*


 



*

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường

Gérard Genette, trong Hình Tượng I, có mấy bài viết về thơ thật tuyệt. Tin Văn sẽ giới thiệu, để chào mừng M:
Welcome to my world: Hub Cafe - Tecapro Park 18A Cộng Hòa Q.Tân Bình, từ 16.05.09.

Tuy nhiên, cái tài thẩm thơ của họ Đặng, theo Gấu, là nhờ trời phú.
Koestler, trong Janus, chương viết về khám phá nghệ thuật, The dicoveries of art, cho rằng, động cơ cơ bản của một nhà khoa học sáng tạo, the creative scientist, là cú đột phá có tính mạo hiểm, the explorative drive. Tuy nhiên, ông nói thêm, nghệ sĩ lớn cũng có cái phần tử thám hiểm đó ở trong ông ta: nhà thơ không mầy mò với mớ chữ, như đám cà chớn thường dè bỉu, ông ta khai phá những tiềm năng xúc cảm và miêu tả của ngôn ngữ, the emotive and descriptive potentialities of language… Cú khai phá có nguồn sinh học mang tính nhất thể của nó, nhưng nó có thể được phân bố vào những đường hướng khác nhau.


The man who lost China
History may have judged Chiang Kai-shek too severely
Chiang was not such a loser after all.


100 năm ngày sinh của Simone Weil
L'autre Simone
Trang Simone Weil
Bad Friday
Đọc & Dịch Weil
Thánh Simone - Simone Weil

“Tại sao đọc những tác phẩm cổ điển”

Hãy thử bắt đầu bằng một định nghĩa:
Tác phẩm cổ điển là thứ mà người ta nói, “tôi đang đọc lại nó”, không hề nói, “tôi đang đọc nó.”
Điều này chí ít chỉ có thể xẩy ra giữa đám “đọc rộng”, không thể áp dụng cho tuổi trẻ, vào tuổi đó, cái gì gì thì cũng là nụ hôn đầu, tình đầu, lần đầu gặp gỡ, cú sét đánh…
Cái mẩu “lại”, trong “đọc lại” có thể làm cho một độc giả nào đó, đỏ mặt, nhất là những đấng nghĩ rằng mình chưa từng đọc một dòng Tội Ác và Trừng Phạt, thí dụ. Để an ủi họ, chúng ta có thể nói, ngay cả thằng cha Gấu, được đời khen tặng uyên bác, hay chữ, thực sự, cái đọc của hắn ta thì cũng chỉ quanh quẩn nơi lò thiêu người, lò lao động cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ, hay Phạm Văn Cội, Củ Chi Thành Đồng, là cùng!
Nào, ai đã từng đọc hết Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Bọ Lập Ký Ức Vụn… giơ tay lên! Ngay cả những bộ sách lãng mạn trứ danh, thì cũng chỉ nghe người đời xướng danh, thay vì đọc chúng. Ở Pháp, người ta bắt đầu đọc Balzac khi đi học, và qua những những lần tái bản cho thấy, Tây mũi lõ vẫn tiếp tục đọc Balzac, khi hết còn mài đít quần trên ghế nhà trường. Ở Ý, đám fans của Dickens thì cũng chỉ có một dúm, và mỗi lần gặp nhau, là mỗi lần trộ nhau, cứ như là thằng nào cũng quá rành Oliver Twist!
Cách đây vài năm, Michel Butor, dậy học tại Mẽo, quá chán vì cứ nghe lải nhải, Thầy đã đọc Emile Zola chưa, sự thực, ông chưa từng đọc, và thế là một ngày đẹp trời, bèn chúi mũi vào Zola. Kết quả ông khám phá ra một điều không thể ngờ được về bộ Rougon–Macquart: Một phả hệ học tuyệt vời về huyền thoại và vũ trụ, và sau đó ông chỉ ra trong một tiểu luận thật đẹp.
*
Coetzee mở ra cuốn Những bến bờ lạ lẫm hơn, Stranger Shores, bằng bài viết Cái Gì Là Cổ Điển ? thật tuyệt. Bài này Mít chắc thú hơn bài của Calvino, vì ông chú trọng tới cái thời của riêng chúng ta, khi đọc một cổ điển.
Theo cái kiểu, sống sót Lò Cải Tạo, một buổi chiều nơi xứ Mẽo, nhớ Sài Gòn, bèn lôi Nguyễn Du ra đọc!
[Gấu sẽ đi luôn cả hai bài, trong khi chờ... , en attendant M mail!]

Coetzee dẫn lời nhà thơ cổ điển vĩ đại nhất của thời của riêng chúng ta, nhà thơ Ba Lan Zbigniew Herbert.
Ông này phán: đối nghịch của cổ điển thì không phải là hiện đại, mà là man rợ.
Cú đụng độ “cổ điển vs man rợ” không hẳn một đối nghịch, mà là một đối đầu [not so much an opposition as a confrontation].
Từ đó suy ra, những “Thơ ở đâu xa”, “tôi cùng gió mùa”… đều là… cổ điển: Chúng dám đối đầu với man rợ.
*
Câu trả lời của Coetzee, cho câu hỏi, “Cổ điển là cái gì?”: Cổ điển là cái sống sót, … that the classic is what survives…. the classic defines itself by surviving… what survives the worst of barbarism, surviving because generations of people cannot afford to let go of it and therefore hold on to it at all costs – that is the classic.
Cái sống sót những gì tệ hại nhất của man rợ, sống sót theo cái nghĩa, hết thế hệ này qua thế hệ khác, con người không thể chịu nổi chuyện buông xuôi, cố ôm lấy nó, không thể cho man rợ thắng thế, cái đó gọi là cổ điển.
Gấu này tin rằng, cái gọi là cổ điển của Mít, chính là văn chương Miền Nam trước 1975. Chỉ có nó sống sót trong trận chiến "cổ điển vs man rợ"!

Ba cái thằng bỏ chạy bợ đít VC, mà là… sống sót ư?
*
“Tại sao đọc cổ điển” của Italo Calvino gồm những bài viết về một số tác giả. Cách đọc “Bác sĩ Zhivago” của ông, trong bài “Pasternak và cách mạng”, thật là tuyệt. Ông không đồng ý với Lukacs, khi tin rằng, chẳng phải ngẫu nhiên mà thế kỷ của chúng ta là của truyện kể, récit, của tiểu thuyết ngắn [roman court, không phải sử thi], của những chứng từ có tính tiểu sử, tự thuật [témoignage autobiographique]. Calvino viết câu sau đây - có thể là để vinh danh một số câu văn thần sầu của… Gấu, [vừa thôi cha nội!], thí dụ như câu: "Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể", hay câu "
Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu", [thì đã nói rồi, cái đám bỏ chạy làm sao viết nổi những câu như thế, và đây chính là điều Calvino "ngộ" ra, khi không đồng ý với phê bình gia tổ sư Mạc xít Lukacs, khi viết]: de nos jours, une prose narrative véritablement moderne ne peut faire porter sa charge poétique que sur le moment….
Cái gọi là ‘sur le moment’, đám bỏ chạy làm sao có?

&

V/v Linda Lê trích dẫn Calvino.

Trong bài viết “Tại sao đọc những tác phẩm cổ điển”, Calvino đưa ra nhiều đề nghị, trong có một, được Linda Lê trích dẫn, un classique est un livre qui n'a jamais fini de dire ce qu'il a à dire.
Nhân đây, post cả bài viết thú vị đó.
Trong bài viết, Calvino trích dẫn Cioran: Trong khi người đời sửa soạn làm thịt ông [làm món cigue, cỏ độc], thì Socrate đang mê mải học thổi ống sáo.
-Để làm gì? Người ta hỏi ông.
-Để biết thêm một điệu nhạc sến trước khi chết.
Note:
Sở dĩ Gấu phải mầy mò, lục lọi trong đống sách vở hầm bà làng do dọn nhà hai ba phen, cuốn của Calvino, ấy là vì, Gấu nhớ một câu, cũng trong bài, khác câu của Linda Lê.
Coi lại, thì ra câu Gấu nhớ, là ở trong bài tựa, bản tiếng Pháp, của Philippe Sollers. Cũng thật tuyệt.
Tại sao đọc cổ điển? Sollers trả lời: Bởi vì cổ điển đọc chúng ta.
Pourquoi lire les classiques?
Parce que ce sont eux qui nous lisent (1)

(1) Borges là tác giả cổ điển, trước khi là một huyền tượng. Nhưng như Philippe Sollers khi giới thiệu "Tại sao đọc cổ điển", của nhà văn người Ý, Italo Calvino: Bởi vì chính họ đang đọc chúng ta. Trò dởm đời: đòi nguyên gốc và tính thực (authenticité), vốn chỉ là thói soi gương bao giờ cũng chỉ để nhìn ngắm mình, của chúng ta. Calvino biết rõ điều này, bởi vì kẻ hiện đại độc nhất, có thể là một cổ điển. Luôn luôn là vậy, cổ điển là hiện đại. Và phải chứng minh điều đó ra.
Theo Calvino, lịch sử gia tài Borges ở Ý, tính ra là đã được 30 năm. Nó bắt đầu vào năm 1955, khi bản dịch đầu tiên Giả Tưởng (Ficciones) dưới cái tên Thư Viện Babel, xuất hiện tại nhà xb Einaudi. Mới nhất, là toàn bộ tác phẩm của ông, trong tủ sách Meridiani, của Modadori. Nhưng nó có sau Pháp, và là công của Roger Caillois. Ông này tới Buenos Aires, Argentine, quê hương của Borges, vào năm 1939 và ở đây đến cuối Đệ nhị chiến. Quá mê Borges, ông dịch Xổ số tại Babylone, Thư viện Babel (1944), rồi tuần tự những tác phẩm khác, cho xuất bản trong tủ sách "La Croix du Sud" do ông đảm đương tại nhà xb Gallimard. Liên hệ giữa hai người cũng thật gai góc. Một giai thoại: Khi Roger Caillois cho xuất bản tại Buenos Aires một nghiên cứu về tiểu thuyết trinh thám, ông cho rằng nguồn gốc của nó là ở thời Napoléon, và sự thành lập cơ quan cảnh sát, theo một hình thức hiện đại. Borges nói, tầm bậy, bởi vì "rõ ràng là thể loại tiểu thuyết trinh thám chẳng mắc mớ gì tới cảnh sát: đây là một thể loại khác biệt hẳn thể ký sự". Thực ra, vấn đề cơ bản ở đây là, với Caillois: giữa thực tại và văn chương, có sự liên tục, có qua lại, và tương đồng. Còn Borges coi đây là hai miền hoàn toàn khác biệt, tự chủ, mỗi nơi có, và bị chi phối bởi những luật lệ riêng. Sau đó, ông than: Chính nước Pháp đã phát minh ra tôi. Tôi đâu có hiện hữu. Caillois đã làm cho người ta nhìn thấy tôi. Than ôi, người ta nhìn thấy tôi: rõ quá!
Cũng vì lý do đó, đọc Borges bằng tiếng Pháp sẽ mất đi một điều thiết yếu: giọng điệu (tonalité) của bản văn. Điều này cho thấy, sự trung thành với một văn bản nói (thí dụ như văn chương nói của Miền Nam chẳng hạn), là một điều rất cần thiết: Khi nói, người ta tính tới "thời lượng" (la durée) của câu chuyện đang được kể: Người đẹp trong Ngàn Lẻ Một Đêm, đã "nát óc" tính toán, làm sao cho câu chuyện ngưng lúc nào, để bắt đầu một câu chuyện mới, nếu nàng muốn sống thêm một đêm nữa.
Theo tôi, những người viết Miền Nam ở hải ngoại hầu như đã quên mất bài học sinh tử này.
Borges và tôi


Ngày xưa, nước tiểu
Thảo Trường

30.4.2009
&
**

Le livre
LA PEAU
par Curzio Malaparte 448 p., Folio, 39 F
La peau se clôt sur une phrase sibylline: « C'est une honte de gagner la guerre. » Mais le livre montre surtout combien il est honteux de la perdre. Car l'Italie des années 43-45 est une terre ravagée par la mort, la misère et l'humiliation.
Officier de liaison auprès de l'armée américaine, le capitaine Malaparte remonte de Naples à Florence. Et il décrit des scènes qui tiennent davantage des cauchemars dantesques que du cinéma néoréaliste. C'est une succession de farces sinistres: des soldats à l'agonie; un peuple contraint par la faim de vendre ses filles aux G.I. et ses petits garçons aux troupes marocaines. Les trafics avilissants se mêlent aux échos des tueries de monte Cassino. Jamais à court d'horreurs, Malaparte rajoute aux malheurs de la guerre une éruption du Vésuve, un chien torturé dans un laboratoire ... On se dit souvent qu'il en fait trop, qu'il répète trois fois la même chose et privilégie les grosses ficelles. Mais cette suspicion de caricature ne dure jamais longtemps. Ses officiers américains d'une ingénuité ridicule, sont aussi des types droits et pleins de compassion. Ses jeunes Mussoliniens peuvent être courageux; ses résistants, abjects. C'est le secret de Malaparte: il énerve, il irrite, mais personne ne peut lui tourner le dos. Ni lâcher ses livres.
r e p ère s
Pour présenter l'étrange individu qui domina la littérature italienne pendant deux ou trois décennies sous le nom de Curzio Malaparte (1898-1957), on pourrait dire qu'il fut une réincarnation de D'Annunzio revue et corrigée par Malraux avec un peu de Hemingway et un brin de Céline. Il fut un m'as-tu-vu, un bonimenteur, un menteur qui finit par se prendre pour un acteur de premier plan. Il cultiva un goût immodéré pour le salace, l'épouvantable, le grotesque. Aussi adhéra-t-il au fascisme, au stalinisme et au maoïsme. Une ambition essentielle domina sa vie: faire parler de lui. Et la constante de sa pensée fut un insondable dégoût pour l'humanité en général et ses compatriotes en particulier. A ceux qui pensent que l'auteur de Kapput ne mérite pas le titre de grand écrivain, Dominique Fernandez sugère cette réponse dans Le voyage d'Italie (Plon) : « Je me demande même s'il n'arrivait pas à Malaparte d'exagérer à dessein les défauts de son style, de soigner les outrances, de forcer le trait volontairement, pour se faire taxer de mauvais écrivain, et jouir in petto de la cécité des critiques abusés par sa supercherie. » Nous pouvons donc célébrer sans la moindre réticence le centenaire de sa naissance. D.S.
L 1 R E / 0 C T 0 B R E 1998

Thượng Đế đã chết trong thành phố, La peau, khép lại bằng một câu thần bí: "Thắng trận nhục nhã lắm". Nhưng cuốn sách cho thấy, nhục nhã biết bao, khi thua nó.
Bởi vì cái Miền Nam nước Mít sau 30 Tháng Tư 1975 quả đúng là một miền đất bị ông anh ruột thịt của nó làm cho nát bấy, vì đói khổ, khốn cùng, và nhục nhã.
Và cái sự đói khổ, khốn cùng, nhục nhã đó kéo dài 34 năm cho đến bây giờ, và chẳng có gì hy vọng, sẽ chấm dứt.

Huế Mậu Thân Album

Một thế gian thênh thang
Nguyễn Ngọc Tư
Cái hộp thư tôi đang xài có một kiểu gửi thư rất buồn cười: gởi cho chính mình. Những gì cho là quan trọng, tôi đính kèm vào thư, gởi đến… tôi. Lúc nào cần, dù đang ở bất cứ đâu, vào mạng internet được là lấy tư liệu xuống được. Bởi có quá nhiều thứ có thể trao thân gởi phận theo kiểu đó nên tôi cũng siêng viết thư cho tôi. Cũng có khi thư không kèm theo tệp tin nào, nội dung gọn lỏn chỉ vài chữ, “Cố lên, đừng chán”, “Buồn làm chi tui ơi…”, “mùa mưa đi ngang qua cửa sổ…”, “người thấy vậy mà xa…”. Chúng thảng hoặc vu vơ, bất chợt, ngớ ngẩn, như thể không có ý nghĩa gì.
Nhiều bữa kiểm tra hộp thư chỉ thấy chỏn lỏn thư mình, chữ cười trong “buồn cười” rơi đi mất. Việc đọc của chính mình có chút nào xốn xang có chút nào cay đắng, nhất là những thư không kèm theo tư liệu. Nó nói lên một sự thật là ta đã mất niềm tin và khả năng chia sẻ vui buồn với người khác. Sống rúc vào chính mình, tựa vào chính mình để đứng dậy, vịn những lời nhắn ngẩn ngơ của mình để đi qua miền ưu phiền.
Nghĩ, cái anh lập trình ra cái vụ thư gởi cho mình này hoặc quá chu đáo, hiểu đến tơ tóc nhu cầu của người dùng hoặc đã từng cô đơn, thấu đến tơ tóc của cô đơn. Nên anh ta biết được vào những lúc nhân gian vắng rợn, có người ngồi chờ không thấy ai viết thơ cho mình, mà mình thì cũng không biết viết cho ai, bởi có những chuyện không tìm được người, không tin được người, không chờ được người để san sẻ, cô ta bèn viết gởi chính mình.
Như có người mua hoa bằng tay này rồi tặng tay kia.
Như có người đứng giữa núi kêu lên để nghe tiếng mình vọng lại.
Như có người lang thang ngoài vườn vắng để thủ thỉ những bí mật, những nỗi đau mà ôm kín trong lòng họ sẽ vỡ tung ra mất.
Dù là kiểu cổ điển như đào hố chui xuống tâm tình với đất hay hiện đại như cái hộp thư điện tử tôi đang xài thì cũng giống nhau, rằng những bờ vai, những bàn tay, những ánh mắt cảm thông trìu mến đôi khi không có giá trị. Và càng ngày càng mất giá trị. Không cần thiết. Con người đã thừa mạnh mẽ (hay thừa u uất?) để sống mà không tha thiết bầy đàn.
Chỉ là một bữa nào đó, khi tự  điền tên tôi vào chỗ “người nhận”, thấy mình như đang uống một ly chua xót đầy, ủa, sống sao mà tới nông nổi này, thế gian thênh thang vậy mà không có ai tri âm hết? Nói theo kiểu dân gian là kiếm không ra một người bạn để… làm thuốc.
Quá tệ!          
*
Như có người mua hoa bằng tay này rồi tặng tay kia.
Như có người đứng giữa núi kêu lên để nghe tiếng mình vọng lại.
Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ!


Dọn Kít

Lời toà soạn : Chúng tôi vừa nhận được tập tản văn THẤY PHẬT của tác giả Cao Huy Thuần (Phương Nam & Nhà xuất bản Tri Thức, 2009, 340 trang).
Giới thiệu tác giả và tác phẩm, cũng bằng thừa. Nhưng chúng tôi cũng xin mượn cớ để đăng dưới đây bài viết mào đầu của Bùi Văn Nam Sơn.
Diễn Đàn
*
Cũng bằng thừa!
Phách lối hơn cả… thằng cha Gấu!
Nhưng Cao Huy Thuần là thằng cha nào vậy, cà?
Chắc cũng băng đảng tinh anh Miền Nam bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC.
Nếu không phải, xin lỗi. NQT (1)
(1)
...  Số trí thức ít ỏi này được anh Nguyễn Hữu Liêm gọi là trí thức “từ phía trái” với những tên tuổi nổi tiếng và quen thuộc: Ngô Vĩnh Long, Nguyễn Ngọc Giao, Cao Huy Thuần, Vũ Quang Việt, Trần Hữu Dũng, Hà Dương Tường, Trần Quốc Hùng, Vũ Xuân Hân... Đây là những trí thức thiên tả lừng danh một thời…
Nguồn
*
Mở đầu là một người cháu gái của Nguyễn Văn Vĩnh, nay chắc cũng đã quá tuổi tứ tuần, kể chuyện cách đây mấy mươi năm một hôm đi học về tủi thân và khóc ròng, lại gặp cơn mưa lớn, phải vào trú dưới mái hiên một nhà bên đường. Bà cụ chủ nhà thấy có cô học trò đứng dưới hiên nhà mình mà khóc, liền ra hỏi: “Sao cháu khóc nhiều thế?”. Cô bé sụt sùi: “Sáng nay ở lớp cô giáo dạy rằng ông nội cháu là một tên đại Việt gian, tay sai, bồi bút cho thực dân Pháp, cháu buồn, cháu nhục quá…”. “Vậy ông nội cháu là ai?”. “Dạ, ông cháu là Nguyễn Văn Vĩnh ạ...”. Bà cụ ôm chầm lấy cô bé: “Trời ơi, cháu là cháu nội Tân Nam Tử ư? Ôi, cháu vào ngay đây với bà, cháu không việc gì phải khóc cả, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất vĩ đại, mặc ai nói gì thì nói, cháu phải rất tự hào. Cháu có một người ông từng có công lớn lắm với đất nước này... Rồi xã hội cũng sẽ phải công bằng thôi, cháu ạ...”. Quả thật ngày nay cuộc sống đã bắt đầu trả lại sự công bằng- muộn mằn và chậm chạp - cho nhân vật cao lớn đến kỳ lạ ấy của đất nước: một nhà văn, một nhà báo, một dịch giả, một nhà văn hóa lớn, hầu như lĩnh vực nào cũng là người khai phá và luôn ở hàng đầu, người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc, ông tổ của ngành in hiện đại ở nước ta, người đầu tiên thiết lập nền sân khấu hiện đại ở Việt Nam, và bằng những bài thơ dịch La Fontaine tuyệt vời, cũng là người đầu tiên phá vỡ thể thơ truyền thống, giải phóng thơ Việt ra khỏi khuôn khổ cổ cứng nhắc hàng nghìn năm, mở đường cho thơ mới ra đời, hiện đại hoá thơ Việt, cũng lại là một trong những người tiên phong sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục: một nhà khai sáng chói lọi của đất nước đầu thế kỷ XX…
Nguyên Ngọc
Một người bị buộc tội là Việt gian, bị đem làm thịt. Bây giờ, vẫn đám làm thịt người ‘sửa sai’, "nói lại", không phải Việt gian, thế mà gọi là công bằng ư?
Đây chỉ là thủ đoạn chính trị mang tính giai đoạn. Cần gì cách đây nửa thế kỷ. Cái đám bỏ nước ra đi sau 1975, cũng Việt Gian, bây giờ thành Việt Kiều yêu nước.
Chỉ một khi nhà nước chính thức, công khai tuyên bố, nhận trách nhiệm, và phục hồi danh dự cho nhà họ Nguyễn Văn Vĩnh, may ra, chứ một mình ông Nguyên Ngọc, thì chưa có gì là công bằng!


Chim thiêng

Kỷ niệm, kỷ niệm