*
Notes

I

1 2
3
















"Mặc cảm thiếu quê hương" là "đơn thuốc" mà nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đã "bốc bệnh" cho bộ phim "Áo lụa Hà Đông" của đạo diễn Việt kiều Lưu Huỳnh và cho rằng căn bệnh này khá phổ biến ở các cây bút hải ngoại. Tràn ngập trong các sáng tác của chị là những thân phận xa xứ, phải chăng chị cũng có mặc cảm đó?
-  Tôi mới đọc cuốn tiểu thuyết La vie d’un homme inconnu (Cuộc đời một người không quen) của Andrei Makine - nhà văn gốc Nga, sáng tác bằng tiếng Pháp, từng đoạt giải Goncourt. Có vẻ như, càng lúc, Andrei Makine càng cố tình khiến dân Pháp phật lòng, vì ông không ngừng chỉ trích cái nhìn thiển cận và định kiến của họ về người nước ngoài nói chung và nền văn học Nga nói riêng.
Nhân vật chính, cũng là một nhà văn Nga sống tại Pháp, không ít lần cay đắng thốt lên: Tsekhov nhạt nhẽo, dễ dàng như thế, không hiểu sao lại trở thành vĩ đại trên đất Pháp, để các NXB Pháp cương quyết từ chối những gì đến từ Nga mà không mang hơi hướm Tsekhov... Sáng tác với tôi không có quốc tịch! Như đã nói, tôi không có mặc cảm nào hết. Cay đắng là sự thật, chứ không phải mặc cảm!
Thuận
*
Mặc cảm thiếu quê hương?
Tâm trạng thì có, nhưng mặc cảm, chắc không.
Căn bệnh khá phổ biến ở các cây bút hải ngoại bây giờ?
Những cây bút nào?
Nhưng câu trả lời mới quái.
Makine là nhà văn Nga, nhưng viết văn bằng tiếng Tây. Ông rất mê tiếng Tây, mê Proust, nhưng đa số tác phẩm của ông, là về một nước Nga bị chủ nghĩa CS làm cho sống dở chết dở. Không hiểu tại sao mà em Mít này lại nhắc tới ông Nga này, trong một câu hỏi về mặc cảm thiếu quê hương?
Cay đắng. Sao em cay đắng? Thắng trận có thể nhục nhã, nhưng không thể cay đắng.
Cái đó phải để dành cho những kẻ như Gấu, chứ làm sao em mà cũng cay đắng?
Bởi vì Sến cô nương đã có lần mắng mỏ Gấu [Sao anh cay đắng quá như vậy ?], khi Gấu chưa được bốc thuốc chữa trị mặc cảm thiếu quê hương Miền Nam.
Còn cái chuyện Makine làm phật lòng dân Tây thì không chắc đã liên quan tới Chekhov.
Bởi vì ông Makine này đã từng viết cả một cuốn sách để nói cái lý do ông ta phật lòng nước Pháp, nơi đã cưu mang ông. Tên cuốn sách là Nước Pháp mà người ta quên yêu nó

*
Tây phương vẫy gọi
Chuyện tình

"Làm cho văn chương trở thành điếm đàng là một tội ác chống lại nhân loại".

Dispatches from the heart of the revolution
Andreï Makine confirms his status as a major novelist in this moving tale of an African Marxist

Stephanie Merritt
Sunday June 22, 2008
The Observer

Human Love
Andreï
Makine

Sceptre £12.99, pp249

In Andreï Makine's version of history, a fragment is found among Che Guevara's notebooks after his death entitled 'Why Revolutions Die'. Makine's 11th novel is an extended answer to Guevara's query, and to the related question of what revolutions are for in the first place. 'For what is the point of such liberating turmoil,' asks Elias Almeida, the African revolutionary whose story is narrated here, 'if it does not radically change the way we understand and love our fellow human beings?' 

Makine is not greatly celebrated in this country but in his adopted homeland of France, where he has lived and written in French since seeking political asylum from Russia in 1987, he is considered one of the leading contemporary European novelists. Much of his fiction has focused on Russian lives lived in the shadow of the Soviet experiment and sustained by dreams of the West. In Human Love he turns his attention to the failure of the Marxist ideal in another context: the Soviet-backed revolutions in Africa and their aftershocks that rumble on into the present.
Nguồn
Trong bản văn viết về lịch sử của ông, một mẩu được tìm thấy ở trong Sổ Ghi của Che, sau khi ông chết, nhan đề là: Tại sao Cách Mạng chết?
Cuốn tiểu thuyết của Andrei Makine là để tìm câu trả lời cho quan tâm của Che, và cho câu hỏi, Cách Mạng, “ba cái trò làm xàm giải phóng này là cái quái gì, nếu nó không thay đổi đến tận cơ bản cách mà chúng ta hiểu và yêu những bạn người của chúng ta?”

Ngoảnh mặt với cuộc chiến
Tác phẩm mới nhất của nhà văn Nga, Andrei Makine, Goncourt 1995, Cuộc đời của một người vô danh, La Vie d’un homme inconnu, vẫn là một tác phẩm viết về cuộc chiến. Nhân vật người lính già của ông, Volki, đã từng kinh qua cuộc vây hãm Leningrad, cuộc chiến, trại tù Goulag… Nước Nga được làm nên từ những con khủng long vô danh, tuyệt tích giang hồ đó.

Khi được hỏi, “Comment est-ce possible?” Làm sao có thể có chuyện đó? [L’Express, 29 Tháng Giêng, 2009], ông trả lời:
Có cả một thế hệ những con người như thế bị bỏ vào thùng rác của lịch sử. Họ đã dâng hiến hết cuộc đời của họ cho xứ sở, cho cuộc chiến, và bây giờ họ bị coi như là những quái vật, des extraterrestres. Tôi muốn viết về họ, những con quái vật bị bỏ lại khi con nước thủy triều lịch sử đã rút xuống. Nếu văn chương có một lý do hiện hữu, thì đó là, nó cho những con người đó lời nói của họ.
Nhìn như thế, thì Mít chưa hề có thứ văn chương tham dự cuộc chiến, đừng nói chuyện ngoảnh mặt. Chẳng lẽ bao đời sau, nhìn lại cuộc chiến, thì lại vẫn thứ “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” ư?

Trong chiến tranh, làm chuyên viên vô tuyến viễn ảnh cho hãng UPI, Gấu này đã từng nhìn thấy những chùm ảnh, thí dụ, của ba anh bộ đội bị xiềng vô một khẩu súng máy, vô phương bỏ chạy, và khi anh thứ nhất bị bắn chết, thì anh thứ nhì dùng chiếc xích sắt kéo khẩu súng về chỗ anh nằm, và bắn tiếp. Chúng ta chưa hề được nghe tiếng nói của những con người đó, hay của một anh đào ngũ, hay trốn vô chiến trường Miền Nam, và cả gia đình bị liên lụy, bố mẹ bị bắt giam, gia đình bị cúp tem phiếu lương thực, bị phỉ nhổ, bị làm nhục
Và Makine nói thêm, luôn có một điều gì đó để mà gìn giữ trong một thời đại. [Il y a toujours quelque chose à sauver dans une époque]

Một tác phẩm như vậy, cay đắng, ở một em 'ngồi lên đầu nhân dân', là hà cớ làm sao?

"Mặc cảm thiếu quê hương" là "đơn thuốc" mà nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đã "bốc bệnh" cho bộ phim "Áo lụa Hà Đông" của đạo diễn Việt kiều Lưu Huỳnh và cho rằng căn bệnh này khá phổ biến ở các cây bút hải ngoại. Tràn ngập trong các sáng tác của chị là những thân phận xa xứ, phải chăng chị cũng có mặc cảm đó?
Gấu này chưa coi phim Áo Lụa Hà Đông, thành thử không thể nào‘phản hồi’ cái đơn thuốc mặc cảm của nhà phê bình NTS. Tuy nhiên, tựa đề phim là tên một bài hát phổ thơ Nguyên Sa; ông, khi làm bài thơ, là để nhớ lại những kỷ niệm thời còn ở ngoài Bắc. Một kỷ niệm đẹp chẳng liên quan gì tới mặc cảm thiếu quê hương. Hơn nữa, nữ tác giả Phố Chệt vốn dân Hà Nội, sau 1975, đi Tây du học, đi đi về về lúc nào cũng được, tại làm sao lại có cái chuyện tràn ngập như thế đó. Lạ thực.
Note: Sắp đi rồi mà vẫn phải làm công việc này, chán thiệt!

 *


Tay Makine quả là thiêng thật. Vừa nhắc đến tên một cái, là có tôi liền. Tờ Lire, số tháng Ba 2009, một độc giả vặc tòa soạn, Mít kia còn đọc, tại sao lại quên Makine?
Tin Văn là nơi đầu tiên nhắc tới Makine, khi giới thiệu bài viết của Tolstaya về cuốn nổi đình nổi đám của ông, Di Chúc Pháp, trên tờ NYRB, 20 Nov. 1997

Cùng số báo, đặc biệt về văn chương Mexico, có bài phỏng vấn Fuentes, thật tuyệt. Ông phán về nước Mễ của ông: Dân Mễ như đám ăn mày ngồi trên núi vàng. Gấu, mắt mù dở, đọc vội, thành: Dân Mít như lũ ăn mày ngồi trên núi Bô Xịt! [Bullshit].
Cũng vàng vậy!
Sau đây, là một số câu hỏi, và, có vẻ ông trả lời giùm dân Mít chúng ta, thí dụ như là về tham nhũng, độc đảng, và về cái nước mình nó là như thế!

*

Carlos Fuentes:
« Le Mexique est un pays de mendiants assis sur une montagne d'or»

Comment voyez-vous les relations entre la littérature et la politique : ont-elles à se mêler l'une de l'autre?
C.F: C’est bien sur, la littérature se mêle tout le temps de la politique. Parfois bien, parfois mal ... Je crois que la littérature repose sur une réalité basique constituée par le langage et par l'imagination. La responsabilité de l'écrivain est là : qu'est-ce qu'on fait avec le langage, avec les mots, et avec l'imagination? Une fois cela obtenu, ce qui est la base de la création littéraire, l'écrivain peut dire également: je suis aussi un citoyen, et je vais voter pour un tel, ou je vais m'associer à telle idéologie. Le Chilien Pablo Neruda était un grand poète. Qu'il ait été staliniste ou communiste est secondaire, c'est un choix de citoyen. A l'autre extrême, Louis-Ferdinand Céline était un antisémite, un type horrible, mais quels grands livres il a écrits! Le pire est de se soumettre littérairement à une idéologie. De nombreux écrivains soviétiques l'ont fait et ils ont écrit des livres médiocres.
Dans votre nouveau livre, Le bonheur des familles, vous écrivez: « L'idéologie fait que les imbéciles et les intelligents deviennent camarades ». Ou encore: «L'artiste est un être à part. Il n'a de comptes à rendre qu'à son art » ...
C.F: N' oubliez pas que ce sont les propos de mes personnages!
Mais il y a bien une part de Carlos Fuentes dans ce que vous leur faites dire, non?
C.F: C'est inévitable. Je pense bien sur à Flaubert disant: « Madame Bovary, c'est moi. » Un personnage est créé par l'écrivain, mais l'écrivain se tient à distance. Tout se joue dans cette distance qui peut s'établir entre la création de l'écrivain et l'écrivain lui-même. J'ai récemment écrit un roman à la première personne, La voluntad y la jortuna [La volonté et la fortune ], qui vient de paraître au Mexique : c'est une chose que je fais rarement et j'ai ressenti une très grande liberté dans le fait d'être moi-même tout en étant différent. Ce n'est pas pour auutant un livre autobiographique. La seule fois où je me suis risqué sur ce terrain de l'autobiographie, c'est dans Diane ou la chasseresse solitaire.
D.H. Lawrence disait que « nulle part comme au Mexique, la violence ne côtoie de plus près la tendresse». C'est aussi votre avis?
C.F. Il y a effectivement une grande tendresse au Mexique, son peuple est merveilleux. Il y a aussi beaucoup de cruauté, mais toujours cet espoir que le pays va s'améliorer grâce à la grandeur d'âme du peuple mexicain. Seuulement la situation a vraiment empiré. Quand j'étais jeune, je pouvais sortir dans les cafés et les cabarets de Mexico jusqu'à trois heures du matin

«J'ai voulu donner un écho très puissant à cette voix de la misère, de la violence»

et rentrer tranquillement chez moi à pied. Aujourd'hui, je ne me risque même plus à m'aventurer tout seul au-delà du coin de la rue. Il nous faut inventer d'urgence une modernité mexicaine où fonctionnent la loi et la justice. Mais ça va nous demander beaucoup de temps et de travail. Je ne serai plus là pour voir le résultat ...
La première nouvelle du Bonheur des familles développe le thème de la corruption au Mexique: est-elle vraiment impossible à éradiquer?
C.F. La corruption n'est pas l'apanage du Mexique. Elle existe dans tous les pays du monde, y compris en France. Le problème, c'est la possibilité de la signaler et de la combattre. Au Mexique, la corruption est une coutume très ancienne, qui remonte aux Aztèques, qui a eu cours à l'époque du règne espagnol, durant la République, etc. A tel point qu'au Mexique c'est l'honnêteté qui est l'exception. Tout le contraire des Etats-Unis, où la corruption est l'exception. Là-bas, dès qu'une affaire de corruption se présente, il y a procès. Ce n'est pas le cas au Mexique. Nous devons donc créer cette culture de l'anticorruption qui nous fait tellement défaut. Cela suppose de lutter contre l'héritage de plusieurs siècles. Qui plus est, un pays où il y a tant de différences de classes comme le Mexique est un pays corrompu par définition.
N'y a-t-il pas aussi ce fatalisme des Mexicains, qui laisseraient le pays courir à sa perte?
C.F  Oui, en effet. Mais il y a aussi autre chose d'intéressant qui est l'opposition à la fatalité. Dans la plupart de mes écrits, il y a cette malédiction qui pèse sur le Mexique et une volonté de certaines personnes libres de s'y opposer et de créer une résistance à la fatalité. C'est là que se noue le drame. Le drame du roman, l'existence de ces deux faits terribles. C'est un pays avec une forte tradition de corruption mais, face à cela, il y a une culture mexicaine qui s'oppose à la corruption: des chansons, des livres, une architecture, qui sont une manière de dire non à la corruption. Et ça reste. C'est une lutte très intense qui se joue actuellement au Mexique, peut-être plus que dans les autres pays d'Amérique latine où il y a davantage de solutions politiques. Nous, au Mexique, nous avons été gouverrnés pendant soixante-dix ans par le Parti révolutionnaire institutionnel: quelle meilleure source de corruption qu'un seul et même parti au pouvoir pendant si longtemps?
Un des personnages du Bonheur des familles constate: « Le pays nous a filé enntre les doigts. » Quelle est la responsabilité des intellectuels dans tout ça ?
C.F C'est toujours très facile de rejeter la faute sur les intellectuels, de leur attribuer le sauvetage d'un pays. Moi, j'y vois une erreur grossière. Parce que, en fin de compte, c'est aux citoyens de sauver le pays. La citoyenneté se retrouve à tous les niveaux, économique, politique, social, fanmilial. Charge à chacun d'aider le pays à se rénover, comme savent si bien le faire les Etat-Unis. Certes, ils n'ont pas un passé comparable à celui du Mexique. Ils ont tué tous les Indiens, ils ont mis les Noirs en esclavage. Mais aujourd'hui, justement, ils ont élu un Noir à la présidence......
*

Văn chương là chuyện của ngôn ngữ và trí tưởng tượng. Nhưng nhà văn còn là một công dân, và như một công dân, người đó cũng đi bầu, cũng khoái ý thức hệ này, ý thức hệ nọ. Pablo Neruda là nhà thơ lớn của Chile, và cái chuyện ông ta mê Xì ta lin, mê CS là thứ yếu. Ở cực điểm khác, là Celine, ông này nhà văn số 1, nhưng cũng là kẻ bài Do Thái hạng nặng.
Điều tệ hại, là bắt văn chương cúi đầu trước ý thức hệ. Rất nhiều nhà văn Liên Xô làm như vậy, và chỉ đẻ ra thứ văn chương tầm thường, dở như hạch.
*
Gấu, khi còn trẻ, cũng nghĩ như ông này. Đa số những nhà văn Miền Nam cũng nghĩ như ông này. Họ tách văn chương ra khỏi chính trị. Và họ chỉ trách nhiệm tới chính trị, theo tư cách là một công dân. 
Chỉ đến khi về già, Gấu mới hiểu ra, không phải như vậy.
Chỉ một khi bạn coi chính trị là đỉnh cao, và đặt văn chương ở dưới đít chính trị, như là một cái ghế ngồi, thì đó mới đúng là vị trí của nó!
Cái thứ chính trị mà Gấu nói ở đây, chính là cái thứ chính trị mà người xưa gọi là Đạo.
Cái câu của Đồ Chiểu, chở bao nhiêu Đạo thuyền không khẳm, là cũng theo ý này.
Nhưng phải đợi nghe Canetti phán, thì mới thật bảnh, thật tới, thật hách: Nhà văn là tên nô lệ của thời của nó. Nhà văn là con chó của thời của nó.

[However, the true writer, as we see him, is the thrall of his time, its serf and bondsman, its lowest slave.
.... I would simply say: he is the dog of his time.]
Tuyệt cú mèo.


Nếu bạn chỉ đọc bài TTT viết về MT, khi ông nằm xuống, thì mới chỉ biết một nửa tình cảm của ông, dành cho Hà Nội, khi ra khỏi tù VC.  May sao, chúng ta còn đọc được bài của Ninh Hạ, tả cái cảnh tác giả và nhà thơ tất tả thăm Hà Nội, thừa một cơ hội thật là hãn hữu, và tuyệt vời.

“Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ…

“Thưa cán bộ thiếu mất một anh”. “Bỏ mẹ! Anh kiểm lại xem. Lúc lên tàu tôi đếm đủ. Không nhẽ rớt xuống đường. Ðếm lại!”. “Thưa cán bộ đúng là thiếu một”. “Có biết thiếu ai không?” “Thưa biết”. Ai?” “Nguyễn Thiệu Hùng”. Tôi vọt miệng nói tiếp “Tôi nghe nói anh ấy có bà cô ở đối diện ga. Chắc anh ấy tranh thủ ghé thăm. Cán bộ đừng lo. Ðúng giờ tàu vào Nam chắc chắn anh ấy sẽ có mặt thôi”. Tôi biết rõ vì trước khi lên tàu Mai Trung Tĩnh có nói với tôi. “Vô kỷ nuật. Ông nại cho vào tù ở thêm cho biết thế nào là nễ độ”. Tay cán bộ răn đe. “Anh đi ngay ra khỏi ga, túm đầu anh ấy về ngay cho tôi”. “Tôi không rành đường sá, nhỡ lạc không về kịp chuyến tàu thì bỏ bu”. “Ði. Tôi bảo đi là cứ đi. Ðừng nôi thôi”. “Hay là cán bộ cho anh Dư Văn Tâm cùng đi. Anh ấy là dân Hà Nội chính cống”. “Ðược. Nhớ tìm được thì về ngay nhé. Khẩn trương!”. “Vâng!”. Tôi chạy đến chỗ ông Thanh Tâm Tuyền. “Mình đi thăm Hà Nội ba sáu phố phường”. “Ði thế nào được. Chúng nó giam lỏng”. “Cứ theo tôi. Thế mới tài!”. Ông không tin. Tôi cười kể cho ông nghe. Ông vội vã khoác chiếc áo măng tô màu đen. Ðội nón công nhân kiểu Lenin. Nón này là bảo vật tôi để lại cho ông kỷ niệm chia tay. Không ngờ hai anh em cùng được tha. “Anh đem tôi đi tham quan Hà Nội”. “Ông Hùng thì sao?”. “Dẹp qua một bên. Lo bò trắng răng. Ðến giờ tàu chạy thì ông ấy mò về”.

Thanh Tâm Tuyền hóa xác. Thường ngày thong thả chậm chạp, giờ đi như chạy. Ðường phố dường như quá quen thân cho dẫu bao tang thương biến đổi. Ông bươn bả đi trước, tôi chạy theo. Không nói với nhau nhưng tôi biết ông đang xúc động khi trở về nơi chốn cũ. Tấp vào một quán phở bên kia đường để thưởng thức tô phở Bắc chính hiệu. Gọi mỗi đứa một cốc cà phê. Thế là nhất. Mấy năm đói khát thèm ăn, tô phở làm chúng tôi thất vọng đã đành mà ông chủ quán, thuộc loại bộ đội giải ngũ, trong bộ đồ lính cũ, lại càng làm cho tôi phát ngấy. “Phở ở đây mới là phở. Trong Nam các anh nàm sao sánh được”. Tô phở phất phơ hai lát thịt nhỏ, mỏng dính. Nước dùng bột ngọt đậm chát. “Phét. Chúng mày lấy đâu ra thịt. Bố khỉ!” Tôi chửi thầm. “Ông đói dài mấy năm còn chả thấy ngon huống hồ...!”. “Các bác được Đảng khoan hồng nhớ về lao động...” Tôi nói đểu: “Thôi nhờ ông anh tốp lại! Mấy năm nghe chán rồi. Biết rồi khổ lắm nói mãi! Vào đây đớp phở mì chính (bột ngọt) chứ không phải nghe ông lên lớp. Tính tiền!”.
Như vậy chỉ có Gấu này, về, thật là huy hoàng!
Và đó cũng một phần là nhờ NTS
*

Lời toà soạn : Chúng tôi vừa nhận được tập tản văn THẤY PHẬT của tác giả Cao Huy Thuần (Phương Nam & Nhà xuất bản Tri Thức, 2009, 340 trang).
Giới thiệu tác giả và tác phẩm, cũng bằng thừa. Nhưng chúng tôi cũng xin mượn cớ để đăng dưới đây bài viết mào đầu của Bùi Văn Nam Sơn.
Diễn Đàn
*
Cũng bằng thừa!
Phách lối hơn cả… thằng cha Gấu!
Nhưng Cao Huy Thuần là thằng cha nào vậy, cà? (1)
CHT thì cũng đại khái, ghê gớm chi đâu. BVNS thì cũng chỉ là một tay dịch giả. Đọc bài viết mào đầu, thì cũng nhăng nhít chạy qua ông này một tí, bà nọ một tẹo, đã có gì của riêng mình, một lũ áo thụng vái nhau. Thử hỏi, đã làm được cái gì chưa? Vào lúc đất nước khốn khổ khốn nạn như bây giờ, mà cũng... thấy Phật, ư?
(1) Có thể CHT còn tí ti khiêm tốn, và tự trọng, nhưng đám ngu này vụng về thổi, khiến ông nhột, chăng?
Gấu vừa mới gõ Google, tìm đọc mấy bài viết của tay này về TCS. Còn thua cả BVP. Vậy mà cũng dám Thấy Phật! NQT
*
V/v nhà văn hạnh phúc.
Nguyên Sa là một nhà văn dễ dãi và hạnh phúc.
Chỉ một câu phán như thế, khi đọc tập truyện ngắn "Mây Bay Đi" [thì bay mẹ nó đi cho được việc!], của NS, mà Gấu được ông ban cho cái nick trứ danh, tên "sa đích văn nghệ"!
*
Steiner cho biết, Koestler không làm sao hiểu nổi, một con người hạnh phúc. Theo George Mikes, người viết tiểu sử K. [Arthur Koestler: The Story of a Friendship], một người đàn ông hạnh phúc là một cái gì đó gợi sự tò mò, và quá nữa, gợi niềm bí ẩn, đối với Koestler. Làm thế nào một người đàn ông, hoặc đàn bà, có đầu óc, có cảm giác, lại có thể hạnh phúc giữa một đống tởm lợm của lịch sử đương thời?
[“A happy man”, remarks Mikes, “was a strange curiosity, almost a mystery for him.” How could a thinking, a feeling or woman be happy amid the bestial follies, the waste, the suicidal blindness of contemporary history? G. Steiner: La morte d’Arthur].
Tuy nhiên, vào những này đẹp trời, Koestler ánh lên niềm đam mê cuộc đời, cực kỳ hân hoan hớn hở trước điều không biết, a deep merriment in the face of the unknown. Ông như sướng điên lên, với tư tưởng của Nietszche, rằng, có, ở trong đàn ông và đàn bà, một động cơ còn mạnh hơn cả tình yêu, hận thù hay sợ hãi. Đó sự quan tâm - that of being interested - đến một tri thức, một vấn đề, một hóp bi, một tờ báo của ngày hôm sau. Koestler là một người cực kỳ quan tâm…
Đọc mấy ông CHT [chỉ qua cái tít], BVNS [qua bài mào đầu], Gấu thiển nghĩ, cũng một thứ nhà văn, nhà tư tưởng, nhà triết gia ‘dễ dãi và hạnh phúc’! NQT
*
Theo Gấu, Mít chúng ta, chỉ có độc nhất một người mơ thấy Phật, và có thể, đã thấy Phật. Đó là Hồ Hữu Tường, thời gian ông bị Diệm kết án tử hình, và trong khi chờ lên đoạn đầu đài, ông viết Trầm Tư, và mơ Đức Phật trở về với dân Mít của chúng ta, trong một trận sống mái với Quỉ Đỏ.
*
Như nhiều người đã biết, Hồ Hữu Tường lúc đầu theo Trotsky, dính vô vụ Bình Xuyên và bị ông Diệm kết án tử hình, sau nhờ sự can thiệp của một số nhà văn, trí thức tên tuổi trên thế giới, án tử hình đổi thành khổ sai chung thân, tại Côn Đảo. Trong lúc đối diện với cái chết, ông viết "Trầm tư của một người bị tội tử hình", và mơ tưởng Đức Phật lại trở lại với thế gian này. Hồi còn mồ ma tờ Nghệ Thuật, Thanh Tâm Tuyền có viết một loạt bài về cuốn Trầm Tư, qua đó ông cho rằng giấc mơ về sự nhập thế của Đức Phật cũng nát tan như mảnh đồng bằng chằng chịt những bờ của Miền Bắc. Thanh Nam, lúc đó là Tổng Thư Ký tòa soạn, nói đùa, bộ anh tính đụng vô vị thần linh Miền Nam hay sao. Ít người biết chuyện, chính Hồ Hữu Tường đã quyết định con đường cầm bút của ký giả Ba Tê (bút hiệu của Thanh Tâm Tuyền khi viết trên mục Tạp Ghi của nhật báo Tiền Tuyến tại Sài-gòn). Khi Hồ Hữu Tường làm tờ Phương Đông [hay Đông Phương?] tại Sài-gòn, Thanh Tâm Tuyền lúc đó còn là sinh viên ở Hà-nội, có gửi bài tham dự cuộc thi truyện ngắn. Truyện được giải nhì, không được đăng, vì không thể đăng được. Người viết được nghe bà cụ của thi sĩ kể lại, những ngày còn đi học, đám chúng tôi, những bạn bè của người em thi sĩ, vẫn lấy nhà bà cụ làm nơi tụ họp.
Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi nhập thế trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con người nào, mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu hạn, và chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho các đa số các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre: Con người bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc. (Sisyphe là nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh núi, hòn đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Như lính giữa rừng
Ui chao, phải tưởng tượng những đấng Cao Huy Thuần, Bùi Văn Nam Sơn, Lê Đạt [tôi chọn Camus]… hạnh phúc.
Gấu đếch chọn mấy đấng hạnh phúc.
Gấu.. ghen với họ!
*

Sự thực, mấy anh DD này, nghề chính ngày nào làm cớm chìm cho VC Miền Bắc, đại công cáo thành, ăn cướp xong, bị nhà nước VC đá, [chúng đã từng bán Miền Nam, làm sao không dám bán Miền Bắc, hay cả nước?], đành chuyển nghề qua viết văn, đọc không nổi một cuốn sách, thành thử mới giở giọng xoa đầu họ Cao, giới thiệu tác giả tác phẩm cũng bằng thừa. Cùng lúc, lại muốn xoa đầu ông họ Buồi, bèn lấy luôn bài mào đầu ra đăng, một mũi tên bắn hai con chim là thế! Có thể, đọc cái tít Thấy Phật là hết hồn vía rồi, làm sao dám đọc, dám điểm, dám múa rìu qua mắt Phật? Gấu cứ tưởng tượng ra cái cảnh họ Cao thấy Phật, bỗng nhớ ra một xen, trong Thế giới nhỏ bé của Đồng Cam Lộ, đọc bản dịch từ những ngày mới di cư, ở Chợ Vườn Chuối, trong có xen một anh cũng như họ Cao đến gặp Chúa, và cũng lèm bèm gì đó, Chúa bèn phán, chân tao mà không bị chúng đóng đinh thì cũng đá cho mi một phát!
*
Cũng đã lâu rồi, kể từ khi Tin Văn lải nhải về Lò Thiêu, một độc giả trong nước đã bực bội mail hỏi, Lò Thiêu thì có mắc mớ gì tới Mít?
Gấu, nay, đem câu hỏi, hỏi lại triết dịch gia BVNS, chuyên gia dịch Kant, Hegel, mấy ông này, thì mắc mớ gì tới Mít?
Và tới Mác, tổ sư của Mít Bắc?
*
Để trả lời, chúng ta hãy ‘mào đầu’ bằng câu của Italo Calvino, Linda Lê trích dẫn, trong bài giới thiệu cuốn La Célesstine của Fernando de Rojas, khi ông định nghĩa thế nào là một cuốn sách cổ điển, một cuốn sách chẳng bao giờ chấm dứt nói cho chúng ta biết điều nó tính nói.
Có thể đúng như thế, nhưng Gấu muốn đẩy thêm lên một mức, và thêm vào câu của Calvino:
Điều nó tính nói với chúng ta đó, có liên quan tới chúng ta, những con người đương thời.
Bởi vì Lò Thiêu quả có mắc mớ tới Mít.
Thành thử những ông dịch gia như BVNS phải nói cho chúng ta biết, những Kant, Hegel đó, có gì mắc mớ tới Mít, chính vì thế mà chúng ta cần phải đọc họ, và BVNS, cần dịch họ.
Đâu có phải cứ dịch triết gia, là thành triết gia đâu?
Lessing, trả lời tờ Partisan Review, Winter 1998, trong bài viết Đọc và Văn Hóa [Reading and Culture], có nhắc tới Goethe, vào cái lúc sắp sửa lên chuyến tầu suốt, at the very end of his life, phán, 'Tôi chỉ học đọc' [I have only just learned how to read]. "Ông là một người rất ư là già, và là một trong những trí thức lỗi lạc của Âu Châu, muốn nói gì, qua câu trên.
Và sau đó, đọc nhật ký của Goethe,  bà bèn ngộ ra.
*

Lời toà soạn : Chúng tôi vừa nhận được tập tản văn THẤY PHẬT của tác giả Cao Huy Thuần (Phương Nam & Nhà xuất bản Tri Thức, 2009, 340 trang).
Giới thiệu tác giả và tác phẩm, cũng bằng thừa. Nhưng chúng tôi cũng xin mượn cớ để đăng dưới đây bài viết mào đầu của Bùi Văn Nam Sơn.
Diễn Đàn
*
Cũng bằng thừa!
Phách lối hơn cả… thằng cha Gấu!
Nhưng Cao Huy Thuần là thằng cha nào vậy, cà?
Chắc cũng băng đảng tinh anh Miền Nam bỏ chạy cuộc chiến bợ đít VC.
Nếu không phải, xin lỗi. NQT (1)
(1)
...  Số trí thức ít ỏi này được anh Nguyễn Hữu Liêm gọi là trí thức “từ phía trái” với những tên tuổi nổi tiếng và quen thuộc: Ngô Vĩnh Long, Nguyễn Ngọc Giao, Cao Huy Thuần, Vũ Quang Việt, Trần Hữu Dũng, Hà Dương Tường, Trần Quốc Hùng, Vũ Xuân Hân... Đây là những trí thức thiên tả lừng danh một thời…
Nguồn
*
Mở đầu là một người cháu gái của Nguyễn Văn Vĩnh, nay chắc cũng đã quá tuổi tứ tuần, kể chuyện cách đây mấy mươi năm một hôm đi học về tủi thân và khóc ròng, lại gặp cơn mưa lớn, phải vào trú dưới mái hiên một nhà bên đường. Bà cụ chủ nhà thấy có cô học trò đứng dưới hiên nhà mình mà khóc, liền ra hỏi: “Sao cháu khóc nhiều thế?”. Cô bé sụt sùi: “Sáng nay ở lớp cô giáo dạy rằng ông nội cháu là một tên đại Việt gian, tay sai, bồi bút cho thực dân Pháp, cháu buồn, cháu nhục quá…”. “Vậy ông nội cháu là ai?”. “Dạ, ông cháu là Nguyễn Văn Vĩnh ạ...”. Bà cụ ôm chầm lấy cô bé: “Trời ơi, cháu là cháu nội Tân Nam Tử ư? Ôi, cháu vào ngay đây với bà, cháu không việc gì phải khóc cả, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất vĩ đại, mặc ai nói gì thì nói, cháu phải rất tự hào. Cháu có một người ông từng có công lớn lắm với đất nước này... Rồi xã hội cũng sẽ phải công bằng thôi, cháu ạ...”. Quả thật ngày nay cuộc sống đã bắt đầu trả lại sự công bằng- muộn mằn và chậm chạp - cho nhân vật cao lớn đến kỳ lạ ấy của đất nước: một nhà văn, một nhà báo, một dịch giả, một nhà văn hóa lớn, hầu như lĩnh vực nào cũng là người khai phá và luôn ở hàng đầu, người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc, ông tổ của ngành in hiện đại ở nước ta, người đầu tiên thiết lập nền sân khấu hiện đại ở Việt Nam, và bằng những bài thơ dịch La Fontaine tuyệt vời, cũng là người đầu tiên phá vỡ thể thơ truyền thống, giải phóng thơ Việt ra khỏi khuôn khổ cổ cứng nhắc hàng nghìn năm, mở đường cho thơ mới ra đời, hiện đại hoá thơ Việt, cũng lại là một trong những người tiên phong sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục: một nhà khai sáng chói lọi của đất nước đầu thế kỷ XX…
Nguyên Ngọc
Một người bị buộc tội là Việt gian, bị đem làm thịt. Bây giờ, vẫn đám làm thịt người ‘sửa sai’, "nói lại", không phải Việt gian, thế mà gọi là công bằng ư?
Đây chỉ là thủ đoạn chính trị mang tính giai đoạn. Cần gì cách đây nửa thế kỷ. Cái đám bỏ nước ra đi sau 1975, cũng Việt Gian, bây giờ thành Việt Kiều yêu nước.
Chỉ một khi nhà nước chính thức, công khai tuyên bố, nhận trách nhiệm, và phục hồi danh dự cho nhà họ Nguyễn Văn Vĩnh, may ra, chứ một mình ông Nguyên Ngọc, thì chưa có gì là công bằng!

Lời toà soạn : Chúng tôi vừa nhận được tập tản văn THẤY PHẬT của tác giả Cao Huy Thuần (Phương Nam & Nhà xuất bản Tri Thức, 2009, 340 trang).
Giới thiệu tác giả và tác phẩm, cũng bằng thừa. Nhưng chúng tôi cũng xin mượn cớ để đăng dưới đây bài viết mào đầu của Bùi Văn Nam Sơn.
Diễn Đàn
*
Cũng bằng thừa!
Phách lối hơn cả… thằng cha Gấu!
Nhưng Cao Huy Thuần là thằng cha nào vậy, cà?
*
Thường ra, khi nhận được sách, tòa soạn đi một đường cám ơn tác giả, và trân trọng giới thiệu với độc giả, và nếu có thể, tóm tắt vài dòng nội dung.
Đâu có như đám coi trời bằng vung này, tuy ở Paris nhưng cũng thuộc loại vô học, câng câng cái mặt, coi thường độc giả, “giới thiệu cũng bằng thừa”!
Chính là do đọc lời giới thiệu mất dậy như trên, mà Gấu phải tò mò gõ Google, coi đấng "cũng bằng thừa" này là ai.
Viết chỉ vài dòng giới thiệu một cuốn sách mà còn không nên thân, thảo nào làm cớm cho VC.
Thú thực, Gấu sao quá tởm đám VC nằm vùng. Không phải vì cái chuyện chúng bỏ chạy, tả phái ngày nào, mà vì thái độ của chúng, bây giờ, trước cơn băng hoại của cả đất nước, kể từ sau 30 Tháng Tư 1975. Không một thằng nào con nào tỏ ra đau xót, vẫn nham nhở viết "thư tình" gửi về cho đất nước, từ trái tim thơm mùi phó mát con bò cười của chúng. (
Mùi thơm toát ra từ trái tim chúng tôi đấy. Thư tình mà. (Trích Bổ túc một bài phỏng vấn Thời đại mới, tháng 11, 2005).
Mà cũng hay thật. Nào là "buồn bã với những môi hôn", nào là "mùi thơm xịt ra từ trái tim", văn chương thúi như kít, vậy mà "giới thiệu cũng bằng thừa"!
*
Các văn nghệ sĩ của Sài Gòn thưở ấy như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Cung Tiến, Viên Linh, Ðỗ Quý Toàn... thường ngồi tại quán La Pagode. Còn quán Brodard là quán của lớp trẻ, những nam thanh nữ tú Sài Gòn.
Nguyễn Đạt
Tất cả những tên tuổi lớn của giới văn học Sài Gòn như được Nguyễn Đạt nêu ra trên đây, thì đều không phải là khách hàng thường trực của Quán Chùa.
TTT, có một thời cũng hay ngồi, nhưng ngắn ngủi lắm, MT, còn ngắn hơn. Nhà thơ lớn Đỗ Quí Toàn thì lại càng hiếm hoi hơn nữa.
Nói chung họ đều không phải là khách hàng thường trực của La Pagode.
Thường trực, phải là.. Gấu.
Vì sáng nào cũng phải đi làm UPI, số 19 Ngô Đức Kế, gần đó. Rồi tới Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh… Có một tay cũng rất thường trực, nhưng bảo đảm Nguyễn Đạt không hề biết, vì ông hay ngồi buổi chiều. Nhà văn Chàng Phi, chuyên môn viết truyện ngắn, đăng đúng một kỳ báo, cho tờ Ngôn Luận đầu tiên thì phải.
Nguyễn Đạt hồi đó hình như chưa từng ngồi Quán Chùa, có thể sợ đụng ông anh là Nguyễn Nhật Duật cũng nên!
*
“Visiting Mrs Nabokov”, của Martin Amis, gồm những tản mạn về một số nhân vật, nhà văn. Cuốn sách mở ra bằng lần gặp Graham Greene. Amis cho biết, Greene đã từng vô Đảng Cộng Sản, cùng với Claud Cockburn, chỉ để "hy vọng có cái vé miễn phí đi thăm Moscow". Thời gian ông suy sụp, hết pin, đến nỗi phải đi gặp một ông bạn bác sĩ chữa bịnh tâm thần, để được sạc điện, [electric-shock treatment]. Thời gian lân la làm quen benzedrine, buổi sáng viết Điệp viên tin cẩn [The Confidential Agent], buổi chiều, The Power and the Glory.
-Bạn biết tỏng về tôi, và tôi cũng chẳng có gì để thêm vô. Tất cả đều đã đưa vào sách. Một lần tôi được mời nói chuyện về phim và sách. May quá, ngay bữa trước, tôi có một cuốn mới ra lò, về đề tài này. Thế là trúng tủ!
-Ông nói, ông đếch thích đến Mẽo, đếch thích sống ở Mẽo…?
-Đúng thế, tôi đếch thích Mẽo. Đếch thích New York. Đếch thích người Mẽo…
Tôi [Amis] bèn đế thêm, hình như ông đã có lần phán, thà chấm dứt những ngày tàn của mình ở Liên Xô thay vì ở Mẽo?
-Điều tôi muốn nói thực sự là như vầy: Tôi muốn chấm dứt những ngày của mình sớm sủa ở Liên Xô, bởi vì ở đó, họ biết quí trọng nhà văn khi coi nhà văn là một thứ nguy hiểm…. Tôi muốn chấm dứt đời mình ở trong Lò cải Tạo còn hơn là ở Tiểu Sài Gòn!
[I would rather end my days in the Gulag than in – than in California].
Gấu chép lại câu trên, để tặng mấy đấng nhà văn VNCH đã hồi chánh, nhân đọc bài viết của HHT về NMG!
*
“Tình cờ” đọc bài viết về PD, và bài phản hồi. Cũng thật thú.
Bài Phản hồi, tác giả cố gắng làm cho PD đỡ…  nhục, khi trở về.
Tính nhân bản, tính dân tộc của bài viết, thật tuyệt. Nhưng đám VC và nhất là đám Yankee mũi tẹt làm sao làm được như vậy?
Chính vì thế, mà thật khó về, trừ khi chịu nhục được như PD!
Thái độ của chúng đối với PD, sao có vẻ giống như thái độ của.. chúng ta, đối với TCS!
Chán thế!
Đều là do thù hằn người có tài hơn mình!
*
Steiner cũng nói như Amis, khi nhận định về vai trò của nhà văn trong thế giới toàn trị: Bảnh hơn nhiều so với xã hội tư bản!
Trong bài Nhà văn và chủ nghĩa CS, ông phán: Ngay dưới thời Stalin, nhà văn và những tác phẩm văn học giữ một vai trò sinh động trong chiến lược Cộng sản. Nhà văn bị bách hại, bị hành quyết chính bởi vì văn chương được coi là sức mạnh quan trọng, đầy tiềm năng nguy hiểm. Đây là điểm quyết định. Văn chương được đề cao, coi trọng, tuy theo một đường hướng độc ác, ghê rợn, hiển nhiên là do sự bất tín nhiệm vào nó, của Stalin. Tới thời kỳ băng tan, vai trò nhà văn trong xã hội Xô-viết lại một lần nữa trở nên khúc mắc, và mang tính vấn nạn. Khó mà có thể tin được một điều, một nhà nước Phát-xít bị chao đảo, vì một cuốn sách nhỏ nhoi; nhưng Bác sĩ Zhivago đã là một trong những cơn khủng hoảng lớn lao trong cuộc sống gần đây của giới trí thức tại nước Nga Cộng sản.
Do trực giác, hoặc do suy nghiệm, nhà văn luôn nhận ra vai trò đặc biệt của họ trong ý thức hệ Cộng sản. Họ nghiêm trọng với chủ nghĩa Cộng sản, bởi vì nó nghiêm trọng với họ. Từ đó, một lịch sử những liên hệ giữa chủ nghĩa Cộng sản và văn chương hiện đại, là lịch sử của cả hai, với những sự vị nể bắt buộc phải có.


Dọn Kít

Chưng bày (Exposition) mùa Phật Đản: chum* vỡ, nước mưa* và hoa sứ*
Nguồn
Phải viết, trưng bày. Chưng, là bánh chưng.
*

Tôi không biết sau tôi, nhà văn Mai Thảo có nói với ai khác, về việc ông bị “khép tội” chủ trương phong trào văn chương “viễn mơ”? Với tôi thì không. Sau lần nói chuyện với nhau ở tiệm cơm Ngọc Hương, đường Gia Long, Mai Thảo dường đã quên, chuyện ấy. Tôi nói, Mai Thảo quên hay không đề cập nữa, vì, sau bài “Văn chương trước những mưu đồ bất chính của hệ thống chiến tranh lạnh,” Thế Nguyên và các bạn ông, tiếp tục “triển khai” trận đánh với cường độ “oanh kích” ngày một gia tăng bom, đạn...
Du Tử Lê
Theo như Gấu này còn nhớ được, thì Lữ Phương mới là người sử dụng từ “viễn mơ” để chỉ đám ‘tiểu thuyết mới’ ở Việt Nam, trong có Gấu, với hàm ý, trong khi đang phát động chiến tranh thần thánh chống Mỹ cứu nước mà bọn này nói chuyện bên Tây, chuyện văn chương thuần túy… đại khái như vậy. Đó là thời gian Gấu giới thiệu đám nhà văn hiện sinh, thí dụ loạt bài, "Thế nào là văn văn chương dấn thân” trên tờ Nghệ Thuật, đám tiểu thuyết mới ở Tây…
Thành thử từ ‘dấn thân’ ở đây, không có nghĩa là theo VC, lên rừng, nhưng theo nghĩa của đám hiện sinh, qua ý nghĩa của từ ‘engagement’, engager, dấn thân, xuống thuyền, nhập vào đời sống, hành động...
Nhưng nhóm Trình Bầy quả có tấn công, không phải Mai Thảo, mà là Thanh Tâm Tuyền. Gấu có một kỷ niệm về vụ này. Đó là sau khi tấn công đã đời, một bữa tình cờ Thế Nguyên và Gấu gặp nhau, ở một nơi chốn tình cờ nào đó, ở Sài Gòn, và trong câu chuyện tầm phào, Thế Nguyên đưa ý kiến, muốn nhờ Gấu nói lại với TTT, là TN muốn gặp, để hòa giải!
Gấu nói với TTT. Ông bực quá, tao có chuyện gì với tụi nó đâu mà hoà giải mới không hòa giải, mà TN là thằng cha nào?

Dọn Kít

Về cảm hứng triết luận, cổ học nhân văn phương Đông và quan điểm lịch sử văn hoá trong nghiên cứu, phê bình văn học
Hoàng Ngọc Hiến
Note: Cái hình nhà học giả, chôm của Tin Văn. Cái tít bài viết khiến Gấu tò mò tìm đọc. Cái tên tờ tạp chí, Le Magazine Littéraire, viết trật.
Cái câu phán của Borges, về Dos, nghe kỳ kỳ, nhưng do không có nguyên bản, đành chịu. (1)
Tuy nhiên, post ở đây, bài của Borges viết về Dos, từ Borges, selected non-fictions.
*
Nabokov không đọc được Dos. Ông viết cả một bộ sách, an anthology of  Russian literature, trong đó, chê Dos hết lời. Cái đó cũng dễ hiểu. Hai ông Nga này khác hẳn nhau. Một sướng, một khổ. Một nhếch nhác luộm thuộm, một sạch sẽ ngăn nắp… Borges so sánh Dos với Faulkner, là vậy, vì hợp lý hơn!
*
William Faulkner has been compared to Dostoevsky. The comparison is not unjust, but Faulkner's world is so physical, so carnal, that, next to Colonel Bayard Sartoris or Temple Drake, the explanatory homicide Raskolnikov is as tenuous as one of Racine's princes. Rivers of brown water, rundown mansions, black slaves, equestrian wars-lazy and cruel: the peculiar world of The Unvanquished is consanguineous with this America and its history, and it is also criollo.
There are some books that touch us physically like the nearness of the sea or the morning. This-for me-is one of them.
"Thầy của Gấu" thường được so sánh với Dos. Cũng được thôi, nhưng thế giới Miền Nam của Faulkner thì dung tục, xuồng xã, thành thử, đứng kế bên những Colonel Sartoris, hay Temple Drake, thì anh chàng sinh viên bầy đặt chơi trò giết người Raskolnikov mới yếu ớt, tội nghiệp làm sao, chẳng khác một trong những ông hoàng của Racine!
Nguồn
*

Fyodor Dostoevsky, Demons
Like the discovery of love, like the discovery of the sea, the discovery of Dostoevsky marks an important date in one's life. This usually occurs in adolescence; maturity seeks out more serene writers. In 1915, in Geneva, I avidly read Crime and Punishment in the very readable English version by Constance Garnett. That novel, whose heroes are a murderer and a prostitute, seemed to me no less terrible than the war that surrounded us. I looked for a biography of the author. The son of a military doctor who was murdered, Dostoevsky (1821-1881) knew poverty, sickness, prison, exile; the assiduous exercise of writing, traveling, and gambling; and, at the end of his days, fame. He professed the cult of Balzac. Involved in an indeterminate conspiracy, he was sentenced to death. Practically at the foot of the gallows where his comrades had been executed, Dostoevsky's sentence was commuted, but he spent four years in forced labor in Siberia, which he would never forget.
He studied and expounded the utopias of Fourier, Owen, and Saint Simon. He was a socialist and a pan-Slavicist. I imagined at the time that Dostoevsky was a kind of great unfathomable God, capable of understanding and justifying all beings. I was astonished that he had occasionally descended to mere politics, that he discriminated and condemned.
To read a book by Dostoevsky is to penetrate a great city unknown to us, or the shadow of a battle. Crime and Punishment revealed to me, among other things, a world different from my own. When I read Demons, something very strange occurred. I felt that I had returned home. The steppes were a magnification of the pampas. Varvara Petrovna and Stepan Trofimovich Verkhovensky were, despite their unwieldy names, old irresponsible Argentines. The book began with joy, as if the narrator did not know its tragic end.
In the preface to an anthology of Russian literature, Vladimir Nabokov stated that he had not found a single page of Dostoevsky worthy of inclusion. This ought to mean that Dostoevsky should not be judged by each page but rather by the total of all the pages that comprise the book.
[1985] [EW]
*
Dos, Những Con Quỉ
Như khám phá ra tình yêu, như khám phá ra biển cả, cái sự khám phá ra Dos tạo một dấu ấn quan trọng trong đời một người [Sến cô nương mê liền ông già rậm râu, ngay lần đầu gặp gỡ!]. Chuyện thường ngày ở tuổi mới nhớn. Đám người nhớn mò tới những nhà văn thanh thản hơn.
Vào năm 1915, ở Geneva, tôi ngấu nghiến đọc Tội Ác và Hình Phạt qua bản tiếng Anh thật dễ đọc của Constance Garnett. Cuốn tiểu thuyết, mà những nhân vật thì là một kẻ giết người, và một cô điếm, vậy mà khủng khiếp chẳng thua gì cuộc chiến đang bủa vây chúng ta..
Tôi bèn dị mọ tìm hiểu tác giả. Con một ông bác sĩ quân y, ông via bị người ta làm thịt. Dos rành về sự nghèo khổ, bịnh hoạn, nhà tù, lưu vong; mê viết như điên, mê du lịch, mê đánh bạc, và sau cùng, về cuối đời, rành rọt điều mà người đời gọi là danh vọng.
Ông rao giảng sự thờ phụng ngài Balzac. Dính vào một âm mưu, ông bị kết án tử. Bị cột vô cột pháp trường, trong khi các bạn đồng mưu đã bị hành quyết, đúng lúc tới phiên ông, thì có lệnh ngưng làm thịt! Và án tử thành bốn năm lao động khổ sai tại Siberia, và ông chẳng bao giờ quên.
Ông nghiên cứu và chú giải những triết học không tưởng của Fourier, Owen, và Saint Simon. Ông là nhà theo chủ nghĩa xã hội và pan-Slavistic. [liên-Slave]. Tôi tưởng tượng ra vào thời kỳ đó, Dos là một đấng Thượng Đế toàn năng, biết hết và biện minh hết về muôn vật. Tôi cũng kinh ngạc, là lâu lâu, ở trên cao chót vót như thế, ông cũng ráng mò xuống phía bên dưới để mà chen chân vào chốn bụi hồng, nơi những phường chính trị cà chớn lèm bèm, trong khi ông thật tởm và kết án chúng.
Đọc một cuốn sách của Dos thì cũng giống như nhập vào một thành phố lớn mà chúng ta mù tịt về nó. Hay là nhập vào cái bóng của một trận đánh. Tội Ác và Hình Phạt mở ra trước tôi - trong nhiều điều khác nữa - một thế giới khác hẳn cái thế giới của riêng tôi. Khi tôi đọc Những Con Quỉ, một điều gì rất lạ lùng xẩy ra. Tôi cảm thấy như là mình về nhà [để treo cái nón!]. Những thảo nguyên thì bạt ngàn, hoành tráng chẳng khác gì vùng đồng hoang Nam Mỹ của chúng tôi. Varvara Petrovna and Stepan Trofimovich Verkhovensky, mặc dù tên khó đọc, đều là những anh già vô trách nhiệm của xứ sở Argentine. Cuốn sách bắt đầu vui như tết, như thể người kể chuyện không biết cái tận cùng bi đát của nó.
Trong lời tựa cho tuyển tập văn học Nga, Nabokov phán, ông chẳng thể nào kiếm ra, chỉ một trang ra hồn của Dos, để nhét vô một bài viết. Điều này phải hiểu như là thế này: Tác phẩm của Dos phải được xét đoán trên cái toàn bộ của nó, chứ không phải mỗi trang.
(1)
Có thời ông tưởng rằng Đôxtôievxki là tiểu thuyết gia độc nhất vô song và ông đã đọc đi đọc lại nhiều lần Tội ác và trừng phạt Những người bị quỷ ám. Nhưng dần dà ông nhận thấy trong truyện của Đôxt rất khó phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, tất cả đều giống Đôxt một cách lôm nhôm và các nhân vật dường như thích thú với sự bất hạnh của họ. Thế là ông không đọc Đôxt nữa và theo lời ông, “sức sáng tạo của ông chẳng vì sự thiếu vắng này mà giảm sút” (2).
(2) Xem Magazine Literaire, Mai 1999, p. 21. (sic)
HNH, Bài đã dẫn.