*






Điểm Sách Là Gì?

Đăng ngày: 07:53 15-04-2011

Tôi mới vừa đọc một quyển sách nói về điểm sách. Đây là những điều tôi còn nhớ sau khi đọc xong. Viết lại để ngày sau có khi cần dùng đến nó. Writing Book Review by John E. Drewry

Điểm sách là giới thiệu sách. Sau khi đọc xong một quyển sách, bạn tóm tắt cua chuyện, nói nó bao gồm những gì, cách viết và giọng văn. Trong bài điểm sách, hay giới thiệu sách, dĩ nhiên là phải có tác giả và tựa đề. Đôi khi người ta cho biết số ISBN và nhà xuất bản.

Có hai cách điểm sách, khách quan và chủ quan. Cách điểm sách khách quan chú trọng đến quyển sách và tác giả - chủ đích, dự tính, chủ đề, những điểm đặc biệt về tác giả (tài năng, trí tuệ, . . . ) Cách điểm sách chủ quan chú trọng về cảm tưởng và sự hiểu biết về chủ đề của người điểm sách. Những hiểu biết của người điểm sách có thể không nằm trong quyển sách.

Bài điểm sách có thể được viết với giọng văn nghiêm túc, hàn lâm (judicial review) như một bài phê bình văn học. Hoặc có thể viết với hình thức tường trình cho biết những tin tức căn bản của quyển sách, theo cách hiểu và cảm nhận của người điểm sách (impressionistic review). Một bài điểm sách lý tưởng là sự kết hợp của hai cách điểm sách.

Tại sao người ta đọc bài điểm sách.

1. Để thử xem có nên tốn tiền và thì giờ mua và đọc quyển sách hay không

2. Đọc rồi và muốn biết người khác nghĩ thế nào về quyển sách

3. Không có thì giờ nhưng muốn biết sơ lược của quyển sách

4. Đọc bài điểm sách vì bài này hay, giải trí, hoặc thu thập kiến thức, hay vì thích cách viết của người điểm sách.

Nếu chỉ nói về quyển sách, tóm lược cốt truyện vài nét về tác giả, đó là điểm sách. Nếu phân tích về quyển sách một cách chi tiết và sâu xa, chê hay khen với những viện dẫn kỹ lưỡng, thì đây là bài phê bình.

Blog HH
*
Còm:

“judicial review”, theo tôi, nên dịch là điểm sách bằng giọng của ông tòa, phán như đinh đóng cột. Dịch, hàn lâm, là lệch qua hẳn 1 phương pháp điểm sách theo tính cách academic, tức nhà trường, có truyền thống, thí dụ, sau cổ điển thì tới lãng mạn, nghiêm túc, serious, là tùy giọng văn khi viết, khi điểm, khi gặp 1 cuốn sách quan trọng, không thể đùa với nó được!

Còn điểm sách cũng chưa hẳn chỉ qui vào cái vụ khen chê. Ðây là cách điểm của xứ Việt mình, vì vậy mà văn xứ mình khó mà khá được. Khen là thích, chê là bị chửi. Ðiểm sách mà chỉ là tóm tắt nội dung, thì cũng hỏng. Ðây cũng là 1 cái bệnh của giới điểm sách người Việt. Bởi vì khi bạn tóm tắt nội dung, là người đọc hết còn muốn mua nó.

Chính vì thế mà tôi rất ghét những bài điểm sách!

NQT

Trong  Nhân Văn, Steiner phán:

Chức năng thứ ba của nhà phê bình mới thật tối quan trọng. Nó liên quan tới sự phán đoán văn chương đương thời. Có một sự khác biệt giữa đương thời và tức thời. Tức thời tóm lấy những nhà điểm sách. Nhưng rõ ràng nhà phê bình còn có những trách nhiệm đặc biệt với nghệ thuật chính thời đại của mình. Anh ta phải tra hỏi, không chỉ chuyện, hoặc là nó trình bầy một tiến bộ kỹ thuật hay một tinh luyện, hoặc là nó thêm vô một cú xoắn về văn phong hay chơi một đòn vụng về lên cân não thời điểm; nhưng còn về những gì nó đóng góp, hay lấy đi, từ những tài nguyên nghèo nàn của đạo đức trí tuệ. Tác phẩm này đề nghị chi, nếu nói về chuyện cân đo đong đếm vóc dáng, hình ảnh con người? Đây không phải là một câu hỏi dễ nói ra, nó còn dễ bị coi là thiếu tế nhị. Nhưng thời đại chúng ta là một thời đại không bình thường. Nó "lao động" dưới sức ép (stress) của phi nhân, được kinh nghiệm theo một qui mô khổng lồ, đặc thù, và ghê rợn; và khả năng của một điêu tàn thì lấp ló chẳng đỗi xa. Người ta thích ban cho mình trò xa xỉ, là chùm chăn, đợi thời, nhưng vô phương.

Như thế, phê bình khác với điểm sách, chính là ở cái 'tức thời' đó. Và chính cái tức thời này, chỉ ra tài năng của 1 nhà điểm sách bậc Thầy. Khi Hoàng Ngọc Hiến vỗ vai Nguyễn Huy Thiệp, thằng anh này không chúc chú em thuận buồm xuôi gió, là ông đã nhìn ra, tác phẩm của Thiệp sẽ đi rất xa, và sẽ đi rất gần, tùy ở tay Thiệp.
Thiệp nhìn ra ngay, và ông chọn cái chuyện, tớ không thích thuận buồm xuôi gió.
Khác hẳn trường hợp nhà văn lính THT, bởi vì bài điểm sách của Gấu, y chang cái vỗ vai của HNH.


Đổi mới và số phận của văn học

Bởi không ai có thể hoàn toàn đoạn tuyệt được quá khứ của một nền văn học ở đó mình đã từng là độc giả cần cù và đầy say mê.

NHQ: Blog VOA

Note: Vấn đề, không phải “cái mới vs quá khứ…”,  mà là, “cái mới vs cái cổ điển”.
Từ đó, nẩy ra vấn nạn văn học, mà đúng ra, nó sẽ là nội dung bài viết của Thầy Cuốc: Thế nào là cổ điển?


“Tại sao đọc những tác phẩm cổ điển”

Hãy thử bắt đầu bằng một định nghĩa:
Tác phẩm cổ điển là thứ mà người ta nói, “tôi đang đọc lại nó”, không hề nói, “tôi đang đọc nó.”
Điều này chí ít chỉ có thể xẩy ra giữa đám “đọc rộng”, không thể áp dụng cho tuổi trẻ, vào tuổi đó, cái gì gì thì cũng là nụ hôn đầu, tình đầu, lần đầu gặp gỡ, cú sét đánh…
Cái mẩu “lại”, trong “đọc lại” có thể làm cho một độc giả nào đó, đỏ mặt, nhất là những đấng nghĩ rằng mình chưa từng đọc một dòng Tội Ác và Trừng Phạt, thí dụ. Để an ủi họ, chúng ta có thể nói, ngay cả thằng cha Gấu, được đời khen tặng uyên bác, hay chữ, thực sự, cái đọc của hắn ta thì cũng chỉ quanh quẩn nơi lò thiêu người, lò lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ, hay Phạm Văn Cội, Củ Chi Thành Đồng, là cùng!
Nào, ai đã từng đọc hết Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Bọ Lập Ký Ức Vụn… giơ tay lên! Ngay cả những bộ sách lãng mạn trứ danh, thì cũng chỉ nghe người đời xướng danh, thay vì đọc chúng. Ở Pháp, người ta bắt đầu đọc Balzac khi đi học, và qua những những lần tái bản cho thấy, Tây mũi lõ vẫn tiếp tục đọc Balzac, khi hết còn mài đít quần trên ghế nhà trường. Ở Ý, đám fans của Dickens thì cũng chỉ có một dúm, và mỗi lần gặp nhau, là mỗi lần trộ nhau, cứ như là thằng nào cũng quá rành Oliver Twist!
Cách đây vài năm, Michel Butor, dậy học tại Mẽo, quá chán vì cứ nghe lải nhải, Thầy đã đọc Emile Zola chưa, sự thực, ông chưa từng đọc, và thế là một ngày đẹp trời, bèn chúi mũi vào Zola. Kết quả ông khám phá ra một điều không thể ngờ được về bộ Rougon–Macquart: Một phả hệ học tuyệt vời về huyền thoại và vũ trụ, và sau đó ông chỉ ra trong một tiểu luận thật đẹp.
*
Coetzee mở ra cuốn Những bến bờ lạ lẫm hơn, Stranger Shores, bằng bài viết Cái Gì Là Cổ Điển ? thật tuyệt. Bài này Mít chắc thú hơn bài của Calvino, vì ông chú trọng tới cái thời của riêng chúng ta, khi đọc một cổ điển.
Theo cái kiểu, sống sót Lò Cải Tạo, một buổi chiều nơi xứ Mẽo, nhớ Sài Gòn, bèn lôi Nguyễn Du ra đọc!
[Gấu sẽ đi luôn cả hai bài, trong khi chờ... , en attendant M mail!]

Coetzee dẫn lời nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của thời của riêng chúng ta, nhà thơ Ba Lan Zbigniew Herbert.
Ông này phán: đối nghịch của cổ điển thì không phải là hiện đại, mà là man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man rợ” không hẳn một đối nghịch, mà là một đối đầu [not so much an opposition as a confrontation].
Từ đó suy ra, những “Thơ ở đâu xa”, “tôi cùng gió mùa”… đều là… cổ điển: Chúng dám đối đầu với man rợ.
*
Câu trả lời của Coetzee, cho câu hỏi, “Cổ điển là cái gì?”: Cổ điển là cái sống sót, … that the classic is what survives…. the classic defines itself by surviving… what survives the worst of barbarism, surviving because generations of people cannot afford to let go of it and therefore hold on to it at all costs – that is the classic.
Cái sống sót những gì tệ hại nhất của man rợ, sống sót theo cái nghĩa, hết thế hệ này qua thế hệ khác, con người không thể chịu nổi chuyện buông xuôi, cố ôm lấy nó, không thể cho man rợ thắng thế, cái đó gọi là cổ điển.
Gấu này tin rằng, cái gọi là cổ điển của Mít, chính là văn chương Miền Nam trước 1975. Chỉ có nó sống sót trong trận chiến "cổ điển vs man rợ"!

Ba cái thằng bỏ chạy bợ đít VC, mà là… sống sót ư?
*
“Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino gồm những bài viết về một số tác giả. Cách đọc “Bác sĩ Zhivago” của ông, trong bài “Pasternak và cách mạng”, thật là tuyệt. Ông không đồng ý với Lukacs, khi tin rằng, chẳng phải ngẫu nhiên mà thế kỷ của chúng ta là của truyện kể, récit, của tiểu thuyết ngắn [roman court, không phải sử thi], của những chứng từ có tính tiểu sử, tự thuật [témoignage autobiographique]. Calvino viết câu sau đây - có thể là để vinh danh một số câu văn thần sầu của… Gấu, [vừa thôi cha nội!], thí dụ như câu: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể", hay câu "
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu", [thì đã nói rồi, cái đám bỏ chạy làm sao viết nổi những câu như thế, và đây chính là điều Calvino "ngộ" ra, khi không đồng ý với phê bình gia tổ sư Mạc xít Lukacs, khi viết]: de nos jours, une prose narrative véritablement moderne ne peut faire porter sa charge poétique que sur le moment….
Cái gọi là ‘sur le moment’, đám bỏ chạy làm sao có?

&

V/v Linda Lê trích dẫn Calvino.

Trong bài viết “Tại sao đọc những tác phẩm cổ điển”, Calvino đưa ra nhiều đề nghị, trong có một, được Linda Lê trích dẫn, un classique est un livre qui n'a jamais fini de dire ce qu'il a à dire.
Nhân đây, post cả bài viết thú vị đó.

Trong bài viết, Calvino trích dẫn Cioran: Trong khi người đời sửa soạn làm thịt ông [làm món cigue, cỏ độc], thì Socrate đang mê mải học thổi ống sáo.
-Để làm gì? Người ta hỏi ông.
-Để biết thêm một điệu nhạc sến trước khi chết.

Note:
Sở dĩ Gấu phải mầy mò, lục lọi trong đống sách vở hầm bà làng do dọn nhà hai ba phen, cuốn của Calvino, ấy là vì, Gấu nhớ một câu, cũng trong bài, khác câu của Linda Lê.

Coi lại, thì ra câu Gấu nhớ, là ở trong bài tựa, bản tiếng Pháp, của Philippe Sollers. Cũng thật tuyệt.
Tại sao đọc cổ điển? Sollers trả lời: Bởi vì cổ điển đọc chúng ta.
Pourquoi lire les classiques?
Parce que ce sont eux qui nous lisent (1)

(1) Borges là tác giả cổ điển, trước khi là một huyền tượng. Nhưng như Philippe Sollers khi giới thiệu "Tại sao đọc cổ điển", của nhà văn người Ý, Italo Calvino: Bởi vì chính họ đang đọc chúng ta. Trò dởm đời: đòi nguyên gốc và tính thực (authenticité), vốn chỉ là thói soi gương bao giờ cũng chỉ để nhìn ngắm mình, của chúng ta. Calvino biết rõ điều này, bởi vì kẻ hiện đại độc nhất, có thể là một cổ điển. Luôn luôn là vậy, cổ điển là hiện đại. Và phải chứng minh điều đó ra.
Theo Calvino, lịch sử gia tài Borges ở Ý, tính ra là đã được 30 năm. Nó bắt đầu vào năm 1955, khi bản dịch đầu tiên Giả Tưởng (Ficciones) dưới cái tên Thư Viện Babel, xuất hiện tại nhà xb Einaudi. Mới nhất, là toàn bộ tác phẩm của ông, trong tủ sách Meridiani, của Modadori. Nhưng nó có sau Pháp, và là công của Roger Caillois. Ông này tới Buenos Aires, Argentine, quê hương của Borges, vào năm 1939 và ở đây đến cuối Đệ nhị chiến. Quá mê Borges, ông dịch Xổ số tại Babylone, Thư viện Babel (1944), rồi tuần tự những tác phẩm khác, cho xuất bản trong tủ sách "La Croix du Sud" do ông đảm đương tại nhà xb Gallimard. Liên hệ giữa hai người cũng thật gai góc. Một giai thoại: Khi Roger Caillois cho xuất bản tại Buenos Aires một nghiên cứu về tiểu thuyết trinh thám, ông cho rằng nguồn gốc của nó là ở thời Napoléon, và sự thành lập cơ quan cảnh sát, theo một hình thức hiện đại. Borges nói, tầm bậy, bởi vì "rõ ràng là thể loại tiểu thuyết trinh thám chẳng mắc mớ gì tới cảnh sát: đây là một thể loại khác biệt hẳn thể ký sự". Thực ra, vấn đề cơ bản ở đây là, với Caillois: giữa thực tại và văn chương, có sự liên tục, có qua lại, và tương đồng. Còn Borges coi đây là hai miền hoàn toàn khác biệt, tự chủ, mỗi nơi có, và bị chi phối bởi những luật lệ riêng. Sau đó, ông than: Chính nước Pháp đã phát minh ra tôi. Tôi đâu có hiện hữu. Caillois đã làm cho người ta nhìn thấy tôi. Than ôi, người ta nhìn thấy tôi: rõ quá!
Cũng vì lý do đó, đọc Borges bằng tiếng Pháp sẽ mất đi một điều thiết yếu: giọng điệu (tonalité) của bản văn. Điều này cho thấy, sự trung thành với một văn bản nói (thí dụ như văn chương nói của Miền Nam chẳng hạn), là một điều rất cần thiết: Khi nói, người ta tính tới "thời lượng" (la durée) của câu chuyện đang được kể: Người đẹp trong Ngàn Lẻ Một Đêm, đã "nát óc" tính toán, làm sao cho câu chuyện ngưng lúc nào, để bắt đầu một câu chuyện mới, nếu nàng muốn sống thêm một đêm nữa.
Theo tôi, những người viết Miền Nam ở hải ngoại hầu như đã quên mất bài học sinh tử này.
Borges và tôi

Soure

Bởi không ai có thể hoàn toàn đoạn tuyệt được quá khứ của một nền văn học ở đó mình đã từng là độc giả cần cù và đầy say mê.
NHQ

Có ai đoạn tuyệt được đâu, và đoạn tuyệt làm sao, làm gì cơ chứ. Những tác phẩm cổ điển, chẳng những không sao đoạn tuyệt, mà còn được dịch đi dịch lại hoài, cho thấy, bản dịch là củi mục, cho nên mỗi thời lại cần một bản dịch của riêng nó.

Cái câu khen hiển hách nhất mà 1 nhà điểm sách ban cho 1 tác phẩm, theo Gấu là, vừa mới ra lò đã trở thành… cổ điển. Và nếu có 1 cố gắng lớn lao nhất ở nhà điểm sách, thì đó là, tìm ra cái cổ điển, ở trong 1 tác phẩm mới ra lò.
Tuy nhiên, phải là Borges, thì mới phán ra câu trứ danh,  học trò khám phá ra Thầy, chứ không phải ngược lại, và từ đó, là hệ luận: Những đại tác phẩm vô danh, chưa hề hiện hữu. Les chefs-d'oeuvre inconnus n'existent pas. Gấu cũng đã mượn ý này, viết về Nước Cờ Hư Trúc, và được nhà văn PN mượn, gửi cho tờ VHNT của PCL, qua đó, Gấu cho rằng, sáng tạo, chỉ là lập lại [cái cũ]. Và sáng tạo là đốt lên cây diêm đã xài rồi [cây diêm, cây quẹt, nhe, không phải bao cao xu!]

Trong bài viết về tác phẩm Bếp Lửa, 1973, Gấu đã chôm ý đó, nhân đọc trong bài viết của Tây mũi lõ, nhưng phải đến khi ra hải ngoại, đọc, và dịch bài Những Tiền Thân của Kafka, Gấu mới biết, ông là tác giả câu nói trứ danh.

*

Trước 1975, thời gian phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật của tờ nhật báo quân đội Tiền Tuyến, trong một bài giới thiệu tác phẩm đầu tay của một nhà văn đã có vài tuổi lính, nhớ tới nhà văn Y Uyên vừa mới tử trận, tôi có đưa ra một nhận xét: Hãy cố gắng sống sót, và, nếu may mắn sống sót, nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ còn phải đụng với một cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém trận đầu: văn chương! 

Ý nghĩ này, tôi gặp lại, sau 1975, khi đọc Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi, chết trận Mậu Thân, hình như ở khu Chợ Thiếc, Chợ Lớn, Sài Gòn. Liên tưởng tới bạn bè, phóng viên nước ngoài đã từng có dịp được quen biết, và đã tử trận, như Huỳnh Thành Mỹ, Sawada... tôi bỗng nhận ra một điều, cuộc chiến thật thâm hiểm, tàn nhẫn: nó nuốt sạch những ai thực sự dám đương đầu với nó.

Theo cách suy nghĩ đó, tôi nghĩ, Bảo Ninh may mắn hơn nhiều người: ông may mắn ở cả hai cuộc chiến. 

Trong văn chương, ông vượt qua được khúc nguy hiểm nhất, mà đa số nhà văn Miền Bắc gục ngã. Đọc họ, những tác phẩm xuất hiện cùng lúc với Nỗi Buồn, tôi không thấy, cho dù chỉ một chút thiện cảm, khi họ viết về Miền Nam.

Có thể, họ chẳng hiểu gì về Miền Nam, ngoài những gì được Đảng nhồi nhét. 

Thượng Đế, trong một cơn giận dữ, tạo ra con người_con vật chính trị [Merleau-Ponty].

Cố quên đi sự giận dữ của Người, tôi đọc những tác phẩm của những tác giả Miền Bắc. Đọc Nguyễn Thi, tôi có được những hình ảnh tuyệt vời của người phụ nữ Miền Nam, tình bà con lối xóm, theo dõi bước chân người mẹ đi suốt hai cuộc chiến, trong đêm vội tạt về nhà cho con bú trước giờ vào trận. Đọc Nguyễn Huy Thiệp, thời gian ông dậy học ở một bản làng miền núi, trong văn ông thấp thoáng chất huyền thoại, cái nôi của văn chương, của chuyện kể, chưa vướng mùi lý luận, giải thích, lên lớp… vốn là một thói quen không thể bỏ của đa số tác giả Miền Bắc. Đến “Tướng Về Hưu”, người đọc nhận ra không khí vất vưởng, cô đơn bao trùm lên tính khô khan của nhân vật, tính tàn nhẫn của sự kiện báo hiệu sự xuất hiện của những bạo chúa Caligula sau này.

Gấu đọc Nỗi Buồn