*

PHỎNG VẤN



"Làm cho văn chương trở thành điếm đàng là một tội ác chống lại nhân loại". 

Andrei Makine

 Jennifer Tran dịch, và giới thiệu.

Trên VHNT, bạn đọc đã làm quen nhà văn Nga, Andrei Makine qua "Chuyện Tình", tóm tắt bài điểm cuốn "Di Chúc Pháp", của T. Tolstaya, trên tờ Điểm sách New York, khi cuốn này được dịch qua tiếng Anh với cái tên "Những Giấc mơ Mùa hè Nga của tôi"; và qua bài "Tây Phương Vẫy Gọi", viết về cuốn "Sông Tình Một Thuở" của ông.

 Sau đây là chuyển ngữ bài phỏng vấn Andrei Makine, trên tờ báo Pháp, Đọc (Lire), số 292 tháng Hai, 2001, nhân dịp xuất bản cuốn sách mới nhất của ông: "Nhạc Đời" (La musique d’une vie, nhà xuất bản Seuil, Pháp, 128 trang, giá 79 frcs).

 *

 Một miền thơ ấu, Sibérie, và những âm vang từ quần đảo ngục tù Gulag, từ cuộc chiến. Một người đàn bà Pháp đã nuôi dưỡng những giấc mơ mùa hè của đứa cháu bằng món ăn tinh thần là văn hóa Pháp.

 Và bây giờ, nước Pháp là nơi ông chọn lựa tiếng nói văn chương, và quê hương thứ nhì, tức chốn dung thân. Còn nước Nga, ông chỉ có thể dùng trí tưởng để nối lại mối tương thông với những linh hồn, và những sinh vật.

 Rời Nga, tới Paris vào năm 1987, tạm trú một thời gian tại một căn hầm ở Père-Lachaise, viết những cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Pháp mà ông phải tạo ra những nguyên bản ma, bằng tiếng Nga, bởi vì không một nhà xuất bản nào cho rằng một tên "moujik" lại có thể viết thẳng bằng tiếng Tây!

 Cuốn tiểu thuyết thứ tư, "Di Chúc Pháp", đã đưa ông lên đài danh vọng, chiếm luôn ba giải thưởng: Goncourt, Médicis, và Goncourt của những học sinh.

 "Nhạc Đời", cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông, là câu chuyện, kể trong đêm, tại một ga xe lửa, của một người đàn ông đã xế chiều, tại làm sao, trong buổi trình diễn âm nhạc ra mắt đầu tiên, của một nhạc sĩ dương cầm trẻ tuổi là mình ngày nào, ông đã phải chạy trốn Moscou vào tháng Năm 1941, về trú ẩn ở Ukraine, bằng căn cước của một người lính đã chết. Bằng cách nào ông sống, lúc nào cũng sợ hãi lộ căn cước thực. Bằng cách nào ông được cứu thoát nhờ một người đàn bà, tại một nghĩa địa chìm trong tuyết, và bằng cách nào ông trở lại Moscou, tìm cách gặp lại bạn bè, và giở nắp chiếc dương cầm như mở nắp một chiếc áo quan. Đây là câu chuyện của một con người, bị buộc phải trở thành một kẻ khác và chính mình. Và đây cũng là câu chuyện của mọi người, ở đây hay ở bất cứ đâu, ngày xửa ngày xưa hay ngày nảy ngày ngay, thì cũng vậy, đâu chỉ của thế kỷ đọa đầy…

 Andrei Makine sinh ngày 10 tháng Chín, 1957, tại Krasnoiark (Sibérie). Tuổi thơ của ông là miền không gian rộng lớn của vùng đất hoang sơ bạt ngàn này, những tập tục, những con người của nó, trong có cả những dân "tạm cư": những tù nhân của quần đảo Gulag. Những tác phẩm của ông gồm có: "Con gái vị anh hùng Liên bang Xô viết" (nhà xuất bản Folio, 1990), "Lời thú tội của người cầm cờ thất sủng" (nhà xb Folio, 1992), "Một thuở sông tình" (1994, Folio), "Di chúc Pháp" (1995, Folio), "Tội ác của Olga Arbélina" (1998, Folio), "Kinh cầu cho phương Đông" (nhà xb Mercure de France, 2000).

 Cathérine Argand (người phỏng vấn).
*
 Cathérine Argand: Có vẻ như ông ít giao du và cũng thật kín tiếng.

 Andrei Makine: Văn minh Nga là một nền văn minh câm. Chắc chắn, nó liên quan tới chính thống giáo, vốn dựa trên lời thú tội hơn là trên bản văn. Bà, và những người như bà thuộc về một nền văn hoá ưa tranh luận, thích bàn bạc, một nền văn hoá ngay từ thuở thoạt đầu đã tính chuyện làm sao làm chủ thế giới. Sớm sủa hơn, trước thánh Thomas d’Aquin rất nhiều, những tiền nhân của bà đã tạo nền móng tình cảm tông giáo qua những giáo điều, kinh sách, nhất là những câu của Pierre Lombard ở thế kỷ 12. Chúng tôi, những người chính thống giáo, chúng tôi thuộc về một nền văn hoá mang tính thơ ca, dựa vào trực giác, mẫn cảm; nó không dựa trên truyền thông (la communication) nhưng mà là tương thông mang tính bản thể học (la communion ontologique). Tại Nga, điều đáng nói không phải là truyền đi những ý niệm (idées), mà là cùng chia sẻ, thông cảm những lý tưởng (idéaux). Hành đạo trong câm lặng. Chính vì vậy văn học Nga được trao cho một sứ mạng đặc thù là phải nói lên tâm linh câm lặng kia, của chính thống giáo. Ở Nga, mỗi khi người ta viết, là muốn nói một điều chi thật là quan trọng, một điều chi vượt lên sự câm lặng, tạo mối tương thông giữa những linh hồn, những tâm tư và những con người. Lý tưởng của tiểu thuyết, đó là người ta không thể nói gì về nó. Chỉ một khi nhập vô, ở đó bằng chiêm ngưỡng, và thấy mình được chuyển hóa. Người Nga viết, không phải để lay động không khí, hay gồng mình lên bằng bút pháp.

 -Ông nói tới linh hồn (âme), một từ ít được dùng với những người Pháp đương thời.

 -Có thể là do đã lâu lắm rồi, tôi không được dùng từ đó. Quan niệm về linh hồn đã bị khai trừ ở Nga, thời kỳ Xô viết. Giống như quan niệm về nhân ái, chém chết thì cũng là những từ của đám trưởng giả. Tôi yêu từ đó, từ "linh hồn", bởi vì nó thoát ra khỏi những nhãn hiệu mang tính xã hội, chuyên nghiệp, sắc tộc. Những nhãn hiệu chỉ để dùng vào mỗi một việc: giản lược người khác thành một chức năng có ích cho mình, từ đó, có thể lợi dụng được. Vả chăng, đây là câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết của tôi, về một con người không có phẩm chất, quá ư bình thường, do đời sống đưa đẩy, đã rũ bỏ được những gì xã hội áp đặt lên anh ta, coi đó như là những mẫu thức. Đây là một linh hồn trần trụi dưới bầu trời…

 -Nói một cách khác, đây là tự do hiện hữu?

 -Kể từ Jean-Paul Sartre, vấn nạn hiện sinh trở thành một mảnh đất khai thác cho văn chương Pháp. Những nhân vật không ngừng chọn lựa, hoặc làm điều này, hoặc điều kia. Có một cái gì mang tính giả tạo ở đó, một cách chơi trội, chơi trò định mệnh, ít ra là vậy; bởi vì mấy ông cỡ chừng bốn mươi, lúc nào cũng phàn nàn về nỗi đau sinh tồn, họ vẫn có thể thay đổi cuộc đời của họ. Họ biến đen đúa thành mỹ học, ve vuốt những địa ngục nho nhỏ, như những khoảnh vườn nho nhỏ theo kiểu Pháp. Tôi, tôi chỉ để ý đến những thời đại mà số mệnh đè bạn ra, dí dao vào cổ bạn, bắt phải chọn lựa. Đó là một khi, tất cả là nguy nàn, là chết người: mạng sống của những người thân, tự do của bạn. Một khi mà bạn đem chính cuộc đời mình ra để mà "chơi", và chẳng có một giây để mà ngần ngừ. Trong cuốn tiểu thuyết của tôi, Alexei Berg là một anh chàng trẻ tuổi sẵn sàng yên vị trong một thế giới với những công kia việc nọ của nó. Anh là một nhạc sĩ được chế độ đãi ngộ, và chẳng nghi ngờ chi, anh sẽ làm nở mày nở mặt giai cấp của anh, người yêu của anh, khi kết hôn với Léra. Nhưng số mệnh, từ một xó xỉnh ở trong cuộc thanh trừng của Staline, nhô ra, và đẩy anh ta qua một con đường khác. Đối với tôi, đây là một kinh nghiệm bi đát thứ thiệt: được giải phóng bởi cuộc sống và những thảm kịch xã hội của nó, những giáo điều, những lối nói giập vùi chúng ta và đôi khi giết chết chúng ta. Bị đẩy vào một cuộc tìm kiếm siêu hình, và cùng với cuộc tìm kiếm siêu hình này, cõi riêng của mình mở ra với vũ trụ và cái chết.

 -Từ những năm tháng dưới thời Staline, ông vẽ ra một bức tranh mới lạ: nhân vật của ông không chính diện (héros) không phản diện (anti-héros), mà là một bóng ma…

 -Vụ án mang tính lịch sử, ý thức hệ về những năm tháng đó, kể như xong; nhưng văn chương còn những điều để nói về tính cực đoan của chế độ đó, về ý chí của nó: giản trừ con người thành chức năng. Chỉ nội cái tên không thôi là đủ chết. Dứt khoát như vậy. Thí dụ như Alexei, tên anh ta thuộc thành phần MFTP (Thành viên trong một gia đình Phản bội Tổ quốc: Membre de la Famille Traitre à la Patrie), thế là bị tống vào tù. Chức năng của từ ngữ, khi mang tính giản lược, đã trở thành một chức năng giết người. Để vượt khỏi cái khung từ ngữ mà xã hội áp đặt lên anh ta, anh ta phải đẩy sự phản kháng tới tận cùng: chạy trốn căn cước thật, rồi sau đó, chạy trốn căn cước giả của mình. Trái với những cư dân của quần đảo Gulag mà sự hiện hữu của họ đã được nhìn nhận, được thông báo, Alexei Berg là một kẻ không có quyền hiện hữu, không có quyền được nhắc tới tên. Như một cựu binh nằm trên tờ báo Pravda, trong phòng đợi giá băng tại một ga xe lửa thuộc vùng Sibérie ở đầu cuốn tiểu thuyết, anh ta không hiện hữu. Đem lời nói tới cho những con người như vậy, cho những bóng ma của một cuộc đời bình thường bị giam cứng vào trong những vùng u tối, làm cho họ hiện hữu, đối với tôi, đây là một thách đố văn chương.

 -Qua những nhân vật đó, là quan niệm của ông về "Con người Xô viết" (Homo Sovieticus) mà ông muốn xét lại?

 -Vâng, từ "Con người Xô viết" là do Alexandre Zinoviev đặt ra, và nó cũng mang tính giản lược khủng khiếp. Như thể những con người Xô viết chỉ là một khối lượng không rõ nét, ít nhiều mang tính nô lệ, và thêm nữa, được ấn định sẵn. Tôi muốn làm bật ra từ cái khối đó, những nhân vật sống. Đây là chức năng của một nhà văn theo nghĩa của tôi: chỉ cho thấy, vượt qua đám nạn nhân, hay những kẻ khù khờ, vẫn có những kẻ nổi loạn, và những con người khoái chí vì vai trò đao phủ của mình. Trước khi cái thời kỳ lớn lao đó khép lại, chỉ còn một chút xíu thời gian để nói rằng, mọi chuyện không đơn giản như bề ngoài nó có vẻ như vậy.

 -Liệu văn chương đã được đặt đúng chỗ để làm điều này?

 -Cho tới lúc này, chúng ta có một tiền đề (thèse): "chủ nghĩa cộng sản là hy vọng của thế giới". Mới đây thôi, chúng ta có phản đề, đại khái như sau: "chủ nghĩa Nazi, chủ nghĩa Staline: cùng ghê gớm tởm lợm như nhau". Bây giờ, chỉ có văn chương là có thể làm được hợp đề (synthèse), tránh công thức hóa vội vàng, tổng quát hóa lạm dụng. Không có vấn đề nghịch lý ở đây. Những con người cứ khơi khơi bị bắt. Một người thợ sơ ý dùng một tờ báo có hình Staline để gói một con cá mòi, thế là lãnh mười năm. Những binh sĩ bị xử bắn, miệng hô lớn: "Staline muôn năm!". Cũng thời gian đó, Mikhail Boulgakov, tác giả "Ông chủ và Margarita", lợi dụng được tính độ lượng của Staline, vốn khoái một trong những vở kịch của ông, "Những ngày ở Tourbine", và xem đi xem lại chừng mười lần, mặc dù đây là một vở kịch chống xô viết một cách thật rõ rệt. Đến nỗi vào đúng lúc những đợt thanh trừng trở nên tệ hại, nhà văn viết thư cho Staline, chỉ để yêu cầu ông ta tống mình đi lưu vong, "Tôi chống lại tất cả mọi cuộc cách mạng, tôi chỉ hò theo Cuộc Tiến Hoá lớn" ("Je suis contre toutes les révolutions, je suis pour la grande Évolution"); Staline, ngược ngạo với tất cả mọi thứ lôgic ở trên đời, cho phép nhà văn ngồi lại vào cái ghế của ông ta ở trong ngành kịch nghệ…

 -Trong tất cả những cuốn sách của ông, lịch sử lớn kêu ầm ầm. Có bao giờ ông mong muốn: hãy câm đi, những tiếng giầy bốt?

 -Không ai tự mình hiện hữu.

 -Như vậy ông muốn tới đâu?

 -Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay, điều gây hứng khởi ở nơi tôi, đó là ý muốn chống lại những điều hiển nhiên mang tính thuần lý; chúng cầm tù chúng ta bằng những định nghĩa do xã hội khai triển, và áp đặt.

 -Mong ước giải cấu trúc (déconstruire)?

 -Không, ngược lại! Điều tôi tìm kiếm, đó là tính toàn thể (l’intégralité) của con người. Tư tưởng Tây phương từ những thập niên sau này, cứ hết coi "tất cả là xã hội", rồi "tất cả là do Freud", rồi "tất cả là chính trị", và bây giờ "tất cả là do sex, hay do sinh lý". Tôi muốn đi quá những lối nói đó, chúng luôn gây rủi ro: tạo ra một con người-quỉ, khi chấp nhận một lối nhìn phiến diện. Con người là một tất cả (un tout), và văn chương không đến nỗi giả, ảo… như là người ta tưởng.

 -Nghĩa là thế nào?

 -Khởi từ những nhân vật, nó tạo nên những lề thói cư xử, những thái độ, thậm chí còn tạo ra những mẫu người, chúng dần dần tạo nên vóc dáng xã hội. Người đọc ảnh hưởng bởi sự đọc, bởi cách quan niệm thế giới mà nhà văn dâng hiến cho họ. Cuối cùng họ tái sản xuất, điều mà họ đọc. Ngày nay, tiểu thuyết Pháp bị ngập lụt tinh khí và phân người. Dần dần, người đọc đưa ra viễn ảnh thế giới, viễn ảnh của họ… Tôi chẳng thể nào coi là "nghiêm túc", nỗi đau khổ của những nhân vật như thế này: họ rên rỉ vì không thể làm tình hơn mười lần trong một tháng. Khi tôi mô tả chiến trường, nơi mà Alexei tìm kiếm một người lính tử trận mà anh ta có thể mượn được căn cước của người đó, tôi nói tới những thân xác thối rữa và rên rỉ, và đây không phải là nghệ thuật vị nghệ thuật. Tại chiến trường, không phải mùi máu lấn lướt đâu, bà biết mùi gì không?

 -Ơ hơ, không…

 -Mùi phân, mùi từ bụng người toác hoác toát ra.

 -Nói một cách trắng trợn, đúng là chuyện cứt đái.

 -Tôi cố ý không dùng từ này, cho một dự tính như vậy. Bởi vì không tôi tin rằng, nói toạc móng heo, như người ta đang trắng trợn nói bây giờ, là phải cách. Ngày xưa tiếng Pháp có từng tầng, và nhà văn trải qua thời giờ của mình bằng cách chơi đùa với nó, và lên xuống cầu thang. Họ biết rõ từ nào ở từng nào, và với mục đích nào, với mức độ nào, họ sử dụng những từ. Kiến trúc này đã suy sụp, đẻ ra một sự nhạt nhẽo không thể nào tưởng tượng nổi, và làm người đọc trơ ra, hết còn bị sốc. Mà theo tôi, [người đọc] phải bị sốc, bởi vì tất cả những cấm kỵ có đó, là để mà gớm ghiếc, ghê tởm.

 -Ông có nghĩ, ông là một con người đề kháng (un résistant)?

 -Nhà văn có khả năng tái tạo thời gian, làm cho nó biến thành hư vô, chế ngự nó bằng từ ngữ. Cũng có khả năng tái tạo sinh vật theo kinh nghiệm riêng của anh ta. Chỉ anh ta là có thể chuyển hóa (transfigurer) thực tại, nghĩa là nhìn nó như nó là, dưới lớp si, mạ, bằng vàng, bạc hay bằng đồng: đó là thực tại mà nó được chỉ cho bạn, từ màn ảnh truyền hình, một bên, và từ những nhà trí thức bị nô lệ bởi những bài diễn văn chính trị, truyền thông đại chúng, hay mang tính xã hội học. Văn hoá hạ cấp đầy ứ trên những làn sóng phát thanh và trên màn ảnh truyền hình. Trong khi hứa hẹn hạnh phúc, những bài hát, hàng triệu bài, nó [văn hoá hạ cấp] hoạt động như là một thứ ma tuý tâm thần, đúng y chang thứ ma túy mà viên đại phán quan của Dostoievski đã nói tới. Văn chương là cái ô vuông cuối cùng của sự kháng cự, trực diện với những bộ máy làm [con người trở nên] đần độn. Nó là nơi trú ẩn cuối cùng của tư tưởng tự do, và, làm cho văn chương trở thành điếm đàng phải bị coi là tội ác chống lại nhân loại. Viết, là một chọn lựa siêu hình, một chuyển hóa, một đầu tư toàn diện. Bạn trở nên khác [đi], và nếu không sống tới mức như vậy, bạn chỉ là một "bon faiseur des romans" (một kẻ sản xuất khéo, những cuốn tiểu thuyết). Phải có một niềm tin trời ơi, mới ngồi thui thủi trong một xó, viết, và chẳng chắc chắn tác phẩm của mình sẽ được in ra. Cũng vậy, phải là một niềm tin trời ơi mới tin rằng người ta có thể chuyển hoá thế giới. Tôi dám dùng tới những từ trên, cho dù chúng có vẻ khoa trương, và cái tinh thần mỉa mai cay độc rất Tây của bà có thể trách móc tôi vì những từ đó.

 -Thời gian đó là thời gian nào; tôi muốn nói cái thời gian mà ông muốn tái tạo, hư vô hóa, và chế ngự, với những con chữ?

 -Nếu phải nhìn ngoài lại, điều đáng nói trong đời tôi, là cái chết của những người thật thân thương, và tôi luôn luôn không thể chịu nổi sự ra đi của họ: tôi từ chối nỗi mất mát đó, sự ra đi của họ ở mãi trong tôi. Tại sao không: tôi có thể chống lại sự tàn lụi của những sinh vật, những con người. Làm sao, nói theo mỹ học, từ chối một chung cuộc như thế đó? Làm sao [cứ khăng khăng] không chấp nhận, sự bất toàn của số mệnh, khi nó bị cái chết làm đứt ngang? Có một điều gì đó chưa được hoàn tất, đối với một cái chết bất đắc kỳ tử, như một tác phẩm điêu khắc bị dang dở. Thế là bạn thay thế Thượng Đế, bạn lại bắt đầu tác phẩm của Ông Ta, bạn chơi trò bổ khuyết. Tôi làm tái sinh những mẩu đời. Những nhân vật của tôi đều là người Nga. Họ cũng có thể là những người Pháp vậy. Ở đây, những số mệnh dang dở không liên quan đến những người chết nhưng còn liên quan tới tất cả những kẻ ngồi chết rũ ở trong văn phòng của họ, hay là, ngay từ khi mới hai mươi lăm tuổi, đã nghĩ chuyện về già.

 -Viết là tìm lại thời gian?

 -Tìm thời gian, có lẽ, giản dị như vậy thôi. Cuốn tiểu thuyết này, tôi ôm ấp nó trong mười lăm năm, tôi viết nó trong một năm rưỡi, và có lẽ, bạn đọc nó chỉ mất ba giờ đồng hồ. Bạn có thấy chóng mặt, về một chuyện như vậy? Có những hành tinh, tỉ trọng nặng đến nỗi, một que diêm làm bằng chất liệu của nó nặng sáu tấn, bạn nhấc lên không nổi. Có những chất liệu khác nhau ở trong vũ trụ. Cũng vậy, với thời gian. Chính vì thế mà văn chương dính vô…

 -Ông viết văn bằng tiếng Pháp, và nói tiếng Pháp từ nhỏ. Cái phần Nga ở trong ông, nó ra sao?

 -Nước Nga rộng lớn đến nỗi, chỉ nội mình nó, đã là cả một vũ trụ, với chừng cả trăm dân tộc, ngôn ngữ, văn hóa. Ở trái tim của nó, là nơi tụ hội của Âu châu và Á châu, của miền Nam và miền Bắc, nó có thể được coi như là phổ cập (universaliste). Pouchkine viết những bài thơ về Cổ Hy lạp, những khổ thơ nhiều đoạn bằng nhau, về Tây phương và Đông phương, một nửa những lá thư của ông viết bằng một thứ tiếng Pháp trải truốt, nhưng vẫn luôn giữ gốc Éthiopienne của mình. Đây là một người Nga luôn cảm thấy mình rất Nga, một "slave", ngay cả trong tính đa dạng của mình; ông nói: "Trong con người slave khắc khổ, tôi chẳng hề nhỏ một giọt nước mắt, nhưng tôi hiểu những giọt nước mắt." (En slave austère je n’ai jamais versé une larme mais je comprends les larmes). Đây có lẽ cũng là thái độ của nhà văn: hiểu những giọt nước mắt nhưng không hề đổ lệ. Thật trái ngược với thứ văn chương hiện nay, vừa mới gặp bất cứ ai là cứ thế vãi nước mắt, đâu còn thì giờ hiểu những giọt nước mắt của người khác. Nếu tôi là Nga, thì cũng giống như Pouchkine… Muốn hiểu được những phản ứng của tôi, là phải qui chiếu về sự cảm nhận văn chương Pháp tại Nga. Một trong những nhà sáng lập thơ ca Nga, Antioche Kantemir - ông cứ thế mà chôm chĩa, "cọp dê" (copy) Boileau mà chẳng thèm mắc cỡ - một bữa nói: "Những gì tôi mượn đỡ bạn bằng tiếng Gaulois, tôi trả lại bạn bằng tiếng Nga." Dostoievski và Tolstoi đã trả món nợ của Kantemir. Với hai người này, tiểu thuyết Nga trở thành [tiểu thuyết] Âu châu. Và nếu họ đọc những nhà văn lớn Pháp, họ cũng biết phê phán xã hội Pháp. Thí dụ như Tolstoi, ông đọc lại "Tu viện thành Parme" (La Chartreuse de Parme) của Stendhal để viết về trận đánh Moskova. Cùng lúc đó, trong "Bản xô-nát ở Kreutzer", ông chế nhạo xã hội Paris, những lối nói trống rỗng của nó, những quần áo dát kim loại của nó. Sự ngưỡng mộ của tôi là vô cùng, về những gì mà nước Pháp đã mang lại cho văn chương. Cùng lúc đó, sự nhỏ nhen của những môi trường phó-văn chương (paralittéraires) làm cho tôi phải tư lự.

 -Ông đã chịu trận vì thói làm dáng của giới xuất bản Pháp, trước khi biết tới vinh quang của giải Goncourt. Làm sao sống trong một tình trạng nghịch đảo như vậy?

 -Thì cứ tỉnh bơ đi. Thoạt đầu, hoàn cảnh của tôi ở Pháp thật ngược ngạo thành thử tôi cũng chẳng mong được công nhận ngay lập tức. Tôi cứ thế mà tiến tới, tin ở mình, và tự nhủ thầm, rằng mọi công nhận đều chỉ là tương đối. Khi được Goncourt, tôi thấy được choàng hoa. Như vậy là tôi đã sống cả hai thái cực, và tất cả những gì sẽ xẩy ra là ở giữa hai thái cực đó.

 -Trong số những cuốn tiểu thuyết đã xuất bản, có cuốn nào được ông cưng nhất không?

 -Không, cuốn nào thì cũng có câu chuyện của nó, khí hậu của nó. Hơi giống như những cơ bắp, tùy theo bạn cử tạ hay phóng lao. Điều tôi thích ở trong cuốn "Lời thú tội của người cầm cờ bị thất sủng", là bố cục (composition), bằng cách nào cả một thời đại hiện ra, dưới cái nhìn trẻ thơ của một cậu con trai. Trong "Di chúc Pháp", tôi yêu sự di chuyển giữa hai văn hóa, một mang tính xã hội, một mang tính thơ ca…. Những cuốn sách là một phần của ngã (moi), hoặc của siêu ngã (surmoi). Xớ, sợi của chúng, đó là cái điều những người khác không diễn tả: một cử chỉ tình cờ nào đó trở nên thật thiết yếu đối với tôi, một thoáng chốc, được cắt ra từ cái dòng đều đều của thời gian, trở thành cả một cõi nhân gian nhỏ xíu, với không gian, với bầu trời của nó. Người thai nghén những khoảnh khắc… Là nhà thơ, là như vậy đó… Tôi nhớ, có một bữa trời mưa ở Sables-d’Olonne. Tôi chạy trú mưa ở một hàng hiên. Một cụ già lụ khụ cũng theo tôi trú mưa. Cụ chắc cũng được trăm tuổi, mặt tái nhợt. Ông cụ nói về bệnh tật của mình, về nỗi khó khăn khi đi đứng, về chuyện máu của ông chảy ngược. Tôi chẳng nói gì hết, tôi nhập vào ông cụ, tôi sống khoảnh khắc ông cụ đang sống. Mưa ngưng, ông cụ bỏ đi, nhưng có lẽ ông cụ đã chuyển sang cho tôi cái cốt tủy trong đời cụ, mà cũng chẳng thèm coi đó là quan trọng. Cuộc đời – và cuộc đời nhà văn của tôi – làm bằng những khoảnh khắc này.

 -Cảm nhận cái đẹp, đầu tiên, đầu đời, của ông, là gì?

 -Tôi luôn luôn sững sờ, vì đàn bà. Tôi còn nhớ một trong những người đó, mà tôi yêu như điên như khùng, tại một làng ở Sibérie. Tôi lúc đó mới mười tuổi, nàng cỡ ba mươi lăm, hoặc bốn mươi; nàng đi lấy nước, từ một nhánh sông gần đó. Nàng bước lên những tấm phên trải qua những vũng bùn, còn tôi thì ở trên một mỏm đất ngó xuống. Một chốc, một lát, nàng biến mất, và cứ thế tôi trở đi trở lại khúc sông, chỗ nàng đã từng đặt chân, rồi tôi đăm đăm nhìn dòng nước, thấy bóng nàng phản chiếu, tôi vuốt ve bóng nàng và lên bẩy từng trời. Đó là một tình yêu rất trong trắng, và rất vật thể (physique). Nếu muốn, người ta có thể nhập vào một dòng sông bất cứ lúc nào, mà chẳng làm phiền lòng Héraclite. Yếu tính nghệ thuật ở đó, ở trong dục vọng một lần nữa muốn nhập vào dòng sông.

 -Cậu bé ngày xưa nghĩ sao về người đàn ông bây giờ?

 -Cậu xét đoán thật nghiêm khắc, nhưng cậu nhận ra người đàn ông. Cậu nhận ra sự khó khăn, những mục đích đã đạt được, con đường chưa đi hết. Cậu không đỏ mặt xấu hổ, nhưng cậu cho rằng tôi hơi khinh bạc, nhưng chưa đủ cấp tiến. Nhưng cậu vẫn chấp nhận tôi. Đây là một độc giả trung thành, tôi nghĩ vậy.

 JT