*
Notes

I

1
2

















Bọ định post Tình cát 14 thì nhận được bút kí của nhà văn Vũ Ngọc Tiến do một  người bạn gửi đến. Đây là một bút kí hay, nó vừa có sức quyến rũ của văn chương- theo bọ sức quyến rũ của văn chương đầu tiên và cuối cùng là sự chân thật của nó-vừa có tính phản biện cao về dự án Bauxite ở Tây Nguyên mà Quốc hội và dân đang bàn đến. Vì vậy bọ vội vàng post lên đây. Vì bút kí hơi dài, bọ bỏ bớt phần đầu, mong nhà văn Vũ Ngọc Tiến thể tất.
NQL

Đăng hay không đăng, ai cần!
Sao lại có cái chuyện thiến mẹ cái phần ai điếu dành cho những kẻ "cam chịu lịch sử", ở đây? Chính cái đoạn mở ra giải thích tất cả phần sau. Chính đoạn đầu tiên đoán cái khốn nạn của đoạn sau, điều mà BNT gọi là hoan hỉ cam chịu lịch sử!
Tây Nguyên ngày xưa còn có tên là Hoàng Triều Cương Thổ, đất riêng của Nhà Nguyễn. Hết anh Yankee mũi tẹt chiếm, giờ tới anh Tẫu, có khi đụng tới vương mạch mà gây họa cũng nên?

TÂY NGUYÊN DU KÝ
Vũ Ngọc Tiến

Khoảng 10 năm lại đây, nhất là sau chuyến tìm mộ chú em hy sinh năm 1972, nỗi ám ảnh chiến tranh và kỷ niệm thời trai trẻ cứ hút hồn tôi về với Tây Nguyên. Nơi ấy có máu xương của mấy chục người bạn học cũ của tôi, thuộc khóa tốt nghiệp phổ thông năm 1964. Nhớ lắm, thằng bạn ngồi cùng bàn Nguyễn Văn Toại nghịch như quỷ sứ và Văn Đức Trì ngồi sau lưng tôi, củ mỉ cù mì nhưng vừa giỏi toán, lý lại giỏi cả văn. Hai đứa cùng chết thảm ở dốc Đầu Lâu phía Bắc thị xã Kon Tum năm 1972. Bạn bè kể lại, trận đánh ấy ta ém quân bị lộ nên cả trung đoàn tan tác, chết hơn 1000 người; trong đó, khóa học sinh lớp 10 trường tôi có đến hơn hai chục đứa chết “tan xác pháo” theo đúng nghĩa của từ này.
Mỗi lần lên Kon Tum, tôi chỉ còn biết tìm dốc Đầu Lâu, ứa lệ thắp nhang bái vọng ra bốn phương tám hướng chứ làm sao dò được hài cốt bạn mình hở giời! Còn một lý do khác nữa hối thúc tôi đi Tây Nguyên, bởi 5 năm đầu sau ngày thống nhất (1975- 1980), tôi theo đoàn công tác của Cục Vật lý địa chất đi khắp các tuyến đường mòn trên Tây Nguyên đo đạc tài liệu ‘Trọng lực mặt đất’ và ‘Xạ ô tô’ để tìm tài nguyên khoáng sản cho công cuộc tái thiết đất nước sau này. Nhờ thế, ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước, tôi đã biết đến nguồn tài nguyên bauxite rất lớn ở Đăk Mil, Đắc Lấp, Đăk Song, Măng Đen, Bảo Lộc…
“Đi bụi” giữa Tây Nguyên
Mùa mưa năm Kỷ Sửu (2009) này tôi lại đi Tây Nguyên. Những lần trước, tôi đi đều có xe đưa đón, nhờ chú em kết nghĩa Trương Công Liêm ở Kon Tum lo liệu chu đáo. Liêm có cô em gái Sáu Phường, là chủ hãng xe Đăng Khoa, với gần 20 đầu xe loại 50 ghế nằm chất lượng cao chạy các tuyến trong Nam, ngoài Bắc. Tôi chỉ cần ra bến xe Giáp Bát, nằm dài trên xe có máy lạnh 2 đêm một ngày là tới Kon Tum. Lên đó, tôi muốn đi đâu đã có xe con đưa đi tiếp, ăn nhậu tối ngày. Lần này lên tới Kon Tum tôi quyết “đi bụi” một chuyến khắp Tây Nguyên theo kiểu “Tây ba lô”, vẫy xe dọc đường, xuống xe bất chợt và lang thang tùy thích. Đi để ngắm cái văn hóa “đàn ông là sấm, đàn bà là sét” của người Tây Nguyên; nhập hồn vào núi rừng đại ngàn mong gặp bóng ma bạn bè chết trận ở đâu đó; tìm lại dấu chân thời trai trẻ hăm hở thăm dò tài nguyên khoáng sản nên đã mấy lần chết hụt dưới họng súng của FULRO hay đói vàng mắt cua vì gặp mưa lũ kéo dài…
Có đi tới các huyện phía Bắc Kon Tum, vào sâu tận thôn làng người dân tộc mới thấm thía hết cái nghèo và sự khốn cùng của bà con Xơđăng, Bah Nar, Giarai, Giẻ-Triêng  sau 34 năm giải phóng và 23 năm đổi mới kinh tế nước mình. Tôi đi thăm Đắc Plei, nơi có trận đánh nổi tiếng thời chống Mỹ theo lời kể của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo; rồi đi xe ôm 25 km đường rừng, tìm bằng được ngôi trường tiểu học mà Kiều, đứa con gái thứ ba của Liêm đã dạy học hơn 10 năm ở đó. Trường vẫn y nguyên như ngày Kiều mới vào nghề năm 1995, xơ xác 3 dãy nhà tranh xiêu vẹo, lèo tèo mỗi lớp hơn chục học trò đủ mọi lứa tuổi.  Đứa cao ngồng hơn cô giáo Kiều vài phân, đứa nhỏ thó, đen gầy, áo quần nhếch nhác. Ở đây, rừng bị tàn phá, muông thú hết, nương rẫy khô cằn vì thiếu nước nên cha mẹ chúng lo ăn chẳng đủ, thiết gì cho con đi học phổ cập tiểu học đúng độ tuổi.
Đến tận nơi chứng kiến, tôi hiểu vì sao sau hơn 10 năm cống hiến, tuổi xuân hơ hớ qua đi, Kiều từ bỏ chức vụ Hiệu phó để về thị xã lấy chồng, an phận làm cô văn thư đánh máy qua ngày. Nghèo khổ, lam lũ như vậy, nhưng ở Bắc Kon Tum tôi gặp rất nhiều cổng chào bằng sắt ở đầu con đường đất dẫn vào thôn làng của người dân tộc, trên đó treo biển “Thôn văn hóa”, thậm chí nhà rông cũng có tên “Nhà rông văn hóa”. Vào nhà rông lợp tôn thay vì lợp cỏ, chẳng thấy chiêng, ché, sừng trâu mà chỉ thấy toàn khẩu hiệu suông. Có lẽ vì thế, những ngày lễ hội, trai gái trong thôn cũng bỏ luôn tục lệ ngủ đêm tập thể ở nhà rông, để cái tay con trai như con ma rừng lần mò tìm bạn tình trong bóng đêm huyền bí. Một già làng bảo với tôi: “Người Bah Nar chúng tao biết gì về thôn hay làng văn hóa đâu, chỉ biết cán bộ trên cây thì tốt, còn cán bộ dưới đất thì đa phần đều dở như cục phân trâu cả thôi.” Hỏi ra mới biết cán bộ trên cây của già là cái loa truyền thanh, chỉ toàn nói lời hay ý đẹp, khác hẳn cán bộ bằng xương bằng thịt ở dưới mặt đất. Chợt nhớ lời nhà văn Nguyên Ngọc nói với tôi tại cuộc hội thảo của Viện IDS ở Hà Nội: “Tây Nguyên là cả một bảo tàng dân tộc học hoành tráng và sống động không chỉ của Việt Nam mà của nhân loại. Tiếc rằng ta đang hủy hoại nó một cách phũ phàng, vô ý thức!”
Những ngày nhập vai “Tây ba lô” đi bụi, vẫy xe nhảy cóc nhiều chặng trên suốt đọan đường quốc lộ 14 dài gần 200 km, từ Pleiku (tỉnh lỵ của Gia lai) đi Buôn Mê Thuột (tỉnh lỵ của Đăk lăk), với tôi thật nhiều ý nghĩa, tràn đầy cảm xúc. Dọc theo đường đi, các huyện Chư Sê của Gia lai, Ia Súk, Krông Pút của Đăk lăk có những đồi thông tuyệt đẹp dọc 2 bên đường quốc lộ. Vượt qua đồi thông, đi vào các xã, tôi đi giữa những cánh đồng bát ngát trên cao, đỏ tươi màu đất bazan, xanh mướt màu xanh của cây cà phê, hồ tiêu, ngô, đậu… và rực rỡ những đàn bướm vàng bay lượn trên thảm cỏ trổ đầy hoa dại. Nắng gió ở đây như cũng có mùi hương ngây ngất, quyến rũ lòng người. Cả những trận mưa đầu mùa của Tây Nguyên cũng cho tôi cảm giác lâng lâng vì được chiêm ngưỡng sức mạnh kỳ bí của thiên nhiên hùng vĩ.
Không thể phủ nhận sự đổi thay sâu sắc, xu thế phát triển của Tây Nguyên 10 năm gần đây, tại các thành phố, thị xã, thị trấn mà tôi đã đi qua, cho dù nó chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của vùng đất này. Có lẽ Pleiku là điểm sáng nổi bật nhất về quy mô phát triển và tốc độ tăng trưởng so với các đô thị khác, nhờ vào sự đóng góp không nhỏ của các đại gia thuộc khối kinh tế ngoài quốc doanh. Ở Pleiku, ngoài thủy điện Ya-Ly, khu du lịch Biển hồ, công viên Đồng xanh mang đậm màu sắc văn hóa các dân tộc… Đi đâu tôi cũng gặp dấu ấn đầu tư của tập đoàn Hoàng Anh- Gia Lai và khoảng 5- 7 doanh nghiệp thuộc hàng đại gia khác, làm nên vẻ đẹp và tầm vóc một đô thị hiện đại trên cao nguyên lộng gió. Một người bạn thân là nhà nghiên cứu kinh tế ở TP Hồ Chí Minh có lần bảo tôi: “Việt Nam càng đổi mới, hội nhập càng lộ rõ yếu kém của kinh tế quốc doanh so với kinh tế ngoài quốc doanh. Quy mô doanh nghiệp càng to thì sự tương phản này càng lớn. Tây Nguyên có cái may mắn vì ở đó tiềm năng lớn, nhưng có nhiều lĩnh vực mà kinh tế quốc doanh còn bỏ trống hoặc ở dạng sơ khai sẽ là cơ hội tuyệt vời cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển.” Điều này có lẽ đúng với Pleiku, vì Buôn Mê Thuột có tiềm năng lớn hơn mà quy mô phát triển, tốc độ tăng trưởng thua Pleiku trong những năm sau này và Đăk Lăk có vẻ thua Pleiku về yếu tố kinh tế ngoài quốc doanh. Đến Buôn Mê Thuột lần này, tôi chỉ dành thời gian thăm đình Lạc Giao thờ Đào Duy Từ làm Thành Hoàng của làng. Hóa ra không chỉ có Võ Đại tướng hôm nay mà hơn 400 năm trước, trên bước đường lãng du tìm hiểu địa lý- chính sự- dân tình các vùng đất phương Nam để quay về Thuận Hóa giúp chúa Nguyễn Phúc Nguyên hoạch định chiến lược mở cõi, nhà chính trị và quân sự thiên tài họ Đào ấy đã từng lên Tây nguyên, hiểu rõ vai trò đặc biệt quan trọng về địa chính trị- quân sự của vùng đất này. Ai bỏ qua hoặc cố tình không hiểu sẽ mang trọng tội với dân tộc và lịch sử.
Một ngày ở Nhân Cơ
Ngay từ lúc còn ở Hà Nội, tôi đã xác định cái đích cuối cùng của chuyến lãng du Tây Nguyên phải là Nhân Cơ, bởi Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên đang gây xôn xao dư luận, làm nóng nghị trường Quốc Hội. Là người viết văn, viết báo, nhưng có một thời trai trẻ tôi vốn là kỹ sư Địa vật lý, từng khảo sát cấu trúc mỏ bauxite bằng các phương pháp đo đạc giá trị các trường vật lý ở Lạng Sơn (1971) và Tây Nguyên (1978) nên tôi hiểu biết chút ít về loại mỏ quặng này. Điều đầu tiên, khiến tôi trăn trở suy nghĩ là vì sao phía Trung Quốc lại phớt lờ nguồn lợi khai thác bauxite ở Lạng sơn, Cao Bằng, chỉ nhăm nhăm hướng tới các mỏ ở Tây Nguyên?
Từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước, đoàn địa chất 49 của Tổng Cục Địa Chất, dưới sự giúp đỡ của chuyên gia Hung-ga-ri đã tiến hành thăm dò tỉ mỉ, đánh giá trữ lượng chuẩn xác ở mức phục vụ cho khai thác bauxite ở Lạng Sơn và Cao Bằng là thuận lợi thứ nhất. Các mỏ này rất gần khu công nghiệp khai khoáng, chế biến quặng ở huyện Khai Viễn- Vân Nam- Trung Quốc nên giá thành vận chuyển sản phẩm về nước thấp là thuận lợi thứ hai. Hàm lượng alumin trong quặng cao gấp 5- 6 lần ở Tây Nguyên nên công nghệ làm giàu quặng đạt tiêu chuẩn thương phẩm hóa trên thị trường quốc tế rất đơn giản là thuận lợi thứ ba. Trữ lượng quặng ở Lạng Sơn, Cao Bằng theo báo cáo trình Quốc Hội của Bộ Công Thương dẫu chỉ có 449 triệu tấn, nhưng do hàm lượng alumin trong quặng cao nên tương đương hơn 2 tỷ tấn quặng ở Tây Nguyên, là thuận lợi thứ tư. Với ngần ấy lợi thế mà mỏ bauxite Lạng sơn-Cao bằng vẫn không đủ hấp dẫn người Trung Quốc thì chắc hẳn Tây Nguyên còn có nhiều hấp dẫn khác cuốn hút họ mà tôi chưa biết chăng? Mang nặng trong lòng điều trăn trở ấy, cùng nỗi ám ảnh từ 3 lá thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tôi hăm hở tìm về Đắk Nông.
Rời Buôn Mê Thuột, tôi ra quốc lộ 14 vẫy xe đò đi TP Hồ Chí Minh, đến ngã ba Đầm Hồ xuống xe đi tiếp một chặng xe ôm chừng 3 km là vào trung tâm thị xã Gia Nghĩa, thủ phủ tỉnh Đắk Nông (trước 1975 gọi là tỉnh Quảng Đức). Thị xã Gia Nghĩa có 3 khách sạn lớn, sang trọng do nhà đầu tư nước ngoài hoặc từ TP Hồ Chí Minh lên xây dựng, nằm trên 3 quả đồi tuyệt đẹp, song tôi chỉ dám dạo qua cho biết rồi nhờ người lái xe ôm tìm giúp một khách sạn loại trung bình. Tình cờ tôi được đưa đến khách sạn ‘Hà Nội Phố’. Thật thú vị vì chủ khách sạn tên Bảo, người phố Giảng Võ ngoài Hà Nội vào đây lập nghiệp vừa được tròn hai tháng. Giữa nơi đất lạ gặp người đồng hương Hà Nội nên chủ- khách bỗng thành thân mật. Bảo khoe: “Em vào đây lập nghiệp vì biết Gia Nghĩa đang được quy hoạch thành Đà Lạt thứ hai của cao nguyên”. Được cái lợi thế, Gia Nghĩa gần Tp Hồ Chí Minh, giao thông thuận tiện hơn nhiều so với Đà Lạt. Phải chăng thế mạnh và hướng phát triển của Đắc Nông là tập trung tiềm lực đầu tư, sớm biến Gia Nghĩa thành nơi nghỉ mát lý tưởng cho tứ giác phát triển phía Nam đất nước và xây dựng các trung tâm công nghệ cao về sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ na-nô? Chỉ hai nguồn lợi ấy cũng đủ lớn, chẳng cần đến khai thác bauxite, và sẽ là đòn bẩy kích thích tăng trưởng cho công nghiệp chế biến nông lâm sản vốn là thế mạnh hiếm có của vùng đất đỏ ba-zan màu mỡ bậc nhất Tây Nguyên này. Ở phường Nghĩa Tân, thị xã Gia Nghĩa có nông trường chè của một ông chủ Đài Loan, trồng loại chè đặc sản, ứng dụng công nghệ cao chế biến và đóng gói tại chỗ, chở về nước họ, thu lãi lớn suốt 12 năm nay là một gợi ý tốt cho các nhà quản lý tỉnh Đắk Nông tham khảo, hoạch định chiến lược phát triển
Tôi đã nghe giải trình của tập đoàn TKV và Bộ Công Thương nói rằng, nơi có thân quặng bauxite thường là nơi đất cằn, năng suất cây trồng thấp. Bằng trí nhớ của người địa chất và chiếc la bàn trong tay, tôi dễ dàng tìm lại được những thân quặng bauxite ở Đắk Mil, Đắk Song. Lớp đất trồng ở đó đa phần là mầu mỡ, độ ẩm cao vì bauxite Tây nguyên thuộc thành tạo Laterit, có bản tính ngậm nước, giữ ẩm cho cây nên năng suất hồ tiêu, cà phê khá cao, cỡ 2 tấn cà phê/1 mẫu. Ở Đắk Mil, tôi vô tình phát hiện ra một sự thật đáng quan ngại hơn. Từ ngã ba thị trấn Đăk Mil có con đường đi về hướng Tây chỉ 5 km là đến tỉnh biên giới Mondol kiri của Căm-pu-chia, chính là nơi mà Trung Quốc đã mua đứt một vùng đất rộng lớn, đặc quyền khai thác trong 99 năm.
Ngày cuối cùng ở Đắk Nông, tôi dành thời gian đi Nhân Cơ vì ở đó có trụ sở công ty khai khoáng, nhà máy tuyển quặng do người Trung Quốc đang chỉ huy xây dựng và khai trường mở vỉa quặng đã hoàn tất việc san ủi…Nhân Cơ nằm cách thị xã Gia Nghĩa chừng 13 km theo đường quốc lộ về hướng Bù Đăng. Đây là một xã lớn và trù phú nhất của huyện Đắk Lấp, gồm 12 thôn. Phạm vi khu mỏ chạy dọc bên trái con đường liên xã từ Nhân Cơ đi Nhân Nghĩa- Đạo Nghĩa- Đắk Sin và chiếm toàn bộ diện tích các thôn 4 của người dân tộc và thôn 11, 12 của người Kinh ở Nhân Cơ. Trụ sở công ty và nhà máy đặt tại thôn 11. Việc di dân, đền bù đất, giải tỏa mặt bằng diễn ra từ năm 2007, nhưng đến nay chưa hộ nào được nhận đủ tiền. Giá đền bù cũng rất rẻ mạt, mỗi hộ chỉ được đền bù 300 m2 đất thổ cư với mức 300 ngàn/m2 gần đường nhựa, còn xa đường nhựa là 150 ngàn/m2. Số diện tích đất còn lại quy tất cả vào đất nông nghiệp, chỉ đền bù một mức thống nhất là 40 triệu/1 mẫu đất, gần đây nâng lên 105 triệu/1 mẫu. Anh Nguyễn Văn  Mỹ , sinh năm 1978, ở thôn 11, có vợ và 1 con gái 3 tuổi, gặp tôi than thở: “Hộ của cháu có hơn 2 mẫu trồng hồ tiêu, cà phê mỗi năm thu nhập khoảng trên dưới 100 triệu. Nhà nước đền bù rẻ mạt vẫn phải cắn răng đi mua đất khác mà gây dựng lại, nhưng chỉ mua được non nửa diện tích bị mất thôi, bác nhà văn ạ!” Tôi hỏi: “Chẳng lẽ đất trồng cà phê cũng đền bù như đất trồng khoai mì hay bỏ hoang?” Anh đáp: “Bất công, vô lý là thế, nhưng dân còn biết kêu ai!”
Chia tay Mỹ, tôi thử liều xông thẳng vào bên trong khu vực nhà máy la cà quan sát và hỏi chuyện. Đến ngôi nhà nhỏ của đội khảo sát địa chất, tôi gặp Đức, kỹ sư hóa nghiệm của Liên đoàn địa chất 10 (Cục Địa Chất- Bộ Công thương). Anh được điều động biệt phái sang giúp TKV phân tích mẫu quặng bauxite. Đức cho biết, đội khảo sát chỉ có 7 người, đến Nhân Cơ cuối năm 2007, nay đã rút về Hà Nội hết, chỉ còn anh là người duy nhất ở lại. Là người hiểu nghề, biết việc nên chỉ cần trò chuyện với Đức thoáng qua vài phút, tôi hiểu ra, TKV rất ít người am hiểu về bauxite. Họ tổ chức thăm dò trữ lượng khai thác ở Tân Rai, Nhân Cơ đều đại khái, qua loa cho đủ thủ tục, chứ không làm công phu, bài bản theo quy trình nghiêm ngặt như ngành địa chất xưa nay vẫn từng áp dụng.
Rất may, tại hiện trường thi công xây nhà máy, tôi gặp 2 kỹ sư người Trung Quốc, một họ Lỗ, 51 tuổi, còn anh họ Vương, 43 tuổi. Nghe tôi nói tiếng Bắc Kinh lưu loát, họ tưởng tôi là người Trung Quốc mới sang nên vồ vập chuyện trò, nói cười ngả ngớn, không hề giữ kẽ. Cả hai đều là người Quan Đông, xứ lạnh, chưa quen với khí hậu và văn hóa ẩm thực phương Nam. Ông Vương cho biết, người Trung Quốc ở Nhân Cơ ít hơn rất nhiều so với Tân Rai, chỉ có khoảng vài chục người, đều là chuyên gia kỹ thuật, quê ở Quan Đông hoặc Liêu Ninh, hưởng lương rất cao so với ở quê nhà và gấp 5- 7 lần lương của chuyên gia kỹ thuật Việt Nam. Hỏi chuyện về chuyên môn, ông Lỗ cho biết: “Quặng bauxite Tây Nguyên có hàm lượng alumin rất thấp, chỉ đạt 9- 10% ở Tân Rai, còn ở Nhân Cơ tốt hơn tí chút, đạt 11-12% nên lượng bùn đỏ thải ra hồ chứa mỗi năm vô cùng lớn. Vì áp dụng công nghệ tuyển ướt nên cần lượng nước đầu vào rất nhiều. Mùa mưa có thể dùng nước trên mặt, chứ đến mùa khô có lẽ phải cần thêm giếng khoan nước nước ngầm mới đủ dùng. Nước thải sau tuyển quặng đương nhiên sẽ tồn dư thành phần kim loại nặng và hóa chất…”
Nghe ông Lỗ nói, tôi rùng mình liên tưởng đến thảm họa môi trường ở mỏ măng-gan Tốc Tác- Cao Bằng gần 20 năm trước. Ban lãnh đạo TKV hoặc bất cứ ai trong nghề địa chất, khai khoáng đều biết rõ thảm họa khủng khiếp này. Chỉ trong một đêm, bãi thải của mỏ từ trên cao gặp mưa lũ đã đổ ập hàng chục triệu mét khối đất, đá xuống thung lũng, chôn sống hơn 300 người!  Bài học Tốc Tác- Cao bằng còn đó, rồi nguy cơ ô nhiễm nguồn nước lưu vực sông Đồng Nai, ảnh hưởng đến 16 triệu dân của miền Đông Nam Bộ.
Ở xứ mình mạng người rẻ quá chăng!!!???
Lời kết
Tôi trở về ‘Hà Nội Phố’, ngồi uống cà phê trong quán ở sân khách sạn, thiết kế tuyệt đẹp và tao nhã theo phong cách của người Tràng An thanh lịch, mà lòng buồn se thắt. Cơn mưa đầu mùa ở Đắk Nông dài lê thê, nước tuôn xối xả. Ngoài đường có tấm áp phích cực lớn, kỷ niệm 5 năm thành lập tỉnh Đắk Nông (2004- 2009). Tôi nhìn hình vẽ thành phố Gia Nghĩa trong tương lai trên áp phích qua ánh chớp nhập nhoàng, hồi nhớ lại tất cả tài liệu chính thống của Nhà nước về Đắc Nông mà mình đã tra cứu trên mạng internet, sắp xếp lại theo trình tự thời gian. Hình như người ta đã âm thầm chuẩn bị từng bước, rất tinh vi, bài bản cho Dự án khai thác bauxite ở Đắk Nông từ lâu rồi mà có việc Quốc Hội cũng đã vô tình biểu quyết:
Tháng 1/2004 tách 6 huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk cũ, lập tỉnh Đắk Nông có trữ lượng bauxite chiếm 91% trữ lượng toàn Tây Nguyên.
Tháng 2/2006 điều chỉnh địa giới các xã ở 3 huyện Đắk Song, Đắk Mil, Đắk Lấp để gom các thân quặng bauxite gần nhau về cùng một đơn vị hành chính cấp xã, tiện lợi cho quản lý và khai thác.
Cuối năm 2006 giải phóng mặt bằng lòng hồ, xây đập thủy điện Đắk Rơ Lih chỉ cách Nhân Cơ 2 km theo đường chim bay, có lẽ chủ yếu phục vụ khai thác, chế biến quặng, nhưng không thấy TKV hạch toán vào vốn đầu tư của Dự án bauxite (!?).
Năm 2007 triển khai giải phóng mặt bằng, mở khai trường mỏ và xây nhà máy chế biến quặng ở Nhân Cơ.
Tháng 5/2009, Bộ Công thương trình báo cáo về Dự án khai thác bauxite Tây Nguyên lên Quốc Hội, bị dư luận phê phán vì thông tin lập lờ, hiệu quả bánh vẽ!
Nửa cuối năm 2010, theo lời ông Lỗ, kỹ sư người Trung Quốc nói với tôi thì chắc chắn họ sẽ lắp đặt thiết bị cho nhà máy tuyển quặng Nhân Cơ…
Vậy là mọi sự đã rồi, mâm cỗ đã bày lên chờ thắp nhang cúng cụ, con cháu nào dám ho he. Thư của Võ Đại tướng, kiến nghị của giới trí thức, thảo luận của đại biểu Quốc Hội phỏng có tác dụng gì? Là người viết văn, trong chuyến lãng du này tôi gặp gì viết nấy, xả bớt nỗi niềm cho mọi người cùng ngẫm, hậu thế tường minh, thế thôi!
V.N.T
Đắk Nông 5/2009-Hà Nội 6/2009
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 7-6-09
*
Nói ra thì có vẻ nhỏ nhen, nhưng có vẻ như mấy ông mấy bà nhà văn VC “bạn Gấu” rất ư là coi thường tài sản tinh thần của người khác. Đâu có phải ‘nhà của bạn’ - muợn chữ của Kundera – mà cứ tha hồ mà thiến, mà cắt, mà tùng, mà xẻo, rồi đi một đường xin tác giả…  thể tất?
Gấu này nghi rằng, NQL bị cái tít Tây Nguyên Du Ký đánh lừa, nên mới cắt xén như vậy. Du ký, chỉ là một bản văn mang tính ký sự mà.
Những trang hay nhất của Ký Sự Vụn, cũng bị chính tác giả của nó, thiến y chang, chắc hẳn? Không hiểu có còn cái xen, anh chàng heo nọc không có thì giờ mặc quần, mà chỉ cần một cái áo choàng phủ lên tấm thân trần truồng, đi khắp thôn xóm phục vụ đám phụ nữ có chồng đi Nam chiến đấu, hay vợ liệt sĩ, một nhân vật hách xì xằng như thế khiến Gấu nhớ đến con heo nọc trong một truyện ngắn của Thảo Trường, hay Đại Ác Tăng Rasputine, làm sập chế độ Nga Hoàng, chỉ nhờ vào sự dẻo dai của một cục thịt!*
Gấu còn nhớ, thời gian sau 30 Tháng Tư 1975 Miền Nam đói khủng khiếp, Miền Bắc hình như cũng rứa, ấy là vì mấy anh Tẫu đòi nợ. Trả đến đâu không biết, nhưng chắc là chưa đủ vốn, nên mới xẩy ra cú dậy cho Việt Nam một bài học. Rút kinh nghiệm cuộc chiến biên giới, anh Tẫu bèn chơi cái đòn bao vây vùng biển, cho mày đói cá chơi.
Gấu đi tù những ngày đó. Nông trường Phạm Văn Cội, Củ Chi Thành Đồng. Nhờ gia đình tiếp tế, số phận tù còn bảnh hơn số phận dân. Thế là được dân cưu mang, thương còn hơn thương con đẻ, cũng là vì phần bột mì tù được chia bèn biếu dân, đổi chút thoải mái ăn ngủ, tắm rửa, và tiếp thân nhân, mỗi lần thăm nuôi, vì nông trường không có Nhà Hội!
Sau này đọc Brodsky, khi ông viết về thời gian đi tù ở nông trường cải tạo Hắc Hải, mà thấy sướng mê tơi, cứ như được sống lại những ngày Phạm Văn Cội!
Đúng là cam chịu lịch sử!

Những hậu quả từ sai lầm này thoạt đầu khó nhận rõ, bởi sự phá hoại trong văn hóa không dễ nhận thấy. Trong văn hóa không có “máy bay rơi”. Ở đó dường như chỉ có việc trao giải thưởng, trao danh hiệu nào “ưu tú”, nào “nhân dân”. Chẳng có gì quan trọng. Nhưng sau đó nhìn lại: sau hai mươi năm mà dân chúng đã suy đồi, còn đám trí thức nghệ sĩ thì đứng trên Tháp [Rùa ở Hồ Gươm] Eiffel mà khạc nhổ lên số phận đất nước. Rồi tất cả lại bắt đầu hỏi: tại sao, tại sao? Chỉ tại người ta đã trao giải thưởng cho những cuốn sách không thể đọc nổi, cho những cuốn sách dạy thái độ thờ ơ với những giá trị thiêng liêng của dân tộc... Tỉnh ngộ thì đã muộn.
Nguồn: Phong Điệp
Gấu mới đi một đường ai điếu một nền văn chương vô dụng, (1) là đã có tiếng vang từ Liên Xô, liền tù tì, chẳng thú sao?
(1)
Sartre mê làm cách mạng, nhưng khi có dịp, ông lại để lỡ: Trong Buồn Nôn đã manh nha những điều sau này được đám tiểu thuyết mới phát triển.
Gấu đã từng phán thật hách như thế về Sartre, trong Đọc Bếp Lửa của TTT.  Từ hồi 1973.
Ra ý, Bếp Lửa cũng chịu đựng cùng một số phận như Buồn Nôn.
Về già, đọc lại, Gấu sợ quá, làm sao mà hồi đó liều lĩnh như thế?
Nhưng, tuyệt vời thay, đúng y chang.
Post sau đây, những lời tự thú của đám tiểu thuyết mới:
IV. LA NAUSÉE LUE PAR LES ROMANCIERS DU SECOND DEMI-SIÈCLE.
Trong có một, ‘tuyệt vời thay’ tiên đoán y chang, số phận của cả một nền văn học Mít sau 1975: chuyên sản xuất, dịch thuật, toàn những thứ sách tồi, theo nghĩa, vô dụng.
Ai phán, bảnh như thế?
Le Clézio, Novel văn chương Tây:
L'efficacité d'un livre tel que La Nausée n'est pas celle d'une œuvre de vulgarisation; ce qui est exprimé là n'est pas une facilité, ni un système. C'est un accord parfait entre Sartre et le monde, un accord tel que seule la vie réelle pouvait le fourrnir. Sartre a vécu La Nausée, et il fallait qu'il l'écrive. Nous vivions La Nausée, et nous devions lire ce livre. Cette double expérience et cette double nécessité sont les véritables raisons de cette œuvre. C'est cela la force de l'écriture de Sartre, et cela sa vertu. Les mauvais livres sont peut-être avant tout des livres inutiles. Et le génie est peut-être tout simplement la plus grande adhésion au contrat social.
Những cuốn sách dở có lẽ, trước tiên, chúng là những cuốn sách vô dụng.
Văn chương trong nước, viết, đọc, dịch... đều cố tránh cái điều mà Clézio gọi là 'la plus grande adhésion au contrat social'.
Đám hiện sinh gọi là, [tránh] 'xuống thuyền'.
Chính vì thế mà cả một nền văn chương trở nên vô dụng!
"Ai điếu một nền văn chương vô dụng", liệu có thể chôm NMC và đi một đường như vậy chăng?
Nhưng ai điếu kiểu này thì bực mình lắm đấy!
Ngay cả những khi mấy đấng Yankee mũi tẹt bàn về Camus, [Tôi chọn Camus!], hay dịch, tán tỉnh về Kundera, về Kafka… nhảm cả đấy! Ấy là vì toàn tán tỉnh theo kiểu vô dụng cả, nghĩa là không tìm cách cho nó dính với da thịt Mít, vào cái “contrat social” Mít.
Hay lập lại những gì mũi lõ phán.
Nhục thật!
*

Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu cũng rất kiên cường.
BBC
Câu này, qua bối cảnh [chủ nghĩa CS áp dụng vào Việt Nam], nhân vật [Nguyễn Hộ], đúng ra phải viết như vầy:
Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu chống CS cũng rất kiên cường [căn cứ vào câu này: Ông nói ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu]. (1)

(1) V/v NH: Một tên Chống Cộng điên cuồng.
Cuối tháng 8 năm 1990, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt tìm gặp Nguyễn Hộ tại một chòi canh rẫy ở vùng Phú Giáo - miền Ðông Nam Bộ, cách Sài Gòn khoảng 60 cây số. Ông Kiệt hỏi: ” Thế nầy là sao?”. Nguyễn Hộ trả lời: “Thành phố ngột ngạt quá, tôi về nông thôn ở cho khỏe”. Ông Kiệt nói: “Anh cứ về thành phố ai làm gì anh”. Nguyễn Hộ đáp: “Rất tiếc, phải chi anh gặp tôi sớm hơn độ hai tháng thì tốt quá, tôi trở về thành phố ngay. Còn bây giờ thì đã muộn rồi, bởi vì dưới sự lãnh đạo của trung ương ÐCSVN, cả nước được chỉ đạo, phổ biến rằng tôi là tên phản động, gián điệp, móc nối với CIA, nối giáo cho giặc, tiếp tay báo chí nước ngoài tuyên truyền chống Đảng, chống nhà nước. Lập tổ chức chống Đảng, lật đổ chính quyền, ăn tiền của Mỹ, chủ trương đa nguyên, đa đảng. Tất cả sự quy chụp ấy nói lên rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạp tôi xuống tận bùn đen, chôn vùi cả cuộc đời cách mạng của tôi trong nhơ nhuốc để tôi không làm sao ngóc đầu dậy được. Tình hình như vậy tôi trở về thành phố làm gì trừ khi đất nước Việt Nam có dân chủ tự do thật sự“.
Nguồn talawas

Bởi vì bắt buộc phải hết sức rõ ràng, không để cho ngưòi đọc mơ hồ, vì một câu văn lửng lơ, mà có thể nghĩ khác đi, về một con người vừa nằm xuống.
Chiến đấu kiên cường với ai? Với Mỹ Ngụy hử?
Gấu đã nói rồi, mấy tên VC nằm vùng này, vô tài, bất tướng, viết một câu văn không nên thân, là vậy.
Có thể, tâm địa sao thì viết như vậy.
Bởi vì, là một tên VC nằm vùng, một chuyên gia về chủ nghĩa CS, "y" cảm thấy nhục nhã, khi phải viết, Nguyễn Hộ là một tên "Chống Cộng điên cưồng", hay, dùng chữ của y, "quyết liệt"?
Cái sự lập lờ của tay cựu bộ trưởng văn hóa Mặt Trận này, còn liên quan tới cái gọi là, sự hèn nhát. Và đây là ý của Paz, khi viết về Solz và nhắc tới câu của Montaigne: Tôi thường nghe người ta nói, hèn nhát là mẹ của độc ác.
Gấu này, đã từng tiếc, phải chi mà đám Yankee mũi tẹt chịu khó đọc, dòng văn học dưới hầm của Nga, với những quái vật khổng lồ như Akhmatova, Mandelstam... hay dòng văn chương của những tác giả đã từng ăn nằm với chủ nghĩa CS, như Milosz, như Manea, nhưng sau hiểu ra, vô ích, bởi vì đầu óc của chúng đã bị sơ cứng mất rồi, không làm sao thay đổi được nữa.
NCT mà thi sĩ gì? Đâu phải thơ?
DTH mà văn sĩ gì? Đó là chính trị!

Nghe, bề mặt thì cũng có vẻ... đúng, nhưng bề chìm thì mới thảm.
Bề chìm của nó, Paz đã lật ra, khi viết về Solz, trích dẫn một câu của Montaigne.
Tôi thường nghe người ta nói, hèn nhát là mẹ của độc ác.
Đọc như thế là độc ác, là khốn nạn, mà gốc gác của nó, là hèn nhát.

Tribute to Solcz
Obituary
Speaking Truth to Power
Homo Sovieticus

Cái câu mà Người Kinh Tế vinh danh Solz, mấy tay trong nước nên đọc.
Vào thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu quả đáng sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí thức hạng nặng, như Shakarov, người làm ra bom nguyên tử cho Liên Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự thực tuy vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì không phải là sự sợ hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc, và địa vị mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là "tà lọt" trung thành của hệ thống Xô Viết.

*
Đó cũng là lý do, đến khi hấp hối, đám VC mới dám thú nhận, hèn, nhục...
Nhưng, muộn còn hơn không!

*

Bài điểm cuốn sách mới nhất về Solz, trên tờ Điểm Sách London, 11 Sept, 2008
Nhiệm vụ của Solz: Solz's Mission.

Nhiệm vụ gì?
Chàng ra đời, với số mệnh làm thịt Xô Viết, cũng như Lenin, ra đời, để xây dựng nó!
Like any prophet - like Lenin... he knew himself born to a historic destiny... In the end, his mission, like Lenin, succeeded. In fact, one might say that it succeeded at Lenin's expense, a triumphant negation of Lenin's success.
Cuốn sách khổng lồ, về tiểu sử Solz: gần 1 ngàn trang, với những tài liệu mới tinh, từ hồ sơ KGB.
Một David vs Soviet Goliath
What a fighter!
Chàng dũng sĩ tí hon chiến đấu chống anh khổng lồ Goliath Liên Xô mới khủng khiếp làm sao. Niềm tin của chàng mới ghê gớm thế nào: Tao lúc nào cũng đúng!
Chính trại tù đã làm nên Solz. Nhờ lao động cải tạo mà ông được cứu vớt, mất đi niềm tin Mác xít Lêninít, và tìm lại được niềm tin Chính thống giáo khi còn nhỏ, và nhận ra lời gọi [the calling]: ta sẽ là một ký sự gia của trại tù và kẻ tố cáo hệ thống Xô viết [the camps’ chronicler and the Xoviet system’s denouncer]
Đây có lẽ là cuốn tiểu sử mới nhất, đầy đủ nhất [sửa chữa những sai sót trước đó về Solz]. Và tuyệt vời nhất. Tin Văn sẽ scan bài điểm hầu quí vị!
*
Nhìn ra số mệnh của Solz như thế, và gắn nó với số mệnh của Lenin như vậy, thì thật là tuyệt. Mi sinh ra là để hoàn thành Xô Viết, còn ta sinh ra để huỷ diệt nó, và tố cáo với toàn thế giới cái sự ghê tởm, cái ác cực ác của nó.
Nhưng chưa tuyệt bằng cái tay nào đó, viết trên CAND, tờ báo mà “ông chủ” "viet-xì-tốp-đi" khen là văn hóa cao:

Nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn lạc thời mọi lúc

…Bi kịch trong  số phận của Solzhenitsyn là ở chỗ, trong phần lớn cuộc đời mình, ông luôn là người không hợp thời và vì thế, đã vừa không hữu dụng cho tổ quốc mình, vừa dễ bị những đối thủ của dân tộc Nga lợi dụng với những mục đích hiển nhiên không nhằm mang lại phúc lợi trước hết cho dân tộc Nga.
*
Giả như có một nhà văn Mít, VC, sinh ra đời, với mission, huỷ diệt VC, như Solz với mission của ông?

There are many stars in the sky and Solzhenitsyn has gone to find his deserved place amongst them.Deserved because of his courage and commitment to describe what he saw.None of us ever see "the truth the whole truth and nothing but the truth" because we simply do not have that capacity.If, however, on seeing something that fills us with horror (and there is plenty of that - wherever you look) we do not speak out or acknowledge what it is we see, then we are, in my view, contributing to that horror and the prevailing unwillingness to see, thereby perpetuating it.My thanks go to him and the many other people in the world (in all systems/ cultures/ religions and nations) that have what it takes to "have a go".As anyone who has ever "had a go" will tell you, there always will be those who support and those who ridicule, that is the way it is. But thank goodness the world has people like Solzhenitsyn, lest we all will start to believe the prevailing myths and nonsense we sometimes call the truth.
Obituary
Viết trung thực, bao dung, không thù hận
¤ Một nhà văn hải ngoại, ông Lâm Chương, sau khi đọc Chuyện kể năm 2000, đã nói với bạn bè là từ nay ông ấy sẽ không viết về trại cải tạo nữa, vì có viết cũng không thể nào hay hơn Chuyện kể năm 2000 ? Theo ông, tại sao Chuyện kể năm 2000 lại được độc giả cũng như các nhà văn đặc biệt trân trọng như vậy ?
Tôi rất cảm động khi được biết ông Lâm Chương nói như vậy về tập sách của tôi. Việc phân tích những cái hay cái chưa hay của Chuyện kể năm 2000 thuộc bạn đọc và các nhà phê bình. Là tác giả, tôi chỉ có thể nói rằng tôi viết Chuyện kể năm 2000 với tất cả sự cố gắng nhằm đạt tới cái trần của mình. Tôi tự nhủ : Hãy trung thực. Viết tất cả những gì mình biết, mình trải, với tấm lòng bao dung, không thêm, không bớt, không thù hận. Hãy dọn mình đối thoại với vô cùng. Viết với lòng nhân ái, với sự tự do mình dành cho mình, để tìm ra gốc gác, căn nguyên, không hớt váng. Viết với một sự giản dị chân thành nhất. Và viết với sự luyến tiếc đến đau đớn một thời tuổi trẻ đã qua.
*
Chuyện ông nhà văn hải ngoại LC giơ tay đầu hàng, ngưng viết về tù cải tạo, vì không thể viết hay hơn BNT khiến Gấu hơi bị ngạc nhiên.
Hai ông đi tù khác nhau, một ông là sĩ quan Ngụy, một ông chắc đã từng là đảng viên, đi tù vì bị Đảng nghi ngờ lòng trung thành, hẳn thế?
V/v ông LC nói “không thể nào viết hay hơn” ông BNT.
Gấu cũng đồng ý, không có ai có thể viết hay hơn BNT, với tác phẩm để đời CKN2000. Đó là một cuốn tiểu thuyết "trác tuyệt."
Nhưng, cái khốn nạn nhục nhã của CKN2000, chính vì nó trác tuyệt, không thể có ai viết hay hơn!
Cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, đụng vô một vấn đề căng nhất, về sáng tạo. Vấn nạn này, Adorno đặt ra, qui về câu sau đây, mà Gấu đã từng nhắc tới, khi viết về CKN2000: Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia [Cái Đại Ác, Cái Ác Bắc Kít, Na Zít…], có thêm sự huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability – (Phỏng vấn G. Steiner). (1)

(1) Đây cũng là vấn nạn mà Kinh Cầu của Akhmatova nêu lên, như Brodsky nhận định về nó:
Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly talking about how close she is to madness. Do you remember?
   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.

   I realize that to this madness
   The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Với tôi, đề tài chính của Kinh Cầu, là về sự nứt nẻ, phân rẽ, [thân này ví xẻ làm đôi được], về sự không làm sao có được một phản ứng đầy đủ của những tác giả khi đứng trước hoàn cảnh. Akhmatova, trong Kinh Cầu, miêu tả tất cả những điều khủng khiếp, ghê rợn của ‘khủng bố lớn’, của Stalin, nhưng cùng lúc, bà hoài huỷ nói về tình trạng mấp mé bờ điên khùng, hoảng loạn. Bạn nhớ không?
   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.
Khùng điên giang rộng cánh
Trải dài bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng cho tôi
Lùa tôi xuống thung lũng tối
   I realize that to this madness
  
The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Tôi nhận ra, đối với điên khùng này,
là chiến thắng mà tôi phải trao nhường cho nó.
Trong khi lắng nghe, thật cận kề,
cơn hoảng loạn của chính mình
Mới lạ lùng làm sao!
(1) Trên talawas, có một đấng dịch:

Cơn điên dại đã dang cánh
Phủ bóng lên nửa trái tim tôi.
Cho tôi rượu nồng để uống,
Và kéo tôi xuống thung lũng tối đen.

Đó cũng là lúc tôi nhận ra,
Trong khi lắng nghe cơn mê sảng xa lạ của mình,
Rằng tôi phải trao chiến thắng
Cho nó.

Không hiểu nửa trái tim, là sao. Bạn văn VC nào rành tiếng Nga, coi lại nguyên tác, khai cái ngu cho Gấu.
Đa tạ. NQT
*
 Brodsky phán,
khổ thơ sau có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng chót [Listening closely to my own/Delirium, however strange] nói sự thực lớn lao nhất. Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên. Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan trọng như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Mi là kẻ điên khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mớ gì tới mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky

Nên nhớ, chẳng hề có một độc giả khen Quần Đảo Gulag, là hay cả!

Và Steiner đành phải phán, ông Solz. đếch viết cho thời đại của chúng ta!
Một cách nào đó, ông không viết cho chúng ta, mà là cho một hậu thế xa vời, cho những thế hệ sau: họ có thể thưởng thức tác phẩm, thấy nó xứng đáng, hơn là cái nhìn tức thời của chúng ta.

*

Thiếu tính khách quan của một sử gia, và khả năng xàng lọc dữ kiện, những trở ngại này khiến ông không thể miêu tả đất nước của ông, trong cơn đọa đầy, sa xuống tình trạng dã man. Ông nhìn quá khứ, như là một cuộc chiến đấu kiểu Manichaean, giữa tốt và xấu, thiện và ác, với những người Nga hô hào tự do dân chủ, nhưng ở lộn bên hàng rào. Chúng ta có thể tỏ ra không công bằng, "not fair", khi hất hủi kiệt tác, magnum opus, này, coi là một thất bại khổng lồ. Một cách nào đó, ông không viết cho chúng ta, mà là cho một hậu thế xa vời, cho những thế hệ sau: họ có thể thưởng thức tác phẩm, thấy nó xứng đáng, hơn là cái nhìn tức thời của chúng ta. George Nivat khẳng định, Solzhenitsyn đã sáng tạo ra một thể loại văn chương đa giọng, dựa trên cấu tạo toán học, mỗi điểm thắt nối của bi kịch được nghiên cứu tỉ mỉ theo nhiều hướng, và được triển khai qua những cuộc đối thoại, trò chuyện giữa những nhân vật, và tác giả. Ông đã thành công trong việc lật tẩy, cái gọi là đạo đức Cộng Sản, và từ đó, nhìn ra sự sụp đổ của nó. Cuộc đời của ông cho thấy, ngay cả trong thế kỷ hung bạo khủng khiếp như thế kỷ của chúng ta, sự can đảm của một cá nhân thôi, đã làm nên điều phi thường.
Solz: Một linh hồn lưu vong

Ai điếu Obituary nhật xét về Solz: Ông ta không phải là một Tolstoy, hay một Dos khác! Những cuốn sách của ông, một chiều [one-dimensional], giọng văn mỉa mai, chi tiết khoa trương, chán ngấy. Tuy nhiên, chính cái sự không thể nào bị huỷ diệt, tao đố chúng mày đánh gục tao đấy, cuối cùng mang đến cho những tác phẩm của ông giọng tiên tri, [tiên tri theo nghĩa của Hemingway: Con người có thể bị huỷ diệt, nhưng không thể bị đánh gục, Man can be destroyed, but not defeated].
Nhưng, cách đọc của Anne Applebaum tuyệt hơn, theo Gấu. [Sẽ giới thiệu trên Tin Văn]
Quan tâm số 1 của Solz: Trí thức Nga đi trật đường vào thời điểm nào [Le Point phỏng vấn Georges Nivat, người dịch những tác phẩm đầu tiên của Solz qua tiếng Tây].
*
Còn bài trả lời ông Trùm WJC, của nhà văn BNT, ông viết "trung thực, bao dung, không hận thù", thì đành mượn cái còm của một độc giả mũi lõ, nhân đọc Obituary.
Điều mà BNT gọi là sự trung thực, theo Gấu, chỉ là "huyền thoại", cái "bố nếu bố náo", nonsense, đôi khi chúng ta gọi là sự thực. Bởi vì chính ông, đã coi cái việc đi tù của ông là bắt buộc phải như thế, vì đây là điều cần thiết. Bởi vì theo ông, nếu không có sự "pha lê hóa" xã hội Miền Bắc như thế, làm sao có chiến thắng Miền Nam?
Một nhà văn trung thực, là phải có cái sự "tham dự lớn vào bản khế ước xã hội".
Những nhà văn trong nước chưa từng làm được điều này.
*
Chính trại tù đã làm nên Solz. Nhờ lao động cải tạo mà ông được cứu vớt, mất đi niềm tin Mác xít Lêninít, và tìm lại được niềm tin Chính thống giáo khi còn nhỏ, và nhận ra lời gọi [the calling]: ta sẽ là một ký sự gia của trại tù và kẻ tố cáo hệ thống Xô viết [the camps’ chronicler and the Xoviet system’s denouncer]
Trường hợp BNT, ngược lại, chính nhờ trại tù mà ông ngộ ra chân lý "pha lê hóa" xã hội, như ông viết trong lần viếng thăm WJC:

Trong cuộc chiến tranh khốc liệt này, miền Bắc thực hiện chủ trương pha lê hoá hậu phương. Những người đã từng cộng tác với Pháp, với Mỹ, những người có biểu hiện thiếu lòng tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, những phần tử đáng ngờ, những kẻ trộm cắp, du thủ du thực,... tóm lại tất cả những gì là vẩn đục so với yêu cầu trong như pha lê của một xã hội cần pha lê hoá, đều bị tập trung cải tạo và đó được coi là một biện pháp không thể thiếu. Hơn nữa, nó còn có ý nghĩa răn đe những người khác, hướng tất cả vào mục tiêu chung.
Quít làm, Cam chịu [Lịch sử]

Còn đây là cảnh "pha lê hóa" tại thiên đường Xô Viết:
On 29 December 1929 Stalin announced laconically in Pravda: "We have gone over from a policy of limiting the exploiting tendencies of the kulak to a policy of liquidating the kulak as a class."….
Vasily Grossman, a Jew who also wrote powerfully about the Holocaust, has described a typical departure scene:
From our village ... the "kulaks" were driven out on foot. They took what they could carry on their backs: bedding, clothing. The mud was so deep it pulled the boots off their feet. It was terrible to watch them. They marched along in a column and looked back at their huts, and their bodies still held the warmth from their own stoves. What pain they must have suffered! After all, they had been born in those houses; they had given their daughters in marriage in those cabins. They had heated up their stoves, and the cabbage soup they had cooked was left there behind them. The milk had not been drunk, and smoke was still rising from their chimneys. The women were sobbing-but were afraid to scream. The Party activists didn't give a damn about them. We drove them off like geese. And behind came the cart, and on it were Pelageya the blind, and old Dmitri Ivanovich, who had not left his hut for ten whole years, and Marusya the Idiot, a paralytic, a kulak's daughter who had been kicked by a horse in childhood and had never been normal since.
Some, taken to the far Siberian North, were shipped down the great rivers by raft, and were mostly lost in the rapids. Imagine a man, woman, and two or three children, plucked from the mild Kuban, hurtling down the icy, wild Yenisei.
But we should steel ourselves against bourgeois compassion. Or so argued Ilya Ehrenburg, writing as Robert Conquest says with "exceptional frankness" in a novel of 1934. "Not one of them was guilty of anything; but they belonged to a class that was guilty of everything."

Sói với Người
*
V/v trác tuyệt.
Lý Trác Ngô, trong bài Tựa cho Tây Sương Ký, phán một câu thật ‘trác tuyệt’, thật ‘hay của hay’:
Vả chăng, những kẻ thật biết viết văn ở đời, ban đầu nào có ý định viết văn.
Theo ý đó, ông viết: Người viết Mái Tây là thợ trời, người viết Tỳ Bà chỉ là thợ vẽ. Người thợ vẽ có thể cướp được cái khéo của thợ trời. Nhưng thực ra thợ trời nào có khéo đâu!
Cũng theo nghĩa đó, Steiner coi cái đẹp là cái bất toàn. Chưa hoàn toàn. Chưa hay. Chưa trác tuyệt. (1)
Cái dở của CKN2000 là vì nó hay quá!
Hay hơn nữa, là, lời cám ơn của tác giả, ông cám ơn cái thằng, cái chế độ đã đẩy ông vô tù, nhờ vậy mà ông viết được một tuyệt phẩm như vậy.
Gấu cũng muốn cám ơn cái thằng, cái chế độ đã tống Gấu vô tù, bởi vì quãng đời tù của Gấu quả là tuyệt vời. Nhờ nó, Gấu sống lại.
Cứ hăm he viết về nó hoài, mà cứ ba cái lăng nhăng nó quấy ta mãi, thành thử không có được đại tác phẩm trác tuyệt như của BNT.
(1)
"Toàn thể là bố láo." Trong bài "Work in Progress", điểm cuốn "Thương Xá" (The Arcades Project: Dự án về những vòm cung ở thương xá), của Walter Benjamin, đăng trên tờ TLS (December 3, 1999), Steiner coi "chưa hoàn tất" là mật khẩu tới chủ nghĩa hiện đại (incompletion is the password to modernism). Trích dẫn Adorno, "toàn thể là bố láo" (totality is a lie), ông chỉ ra, tất cả những tác phẩm lớn sau thời kỳ Ánh Sáng, đều chưa hoàn tất: tác phẩm của Proust, Cantos của Pound, Moses und Aron của Schoenberg… Tác phẩm "đại diện" cho thế kỷ, của Heidegger, Thời gian và Hữu thể (Time and Being), thiếu phần ba đầy hứa hẹn. Và Steiner tự hỏi: đâu là những toàn thể mang tính hình thái (formal totalities), trong những tác phẩm của triết gia Wittgenstein?
Ngoài Đạt Ma Tổ Sư, không ai là người thông thạo đủ thất thập nhị huyền công, tức 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Kim Dung mượn lời nhà sư già chuyên quét dọn trong Gác Chứa Kinh (Tàng Kinh Các) để diễn ý niệm duy vật biện chứng của Marx, khi giải thích tại sao Phật pháp (từ bi), lại rong ruổi với võ công (cái ác): trên đường rong ruổi, lý thuyết (Phật pháp) và thực hành (võ công) đều quyện vào nhau, rồi triệt tiêu lẫn nhau, để có được con người hoàn toàn (l’homme total), theo nghĩa: không còn Phật pháp mà cũng chẳng còn võ công. Hoặc nói một cách khác: hết nhị nguyên, không còn thiện ác đối đầu nữa.
Vô Kỵ giữa chúng ta

Chuyện ông nhà văn hải ngoại LC giơ tay đầu hàng, ngưng viết về tù cải tạo, vì không thể viết hay hơn BNT khiến Gấu hơi bị ngạc nhiên.
Hai ông đi tù khác nhau, một ông là sĩ quan Ngụy, một ông chắc đã từng là đảng viên, đi tù vì bị Đảng nghi ngờ lòng trung thành, hẳn thế?
V/v ông LC nói “không thể nào viết hay hơn” ông BNT.
Gấu cũng đồng ý, không có ai có thể viết hay hơn BNT, với tác phẩm để đời CKN2000. Đó là một cuốn tiểu thuyết "trác tuyệt."
Nhưng, cái khốn nạn nhục nhã của CKN2000, chính vì nó trác tuyệt, không thể có ai viết hay hơn!
Cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, đụng vô một vấn đề căng nhất, về sáng tạo. Vấn nạn này, Adorno đặt ra, qui về câu sau đây, mà Gấu đã từng nhắc tới, khi viết về CKN2000: Hãy coi chừng! Ngay cả nỗi đau lớn, khi được đưa vào thành tứ thơ, khổ thơ, phổ thành vần thành điệu, thì vẫn làm cho hiện tượng kia [Cái Đại Ác, Cái Ác Bắc Kít, Na Zít…], có thêm sự huyền nhiệm, về một điều có thể chấp nhận được – a mystery of acceptability – (Phỏng vấn G. Steiner).
Đây cũng là vấn nạn mà Kinh Cầu của Akhmatova nêu lên, như Brodsky nhận định về nó...
Brodsky. For me the main thing in Requiem is the theme of splitting, the theme of the authors inability to have an adequate reaction. Akhmatova describes in Requiem all the horrors of Stalin's "great terror," but at the same time she is constantly talking about how close she is to madness. Do you remember?
   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.

   I realize that to this madness
   The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Với tôi, đề tài chính của Kinh Cầu, là về sự nứt nẻ, phân rẽ, [thân này ví xẻ làm đôi được], về sự không làm sao có được một phản ứng đầy đủ của những tác giả khi đứng trước hoàn cảnh. Akhmatova, trong Kinh Cầu, miêu tả tất cả những điều khủng khiếp, ghê rợn của ‘khủng bố lớn’, của Stalin, nhưng cùng lúc, bà hoài huỷ nói về tình trạng mấp mé bờ điên khùng, hoảng loạn. Bạn nhớ không?
   Already madness dips its wing
   And casts a shade across my heart,
   And pours for me a fiery wine
   Luring me to the valley dark.
Khùng điên dang rộng cánh
Trải dài bóng qua trái tim tôi
Đổ rượu nồng cho tôi
Lùa tôi xuống thung lũng tối
   I realize that to this madness
  
The victory I must yield,
   Listening closely to my own
   Delirium, however strange.
Tôi nhận ra, đối với điên khùng này,
là chiến thắng mà tôi phải trao nhường cho nó.
Trong khi lắng nghe, thật cận kề,
cơn hoảng loạn của chính mình
Mới lạ lùng làm sao!
(1) Trên talawas, có một đấng dịch:

Cơn điên dại đã dang cánh
Phủ bóng lên nửa trái tim tôi.
Cho tôi rượu nồng để uống,
Và kéo tôi xuống thung lũng tối đen.

Đó cũng là lúc tôi nhận ra,
Trong khi lắng nghe cơn mê sảng xa lạ của mình,
Rằng tôi phải trao chiến thắng
Cho nó.

Không hiểu nửa trái tim, là, sao?
Tại sao nửa?
Nửa nào, còn nửa... kia, đâu? (1)
Bạn văn VC, rành tiếng Nga, coi lại nguyên tác, khai cái ngu cho Gấu giùm. Đa tạ. NQT

(1) Ui chao lại "hoài nhớ", một nửa linh hồn chót đem bán rao tại... chợ cá eBay! NQT
*
 Brodsky phán,
khổ thơ sau có lẽ là tuyệt vời nhất của tất cả Kinh Cầu. Hai dòng chót [Listening closely to my own/Delirium, however strange] nói sự thực lớn lao nhất. Akhamatova diễn tả tâm trạng của thi sĩ, khi nhìn mọi chuyện xẩy ra cho bà, như thể, bà đứng qua một bên. Với nhà thơ, sự kiện, viết ra, cũng quan trọng như, sự kiện, diễn tả nó: Nhà thơ bắt đầu trù ẻo mình: Mi là kẻ điên khùng. Mi là một thứ quái vật chi, tại sao mi thản nhiên nhìn những sự ghê rợn như thế diễn ra trước mặt, như thể nó chẳng liên quan mắc mớ gì tới mi?
Volkov: Chuyện trò với Brodsky
Note: Nếu hiểu theo cách hiểu của Brodsky, thì bản dịch trên talawas, không đạt.

Trong ba lớp trí thức cánh tả Miền Nam trước 1975 được tác giả kể ra, thiếu một lớp, đông nhất, không phải lớp tiếp tục tham gia và cộng tác tích cực với CQCS sau 1975, mà là lớp biến thành ruồi. Bạn của những đấng bản lĩnh và dũng cảm Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự…
Cái này là do Đào Hiếu nói. Ông không hiểu tại sao, họ ăn phải cái gì mà gen đột biến, biến thành ruồi.
Ionesco cho biết, đây là tiến trình huỷ hoại con người, déshumanisation, hay, "ruồi hoá".
*
« excusez-moi, je ne suis pas juif, je suis un être humain ». C'est stupide.
Hannah Arendt.
"Xin lỗi, tớ đếch phải là Mít. Tớ là Ca na điền!
*
Si tu lis les premières pages du Manifeste communiste, c'est le plus fameux éloge du capitalisme qu'on ait jamais vu.
Nếu bạn đọc những dòng đầu tiên của Tuyên ngôn CS, thì đó là những dòng vinh danh hiển hách chủ nghĩa tư bản mà tôi đã từng đọc.
Hannh Arendt
*
Đọc bài viết mới của Mai Thái Lĩnh, thấy đỡ hơn tất cả những gì đã đọc từ mấy đấng VC nằm vùng trước 1975.