,
và chính nó, mới là giấc mơ ra khỏi luỹ
tre làng, khi đám trẻ Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn
kíu nước.
Có hai thế lực đối đầu
nhau tại Ukraine: Liên Minh Á(c) Châu, và Liên
Minh Âu Châu:
The future of
this protest movement will be decided by Ukrainians. And
yet it began with the hope that Ukraine could one day join
the European Union, an aspiration that for many Ukrainians means
something like the rule of law, the absence of fear, the end of
corruption, the social welfare state, and free markets without
intimidation from syndicates controlled by the president.
The course of the protest has
very much been influenced by the presence of a rival project,
based in Moscow, called the Eurasian Union.
Đây là 1 bài
viết tuyệt vời - trên NYRB, TV bèn bệ về, sợ tờ báo
không cho đọc free - lạ làm sao, đúng y chang “bước
đi lịch sử” của trang Tin Văn, hà, hà: Vạch rõ ra
Cái Ác Bắc Kít mới là nguồn cơn của cuộc chiến
Mít!
Bài của Anne Applebaum,
cái tít, là cũng nói ý đó:
Russia Will Never Be Like Us
We’ve spent 20 years trying to make
it a Western country. Bad idea.
Bài này được Phạm
Vũ Lửa Hạ dịch, đăng trên Blog SCN:
Nga sẽ chẳng bao giờ giống chúng
ta
Chúng
ta mất 20 năm gắng biến Nga thành một nước phương
Tây. Vô ích.
Từ “bad idea”, dịch là
“vô ích”, tuyệt.
Làm bật ra câu thật
xưa, “Đông là Đông, Tây là
Tây”, mà đến bây giờ Gấu mới hiểu, hai bên khác
nhau chỉ vì 1 chữ Ác.
Theo Tolstaya, chính cái
phần dã man của Á Châu, được trục lên,
từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử miền đất này,
và được sử dụng như những chuồi, những rễ, thành phần
nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đây là
Con Quỉ Á Châu, so với Con Quỉ Âu Châu, là
Hitler và đám Nazi.
Nơi người chết mỉm cười
Tatyana Tolstaya, trong một bài
người viết tình cờ đọc đã lâu, khi còn ở Trại
Cấm, và chỉ được đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng
trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải từ
trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không
phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên
từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga,
dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không
ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu
man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng
cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu
không có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ
Stalin không thể sống dai như thế. Pushkin đã từng van
vái: Lạy Trời đừng bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách
mạng Nga!
Bây giờ đọc lại Phan Khôi,
liệu chúng ta có thể hiểu ông nhiều
hơn, khi không giản lược câu chuyện ông kể,
về Cỏ Cụ Hồ, chỉ là một cách xả xú báp của
một vị thâm nho, trước chế độ độc tài, theo suy nghĩ
châm biếm, hài hước là khí giới của kẻ yếu
thế. Trong Nhân Văn Giai Phẩm, ông kể chuyện Điện Biên,
và sự xuất hiện một thứ cỏ tại vùng này. Cỏ
nở hoa, "không thể ngửi được". Người Miền Bắc gọi là
hoa cứt lợn (heo). Nhưng người dân Điện Biên vì thấy
cỏ xuất hiện cùng lúc với quân đội Cộng Sản, nên
gọi là Cỏ Cụ Hồ.
Đi tìm phê bình gia Mít
Tin
Văn scan hai bài trên The Economist
liên quan vụ Ukraine, từ báo giấy.
Jerome Sessini/Magnum Photos
Wounded protester, Kiev, Ukraine,
February 2014
Người biểu tình bị thương
Kiev, Ukraine, February 2014
Betrayed
Trúng Quả Lừa
Charles Simic
Every time I see a large crowd
of people on TV or in a newspaper, demonstrating against
some autocratic government, I have mixed feelings: admiration
for their willingness and bravery to take a stand, and a foreboding
that nothing will come out of the effort. This sad conclusion
comes from seeing too many worthy causes and mass movements fizzle
out over the years. But even by that grim reality the defeat of
democracy movements across the Middle East and North Africa, following
protests that brought out millions of people, is staggering. Not
that these were the only places where crowds were demanding change.
There were mass demonstrations in Greece, Bulgaria, Mexico, Brazil,
Peru, Spain, Portugal, and many other countries, caused by the global
economic crisis and governments instituting austerity measures, but
what has happened in places like Syria and Egypt and now Ukraine is
more serious, since protesters have questioned the legitimacy of the
state and made demands for fundamental reform or the overthrow of the
men and institutions who stand in the way of popular will.
Although most of us know little
about the history and culture of these countries, we have
seen the faces of protesters, old and young, and from all
walks of life; and although they may look different than our
own compatriots, we can understand their anger and disgust with
the political system they have been living under and their determination
and vulnerability as they confront armed representatives of a
corrupt state. How exhilarating it was in 2011 to see hundreds of
thousands of people pouring into the streets and scaring the hell
out of those in power. It made me recall the heady days of protests
against the wars in Vietnam and Iraq, the naïve conviction we had
as participants that our voices would be heard and would prevail against
what seemed to us then, and proved subsequently to be, acts of moral
and strategic idiocy, leading to slaughter of countless of human
beings and destruction of their countries.
Nonetheless, for weeks, and even
months, watching the crowds at Tahrir Square and elsewhere we were hopeful.
Their demands appeared not only reasonable, but irreversible,
even though there were plenty of signs that those in power
intended to strike back. I remember, for example, seeing on
TV a clip of a demonstration in Bahrain, or in some other Gulf
State, where the following scene took place. A distinguished-looking
elderly man in a white suit stepped out of the crowd of demonstrators
and approached a platoon of armed soldiers with their rifles pointed.
He was speaking to them calmly when, without any warning, one of
the soldiers lifted his weapon and shot the man in the head. There
was plenty more violence everywhere during the months of the so-called
Arab Spring, but what particularly caught my eye was the brutality
the policeman and soldiers reserved for women and students in the crowd.
It would be replayed a few months later in the scenes of cops beating
and spraying with mace young women during the Occupy Wall Street
demonstrations in our cities. One could feel the pleasure that inflicting
pain gave these men and the hatred they bore for these disobedient
children of their fellow citizens, as they worked up a sweat kicking
and pummeling them.
That’s why I’m wary of the politicians
and op-ed page writers who routinely express shock and
outrage at the brutal treatment of demonstrators in other
parts of the world. They never seem to notice how we treat them
at home or how our soldiers deal with them in the countries we’ve
been occupying lately. The farther away the injustice is, one might
say, the louder their voices are, though even there they tend to be
selective and preach humanitarian aid only when it suits our interests.
If the regime doing the beating is one of our allies, not a peep will
be heard from anyone in Washington. If not, than their usual advice for
putting a stop to the mistreatment of protesters is military intervention.
To hear someone like Senator John McCain tell it, all we need to do
in these countries is drop a lot of bombs and freedom and democracy
will emerge from the wreckage, as they did, I presume, in Iraq, Afghanistan,
and Libya. He and other enthusiasts of military interventions have
no patience with anyone who argues that it’s not up to us to remedy every
injustice in the world, or who points out that, when we involve ourselves,
we end up killing a lot of innocent people and unleashing ethnic and
religious passions, resulting in local and regional chaos we have no
way of containing.
It is the selective morality
of our interventionists that offends me. They judge acts
of violence not by their consequences, but on whether someone
else or we are the perpetrators—if the acts are done by us
they tend to have their full approval. Hypocrites who are blind
or indifferent to their own country’s atrocities are not well
suited for playing the part of moral conscience of the world, especially
when their claims to desire democracy in these troubled countries
has a long and notoriously checkered history. As we have witnessed
again and again, since we overthrew the elected government in Iran
sixty years ago, the United States prefers to deal with countries
run by autocrats and the military, because democracies that genuinely
respond to the wishes of voters tend to be unpredictable and independent,
and therefore are not in sync with our strategic and business interests.
What a sigh of relief for Washington
when the Egyptian military overthrew the democratically
elected government! Overnight, the crowds that gathered
at Tahrir Square were forgotten and the politicians and columnists
who idealized them the day before fell silent, even as the army
and the security forces started shooting them in the streets and
locking them up by the thousands. As the saying goes, we have seen
this movie many times before. There are few things that never change
in this world of ours, but one of them happens to be the near certainty
that those who raise their voices against injustice get betrayed in
the end.
March 21, 2014, 9:45 a.m.
Bài viết này
cũng có thể coi như lời ai điếu cho những kẻ đã
tham gia biểu tình "phản chiến", Mỹ cút, Ngụy
nhào, VC Bắc Kít vô lẹ lên, trên đường
phố Sài Gòn ngày nào
Đi tìm phê bình gia Mít
Ví dụ, năm 1956, hàng
ngàn dân chúng, đặc biệt là
giới sinh viên và trí thức, biểu tình trên
các đường phố ở Budapest để chống lại một số chính
sách của chính phủ Hungary. Một số sinh viên
bị bắn chết. Làn sóng công phẫn trào lên,
dân chúng khắp nơi lại ào ào xuống đường
biểu tình. Đầu tháng 11, Liên Xô tràn
quân qua biên giới Hungary để trấn áp những người
biểu tình, giúp chính phủ cộng sản độc tài
tại Hungary khôi phục lại quyền lực. Hơn 2000 người Hungary
bị giết chết. Khoảng 200.000 người phải chạy ra nước ngoài tị
nạn. Trước biến cố ấy, Mỹ làm được gì? Tổng thống Dwight
Eisenhower chỉ làm được một việc duy nhất là tố cáo
những hành động trấn áp dã man của Liên Xô
trước Liên Hiệp Quốc. Hết.
NHQ
Trên TV đã từng
giới thiệu 1 số bài viết, cũng đã lâu
lắm rồi, về cuộc cách mạng Budapest mà phải bao
nhiêu năm sau, nhân loại mới nhìn ra thành quả
của nó: Không có nó, là Stalin
đã nhuộm đỏ cả Âu Châu rồi.
Ngay khi nó vừa mới xẩy
ra là nhà thơ TTT đã đi 1 đường chào
mừng, trước cả thế giới!
Thầy Kuốc, do có đọc điệc
gì đâu, toàn phán nhảm. Đây là
những vấn đề liên quan đến chuyên môn, phải
là 1 sử gia, ít ra, thì mới dám
đụng vô những vấn đề như vầy.
Điếc đếch sợ súng. Phán
liều lĩnh như thế này, thì đúng là
hết thuốc chữa!
NQT
Tưởng Niệm Cách Mạng Hung
Có thể nhìn thẳng
vào cái chết, với hy vọng.
"It is possible to face death with
hope"
Phải đợi một nửa thế kỷ,
nhân loại mới tìm ra tên của nó:
Một cuộc cách mạng đạo đức.
[Bìa báo Tin Nhanh,
L'Express Inter, số đề ngày 19-25 Tháng Mười,
2006].
Trước biến cố ấy, Mỹ làm được gì?
Tổng thống Dwight Eisenhower chỉ làm được một việc
duy nhất là tố cáo những hành động trấn
áp dã man của Liên Xô trước Liên Hiệp
Quốc. Hết.
NHQ
Thầy Kuốc muốn Mẽo làm được
gì? Tổng Thống Mẽo thì là cái
đéo gì ở đây? Không lẽ ông ta cho lính
Mẽo can thiệp vô Hung? Thầy chưa từng nghe 1 tên
Bộ Trưởng Ngoại Giao Mẽo, James Baker, hình như vậy,
(1) trả lời Thầy ư: Đếch có 1 con chó Mẽo nào kẹt
ở đó hết!
Tố cáo Mẽo, như trên,
thì đúng là quá ngây
thơ, và còn vọng ngoại.
Miền Nam cũng nghĩ như thế, nên
mới mất nước. Mẽo đời nào bỏ Miền Nam. Nhưng chúng
bỏ, vì chúng phải nghĩ đến chúng trước đã.
Có khi chúng, ở đây,
chỉ là một người: Nixon bỏ Miền Nam để có được
cái ghế Tổng Thống.
(1)
Viên bộ trưởng ngoại giao
Mỹ, James Baker, đã diễn tả thật là tuyệt
vời, cái tính "thực tế" của chính sách
trên, qua câu nói, khi xẩy ra những vụ nhổ cỏ thì
phải nhổ cả gốc, làm sạch những sắc dân khác
(ethnic cleaning) ở Bosnia: "Chẳng có một con chó
Mỹ nào bị kẹt ở đó." (We don’t have a dog in this fight:
Chúng ta không có một con chó nào
ở trong trận đánh này).
Bây giờ thì khác. Khi Nga
tấn công và chiếm đóng bán đảo Crimea của
Ukraine, phản ứng của Mỹ khác hẳn. Vẫn không động binh. Nhưng
cũng không phải chỉ đánh bằng võ mồm. Tổng thống Barack
Obama tận dụng một thứ vũ khí mới, thứ vũ khí phi quân
sự (nonmilitary): kinh tế. Có thể nói, từ thời đệ nhị thế
chiến đến nay, trong tổng số 12 tổng thống Mỹ đương đầu với những thử thách
xuất phát từ Liên Xô và sau đó, Nga,
Obama là một trong những người đầu tiên sử dụng vũ khí
ấy.
NHQ
Chính trị thế kỷ 21. Kinh
thế.
Tình hình Crimée,
cho tới bi giờ, cũng chưa ai biết nó sẽ ra sao.
Thầy Kuốc cứ làm như Obama nắm được tẩy của Putin,
với vũ khí “kinh t[h]ế”.
Bài mới nhất, trên
tờ Obs, tuần lễ 20-26 Mars, 2014, thì coi như đây
là chiến thắng tạm [trompe-l’oeil, đánh
lừa con mắt], của Putin, khi cho biết, với người dân Crimée,
đa số, nhất là giới trẻ, mừng quá, khi gia nhập
Nga, tiền lương cao hơn, hưu nhiều hơn, hệ thống giáo dục
ngon hơn. Còn tờ “Điểm Sách London”, 20 March, 2014,
trong bài viết "Putin's Counter-Revolution", James Meek tường
trình tại chỗ, thì coi đây là cú phản
cách mạng của Putin, và cho rằng có 1 quãng
cách, giữa lớp trẻ, và lớp già, ở Ukraine. Giống
như tại Việt Nam, lớp trẻ, không biết 1 tí gì
về tội ác, mà chỉ biết thành quả của VC, rất tức
giận khi có những tên phản động chống lại nhà nước,
như mấy bloggers mới bị nhà nước VC tống vô tù. Tờ
“Người Nữu Ước” thì nói tới vũ khí kinh t[h]ế của Putin,
hơi đốt [Ông ta có 1 thứ vũ khí không qui ước,
unconventional weapon, trong kho của mình: vast supplies of natural
gas]. Tờ này vờ luôn vũ khí "kinh t[h]ế" của Obama!
Thầy Kuốc đâu có
đọc, mà làm sao…. đọc?
Thầy không hề biết, thí
dụ, bài thơ của TTT, đừng nói gì những
báo chí của tụi mũi lõ!
*
Riêng với Thanh Tâm
Tuyền, bài thơ Budapest mà tôi đọc
được, đã trụ lại trong tôi suốt từ bấy đến nay.
Biến cố bi thảm ở Budapest năm 1956 mà truyền thông khắp
thế giới đã nói đến rất nhiều bằng những từ ngữ rất
mạnh mẽ, thì nhà thơ của chúng ta đã chỉ
dùng hình ảnh của đôi trẻ để mô tả cuộc đàn
áp dã man tàn nhẫn đó. Mấy câu thơ
giản dị đã gây xúc động và còn lại
mãi trong lòng người thưởng ngoạn. Xin đừng hỏi tôi
bài thơ ấy hay ở chỗ nào. Chịu. Xin chịu. Tôi không
có may mắn được đào tạo về những lý sự thế nào
là hay thế nào là không hay và điều đó
cũng đã thành thói quen trong tôi. Cho nên
tôi chỉ cần thấy được cái nào hay là đủ. Rồi
về sau, nhiều lúc, nhiều nơi (kể cả ở nhà tù) tôi
đã gặp nhiều người cũng rất thích bài thơ đó.
Có ai đó đọc lên một câu liền có người
khác phụ họa theo, chứng tỏ bài thơ rất phổ biến.
“Hãy cho tôi khóc
bằng mắt em,
Những cuộc tình duyên
Budapest
Hãy cho tôi chết
bằng da em,
Dưới dây xích chiến
xa tội nghiệp…”
Thảo Trường:
Tôi gọi tên tôi
cho đỡ nhớ
Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền,
Thanh Tâm Tuyền. (1)
Những bình luận hay nhất,
về đủ thứ vấn đề, cả về văn học, với GCC, là của
tờ “Người Kinh Tế”. Tất nhiên, với tình hình
Crimea, thì cũng thế. Số mới nhất có tới mấy bài
viết về cơn khủng hoảng này: Dilomacy after Crimea: The
new world order. The Crimea Crisis: Responding to Mr. Putin. Violence
in Crimea. Thường là Gấu bỏ qua, chỉ đọc mấy bài điểm
sách, hay mục do tay Prospero giữ, 1 thứ tạp ghi cực cao về
văn học. Nhân cú “kinh thế” của Thầy Kuốc, bèn ghé
mắt đọc sơ sơ cho biết!
Tin Văn post bài trên
“Người Kinh Tế”, để chứng minh Obama quá ẹ. Mi
không hành động bi giờ là sau này
phải trả giá. Chẳng thấy khen Tông Tông Da Đen về
vũ khí "kinh t[h]ế" của Người.
Điểm của Người sa sút thê
thảm, ảnh hưởng đến Đảng của Người, không lẽ Thầy
Kuốc không biết?
The new world order
The post-Soviet world order was far from perfect,
but Vladimir Putin's idea for replacing it is much worse.
IN PEOPLE'S hearts and minds,"
Vladimir Putin told Russia's parliament this week, "Crimea
has always been an inseparable part of Russia." He annexed
the peninsula with dazzling speed and efficiency, backed by
a crushing majority in a referendum (see page 22). He calls it
a victory for order and legitimacy and a blow against Western meddling.
The reality is that Mr. Putin is a force for instability and strife.
The founding act of his new order was to redraw a frontier using
arguments that could be deployed to inflame territorial disputes in
dozens of places around the world. Even if most Crimeans do want to
join Russia, the referendum was a farce. Russia's recent conduct
is often framed narrowly as the start of a new cold war with America.
In fact it poses a broader threat to countries everywhere because
Mr Putin has driven a tank over the existing world order.
The embrace of the motherland
Foreign policy follows cycles.
The Soviet collapse ushered in a decade of unchallenged
supremacy for the United States and the aggressive assertion
of American values. But, puffed up by the hubris of George
Bush, this "unipolar world" choked in the dust of Iraq. Since
then Barack Obama has tried to fashion a more collaborative approach,
built on a belief that America can make common cause with other
countries to confront shared problems and isolate wrongdoers. This
has failed miserably in Syria but shown some signs of working with
Iran. Even in its gentler form, it is American clout that keeps
sea lanes open, borders respected and international law broadly observed.
To that extent, the post-Soviet order has meaning.
Mr Putin is now destroying that.
He dresses up his takeover of Crimea in the garb of international
law, arguing for instance that the ousting of the government
in Kiev means he is no longer bound by a treaty guaranteeing
Ukraine's borders that Russia signed in 1994, when Ukraine gave
up nuclear weapons. But international law depends on governments
inheriting the rights and duties of their predecessors. Similarly,
he has invoked the principle that he must protect his "compatriots"-
meaning anybody he chooses to define as Russian-wherever they are.
Against all evidence, he has denied that the unbadged troops who
took control of Crimea were Russian. That combination of protection
and subterfuge is a formula for intervention in any country with a
minority, not just a Russian one.
Brandishing fabricated accounts
of Ukrainian fascists threatening Crimea, he has defied
the principle that intervention abroad should be a last resort
in the face of genuine suffering. He cites NATO'S bombing
of Kosovo in 1994 as a precedent, but that came after terrible
violence and exhaustive efforts at the UN-which Russia blocked.
Even then Kosovo was not, like Crimea, immediately annexed, but
seceded nine years later.
Mr Putin's new order, in short,
is built on revanchism, a reckless disdain for the truth
and the twisting of the law to mean whatever suits those in
power. That makes it no order at all.
Sadly, too few people understand
this. Plenty of countries resent American primacy and
Western moralising. But they would find Mr Putin's new order
far worse. Small countries thrive in an open system of rules,
albeit imperfect ones. If might is right, they have much to
fear, especially if they must contend with an aggressive regional
power. Larger countries, especially the new giants of the emerging
world, face less threat of bullying, but an anarchic, mistrustful
world would harm them all the same. If international agreements
are robbed of their meaning, India could more easily be sucked
into a clash of arms with China over Arunachal Pradesh or Ladakh with
Pakistan. If unilateral secession is acceptable, Turkey will find
it harder to persuade its Kurds that their future lies in making
peace. Egypt and Saudi Arabia want Iran's regional ambitions to
be tamped down, not fed by the principle that it can intervene to
help Shia Muslims across the Middle East.
Even China should pause. Tactically,
Crimea ties it in knots. The precedent of secession is
anathema, because of Tibet; the principle of unification
is sacrosanct, because of Taiwan. Strategically, though, China's
interests are clear. For decades, it has sought to rise peacefully
within the system, avoiding the competition that an upstart
Germany launched against Britain in the 19th century and which
ended in war. But peace is elusive in Mr Putin's world, because
anything can become a pretext for action, and any perceived aggression
demands a riposte.
Act now or pay later
For Mr Obama, this is a defining
moment: he must lead, not just co-operate. But Crimea
should also matter to the rest of the world. Given what is
at stake, the response has so far been weak and fragmented.
China and India have more or less stood aside. The West has imposed
visa sanctions and frozen a few Russians' assets. The targets call
this a badge of honor. At the very least, the measures must start to
exceed expectations. Asset freezes can be powerful, because, as the
Iran sanctions showed, international finance dreads being caught up
in America's regulatory machinery. Mr Putin's kleptocratic friends would
yelp if Britain made London unwelcome to Russian money linked to the
regime (see page 25). France should withhold its arms sales to Russia;
and, in case eastern Ukraine is next, Germany must be prepared to embargo
Russian oil and gas. Planning should start right now to lessen Europe's
dependence on Russian energy and to strengthen NATO. Ukraine needs short-term
money, to stave off collapse, and longer-term reforms, with the help of
the IMF, backed by as much outside advice as the country will stomach.
As a first step, America must immediately pay its dues to the fund, which
have been blocked by Congress for months. Even if the West is prepared
to take serious measures against Mr Putin, the world's rising powers may
not be inclined to condemn him. But instead of acquiescing in his illegal
annexation of Crimea, they should reflect on what kind of a world order
they want to live under. Would they prefer one in which states by and large
respect international agreements and borders? Or one in which words are
bent, borders ignored and agreements broken at will? •
Đi tìm phê bình gia Mít
Ví dụ, năm 1956, hàng
ngàn dân chúng, đặc biệt là
giới sinh viên và trí thức, biểu tình trên
các đường phố ở Budapest để chống lại một số chính
sách của chính phủ Hungary. Một số sinh viên
bị bắn chết. Làn sóng công phẫn trào lên,
dân chúng khắp nơi lại ào ào xuống đường
biểu tình. Đầu tháng 11, Liên Xô tràn
quân qua biên giới Hungary để trấn áp những người
biểu tình, giúp chính phủ cộng sản độc tài
tại Hungary khôi phục lại quyền lực. Hơn 2000 người Hungary
bị giết chết. Khoảng 200.000 người phải chạy ra nước ngoài tị
nạn. Trước biến cố ấy, Mỹ làm được gì? Tổng thống Dwight
Eisenhower chỉ làm được một việc duy nhất là tố cáo
những hành động trấn áp dã man của Liên Xô
trước Liên Hiệp Quốc. Hết.
NHQ
Trên TV đã từng
giới thiệu 1 số bài viết, cũng đã lâu
lắm rồi, về cuộc cách mạng Budapest mà phải bao
nhiêu năm sau, nhân loại mới nhìn ra thành quả
của nó: Không có nó, là Stalin
đã nhuộm đỏ cả Âu Châu rồi.
Ngay khi nó vừa mới xẩy
ra là nhà thơ TTT đã đi 1 đường chào
mừng, trước cả thế giới!
Thầy Kuốc, do có đọc điệc
gì đâu, toàn phán nhảm. Đây là
những vấn đề liên quan đến chuyên môn, phải
là 1 sử gia, ít ra, thì mới dám
đụng vô những vấn đề như vầy.
Điếc đếch sợ súng. Phán
liều lĩnh như thế này, thì đúng là
hết thuốc chữa!
NQT
Tưởng Niệm Cách Mạng Hung
Có thể nhìn thẳng
vào cái chết, với hy vọng.
"It is possible to face death with
hope"
Phải đợi một nửa thế kỷ, nhân
loại mới tìm ra tên của nó:
Một cuộc cách mạng đạo đức.
[Bìa báo Tin Nhanh,
L'Express Inter, số đề ngày 19-25 Tháng Mười,
2006].
Chuyện gì xẩy ra tại Hung,
vào năm 1956?
Đây là tóm
tắt về nó, tại Tây Phương, trích Bách
Khoa Toàn Thư Columbia Enclycopedia.
Vào ngày 23 Tháng
Mười, 1956, một cuộc cách mạng Chống Cộng của dân
chúng, tập trung tại Budapest, bùng nổ tại
Hungary. Một chính quyền mới được thành lập, dưới quyền
Imre Nagy, tuyên bố Hungary trung lập, rút ra khỏi
Hiệp Ước Warsaw, kêu gọi LHQ cứu trợ. Tuy nhiên, Janos
Kadar, một trong những bộ trưởng của Nagy, thành lập một
chính quyền phản cách mạng, và yêu cầu sự giúp
đỡ quân sự của Liên Xô. Trong cuộc chiến đấu tàn
bạo và quyết liệt, lực luợng Xô Viết dẹp tan cuộc cách
mạng. Nagy và những bộ trưởng của ông bị bắt giữ và
sau đó, bị hành quyết. Chừng 190 ngàn người tị
nạn rời bỏ xứ sở, Kadar trở thành thủ tướng, của chế độ Cộng
Sản.
*
Ở trong căn phòng của
Lukacs, là ở trung tâm trận bão của
thế kỷ chúng ta. Ông bị quản thúc tại gia,
khi tôi tới gặp ông ở Budapest. Tôi thì còn
quá trẻ, và sướt mướt không thể tin được,
và khi tôi phải rời đi, nước mắt tôi ràn rụa:
ông bị quản thúc tại gia còn tôi thì
đi về với an toàn, với tiện nghi ở Princeton hay bất cứ một
thứ gì. Tôi phải đưa ra một nhận xét nào
đó, và sự khinh miệt hằn trên khuôn mặt ông.
Ông nói, "Bạn chẳng hiểu gì hết, về mọi điều chúng
ta nói. Trong cái ghế này, chỉ ba mươi phút
nữa thôi, sẽ là Kadar," tên độc tài đã
ra lệnh quản thúc tại gia đối với ông.
"Hắn ta là sinh viên
của tôi. Chúng tôi đã cùng làm
việc, qua từng câu, từng câu, cuốn Hiện Tượng Luận
của Hegel. Bạn không hiểu được đâu."
Thực như vậy, tôi đã
không hiểu, tôi "đã" đã không hiểu.
Chỉ mỗi câu chuyện này không thôi đã
cải tạo tôi về cái thế giới mê cung kỳ quái
của tầng lớp trí thức Mác-xít, và sự
độc ác, và tính nghiêm trọng theo đó
mọi trò như thế này diễn ra.
Steiner trả lời Paris Review.
Phỏng Vấn Steiner
I
*
Trong những lỗi lầm của Sartre,
có vụ liên quan tới cuộc khởi nghĩa Budapest
của nhân dân Hungary, vào năm 1956. "Một
ô nhục", theo một tác giả trên tờ Le Monde, vào
năm 1996, khi Sartre "chấp thuận" (approuver) chuyện chiến xa
Liên Xô đè bẹp cuộc cách mạng. Trên
tờ L’Express số đề ngày 9.11.1956, Sartre, trong một cuộc
phỏng vấn, trước tiên đã "kết án, không chút
dè dặt", sự can thiệp của Liên Xô vào Hungary,
coi đây là "một lỗi lầm không thể tưởng tượng được",
"một tội ác"… nhưng cần phải đọc hết cuộc phỏng vấn.
Lẽ dĩ nhiên, quyết định
của điện Cẩm Linh là "một lỗi lầm không thể tưởng tượng
được", nhưng… "tất cả cho thấy rằng, cuộc nổi dậy "có chiều hướng
phá huỷ toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội". Đó
là "một tội ác", nhưng… "trong những nhóm người này,
kết hợp nhằm chống lại những người Xô Viết, hoặc để đòi hỏi
họ ra đi khỏi đất nước Hungary, người ta nhận ra, có những thành
phần phản động, hoặc bị nước ngoài xúi giục"…. "sự có
mặt (chứ không phải hành động can thiệp thô bạo) của
Liên Xô là "một điều cần thiết"….
Lịch sử sau đó cho thấy,
nhân loại đã biết ơn rất nhiều ở cuộc cách
mạng Hungary vào năm 1956. Chính nhờ nó,
mà Liên Xô nhận ra một điều, chuyện nhuộm đỏ cả Âu
Châu, là một toan tính cần phải "xét
lại". Ngay Sartre, trong cuộc phỏng vấn kể trên cũng phải
công nhận, lần đầu tiên có một cuộc cách mạng
không mang mầu đỏ của phe tả (pour la première fois…
nous avons assisté à une révolution politique
qui évoluait à droite).
Tất cả những khẳng định của Sartre
đã được tờ Pravda đăng tải, cộng thêm những lời ca ngợi cuộc
can thiệp của Hồng Quân, như của Janos Kadar, vào ngày
5 tháng 11. Một tháng sau đó, chúng trở thành
những lời buộc tội những người cầm đầu cuộc cách mạng…
Tin Văn Vắn 3
Hãy cho anh khóc
bằng mắt em
Những cuộc tình duyên
Budapest
Hãy cho anh khóc
bằng mắt em
Những cuộc tình duyên
Budapest
Anh một trái tim em một
trái tim
Chúng kéo đầy đường
chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng
ngực em
Như chúng bắn lửa thép
vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là
hàng rào
Hãy cho anh la bằng cổ
em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết
người như gạch ngói
Như lòng chúng ta
thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má
em
Khi chúng đóng mọi
đường biên giới
Lùa những ngón
tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán
em
Ðau dấu đạn
Ðêm không bao
giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài
những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng
da em
Trong dây xích chiến
xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp
Hãy cho anh khóc
bằng mắt em
Những cuộc tình duyên
Budapest
12-56
Thanh Tâm Tuyền
Thảo Trường kể là, đám
sĩ quan VNCH, đi tù VC, thơ TTT, mang theo, chỉ
một bài này.
Hãy cho
anh khóc bằng mắt em
Note: Trên TLS số
5 Tháng Chín, 2008, có bài
điểm cuốn Một
Ngày Làm Rung Chuyển Thế Giới Cộng Sản.
Tin Văn scan, để tặng mấy
anh VC nằm vùng Đào Hiếu, Lữ Phương, kèm câu này,
trích trong bài điểm": "first
we need to interrogate Nagy, then we will hang him by
the tongue": “Trước tiên, chúng ta cần tra
hỏi Nagy, sau đó treo hắn ta lên, bằng cái
lưỡi của hắn"
*
HISTORY
By the tongue
TLADIMIR TISMANEANU
Paul Lendvai
ONE DAY THAT SHOOK THE COMMUNIST WORLD:
The 1956 Hungarian
Uprising and its legacy 320pp. Princeton University Press. £16.95
(US $27.95).
978 0 691 13282 2
The Hungarian-born Austrian
journalist and historian Paul Lendvai has written a
refreshingly insightful analysis of the 1956 Hungarian
Uprising and its historical significance. He offers a fully
updated critical discussion of one of the most exhilarating
and hotly debated events in twentieth-century history. Drawing
from recently released documents, Lendvai points out that the
Hungarian Revolution was simultaneously an attempt to get rid of
a decrepit Stalinist dictatorship, and a war for national liberation.
Initially unwillingly, later more determinedly, Imre Nagy and his
comrades engaged in a radical break not only with an obsolete system,
but also with the Kremlin's imperialist ambitions.
Lendvai makes persuasive
use of the treasure of information generated by the Budapest-based
Institute for the History of the 1956 Revolution. He refers
extensively to memoirs of revolutionaries, as well as to
some seminal contributions by Nagy's biograapher Janos Rainer
and the historian Gyorgy Litvan. Focusing on Nagy's convoluted
political itinerary, including his decades-long unswerving commitment
to the Bolshevik cause, as well as his brief yet disturbing collaboration
with the NKVD during the Great Terror, Lendvai highlights Nagy's
slow, but irreversible divorce from the criminal practices of
Stalinism. Referring to Milovan Djilas's illuminating critique
of national communism as a historically doomed effort to humanize
Leninism, Lendvai also shows how the logic of historical developments
forced Nagy to transcend his initially hesitant and self-limited
reformist agenda.
For Lendvai, the Rakosi
regime was by far the most atrocious in Eastern Europe both in its cynicism and
its terrorist policies. Having chaired the Presidential Commission for the
analysis of the Communist dictatorship in Romania, I beg to differ. I think
that Bulgarian and Romanian repressive strategies were
lly ruthless and destructive. Moreover, during the "New Course"
between 1953 and , Nagy encouraged a political and economic relaxation
unthinkable in Romania, Bulgaria and Albania. At the same time, I agree
that the Rakosi-Gero-Farkas-Revai gang resorted to uniquely sadistic and
squalid patterns of persecution.
Blending political
history and personal memoir, Lendvai helps us understand the grandeur
of the Hungarian Revolution. He places the upheaval within the international
context of 1956: attempts by the West to engage in negotiation with
the USSR as part of the "peaceful coexistence"; hollow Communist rhetoric
followed by no actions; an American administration for whom Eastern
Europe did not really matter; hot-headed Radio Free Europe journalists.
It also the year of Khrushchev's iconoclastic “Secret Speech" which
led to the end of the Stalin myth and ushered in an era of disillusion
among Communists worldwide. It was precisely the split among Hungarian
Communists and the rebellion of the disenchanted Marxist intellectuals
that led to the extraordinary effervescence during the months that preceded
the upheaval. The old regime had lost all support even among once fanatic
Leninists. Many Communists who survived years of jail under Rakosi embraced
the Revolution's ideals. Some did it wholeheartedly, others opportunistically.
Lendvai examines the case of Janos Kadar, one of the most depressing in
Eastern Europe's history. He documents
beyond any doubt Kadar's Judas like role during those
fateful days. At the same time, it appears that with or without
Kadar, the Soviets had made up their-mind and were ready to crush
the Revolution. Kadar's role was, however, decisive in having
Nagy and his closest associates subjected to a frame-up and murdered.
It was Kadar, not Khrushchev who engineered the judicial assassination
in June 1958. Contrasting Kadar and Nagy means exploring two political
visions within world Communism after Stalin: the astute opportunist
versus the neo-Marxist idealist. By the end of his life, isolated
and despised, Kadar lost not only his power, but also his mental sanity.
He finished his days haunted by the spectre of Nagy, his political nemesis,
the man whom he had pledged to support during the first days of the
Revolution, whom he betrayed, and whose life he sacrificed to prevent
the political resurrection of an embarrassing rival.
During his "political
asylum" at Snagov, by the lake in Romania, Nagy wrote several essential
political documents (reviewed in the TLS, May 6, 2005).
It was clear for him that no compromise could be reached with
the political thugs who had made a martyr out of Hungary. Gheorghiu-Dej, the Romanian
ultra-Stalinist leader, told his fellow Politburo members
that "first we need to interrogate Nagy, then we will hang
him by the tongue". Among those who participated in the attempt
to break Nagy's political will was Valter Roman, a Transylvanian,
Hungarian Jewish former Spanish Civil War veteran. The Romanian
"comrades" did their utmost to make Nagy confess that the Revolution
was in fact a Western-backed "counter-revolution".
Lendvai insists on
the extraordinary role of the workers' councils during the Revolution and
its aftermath. He depicts the resistance mounted by these self-organized,
spontaneous networks of civic initiative as a second revolution. In this
respect, his position converges with Hannah Arendt's for
whom the Hungarian Revolution's main legacy was precisely
the emergence of the councils as a form of radical, direct democracy.
At the same time, Lendvai is at his best in detailing some of the
most fascinating biographies of revolutionaries: from desperate
teenagers resisting the secret police and Soviet troops on the
Corvin passage to the still enigmatic Jozsef Dudas, a former Hungarian-Romanian
Communist, an anarchist of sorts, a romantic adventurer who finished
hanged by Kadar's kangaroo justice. The uprising was inclusive,
democratic and patriotic. Contrary to the Communist propaganda, the
Hungarian Revolution not only did not engage in anti-Semitism,
but, on the contrary, some of its most ardent participants were Jewish
(including the journalist Miklos Gimes, executed together with Nagy
in June 1958). With its heroic dreams and liberating passion, the
Hungarian Revolution was the prelude to the citizens' upheaval of 1989.
Bài thơ
Budapest của TTT,
lần đầu tiên ra mắt người đọc hải ngoại, và,
cùng lúc, độc giả ra đi từ Miền Bắc, thời gian
Gấu, cùng với cả thế giới, kỷ niệm 40 năm cách mạng Hung
[1956-1996], qua bài viết Tạp Ghi, Hãy cho anh khóc
bằng mắt em, trên báo Văn Học,
số tháng Ba, 1997, của Nguyễn Mộng Giác
Một thi sĩ ra đi từ Miền Bắc, cho
biết, ông cứ nghĩ, của một ông Tây!
Hào khí ngất trời!
Về bài viết,
Gấu chỉ còn nhớ một chi tiết thật thú vị. Điện
Cẩm Linh, có lúc đã tính “đầu hàng”
Cách Mạng, và thí cho tay đứng đầu cuộc nổi dậy, Imre
Nagy, chức Phó Thủ Tướng trong tân chính phủ hòa
hợp hòa giải dân tộc.
*
Bất giác lại nhớ đến ngày
30 tháng Tư, chúng mày còn gì
đâu mà đòi chuyện bàn giao, hoà
giải, thành lập tân chính phủ....
Đi tìm phê bình gia Mít
Note: Tay này, John Banville
, nhà văn số 1, phê bình, điểm sách
cũng số 1.
Phê bình gia Mít,
ít khi viết điểm sách, vì lười đọc, và
đọc, cũng đếch biết viết 1 bài điểm sách cho ra
hồn!
Đó là sự thực.
Thử đếm coi, Thầy Kuốc điểm sách
của ai, khui ra được nhà văn nào. Mũi lõ cũng không,
mà mũi tẹt lại càng không?
Thầy Phúc thì cũng
rứa.
Nữ phê bình gia viết
bằng tiếng Tẩy, DCT, cũng thế.
TK y chang.
GCC ư? Nhiều lắm.
Bảo Ninh, thí dụ, Gấu
phát giác ra, ở hải ngoại, và cái
ông BN mà Gấu viết, cũng khác ông ở trong
nước.
Vầng Trăng Góa, Gấu chỉ
ra.
Nhà dzăng đang lú
lên, Bà Tám nào đó, cũng GCC phát
giác!
Hà, hà!
Miêng, Mai Ninh, Trần Thanh
Hà, Trần Thị NgH... Gấu đều trân trọng viết về họ.
Thời gian Gấu mở mục Dọn, đám
đệ tử Thầy Kuốc xúm vào chửi. Có
tên chửi cực lạ. Tại làm sao mà mi không
mở ra 1 mục đối thoại, để ta có thể vạch ra những điều mi
nói láo về sư phụ của chúng ta. Gấu nhũn nhặn
trả lời, thì mở ra trên Hậu Vệ không được ư?
Rồi 1 tên mắng, ta vô
trang của mi để đọc văn học, chứ đâu để ngắm hình gia đình
mi. Gấu cũng nhũn nhặn trả lời, vậy thì mi đừng vô trang
Tin Văn nữa, cũng được vậy.
Cái tay Lăng Băm này
cũng thế. Hắn lôi 1 khúc trên Tin Văn,
về 1 trang Blog, rồi chửi, tại làm sao mà mi
cứ “tự sướng” như thế.
Gấu “tự sướng”, ở trên trang
của GCC, bằng cách khen Gấu có tài lôi
ra hàng lô nhà văn mũi lõ, cũng như mũi
tẹt, hắn cũng đếch cho phép nữa, tếu thế.
Tôi nghĩ ông nên
từ tốn và tiêu hóa điều mình
muốn phát biểu trước khi viết xuống. Ông hơi tự sướng
quá đà.
Ông ở tận Canada ông
làm sao biết ở Calif mối liên lạc giữa các
trùm sò văn chương hải ngoại thời đó
với các bà cỡ Mai Ninh thấu tới đâu. Những áp
phe tình ái của Khánh Trường với các
bà nổi lều bều trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu hiệp.
Khánh Trường chủ tờ Hợp Lưu và các “đàn
anh văn nghệ” của Khánh Trường mới là những người
được hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham danh dâng
hiến, í lộn, do các bà nữ dzăng thơi sỡi quyên
góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu ngày Khánh Trường
chưa ngồi xe lăn.
Quyển sổ
áp phe của bà Trần Thị Ng.H thì
cỡ ông làm gì được chấm mút. Thanh Tâm
Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn
thì cũng chưa nhằm nhò gì so với các
áp phe khủng của bà này.
Ui chao, mấy chuyện nhảm nhí
giữa đám nhà văn Mít, Gấu nghe từ
hồi còn Sài Gòn, mà có bao giờ
viết ra đâu.
Miêng, Mai Ninh, Trần Thanh
Hà, Trần Thị NgH... Gấu trân trọng viết về
họ, hắn lôi toàn những chuyện nhơ bẩn ra để làm
nhục họ. Chưa nói, với những tên tuổi có thực
ở ngoài đời, sợ còn bị coi là mạ lỵ, chưa kể trong
số này, có người đã mất
Riêng về Bà Tám,
tức chủ nhân cái Blog mà hắn đi cái
còm về Gấu, hắn phán, Bà này nổi
tiếng từ khuya rồi, đâu cần tới mi?
Gấu biết đến trang của Bà
Tám, từ khi Bà chưa nổi tiếng, và Gấu
khen văn của Bà, 1 số câu rất được, chứ không
khen Bà viết điểm sách, dịch thuật, tản mạn.
Trong lời khen của Gấu có
lời cảnh tỉnh, có thể Bà cũng nhận ra, và
trong 1 entry đầu năm, Bà viết, sẽ chỉ cố viết 1, 2 cái
truyện ngắn, bỏ viết điểm sách, dịch dọt, tản mạn…
Đúng như thế. Viết mấy cái
đó, là hư mẹ 1 đời văn chưa lên, chưa
lú ra!
GCC sở dĩ chẳng có 1 tác
phẩm lận lưng, là do vào lúc mới viết,
bày đặt viết phê bình, thế là hư 1 đời.
Ra hải ngoại, đã thề không
vướng vào cái nghiệp khốn nạn đó nữa,
mà đếch có được.
Chán thế!
GCC đóng mục Dọn, khi
1 vị độc giả cảnh cáo, mi viết hoài về những
chuyện nhơ bẩn, mi nhơ bẩn lúc nào, mi đâu
biết ?
Đi tìm phê bình gia Mít
Kafka Coupable
Một Kafka Khác
A Different Kafka
by John Banville
Note: Tay này, John Banville , nhà văn số 1, phê
bình, điểm sách cũng số 1.
Phê bình gia Mít,
ít khi viết điểm sách, vì lười đọc, và
đọc, cũng đếch biết viết 1 bài điểm sách cho ra
hồn!
Đó là sự thực.
Thử đếm coi, Thầy Kuốc điểm sách
của ai, khui ra được nhà văn nào. Mũi lõ cũng không,
mà mũi tẹt lại càng không?
Thầy Phúc thì cũng
rứa.
Nữ phê bình gia viết
bằng tiếng Tẩy, DCT, cũng thế.
TK y chang.
GCC ư? Nhiều lắm.
Bảo Ninh, thí dụ, Gấu
phát giác ra, ở hải ngoại, và cái
ông BN mà Gấu viết, cũng khác ông ở trong
nước.
Vầng Trăng Góa, Gấu chỉ
ra.
Nhà dzăng đang lú
lên, Bà Tám nào đó, cũng GCC phát
giác!
Hà, hà!
Miêng, Mai Ninh, Trần Thanh
Hà, Trần Thị NgH... Gấu đều trân trọng viết về họ.
Of course, Kafka is not the first
writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his art—think
of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness
with which he conceived of his role. Who else could have
invented the torture machine at the center of his frightful
story “In the Penal Colony,” which executes miscreants by graving
their sentence—le mot juste!—with a metal stylus
into their very flesh?
Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu
phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà
văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc mình ra,
như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà
mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy
nghĩ tới Joyce [Xém 1 tí là thêm tên
GCC vô!]. Nhưng ông bảnh nhất, khác hẳn mấy
tay kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi
vô có mỗi cú đó, với “cái mình,
cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded]
chỉ xoáy vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ
đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình,
"nhà dzăng".
Làm sao có thằng
cha nào, ngoài Kafka ra, phịa ra được cái
máy tra tấn người ở trung tâm câu chuyện đáng
sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém thêm cái
tên của nó, là Xứ Mít bi giờ!], nó
hành quyết những tên “ly khai, dám chống lại
Đảng VC”, bằng cách dùng cây kim châm khắc
mẹ bản án [le mot
juste], vô da vô thịt họ.
“Kim chích vô thịt
thì đau” là theo nghĩa này đấy!
Kafka, “the poet of his
own disorder” (a)
[Note: Trang TV này cũng
đang hot, nhờ vậy mà GCC mới biết đến nó]
1.
Lang Băm | March 8, 2014 at 4:00 pm
Ông T
Tôi nghĩ ông nên
từ tốn và tiêu hóa điều mình
muốn phát biểu trước khi viết xuống. Ông hơi tự sướng
quá đà.
Ông ở tận Canada ông
làm sao biết ở Calif mối liên lạc giữa các
trùm sò văn chương hải ngoại thời đó
với các bà cỡ Mai Ninh thấu tới đâu. Những áp
phe tình ái của Khánh Trường với các
bà nổi lều bều trên tờ Hợp Lưu đến bao nhiêu hiệp.
Khánh Trường chủ tờ Hợp Lưu và các “đàn
anh văn nghệ” của Khánh Trường mới là những người
được hưởng nhiều bổng lộc do các bà ham danh dâng
hiến, í lộn, do các bà nữ dzăng thơi sỡi quyên
góp tiền bạc nuôi Hợp Lưu ngày Khánh Trường
chưa ngồi xe lăn.
Quyển sổ áp phe của bà
Trần Thị Ng.H thì cỡ ông làm gì được chấm
mút. Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Xuân Hoàng,
Nguyễn Đình Toàn thì cũng chưa nhằm nhò
gì so với các áp phe khủng của bà
này
Ông cũng không phải
là nhà phê bình văn học như
ông Cuốc Kức thì làm sao mà đòi đào
mả tên tuổi các ông bà nhà
văn nhà thơ hải ngoại.
Ông cũng chả có công mẹ gì
trong cái vụ bà Tám ló ra
ló vào văn chương này cả. Lý do là
trang của ông chỉ một mình ông tự sướng.
Bà Tám thì gửi bài cho nhiều nơi khác
như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán
Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác.
Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác giới thiệu cùng
một lúc, mà ông nào có phải là
nhà phê bình và là chủ bút một
tờ báo nào đâu mà ông bảo là ông
xúc bà Tám lên.
Note: Cái này,
ở bên Blog một chỗ quen biết, lôi về đây
cho tiện để chửi cho đã! (1)
Và cũng để cho chỗ quen
biết khỏi bực, vì những chuyện nhơ bửn như vậy.
Gấu & độc giả Tin Văn, thì
quen rồi.
Vả như không quen/ chưa quen
[Bi giờ chán TV rùi], thì tạm lánh
đi chỗ khác.
Chúa có khi còn
vắng mặt, đúng vào lúc xẩy ra Lò
Thiêu, nữa là!
Hà, hà!
GCC nghi, tác giả là
1 tên thuộc băng đảng Hậu Vệ, hoặc đệ tử Thầy Cuốc.
Cái câu, “ông
cũng không phải là nhà phê bình
văn học như Thầy Kuốc”, khiến Gấu nghi tên khốn này
là đệ tử của ông ta. Và, cái giọng
nhơ bửn của nó. Lũ khốn này, khi TV mới mở ra mục
Dọn, xúm vô như ruồi nhặng, sau thấy quê quá,
lặn dần. Bây giờ lại thấy xuất hiện.
Đi tìm phê bình gia Mít
Koestler by Steiner
Steiner, trong ai điếu “La Morte d’Arthur”,
viết:
Đêm giữa Ngọ
của Koestler là một trong những cuốn tiểu thuyết
cổ điển của thế kỷ. Nó giáo dục những thế hệ về những
ghê rợn của chúng, it educated generations to theirs
terrors. Di chúc Tây Ban Nha, The
Sapnish Testament (còn biết dưới cái tít
Chuyện trò với Thần Chết, Dialogue with Death)
thì cũng xấp xỉ cái thế giá đó.
Những kẻ mộng du, The Sleepwalkers - đặc biệt
là những chương về Kepler – là một trong những bữa tiệc
hiếm của nhân gian, về sự tái-sáng tạo tưởng tượng
thuyết phục của khoa học lớn, convincing imaginative re-creation of
great science, về lô gíc thơ của khám phá,
poetic logic of discovery. Tôi không chia sẻ những xác
tín của ông trong Trầm tư về tội treo cổ, Reflections
of Hanging, nhưng nó sẽ còn hoài như là
một trong những dấu ấn lớn lao của thời đại chúng ta, và
thời điểm mấu chốt liên quan đến cuộc tranh luận về án tử
hình. Có những chương có tính cổ điển như
thế, ngay cả ở trong những tác phẩm tự thuật như là
Arrow in the Blue. Nhưng với Koestler, có một cảm
quan về một cái gì đó vượt lên tổng số những
gì ông viết ra. Có những con người, đàn ông
hay đàn bà, ở vào những thời đại, ở vào
những xã hội, họ đưa mình ra, “đành làm” chứng
nhân thiết yếu, cần thiết, không có không
được, và chính là nhờ vào hiện hữu cá
nhân, cảm quan riêng tư của một con người như thế mà
những ý nghĩa lớn lao, rộng rãi hơn của thời đại được tập
trung, được xoáy chiếu, và trở nên sáng sủa,
visible. Trong thế kỷ đen tối…
Note: Đọc được
câu này, thật thú vị, trong bài
viết B.B. của Steiner, về Bertolt Brecht. [B.B]
Trả lời Walter Benjamin, sau khi
chạy thoát Nazi, và đi một đường thăm viếng
Moscow, "Này kiếm được mảnh vườn dưỡng đời ở đó
chưa?", B.B. phán:
“Tớ là một tên CS,
nhưng đâu phải là một thằng ngu!"
[B.B. is said to have replied when
Walter Benjamin - himself soon to die a hounded fugitive
- asked whether the great playwright would seek haven in Moscow,
"I am a Communist, not an idiot"]
Khi Phòng Thông
Tin Mẽo cho xb cuốn Bóng Đêm
Giữa Ban Ngày, thời gian di cư, thì với họ, chỉ
là 1 công tác tuyên truyền, nhưng với GCC, vào
cái tuổi mới lớn đó, đọc nó, thì đúng
là 1 liều vắc xin phòng ngừa con virus CS. Phải về già
GCC mới hiểu ra được điều này. Không chỉ nó, mà
có thể nói, tất cả những tác phẩm văn học mà
GCC được ông Giời ra lệnh đọc, thì đều là để giải trừ,
không chỉ con virus CS, mà còn là Cái
Ác Bắc Kít, nhưng để làm được điều này, còn
là nhờ khí hậu Miền Nam, hoàn cảnh thời kỳ 1954…
Đi tìm phê bình gia Mít
Theo GCC,
thứ tình yêu, thứ người yêu vĩ đại
nhất, là thứ vượt ra khỏi cả hai “đối tác”, điều
mà Christian Bobin gọi là cái, điều, người...
không thể ước mong, như tên gọi 1 tác phẩm
của ông, L’Inespérée.
BHD của Gấu đã nhận ra điều
này, khi bỏ Gấu, mi đâu yêu ta, mi yêu
1 đứa con nít, là ta từ đời thuở nào, và
Hà Nội của mi, ở trong đứa con nít đó!
Trong chưởng Kim Dung cũng có
nhân vật như thế, cô em gái, em họ, khùng
khùng điên điên, yêu thằng bé Vô
Kỵ, tàn nhẫn, cắn vào tay em để 1 vết sẹo, không
phải tên Vô Kỵ “nhân hậu và cảm động”.
Lolita, một cách nào
đó, là nước Nga, và thời thơ ấu, bị VC
Nga lấy mẹ nó mất của Nabokov.
Thành ra, phải có
1 cái gì đó, ngoại lý, ngoại vật chất
[hiện thực huyền ảo, đại khái thế], thì mới có
thứ tình yêu đích thực. Yêu mà
chỉ mong, thèm… “làm thịt”, chiếm đoạt.. thì khó mà đạt tới cõi
lý tưởng, vĩ đại được.
PD, cuối đời cũng nhận ra điều
này, khi viết, nhớ đại
khái, thứ tình
yêu trong những nhạc phẩm của ông, đầy mùi
thịt!
Biết tạng của mình, mỗi
lần cần để lại tuyệt tác cho đời, là phải làm
thịt một em, PD vươn tới cõi tiên, nhờ thơ. “Mùa
Thu Chết”, “Em hiền như Ma Soeur”, “Chưa Bao Giờ Buồn Thế....”
Hãy
ru tên vô đạo
Hãy ru tên khờ khạo,
Em yêu này Em yêu…
(1)
(1) Ký Ức Huế:
Anh yêu, ừ, anh yêu
Bản của nhà xb "Kính
Biếu"
TV sẽ giới thiệu bài nói
chuyện của McEwan trên tờ Lire, và
có thể, sẽ giới thiệu bài viết của McEwan về Updike,
trên 1 số báo NRYB. Khi trả lời Lire, ông cho biết, “Đọc Kafka,
và sau đó, Borges, đã đem đến cho tôi
một sự giải phóng không thể tưởng tượng được.
Họ có một dạng đại học, ils avaient une forme d’universitaire”.
Sở dĩ cõi văn Mít tệ hại, chính là
không tên nào có thầy hết. Cứ viết được
1 cái truyện ngắn, hay làm được 1 bài thơ, được mấy
thằng bạn thổi um lên, là thành nhà văn,
nhà thơ!
Cái sức mạnh thực
sự của 1 cuốn tiểu thuyết nằm ở khả năng trình bày
phong cảnh ở bên trong một nhân vật. “La vraie
force d’un roman réside dans la capacité à présenter
le paysage intérieur d’un personage”.
Đi tìm phê bình gia Mít
Trong quyển “Tình Yêu
Thời Dịch Tả”, Florentino và Fermina trao đổi thư
tình khi còn bé. Lớn lên Fermina
nhận ra Florentino nghèo và xấu trai, nàng nhận lời
kết hôn với Urbino một bác sĩ giàu có
và là nhà chuyên môn chữa trị bệnh dịch
tả. Khi Urbino chết rồi, và lúc Florentino cố gắng
chinh phục lại, Fermina khám phá chồng bà đã
ngoại tình với một người đàn bà khác. Florentino
suốt cuộc đời dành trọn trái tim cho Fermina. Nỗi
đau vì mất người tình làm ông đau đớn và
tìm quên bằng cách quan hệ tình dục với
622 người đàn bà khác. Florentina quan hệ tình
dục với 622 người đàn bà nhưng vẫn được [Garcia] Marquez
xem là chung tình với Fermina. Trong khi Urbino chỉ ngoại
tình với một người đàn bà thì bị xem là
ngoại tình. Trớ trêu không? (1)
Note: Bà Tám đọc
thế này, thì… tếu quá, và
hư hết cả câu chuyện! Anh chàng Florentina yêu thánh
nữ Fermina, trồng cây si, và
sau cùng được em đoái hoài, cho gặp mặt. Gặp 1 phát,
là em tá hoả, vì… không
phải thằng chả này!
Nói rõ hơn, đây
“cú sét đánh anti cú sét đánh”,
không mắc mớ gì đến giàu nghèo,
xí trai. Truyện của Garcia Marquez được quy về hiện thực
huyền ảo, có phải hiện thực đâu? Chính vì
thế, mà quan hệ tứ lung tung, đến khi gặp lại em, chàng
nói, anh vưỡn còn là trai tơ!
Gấu đọc “Trăm Năm Cô Đơn”,
bản dịch của Nguyễn Trung Đức, thời gian coi sạp sách
báo của Gấu Cái ở phía trước chung cư
29/8D NBK, Sài Gòn, trước khi cả gia đình bỏ chạy
được quê hương Sài Gòn ít lâu, sau
khi bà cụ mất, và trong khi nằm canh quan tài,
trong đám tang, hai vợ chồng được 1 ông thầy bói
tài tử ở trong đám người được thuê mướn để lo
việc tang lễ, coi cho cả hai, và phán, duyên nợ
của gia đình với căn nhà kể như hết. Bà cụ nằm
xuống, gia đình sẽ ly tán một thời gian, và sau
đó, lại có cơ may đoàn tụ.
Quả đúng như thế. Liền
sau đó ít lâu, ông bạn cùng
làm UPI của Gấu, là Châu Văn Nam, từ Vạn Tượng
về, và gia đình bán căn nhà cho 1 tên
cán bộ VC, đi theo anh, trong chuyến du lịch đầu tiên,
do Cớm VC tổ chức, giữa Sài Gòn và Vientiane.
Còn cuốn “Yêu Thổ
Tả”, đọc ở thư viện Pháp, ở Trại Tị Nạn Thái
Lan, sau khi đậu thanh lọc, chờ ngày gặp phái
đoàn, tái định cư tại Đệ Tam Quốc Gia. Đây là
những cuốn sách Tây Ba Lô bỏ lại cho đám
tị nạn đã đậu thanh lọc, được phái đoàn Pháp
nhận, và được học tiếng Tẩy trong 1 trường lớp dã
chiến trong Trại.
Mấy em đầm còn xúi
Gấu nộp đơn đi Tây, và tay trưởng phái
đoàn, 1 vị đại tá già, lắc đầu…. Gấu đã
kể chuyện này 1 lần rồi, đại khái, Tẩy chỉ nhận những
người những nước khác đếch nhận, như 1 món nợ
với xứ Mít. Mi nên đi Mẽo tốt hơn, vì đã
từng làm bồi Mẽo.
Đọc cái khúc trên,
là Gấu bèn nhớ ra liền cái lần tỏ
tình với BHD, khi em mới 11 tuổi, ở ngã tư Phan
Đình Phùng, lần hẹn gặp đầu tiên. Em chạy vội
ra khỏi nhà, cũng ngay gần đó, gặp Gấu, mặt mày
xanh lét, chỉ sợ ông bố biết, và lắc lắc cái
đầu, vội vàng chạy ngược lại trở về nhà, thay vì
cái “cử chỉ bàn tay gạt phắt Gấu ra khỏi đời em”....
Hà, hà!
Dag Hammarskjöld,
một tác giả danh tiếng người Thụy Điển, bảo rằng
“Có lẽ mối tình lớn nhất là mối tình
không được đáp lại.”
Bà
Tám
Theo GCC,
thứ tình yêu, thứ người yêu vĩ đại
nhất, là thứ vượt ra khỏi cả hai “đối tác”, điều
mà Christian Bobin gọi là cái, điều, người...
không thể ước mong, như tên gọi 1 tác phẩm
của ông, L’Inespérée.
BHD của Gấu đã nhận ra điều
này, khi bỏ Gấu, mi đâu yêu ta, mi yêu
1 đứa con nít, là ta từ đời thuở nào, và
Hà Nội của mi, ở trong đứa con nít đó!
Trong chưởng Kim Dung cũng có
nhân vật như thế, cô em gái, em họ, khùng
khùng điên điên, yêu thằng bé Vô
Kỵ, tàn nhẫn, cắn vào tay em để 1 vết sẹo, không
phải tên Vô Kỵ “nhân hậu và cảm động”.
Lolita, một cách nào
đó, là nước Nga, và thời thơ ấu, bị VC
Nga lấy mẹ nó mất của Nabokov.
Thành ra, phải có
1 cái gì đó, ngoại lý, ngoại vật chất
[hiện thực huyền ảo, đại khái thế], thì mới có
thứ tình yêu đích thực. Yêu mà
chỉ mong, thèm… “làm thịt”, chiếm đoạt.. thì khó mà đạt tới cõi
lý tưởng, vĩ đại được.
PD, cuối đời cũng nhận ra điều
này, khi viết, nhớ đại
khái, thứ tình
yêu trong những nhạc phẩm của ông, đầy mùi
thịt!
Biết tạng của mình, mỗi
lần cần để lại tuyệt tác cho đời, là phải làm
thịt một em, PD vươn tới cõi tiên, nhờ thơ. “Mùa
Thu Chết”, “Em hiền như Ma Soeur”, “Chưa Bao Giờ Buồn Thế....”
Hãy
ru tên vô đạo
Hãy ru tên khờ khạo,
Em yêu này Em yêu…
Về Kha Lệ Ninh, nhận xét
của Nabokov, tuyệt, và 1 cách nào
đó, nói cái điều Gấu nói, về cõi
ngoại lý, phi thực, cõi lý tưởng, và
đời phàm, bi kịch của Tolstoi, cha đẻ ra nhân vật
này, “the dueling ambitions that drove the novelist”, những
tham vọng chí tử săn đuổi tiểu thuyết gia, một người mà
Nabokov mô tả, “một tên đàn ông lực lưỡng
với một linh hồn không chịu ngừng nghỉ, lúc nào
cũng loay hoay, quay cuồng, cả đời bị xé nát giữa ‘thịt
tươi’ và ‘lương tâm cực kỳ mẫn cảm’!
Cái thứ tình yêu
lý tưởng, platonique, chỉ gồm chiêm ngưỡng và
kính trọng, cũng làm H sợ.
BHD cảnh cáo thằng ngu,
yêu mà sợ không dám cầm tay người
yêu!
Linda Lê là chuyên
gia về đọc/điểm/giới thiệu sách, tác giả,
nhất là những tác giả cổ điển Tây Phương, với
mục [trước đây] của bà trên ML: “Trở về với những
tác giả cổ điển”. Bài trên, bà đọc
Tolstoi, khi còn trẻ, và phân biệt ra hai cách
nhìn Tolstoi, của Steiner và của Nabokov. Trong “Tolstoi
hay Dos.”, G. Steiner viết: “Những tác phẩm lớn tràn
qua chúng ta như 1 trận bão, mở tung mọi cánh cửa
nhận thức, giáng những đòn chí tử lên cái
tòa nhà tin tưởng, niềm tin… của chúng ta.” Ngược
lại với Nabokov, Steiner không coi Tolstoi
của “Anna Karénine” bảnh hơn Dos của “Anh em
nhà Karamazov”…
Chỉ một bài viết ngắn
của bà, mà chúng ta nhìn ra
cả cuộc đời của Tolstoi, qua những “pha”, từ mĩ, esthétique,
qua đạo hạnh, éthique, tới tôn giáo…
Kha Lệ Ninh, phiên âm
tiếng Việt "Anna Karenina", tác phẩm của nhà văn Nga, Tolstoy.
Tân thời, là do tác phẩm này vừa có
một bản dịch tiếng Anh mới (dịch giả Richard Pevear và Larissa
Volokhonsky, nhà xb Viking). Bản dịch mới này vén
màn, cho thấy từng lớp xiêm y của người đẹp; nói rõ
hơn, nó cho thấy cấu trúc vô hình của cuốn tiểu
thuyết.
James Wood, trong bài
viết "Bốn bể là nhà" ("At home in the world"),
trên tờ "Người Nữu Ước" số đề ngày 5 tháng
Hai 2001, cho rằng, bất cứ một độc giả, khi đọc Tolstoy, đều cảm
thấy, có cái gì khang khác, về mức độ và
thể loại, so với tiểu thuyết của những tác giả khác.
Thế giới tiểu thuyết của ông, những nhân vật, hành
động, hoàn cảnh của họ… "thực như đếm". Hiện thực ở đây
như khí trời. Tìm cách giải thích, là
rơi vào vòng luẩn quẩn. Ngay chính Tolstoy cũng
lúng túng, khi bị ép buộc phải bảo vệ tác phẩm
của ông. Trong một thư gửi bạn, là Nicolai Strakhov, viết
khi đang sáng tác "Anna Karenina", ông khẳng định,
những gì ông viết không phải là những thu
gom (collections) tư tưởng; và những tư tưởng như thế có
thể tách ra khỏi bản văn; nhưng đây là một mạng
lưới (a network): "tự thân, mạng lưới này không dệt bằng
tư tưởng (hay là do tôi nghĩ như vậy), nhưng bởi một điều
gì khác, và tuyệt đối không thể diễn tả cốt
lõi mạng lưới, một cách trực tiếp bằng những con chữ: chỉ
có thể làm một cách gián tiếp, bằng cách
sử dụng những con chữ để miêu tả những nhân vật, hành
động, hoàn cảnh."
Thư
trên, được dịch giả Richard Pevear trích dẫn
trong lời giới thiệu bản dịch mới của ông và Larissa
Volokhonsky.
Độc
giả có thể tự hỏi, tại sao một tác phẩm cổ
điển, được nhiều người đọc, và đã được dịch ra tiếng
nước ngoài, nhiều lần, trở thành một tác phẩm
của thế giới, vậy mà vẫn có người dịch lại?
Theo
Wood, những dịch phẩm lớn đều "lão hoá",
trong khi những cuốn tiểu thuyết lớn thì cứ thế trưởng thành
mãi lên. Gừng càng già càng cay.
Thành thử cỡ những ông như Tolstoy, lại càng
cần một bản dịch đương thời.
(Những
độc giả mê truyện chưởng Kim Dung chẳng hạn, đọc bản
dịch của Hàn Giang Nhạn, đã xuýt xoa, so với
bản dịch của Tiền Phong Từ Khánh Phụng. Nhưng hiện nay trên
trang web có một dịch giả mới là Nguyễn Duy Chính,
ông này dịch kỹ, theo sát bản chính
hơn, so với Hàn Giang Nhạn - dù sao vẫn chỉ là
phóng tác. Người viết tin rằng, nếu có một "nhà
văn" sử dụng bản của Nguyễn Duy Chính, rồi thổi vào
đó "hồn văn" của chính mình, nó sẽ trở thành
một tuyệt tác. Bởi vì cho tới bây giờ, chưa có
một "nhà văn" nào chuyển Kim Dung thành một tác
phẩm văn học tiếng Việt. Trước đây, Đỗ Long Vân mê
Kim Dung, cặm cụi học chữ Nho để đọc ông; phải chi Đỗ quân
thêm được vài tuổi trời, biết đâu có một Kim
Dung "cây nhà lá vườn" rồi! Và đây là
một thách đố văn chương, đối với những nhà văn Việt
Nam rành Trung văn).
Trên
nói, độc giả bình thường hiện nay cần một bản dịch tiếng
Anh bình thường hiện nay. Bản dịch mới này hơn những bản
dịch cũ, bởi vì dịch giả, ngoài việc dịch cẩn thận, còn
có riêng văn phong của họ. Nhờ vậy, hơn bao giờ hết, so với
trước đây, độc giả đương thời đã có thể nắm bắt cái
chất lãng đãng, chập chờn (the palpability) của những "nhân
vật, hành động, hoàn cảnh" của Tolstoy.
"Mạng lưới" của Tolstoy được dệt
bằng những chi tiết, và những chi tiết này
được miêu tả rất đỗi thực; hơn thế nữa, những chúng
được xô đẩy bằng chức năng – bằng việc làm (work).
Còn điều này, không như những nhà hiện
thực hiện đại, Tolstoy chẳng thèm để ý đến chuyện nói
cho chúng ta biết, những sự vật giống như cái gì
đối với ông, hoặc giống như cái gì đối với chúng
ta. Chính vì vậy, [mượn câu nói của Goethe
được Benjamin trích dẫn, "tất cả sự kiện tính thì
đã là lý thuyết"], trong khi miêu tả những
chi tiết, Tolstoy chuyển vào trong đó: ẩn dụ. Trong tiểu
thuyết của ông cũng như của Chekhov, thực tại xuất hiện, như
nó xuất hiện, không phải với nhà văn, mà
với những nhân vật.
Tolstoy
khởi sự viết "Anna Karenina" vào năm 1873, tuy
nhiên trước đó, vào năm 1870, ông
nói với vợ, ông dự tính viết về một người đàn
bà có chồng nhưng bị ô nhục do ngoại tình.
Như trường hợp "Bà Bovary" của nhà văn người Pháp,
Flaubert, một chuyện thực đã gây hứng cho cuốn tiểu
thuyết. Vào tháng Giêng 1872, Anna Stepanovna
Pirogov, bồ của ông chủ đất láng giềng, đã lao mình
xuống dưới bánh xe lửa, sau khi bị nhân tình bỏ
rơi. Tolstoy đã ra sân ga để chứng kiến tận mắt thi thể
người đàn bà.
Có
những điểm tương tự, trong một số tiểu thuyết nửa sau
thế kỷ 19. Như Bà Bovary, Anna cũng thích đọc
tiểu thuyết. Như Tess, trong "Tess of the Urbervilles" của Hardy,
Anna cũng phơi phới đang độ. Mấy bà "xồn xồn" này đều căng
tràn nhựa sống đến mức trở thành vô trách
nhiệm. Đàn ông không làm sao thoát
khỏi tay mấy bà. Tuy nhiên cả ba, trong khi mang trong
người cái mầm "làm đàn ông khốn khổ khốn nạn,
sống dở chết dở", đồng thời, họ cũng sản sinh ra một thứ "kháng
sinh", bởi vậy, những nhân vật trầm luân như thế đó
[thứ đàn bà trời đánh, cướp giật chồng người… như người
Việt mình thường gọi] cuối cùng lại gợi sự thương xót,
làm người đọc có cảm tình hơn là bị xét
đoán một cách nghiêm ngặt.
Thời
đại lớn lao của nhân vật tiểu thuyết, tức thế kỷ
19, cũng là thời đại lớn lao của những nhân vật nữ,
bị cầm tù bởi xã hội, và cố gắng chạy trốn, vượt
ra khỏi nó. Chính vì họ cố gắng chạy trốn một xã
hội đã đóng cứng họ vào những từ như là con
đĩ thối tha, đồ cướp chồng người… cho nên họ đã trở thành
những nhân vật thực.
Cuốn viết về sử gia Tẩy, Michelet,
Gấu nghi ít người biết, đọc tuyệt lắm, vì
cực lạ. Còn cuốn Đế Quốc Ký Hiệu, tên
của Barthes phịa ra, để chỉ Đế Quốc Mặt Trời, nhưng với
ông, “của” ký hiệu, trong những ký hiệu
của nó, có thơ Hai Cu. Bài viết về Hai Cu tuyệt lắm,
TV sẽ đi liền, cũng 1 cách để thêm 1 tiếng nói
của hải ngoại cho tuyệt tác về thơ Hai Cu của 1 đấng ở trong
nước, hà hà!
"If Japan did not exist, Barthes would
have had to invent it - not that Japan does exist in Empire
of Signs, for Barthes is careful to point out that he is not analyzing
the real Japan but rather one of his own devising. In this fictive
Japan, there is no terrible innerness as in the West, no soul,
no God, no fate, no ego, no grandeur, no metaphysics, no 'promotional
fever' and finally no meaning ... For Barthes Japan is a test,
a challenge to think the unthinkable, a place where meaning is
finally banished. Paradise,
indeed, for the great student of signs."
-Edmund White
The New York Times Book Review
Nếu không có Nhật Bản,
thì Barthes sẽ phịa ra nó. Nhưng nước Nhật
ở trong Đế Quốc Ký
Hiệu cũng không thực, như Barthes cẩn trọng nói
với chúng ta là, ông không nghiên cứu nước
Nhật thực, mà là một nước Nhựt của riêng
ông, do ông ‘chế’ ra. Trong cái nước Nhựt giả
tưởng này, thì không hề có cái "bên
trong" khủng khiếp như là ở Tây phương. Không linh
hồn, tâm hồn, không Thượng Đế, không số mệnh, không
cái tôi, không vinh quang, không đỉnh cao, không
siêu hình, không “cơn sốt lên lương, lên
chức, vô Đảng, vô BCT” và sau cùng, không
có cái gọi là ý nghĩa.
Với Barthes, Nhật Bản là
một thí nghiệm, một thách đố để suy nghĩ về cái
không thể suy nghĩ, một nơi chốn mà ý
nghĩa thì sau cùng bị loại trừ. Thiên đường, thực
sự là vậy, cho một tay sinh viên lớn, về ký hiệu.
(1)
Đi tìm phê bình gia Mít
Có nhà thơ nữ viết
một câu như thế này: chỉ có cô hở
ra thì cậu ấy mới biết. Bác Tô Hoài bảo: Cô
này vô ý. Bác lấy bút thêm
vào bản thảo một chữ “nói”, giữa chữ “cô” và
chữ “hở”: chỉ có cô nói hở ra. Không nhầm
được nữa, chứ cô hở ra là hở ra cái gì bây
giờ.
Chuyện trò lan man thế
nào, chị bạn bảo tôi đang ở xa, vậy để hôm tới chị
mua cuốn sách mới của tôi mang đến cho bác. Tôi
vội nói: Đừng chị ơi, bác không đọc được, sao lại
đưa sách đến. Chị bạn lúc ấy như mới nhớ ra.
HAT viết về TH
Lèm bèm của GCC:
Câu của nhà văn nữ, sợ rằng“tuyệt” vì
cái vô ý cố ý đó, và đó
là nghĩa của từ “sex appeal”.
Nhưng câu sau thì
đúng là HAT.... vô ý: Cỡ Tô
Hoài, "không đọc được" HAT thật!
Mèng như Gấu mà
còn "không đọc được", đâu cần đến 1
Tô Hoài!
Lại nhớ đến Borges. Ông phán
thơ là để trao cho thi sĩ. Câu này thì
cũng có nghĩa, cớm thì cấm viết văn!
Nhưng câu của Borges chưa
ghê bằng câu của Milosz, viết về Brodsky,
GCC đã từng trích dẫn trên TV:
Chọn người của nó để phục
vụ nó.
Chúng ta nhận ra ý
của Borges ở đây: Thơ là để trao cho thi sĩ.
Thi sĩ dởm đừng làm thơ dởm. Cả 1 cõi thơ Mít,
phần lớn thi sĩ dởm, nếu có ông nào “thực
thi sĩ”, thì không lo khuất mình trước thơ,
trước nữ thần thi ca, mà là trước gái, trước
cái hĩm!
His kingdom of Russian poetry endured
above and outside of history, in accordance with his conviction
that language has its own greatness and selects its own people
to serve it. (1)
V/v TBT. Có thể đấng này
là 1 thi sĩ, là 1 dịch giả bậc thầy, là Thầy. Nhưng
chỉ căn cứ vào trường hợp được nêu ra, thái độ của ông
đếch được.
Những gì bài viết
nêu ra, đúng ra TBT phải cám ơn & trả
lời, không phải bằng cái giọng láo xược:
"Tôi
dịch từ nhiều cuốn sách khác nhau, vậy
người ta đối chiếu với bản nào để nói tôi
sai? Người chê tìm ra một vài từ, bới móc như
thế để đánh giá, kết luận thì có được
coi là hành động tử tế?"
Dịch chim “ngồi, đậu, ị…. “ thì
đều được cả, và tùy vào trường hợp,
khi ngồi, khi đậu, khi ị [trong 1 bài thơ của Simic, thí
dụ].
Thái độ của nhà thơ
NC rõ ràng là chẳng hề muốn ăn thua với TBT,
có gì không lịch sự, tử tế đâu?
Phản ứng “đứng về phe TBT”, theo
Gấu, sai, trong trường hợp này.
Bởi là vì, không
tính chuyện "ngồi, đậu, ị, rắm ai vừa mũi người
đó", mấy trường hợp khác, được nêu ra,
thì đều tử tế cả. (2)
Thí dụ, từ tiếng Anh, "penetrate",
nhà đại dịch giả TBT dịch là "tắt dần"!
Trong một bài thơ khác của Basho, một thi sĩ
và cũng là một thiền sư lỗi lạc thời kỳ
Edo, Thái Bá Tân dịch:
Im lặng mênh mông
Càng im lặng bởi tiếng dế
Tắt dần phía đền Núi
Đá
Nguyên tác tiếng Nhật
Semi
no Koe
Shizukasa ya
Iwa ni shimi-iru
Semi no koe
Bản tiếng Anh
Cicadas'
Voice
What stillness! The cicadas' voice
Penetrate the rocks
Trong bài này, tác giả dịch sai con ve
thành ra con dế. Vin vào thi cảnh của tác
phẩm này, từ "penetrate" trong tiếng Anh có nghĩa
là "đâm thủng, xuyên qua", nhưng lại được dịch thành
"tắt dần". Basho muốn khắc họa sức mạnh đến kinh người của
tiếng đàn ve kêu trong khu núi tĩnh mịch.
Tiếng ve mạnh như thể thấu xuyên vào đá chứ không
phải tắt dần đi.
Nhật Chiêu từng dịch bài thơ này:
Tịch liêu
Thấu xuyên núi đá
Tiếng ve kêu
V/v Mưa rơi đếch cần phiên
dịch.
Gấu thấy câu tiếng Anh
này lâu rồi, nhân 1 lần gặp 1 trang
net, dưới đây, và có lôi về TV mấy bài
thơ. Chuyện đâu có chi ghê gớm, mà nào,
nhân ông em của tui post trên tường Facebook
cái con mẹ gì, thì cũng vẫn cái trò,
thơ thì như kít, vậy mà cũng có đàn
em!
Khi dịch “The Skin”, Gấu chẳng
nhớ gì hết, đâu ngờ câu văn kết thúc
ăn sâu vào tiềm thức, sau bật ra, lại nghĩ, là
của mình!
Có thể, cas Trần Dần cũng
thế. Anh thi sĩ dởm làm sao hiểu nổi những trường
hợp như vầy, bèn la lên, mưa rơi ở đâu cà!
the beauty we love
Sunday, December 4, 2011
Joyeux anniversaire,
Monsieur Rilke
I would like to sing someone
to sleep,
to sit beside someone and be there.
I would like to rock you and sing
softly
and go with you to and from sleep.
I would like to be the one in the
house
who knew: The night was cold.
And I would like to listen in and
listen out
into you, into the world, into
the woods.
The clocks shout to one another
striking,
and one sees to the bottom of time.
And down below one last, strange
man walks by
and rouses a strange dog.
And after that comes silence.
I have laid my eyes upon you wide;
and they hold you gently and let
you go
when something stirs in the dark.
~ Rainer Maria Rilke
from The Book of Images
translated by Edward Snow
passport picture 1919
[Nhân sinh nhật em “Valentine”]
A Valentine
You are too young, and
I am scared to touch you
'cause that means trouble.
Let's discover an island and build
a statue
of puberty in the harbor.
An island won't know how to spell
the word "daughter,"
itself an orphan.
And you will be, if you don't mind,
the water
and I, your dolphin.
And all day long we will keep our
eyes on each other
instead of the police-blue horizon
marred by your father.
Joseph Brodsky
MY GIFT TO YOU
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll
perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and
me.
You'll find it when you need it
most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness
and joy.
And maybe then you'll remember
me,
if only just a little.
Roberto Bolano
The Paris Review Summer 2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The Paris Review có
bài thơ tuyệt vời của Bolano, tả đúng tâm
sự Gấu, đúng cái cảnh tình cờ gặp lại Em,
khi Em đi chợ Bến Thành, về, và “kín đáo”
nói cho biết, tại làm sao Em vờ Gấu, và chọn
một anh bồ, cùng học Y Khoa.
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng mi sẽ
là 1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó "tế vi" đến nỗi
mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau thật nhiều năm, có
khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều chạy ra khỏi
cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít
rồi
Thì lúc đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi cực cần đến nó
Và chắc chắn không
phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ là một thoáng
chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có thể, chỉ lúc
đó mi mới nhớ ta,
Và mới hiểu cái gọi
là "mono no aware",
“Nỗi buồn cháy da, cháy
thịt khi ta đã đi ra khỏi đời của mi".
Nhưng cũng chỉ được 1 tí
tí.
MẶC ĐỖ
Trưa Trên Đảo San
Hô
truyện ngắn
Sài Gòn Ngày Nào
Của Gấu
Bếp Lửa
Quả đúng như Gấu còn
nhớ, về cái màu vàng của nó,
như trong bài viết “Gấu đọc BL ở đâu” –cái tít
được gợi hứng từ “Đọc Lolita ở Teheran”.
Huyền thoại "nhặt truyện ngắn từ
sọt rác" theo như blogger VHT, quả đúng
như Gấu đã nghi, MT phịa ra:
Vu Hatue Haizzz, mình
ko có quyển của ông Viên Linh.
Trong quyển này, ông
MT có kể về chuyện nhặt bản thảo của ông
DNM từ trong giỏ đựng giấy vụn và đem về đăng trên
báo, thú vị phết. Tuy nhiên khi mình hỏi ông
DNM về chuyện này thì ông ấy bảo không
phải vậy, bản thảo đó ông ấy đưa ông Trần Dạ Từ
nhờ chuyển cho ông Mai Thảo (lúc này hai ông
MT và DNM chưa quen nhau, chỉ mới biết tên nhau). :)
Chuyện nhặt từ sọt rác,
thì xẩy ra nhiều rồi, trên TV cũng có nhắc tới 1
trường hợp thú vị, cái gì gì “lên cầu
thang đi xuống”, để check lại.
Chắc là MT đã từng
đọc 1 thứ giai thoại như thế, luôn giai thoại lầm
bạn quí với tên thợ sắp chữ. Xếp chung cả lại, thì
có câu giải thích của Todorov, con người
có cái quí là, nhớ lại [hồi ức… ] sao
cho, có lợi cho nhu cầu hiện tại của nó: MT khi viết
cuốn Chân
Dung 15 nhà văn, là đúng theo kiểu
này!
Vậy là trường hợp truyện
ngắn đầu tay của DNM hơi giống truyện ngắn đầu tay của
Gấu. Gấu gửi thẳng xuống tòa soạn báo Sáng
Tạo. TTT đọc, về khoe um lên với bà cụ, thằng Trụ
nó viết văn, và nó có thể còn đi
xa hơn DNM [cái này là Gấu nghe qua bà
cụ thân sinh của nhà thơ: Suốt thời gian quen biết gia
đình ông anh, và sau này, TTT chưa bao giờ
nhận xét về văn tài của Gấu cả!]
Đọc cọp "Bếp Lửa" trên vỉa hè Sài
Gòn, thời 1950's
Trong một bài tạp ghi,
tản mạn - được gọi hứng từ một bài điểm cuốn ‘Đọc
Lolita tại Teheran’, trên phụ trang văn học của tờ
Thời Báo Luân
Đôn, TLS - Gấu có
viết về hình ảnh của chính mình, khi đứng
ngay trên vỉa hè Sài Gòn, đọc cọp cuốn
Bếp Lửa của Thanh Tâm
Tuyền, được ông chủ nhà xuất bản của nó,
là Nguyễn Đình Vượng đem ra bán xon, lấy lại
vốn, chắc là vì chẳng có ma nào đọc.
Gấu còn nhớ cuốn sách bìa mầu vàng
Gấu nói đọc cọp, là
vì hồi đó, nghèo quá, không thể
nào có tiền mua nhiều thứ, không cứ gì
sách: một xa xỉ phẩm!
Hình như đó là
lần đầu Gấu biết đến cái tên Thanh Tâm
Tuyền, tác giả cuốn Bếp Lửa.
Đúng
ra, biết Bếp Lửa.
Thời mới lớn,
mới biết đọc, Gấu ít khi để ý đến tác
giả cuốn sách
Lần thứ nhì, là
biết đến tờ Sáng
Tạo của nhóm bạn bè của
ông.
Cũng là qua một anh bạn
cùng lớp Nguyễn Hải Hà, học cùng
với nhau năm Đệ Nhị, tại trường Hồng Lạc, khi đó còn
là một lớp học, trên đường Sương Nguyệt Anh, ở gần vườn
Bờ Rô, ngã tư Lê Văn Duyệt, Hồng Thập Tự.
Kỷ niệm lần đầu đọc Bếp Lửa trên vỉa hè Sài
Gòn làm tôi liên tưởng tới một
mẩu chuyện của nhà soạn nhạc lừng danh, thuộc dòng
nhạc Thời Đại Mới, New Age, Yanni,
người đã từng mang cả bộ sậu tới chơi tại Đền Thiêng Ấn
Độ, và Tử Cấm Thành Bắc Kinh.
Và cũng có thể
ngược lại: chính câu chuyện của Yanni làm
tôi nhớ đến cái cảnh đứng như trời trồng, giữa
vỉa hè Sài Gòn. ngấu nghiến đọc Bếp Lửa, đọc xong len lén
đặt nó trở lại vỉa hè, rồi len lén bỏ đi,
tránh cặp mắt chẳng có gì là hài
lòng của người bán!
Ông Yanni này tâm
sự với thính giả, qua một lần phỏng vấn trên
TV, hình như vậy, là ông rất biết ơn ông
bố của ông. Vào năm ông chín tuổi, biết ông
con quá mê âm nhạc, và quá cần
cây đàn piano, ông bố bèn đem cầm cố căn nhà,
tài sản độc nhất mà ông có được, để mua
cây đàn cho ông con.
Ông nói, mua chậm
là hỏng. Năm đó, tôi rất cần cây đàn.
Tất cả những gì gọi là mầm nhạc ở trong tôi,
chúng đòi hỏi cây đàn. Để chậm một
tí, là những mầm đó héo đi, sau đó
có được cây đàn thì cũng cẩm như không!
Kinh nghiệm của tôi đọc
cuốn Bếp
Lửa cũng như vậy. Phải đọc đúng vào lúc
đó [Lúc đó, là lúc nào, tôi
sẽ xin nói rõ, sau này]. Từ nó, mà
ra những anh em bà con họ hàng của nó, thí
dụ như Buồn Nôn,
Bức Tường của Sartre, Kẻ Xa Lạ của Camus, và nói
rộng ra, cả thế giới văn chương.
Có lần, Gấu hùng
dũng tuyên bố, đọc những tác giả khác, thí
dụ Thanh Tâm Tuyền, thí dụ Sartre, thí dụ Camus, là
để hiểu Gấu, cũng là theo ý
nghĩa đó.
Nói bạo hơn một chút:
Những kỷ niệm của riêng Gấu tui, chỉ Gấu tui biết, nhưng nhờ đọc
họ, mới thấy ra được. Mới biết là mình có những kỷ
niệm đó đó. Chúng thực sự ở trong Gấu, nhưng Gấu không
thấy, không hề biết đến chúng. Nếu không có
họ, như những mầm âm nhạc mà Yanni nói đó, chúng
cứ thế mà khô héo đi, cùng với cuộc đời thường
của mỗi con người thường…
Gấu lấy thí dụ, một lần
đọc Salman Rushdie, ông kể lần trở về thành phố quê
hương, Bombay, nhìn tấm hình căn nhà cũ, hình
đen trắng, vẻ lem luốc tiều tụy của nó làm bật ra ở nơi
ông giấc mộng lớn văn chương: Ta sẽ viết một cuốn sách thay
thế cho tấm hình nghèo nàn dơ dáy kia. Cuốn
sách của ta sẽ là một bức hình mầu Technicolor về
thành phố Bombay.
Đọc tới đây, đột nhiên
Gấu nhớ ra kỷ niệm về cây viết chì xanh đỏ
lần đầu tiên có trong đời.
Cây viết chì đó
thực sự không phải của Gấu, mà của một ông
cậu, em bà cụ thân sinh ra Gấu. Cậu Cầu. Con
Bà Ba, tức vợ thứ ba của Ông Ngoại Gấu.
Nhà Gấu nghèo, bố
mất sớm vì tai họa đảng phái ngay năm 1945, bà
cụ phải đem mấy đứa con ăn chực nơi bà con, mỗi người è
cổ chịu một đứa. Gấu được Ông Ngoại, sau khi Bà
Ba gật đầu, nuôi, một phần là để ba cậu con của Bà
Ba có người hầu.
Trong số ba cậu, Cậu Cầu là
người thương Gấu nhiều nhất.
Lần đó, Bà Ba đi
Hà Nội, khi về mua khá nhiều quà cho ba
cậu con, trong có cây viết chì đầu xanh đầu
đỏ. Cậu Cầu đưa cho thằng cháu chơi một tí. Thấy thằng cháu
mê quá, không muốn trả, ông tặc lưỡi, thôi
cho mày, nhưng giấu thật kỹ nhé, thằng mắt lác!
Chả là Gấu vừa lùn
lại vừa lé [lác].
Có thể nói, giống
như Rushdie, Gấu viết văn bằng cây viết chì
xanh xanh đỏ đỏ mà ông cậu cho, vào lúc
chín, hay muời tuổi…
NQT
(1) Cuốn Bếp Lửa sau đó, được tái
bản mấy lần. Lần sau cùng là vào
năm 1974, nhà xuất bản Kẻ Sĩ
do nhà thơ Tô Thuỳ Yên chủ trương.
[Trong mấy cuốn trên, Gấu
chỉ biết hai, cuốn đầu và cuốn chót]
Lạ một điều, hành động
trên của Nguyễn Đình Vượng như tiên đoán ra
được số phận của cuốn Bếp Lửa,
phải tái sinh từ những tro than của vỉa hè
Sài Gòn, cũng như số phận của cả một nền văn học trước
miền nam, tái sinh từ những tro than của cuộc phần thư 1975.
Khi TTT nói, sẽ đi xa
hơn DNM, ông đã nhìn ra 1 tên
Gấu bây giờ, khi đang làm trang Tin Văn.
Nếu Đi Hết Biển
Tôi đề nghị anh đọc Đời Nhẹ Khôn Kham, của Kundera...
để anh thâm nhập và nhận diện bộ mặt của cộng đồng Việt
ở hải ngoại.
Nguyễn Thị Hoàng Bắc trả
lời Trần Văn Thuỷ.
Theo tôi, đa số độc giả,
đọc Kundera, không phải để thâm nhập và
nhận diện bộ mặt của bất cứ cộng đồng, mà là
bộ mặt của cộng sản. Tác phẩm của ông, là về kinh
nghiệm sống dưới chế độ toàn trị.
Và đây là
lý do Nguyên Ngọc đã dịch hai cuốn Những Di Chúc Bị Phản Bội, và
Nghệ Thuật Tiểu Thuyết
của Kundera. Ông muốn độc giả trong nước thâm nhập và
nhận diện bộ mặt cộng sản, đặc biệt, bộ mặt cộng sản Việt Nam, bị che
giấu dưới quá nhiều mặt nạ...
Lần viếng thăm Tiểu Sài
Gòn mới đây, ghé Người Việt gửi anh em tòa soạn
cuốn sách mới ra lò, tôi gặp lại HKP. Anh đưa tôi
ghé thăm nhà anh, căn nhà được miêu tả trong
Nếu Đi Hết Biển, qua
bài phỏng vấn HKP của Trần Văn Thuỷ. Anh nói, những lần
tới, cứ tự nhiên coi như nhà của Gấu. Nhân tiện, anh
rút trên giá sách cuốn Nếu Đi Hết Biển
-Nếu ông thực tình
muốn viết về 'nó', thì ít ra cũng
phải đọc hết cuốn sách.
***
Thú thực, tôi ít
khi có ý định, "thực tình" viết về,
bất cứ một cuốn sách. Bất cứ một điều gì.
Những bài viết của tôi,
đa phần là tản mạn, manh mún, và
đều ở dạng "chưa hoàn tất". Một lần, PTH tỏ ý thích
một bài của tôi trên tanvien.net, tôi ngần
ngại, nói, bài chưa viết xong.
Bà "quạt" lại liền:
- Anh chỉ cho tôi một bài
viết nào của anh, mà coi như là đã
hoàn tất?
Thường ra, tôi "tạm ngưng" một bài viết, khi nghĩ rằng, đoạn
kết, hay câu kết của bài viết đó,
mở ra bài viết mới, tiếp theo sau. Nói
một cách khác, mỗi bài viết mới nào đó
của tôi, là một tiếp tục một bài viết
chưa hoàn tất nào đó.
Lần viết bài cho PTH [một
bài về NHT], tôi không thể nào "tạm
ngưng" nổi bài viết, và cứ thế liên tục gửi
những revised texts, đến nỗi PTH thương hại, nói, anh cứ chấm
dứt đại nó đi, tại làm sao mà làm khổ mình
như vậy.
Còn NMG, chủ báo
VH, có lần nói, tôi ưa "cầu toàn", chẳng bao
giờ hài lòng với một bài viết.
Chỉ tới khi, tôi mường
tượng ra được, lý do tại làm sao, sau Tướng Về Hưu, Nguyễn Huy Thiệp
gần như ngưng viết...
Chính vì thế, bài
trên net, một trang net của riêng mình, là một
hình thức viết phải nói là tuyệt hảo cho tôi.
Bất cứ lúc nào,
cũng có thể lôi xuống, sửa lại, rồi lại post tiếp.
Trở lại với bài viết cho
PTH. Đó là bài viết 'Mỗi trường hợp mỗi
khác", viết về ba nhà văn miền bắc, là Nguyễn
Huy Thiệp, Dương Thu Hương, và Phạm Thị Hoài. Tôi
nhìn ra được, khi viết Tướng
Về Hưu, Thiệp muốn gửi vào nhân vật này,
ý thức tự vấn của một miền đất, sau những lầm lẫn của nó.
Để viết, phải có một quãng cách với thời đại của
mình, và đó là những năm tháng cô
đơn của NHT ở miền núi, mà kết quả trước, là
Những Ngọn Gió Hu Tát, và sau, Tướng Về Hưu, một thứ
Le Repos du Guerrier, Khi
Người Hùng Trở Về, "sống", trên đống xương vô
định đã cao bằng dẫy... Trường Sơn bị xẻ dọc, và
"nhờ" đàn lợn, được vỗ béo bằng những thai nhi.
Câu hỏi làm tôi
nhức đầu, khi viết "Mỗi trường hợp mỗi khác" là:
Tại làm sao ý thức tự vấn của Nguyễn Huy Thiệp
lại 'tạm ngưng', sau khi ông viết xong Tướng Về Hưu. Hay, nói như Nguyên
Ngọc, ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp cùn
rồi, ông ta hết xí oát rồi?
Liệu chiến thắng miền nam là
một hồi chuông báo tử cho "cách viết"
của Nguyễn Huy Thiệp?
[Có thể có người
bắt bẻ, Tướng Về Hưu xuất hiện
sau 1975, nhưng, như đây là một thứ truyện
ngắn vào lúc tận cùng của một thời kỳ. Nó
giống như Bếp Lửa
của Thanh Tâm Tuyền, dính cứng vào biến
cố 1954].
Liệu, ý thức của tự vấn
của miền đất, ở nơi NHT, như là một người đại diện của nó,
đã không chịu nổi cú "đụng độ", khi va chạm với cái
mà tôi tạm gọi là "thiên tài của nơi
chốn", hay là ông thần miệt vườn, của một miền đất khác?
Ngược lại, miền đất này cũng không thể làm sao hiểu
nổi, cái ác của một miền đất khác, biểu lộ ra bằng
hành động, thí dụ như, nhét 'gì gì đó"
vào miệng đám sĩ phu, để cho nó thoát ra khỏi
cơn mê muội vong thân, lành nọc độc, là chủ nghĩa
cộng sản?
*****
Home is where one starts from.
In my beginning is my end.
What you own is what you do not
own.
T. S. Eliot
Nhà là nơi mà
bạn bắt đầu
Trong cái bắt đầu của tôi
là cái tận cùng của tôi
Cái bạn sở hữu là
cái bạn không sở hữu
Indians are proud of their ancient,
surviving civilization. They are, in fact, its victims.
Người Ấn tự hào về nền văn
minh cổ xưa, còn hoài của họ. Hóa ra,
họ là nạn nhân của nó.
Naipaul: Lần viếng thăm thứ nhì [in trong Nhà
văn và Thế giới]
Nguyễn Huy Thiệp đã từng
mơ 'đi hết biển', nhưng đi được một đoạn đường, ông quay về. Ông
giải thích, 'vì nghĩ đến mẹ'.
Mẹ ở đây, là 'ẩn
ngữ', chỉ văn minh lâu đời, dai như đỉa: nền văn
minh đồng bằng sông Hồng?
Nhưng Văn Cao, chẳng hề mơ giấc
mơ này. Như Joseph Roth, đã từng có
vé của PEN, mời đi Mẽo: ông bèn quẳng
vào thùng rác, và uống tiếp: Người đã
viết một câu để đời, nói lên nỗi đau của cả
một miền đất trong trận đói khủng khiếp năm đó, "Thề phanh
thây uống máu quân thù," người đó không
thể bỏ đi. Vinh quang của một tướng về hưu
là như vậy. Vinh quang đấy, mà thất bại cũng đấy.
Thất bại, vì không thể hiểu được một miền đất khác. Những người dân
ở đó nói tới nghĩa khí ở đời, nói trung hiếu
với bố mẹ, anh em, bằng hữu... chứ
không với Dân, hay với Đảng.
Note: Đầu năm, đọc lại loạt bài
này, nhân server lôi ra, Gấu ngạc nhiên quá
đỗi, ở cái giọng văn của nó, rất ư là lịch sự!
Đi tìm phê bình gia Mít
Một
bài viết hổ lốn, trích dẫn loạn cào
cào, nào Simic, nào Picasso, cộng vô
những câu phán vô tội vạ, [thí dụ khúc
này, bố ai hiểu NY muốn nói gì: “Như vậy,
thơ Trừu Tượng có thể nói, bao gồm tất cả mọi loại thơ
với nét đặc thù là diễn đạt một cảm giác,
một kinh nghiệm không cụ thể như một ý tưởng chẳng hạn.
Và ngôn ngữ “tuông trào” [“tuôn trào”
mới đúng] một cách tự nhiên và quan trọng
là tình cờ. Nói theo chữ nhà Phật là
duyên. Chữ xuất hiện tình cờ theo duyên số của nó"
[“tình cờ”, làm sao “theo duyên số” được?], "bố
ai hiểu được....", một phần là còn do khả năng diễn đạt ý
nghĩ, tư tưởng bằng tiếng Mít của NY, quá tệ.
Không
lẽ “Thơ Trừu Tượng bao gồm tất cả mọi loại thơ với nét
đặc thù “cái con mẹ gì đó”... ,
như NY phán?
Đúng
là điếc không sợ súng!
Vậy
mà xúm lại khen nức nở, quái đản
thật.
Cả
hai diễn đàn Da Mùi và Hậu Vệ đều
không rành tiếng Mít, đó là sự
thực. NQT
Dayly_Poems/night_thoughts.html
Transtromer, who trained as a
psychologist, records the fragility of consciousness.
Night Thoughts
Theo
đám cá cược London, cơ may đợp Nobel Văn
Học 2011 là con gà nòi Bob Dylan. Thay
vì vậy, thì là gà nhà, 1 con gà
già, nhà thơ bị liệt Tomas Trantromer, năm nay
đúng tám bó, nhà thơ lớn lao nhất hiện chưa
ngỏm của Thụy Ðiển. Ông bị tim quật cho 1 cú thật
nặng vào năm 1990, trấn lột tiếng nói, liệt cánh
tay phải. Thay vì đi một đường diễn văn cám ơn đời và
Hàn Lâm Viện TD, ông sẽ chơi một mẩu dương cầm,
theo kiểu “độc thủ đại hiệp” Vương Vũ ngày nào, một tuyệt
chiêu học được sau cú bị tim quật.
Nhưng
tuyệt chiêu, độc chiêu, primary, diễn tả
của ông, là thơ, một thứ thơ lầm lì, bí
hiểm, ông chơi với nó suốt 60 năm. Những bài thơ
thì thường ngắn, và câm nín. Gia tài
thơ 60 năm thì hơi bị khiêm tốn, nhét gọn cái
túi quần sau, có thể nói như thế, mượn cách
diễn tả của tay thư ký Nobel. Tác phẩm của TT, rất
nhiều, làm chúng ta cảm nhận, như là một ẩn dụ
mơ tưởng, về phần việc của những giấc mơ: ngăn chặn chúng ta
ở những vùng với dài xa lạ của cái đầu, quá
đó là bỏ mẹ, là “đâu cái điền”. Trong
số những thi sĩ, có rất nhiều bịnh nhân tầm thần. Những
nhà tâm lý học thì là của hiếm. TT
làm việc như là 1 nhà tâm lý học, chủ
yếu là với đám thanh thiếu niên. Sinh năm 1931,
được mẹ nuôi nấng, ở Stockholm, khi còn nhỏ học piano,
và những bài thơ của ông thì giống như 1
cuộc hôn phối giữa đức hạnh của âm nhạc và của nghiên
cứu tâm lý học. Bị tiềm thức mê hoặc, và ông
chỉ sợ tiềm thức tóm lấy ông, gây họa, vì tiềm
thức vốn cà chớn [hay thay đổi, không kiên định],
tàn nhẫn, và tình cờ, ẩu tả [random, hai người
yêu nhau rất tình cờ. TTT].
Ít
thi sĩ nói cà chớn như thế về mình.
TT tìm kiếm, không phải “hình ảnh sâu
xa”, nhưng mà là cái bề mặt lẩn tránh của
sự vật.
Cú
tim quật và những bài thơ TT viết, từ
bên trong câu thơ độc ác của nó,
chỉ làm thê thiết thêm điều luôn luôn
có ở trong ông: cái cảm giác bị VC
tóm bằng câm lặng, [nhét giẻ vô miệng nó
cho ta, không thấy giẻ thì nhét kít!],
và hy vọng, biết đâu đấy, nhờ vậy, nhờ bị VC nhét
giẻ vô miệng mà làm thơ lại có tí
bồi đắp, chăng?
THMN
rồi, hà, hà! [To K]
Note:
Đọc bài này, thì lại nhớ đến bài
của thi sĩ NY, trên Da Mùi:
Cũng
1 dạng “Nai Thót” [Night Thoughts] mí
nhau cả!
…
Abstract poetry, as the name suggests, is poetry that
does not lend itself to a literal, or concrete, interpretation.
Often the words are chosen more for their sounds than for their
meanings, in the same way that abstract visual art is often more
about color and shape than about creating representational images.
This kind of abstract poetry is also known as sound poetry. In a
broader sense, abstract poetry is poetry that employs random images,
stream-of-consciousness, and other abstract art techniques. Although
not for all tastes, this kind of poetry can create memorable aesthetic
experiences.”
Thơ
Trừu Tượng, như ý nghĩa tự tại trong tên
gọi, là thơ không đặt nặng vào văn tự theo
ý nghĩa cụ thể hoặc hiểu ngầm. Thông thường chữ trong
thơ Trừu Tượng được sử dụng vì hồn chữ hơn là ý
chữ, giống như nghệ thuật tạo hình Trừu Tượng chỉ dùng
màu sắc và hình thể hơn là sáng
tạo trình bày hình tượng. Loại thơ Trừu Tượng
này còn được biết như là Thơ Âm Điệu (sound
poetry) (2). Trên diện mở rộng, thơ Trừu Tượng cưu mang những
hình tứ bất chợt đến từ vô thức và dùng những
kỹ thuật của những nghệ thuật Trừu Tượng khác. Mặc dù không
thích hợp cho mọi sở thích, loại thơ này cũng mang
đến sự tồn tại của kinh nghiệm thẩm mỹ.
NY
dịch
NY
có thể là thi sĩ, giỏi tiếng mũi lõ,
nhưng tiếng Mít hơi bị yếu. Gấu Cà Chớn thử dịch
lại khúc trên.
Thơ
trừu tượng, như cái tên đề nghị, là
thơ không màng tới lối giải thích theo
nghĩa đen của từ, hay cụ thể. Thường là những từ được nhà
thơ chọn lựa do âm thanh hơn là do ý nghĩa
của chúng, cũng theo cùng cách này mà
nghệ thuật hình ảnh trừu tượng thì mặn về màu
hay hình dáng hơn là sáng tạo ra những
hình ảnh mang tính tiêu biểu, đại diện.
Thứ thơ trừu tượng này thì
còn được biết đến như là thơ âm thanh.
Theo nghĩa rộng rãi hơn, thơ trừu tượng sử dụng những hình
ảnh tình cờ, dòng ý thức, và những
mánh trừu tượng khác. Mặc dù không cho
tất cả những khẩu vị, thứ thơ này có thể tạo ra những
kinh nghiệm mỹ học đáng nhớ.
*
Như
đoạn trích dẫn trên cho thấy, thì
có nhiều thứ thơ trừu tượng khác nhau, và
thứ mà NY nói tới, là thơ trừu tượng chú
trọng tới âm thanh hơn là nghĩa của từ.
Nếu như thế thì cái
hình ảnh người lớn uốn éo người khi bón
cơm cho con nít chẳng mắc mớ tới “thứ thơ trừu tượng” này.
Và, cái tít
"Hồn chữ" nên đổi là "Âm chữ".
Souvenir/o_nhuc.html
Đầu
tháng, lướt “server, daily report”, lòi
ra hai bài trên
Tây
đặc một thời
BONJOUR TRISTESSE BY FRANCOISE SAGAN
After
the grim work of the Second World War and the hard work
of the post-war reconstruction, Bonjour Tristesse
burst onto the French literary scene like a carnival. It
announced what seemed like a new species, youth, la jeunesse,
who had but one message: have fun with us or be gone; stay up all
night at a jazz club or never come out with us again; don't talk
to us about marriage and other boring conventions; let's smoke
and be idle instead; forget the future who's the new lover? As for
the tristesse of the title, it was an excuse
for a really good pout.
YANN
MARTEL
Sau
một ‘cần lao’ khốc liệt thời Đệ Nhị Chiến và
một ‘cần lao’ cật lực tái xây dựng thời hậu chiến,
Buồn Ơi Chào Mi nổ ra như một trái
bom trên nền trời văn học Pháp và cùng
với nó, là một ngày hội. Nó thông
báo sự ra đời của một chủng loại mới, tuổi trẻ, la jơn
nét, la jeunesse, thứ sinh vật mới mẻ này có
một thông điệp, và chỉ một mà thôi: hãy
vui chơi với tụi tớ, nếu không, biến đi cho được việc; nhẩy
nhót suốt đêm tại một vũ trường jazz, nếu không,
đừng bao giờ rủ tụi này đi chơi; đừng nói với tụi này
về hôn nhân, về ba lẩm cẩm khác, hãy hít
đến mụ cả người ra, hãy vờ tương lai – ai là thằng bồ mới
của mi?
Và
cái từ buồn ở trong cái tít quả
đúng là một cái trề môi, 'thôi bỏ
đi tám'!
Ui
chao, đám jơn nét VC ở trong nước,
con cháu của những đại gia BBP [Bắc Bộ Phủ], hay HNV
[Hội Nhà
Văn],
hay HNT [Hội Nhà
Thổ],
quả đã xử sự đúng như vậy, nhưng ở trong
tim, trong gan trong hồn, trong não của chúng,
có một nỗi buồn, đúng hơn, một 'ô nhục': thắng
trận!
Một
ông sĩ quan VNCH như một THT, làm sao có
được nỗi ô nhực ‘bảnh’ như thế?
*
Vào
cái thuở mới vô nghề xoa đầu, nâng
bi, đội dĩa thiên hạ của Gấu, mỗi bài điểm sách
sau này đều là một kỷ niệm, vui có, buồn có,
và bây giờ nhìn lại, chúng hình
như đều liên quan mắc mớ đến mớ câu hỏi của Sartre, văn
chương là gì, viết cho ai, thế nào là văn
chương dấn thân, đọc cái gì, viết cái gì
khi chưa bị cuộc chiến nuốt chửng… Và bài điểm cuốn "Nỗi
bơ vơ của bầy ngựa hoang", của THT, là bài Gấu kỳ vọng
nhiều nhất, và, thất vọng nhiều nhất, vào lúc
về già, khi 'phải' nhớ lại.
Đi tìm phê bình gia Mít
Với
1 người khác, đầu óc sáng sủa hơn,
và thực sự lưu tâm tới “thơ”, vấn đề sẽ nhẹ nhàng
hơn nhiều, vì chẳng có gì đối thoại –TD ngỏm rồi,
làm sao đối thoại. Người đó nêu câu
thơ của TD, và cho biết thêm, có 1 gốc gác
khác, về nó.
Nhưng
vấn đề ở đây là do thi sĩ Mít đếch
có Thầy mà ra. Trong đầu óc ông nhà
thơ Mít, cùng với nỗi sướng điên người, “mưa ở
đâu ra vậy cà”, là phát giác,
“TD mà thi sĩ gì, cũng đi ăn cắp thơ của người khác”!
Gấu
chưa từng thấy 1 ông thi sĩ Mít, coi 1
ông thi sĩ, cũng Mít, khác, là Thầy
của mình. Mũi lõ chắc hẳn không, là vì
có đấng nào đọc nổi thơ của 1 nhà thơ nổi
tiếng trên thế giới, và nhập vào dòng thơ
đó đâu. Chúng ta thấy hiện ra ở đây, vấn
đề Borges nêu ra trong bài viết, “Kafka và những
người đi trước ông", và nghịch lý, thường ra,
Thầy khám phá ra Trò, nhưng đúng ra, phải
là Trò khám phá ra Thầy.
Cõi thơ văn Mít sở
dĩ lụn bại, vì đếch có Thầy.
TD, chết rồi mà vẫn còn
bị 1 ông thi sĩ dởm lôi ra hành hạ, là
vậy.
Đi tìm phê bình gia Mít
Thấy
trên Blog NL viết về TBT, coi đấng này
không phải là 1 dịch giả dở.
Có
thể, nhưng những lỗi về dịch thuật của ông, được
nêu ra trong bài TV đã dẫn, một dịch giả
đứng đắn phải trả lời, không phải bằng cách quy chụp,
“Người chê tìm ra một vài từ, bới móc
như thế để đánh giá, kết luận thì có
được coi là hành động tử tế?"
Thà
rằng dịch sai còn hơn không có bản
dịch nào hết, đây có lẽ là cách
mà Mít đang sử dụng, bởi là vì hiện
đang có cả 1 chương trình, dịch tất cả những bản
văn tiếng Anh qua tiếng Việt [kể cả mail riêng – GCC đọc thấy
mail của Gấu cũng được dịch qua tiếng Mít, tếu thế, chẳng
biết ai cho phép làm chuyện này, hình
như là 1 chương trình tự động?]
Dưới đây là bản dịch
“tự động”, 1 bài về Maigret trên tờ Intel, mà TV tính dịch
hầu độc giả
AN
AGELESS MAIGRET (1)
Short
Read: as Penguin republish 75 of Simenon's detective
stories, Simon Willis finds the master of the genre well
served in translation
From
INTELLIGENT LIFE magazine, January/February 2014
ENGLISH
TITLE THE HANGED MAN OF SAINT-PHOLIEN
ORIGINAL TITLE LE PENDU DE SAINT-PHOLIEN
AUTHOR GEORGES SIMENON
ORIGINAL LANGUAGE FRENCH
TRANSLATOR LINDA COVERDALE
Inspector
Maigret—resolute, taciturn, "a pachyderm plodding inexorably
towards its goal"—was Simenon's most indelible character,
and by far his busiest. This was one of ten Maigret books
that Simenon wrote in 1931 alone. There are 75 in all, now
being republished by Penguin at the rate of one a month. He was
a master of northern-European drear, dusky railway stations and seedy
hotels. This investigation begins with all three, and a suicide
in Holland. He was also a master of ambiguity. The suicide may or
may not be connected with a crime, but either way Maigret's determined
suspicions are its proximate cause. The story rivets you with its
reversals. By the time you get to the climax, the line between victim
and perpetrator is as foggy as the weather.
Linda
Coverdale's new translation achieves what translations
should: invisibility. When he was young, Simenon got some
advice from an estimable source—Colette told him to "cut,
cut, cut". His prose, shorn of adjectives and adverbs, seems
in Coverdale's hands to be ageless, and delivers a lot with a little.
In 138 pages, we move between Bremen, Rheims, Brussels and Paris,
the internationalism lending glamour to the grit as Maigret sheds
light on a shady group with a dark secret. As the clues pile up,
so does the weight on Maigret's shoulders. The novel's clincher,
and Simenon's gift, is to wring sympathy from the sinister mood,
so that the big reveal isn't just about whodunnit but a heavy dilemma
set up with a light touch.
Penguin
Classics, Jan 2nd
Simon
Willis is apps editor of Intelligent Life
*
Đọc
ngắn: như chim cánh cụt tái 75 của truyện
trinh thám của Simenon, Simon Willis thấy thầy của
thể loại cũng phục vụ trong dịch
Từ tạp chí cuộc sống thông
minh, January / tháng 2 năm 2014
ENGLISH TITLE THE treo cổ MAN OF
SAINT-PHOLIEN
Trích TITLE LE Pendu DE
SAINT-PHOLIEN
TÁC GIẢ Georges Simenon
Trích NGÔN NGỮ PHÁP
TRANSLATOR LINDA Coverdale
Thanh
tra Maigret-kiên quyết, ít nói,
"một Pachyderm chậm chạp không thể lay chuyển hướng
tới mục tiêu của mình"-là nhân vật không
thể xóa nhòa nhất của Simenon, và đến nay
bận rộn nhất của mình. Đây là một trong mười cuốn
sách Maigret rằng Simenon đã viết trong một mình
năm 1931. Có 75 trong tất cả, hiện đang được tái bản
bởi Penguin với tỷ lệ một trong một tháng. Ông là
một bậc thầy về, nhà ga sẫm ảm đạm phía bắc châu
Âu và khách sạn tồi tàn.Điều tra này
bắt đầu với cả ba, và một vụ tự tử ở Hà Lan. Ông
cũng là một bậc thầy của sự mơ hồ. Tự tử có thể hoặc không
thể được kết nối với một tội phạm, nhưng một trong hai cách nghi
ngờ quyết tâm của Maigret là nguyên nhân sâu
xa của nó. Những câu chuyện đinh tán bạn đảo ngược
của nó. Bởi thời gian bạn nhận được đến đỉnh cao, ranh giới giữa
nạn nhân và thủ phạm là như sương mù như thời
tiết.
Bản
dịch mới của Linda Coverdale đạt được những gì
bản dịch nên: tàng hình. Khi còn
trẻ, Simenon có một số lời khuyên từ một tôn kính
nguồn Colette nói với ông để "cắt, cắt, cắt". Văn xuôi
của mình, cạo của tính từ và trạng từ, dường
như trong tay Coverdale để được trẻ mãi không già,
và cung cấp rất nhiều với một chút. Trong 138 trang, chúng
tôi di chuyển giữa Bremen, Rheims, Brussels và Paris,
cho vay quốc tế quyến rũ cho các grit như Maigret làm
sáng tỏ một nhóm râm với một bí mật đen tối.
Là đầu mối chồng chất lên, thì trọng lượng trên
vai Maigret của. Móc sắt của cuốn tiểu thuyết, và quà
tặng của Simenon, là để vắt thông cảm từ tâm trạng
nham hiểm, do đó, lớn tiết lộ không chỉ là về whodunnit
nhưng một tình trạng khó xử nặng thiết lập với một cái
chạm nhẹ.
Penguin
Classics, 2 tháng 1
Tin
Văn sẽ có bản dịch sau. Cũng 1 bài điểm
sách của 1 bậc Thầy.
*
Borges
có hai câu, tưởng là chửi bố lẫn
nhau, như hai con mắt lé của Gấu Cà Chớn. Một,
thơ là để trao cho thi sĩ. Một, bạn ngâm nga, i ỉ, 1 câu
thơ của Shakespeare là trở thành… Thạch Sĩ Bia!
Một
thật nghiêm khắc, một thật hào phóng.
Phải
đến già thì Gấu mới hiểu ra ý của
Borges. Bạn chớ có làm thơ, nếu không
phải là thi sĩ. Và nếu thèm thơ quá, thì
ngâm thơ của bất cứ thi sĩ nào mà bạn mê.
Ui
chao, giá mà những đấng thi sĩ Mít
hiểu ra được ý của Borges, nhỉ.
*
Mới
đọc 1 bài của thi sĩ TN, trên Hậu Vệ. (2)
Bài viết có vẻ như
cà khịa TD, về 1 câu thơ của ông, mưa rơi
không cần phiên dịch.
Theo TN, đây là câu
thơ của 1 người khác.
Có
thể, nhưng TD không hề có ý chôm
thơ của người khác. Ông là thi sĩ, thứ
thiệt, dù có rất ít người chịu được thơ của ông.
Một thi sĩ thứ thiệt không
kiêm thêm nghề ăn cắp.
Gấu
cũng đã gặp 1 trường hợp tương tự như của TD.
Khi ngoạc mồm chửi Bắc Kít, “thắng trận nhục nhã
lắm”, Gấu cứ tưởng ý của Gấu! Chỉ đến khi đọc 1 bài
trên tờ Lire, nhắc
tới cuốn “The Skin, Làn Da”, của Malaparte, mà Gấu đã
từng dịch ra tiếng Việt, với cái tít "Thượng Đế Đã
Chết Trong Xề Gòn", thì mới biết, của Malaparte!
Đó
là câu văn đóng lại "Thượng Đế đã
chết ở Xề Gòn!"
Viết
1 bài nhỏ xíu, về 1 thi sĩ đã chết,
đầy ẩn ý... xấu, làm sao làm thơ?
Đấng TN này, Gấu biết, từ
khi còn viết cho tờ VHNT của PCL.
Thú thực, Gấu chưa từng
đọc được 1 nửa câu thơ của ông.
Chán thế!
Nhớ,
có lần Gấu cho đăng 1 bài thơ của Gấu,
trên VHNT. Ông và mấy đấng thi sĩ khác
nữa, trong BBT, ngạc nhiên lắm.
Ra ý, cũng làm thơ,
ư?
Chán thế!
(2)
Ngộ
ư? Vậy là sao?
Hai bộ óc thơ mộng ngẫu
nhiên va phải nhau trên hành trình
của họ chăng?
Hay còn bí mật gì
khác?
Bây giờ tôi lẩn thẩn
tự hỏi, “Mưa rơi ở đâu vậy ta?”
Thận
Nhiên, SG 22/01/2014
*
Với
1 người khác, đầu óc sáng sủa hơn,
và thực sự lưu tâm tới “thơ”, vấn đề sẽ nhẹ nhàng
hơn nhiều, vì chẳng có gì đối thoại –TD ngỏm rồi,
làm sao đối thoại. Người đó nêu câu
thơ của TD, và cho biết thêm, có 1 gốc gác
khác, về nó.
Nhưng
vấn đề ở đây là do thi sĩ Mít đếch
có Thầy mà ra. Trong đầu óc ông nhà
thơ Mít, cùng với nỗi sướng điên người, “mưa ở
đâu ra vậy cà”, là phát giác,
“TD mà thi sĩ gì, cũng đi ăn cắp thơ của người khác”!
Gấu
chưa từng thấy 1 ông thi sĩ Mít, coi 1
ông thi sĩ, cũng Mít, khác, là Thầy
của mình. Mũi lõ chắc hẳn không, là vì
có đấng nào đọc nổi thơ của 1 nhà thơ nổi
tiếng trên thế giới, và nhập vào dòng thơ
đó đâu. Chúng ta thấy hiện ra ở đây, vấn
đề Borges nêu ra trong bài viết, “Kafka và những
người đi trước ông", và nghịch lý, thường ra,
Thầy khám phá ra Trò, nhưng đúng ra, phải
là Trò khám phá ra Thầy.
Cõi thơ văn Mít sở
dĩ lụn bại, vì đếch có Thầy.
TD, chết rồi mà vẫn còn
bị 1 ông thi sĩ dởm lôi ra hành hạ, là
vậy.
Đi tìm phê bình gia Mít
Note:
Tính để bài này trong mục "Thơ
Mỗi Ngày", nhưng ngửi, "dzậy 1 mùi" ngu, dốt,
và bướng của… Mít,
nên nhét vô đây. Nó làm nhớ
đến những bài thơ “sáng tác” đầy trên các
diễn đàn net bi giờ, như Ba Trụ, Bốn Trụ, thí dụ.
Dịch
như kít, nhiều bài thơ đã từng
được dịch rồi, vậy mà còn “cố” dịch sai đi,
được chỉ ra những chỗ dịch sai, thì bèn sủa:
Trao
đổi với VnExpress, dịch giả Thái Bá Tân
cho biết, các bài trong cuốn “Thơ Haiku Nhật
Bản” được ông dịch từ sách tiếng Nga và một số
cuốn tiếng Anh. Ông đã biết tới bài báo
chê mình dịch sai. Thái Bá Tân bày
tỏ quan điểm một cách ngắn gọn: "Tôi dịch từ nhiều cuốn
sách khác nhau, vậy người ta đối chiếu với bản nào
để nói tôi sai? Người chê tìm ra một vài
từ, bới móc như thế để đánh giá, kết luận thì
có được coi là hành động tử tế?"
Thơ Hai Cu
Nhật
Chiêu cho biết, khi dịch thơ, không phải
bài nào ông cũng có thể dịch sang
tiếng Việt được. "Với những bài quá khó, nếu nghiền
ngẫm mà vẫn chưa hiểu, chưa cảm được, tôi thường
bỏ qua hoặc không dịch. Tôi chỉ dịch khi tôi hiểu",
ông nói.
Đây
cũng là kinh nghiệm dịch thơ của Gấu. Nhưng suy
rộng ra, có thể nói, đây cũng là
kinh nghiệm viết, đọc, như Gấu đã nhiều lần lèm bèm,
về cái gọi “viễn ảnh” của 1 bản văn. Hiểu, 1 cách
nào đó, là nhận ra cái bóng phủ
lên toàn thể 1 bài văn.
Barthes coi đây là…
phê bình, một
bản văn choàng lên 1 bản văn khác. Ông
cũng đã từng đi 1 cuốn về haiku, và riết ráo
hơn, về “sign”, ký hiệu, bởi vì haiku là gì,
nếu không là, vài ba “sign”?
Con
quạ
Ngồi trên cành cây
khô
Chiều thu
TBT
Gấu
Cà Chớn đã từng dịch bài thơ trên:
Cành
khô
Quạ đậu
Chiều thu
Con
ếch
nhảy xuống ao tù
Tiếng nước té
Ao
cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xao
Nhật
Chiêu
Có lẽ, Hai Cu cố ghi lại tiếng vỗ của
1 bàn tay, tức kinh nghiệm rút dù, tháo
chạy của từ - retreat of word, Steiner - vô cõi vô
ngôn?
Đi tìm phê bình gia Mít
Gấu học tiếng Tây, là để có
thể viết 1 lá thư bằng tiếng Tây, cám ơn 1
anh Tẩy già, chồng Cô Dung, me Tây, bà cô
của Gấu. Khác hẳn lũ tinh anh Miền Nam học tiếng Tẩy,
để có cơ hội thoát chết. Chúng bợ đít VC
vì tin rằng, VC sẽ thắng cuộc chiến, và chúng sẽ
trở về, kiếm 1 chỗ béo bở. Có tên nào thực
sự yêu nước đâu? VC đâu phải là nước…
Mít?
Làm cho Mẽo, nhưng đếch học tiếng Mẽo,
vì nghĩ, khi nào tụi bay cút, ta học tiếng
Mẽo, để đọc sách Mẽo, vưỡn còn kịp.
Cũng thế, Gấu đọc triết, thứ triết cắt nghĩa
tại sao chúng ta sống, tại sao chúng ta chết,
tại sao cuộc chiến Mít. Đâu có phải thứ triết trốn
lính của mấy Thầy học Đại học văn khoa Sài Gòn,
như Thầy Đạo, Thầy Quân, hay mấy đấng bạn quí học ban
C, sau vô Đại học sư phạm, ra làm Thầy dậy triết? Mấy
bạn quí của Gấu đâu đọc G. Lukacs, Henri Lefebvre, và,
ngay cả Roland Barthes cũng đếch đọc nổi, vì không thuộc
dòng hư vô, hiện sinh!
Chính
là cái cách đọc, như trên,
đã cứu Gấu, cho Gấu tiếp tục sống tiếp, đọc tiếp, nhập
vô được dòng văn chương thế giới. Đừng nghĩ là Gấu
tự thổi: Tâm địa như thế nào, khi bạn đến với văn chương,
cho cái hệ quả như thế đó. Không lẽ 1 tên
học tiếng Tây để được Ngụy cho đi du học, thoát chết trong
cuộc chiến, sẽ đẻ ra thứ tác phẩm nói lên sự sống
còn của cõi văn Mít, con người Mít ư? Cõi
văn Mít ngày càng lụn bại, vì đếch có
nhà văn Mít, như 1 thứ thực sự sống sót cuộc chiến,
theo 1 nghĩa nào đó có tính
“viễn ảnh, ẩn dụ”. Mấy em Bắc Kít, chạy
qua Paris, viết văn bằng tiếng Tẩy, sẽ cứu vớt cõi văn Mít?
Không
lẽ trong văn của chúng không có
mùi chiến lợi phẩm?
Trong tâm thức chúng,
khi ngồi xuống bàn, và viết, "có" nỗi nhục,
nỗi đau... chiến thắng?
Sến Cô Nương, chạy thoát qua Đức,
nhờ học sinh tiên tiến, đã từng cắm cờ chiến
thắng lên đỉnh Cổ Thành, sẽ viết ra đại tác phẩm nối
lại được Sài Gòn và Hà Nội?
Note:
Nhắc tới Sến, và nhân ghé Blog "Ủy
ou Nông", xin giới thiệu 1 bài viết thần sầu của
SCN, về Dos
Câu
chuyện của anh em nhà họ Dương có vài
tình tiết khiến tôi phải liên tưởng đến
bộ tiểu thuyết cuối cùng của Dos, Anh em nhà Karamazov.
Nhân
vật người cha, Fyodor Karamazov, hoàn toàn
có thể được thay thế bằng một biểu tượng khác
trong bối cảnh Việt Nam đương đại, một uy quyền thối nát
nhưng vẫn thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Sa
đọa, bỉ ổi, tự đắc và to mồm, cái uy quyền trưởng thượng
đó đồng thời là nguồn phát sinh và nguồn
xung đột với những đứa con của chính nó. Dmitri giết
cha hay Dương Chí Dũng sát hại cái uy quyền đó
– bằng cách chôn vùi uy tín của nó,
thiết lập một tình trạng “không có vua” – trong
tâm tưởng hay trong thực tế không phải vì khao
khát kết liễu cái Ác mà vì sự cạnh
tranh của cùng những động cơ đê tiện. Tiền, tình,
tham vọng và dục vọng, mưu mô, tị hiềm, lường gạt, quyền
lực và bạo lực, sự ngông cuồng của bản năng, sự hiếu thắng
của một lí trí đã cực kì cùn mòn
và sự lải nhải của luân lí trộn cứng vào nhau
trong tấn bi kịch ở nước Nga cuối thế kỉ 19 và trong câu
chuyện hình sự ở nước Việt đầu thế kỉ 21.
Dmitri
hát. Dương Chí Dũng ngâm thơ. Cả
hai đều vướng vào đàn bà, dù chúng
ta không biết nàng Grushenka Hà Nội có
ma lực nào khiến đàn ông mất ví, mất trí
và mất mạng. Còn có một tình tiết tương đồng
khác, nhất định không phải là ngẫu nhiên:
người em, Ivan, cũng lập kế giúp anh chạy trốn án lưu
đày Siberia như Dương Tự Trọng giúp anh tẩu thoát
án tử hình đang đợi. Và lạ chưa, điểm đến trong
kế hoạch thoát thân của cả hai đều là nước Mỹ. Nhưng
trong khi Dmitri hình dung cụ thể phải lao động cật lực, phải
học ngữ pháp, phải nói tiếng Anh thật chuẩn trong vòng
ba năm rồi sẽ thay hình đổi dạng, thậm chí nếu cần thì
chọc mù một mắt, để trở về sống trong lòng nước Nga yêu
dấu, thì Dương Chí Dũng không hề nghĩ đến chuyện
phải rửa chén chạy bàn ở vùng đất hứa: ông
chọn nước Mỹ vì kết quả bấm quẻ. Như để bù cho sự thiếu
vắng của tôn giáo, chiều kích quan trọng nhất của
tấn bi kịch Nga, mê tín xuất hiện trong câu chuyện
Việt dưới hình hài một anh hề không biết công
chúng ôm bụng cười vì điều gì.
Sự
khác nhau còn nằm sâu hơn.
Người
anh, Dmitri, vò xé trong đau khổ vì
tin rằng mình có tội, đã sẵn sàng
chuộc tội bằng bản án lưu đày. Dương Chí Dũng
thì không, ông hoàn toàn bất
ngờ khi nghe tin mình sẽ bị bắt và khẳng định mình
vô tội cho đến tận bây giờ. Người em, Ivan, nhàu
nát trong tự truy vấn về tội lỗi của bản thân nên
bỏ tiền ra giúp anh chạy trốn, như để chuộc cái tội
mà pháp luật không truy tố của mình. Dương
Tự Trọng thì không, ông hành động vì
tình nghĩa ruột thịt như dư luận được biết và thậm chí
có phần cảm phục. Ở anh em nhà Karamazov, một uy quyền
xứng đáng bị kết liễu đã bị sát hại và tất
cả đều sám hối, dù người đọc đã biết rõ
thủ phạm. Tất cả đều tham gia tội ác. Ở anh em nhà họ
Dương, một uy quyền xứng đáng bị kết liễu đã bị tổn thương
và tất cả đều đổ tội hoặc cho hoàn cảnh – cái
đang được gọi một cách mịt mù là thể chế -, hoặc
cho kẻ khác, và dư luận thì nóng lòng
chờ điểm danh kẻ thủ phạm tiếp theo. Tất cả đều có thể rũ tội
cho phần mình.
Anh em nhà Karamazov cuốn người
theo dõi số phận họ vào vòng xoay nghẹt thở của
những luận đề nặng trĩu về giới hạn của đạo đức và trách
nhiệm, về tội ác và sự trừng phạt, về tội lỗi thực tế và
tội lỗi siêu hình, và trùm lên tất cả
là câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng đế và ý
nghĩa của kiếp người. Anh em nhà họ Dương cuốn người theo dõi
số phận họ vào vòng xoáy đứng tim của những tiết mục
trinh thám giật gân và những pha mùi mẫn. Với
biết bao là nợ tình: tình cách mạng, tình
đồng chí, tình huynh đệ, tình chiến hữu, tình
nghệ sĩ, tình giang hồ hảo hớn, đó là chưa kể tình
ngoại tình. Gỡ mỗi cái nợ ấy là hết ít nhất
một thế hệ.
Tấn
bi kịch Nga chỉ mượn cốt truyện hình sự. Câu
chuyện Việt tự kiềm chế trong khuôn khổ một vụ án
hình sự đơn thuần. Nó không cần đến người em
thứ ba, Alexey, nhân vật thánh thiện, để rọi ánh
sáng vào mạch chuyện. Truyền thông Việt Nam,
lắc lư ngoạn mục bằng một chân chính thống, một chân
lá cải và chiếc đuôi tự do liên tục bị cắt và
liên tục tìm cách mọc lại, đảm nhiệm vai dẫn chuyện.
Cũng không cần đến Smerdyakov, người em vô thừa nhận, kẻ
cùng quẫn tăm tối, dùng tốt cho việc thừa hành những
tội ác trong tâm tưởng người khác. Những Smerdyakov
trong xã hội Việt Nam nhiều và đương nhiên đến
mức chúng ta không nhìn ra nữa.
Một
tác giả tôi không còn nhớ
tên đã nhận xét rằng trong nước Nga của anh
em nhà Karamazov, cứ vài ba phút người ta
lại đấm ngực khóc rống lên và quỳ xuống
hôn chân Chúa xin tha tội, để ngay sau đó
với vodka trong máu và lời cầu nguyện trên
môi cho nhau một nhát rìu vào sọ. Trong
nước Việt của anh em nhà họ Dương, với một quốc giáo
vô thần và một Đấng Toàn năng là Đảng
Cộng sản, người ta cũng hành xử không khác. “Nguyên
lí Karamazov”, được đặt vào miệng kẻ vô thần Smerdyakov,
phát biểu rằng mọi thứ đều được phép, rằng cái
Ác là chính danh, nếu Thượng đế không tồn tại,
hay nói cách khác: Thượng đế phải tồn tại để cái
Thiện lên ngôi. Song sự hiện hữu không thể phủ nhận
của Đấng Toàn năng ở Việt Nam đã phủ nhận nguyên
lí đó. Lật ngược lại nguyên lí Karamazov,
câu chuyện của anh em nhà họ Dương trong hiện thực Việt
Nam hôm nay hoàn toàn có cơ hội vươn lên
tầm hư cấu của nhà văn Nga vĩ đại hơn 130 năm trước.
©
2014 pro&contra
Tấn
bi kịch Nga chỉ mượn cốt truyện hình sự. Câu
chuyện Việt tự kiềm chế trong khuôn khổ một vụ án
hình sự đơn thuần. Nó không cần đến người em
thứ ba, Alexey, nhân vật thánh thiện, để rọi ánh
sáng vào mạch chuyện. Truyền thông Việt Nam,
lắc lư ngoạn mục bằng một chân chính thống, một chân
lá cải và chiếc đuôi tự do liên tục bị cắt và
liên tục tìm cách mọc lại, đảm nhiệm vai dẫn chuyện.
Cũng không cần đến Smerdyakov, người em vô thừa nhận, kẻ
cùng quẫn tăm tối, dùng tốt cho việc thừa hành những
tội ác trong tâm tưởng người khác. Những Smerdyakov
trong xã hội Việt Nam nhiều và đương nhiên đến
mức chúng ta không nhìn ra nữa.
SCN
Nhận
xét "Alexey, nhân vật thánh thiện,
để rọi ánh sáng vào mạch chuyện", theo
Gấu, không đúng. Và vì thế, những cắt nghĩa
sau đó, về xã hội Bắc Kít hiện nay, không
tới, và còn có vẻ hơi bị nhảm. SCN nhiều khi
cường điệu, trong khi phán phiếc như thế này. Cũng
ưa nổ như ông em [thí dụ thì nhiều lắm, nào
ngửi khói hàng xóm đủ no, nào, rũ hết bụi
tôi cũng không làm quen... ]. Giải thích của
Natalie Sarraute, thú hơn nhiều, về hai tuyến nhân vật,
1, sinh ra là cứ thế vô tư đi theo con đường thánh
thiện, tới với Chúa, còn 1, chọn con đường lầy lội.
GCC
đã đi 1 đường về vụ này, khi đọc “Hồi
Ký Viết Dưới Hầm”, bản dịch của Thạch Chương.
Hồi Ký Viết Dưới Hầm
Cái
“ý thức sáng suốt là một bệnh hoạn”,
cái “ý thức khốn khổ” của tác giả Hồi
Ký, của Dos sau này đã đè nặng lên toàn
thể khí hậu văn chương, triết học Âu châu,
nhất là ở những tác giả thuộc chu kỳ hiện sinh như Sartre,
Camus. Chúng ta có thể thấy rõ ràng, cuốn
tiểu thuyết La Chute, Sa đọa, đang được dịch trên Văn, của
Camus, như một cuốn Hồi Ký được viết lại bằng giọng văn của
thế kỷ hai mươi, và gã Clémence, nhân vật chính
trong La Chute, trốn chui trốn nhũi đến một góc tận cùng
trái đất, rồi cứ thế mà tự sỉ vả mình, sỉ vả thế
giới, chỉ là hậu thân của tác giả thiên Hồi
Ký viết dưới hầm. Hơn nữa, cái tâm trạng tôi là
một người riêng biệt, còn họ là “tất cả mọi người”,
của gã đã trở nên một cas chung, một phénomène
cho tất cả những nhân vật trong những cuốn tiểu thuyết thuộc
loại lớn, những tác phẩm đặt nặng vấn đề ý thức hệ, thời
đại tính, ý thức, thời đại, lịch sử…. G. Lukacs gọi đó
là những “héros poblématiques”, theo nghĩa, những
nhân vật này bị đẩy đến những cảnh ngộ khốn khổ, bị du vào
cái thế “trên đe dưới búa” (chữ của ông Vũ Khắc
Khoan trong “Thần Tháp Rùa”]…
Portrait Beckett
HOW BECKETT DID
IT
Không bao giờ, chớ khi
nào thỏa hiệp, cấm cái trò ông
mất “củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần Estragon
tụt dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”.
Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại,
bởi những nghệ sĩ, diễn viên mà tro than [Lò
Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những cuốn
tiểu thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy.
Cả kịch lẫn tiểu thuyết của Beckett đòi sự chú tâm,
xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ dày,
cho sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng
ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố chấp,
“thua, thua nữa, thua cho bảnh!”
Một ông như thế, mà
quàng với… Thần Tháp Rùa, mơ chuyện
mặc áo gấm nhảy xuống sông thi bơi, như Thầy Nguyễn
Tuân của Mít, mà coi... được
ư?
Cứ mỗi lần Thầy Phúc viết
về 1 đấng Mít, là ông kiếm ra 1 đấng mũi
lõ, cho đứng kế.
Mấy dòng thơ con kóc,
cái tên thi sĩ đã nhảm rồi, mặt dày,
không có tí cả thẹn, khiêm tốn, coi là.... “tứ trụ”, vậy mà còn được Thầy
Phúc hò theo, đúng rồi, tứ trụ, nhưng dư 1
trụ!
Thầy giải thích, thì
cũng lại quàng với 1 cái gì rất thần
sầu của người: Ba trụ Zen!
Cũng đi 1 đường tiểu chú,
chẳng thua gì bạn của Thầy là Thầy Kuốc: "The
Three Pillars of Zen” – Philip Kapleau
Có điều, Thầy "quơn",
không giải thích, trụ dư là trụ nào.
Chắc là trụ.... giữa!
Dư trụ này, thì...
bỏ mẹ!
Hơn cả Thầy Kuốc, Thầy còn
kèm thêm 1 đường cải lương, sặc mùi
nước... mắt:
“Đúng. Phải bốc một đám
mây trắng kia lau lại lòng mình cho sáng lại
trời xanh thì mới mong thở hít được hương thơm của trời
đất.”
Ui chao, lại nhớ 1 vị độc giả
trong nước, nhỏ nhẹ khuyên Gấu, ông đừng có
mục hạ vô nhân như thế, khi coi thường thơ của
thiên tài NTHL:
Biết đâu đấy, nhờ vậy, cõi
thơ Mít bớt thúi đi.
Bởi vì rõ ràng
là NTHL không còn như xưa nữa!
Hà, hà!
Mặc dù chẳng ai thèm
in, bao nhiêu nhà xb chê, khi đến Minuit,
tay chủ đọc, mừng quá, được in cái này,
thì mới đúng là nhà xb thực thụ. Điều này
cho thấy, không phải ai cũng đọc được, hiểu được Beckett.
Ở Việt Nam, đệ tử của Beckett còn là đệ tử của Proust,
của Butor, nhưng ông này, thực sự cũng đồ dởm, cái
dởm này, là do cái đầu quá tệ. Ông
là bạn quí của Gấu, về phần Gấu mà nói,
như đã tường trình nhiều lần rồi. Cả băng đảng này,
trong có ông cũng chẳng có tay nào ra hồn.
Mới đây thôi, nhân kỷ niệm Proust, ông ta có
múa may vài đường về sư phụ của mình, đọc như kít,
đúng là thế.
Do cái đầu, và, còn
do không biết viết, cái dạng viết, có tên
là phê bình.
Cõi văn Mít đang
lâm đại họa, là do không có
ai viết được điểm sách, phê bình, theo đúng
nghĩa của nó.
Bất cứ 1 bài điểm sách,
hay phê bình, theo Gấu, phải có cái mở và
cái đóng.
Mở, là nối nó được
với cổ điển, truyền thống, và thường là bằng
1 hình ảnh trích dẫn, như là cái mồi,
để dụ người đọc, đọc mình, và sau đó, đọc
cuốn sách/tác giả mà mình điểm/nhắc tới.
Đóng mới ghê: mở
ra tương lai của cây viết mới, và có
thể tương lai của cõi văn Mít, bắt đầu bằng “bây
giờ, bây giờ, bây giờ”.
Đây là ý của
Tomas Transtromer, trong bài thơ mà Gấu "mượn
hoa tiến Phật", để chào mừng năm mới, 2014:
DECEMBER EVENING 1972
Here I come, the invisible man,
perhaps employed
by a Great Memory to live right
now. And I am driving past
the locked-up white church-a
wooden saint is standing in there
smiling, helpless, as if they had
taken away his glasses.
He is alone. Everything else
is now, now, now. The
law
of gravity pressing us
against our work by day and against
our beds by night. The war.
Tomas Transtromer: Selected
Poems, ed by Robert Hass
Đâu phải chuyện đùa,
"đồ chơi", "cho xin cái xịp đi".... mà áo
thụng vái nhau!
Ba trụ, rồi bốn trụ!
Đầu năm khai bút hung
hăng quá, chắc là năm nay.... đi!
Note: Cái em họa mi xứ
Huế, cùng tuổi Gấu, hà, hà!
Theo truyền thuyết giang hồ,
MT đã từng mê tít em này, và
đã từng áo thụng tới nhà, xin ba mẹ của
em, cho phép xin bàn tay của em.
Nghe nói, hai đấng sinh
thành của em chê, đũa mốc như mi mà cũng
đòi mâm son ư?
Thứ mi chỉ lấy được ca ve thôi!
Chàng đau quá,
về, để lại cho đời, “Ôm đàn đến giữa đời”!
Cũng quá tuyệt, phải không?
Lần gặp đầu
Jérôme Lindon
Một bữa, năm 1950, một
người bạn, Robert Carlier, biểu tôi, ông phải đọc bản thảo
của tay này, một gã Ái nhĩ lan, viết văn bằng tiếng
Tây. Hắn tên là Samuel Beckett. Sáu nhà
xb đã từ chối. Tôi lúc đó trông coi Nhà xb Nửa Đêm được hai niên.
Vài tuần sau, nhà xb nhận được ba bản thảo:
Molloy, Malone meurt,
L’Innommable, với cái tên tác giả lạ
hoắc nhưng bề ngoài quen thuộc.
Chính là từ ngày
đó mà tôi biết tôi sẽ là nhà
xb, thứ thiệt. C’est
de ce jour que j’ai su que serai peut-être un éditeur, je
veux dire un vrai éditeur.
Ngay dòng đầu – “Tôi ở trong căn phòng của mẹ
tôi. Tôi bây giờ sống ở trong căn phòng
này. Tôi cũng không biết như thế nào tôi
lại sống ở trong căn phòng này” – ngay dòng
đầu, cái đẹp rã rời, nát tan, la beauté
écrasante, của bản văn đã hớp hồn tôi. Tôi
đọc Molloy trong
mấy tiếng đồng hồ, như chưa từng đọc 1 cuốn sách….
Một bản thảo chưa từng được in ra, không phải chỉ chưa
được in ra mà là bị nhiều nhà xb từ chối. Tôi
không làm sao tin nổi.
Đũa mốc & mâm son ở
đây, thì cũng giống như đài gương &
dấu bèo, là những tiếng của dân Bắc, để
chỉ hai cái đó đó. Lần Gấu trở về Đất Bắc, nghe mấy
người bà con kể lại, chúng là những tiếng
bà nội của Gấu dùng, để chửi một anh nhà nghèo,
mê cô con gái của bà, tức bà cô
của Gấu.
“Tiền ít mà cũng
muốn hít đồ thơm”….
Cái anh nhà nghèo,
sau cũng lấy được bà cô của Gấu, hành hạ tới
chỉ, và trả lời, “mất tiền mua mâm, thì đâm
cho thủng”!
Old dogs have more dignity
Comfort them since you pity them
Beckett: Waiting for Godot (1)
Giả như sau 30 Tháng Tư
1975, chúng ta có cái nhà Mít
đàng hoàng, thì không thể nào có
những tác phẩm như Ba Người Khác của Tô
Hoài, Đi tìm cái
tôi đã mất của Nguyễn Khải,
Hồi ký Nguyễn Đăng
Mạnh, Hồi ký
Tô Hải…
Chính nỗi thất vọng sau
1975, về đất nước, khiến những tác giả đó phải
nhìn lại đời của họ, và đều nhận ra một điều, họ đều
đã phải chịu nhục, chịu khổ, chịu hèn.. với một điều
kiện: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước cùng
xúm nhau lại xây cái nhà Mít.
Old dogs have more dignity, chó
già giữ giá, có nhiều phẩm giá.. là theo nghĩa đó.
Chính cái sự thú
nhận tôi là thằng hèn, là "dignity" của
họ!
Thành thử chúng ta
không thể có một thái độ nào khác,
mà là:
Comfort them, since you pity
them.
[Trong them, có us. NQT]
(1) Mấy câu trên,
là từ nhật ký của Gấu, những ngày
ở trại tị nạn Thái Lan, 1989-1994.
Mấy câu trong nhật ký
những ngày đầu đến Xứ Lạnh, liên quan tới dignity:
The ideal death takes place amid
loved ones
The greatest dignity to be found
in death is the dignity of the life that preceded it
Hope resides in the meaning of
what our lives have been.
Ba câu trên đều nói
về cái nhà Mít sau chiến tranh:
Cái chết lý tưởng
là chết giữa những người thân thương.
Phẩm giá lớn lao nhất kiếm
thấy được ở trong cái chết là phẩm giá
cuộc đời trước khi cái chết xẩy ra.
Hy vọng thì nằm ở trong
ý nghĩa cuộc sống của chúng ta.
*
Quái thật, không lẽ
lúc nào Gấu cũng bị cuộc chiến nó hành,
chỉ trừ những lúc nghĩ đến một BHD, hay một cô
bạn, hay một cô học trò?
To have seen nothing or almost
nothing except the face of a girl from Buenos Aires, a
face that doesn't want you to remember.
Borges: Labyrinths Epilogue
Chẳng thèm nhìn ai,
ngoại trừ khuôn mặt BHD, và cô nói, ta
cấm mi không được nhớ tới ta.
*
V/v trong "them" có "us".
Cái phẩm giá mà
Miền Nam có được, là khi đi tù VC, đi tù
cải tạo!
Cái phẩm giá mà
VC có được, là ở trong những hồi ký, những
tự vấn, như của Tô Hải.
Có người đặt vấn đề, tại
sao cuối đời, họ mới dám nói ra? Tại sao Víp
Va Ka hấp hối mới dám xì ra "một triệu người vui
nhưng cũng có một triệu người buồn"? Tại sao "Thượng đế
thì cười" với Nguyễn Khải, khi ông sắp sửa đi, tại
sao bánh vẽ Chế Lan Viên....?
Ấy là vì cái
chiến thắng đỉnh cao tuyệt vời quá. Không dễ gì
mà thoát ra khỏi cái bóng của nó
đổ xuống cả nửa hậu thế kỷ!
Và còn kéo
dài qua tân thế kỷ!
Đúng như Trần Văn Toàn
phán, về Hegel: Cái bóng của Hegel phủ
kín Marx, và còn kéo dài ra
mãi!
Chúng ta sở dĩ để mất Miền
Nam vì nghĩ lầm, tưởng bở, anh Yankee mũi tẹt tốt
hơn anh mũi lõ, một nưóc Mít thống nhất hơn
hai nửa nước Mít, thành thử để cái bóng
của Marx phủ quá xuống cả Đàng Trong!
Nguyễn Huy Thiệp vs Kurtz
Những Con Quỉ Nổi Tiếng
Liệu có thể coi NHT, một
hình tượng nổi tiếng, một Kurtz, của Conrad, trong "Trái
Tim của Bóng Đen"?
Bài viết này, trên
số báo đặc biệt về sự độc ác, Le Magazine Littéraire,
Tháng Bẩy & Tám 2009, làm nhớ tới một lời
tự thú của một nhà văn ra đi từ Miền Bắc: Tôi
lụy NHT!
Câu nói đó,
phải đọc Trái Tim của Bóng
Đen thì mới ngộ ra được: Tôi luỵ Cái
Ác Bắc Kít, mà nhân vật của NHT làm
bật ra.
Liệu có thể gọi những
truyện ngắn của NHT, như là bài tập về cái
ác, l'exercice du mal?
Kurtz trong Trái Tim của Bóng Đen là
một hình tượng về cái ác trong văn
chương. Anh thì quá nổi tiếng, nhưng cũng gây
phiền. Nguyên do của nỗi phiền muộn này rõ ràng
là sự lấp lửng của hai cách nhìn, qua đó,
anh lần lượt xuất hiện, khi thì là hiện thân của
cái ác tuyệt đối, một vết chàm biểu tượng, từ
đó bật ra cái tít cuốn truyện, khi thì
là một cá nhân con người vượt lên trên
cả tốt lẫn xấu, thiện lẫn ác.
Nhân viên của một
công ty thương mại thuộc địa ở mãi nơi thượng
nguồn con sông Congo, anh thu thập ngà voi cho
công ty giữa đám thổ dân và tỏ ra hết sức cần
mẫn, rất ư là hiệu quả.
Người kể chuyện của cuốn truyện
phải lái một con thuyền đi tìm gặp Kurtz
này, vì đã lâu, biệt tin từ anh
ta, và nghe nói, anh ta đang bịnh nặng.
Hai tính chất ở ngay trung
tâm nghiên cứu chữa trị lâm sàng,
dành cho những vấn đề đạo đức trong tất cả những tác
phẩm của Conrad, ùa ra cùng với sự xuất hiện của Kurtz,
cùng với chúng là những phẩm chất bẩm sinh,
do là dân Bắc Kít thì là có,
qua những biểu hiện thật là quái đản của anh ta.
Thứ nhất: thiếu vắng kiềm chế.
Kurtz có những giấc mộng về vinh quang, về Hà
Nội ta ngẩng đầu hiên ngang ba ngàn năm lịch
sử, và về sở hữu toàn thể, cái gì của ai
là của ta. Những giấc mộng như thế thật dễ dàng biến
thành thực tại một khi một mình giữa rừng thẳm.
Thứ nhì: một sự trống
rỗng ở phía bên trong: Kurtz thì rỗng,
rỗng một cách thê thảm [hollow at the core,
ui chao, cụm từ này sử dụng để chỉ cái sự ngu si dốt
nát nhưng coi trời bằng vung của những đấng Yankee mũi tẹt
thì thật tuyệt!].
Rỗng đến nỗi, cái thiên
nhiên man rợ vây bủa chung quanh anh ta bèn
chiếm lấy anh ta một cách dễ dàng, đúng
vào lúc anh ta tưởng là làm chủ được nó,
tất cả thuộc về anh ta.
Nói tóm gọn anh
ta không thể tự ngăn cấm mình, giới hạn mình,
và cũng không thể tự chống đỡ, bảo vệ mình.
Note: Bài viết này,
tình cờ lướt TV, mò ra. Quên chưa dịch!
Trái Tim
của Bóng Đen, sau cùng
là... Hà Nội, qua NHT!
Gấu đã ngộ
ra điều này, khi đọc Conrad, nhưng bài viết chỉ ra một điều
tuyệt vời:
Phải là
Conrad, một anh thuỷ thủ, người của biển cả, mới nhìn
ra một cõi thối rữa, là đất liền, là
những đại lục, nhất là Cựu Đại Lục!
« Les affaires terrestres
sont un pot-pourri d'événements, de désirs
contradictoires, de motifs inavouables, d'idées fausses,
et de croyances illusoires. La mer représente un domaine
réglé par des devoirs simples, une hiérarchie
de valeurs clairement définies, la camaraderie et le goût
du travail bien fait.” »
*
«L'horreur! l'horreur! »
Ghê rợn! Ghê rợn!
Ta là hiện thân của
Cái Ác Bắc Kít!
Ta là... Kít!
Cái ý
trên, trong bài viết, còn chỉ ra sự
khác biệt giữa Sài Gòn - một bến cảng - và
Hà Nội, và cái sự kiện, Bắc Kít đổ
xô vô Miền Nam, không chỉ để ăn cướp, mà
còn để... sống sót Cái Ác Bắc Kít nữa!
Đi tìm phê bình gia Mít
Có 1 cái gì
cực kỳ quái đản ở băng đảng NM này. Lần cả băng kéo
xuống ra mắt sách, Gấu đang làm thiện nguyện cho Hội Người
Việt, lại vừa đậu cái bằng [licence] bán bảo hiểm nhân
thọ, và có ý “bye bye” mớ chữ, lo kiếm tiền phụ Gấu
Cái lo cho mấy đứa nhỏ còn kẹt ở Lào. Thành
ra khi cái tay dược sĩ trong băng NM, gặp, nhờ làm MC ra mắt
sách, Gấu nhận lời liền.
Suốt cuộc ra mắt, kể từ khi cả
nhóm kéo xuống, không 1 tên nào gặp Gấu cả.
Thì cũng được đi.
Ra mắt sách tại một nhà
hàng. Trong căn phòng lớn vốn được sử dụng
cho những lễ lạc đại khái như thế, của nhiều hội đoàn.
Phòng ăn tách hẳn ra. Cả đám bèn mướn
phòng ăn, cho cả đám, ngồi ăn nhậu, nghe bên
ngoài Gấu múa may trước thính giả, cho đến
lúc bế mạc, không một tay nào ló mặt, trước cũng
như sau, để cám ơn Gấu, cũng như khán thính giả,
cũng như những người đứng ra tổ chức.
Sau đó, để trả ơn, chúng
mời Gấu đi dự 1 tiệc nhậu. Gấu đi, chỉ vì 1 thi
sĩ trong băng, nghe nói là bạn của CTC.
Gặp, chỉ để hỏi về CTC.
Sau này, anh giới thiệu
Gấu viết cho tờ SV, là vậy.
Lần NDN mất, cả băng Gấu kéo
lên Montreal, tá túc nhà thi sĩ.
Chỉ tới lúc ở tiệm ăn,
TC, người có sách được giới thiệu mới lên
tiếng, không phải để cám ơn, mà hỏi xin
bài của Gấu, để làm kỷ niệm.
Cũng thế, là vụ “mấy lời”.
Khi kết thúc 1 cái còm, nhắm Gấu, trên
1 diễn đàn có nhiều người đọc, thì tên
thi sĩ này ngu đến nỗi, hắn “mấy lời”, đâu chỉ để phủ dụ
Gấu, mà còn “phủ dụ” tất cả những độc giả của diễn
đàn.
Không phải là “vô
học” ư?
NQT
Cái vụ Cũng Cần Có
Nhau, Phóng Bút Phóng Biếc này
cũng thật nhảm. Bao nhiêu năm rồi, đám khốn này
vẫn không hiểu ra là cả 1 lũ bị VC xỏ mũi, lợi dụng
diễn đàn, quảng cáo cho Mặt Trận Giải Phóng,
thứ "đồ chơi" do đám Bắc Bộ Phủ phịa ra dụ khị đám
nằm vùng.
Viết, cần phải viết, nhưng bằng
1 cái nhìn chín chắn, cộng nỗi đau của
bao nhiêu con người Miền Nam.
Đâu phải chuyện "phóng
bút"?
Vả chăng, cỡ thi sĩ dởm, thì
cũng chỉ đẻ ra 1 thứ phóng bút. Cũng cần
có nhau cái con mẹ gì, chứng cớ là
vụ bức hình GCC & NVT.
NQT
Có 1 kỷ niệm thực là
thú vị liên quan tới vụ ra mắt sách, và bài
viết của Gấu, thổi “Về Biển Đông”, ký, viết về vụ ông
y sĩ có thời là y sĩ tiền tuyến, tác giả cuốn "Y
Sĩ Tiền Tuyến", đã từng được giải thưởng Nobel của
Diệm, về vụ ông đóng cửa phòng khám
bịnh, để tham dự công cuộc cứu người vượt biển. Trong số khán
thính giả, có giáo sư ĐKH. Ông là
bạn của ông anh của Gấu, là Hiếu Chân. Không
hiểu sao, ông cũng ghé, và sau đó, tới
bắt tay Gấu, khen um lên, bài viết, và nói....
thực, tôi đã tính không đi!
Sau thì quen, có
thăm viếng đôi lần. Ông kể, khi mới qua, làm nghề
dậy lái xe.
Thì cũng như Gấu, tính
làm nghề bán bảo hiểm.
Cũng đã lâu, có
1 nhà xb trong nước mail cho Gấu, hỏi thăm về ông,
và xin địa chỉ.
Sách của ông, như
Gấu biết, đa số, sách dịch, được tái bản khá
nhiều ở trong nước.
Sự thực, cái vụ "mấy lời",
với 1 diễn đàn văn học nhà nghề, tòa soạn
lập tức đục bỏ cụm từ khiếm nhã này, vì chính
họ cũng cảm thấy nhột, khoan nói tới độc giả. Trừ trường hợp một em già
đời, cực độc như Sến Cô Nương, khi cho đi 1 cái
tít như "Có mấy NQT?"
Gấu quá già đời -
hơn cả Sến, tất nhiên, vì sắp
ngỏm rồi - nơi chốn giang hồ gió tanh mưa máu, làm
sao mà có thể bực mình vì 1 tên thi
sĩ dởm.
Đó là sự thực.
Khi còn trẻ hung
hăng con bọ xít, Gấu viết phê bình, điểm
sách, thi sĩ NS lúc
đó mà không ghê sao, giáo sư, du học
từ bên Tây về, bằng cấp đầy mình, Gấu đi
1 đuờng, nhà văn dễ dãi, sung sướng, biết khỉ gì
về nỗi đau của Mít, đến chết ông vẫn còn đau, vì
đúng quá. Cú viết, cú điểm nào
cũng gây họa vào mình, gây họa luôn cả
cho gia đình, khi ra được hải ngoại, Gấu đã tự hứa,
sẽ chẳng bao giờ vướng vô cái nghiệp khốn kiếp đó
nữa, chỗ nào, nơi nào cũng viết, biết đâu làm
được điều ngược lại, nối cả 1 cõi văn Mít hải ngoại thành
1 mối, vá được cái bản đồ xứ Mít rách bươm…
vậy mà đâu có làm được, cuối cùng lại
phải cầm lại cái nick tên sa đích văn nghệ.
Một tên thi sĩ cả 1 đời không
làm được 1 nửa câu thơ đúng là thơ,
không lẽ làm Gấu bực mình được ư?
Đi tìm phê bình gia Mít
Mấy vị thân hữu của TV,
bực Gấu sao hay vướng vào chuyện tào lao, dọn diệc, là..
không đúng.
Gấu đâu có chi thù
hằn, ngay cả Thầy Kuốc.
Nhưng phi Gấu ra, ai dám
vô…. Địa Ngục!
****
Lúc còn cộng tác
với tờ Thư Quán Bản Thảo,
kẻ này có gợi ý cùng nhà
văn Trần Hoài Thư về việc thực hiện một số kỷ niệm với bài
vở của những cây bút đã từng cộng tác
với tờ Văn, hiện đang sinh
sống tại nước ngoài. Tiếc thay, sự việc này chưa được thực
hiện như lòng mong muốn. Giờ đây, nhân đoạn viết
này, với trí nhớ cùn nhụt (mà chắc đã
thập phần tồi tệ), thử ghi lại danh tính của những người có
bài vở đăng trên Văn trước kia, nay vẫn còn tiếp tục
sáng tác ở hải ngoại. Xin chư quân vui lòng
bổ sung (nếu thiếu tên) và đính chính (nếu ghi
nhầm). Mong thay!
Danh sách những cây
bút một thời của tờ Văn,
nay đã vào hàng ôn mệ mà vẫn còn
múa . . . bút khắp nơi gồm:
- Ở Pháp có Trần
Thiện Đạo, Trần Công Sung, Kiệt Tấn, Đặng Tiến . . .
- Ở Úc có Phạm Công
Thiện, Phan Việt Thủy . . .
- Ở Canada có Lâm
Hảo Dũng, Đỗ Khánh Hoan, Luân Hoán, Hoàng
Xuân Sơn . . .
- Ở Hoa Kỳ đông đảo nhất,
có Nhã Ca, Lâm Chương, Đinh Cường,
Hoài Ziang Duy, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Bạch Dương (đã
khuất), Trùng Dương, Nghiêu Đề (đã khuất), Lê
Tất Điều, Nguyễn Tịnh Đông (Trần Bang Thạch), Nguyễn Mộng
Giác, Thái Tú Hạp, Nguyễn Xuân Hoàng,
Hoàng Ngọc Biên, Túy Hồng, Khê Kinh Kha,
Nguyễn Chí Kham, Du Tử Lê, Trần Vấn Lệ, Hoàng Ngọc
Liên, Viên Linh, Bình Nguyên Lộc (đã
khuất), Hoàng Lộc, Đào Mộng Nam, Thanh Nam (đã
khuất), Nguyễn Văn Ngọc, Hoàng Ngọc Nguyên, Trần Doãn
Nho, Nguyễn Minh Nữu, Võ Phiến, Hải Phương, Nguyễn Quỳnh, Nguyên
Sa (đã khuất), Hà Thúc Sinh, Doãn Quốc Sỹ, Mai
Thảo (đã khuất), Lê Văn Thiện (Văn Lệ Thiên), Trần
Hoài Thư, Trần Mộng Tú (?), Hoàng Anh Tuấn (đã
khuất), Thanh Tâm Tuyền (đã khuất), Nguyễn Tuyển, Trần Dạ
Từ, Huỳnh Hữu Ủy, Ngô Thế Vinh, Kinh Dương Vương, Nguyễn Vũ Đan
Vy (Đặng Tường Vy – đã khuất), Nguyễn Lương Vỵ, Phạm Ngũ Yên...
Xin nhắc lại: ai sót tên,
thừa tên, vui lòng ới cho một tiếng.
Hoàng Xuân Sơn Blog
NXH & Bạn hữu VOA
Note:
Thiếu thằng Gấu, người đã
từng làm MC ra mắt sách của Hoàng
Xuân Sơn! (1)
Hắn nhấp nháy con mắt
[lé] nhiều hơn, và mang thêm biệt
danh Chuột Nhũi
Nhưng cô thư ký mới
vào nghề khâm phục hắn, và luôn gọi
hắn là "Gấu Cưng" của tôi.
Call For The Dead
Thư độc giả [nhân
đọc bài viết về Võ Phiến, trên báo
Văn Học,1998].
......
Trước khi đọc NQT, vẫn có
những bài phê bình sắc sảo tài hoa.
Nhưng vẫn theo thể thức chết: Đặt vấn đề và giải quyết
vấn đề (một cách áp đặt). Phê bình
(thật) đòi hỏi cung cấp một cách giải quyết vấn đề,
nghĩa là phải có thông tin. Theo V: hình như giờ chỉ có
một NQT thực sự nắm được thời sự văn nghệ thế giới. N
thì đặc biệt yếu kém khoản đó do ngoại
ngữ kém. (Không biết tiếng Anh). Do vậy cảm giác
như chú Trụ rất trẻ. Như chỉ hơn VN mấy tuổi.
Một tác
phẩm hay là một tác phẩm gợi được một cảm
giác 'đẹp' cho người đọc. Người ta có thể quên
tất cả câu chuyện, nhưng nhớ một cảm giác. Và cái
đó sẽ đưa người ta tìm về với tác phẩm trong
những tâm trạng nhất định, không phải một lần.
Thế một tác
phẩm lớn? Không phải là một tác phẩm
mà trong nó lịch sử được mô phỏng theo một
tỷ lệ nào đó, dù đậm đặc. Nó phải soi sáng
được tinh thần lịch sử, không phải của một giai đoạn,
không dừng ở những biến cố, mà là, phải là
những chuyển dịch sẽ sàng nhất của hồn người (phi thời gian
và không gian, đôi khi)
Lấy lịch sử soi
vào một tác phẩm là một thao tác
cần thiết. Nhưng lấy một tác phẩm soi vào lịch
sử mới quan trọng. Nhưng như thế là đòi hỏi rất nhiều
ở người viết tác phẩm và người viết về tác phẩm.
Một lần nào đó chú
đã nói rằng văn phải được chở bằng thơ. N cũng
nghĩ thế. Những tác phẩm lý sự sắc sảo và quá
bám vào hiện thực đang diễn ra thường hấp dẫn người
đọc kinh khủng vào lúc đó, nhưng khi hiện thực
đã là 'khác' và khi sự tò mò
của người đọc về những ám chỉ, hoặc cao qúy hơn: nhu cầu
phát huy trí thông minh cùng tác giả
của họ được thỏa mãn thì tác phẩm sẽ bị để lên
giá.
Cấu trúc
bài viết vừa rồi của chú dù chia
phần rõ vẫn rất lạ. Lúc đầu N tưởng bị lẫn đoạn.
Đó là cấu trúc của thơ. Trong đó có
những suy diễn rất thích.
N rất thú vị vì chú
thích truyện ngắn của Võ Phiến. Nhìn thì
thấy ngay tùy tạp của họ Võ không giống ai.
Nhưng 'khác', trong một dòng chảy chung, thì
đúng là truyện ngắn. Hồi đầu đọc N nể quá.
Chú chỉ
ra tính chất văn chương miền Nam và miền
Bắc hay quá.
V bảo chú Trụ dịch và
viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả
trong một thể loại đầy tính cãi cọ. Có lẽ văn
chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm tri kỷ,
phải dạy người ta một diều gì đó nhưng không
dạy đời.
Hàng tháng
N đều đọc chú cho thằng cu nghe. Cả tưởng niệm
O. Paz làm V buồn cười. Hôm qua đọc được một nửa
thì cháu ông trẻ ngủ. Như vẫn thường khi nghe đọc thơ.
Kính.
10.10.98
Bài thơ Chiều
Tháng Chạp, 1972 của Tomas Transtromer làm
Gấu nhớ đến câu văn, mở ra cõi văn của Gấu:
Vào mỗi thời đại, con người
nhận ra mình khi đối diện với tha nhân, tình
yêu, và cái chết.
À chaque époque l'homme
se choisit en face d'autrui, de l'amour et de la mort.
Sartre, Situations.
He is alone.
Everything else is now, now, now.
Và, cùng với cái
thư của độc giả TV, trên, nó giải thích
tại làm sao, 1 độc giả TV,
mỗi ngày, vô thăm trang TV, 4 lần:
Chính cái “bây
giờ” [hình như giờ
chỉ có một NQT thực sự nắm được thời sự văn nghệ
thế giới] “vào mỗi thời đại”, “Hồi Ức Lớn”… khiến họ
không muốn vắng mặt.
Nhưng trên hết, hơn hết,
nó giải thích, phê bình Mít ở hải ngoại,
đếch có.
Rõ ràng là,
không có 1 diễn đàn hải ngoại nào có
tí mùi phê bình, có mùi “bây
giờ” ["thời sự văn học" đưa đến "vào mỗi thời đại con người nhìn
ra mình”, có "cái kẻ", được Hồi Ức Lớn mướn làm
kẻ làm công cho nó [employed]!
Có thể nói, NM
là tờ báo đầu tiên Gấu cộng tác,
khi ra được hải ngoại, mà do là NTV đề nghị. Anh
kéo Gấu tới bữa ăn tối của nhóm này, khi từ Montreal
xuống, thăm 1 người bạn ở Toronto, dù Gấu không
được mời, vì nghe anh nói cũng có lý, đâu
cần phải mời mới tới!
Lo "Nghĩa Cả", để ý chi
tới ba chuyện lẻ tẻ.
Ngay bữa đầu tiên đó,
là Gấu hỏi thẳng, có phải NM là do nhóm
Khiến Chán chi tiền. Chi tiết này, NTV xì ra
cho Gấu, và vì lý do - "nghĩa cả" - đó,
Gấu mặt dầy tới bữa nhậu, dù không được mời, và
cũng chẳng tên nào trong đám, biết tới Gấu trước
1975.
Gấu nhớ là LN, một tay
trong nhóm, xác nhận, đúng như thế.
Gấu thấy anh thẳng thắn, bèn
cộng tác. Bài điểm sách đầu tiên,
viết về “Nỗi Buồn Chiến Tranh”, đi trên NM, cùng
với 1 bài thơ. Vụ làm MC ra mắt sách là cũng
vì cái tình đó. Nhưng sau bữa ra
mắt sách, thấy thái độ của đám này nhảm
quá, đếch chơi nữa.
Có 1 cái gì
đó cực kỳ quái đản ở băng đảng NM này.
Lần cả băng kéo xuống ra mắt sách, Gấu đang làm
thiện nguyện cho Hội Người Việt, lại vừa đậu cái bằng [licence]
bán bảo hiểm nhân thọ, và có ý
“bye bye” mớ chữ, lo kiếm tiền phụ Gấu Cái lo cho mấy
đứa nhỏ còn kẹt ở Lào. Thành ra khi cái
tay dược sĩ trong băng NM, gặp, nhờ làm MC ra mắt sách,
Gấu nhận lời liền.
Suốt cuộc ra mắt, kể từ khi cả
nhóm kéo xuống, không 1 tên nào gặp Gấu cả.
Thì cũng được đi.
Ra mắt sách tại một nhà
hàng. Trong căn phòng lớn vốn được sử dụng
cho những lễ lạc đại khái như thế, của nhiều hội đoàn.
Phòng ăn tách hẳn ra. Cả đám bèn mướn
phòng ăn, cho cả đám, ngồi ăn nhậu, nghe bên
ngoài Gấu múa may trước thính giả, cho đến
lúc bế mạc, không một tay nào ló mặt, trước cũng
như sau, để cám ơn Gấu, cũng như khán thính giả,
cũng như những người đứng ra tổ chức.
Sau đó, để trả ơn, chúng
mời Gấu đi dự 1 tiệc nhậu. Gấu đi, chỉ vì 1 thi
sĩ trong băng, nghe nói là bạn của CTC.
Gặp, chỉ để hỏi về CTC.
Sau này, anh giới thiệu
Gấu viết cho tờ SV, là vậy.
Lần NDN mất, cả băng Gấu kéo
lên Montreal, tá túc nhà thi sĩ.
Chỉ tới lúc ở tiệm ăn,
TC, người có sách được giới thiệu mới lên
tiếng, không phải để cám ơn, mà hỏi xin
bài của Gấu, để làm kỷ niệm.
Cũng thế, là vụ “mấy lời”.
Khi kết thúc 1 cái còm, nhắm Gấu, trên
1 diễn đàn có nhiều người đọc, thì tên
thi sĩ này ngu đến nỗi, hắn “mấy lời”, đâu chỉ để phủ dụ
Gấu, mà còn “phủ dụ” tất cả những độc giả của diễn
đàn.
Không phải là “vô
học” ư?
NQT
Cái vụ Cũng Cần Có
Nhau, Phóng Bút Phóng Biếc này
cũng thật nhảm. Bao nhiêu năm rồi, đám khốn này
vẫn không hiểu ra là cả 1 lũ bị VC xỏ mũi, lợi dụng
diễn đàn, quảng cáo cho Mặt Trận Giải Phóng,
thứ "đồ chơi" do đám Bắc Bộ Phủ phịa ra dụ khị đám
nằm vùng.
Viết, cần phải viết, nhưng bằng
1 cái nhìn chín chắn, cộng nỗi đau của
bao nhiêu con người Miền Nam.
Đâu phải chuyện "phóng
bút"?
Vả chăng, cỡ thi sĩ dởm, thì
cũng chỉ đẻ ra 1 thứ phóng bút. Cũng cần
có nhau cái con mẹ gì, chứng cớ là
vụ bức hình GCC & NVT.
NQT
Đi tìm phê bình gia Mít
Ngô Vương Toại & NQT
@
Đặng Phú Phong, Tiểu Sài
Gòn, Tháng Tư, 2006.
V/v “Cũng cần có nhau”
& “Quỹ đạo văn nghệ”.
"Cũng cần có nhau", là
từ câu của Trịnh Công Sơn, "ngày sau
sỏi đá cũng cần có nhau". Trong đám sỏi
đá cũng cần có nhau này, của HXS, có ông
NVT, Gấu có quen, và có lần cùng ngồi
với nhau. Và đi vài pô hình.
Thế rồi, 1 bữa, thi sĩ HXS cần
đi đường về hòn sỏi/đá NVT, và cần 1
bức hình, thế là bèn lấy bức có GCC &
NVT, và thiến mẹ hòn sỏi/đá GCC!
Dã
man thật.
*
Thư từ Texas
27 Dec at 12:02 AM
K/G anh Gấu!
Thiệt tình, tui sợ chữ nghĩa
của ông TCS, và của "bạn bè" (hay băng/
đảng của bạn bè ông ta).
Văn nghệ và phe nhóm
ai mà chẳng biết, anh Gấu lảm nhảm, hèn chi
anh Gấu cứ bị đạn bắn hoài!
Chúc anh Gấu bình
an và vẫn viết hoài !
DN
Phúc đáp,
Tks. Chúc Mừng Giáng
Sinh & Năm Mới.
Trang TV mỗi ngày có
chừng 600 visits. Tạo được 1 số ảnh hưởng đối với số cây
viết ở trong nước. Gấu suy ra 1 điều, là ở những cây
viết mới này, bản thân họ, đều có cái
đọc, cái viết thực sự.
Còn ở hải ngoại thì
vô phương. Đầu óc của đám này hư mẹ
hết rồi! Nhưng Gấu viết thì cứ viết.
Viết hoài, như bạn nói.
Tks again. NQT
“Phải bốc một đám
mây trắng kia lau lại lòng mình cho sáng lại trời
xanh thì mới mong thở hít được hương thơm của trời đất.”
BVP mặc áo
thụng vái HXS
“Vưỡn” không
làm sao bỏ được giọng cải lương, hồ quảng, mỗi
lần viết…. phê bình!
Người thi sĩ ấy!
Có sự trộn lẫn của thực
tại với hồi ức, của cuộc đời hằn xé với những mộng
tưởng thanh xuân. Có nắng mưa, gió sóng,
cùng những bụi bặm, náo động của cuộc đời. Nhưng
cũng có, trong những dòng văn chân thật ấy, những
khoảng thinh lặng cần thiết và ấm áp của tình
người.
Kundera đã
từng chửi mấy thằng cha hơi tí là vãi
linh hồn, khi trích dẫn Kafka, cái gì
gì, con tim khô héo luôn ngụy trang bằng thứ
văn phong ướt đẫm nước… mắt!
As you sip your
brand of scotch,
crush a roach, or scratch your
crotch,
as your hand adjusts your tie,
people die.
Brodsky
Trong khi “bốc
một đám mây trắng kia, lau lại lòng
mình", "cũng cần có nhau”, cái con mẹ
gì, thì con người chết.
Trong khi bạn nhâm nhi
ngụm cà phê, dí bẹp dí 1 con gián,
hay, như Cụ Hương,
buồn buồn gãi háng,
dái lăn tăn,
hay mân mê sửa lại
cái cà vạt,
người ta chết.
Ui chao đúng tình
cảnh Gấu, ngày vừa mới qua Xứ Lạnh, tình cờ vớ tờ Thế Kỷ
21, đọc bài của Đạo Cấu, Đạo Véo gì đó, tả
cảnh Ông Số Hai, ngồi ở Vương Quốc bộ lạc Cờ Lăng, nhâm nhi
ly cà phê, phán với đám đệ tử, nhân viên,
nè, các người có biết không, Sài Gòn
có người chết đói, ở ngang hông Chợ Bến Thành!
Trong những thành phố
với những cái tên ngộ nghĩnh
Bị trúng đạn, bị phỏng cháy,
Thường là đếch biết tại
sao
Người ta chết
Ở những nơi chốn nhỏ bạn không
biết về chúng,
Tuy nhiên, lớn, vì
không có một cơ hội để mà kêu la, khóc
thét, hay nói lời giã biệt
Người ta chết
Người ta chết khi bạn bầu lên
một thằng cha lớp một, chăn trâu, làm thủ
tướng,
Hay những tên cha căng chú
kiết, y tá dạo, thí dụ
Chúng rao truyền phải Trung
với Đảng, phải Hiếu với Bác, vân vân và
vân vân…
Người ta chết.
Cái sự lụn bại của phê
bình ở hải ngoại, theo GCC, phần lớn là do mấy Thầy tự
coi là nhà phê bình, nhà này nhà
nọ này, thực sự chưa từng biết phê bình là
cái gì. Họ ra được hải ngoại, nhờ vận hạn lớn của xứ Mít,
rồi được đi học trường mũi lõ, có cái bằng, không
phải để viết phê bình, mà để nhờ nó, kiếm 1 cái
nghề nuôi thân. Chẳng khác gì mấy đấng Miền
Nam, trước 1975, học, để nhờ nó, trốn lính, rồi đậu đạt,
nhờ cái bằng làm giáo sư này nọ, cũng là
để tiếp tục trốn lính.
Chẳng có ông bà
nào thực sự mê viết văn, viết phê bình
cái con khỉ gì hết.
Và nếu họ viết, như họ đã
viết, là do háo danh, sự thực chỉ có vậy.
Mấy bài thơ không
ra thơ, mà nào “bốn trụ”, “ba trụ Zen”, như vậy
là “dư một… trụ”, phán
loạn cào cào như thế, để, vừa “vái đi vái
lại nhau”, vừa kiếm tí danh hão, ta là nhà
phê bình, nhà thơ....
Trong nước, họ thực sự mê
viết, mê đọc.
Khác hẳn đám hải
ngoại.
Đa số, [phải nói, hầu
hết], bịp. NQT
V/v Bịp.
Xin mở 1 cái ngoặc ở đây,
để đi 1 kỷ niệm đọc Roland Barthes. Vào cái
lúc Gấu mới bước vô làng văn, và cũng
bày đặt viết điểm sách, phê bình, đụng độ tứ
lung tung, và, chắc là do ông anh nhà thơ
gợi ý, một bữa đang ngồi Quán Chùa, buổi sáng
sớm, chưa có ma nào hết, thì Mai Thảo ghé,
đề nghị Gấu giữ mục Tạp Ghi cho tờ Vấn Đề.
Gấu thú quá, bèn
nhân đó, giới thiệu những tên mũi lõ Gấu
thực sự mê, vào lúc đó, và chưa
từng được Mít biết đến, tất nhiên, trong có
Barthes.
Ai đã từng đọc Barthes thì
đều nhận ra, ông rất khó đọc, phần lớn là
do từ ngữ ông sử dụng, phần lớn là từ bên kỹ thuật,
thí dụ, mã hoá, giải mã, coder,
décoder, shift, không phải của văn chương, và,
không phải của triết, nhất là thứ triết học truyền
thống, nhà trường, như đám bạn quí của Gấu thường
lải nhải, nào hư vô, nào bản thể học, nào
hiện hữu…
Có thể nói, vào
thời gian đó, chẳng ai đọc Barthes.
Thế rồi, cho đến khi bỏ chạy
được quê hương, qua đến xứ hàng triệu con
voi, trong 1 lần mò đến Quán Đen, vớ được tờ
báo Tẩy của 1 tên Tẩy du lịch, cũng mê thú đi
mây về khói, bỏ lại, Gấu giở ra đọc, và sững
người khi thấy ca Barthes thấu trời!
Gấu lẩm bẩm, trong bao nhiêu
năm trời, bây giờ Barthes vưỡn ăn khách như
thế này ư?
Rồi sau đó, đọc loáng
thoáng Thầy Kuốc, khi thầy xoa đầu ông tiên
chỉ, thấy có nhắc tới Barthes, Gấu bèn nghĩ
thầm, tay này chắc là rành Bathes, và có
thể là tên Mít đầu tiên đọc Barthes
đây!
Phải đến khi qua cái mốc
70, thời gian còn lại là dư thừa, Gấu mới thực
sự đọc Thầy Kuốc, Thầy Phúc, Thầy Đạo, Thầy Quân, Thầy
Thục… Và ngã ngửa 1 phát, nhiều phát,
khi ngộ ra rằng, đếch thằng nào ra hồn, theo cái nghĩa,
thực sự đọc, thực sự viết, thực sự mê văn học, như mê
sống cuộc đời của mình, mà ông Trời cho có
mặt trên cõi đời này, và, may mắn, sống
sót cuộc chiến!
Thầy Kuốc, 1 câu tiếng
Anh không dịch được, mỗi lần viết, là 1 lần
liệt kê, còn quá rừng Tản Viên của
Gấu Cà Chớn, chẳng phải là… bịp ư?
Thầy Phúc, dưng không
lôi “ba trụ Zen” ra, chẳng phải là… bịp ư?
Thường, khi trích dẫn,
là người viết muốn làm sáng tỏ, ý
định của mình, về bài viết. Và như thế, đưa
“ba trụ Zen” ra, là muốn nói, bài thơ “bốn trụ”
có tính thiền cực cao.
Cao hơn cả “ba trụ Zen”, tới… 1 trụ.
Độc giả đọc “bốn trụ” có
thấy tí…. Zen nào
không?
Câu tiếng Anh, Thầy Kuốc
không dịch nổi, nằm trong bài viết của Barthes,
Gấu đã chỉ ra rồi, và vì là của
Barthes, nên bất cứ ai đã từng đọc ông, là bèn
nhận ra cái sự sai sót, vì nó…
chửi bố ông Barthes! Barthes
chủ trương "viết từ không độ", chính vì thế
mà ông được coi như là nhà phê
bình của tiểu thuyết mới, của lối viết trung tính, "viết
trắng".
Không phải như cái
tay phê bình gia đã từng lôi “mấy ngàn
lỗi” của CVD, Gấu không hề làm cái việc đó.
Những lần khui lỗi, là hoàn toàn do đọc câu
tiếng Việt, bị ngắc.
Mấy vị thân hữu của TV, bực
Gấu sao hay vướng vào chuyện tào lao, dọn
diệc, là.. không đúng. Gấu đâu có chi
thù hằn, ngay cả Thầy Kuốc.
Nhưng phi Gấu ra, ai dám
vô…. Địa Ngục!
Hà, hà!
Đi tìm phê bình gia Mít
Bùi Vĩnh Phúc viết:
Anh Hoàng Xuân Sơn
mến,
Người ta chỉ có “Ba Trụ
Thiền” thôi (“The Three Pillars of Zen” – Philip
Kapleau) mà anh có đến “bốn trụ”. Vậy là
hơn người một trụ đấy nhé!
Đùa anh một chút
thôi. Tôi thích cả bốn trụ của anh,
đặc biệt thích hai câu “làm sao thở được trời/trong
lòng giương địa ngục”. Đúng. Phải bốc một đám
mây trắng kia lau lại lòng mình cho sáng
lại trời xanh thì mới mong thở hít được hương thơm
của trời đất.
Nhân tiện, cũng xin được
cám ơn anh đã gửi tặng cuốn sách
mới ra “Cũng Cần Có Nhau”. Đọc, nhớ lại biết bao những
ngày tuổi trẻ. Tuổi trẻ của anh và các bạn rất
đẹp. Và hạnh phúc. Cho dù cũng có nhiều
ngày dông bão. Trí nhớ của anh thật tốt.
Tình bạn trong quyển sách của anh là một nét
nổi bật, làm cảm động người xem. Và còn tình
anh em nữa. Những bài thơ của anh viết cho Hoàng Xuân
Giang thật đẹp và tha thiết!
Xin chúc anh mọi điều
lành.
bvp
- 18.12.2013 vào lúc
9:15 pm
hoàng xuân sơn viết:
Cám ơn anh Bùi
Vĩnh Phúc đã đọc. Trong cái quỹ đạo văn nghệ, dù
chỉ gặp nhau đôi lần, tôi luôn trân trọng mối
giao tình đẹp, sáng, vô vị lợi giữa bằng hữu. Đó
cũng là chất liệu để còn được viết. Hẹn gặp lại anh. Và
chúc một mùa lễ tết an lành.
Thân mến,
HXS
20.12.2013 vào lúc
10:44 am
Soure
Bài
tản mạn trao đổi văn học giữa quý anh Nguyễn Mạnh
Trinh và Bùi Vĩnh Phúc rất là rạch
ròi, bổ ích. Dù quen biết đã lâu, tôi
lúc nào cũng ngưỡng mộ phê bình gia
Bùi Vĩnh Phúc về phong cách trí thức uyên
thâm mà không cao ngạo của ông [đây
là một lời thật lòng, không hề mang kiểu cách
"áo thụng . . ."].
Mấy lời!
HXS
Cái “còm”
này thực sự là nhắm GNV. Trí thức uyên
thâm mà không cao ngạo là khen Thầy Phúc,
nhưng nhắm chửi GNV. Lại sợ người đọc không nhận ra,
kết bằng ‘mấy lời’, là để nhắc lại cái còm
của nhà thơ, đã từng lên lớp GNV, vì dám
đụng đến bạn của nhà thơ là HNT.
Cái chuyện, coi thằng
cha Gấu này kiêu ngạo, phách lối,
theo Gấu, chỉ là… huyền thoại!
Chứng cớ.
-Với băng HXS. Ngay khi ra được
hải ngoại, tờ báo đầu tiên mà Gấu
“mặt dầy” xin cộng tác, là tờ "Nắng Mới" của
băng này, trong khi GNV không cộng tác với tờ LV,
dù đã từng gửi bài đăng, ngay từ khi ở Trại
tị nạn Thái Lan.
-Khi băng đảng HXS ra mắt sách
ở Toronto, GNV là người gật đầu làm MC,
ngay khi 1 vị dược sĩ quen băng này đề nghị, không
hề kiêu ngạo từ chối. Và khi GNV làm MC, thì
cả bọn ngồi riêng ra 1 phòng, cùng nhau uống rượu,
nghe GNV hết lời thổi cả bọn.
Cũng không hề cám
ơn 1 tiếng.
Ai vô học, kiêu ngạo?
Gấu đang thổi Huế Buồn Chi!
-GNV chưa hề viết mail trả lời
bạn văn, xưng là "anh chị Gấu", như 1 vị trong
băng này, trả lời mail của Gấu.
Có thể, trên trang
TV, là trang nhà, trang riêng, GNV viết bằng
1 cái giọng tưng tửng, tếu tếu, tự trào tự khoe,
phách lối, kiêu ngạo… hẳn là Gấu có
quyền, vì là trang nhà, ai không thích
thì cứ tự nhiên lướt qua trang khác, dễ quá
mà.
Bạn thử kiếm coi, ngoài
trang TV, có trường hợp nào, có nơi nào… Gấu sử dụng thứ văn mất dậy “mấy
lời”, với bất cứ 1 diễn đàn khác?
Ai kiêu ngạo, ai phách
lối?
Mấy lời!
Tởm thật!
NQT
Trên TV, trong những kỳ
tới, có thể sẽ có 1 số bài viết thật
thẳng thừng, thật “dã man”, về 1 số nhà văn nhà
thơ Mít, mà GNV thực tình nghĩ, họ là bạn,
tuy không thân, không quí, nhưng thà
như vậy, may ra, tình hình văn học hải ngoại sẽ khác
đi.
Có thể, sẽ lôi thơ
của nhà thơ của đất Thần Kinh ra làm thịt, văn
của TDN, mổ xẻ, tài phê bình của Thầy Phúc,
tính sổ…
Phải “trải đệm” thôi!
(1)
Hà, hà!
*
Ngô Vương Toại & NQT
@
Đặng Phú Phong, Tiểu Sài
Gòn, Tháng Tư, 2006.
Ngô Vương Toại & Gấu
& Đặng Phú Phong & Dương văn Hùng
V/v “Cũng cần có nhau”
& “Quỹ đạo văn nghệ”.
"Cũng cần có nhau", là
từ câu của Trịnh Công Sơn, "ngày sau
sỏi đá cũng cần có nhau". Trong đám sỏi
đá cũng cần có nhau này, của HXS, có ông
NVT, Gấu có quen, và có lần cùng ngồi
với nhau. Và đi vài pô hình.
Thế rồi, 1 bữa, thi sĩ HXS cần
đi đường về hòn sỏi/đá NVT, và cần 1
bức hình, thế là bèn lấy bức có GCC &
NVT, và thiến mẹ hòn sỏi/đá GCC!
Dã
man thật.
*
Thư từ Texas
27 Dec at 12:02 AM
K/G anh Gấu!
Thiệt tình, tui sợ chữ nghĩa
của ông TCS, và của "bạn bè" (hay băng/
đảng của bạn bè ông ta).
Văn nghệ và phe nhóm
ai mà chẳng biết, anh Gấu lảm nhảm, hèn chi
anh Gấu cứ bị đạn bắn hoài!
Chúc anh Gấu bình
an và vẫn viết hoài !
DN
Phúc đáp,
Tks. Chúc Mừng Giáng
Sinh & Năm Mới.
Trang TV mỗi ngày có
chừng 600 visits. Tạo được 1 số ảnh hưởng đối với số cây
viết ở trong nước. Gấu suy ra 1 điều, là ở những cây
viết mới này, bản thân họ, đều có cái
đọc, cái viết thực sự.
Còn ở hải ngoại thì
vô phương. Đầu óc của đám này hư mẹ
hết rồi! Nhưng Gấu viết thì cứ viết.
Viết hoài, như bạn nói.
Tks again. NQT
Lại nói về cao ngạo/kiêu
ngạo….
Có tên Mít nào
viết về bạn thơ Mít, như Gấu, như sau đây,
không?
Vậy mà khi gặp Gấu ở Quận Cam,
ông nhà thơ cũng đất Thần Kinh này, đếch
thèm chào hỏi 1 tiếng, hay bắt tay bắt tiếc, hay
“kũng kần kó nhau”!
Một trang TV cũ
Tôi Cùng Gió
Mùa
Shakespeare, we are told, is the best-selling
poet of all time. Second is Lao-tzu. Third is Kahlil Gibran, who owes his
place on that list to one book, “The Prophet,” a collection of twenty-six
prose poems, delivered as sermons by a fictional wise man in a faraway time
and place.
Joan Acocella: The Kahlil Gibran
phenomenon.
Chúng ta được biết, Shakespeare
là nhà thơ ăn khách nhất của mọi
thời. Thứ tới Lão Tử. Thứ tới Kahil Gibran, chiếm
ngôi vị này, chỉ nhờ một cuốn sách: Nhà
tiên tri, một tập thơ gồm 26 bài, của một vị
hiền giả 'giả' [giả tưởng], từ một thời xa lắc xa lơ, cả về nơi chốn
lẫn thời gian.
*
Với dân Mít, những
người chưa từng ở tù cải tạo, [một nơi xa lắc xa lơ,
cả về thời gian, không gian: Miền Cực Bắc VC], thì, chúng
ta cũng có tới... vài nhà tiên tri, vài
nhà hiền giả, 'thực', mỗi ông hiền giả một cách.
Ba ông chiếm ngôi đầu
bảng, theo Gấu, là: Thanh Tâm Tuyền, với
Thơ ở đâu xa, rồi tới Bóng
Ma Hờn Tủi, tức nhà thơ Tô Thùy Yên, với
Ta Về, rồi tới Nguyễn Xuân Thiệp, với
Tôi cùng gió mùa.
Người nào số 1, số 2, số
3, là còn tùy cái gu, của từng độc
giả.
Có vẻ như NXT đứng thứ ba,
vì ít được nhắc tới, nhưng chính vì
lý do này, mà, hiểu theo một cách nào
đó, ngôi số 1 phải về tay ông!
V/v "Bốn Trụ"
Mấy bài thơ của HXS, gọi
là “bốn trụ”, hay bốn cái gì gì, thì cũng
được đi, nhưng Gấu thực sự không làm sao mà luận ra,
tại làm sao nó liên quan tới "ba trụ của Zen"? Và
dư một “trụ”, là “trụ” nào?
Đây là cái
kiểu gán ghép rất ư là thường xuyên
của Thầy Phúc. Thầy gán Vũ Khắc Khoan với Samuel
Beckett, vì cũng “kịch cọt" cả, và kịch chỉ là
“cái cớ”!
Ai đã từng đọc cả hai đấng
này thì thấy rõ, chẳng đấng nào quen
nhau cả. Mà làm sao quen nhau cho được. VKK cả 1
đời mặc áo gấm đi... bơi, như ông thổi Nguyễn Tuân,
Thầy của ông.
Thầy, theo nghĩa TTT phán
về MT và VKK, với riêng Gấu, trong 1 lần
hai anh em cùng ngồi Quán Chùa, hai ông
này, có lần gặp được NT, thế là thành nhà
văn, nhà kịch. Quả đúng là như thế. Cùng
1 dòng, cũng một "cái tôi" to tổ bố, nhưng cả hai
đệ tử viết thua Thầy xa!
VKK sau 1975 còn đóng
vai trí thức tiểu tư sản, toan tính dựa vào
giai cấp này để Chống Cộng [cũng 1 thứ lực lượng thứ ba!].
Với Beckett, hư vô, như
là lẽ sống ở đời, tìm trong thất bại mầm
sáng tạo, thay vì huỷ diệt. Thua, Thua Nữa,
Thua Cho Bảnh. Tiến Lên Tàn Mạt, chủ nghĩa anh hùng
của cái hư vô…. VKK làm sao tới cõi
đó? Mà có bao giờ ông có ý
nghĩ “tới” đó?
Quái nhất là quàng
1 ông Quyên Di đếch ai biết đến, với 1 ông
thần sầu, triết gia, thi sĩ Tẩy số 1 trong thiên hạ, Bachelard,
do hai ông cùng nhắc tới… lửa!
Đâu có phải ra được
nước ngoài, vô được trường mũi lõ học,
có cái bằng là… “viết” được đâu!
Mà lại viết phê bình
nữa chứ!
Đi tìm phê bình gia Mít
Roland Barthes, 1 giới thiệu cực
ngắn
The critic is a writer, but a writer postponed;
like the writer, he wants to be believed less because
of what he writes than because of his decision to write it;
but unlike the writer, he cannot sign that desire; he remains condemned
to error-to truth.
R. Barthes
Nhà phê bình
là nhà văn, nhưng nhà văn bị hoãn [hoãn,
không phải hoạn]; như nhà văn, anh ta muốn được
tin tưởng về quyết tâm viết, hơn là về điều anh
ta viết ra. Nhưng khác nhà văn, anh ta không tkể
‘ký tên’ ước muốn này. Anh ta bị kết án
[như là] một lỗi lầm – so với sự thật
Đi tìm phê bình gia Mít
The critic is a writer, but a writer postponed;
like the writer, he wants to be believed less because
of what he writes than because of his decision to write it;
but unlike the writer, he cannot sign that desire; he remains condemned
to error-to truth.
R. Barthes
Nhà phê bình
là nhà văn, nhưng nhà văn bị hoãn [hoãn,
không phải hoạn]; như nhà văn, anh ta muốn được
tin tưởng về quyết tâm viết, hơn là về điều anh
ta viết ra. Nhưng khác nhà văn, anh ta không tkể
‘ký tên’ ước muốn này. Anh ta bị kết án
[như là] một lỗi lầm – so với sự thật
Bạn [Du Tử] Cà của Gấu,
khoe hoài, thơ được đưa vô sách tiếng
Anh, “thi tuyển”, "cái con mẹ" gì đó!
Bạn VL, thì cũng rứa.
Cô T khoe, thơ "đôn
hậu, nhân ái", ["Có
nắng mưa, gió sóng, cùng những bụi bặm, náo
động của cuộc đời. Nhưng cũng có, trong những dòng
văn chân thật ấy, những khoảng thinh lặng cần thiết và
ấm áp của tình người". BVP], “tình
nghĩa Giáo Khoa Thư Mít” ["Cái thứ thơ "luân
lý giáo khoa thư" đó, mà NQT khen ư?
Ông khen thơ đó, là mất tiếng nhà đại phê
bình sa đích đi!"], đã được đem vô sách
giáo khoa của Mẽo, hình như thế!
Về vụ này Robert Hass,
nhận xét, chỉ là do tính "chính trị", "lịch
sự, xã giao", nhiều hơn do thơ ca, chính nó!
Và ông bèn
đi bài thật dài, về 1 nhà thơ Đại Hàn,
trong cuốn trên, TV sẽ đi 1 đường dịch thuật sau: Ko un and korean poetry.
Mít đã có
tên nào bảnh như thế chưa?
Đi tìm phê bình gia Mít
Sự thê thảm của cõi
văn Mít, theo GCC, là do thiếu phê
bình gia. Và nhất là, thứ phê bình
gia- nhà văn. Tụi mũi lõ, đương thời, đầy rẫy.
Coetzee, Banville, Auster, Rushdie... Tên nào thì
cũng dư sức đi 1 đường essay!
Coetzee đã từng có
cả 1 tập thơ!
Đây là nỗi đau… tiền
chiến.Vũ Ngọc Phan, bảnh như thế, cũng đếch tới được cõi
này, ông có bao giờ có được cái thú
đau thương của 1 tay sáng tác, cùng lúc
còn là nhà phê bình, nhà dịch
thuật.
Phải 1 tay dịch thuật, nhà
văn, nhà thơ, nhà "đủ thứ nhà", thì mới
thấy cái sướng, khi kiếm đúng từ để mà dịch,
cái từ tưởng dễ nhá, như từ “sideways”, trên
đây.
Steiner đã từng rất ư
ngạc nhiên, khi thấy ở Mẽo, có những lớp
dạy “sáng tác”, “phê bình”: Làm sao
dạy viết văn, nhất là, viết.... phê bình?
Ông đòi hỏi hơi quá. Vả chăng, học tí
ti cẩm nang dạo đầu, sau đó, có thành nhà
phê bình, thì còn tùy. Sự kiện mấy đấng Mít, ra hải
ngoại, học hành, đỗ đạt, tự phong là nhà cử nhân/tiến
sĩ phê bình, làm Gấu nhớ đến 1 đấng ở Trại Tị Nạn, làm
thơ con kóc, dán nhãn thơ “về nguồn”, rồi nhờ vậy
mà đậu thanh lọc, thế là dán cái mác
thi sĩ lên trán, hỏi, ai cho phép mi là thi
sĩ, thì Cao Uỷ Tị Nạn đóng dấu xác nhận rồi mà!
Thầy Kuốc hất hàm hỏi,
có mấy tên NQT, Gấu nhũn nhặn xin lỗi, vì
không nhớ đã từng viết về VP. Độc giả Chợ Cá,
ở trong nước, hỏi thăm, thòng thêm câu, nhớ gửi tí
xái nhe, Gấu cũng xin lỗi, hết ghiền rồi, không còn
xái để gửi. “Ông hiền quá, chẳng giống gì
mấy ông kia”, 1 vị độc giả/nhà văn ra đi từ Miền Bắc,
đọc Gấu, nhận xét,… “dịch và viết thật lạ lùng, tràn
đầy tình, ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi
cọ. Có lẽ văn chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm
tri kỷ, phải dạy người ta một diều gì đó nhưng không
dạy đời”.
Nhưng đã
đến lúc phải làm khác đi, phải…
chửi!
Hà, hà!
Trước 1975, phê bình
khá hơn hải ngoại bây giờ rất nhiều. Vào
cái thời của Gấu, bạn chỉ cần viết 1 truyện ngắn, là
trở thành nhà văn!
Gấu, vừa trình diện “Những
Ngày Ở Sài Gòn”, cả Sài Gòn
đã biết. Ngọc Minh, chỉ “Trăng Huyết”, nổi như cồn.
Đau nhất là trường hợp ĐX
khi được VP chọn, “Nhà có cửa đếch khóa”,
thay vì “Chủ Nhật”!
Bây giờ, dù bạn
có viết hay cỡ mấy, thì mấy Thầy Kuốc,
Thầy Phúc, Thầy Thục, Thầy Đạo… cũng không đọc ra, hay, lọc ra được,
giữa núi rác trên net. Được ông Gấu
khen thì cũng như lên Thiên Đàng, hà,
hà, – Tks again - đúng như thế, nếu nhìn ra sự
quan trọng của nhà phê bình, nhà điểm
sách!
Hai ông Trùm hải
ngoại, ông tiên chỉ VP, ông thần MT, Gấu chưa từng
viết về họ, trước 1975. Bài biết về truyện ngắn VP, là để
trám 1 lỗ hổng trên trang VHNT cuối tuần, của tờ nhật báo
quân đội Tiền Tuyến, do chính Gấu phụ trách. Đó
là sự thực. Đăng xong quăng thùng rác, vì
là báo hàng ngày. Gấu không hề biết
bạn quí lôi từ thùng rác ra, đăng lại trên
tờ Văn, khi ra số đặc biệt về VP, vì thời gian đó,
lậm nặng Cô Ba. Chính vì thế Gấu mới đụng tới cái
tiểu chú của Thầy Kuốc, ơ kìa, mình viết về VP hồi
nào nhỉ, thế là Thầy bèn hất hàm hỏi, có
mấy tên NQT, hử?
Chỉ nội cái tít là
đã muốn gây sự rồi, cùng lúc, đi 1 đường
cảnh cáo, mày liệu hồn, tao biết tỏng về mày
rồi, đừng động đến ta, không là ta lôi cả
lò nhà mày ra!
Dã tâm của Thầy Kuốc,
một người cực độc, như SCN, làm sao không biết?
Sến bèn đi liền, yên chí lớn, thằng khốn thể
nào cũng phải nhảy vô cuộc đấu đá nhơ bửn,
giữa chốn giang hồ, gió tanh mưa máu, đầy mùi
cá ươn Chợ Cá Bá Linh, là talawas!
Vậy mà Gấu đâu có
mắc hỡm.
Bảo rằng Gấu ham chửi bới, là
sai. Cực chẳng đã. Đi đòn nhu, không
ăn thua gì, thì giở đòn "sa đích văn nghệ"!
Đúng ra, lúc đó
Gấu bị cái rìu phá băng của Kafka
bổ trúng đầu rồi. Bị tro than Lò Thiêu quần tối
tăm mặt mũi, Kuốc hay Sến thì cũng đi chỗ khác chơi!
Tiện thể, viết thêm về
bài viết, về nhà lưu vong số 1 Mít,
LVT, của Thầy Kuốc.
Có thể, Borges đã
từng đọc bài viết của Thầy Kuốc, và đã
từng nhìn thấy cái xen “cặc” bay đầy trời.
Bởi thế, Borges viết bài
dưới đây:
Tôi nhắm mắt lại và
nhìn thấy 1 đàn chim. Viễn ảnh kéo
dài chừng 1 giây, hay chưa tới; tôi không
chắc chắn, tôi đã nhìn thấy bao nhiêu
con chim. Con số, vô định, hay xác định? Vấn đề này
mắc míu tới Thượng Đế. Nếu Thượng Đế có, thì con
số, xác định, bởi vì Thượng Đế biết, tôi nhìn
thấy bao nhiêu con chim. Nếu đếch có Thượng Đế, thì
con số, vô định, bởi vì chẳng ai có thể đếm.
Trong trường hợp này, tôi nhìn thấy "ít
hơn mười" con chim [thì chúng ta cứ nói như vậy],
hay "hơn một" con, nhưng, không nhìn thấy chín,
tám, bảy, sáu, năm, ba, hay hai con chim, etc. Số nguyên
– không-chín, không-tám, không-bảy,
không-sáu, không-năm, etc – thì không
thể chấp nhận được. Ergo,
Thượng Đế hiện hữu.
[Note: Bài viết này,
theo GCC, Borges được gợi hứng từ toán vi phân,
cùng đề tài với “Những tiền thân của Kafka”, và
cùng với bài viết, là bài
toán con rùa, mũi tên, nghịch lý Zenon]
Argumentum Ornithologicum
I close my eyes and see a flock
of birds. The vision lasts a second, or perhaps less;
I am not sure how many birds I saw. Was the number of birds
definite or indefinite? The problem involves the existence of
God. If God exists, the number is definite, because God knows
how many birds I saw. If God does not exist, the number is indefinite,
because no one can have counted. In this case I saw fewer than
ten birds (let us say) and more than one, but did not see nine, eight,
seven, six, five, four, three, or two birds. I saw a number between
ten and one, which was not nine, eight, seven, six, five, etc. That integer-not-nine,
not-eight, not-seven, not-six, not-five, etc. - is inconceivable.
Ergo, God exists.
J.L. Borges: Collected
Fictions, Penguin
*
Trong bài viết về Bếp Lửa, từ năm 1972, Gấu phán:
Trong 1 vài trường hợp, chính học trò
khám phá ra những tay thầy. Phải chăng đó
cũng là trường hợp của "bậc thầy" TTT?
Ý này, Gấu đọc của
1 tay mũi lõ Tẩy nào đó, thuổng luôn.
Phải đến khi ra được hải ngoại, mới biết, của Borges, trong
bài viết về Kafka:
Sự thể là, mỗi người viết
sáng tạo ra những tiền thân của riêng người
đó. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng
ta về quá khứ, như là nó sẽ sửa đổi tương lai.
Tuyệt!
Nói rõ hơn, bạn
phải kiếm ra Thầy của bạn, và khi kiếm ra Thầy
rồi, viết, trở thành nhà văn, như Thầy của mình,
và, chính cái viết của bạn, “sẽ sửa đổi quan điểm
của chúng ta về quá khứ, như là nó sẽ
sửa đổi tương lai.”!
Không có Thầy là
đừng hy vọng trở thành nhà văn, mấy đấng
Mít hiểu chưa?
Không thèm viết
gì về ông thần MT, và, nếu có
viết về VP, là để trám 1 lỗ hổng trên trang báo
cho chính Gấu phụ trách… Tuy nhiên, những
bài điểm sách, vài bài, thì đều
gây sóng gió.
Thế mới ghê!
Bài về Nguyên Sa,
được chính tác giả ban cho cái nick
tên "sa đích văn nghệ", gây 1 trường hỗn loạn
trên chốn giang hồ, kéo theo thù oán, giữa
NS và TTT, sự thù oán còn dây
dưa đến cả vụ trao giải thưởng Nobel của Diệm cho TDT, thay vì
đã đồng ý, cho TTK, và trong vụ này, thì
dính luôn cả tới Vũ Hoàng Chương.
Rồi bài viết về Nguyễn Thị
Hoàng, được bà đáp lễ, bằng cách
mô tả tên điểm sách, thằng cha Gấu đi như 1 con
bồ câu bị người ta lấy mất bộ não.
Bài điểm sách THT
cũng gây thù oán đến tận bi giờ.
Bài điểm Đường Một Chiều của NMG,
đếch biết viết truyện dài, khiến ông bực quá,
ra được hải ngoại chơi liền hai cuốn trường thiên tiểu
thuyết!
|
|