Một Chủ Nhật Khác


Tiểu thuyết
Thanh Tâm Tuyền

2.


Mỗi tối trước khi vào trại Kiệt ghé về qua nhà một lúc.
Ngôi nhà Kiệt đang ở trong cư xá Hỏa Xa là của một người bạn làm ở Bộ Công Chánh cho ở nhờ. Nhà đủ đồ đạc, tiện nghi khóa cửa bỏ đấy, trong một năm chỉ vào dịp hè hoặc Giáng Sinh mới có người lên nghỉ lưu trú một hai tuần là cùng. Mặc dù được chủ nhân trao cho xâu chìa khóa toàn quyền sử dụng, Kiệt chỉ chiếm ngụ một phòng, với phòng tắm rửa phụ thuộc, có cửa vào riêng quay về hướng Đông. Khu cư xá cất trên đồi trông xuống nhà ga, nhà cửa rải rác cách nhau những đám cỏ hoang rậm bên những con đường đất đã hư hỏng hoặc bị cỏ lan phủ. Trên khoảng đồi trồng nhiều thông, lá xanh um.
Chỗ ở tịch mịch hợp ý Kiệt. Nhiều nhà trong cư xá chẳng rõ có người trú ngụ hay không.
Hồi mới đổi lên, Kiệt mướn phòng trong một nhà trọ. Phòng thuộc tầng dưới mặt đất, chật hẹp, ngộp thở. Thời ấy quân đội Đồng Minh còn nhiều. Khách ở phòng cho thuê hầu hết là các cô gái lấy Mỹ hoặc Đại Hàn, họ sống xô bồ, ồn ào vô tư nhiều lúc dễ ghét nhưng có lúc thấy tội. Thùy không bằng lòng cảnh chung đụng hỗn tạp. Nàng kiếm cho Kiệt một chỗ khác: gia đình người em họ xa Thùy bằng lòng nhường Kiệt một căn phòng trên lầu trong ngôi nhà của họ. Chỗ sau này bất tiện vì khuất nẻo, kém an ninh, nhà lại đông trẻ.
Kiệt đến chỗ hiện nay đã trên một năm, cũng khoảng tháng tư tháng năm năm ngoái, su buổi tình cờ gặp người bạn cách mặt lâu ngày những vẫn còn giữ vẹn mối giao tình. Hắn thành thật mời chàng, rồi khi chàng nhận lời hắn đùa bảo:
- Cũng là cách tôi lợi dụng bạn. Bạn trông nhà dùm tôi. Nhà có hơi người đỡ mốc hư. Gia đình tôi có kéo nhau lên nghỉ, tôi có bạn ở chung hoặc cả gia đình bạn thì tôi cũng được vui. Tình thực mà nói, mình đưa gia đình đi nghỉ là vì bổn phận, chứ cứ lên chơi trên này với bạn hay với người tình là nhất.
Có lẽ Kiệt đã chú tâm nhiều đến điệu gió mỗi khi về ngôi nhà này.
Mỗi tối Kiệt sung sướng bước vào gian nhà.
Khu cư xá tối tăm lạnh lẽo. Vhàng bật ngọn đèn sáng ngắm khuôn phòng luôn luôn bề bộn. Chàng dọn dẹp bâng quơ, chồng sách, đống giấy trên bàn, những bộ quần áo bẩn treo máng trên mắc, trên thành giường, giấy dép, vỏ bao thuốc, mẩu tàn thuốc dưới gạch. Chàng thay quần áo hoặc mặc thêm áo, vào phòng tắm đánh răng rửa mặt như sửa soạn đi ngủ - mặc dù sau đó chàng lại đốt thuốc hút. Rồi nằm lăn trên chiếc giường sắt lò so kiểu cổ, rộng thênh - mùa lạnh bốn năm người nằm nagng cũng vừa - lơ mơ nhìn đèn hay đọc vài trang sách. Hoặc chàng ngồi ôn đàn tập dượt hát ngâm nga (trong những tháng học quân sự ở Thủ Đức, Kiệt đã mua cây Tây Ban Cầm và một quyển sách dạy đàn, tự học trong những buổi tối rảnh rang).
Thảng hoặc Kiệt mở cánh cửa thông sang phòng khách, bước vào chỗ ngồi nhất định ở đầu ghế dài nhìn các đồ đạc thiết trí không phải của mình và cũng không có lấy một dấu tích rõ rệt nào là của mình, trừ hai ba dấu giầy trên thảm bụi, một vài mẩu thuốc trong gạt tàn và vết chũng trên ghế đã phủ vải che. Các phòng khác Kiệt không hề đụng tới.
Kiệt vào trại trễ hơn mọi người, khi những con ngựa sắt, giấy kẽm gai đã kéo ngăn các cổng.
Chàng chạy xe Lambretta trên đường vắng tanh âm u. Rời nhà vào trại, chàng nghĩ con người ta cũng chỉ là loài thú quen sống bầy. Chàng rời chốn ẩn núp lẻ loi đi tìm đồng loại để được che chở an toàn. Phóng xe qua những quãng thiếu ánh sáng, chàng thấp thoáng nghĩ mình có thể bị bắn hạ bất ngờ, té ngã giữa lộ đêm giống như con chó bị xe cán.
Kiệt đã sống qua nỗi hoảng kinh của của con thú lạc bầy hồi Tết Mậu Thân khi bị kẹt trong vòng chiến hai ngày không vào được trại.
Qua khỏi cổng, Kiệt chạy ngang khu cư xá sĩ quan. Đôi ba nhà còn ánh đèn sau các ô cửa kính. Những chiếc xe díp đậu ngoài sân đất trước các nhà đã vắng bóng. Kiệt còn phải ngừng xe cho lính gác nhận diện ở trạm gác đầu khúc quanh vào khu trường cũ. Khu này thiếu đèn đóm gồm những dãy nhà mái ngói vách ván sân xi măng, lập từ thời còn quân Pháp, bây giờ dùng làm chỗ trú đóng các đơn vị yểm trợ. Từ khu trường cũ sang khu trường mới xa lối hai cấy số. Để đi từ ngọn đồi bên này qua ngọn đồi bên kia phải chạy xuống một lũng thấp. Dưới lũng là trại gia binh, nhà cửa bằng gỗ lợp tôn lụp xụp. Vượt con dốc trại gia binh, đã nhìn thấy ánh điện lấp lánh của khu trường mới, trong gió hút tứ bề trông như một thành phố kỳ ảo. Còn chạy dọc theo vũ đình trường, một bên là mặt cỏ phẳng tối, một bên là lũng sâu thông mọc xít, Kiệt khoan khoái ngó những đốm đèn san sát nhiều tầng của những khối nhà hình vành cung.
Mỗi khi vào đến bến đậu xe, bao giờ Kiệt cũng đưa mắt về hướng núi cao nhất của cao nguyên này, nhìn những ngọn điện phất phơ trên đỉnh. Hàng điện sáng rỡ, vẽ đường vòng cung giữa trời, hồi quân đội Mỹ còn đặt đài truyền tin ở đấy, nay đã lặn, chỉ rớt lại vài ba đốm xa xôi mờ nhạt.
Kiệt không về phòng mình. Chàng không thể ngủ sớm, cũng không thể làm việc. Chàng có vài người bạn kết giao từ ngày lên đây. Chàng tìm gặp bạn để qua buổi tối.
Những đêm cấm trại trong tình hình nghiêm trọng bày cảnh láo nháo. Bọn sĩ quan độc thân tụ tập ở Hội Quán đánh bi-a, đô-mi-nô, cờ tướng, hoặc tán gẫu tranh luận trên trời dưới biển, hoặc họp nhau tại các phòng khuất, ít bị dòm ngó, bài bạc đến sáng. Câu lạc bộ chật ních, muời một, muời hai giờ còn người ra vô. Đám sĩ quan cao cấp, già nua, đi lính từ thời Pháp, qua lại giữa các phòng, các dãy, thăm viếng nhau, cũng có khi gặp gỡ năm ba người trong một phòng, bàn tán chuyện công vụ, chuyện thời cuộc, nhân tình thế thái.... Trong hành lang, dưới chân cầu thang, binh sĩ, hạ sĩ quan trải áo mưa, giăng mùng nằm ngồi la liệt. Các toà nhà vang động đến khoảng muời giờ. Sau giờ ấy người ta nằm chờ giấc ngủ, phiên gác, phiên tuần tiễu, kiểm soát hoặc tiếng còi báo động hú gọi.
Kiệt thường tìm Nghiên rủ đánh một vài ván cờ, nếu bạn không bận soạn bài, và yêu cầu bạn cho nghe nhạc trong khi chơi cờ.
Nghiêm vốn dân địa phương, lấy vợ địa phương, chỉ rời tỉnh thời gian theo Đại Học. Đi lính mấy tháng, ra trường đổi ngay về tỉnh nhà. Nghiêm được trường gửi đi Mỹ học, mới về năm ngoái. Con người lặng thinh, chăm chỉ, thích làm việc, tận tâm vì tính tự nhiên như vậy. Phong thái điềm đạm, cung cách nhã nhặn. Cách sống bên ngoài của Nghiêm tầm thường, hiền hòa nhưng đó là cách của người có một vài ý sống bền chặt không dời đổi.
Kiệt thân nhất với Nghiêm ở đây. Thỉnh thoảng, muốn ăn bữa cơm gia đình, Kiệt đến Nghiêm. Vợ Nghiêm nhỏ tuổi, học trường sơ và bây giờ dậy tại chính ngôi trường đã đào tạo ra mình. Nàng mặc đúng thời trang, không lòe loẹt, dáng vẻ nhu mì hơi khác thường giống như một cô tu xuất. Bên cạnh vợ chồng Nghiêm, Kiệt nhiều khi thấy mình bồng bột, nhộn nhạo quá.
Buổi tối hôm ấy, đứng trên bãi đậu xe, mắt ngước về hướng núi, Kiệt bỗng nghe vẻ khác thường trên cảnh vật.
Vẫn những ngọn điện thưa trên đỉnh núi lấp lánh cùng những đốm sao xanh của một vòm trời thượng tuần trong veo. Đám thông dưới triền lũng gần, trên ngọn đồi Bắc, khua rào rạt. Lảng vảng đâu đây trải một nền náu im thăm thẳm. Trên những con đường và sân cỏ chạy giữa hai dãy khối nhà không bóng người. Đèn trong các phòng vẫn chiếu qua các cửa sổ. Tại đầu hành lang vào các khối vắng bóng lính gác.
Kiệt sực nhớ bữa nay là thứ sáu.
Hàng tuần vào tối thứ sáu có buổi chiếu phim dành cho sĩ quan và gia đình. Hạ sĩ quan, binh sĩ không mắc trực gác và cả những đám trẻ dưới trại gia binh đổ xô vào chật phòng chiếu bóng. Những đêm chiếu bóng thường không có báo động. Dù sao người ta cũng không thể phá dịp vui hiếm hoi của gia đình vợ con. Và sau khi đã đưa vợ con về nhà rồi một mình trở vào trại giữa đêm khuya người ta không nghĩ gì khác hơn là được ngủ yên.
Nhưng sau khi đã tự giải thích được vẻ bất thường ở xung quanh, Kiệt vẫn thấy vẻ ấy chưa tan nhòa trong tâm tưởng chàng. Kiệt đứng ngẩn ngơ bên cạnh chiếc xe đã dựng.
Phải, đúng là thứ sáu. Hồi chiều chàng vừa dậy xong buổi chót tại Viện Đại Học. Chàng đã nói bài kết thúc và những lời cuối khoá với sinh viên. Khi dứt lời, chàng nghe sự nín khe trong đầu như thể chàng chưa nói gì. Có cái gì chưng hửng lan trong không khí của giảng đường. Chàng ngây người. Thông reo lùa từ xa tới gần ngay bên cửa.
Lúc ấy, Kiệt cũng mất ý niệm về thời gian như lúc này.
Sinh viên lục tục ra khỏi giảng đường. Một cô bé thường ngồi ở giữa những hàng ghế sau tiến trên lối giữa, gương mặt ngỏ ý muốn gặp chàng. Kiệt rời khỏi bục. Rồi chàng cùng bước song song với cô ra cửa.
-Em muốn được hỏi thầy vài điều.
Kiệt ngừng ở ngưỡng cửa. Cô bé thụt lui một bước, khuất bên mé tường.
-Chuyện gì thế cô? Kiệt hỏi.
-Thầy cho gặp riêng....
-Cô nói bây giờ đi.
-Em còn phải sửa soạn các câu hỏi.
-Tôi đợi.
-Em xin lại thăm thầy ở nhà.
-Ở nhà tôi? Kiệt nhíu mày.
Chàng nhìn cô bé khép nép cũng như chàng vẫn nhìn trong các buổi giảng, tìm một chỗ đậu cho tia mắt. Chàng trông thẳng vào gương mặt giống như khi ngắm một bông hoa cắm trong cốc đặt trên bàn viết.
-Bao giờ cô đến tôi?
-Em sẽ đến thầy sáng chủ nhật. Được không ạ?
-Sáng chủ nhật.
Kiệt nhắc thờ ơ rồi ngồi xuống bực cấp. Chàng mải ngơ ngác lắng theo hướng gió.
Trời xẩm xẩm. Tiếng động rời rạc. Con đường nhựa trong Viện rợp cây. Các sinh viên ra về hết. Kiệt gặp họ tản mác trên đường dốc bao quanh đồi.
Kiệt không quan tâm đến cô bé. Chàng không nhớ cô ăn mặc thế nào. Chàng cũng không biết tên nữa. Và bây giờ chàng hình dung cô bé trong buổi chiều như đã xa lắc.
Trước khi đến lớp, Kiệt đã nói chuyện với Thùy, Chàng chưa kịp bảo Thùy lên với chàng thì nàng báo kỳ nghỉ phép phải tạm hoãn. Sở cử nàng đi công tác Thái Lan, rồi Nhật bản, vào cuối tháng. Trước khi đi thể nào nàng cũng lên với chàng một hai ngày. Kiệt nuốt luôn tiếng kêu gọi và hỏi han về ba đứa nhỏ. Chàng không nói được gì với Thùy ngoài những lời thông tin chiếu lệ.
Kiệt đã cất bước rời bãi đậu xe bỗng chàng trông thấy một đốm lửa di động trên một triền núi gần hơn ngọn có điện mắc trên chóp. Thoạt tiên chàng nghĩ là ánh đèn xe, nhưng rồi mầu đỏ lập lòe giống như đầu điếu thuốc cháy khiến chàng nghĩ đến một ngọn đuốc thắp soi đường trong rừng. Chàng dừng chân đứng một chỗ nhìn chăm chú. Đốm lửa khuất thình lình rực soi những bóng cây trên núi. Đốm lửa không hề di động, chỉ bị gió lay chuyển rập rờn. Một chốc đám lửa lan thành đám cháy. Những cánh rừng bám triền núi chìm đắm trong đêm bật hiện. Lác đác trên thảm cây biếc xẫm vài ba đốm lửa ửng hồng.
Kiệt buộc miệng kêu: A, cháy rừng. Chốc lát nữa, ngọn núi sẽ bốc lửa tỏa rực một vùng. Chàng ngây sững đón chờ cảnh tượng. Lửa thiêu hủy cây cối trong đêm sẽ soi tới chỗ chàng đứng. Tàn lửa và tro than, gió cũng thổi bay tới.
Thêm những đám lửa nhỏ rải rác bập bùng nhưng đám lửa đầu tiên không lan rộng. Mặc dầu sự mong mỏi của Kiệt, đám cháy trên triền núi không xẩy ra. Đêm ít gió. Những chùm lửa cách biệt, lơ lửng rồi lụi tàn.
Kiệt đứng như trời trồng.
Hai người từ phòng chiếu bóng ra qua lưng Kiệt trên bãi cỏ. Họ không chú ý đến Kiệt, bàn tán chê bai cuốn phim xem bỏ dở nửa chừng.
Kiệt tưởng tượng tiếng nổ lách tách của những thân cây khô già khi bị lửa bám đốt. Trong mắt Kiệt rập rờn bóng lửa trên núi.
Chàng thật cô đơn.
Kiệt sống lại đêm tháng sáu Bắc Âu, đêm mùa hè của miền lạnh lẽo với mặt trời cháy suốt đêm trên đầu núi. Người ta kéo nhau ra đồng, ăn uống, ca hát, khiêu vũ, ngắm mặt trời đêm nguyên hình một khối đỏ ối. Năm ấy Thùy tốt nghiệp, hai người rủ nhau sang chơi Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy trong dịp hè. Cả hai người đều còn trẻ. Đêm hội mùa hạ, họ nằm bên đống rơm, ngây ngất trước khối lửa lạ lùng, hôn nhau, và yêu nhau. Đó là đêm tân hôn.
Kiệt thấm thía nỗi cô đơn. Và Thùy hiểu lẽ yếu đuối cần được phủ ấp. Họ yêu nhau lần thứ hai lúc nửa đêm. Mặt trời đã lên đỉnh như chiếc bóng lửa tròn xoay. Hơi ấm gờn gợn giá. Văng vẳng bên tai Kiệt một khúc ca yêu đời của Grieg. Chàng ghé tai Thùy thì thào:
Flamme seule, je suis seul. (1)
Đêm nay chàng sống lại nỗi cô đơn, trong cảnh trơ trọi.
Còn Thùy? Dường như nàng đã quên bặt khối lửa đêm ấy hoặc nàng chỉ còn thấy chiếc bóng của nó ghi trong ký ức như thấy hình chụp trên tấm bưu thiếp giữ làm kỷ niệm.
Nàng quên bẵng sự yếu đuối, nhỏ nhoi, tuyệt vời của nàng.

(1) Ngọn lửa cô đơn, tôi cô đơn.