*

TƯỞNG NIỆM

Thanh Tâm Tuyền
[13.3.1936-22.3.2006 ]

Hãy cho anh khóc
Tạp ghi bản scan

Giỗ đầu

1 2 3 4 5 6 7


Tưởng nhớ Thanh Tâm Tuyền
[13.3.1936 - 22.3.2006]

Bếp lửa reo đời quá vãng
Mãi nhớ em dẫu ngày chưa kịp tới
NLV

What for?
We never asked, on hearing about the latest arrest, "What was he arrested for?" but we were exceptional. Most people, crazed by fear, asked this question just to give themselves a little hope; if others were arrested for some reason, then they wouldn't be arrested, because they hadn't done anything wrong. They vied with each other in thinking up ingenious reasons to justify each arrest: "Well, she really is a smuggler, you know," "He really did go rather far, " or "It was only to be expected, he's a terrible man," "I always thought there was something fishy about him," "He isn't one of us at all..."
This was why we had outlawed the question "What was he arrested for?"
"What for?" Akhmatova would cry indignantly whenever, infected by the prevailing climate, anyone of our circle asked this question.
"What do you mean what for? It's time you understood that people are arrested for nothing!"
-Nadezhda Mandelstam:Hope Against Hope
Chúng tôi chẳng hề hỏi, sao dzậy, sao bắt tui?, nhưng chúng tôi là thứ siêu rồi.
Thường ra, nghe bị bắt là đã són đái ra quần.
 What for?
Nhà thơ Akhmatova cáu kỉnh. "Ý mi muốn gì, khi hỏi dzậy? Đã đến lúc mi phải nhét vô cái đầu ngu của mi điều này, nhân dân bị bắt chẳng bởi điều gì?"
Nadezhda Mandelstam: Hope Against Hope [Hy vọng chống lại hy vọng].
*
Poor Man, take this kopeck, for Christ’s sake.
A peasant to Dostoyesky
Tội nghiệp, cầm đỡ một đồng.
Một người nhà quê nói với Dostoyesky
*
Trốn đâu lũ trẻ lem luốc ?
TTT
Các cháu đánh đấm ra làm sao để đến nông nỗi này? Vậy mà bao lâu nay, các bác chỉ mong, cái ngày các cháu giải phóng Miền Bắc.
Một bà nhà quê nói với một anh sĩ quan tù cải tạo [NKL]
*
Bi hài, là cảnh Solz bị bắt. Ông bị gọi lên văn phòng thủ trưởng, ông này, nghiêm trọng và buồn rầu, nói, đã đến lúc anh phải đi thôi. Solz lại nghĩ mình được Đảng và Nhà Nước trao cho một nhiệm vụ đặc biệt. Đúng lúc đó hai ông mật vụ trong xó xỉnh xồ ra.
"Tớ hả? Sao lại tớ?" (1)
(1) On 9 February 1945, ten days after he had led his battery out of encirclement, they were in the village east of Konigsberg (Kaliningrad). It was not quite clear whether the narrow Soviet salient on the Baltic coast had cut off the Germans or the Germans had cut off them. The mood was relaxed enough, anway, for Master Sergeant Ilya Solomin to bring in a piece of r to show to his captain. "I've no one to send this to, sir: why not Natasha? It's large enough to make a blouse out of it."
Another NCO, answering a phone, said to Solzhenitsyn he was wanted immediately at brigade headquarters. He picked up his map case and strode off. Following an intuition, Solomin took into safekeeping a German ammunition chest containing books and Natasha's letters. Meanwhile, entering of Brigadier General Travkin, Sanya noticed a group of officers, unknown to him, huddled in the corner. Travkin ordered him to hand his revolver; Solzhenitsyn wonderingly did so, and saw his commander leather strap round the butt before placing the revolver in a desk. Gravely and in a low voice Travkin said, "All right, you must go now”
Solzhenitsyn was silent, puzzled: was he being sent on some special mission?
The windowpane rattled; only two hundred yards away shells were falling. Travkin repeated almost sadly, "it is time for you to go somewhere”.
Two officers from the corner stepped forward and shouted: "You're under arrest”
“Me? What for?”
Without answering, they ripped the epaulets from his shoulders and the star from his cap, removed his belt, and seized the map case. They turned him to march him from the room. "Solzhenitsyn, come back here!" Travkin ordered.
He twisted out of the two SMERSH officers' grasp, and turned to face his commander.
“Have you a friend on the First Ukrainian Front, Captain?"
“That’s not allowed! You have no right!" the officers shouted.
A colonel and a captain of counterintelligence, they felt confident they could shout at a general of the Red Army.
Solzhenitsyn understood everything at once. That this was about Stalin. Why letters to and from Koka hadn't been getting through.
Travkin rose to his feet, leaned forward to shake Solzhenitsyn's hand, saying fearlessly and precisely, "I wish you happiness, Captain!"
D.M. Thomas: Solz, thế kỷ ở trong ta.

Một câu hỏi, có tính 'tâm linh', liên quan tới cái việc cắt bỏ những năm tháng cải tạo của TTT, trong đời ông, khi đưa cây thơ TTT vô Văn Miếu.
Liệu đây là một việc làm tuyệt vời, theo nghĩa, thơ của ông, nhất là những dòng thơ ở đâu xa, khi hoàn thành, là hoàn toàn thoát ra khỏi cõi đó, cõi tù, hay hơn cả cõi đó, cõi đời?
Chúng, như hạc vàng "đi mất từ xưa", như rồng "được điểm nhãn", "nhất khứ bất phục phản"?
Theo cái nghĩa mà Bonnefoy nói về thơ, D.M. Thomas nhận định về Dr. Zhivago. Hay, TTT nói về cõi thơ tù.
“  ...There is another, more recent poetry which aims at salvation. It conceives of the Thing, the real object, in its separation from ourselves, its infinite otherness, as something that can give us an instantaneous glimpse of essential being and thus be our salvation, if indeed we are able to tear the veil of universals, of the conceptual, to attain to it".
["Có một thứ thơ khác, gần đây thôi, nhắm sự cứu rỗi. Nó cưu mang Sự Vật... trong sự tách rời của nó ra khỏi chúng ta... trong cõi khác vô cùng của nó... nếu cần phải xé toạc bức màn vũ trụ, bức màn quan niệm để có cho được."
Bonnefoy
Bác sĩ  Zhivago không chính trị một cách lộ liễu, như nhiều người tại Tây Phương hô hoán, một cuốn tiểu thuyết nhằm lên án, tố cáo... Nhưng nhà cầm quyền Xô Viết nhận ra, đây đúng là một kẻ thù chết người đối với chế độ. Bất cứ một trang là một sự chơn chất, nhiệt thành, cho một điều gì hết sức lớn lao, thực hơn nhiều, so với bất cứ  một chế độ chính trị nào, đâu phải chỉ cái thứ chính quyền toàn trị, xây dựng bằng hàng triệu người chết, lao động khổ sai, và một thứ ngôn ngữ vô nghĩa.
[Every page asserted a fidelity to something infinitely greater and more truthful than any political system, let alone a creed built on millions of deaths, slave labor, and a dead and a meaningless language].
D.M. Thomas: Solz, thế kỷ trong ta
Đẫm mình trong thời gian "không lịch sử", hay đúng hơn, lịch sử ở bên ngoài, người ta khám phá ra rằng, những ngày, những tháng đều không phương hướng, không mục đích, trần trụi. Tuyệt đối trần trụi. Sự không hiện hữu (inexistence) của cuộc sống đem đến sự bình an ở bên trong. Cõi thơ êm đềm ngự trị ở bên trên sự bình thản của vũ trụ. Từ đó, mỗi bài thơ là một thời gian khép kín, tách ra khỏi chuyển động của cuộc sống. Thời gian bất thần, của nỗi kinh hoàng, trở thành thời gian cô đọng; chẳng có chi khác biệt, giữa kìm hãm, và bay bổng.
Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù

Gulag là một tác phẩm lập đi lập lại chính nó, "Gulag is a highly repetitive work". "Nothing but the same thing over and over again."
Ngay trong lời tựa, Solz giới thiệu độc giả, Gulag của ông, như là một xứ sở, “một xứ sở kỳ kỳ”, an ‘amazing country”, mang hình dáng một quần đảo, trong đó, Kolyma là hòn đảo lớn lao nhất, và nổi tiếng nhất, “the greatest and most famous island”, "điểm cực hung dữ” của nó, its “pole of ferociy”.
Một ngày nào đó, ông tiên đoán, Quần đảo sẽ được đem ra ánh sáng, như - ông trở lại với ẩn dụ mở ra tác phẩm - một phôi, bào thời tiền sử.
*
Cũng trong lời tựa, Solz kể, về một phái đoàn thám hiểm, tình cờ phát giác một số phôi bào, từ hàng ngàn năm, được bảo quản bởi một con sông băng, con sông băng này lại nằm lọt vào một tầng ngầm băng, nhờ vậy, còn tươi rói, và, thế là, mấy ông thám hiểm hè nhau đập khối băng, cứ thế đợp phôi bào tiền sử một cách ngon lành!  (1).
Solz tin rằng, Gulag có ngày được đem ra ánh sáng, như vậy.
Ông quá thân thiết với thế giới đó, đến nỗi, "yêu nó"...  ‘almost to love that monstrous world.’
(1)“In 1949 some friends and I came upon a noteworthy news item in a magazine of the Academy of Sciences. It reported in tiny type he course of excavations on the Kolyma River a subterranean ice lens had been discovered which was actually a frozen stream-and in it and frozen specimens of prehistoric fauna some tens of thousands of years old. Whether fish or salamander, these were preserved in so fresh the scientific correspondent reported, that those present immediately open the ice encasing the specimens and devoured them with relish on the spot."
*
Ẩn dụ, Aristotle nói, là linh hồn của thơ.
Nhà thơ Osip Mandelstam, chắc hẳn có ý nghĩ đó trong đầu, khi viết, thơ, giống như chiếc máy bay đang bay ngang trời, đẻ ra một chiếc khác, từ bụng nó, và, cứ thế, cứ thế.
Cái phôi tiền sử đẻ ra phôi Gulag, cứ thế, cứ thế. From frozen salamander to Gulag and its ‘tribe’ to Archiprlago – to the whole of ‘monstrous’ Bolshevik Russia as a giant salamander.
Nhưng D. M. Thomas viết, một cách thật thú vị, "Ở đây, người đọc cảm thấy, có một nhà văn, với can đảm, sức mạnh, và thiên tài, huỷ diệt Medusa, bằng cách nhìn thẳng vào con quái vật, qua tấm gương nghệ thuật."
*
Đọc, Gấu tưởng tượng ra, cái phôi đẻ ra Thơ Ở Đâu Xa.
Đó là hai câu thơ, trong Tôi Không Còn Cô Độc:
Chúng nó làm Cộng Sản,
Chúng ta làm tù nhân.
*
Thảo nào, 'ông anh' đã từng toan tính dịchTầng Đầu!
*
Trên Tin Văn, Gấu cũng đã từng kể, đã từng được thưởng thức cái phôi tiền sử, khi đi tù ở Phạm Văn Cội, Củ Chi.
Nhưng, thay vì phôi tiền sử, thì là một con tép nhỏ, trong một con kinh ta đào đã có nước chẩy qua.
*
Tháng Chín 1971, Nikita Khruschev chết, “một cái chết quái dị nhất, khác thường nhất”, trong những cựu trào, Old Bolshevik: “một cái chết tự nhiên”!
“Khi tôi chết”, ông nói đùa, lần có tin ông chết, dởm, lẽ dĩ nhiên, “Tôi sẽ đích thân thông báo về cái chết của mình, tới toàn thể báo chí nước ngoài.”
Khi ông thực sự chết, chẳng báo nội nào loan tin, nhà nước, lẽ dĩ nhiên, vờ. Vậy mà, giống trường hợp đám tang Pasternak, sáng ngày 13 Tháng Chín, dân chúng tụ họp đông đảo bên ngoài cổng chính, nghĩa trang Novodevichy. Đa số, đám già, những “zeks”, đã ‘trở lại với cuộc đời, từ cõi chết”, nhờ bài diễn văn tố cáo Stalin. Nhà nước quả đã có ý định ngăn ngừa tụ tập tham dự đám tang của ông, bằng một tấm băng với chữ: Ngày dọn dẹp, Cleaning day.
*
TTT thật tình chẳng muốn, cái chết của ông trở thành ồn ào. Báo tin bạn bè ông còn ngần ngại, sống chẳng làm bạn vui, cớ sao chết lại làm bạn buồn?
Cũng cái kiểu đùa như Kút Chép chăng?
Có thể, nhưng, ở đây, còn là một lời xin lỗi những ai đã từng buồn vì ông, thí dụ, NMG, chẳng hạn?
Tuy nhiên, tin ông mất thực sự gây bàng hoàng tại hải ngoại, nhất là ở Mỹ.
Có sự sửng sốt nữa. Ông bặt tin lâu quá, thành thử khi có tin về ông, ít người tin.
Gấu, gần như cùng một lúc, nhận được ba cái tin.
Trước nhất, là MN. Gọi điện thoại. Rồi tới NLV, rồi tới NCK.
NCK biết tin ông nhập viện, nhưng nhập viện, mà ở Mẽo, thì thường thường, là để xuất viện, mạnh khoẻ hơn, bớt bệnh, hoặc lành hẳn bệnh.
Nhân giỗ đầu ông, Tin Văn nghĩ, cách tốt nhất, để tưởng nhớ ông, là lèm bèm về thơ.
Trong những kỳ tới, Tin Văn sẽ giới thiệu bài viết về Rilke, [của Coetzee], về Bonnefoy...

 Fame
 Now your hour has struck. -Pray!
 -BLOK, The Field of Kulikovo
 "YOU KNOW THAT IN A MONTH  You will be the most famous person on earth?"
 “I know. But this will not be for long."
Russia’s greatest living poet, Anna Akhmatova, was conversing with Russia’s greatest living writer. Kopelev had introduced them; indeed, he seems to know everybody. In her seventies now, she was stout, silver-haired, majestic. She had read Ivan Denisovich in samizdat, and found it overwhelming. She thought of her son, who had spent so many years in Siberia.
“Can you edure fame?” she pressed him.
“ I have very strong nerves. I endured the Stalin camps."
“Pasternak could not endure fame. It's very difficult to endure fame, especially late fame”.
He told her he knew her great and highly complex work Poem without a Hero by heart. “ I found it incomprehensible at first, but then all became clear.” She read to him her sequence of the 1930s, Requiem, which had been published in the Vest, "without her knowledge or permission."
 "A Viking came in.” she recalled to Koplev. “And totally unexpectedly, and young and kind.”
Danh vọng.
Giờ của mi đã điểm. Hãy cầu nguyện!
BLOK, [Cánh đồng] The Field of Kulikovo
"Anh biết không, chỉ chừng một tháng, anh sẽ là người nổi tiếng nhất trên thế giới?"
"Anh biết. Nhưng chắc sẽ không lâu đâu."
Nhà thơ vĩ đại nhất hiện đang còn sống của nước Nga, Anna Akhmatova gặp nhà văn vĩ đại nhất hiện đang còn sống của nước Nga. Bà lúc này ở tuổi bẩy mươi, rắn, đanh, tóc bạc trắng, uy nghi. Bà đã đọc Ivan dưới dạng samizdat, truyền tay, và thấy nó thật bảnh. Bà nghĩ đến người con trai, đã từng trải qua nhiều năm tại Siberia.
“Anh liệu chịu nổi danh vọng?”. Bà gặng hỏi.
‘Thần kinh của tôi cứng lắm. Tôi chịu nổi trại tù Stalin.”
“Pasternak không chịu nổi danh vọng. Thật khó mà chịu đựng nổi danh vọng, rất khó, đặc biệt là thứ danh vọng đến muộn.”
Solz nói, ông biết tác phẩm lớn, nhưng cũng thật đa dạng của bà, Bài thơ không Anh hùng. Lúc đầu, Solz thấy thật khó hiểu, nhưng rồi nó trở nên trong sáng. Bà đọc cho Solz nghe đoạn tiếp của năm 1930, Kinh Cầu, xuất bản ở Tây phương, “bà không biết, và cũng không cho phép”.
“Một tên Viking đến thăm tôi”. “Hoàn toàn bất ngờ, trẻ, và được lắm.”
*
Ngày Ivan Denisovich chính thức ra lò, Thứ Bẩy, 17 Tháng 11, 1962.
Cứ như trong nhà thờ, ông chủ báo Novy Mir kể lại cho tác giả, tình hình tòa soạn, độc giả lặng lẽ vô, lặng lẽ đưa ra 70 kopeck, lặng lẽ lấy một số báo, và lặng lẽ ra ngoài, nhường chỗ cho độc giả khác!
Nhưng, nếu như thế, liệu Một ngày trong đời Ivan có thể dài quá một số báo Novy Mir?
Không thể, theo Gấu.
Đúng ra, theo Lukacs, khi ông nhận định, vào thời điểm Cái Ác lên ngôi, cả văn chương và đời sống bỏ chạy có cờ, thì truyện ngắn đúng là cái anh cảm tử đóng vai hậu vệ, cản đường tiến của nó.
Bếp Lửa, Kẻ Xa Lạ, Một ngày, Tướng về hưu…  bắt buộc phải là truyện ngắn, không thể khác.
Hơn thế nữa, chưa cần đọc, chỉ đọc mỗi cái tên truyện không thôi, là đã đủ ngộ ra chân lý.
*

At the moment of arrest, wrote the poet, "you tire as in a lifetime." In
Shalamov's Kolyma, every moment was that kind of moment.
Martin Amis: Koba The Dread

Ngày
Một ngày trong đời Ivan Denisovich chính thức ra lò, Thứ Bẩy, 17 Tháng 11, 1962.
Cứ như trong nhà thờ, ông chủ báo Novy Mir kể lại cho tác giả, tình hình tòa soạn, độc giả lặng lẽ vô, lặng lẽ đưa ra 70 kopeck, lặng lẽ lấy một số báo, và lặng lẽ ra ngoài, nhường chỗ cho độc giả khác!
Nhưng, nếu như thế, liệu Một ngày trong đời Ivan có thể dài quá một số báo Novy Mir?
Không thể, theo Gấu.
Đúng ra, theo Lukacs, khi ông nhận định, vào thời điểm Cái Ác lên ngôi, cả văn chương và đời sống bỏ chạy có cờ, thì truyện ngắn đúng là cái anh chàng cảm tử đóng vai hậu vệ, cản đường tiến của nó. (1)
Bếp Lửa, Kẻ Xa Lạ, Một ngày, Tướng về hưu…  bắt buộc phải là truyện ngắn, không thể khác.
Hơn thế nữa, chưa cần đọc, chỉ đọc mỗi cái tên truyện không thôi, là đã đủ ngộ ra chân lý.
Nhân đang ồn ào về Dương Nghiễm Mậu, lịch sử không thể lập lờ, thế thì, tại nàm sao, trong danh sách trên, lại thiếu, những Rượu Chưa Đủ, Cũng Đành, Ngoại Ô Dĩ An và Linh Hồn Tôi, Con Thú Tật Nguyền, Trăng Huyết, Trái Khổ Qua, Dọc Đường, Tư, và, lẽ dĩ nhiên: Tứ tấu khúc viết về Lan Hương và Sài Gòn!
Ôi chao, hoá ra Lukacs mới kỳ tài làm sao: ông biết trước, Cái Ác sẽ lên ngôi, và thiên tài của nơi chốn [ông thần đất, ông thành hoàng, ông địa...] sẽ ban cho miền đất bị trù ẻo này hơn một truyện ngắn, trong khi chờ, được chúc phúc trở lại.
*
(1) G. Lukacs, phê bình gia Mác xít, đọc Một ngày, và đưa ra nhận định như trên, về thể loại truyện ngắn.
Trớ trêu là, Robert Conquest, và tiếp theo, Martin Amis, cũng dựa trên kinh nghiệm của Solz, của trại tù Stalin, để giải thích sự dài ngắn của một cuốn sách.
Amis mở ra cuốn Koba The Dread của ông, bằng câu văn thứ nhì của Robert Conquest, trong cuốn Mùa Gặt Buồn: Tập thể hóa Xô viết và Trận Đói-Kinh Hoàng: The Harvest of Sorrow: Soviet Collectivization and the Terror-Famine:
Nếu lấy chữ mà so với mạng người, thì những chuyện gì xẩy ra ở trong cuốn sách của tôi, cứ hai mươi mạng người thì tương đương với, không phải một từ, mà một con chữ.
Câu tiếng Anh của Conquest, “We may perhaps put this in perspective in the present case by saying that in the actions here recorded about twenty human lives were lost for, not every word, but every letter, in this book”, tương đương với 3,040 mạng người. Cuốn sách của ông dài 411 trang.
Conquest trích một câu của Grossman, câu này tương đương với 3.880 mạng trẻ em:
"And the children's faces were aged, tormented, just as if they were seventy years old. And by spring they no longer had faces. Instead, they had birdlike heads with beaks, or frog heads-thin, wide lips-and some of them resembled fish, mouths open"
[Mặt trẻ em thì già cằn, tả tơi, cứ như thể chúng 70 tuổi đầu. Tới mùa xuân chẳng em nào còn có mặt, thay vì mặt thì là những cái đầu giống như đầu chim...]
**
Trẻ em Ba Lan, 1941. Trận đói của Lenin
Nature simplifies itself as it heads toward the poles (and we head north now because so many scores of thousands were doing so, as Stalin's rule developed, and as the camps crazily multiplied). Nature simplifies itself, and so does human discourse:
My language was the crude language of the mines and it was as impoverished as the emotions that lived near the bones. Get up, go to work, rest, citizen chief, may I speak, shovel, trench, yes sir, drill, pick, it's cold outside, rain, cold soup, hot soup, bread, ration, leave me the butt-these few dozen words were all I had needed for years.
Life was reduced. Kolyma Tales is a great groan from someone chronically reduced. Solzhenitsyn captured the agony of the gulag in the epic frame, in 1,800 unflagging, unwavering pages. Shalamov does it in the short story - for him, the only possible form
Kolyma Tales
Trong Gulag, đời người co lại, và cũng thế, ngôn từ. Với Solz, 1.800 trang, với Shalamov, co lại còn truyện ngắn, không thể nào khác, Kolyma là cực điểm của sự hung dữ, đỉnh cao của Gulag.
Nhân ngày 30 Tháng Tư, Gấu mới chợt nhớ ra là lý thuyết văn học của G. Lukacs, qua đó, truyện ngắn đóng vai anh hậu vệ cản đường Cái Ác, thực ra là 'đạo' của phe ta, VNCH, chiến thuật Quả Đấm, nhằm giải thích cái vụ mất  cao nguyên.
*
13.4.
Hôm nay là sinh nhật của con, đúng ra chẳng nên nhắc chuyện đau buồn nhưng tháng Tư vẫn luôn luôn làm những ngưòi như bố mẹ cảm thấy bứt rứt. Có lẽ đã đến lúc bố mẹ đem cất kỹ lá cờ phủ trên quan tài chú Sĩ vào một nơi thật yên ổn, thật thiêng liêng là trái tim của mình...
Tự truyện

Cái tên truyện, và tên nhân vật, rất quan trọng, đôi khi mang tính tiên tri, theo Gấu. Những cái tên như Samsa, như Meursault chẳng hạn, mang trong chúng, định mệnh của nhà văn, và có khi, định mệnh của cả một dòng văn học.

TTT, giải thích, ông cho nhân vật chính trong Bếp Lửa, cái tên trong khai sinh của ông, Tâm, tuy nhiên, ông nhận ra, Tâm trong Bếp Lửa vẫn không thể nào y chang Tâm ở ngoài đời được. Chính vì thế, ông đã đề lên trang đầu bản thảo, câu của Rimbaud, “tôi là kẻ khác”, nhưng khi đem in, xóa bỏ.
Tuy nhiên, lại tuy nhiên, có một định mệnh nối kết tất cả một những cái tên, như thế đó: Bếp Lửa, Tâm, Hà Nội, và vượt lên trên hết, biến cố 1954.
Hà Nội 1954, là Tâm, là Bếp Lửa.
*
Meursault, là từ 'mer', 'soleil', biển, mặt trời. Kẻ Xa Lạ  mang khí hậu Địa Trung Hải.
Đến đây, bật ra câu của Faulkner: Con người là tổng số những kinh nghiệm về thời tiết. Bếp Lửa, Hà Nội, với tất cả những ngày đông cay nghiệt của nó.