Nước Cờ Của Hư
Trúc
Độc giả say mê Kim Dung và say mê môn
chơi cờ, chắc khó quên
nổi ván cờ của chưởng môn nhân phái Tiêu Dao. Ván cờ ma quái, chính
không ra
chính, tà không phải tà. Dùng chính đạo phá không xong mà theo nẻo tà
phá cũng
chẳng đặng. Có người ví nó với thế Quốc Cộng ở một số quốc gia trên thế
giới.
Sau, Hư Trúc, chẳng biết chơi cờ nên cũng chẳng màng đến chuyện được
thua, cũng
chẳng luận ra đâu là tà, đâu là chính, đi đại một nước chỉ nhằm mục
đích nhất
thờI là cứu người, vậy mà giải được. Nước cờ của Hư Trúc, cao thủ đều
lắc đầu
vì là một nước cờ tự diệt, nhờ vậy mà tìm ra sinh lộ.
Tác giả, Kim Dung, thấm nhuần lịch
sử, triết học Đông Phương và cái thế "dựa lưng nỗi chết" đã từng được
nhiều danh tướng sử dụng.
Thú vị hơn, một lần nữa, sau đó, ông lại sử dụng thế
cờ này để giúp Thiên Sơn Đồng Mỗ tìm ra chỗ trú ẩn, là hầm băng nơi nhà
kẻ thù.
Là một nhà văn theo ý nghĩa đầu tiên
của từ này, tức là một người kể chuyện,
ông hiểu rất rõ, trên đời mọi chuyện đã được nói, và sáng tạo chỉ có
nghĩa là
lập lại. Những tác phẩm lớn chưa được biết tới, không có. (Les
chefs-d'oeuvre
inconnus n'existent pas). Nói rõ hơn, những tác phẩm lớn đều cưu mang
trong nó
bóng dáng những nguyên mẫu có trước đó, trong văn chương hoặc trong
cuộc đời.
Có những nhà văn suốt đời chỉ viết đi viết lại một cuốn sách. Tất cả
những tác
phẩm lớn của Kafka đều là những cái bóng được phóng lên từ những truyện
ngắn,
những "ngụ ngôn, ẩn dụ" của ông.
Bộ tứ khúc Justine, Balthazar,
Mountolive, Clea của Lawrence Durell là một câu chuyện về thành phố Alexandria được
kể bốn
lần, mỗi lần một khác. Nhiều chi tiết được lập lại, nhưng không hẳn như
trước
mà mang một ý nghĩa mới.
Tác giả giải thích, cả bốn cuốn đều được coi
như một
tác phẩm đơn (single work), không phải tiểu thuyết-sông, roman-fleuve,
mà là
"a word of continnum", một từ của liên tục (liên tục không gian-thời
gian, theo lý thuyết Einstein). Bốn cuốn là chị em ruột, không phải là
hậu quả
của nhau. Toàn thể là một thách đố đối với hình thức chuỗi (serial
form) của
tiểu thuyết qui ước. Chỉ có cuốn chót (Clea) mới tháo bung chiều thứ tư
là
chiều thời gian, và mới có tính hậu quả, và là "tiểu thuyết thời
gian-bão
hòa của một ngày" (the time-satured novel of the day).
Với nhà văn mọi
chuyện đều có thể xảy
ra. Bắc Mỹ
chia sách làm hai loại, giả tưởng, fiction, và không giả tưởng,
non-fiction, là để giản tiện vấn đề, nhưng qua đó, là một
luật tối thượng về đạo đức văn học: Một khi bạn ghi "hồi ký" thì
bắt buộc, những sự kiện ở trong đó, đều được kể như là sự thực, theo
nghĩa sự kiện có thực, đã từng xẩy ra.
Có người còn định nghĩa, nhà văn là
người đốt lên một cây
diêm đã được dùng rồi. Cây diêm dùng rồi có thể là một hình ảnh, một ý
tưởng,
một sự kiện lịch sử, một chân lý, một giả tưởng. Nhà văn Nguyễn Huy
Thiệp,
khi đưa ra một hình ảnh khác về Vua Quang Trung, theo thiển ý, chỉ để
mọi
người, nhất là đồng bào Miền Bắc, có một cái nhìn "thực tế" hơn về vị
"cha già dân tộc". Hình như
vào thời điểm này, UNESCO dự định vinh danh Hồ Chí Minh.
Hình
tượng
"cha già dân tộc", hình tượng hoàng tử Hamlet, vốn đầy rẫy trong văn
học cổ điển Nga. Trong "Cô con gái viên đại úy" của Pushkin, anh
chàng thiếu úy trẻ bị ông bố đầy ra một tiền đồn heo hút. Anh nằm mơ
thấy ông
già bị bệnh. Tới bên giường, hóa ra không phải ông già "ruột" mà là
Pugachev, một nông dân nổi loạn sau bị Nga Hoàng xử tử.
Không hiểu
trong lịch
sử Đảng CSVN có bao nhiêu kẻ mong muốn kẻ thù giết cha biến thành cha
ruột của
họ?
Lập lại không có nghĩa là đạo văn.
Không thầy đố mầy làm nên. Trong bách
nghệ, học được hết bí quyết của thầy, vậy đã mừng húm. Riêng nghề văn,
một nghề
cần thầy hơn tất cả mọi nghề, học trò bắt buộc phải vượt thầy, theo
nghĩa phải
bắt đầu từ chỗ ông thầy bỏ dở, hoặc tưởng rằng đã hoàn tất. Phải sục
sạo những
gì ông thầy đã bỏ qua.
Nói tóm lại, phải mở ra những thử thách mới,
những hy
vọng mới cho văn chương và cho chính mình. Có thể hiểu theo nghĩa đó,
câu của
Mallarmé: Thế giới hiện hữu để tiến tới một cuốn sách đẹp (Le monde
existe pour
aboutir à un beau livre).
Gabriel Garcia Marquez, lần đầu viết
gần ba trăm
trang bản thảo, đọc lại, ông vứt bỏ vì thấy giống tác phẩm của một tác
giả
khác. Viết lại, ông lấy luôn bộ khung cuốn "Absalom, Absalom!" của W.
Faulkner làm bệ phóng, và lần này thành công, một tác phẩm lớn xuất
hiện.
Đọc
"Trăm năm cô đơn", độc giả thấy ngay tác phẩm thoát thai từ Faulkner.
Cũng một thành phố giả tưởng. Cũng một kỹ thuật tiểu thuyết qui chiếu
về một
siêu hình học của thời gian.
Trong Âm Thanh và Cuồng Nộ,
Faulkner đập
nát thời gian rồi xây dựng
lại theo
ký ức của một tên khùng, G.
Garcia Marquez, cũng "mánh" đó, [mà sau này Sartre đưa ra thành lề
luật: Mọi kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui về một siêu hình học của tiểu
thuyết gia], nhưng, thay vì ký ức của một thằng khùng, thì
dùng những vòng tròn thời gian đồng tâm, những nhân vật cùng tên, tạo
dựng thế
giới Macondo từ những huyền thoại và thực tế Nam Mỹ (dòng văn chương
hiện thực
huyền ảo). Nhưng tác phẩm Trăm Năm
Cô Đơn hoàn toàn là của G. Garcia
Marquez.
Faulkner không thể viết như vậy được, ông bị chết cứng như nhân vật của
ông
trong hai lần địa ngục, hay là hai thảm kịch của nước Mỹ, đặc biệt là
của Miền Nam
nước Mỹ: Da
đen và loạn luân.
Trong
"Absalom, Absalom!", địa ngục thứ
nhất mở ra
khi người anh tố cáo với người yêu thầm kín-cô em ruột, người yêu của
cô-bạn
đại học của anh, là một tên da đen. Địa ngục thứ nhì: người đó có cùng
huyết
thống với cô (con người vợ đầu, da đen, của ông bố). Địa ngục khép lại
khi anh
em giết nhau, vì ghen tuông vì màu da.
Faulkner sau khi được Nobel là
xuống
luôn còn Garcia Marquez sau Nobel càng đầy mới lạ, khám phá.
Nhà văn như vậy
còn là người dám đương đầu với những thử thách văn chương, dám đưa ra
những cách
viết, cách sống mới. Roland Barthes trong cuốn "Độ không của cách
viết",
còn đi xa hơn khi khẳng định:
Mỗi nhà văn khi xuất hiện là mở ra trong
ngưòi đó
một vụ án văn chương. (Chaque écrivain qui nait ouvre en lui le procès
de la
littérature).
Những thử thách này lại phải chứng nghiệm bằng cuộc sống.
*
Tuần
báo Time, số Sept, 25, 95 kể chuyện tuần trước đó, một viên Cảnh sát
giao thông
người Do Thái giúp một sản phụ "mẹ tròn con vuông" nhờ coi cảnh đỡ đẻ
trong phim ER (Emegency Room). Nghệ thuật bắt chước cuộc đời, và cuộc
đời tìm
thấy trong nghệ thuật lý do hiện hữu của nó.
Lịch sử Việt Nam
gần đây thôi, lại cho
một thí
dụ về chuyện cuộc đời bắt chước huyền thoại văn học. Đó là chuyện
Trương Chi,
Mỵ Nương. Theo truyền thuyết, anh lái đò Trương Chi, người thì thực
xấu, hát
thì thực hay. Nhưng những chàng Trương Chi của cuộc đời thì suốt đời
không biết
hát, hoặc chỉ nghe một câu hát "Đường ra trận mùa này đẹp lắm".
Hiểu
theo nghĩa đó, nước cờ của Hư Trúc có thể cắt nghĩa như vầy: Sau khi
tiếng hát "thương nữ bất tri vong quốc hận" làm siêu
đổ những miếu thiêng, những đền đài, danh tướng, và làm sập luôn cả một
miền đất, cũng lại tiếng hát đó
kết nối
mọi hy vọng, đổ nát, vì lần này nó cất lên từ quần đảo ngục tù, từ mồ
sâu biển
cả, cuối cùng đã giải oan được lời thề "Phanh thây uống máu quân
thù".
Người viết xin kể lại một kỷ niệm,
những ngày cuối tháng Tư, đầu tháng
Năm 1975,
trong dịp nói chuyện với một nhà văn-nhà thơ đàn anh, trước khi ông
khăn gói
quả mướp lên đường đi học tập "10 ngày". Trong lúc ngồi chờ ly cà phê
tại quán cóc nơi Xóm Gà Gia Định, ông anh viết mấy chữ và ký lằng
ngoằng vào cuốn tiểu thuyết vừa mới ra lò được ít lâu cho thằng em, gật
gù tiên đoán, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này.
*
Có thể cắt nghĩa nước cờ Hư Trúc, khi được áp dụng vào cuộc chiến
Việt Nam,
qua một hình ảnh mượn từ huyền thoại Hy Lạp: Con ngựa thành Troie.
Huyền thoại
trở thành hiện thực cùng với cuộc tập kết của những người Cộng Sản Miền
Nam, khi
họ được lệnh Đảng, mỗi người
phải để
lại, "ít nhất" là một cái bầu cho một cô gái Miền Nam. Huyền thoại tái xuất
hiện khi
Miền Nam tan hàng, bỏ chạy, để lại tình người Việt trong từng câu nói,
từng
cách sống, từng lời hát, nói tóm lại cái được gọi là tình tự dân tộc.
Niềm bí
ẩn, điều tối kỵ này lần đầu tiên được bộc lộ với đồng bào Miền Bắc,
ngay trong
ngày 30 tháng 4 năm 75, khi họ đụng chạm thực tế Miền Nam. Đùng một
cái, đồng
bào Miền Bắc thu hồi, tìm thấy lại cái gọi là khí thiêng dân tộc, hồn
sông núi,
hồn nhân hậu (nostalgia), cái phần của tiền nhân ở trong họ, mà bấy lâu
nay bị
chủ nghĩa Cộng Sản lên án, cố tình hủy diệt.
Nhiều người nói cuộc chiến Việt Nam
không có kẻ thắng người bại, thực sự người dân Miền Bắc, những người
chịu tai
họa do đảng Cộng Sản gây nên, cay đắng, dai dẳng, nghiệt ngã hơn dân
Miền
Nam, chính
họ là những người thắng trận. Chiến thắng của họ chấm dứt chiến thắng
Miền Nam
của những người CSVN. Cuộc giao lưu văn hóa giữa người dân hai miền bắt
đầu kể
từ ngày đó, không ồn ào, náo nhiệt, không chủ nghĩa, đảng phái, trào
lưu, hải
ngoại, trong nước. Người viết xin kể lại một kỷ niệm, những ngày cuối
tháng Tư, đầu tháng Năm 1975,
trong dịp nói chuyện với một nhà văn-nhà thơ đàn anh, trước khi ông
khăn gói
quả mướp lên đường đi học tập "10 ngày". Trong lúc ngồi chờ ly cà phê
tại quán cóc nơi Xóm Gà Gia Định, ông anh viết mấy chữ và ký lằng
ngoằng vào cuốn tiểu thuyết vừa mới ra lò được ít lâu cho thằng em, và
gật gù tiên đoán, Miền Bắc sẽ bị chấn thương nặng nề vì chiến thắng này.
Khoảng cách giữa cách lập lại và đạo
văn nhiều khi thật khó phân biệt và thường
chỉ được đo bằng tài năng, lương tâm và liêm sỉ của người viết. Thanh
Tâm Tài
Nhân chỉ là cái cớ cho thiên tài Nguyễn Du xuất hiện, dù ông khiêm tốn
gọi, đây
là: "Tiếng hát đoạn trường mới".
Đọc Kim Dung chúng ta thấy ông vay
mượn rất nhiều nguồn, nhiều người. Ngay cách mở truyện, từ một chi
tiết, một sự
kiện lịch sử, vốn do A. Dumas và nhận định của nhà văn Pháp này: Lịch
sử chỉ là
cái đinh để tôi treo tác phẩm của tôi. Nhân vật Du Thản Chi là từ
Masque de
fer, Mặt nạ sắt. Tính chất nghẹt thở là của Tây phương, rõ rệt nhất là
từ ông vua kinh dị Hithcock Những nhân vật
như Vô Kỵ,
Kiều
Phong, bà con với những đứa trẻ bất hạnh của Dickens. Lập luận của nhà
sư già tại Tàng Kinh Các, khi giải thích tại sao Phật pháp
lại giong ruổi với Võ học, xem ra như có vẻ vay mượn từ Lý thuyết
(Théorie) và
Thực hành (Praxis) của triết học duy vật biện chứng: Trên đường giong
ruổi,
Théorie và Praxis triệt tiêu lẫn nhau, quyện vào nhau, để cùng biến mất
và từ đó xuất hiện, con người hoàn toàn (l'homme
total), tức giấc đại mộng của Marx. Cái chết của Hồ Nhất Đao mà mỗi
người chỉ
biết có một phần sự thực, là gợi hứng từ Rashomon của nhà văn người
Nhật, Ryunosuke
Akutagawa. Những nhân vật nữ "độc, tối độc" như A Tỷ, Chu Chỉ Nhược xem ra vay mượn từ những nhân vật
"Série Noire" của J. Hadley Chase, tuy tính chất chung tình của họ hoàn
toàn Á Đông. Cách xây dựng nhân vật, cặp Hân Tố Tố-Trương Thúy Sơn vừa
nằm
xuống, cặp Vô Kỵ-Triệu Minh xuất hiện là thuộc truyền thống Trung Hoa,
sóng sau
đè sóng trước.
Nhiều trường hợp chính học trò khám
phá ra những ông
thầy [Ý này của Borges, trong bài Những
tiền thân của Kafka].
Hay
nói một cách khác, mỗi nhà văn phải sáng tạo, những bậc thầy của riêng
mình.
James Joyce đâu dễ đọc, nhưng dòng văn chương độc thoại nội tâm, hay
dòng ý
thức, cơn lũ của linh hồn, do ông mở ra ngày càng có nhiều thiên tài
văn chương
gia nhập: W. Faulkner, Hemingway, Claude Simon...
Alain suốt đời chỉ là
một ông
thầy giáo trung học, ngoài Système
des beaux-arts, Hệ thống Mỹ
Nghệ, gần như không hề
viết một
tác phẩm lớn, trừ những bài "Nghĩ về" (Propos sur) nhưng ngoài André
Maurois là học trò chính thức, những người học hàm thụ, tôi muốn nói
những nhà
văn ảnh hưởng lối viết cô động, mỗi câu văn gói trọn vẹn sự bí mật của
chính
nó, và mọi cây cầu nối kết câu nọ với câu kia bị cắt đứt, trong số này
phải kể
cả Camus, như nhận định của Sartre, về cuốn "Kẻ xa lạ" (L'Étranger):
Mỗi câu văn là một hòn đảo cô đơn. Mỗi câu văn là một khởi đầu viết.
[Trong baì viết Giải thích Kẻ Xa Lạ]
Nhưng liệu
có một tác phẩm "mồ côi", nghĩa là không họ hàng gì với dòng văn
chương thế giới không.
Câu hỏi do một nhà văn nổi tiếng đương
thời
người Mexico,
Carlos
Fuentes, 66 tuổi, đưa ra trong một cuộc phỏng vấn cách đây đã lâu. Và
ông tự
trả lời, chắc là không có. Cắc cớ một nỗi, bản thân nhà văn lão thành
này hiện
đang bị một nhà văn trẻ cũng người Mexico, thuộc loại chưa được người
đời biết
tới, tuy có vài tác phẩm được xuất bản, Victor Manuel Celorio, tố cáo
là đạo
văn, bởi vì những tương tự giữa Kỳ
Lân Xanh (The Blue Unicorn) của nhà văn trẻ
này và Diana của Fuentes không
phải là tình cờ.
Kỳ Lân Xanh
lần đầu do tác giả
tự xuất bản năm 1989, không kiếm được người mua ngoài 200 bà con và
thân hữu,
lẽ dĩ nhiên với lời đề tặng và chữ ký của tác giả, theo kiểu văn chương
"sinh nhật" hiện đang thịnh hành trong giới businessman-nhà văn. Con
số tái bản vào năm 1994 khá hơn một chút, 1000 ấn bản. Đề tài cuốn
truyện: Cuộc
tình sóng gió giữa một nhà văn Mexico
và một người đàn bà Mỹ, được coi như là một ẩn dụ về mối giao tình
chẳng đậm đà
gì, nếu không muốn nói là gay gắt giữa hai ông bạn láng giềng Hoa
Kỳ-Mexico.
Sau khi đọc Diana, tác phẩm
mới nhất của Fuentes, xuất bản năm 1994, Celorio
giận dữ tuyên bố, anh tìm thấy chừng 110 trường hợp Fuentes "mô
phỏng" tình tiết, cách kể chuyện trong The Blue Unicorn. Thí dụ trong hai
cuốn, cuộc tình bắt đầu bằng cuộc chiến Việt Nam (lại Việt Nam), như là
một cái
phông cho những lần gặp gỡ (tội nghiệp thật), và trong mỗi lần "gặp"
nhau, anh đàn ông Mexico lại nói về dự tính sáng tác của mình: Cuộc
tình giữa
kẻ xâm lược Tây Ban Nha, Herman Cortes và cô vợ bé người da đỏ,
Malinche.
"Không ai tin tôi", Celorio giận dữ kể
lại lần anh tới Bộ Văn Hoá,
Phòng lo về bản quyền tác giả. "Họ còn kết tội tôi là một tên nói dối.
Riêng tôi, tôi đã mất đi niềm kính trọng Fuentes rồi".
Ít người tin anh
sẽ
chiến thắng con sư tử già đầy đức vọng Fuentes trong trận so tài tại
Tòa án vào
năm tới (1996). Nhưng ít nhiều con muỗi đã gây một nốt ghẻ trên thanh
danh con
sư tử. Tuần báo Time, Oct 2, 95 cho biết Fuentes đang ở Luân Đôn, trong
message
gửi về cho bà vợ, tuyên bố: "Chuyện bố láo, ngu xuẩn, phi lý".
Tuy tội đạo văn thật khó chứng tỏ, nhưng
trong trường hợp này, nó làm sống lại những lời chỉ trích trong quá
khứ, theo
đó, Fuentes đã "vay mượn nặng nề" những nguồn khác. "Tôi không
ngạc nhiên", nhà văn gốc Cuba,
G. Cabrera Infante tuyên bố với phóng viên tờ Time ở Luân Đôn. "Theo
tôi
đây không phải là một trường hợp cá biệt, riêng lẻ". Và ông tố thêm,
Fuentes đã mượn một truyện phim của ông để dựng thành cuốn Birthday, và
"quên" không chi cho ông một đồng nào.
Nhà văn nữ, vợ cũ của
Octavio Paz (Nobel văn chương), Elena Garro, tuyên bố một cách nhẹ
nhàng hơn :
"Tôi không tin ông ta ăn cắp tư tưởng với ẩn ý xấu. Sẵn có đó thì ông
sử
dụng. Vậy thôi".
Cây diêm đã sử dụng rồi nhiều khi gây
thành đám cháy lớn.
Hậu quả của nó tuy vậy vẫn còn nhỏ, cùng lắm là tới Tòa án như trường
hợp trên
đây. Nhưng "sửa văn", hoặc "sửa ngay chính bài văn dịch của
mình" nhằm mục đích chính trị, nhằm ảnh hưởng tới bao thế hệ người đọc,
chuyện này khủng khiếp hơn nhiều. Trong Tam Quốc, Khổng Minh đã cố tình
sửa hai
câu thơ trong bài Đồng Tước và trận Xích Bích kể như đã quyết định.
Giai thoại
"Minh nguyệt sơn đầu khiếu, Hoàng khuyển ngọa hoa tâm" cho thấy chớ
liều lĩnh sửa văn thơ người khác. Hiện nay có nhiều dịch giả đang bỏ
công sưu
tầm nguyên bản rồi dịch lại tất cả những tác phẩm của Dostoievsky,
Nietzsche...
bởi vì những bản dịch cũ, qua tiếng Pháp, tiếng Anh, (và ngay cả nguyên
bản
bằng tiếng Đức những tác phẩm của Nietzsche) đều có dụng ý sao cho hợp
với
"thị trường văn học, chính trị, tôn giáo, sắc tộc" thời đó. Có thể vì
vậy Nietzsche và chủ thuyết siêu nhân của ông đã bị Nazi lợi dụng.
Cụ thể nhất,
một trong những đấng giáo chủ của chủ thuyết hiện sinh, Heidegger, bị
tố cáo về
sự tham gia của ông vào phong trào quốc xã. Đây không phải chỉ là tình
cờ mà là
một hành động quyết định, phát sinh từ tư tưởng triết học của
Heidegger. Những
hoạt động xã hội quốc gia của ông, được coi như là thí dụ cụ thể, chắc
nịch,
điển hình của "eigentliches", hiện hữu thực, qua những bài diễn văn
của ông vào những năm 1930 cho thấy.
Trong bài diễn văn khai mạc khi nhận chức
Viện Trưởng Viện Đại Học Freiburg ngày May 27, 1933, để kết thúc,
Heidegger đã
cố tình "vặn vẹo" (distort) ý nghĩa của từ "episphala", một
từ ngữ Hy Lạp trong một câu trích dẫn Republic
của Plato, được dịch ra
Đức ngữ
là "Alles Grosse steht im Sturm", "episphala" được cố tình
dịch qua tiếng Đức là Sturm, (Storm, Bão tố). Câu trên có nghĩa
"Heideggerian" là: Everything great stands in the Storm,[tạm dịch qua
tiếng Việt: Có cứng mới đứng đầu gió], trong khi
thực sự ý nghĩa câu của Plato là: Everything great is at risk, [Thuyền
cả, sóng to] hoặc That which
is great is most exposed to risk.
Bạn đọc để ý đến hai mẫu tự S.A trong
câu văn
dịch, là Sturmabteilung, Storm Groups, Nhóm Giông Bão, (1) và một trong
những tờ báo Nazi bài Do
Thái hồi đó có tên là Der Sturmer.
[Tài liệu về Heidegger lấy từ bài viết
The
French Heidegger Debate, tác giả Richard Wolin, đang trong tạp chí New
German
Critique, N.45, Fall, 1988].
NQT
(1) The Sturmabteilung
▶(?) (SA, German for "Storm Division" and
is usually translated as stormtroops or stormtroopers)
functioned as a paramilitary organisation of the NSDAP – the German
Nazi party.