*



Thu, 2010

Thu phố ca

*

2007
 
*

by Richie 10.2010


Diễn Đàn Da Màu loan tin, nhà văn Cao Xuân Huy, tác giả của truyện ký Tháng Ba Gãy Súng,
đã vĩnh viễn chia tay bạn đọc và thân hữu vào lúc 4:50 chiều thứ Sáu 12.11.2010 tại tư gia.
Thành thực chia buồn cùng gia đình, bạn bè, thân hữu của CXH và cầu chúc linh hồn anh sớm siêu thoát
TV/NQT

Ngoài đời, Gấu có gặp CXH đâu hai lần, tại báo Người Việt và Viễn Đông, nhưng chưa có lần nào trò chuyện cùng anh.


Thơ mỗi ngày

*

VERMEER

So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted quiet and concentration

keeps pouring milk day after day
from the pitcher to the bowl
the World hasn't earned
the world's end.
-Wislawa Szymborska
(Translated from the Polish
by Clare Cavanagh and Stanislaw Baranczak)

Note: Bài thơ ngắn, thấy trên NYRB, số mới nhất, 11.11.2010, cũng cùng đề tài "người sống dai, hay thế giới sống dai"?
Không biết chưa từng in ấn, inédit, hay đã có trong mấy tuyển tập của bà.

Tạm dịch:

Một khi mà cái người đàn bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng Rijksmuseum
vẫn trầm lắng và chú tâm
rót sữa mỗi ngày từ cái bình ra cái bát,
thì Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận cùng của thế giới.

Tuyệt cú mèo!
Thần sầu!
GNV sợ... đi bất cứ lúc nào, nên không thèm mua mấy tờ báo văn học như NYRB nữa, đâu ngờ, mua từng số hóa ra lại đau khổ hơn nhiều.
Số báo trên, Gấu, kỳ ghé tiệm lần trước, đã cầm lên đọc sơ sơ, rồi lại bỏ xuống, lầm lũi đi ra, thế mà chiều nay, đành bệ về, vì có tới mấy bài hấp dẫn!
Chán thật!

*

DECEMBER WIND

The December wind kills hope,
but don't let it take
the blue mist from the ocean
and the summer morning's mildness.

Who believes that invisible,
light islands still exist
and stains of sunshine
on a parquet floor?

Sleep wanders in rags
begging for alms
while memory, like Mary Stuart,
withers in a prison cell.

Gió Tháng Chạp

Gió Tháng Chạp giết hy vọng,
Nhưng đừng để nó lấy mất
đám sương mù màu xanh trên mặt biển
và cái mùi dìu dịu của buổi sáng mùa hạ

Liệu có ai tin
những hòn đảo lung linh vô hình vẫn còn hiện hữu
hay những tì vết của ánh sáng mặt trời
để lại trên mặt sàn gỗ?

Giấc ngủ thì đi giang hồ vặt như đám giẻ rách
xin của bố thí
trong khi hồi ức, như bà hoàng hậu Mary Stuart
tàn tạ trong nhà tù

SHE WROTE IN DARKNESS

To Ryszard Krynicki
While living in Stockholm Nelly Sachs
worked at night by a dim lamp,
so as not to waken her sick mother.

She wrote in darkness.
Despair dictated words
heavy as a comet's tail.

She wrote in darkness,
in silence broken only
by the wall clock's sighs.

Even the letters grew drowsy,
their heads drooping on the page.

Darkness wrote,
having taken this middle-aged woman
for its fountain pen.

Night took pity on her,
morning's gray prison
 rose over the city,
rosy-fingered dawn.

While she dozed off
the blackbirds woke
and there was no break
in the sorrow and song.

—Adam Zagajewski

Without End,
2002

Bà viết trong bóng tối 

Gửi Ryszard Krynicki
Trong khi sống ở Stockholm, Nelly Sachs
làm việc trong đêm bằng tăm lửa bằng hạt đậu của một ngọn đèn
vì sợ làm bà mẹ bịnh giật mình tỉnh giấc

Đêm khuya lệ nến rơi thành chữ
Ngân Giang

Bà viết trong bóng tối
Tuyệt vọng rơi thành chữ
nặng như đuôi sao chổi.

Bà viết trong bóng tối,
trong im lặng
và cái sự im lặng này chỉ bị phá vỡ
bởi những tiếng thở dài não nuột
của cái đồng hồ treo trên tường 

Ngay cả những con chữ mà cũng trở nên buồn ngủ
những cái đầu của chúng đập xuống trang giấy 

Bóng tối viết,
nó lấy ngay cái đầu của người đàn bà luống tuổi
làm ngòi viết của nó 

Đêm thương hại bà,
cái nhà tù xám của buổi sáng,
mọc lên trên thành phố,
rạng đông hồng le lói,
giống như một vệt ngón tay

Trong khi bà lơ mơ ngủ
tiếng chim hét cất lên
và cái tiếng hát buồn của con chim
thì chẳng còn bị bẻ gẫy bởi bất cứ cái chi chi.


*

The Worst of the Madness
November 11, 2010
Anne Applebaum

The title of this book, Bloodlands, is not a metaphor.

Một sự trùng hợp thật thú vị. Câu than thở trước khi lìa đời của Sáu Dân Hồ Tôn Hiến, 1 triệu người vui thì có 1 triệu người buồn, 1 cách nào đó, cũng là câu kết luận của Anne Applebaum, khi đọc hai cuốn sách viết về cuộc so tài giữa hai Đệ Nhất Ác Nhân trong thiên hạ, tại vùng đất có tên là Đất Máu:

As a result, we liberated one half of Europe at the cost of enslaving the other half for fifty years. We really did win the war against one genocidal dictator with the help of another. There was a happy end for us, but not for everybody.

Như 1 hậu quả, chúng ta giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, chỉ để hy sinh một nửa đất nuớc, ăn cướp nó, biến nó thành nô lệ cho nửa còn lại. Có vui đấy, nhưng không phải cho tất cả mọi người!
[Dịch kiểu bố lếu bố láo!]


*

Insomnia’s Philosopher

Triết gia của sự mất ngủ

November 11, 2010
Charles Simic

Bài này tuyệt.
Simic là ‘thi sĩ nhà nước’ của Mẽo.
Viết về sư phụ của Linda Lê!
*

“I don’t know of anyone with a happier childhood than mine.”
Tớ không biết có tên con nít nào có 1 tuổi thơ hạnh phúc hơn thằng Cu Gấu ở xứ Bắc Kít!

Hà, hà!


Who reads E.M. Cioran nowadays? Someone must, since most of his books have been translated and are in print. At universities where graduate students and professors are familiar with every recent French philosopher and literary theorist, he’s practically unknown, though he was a much finer thinker and wrote far better prose than a whole lot of them. Much of the neglect of Cioran is unquestionably due to his uncompromisingly dark vision of the human condition; his denunciations of both Christianity and philosophy read at times like the ravings of a madman. To make it even more confusing, he had two lives and two identities: the Romanian Cioran of the 1930s who wrote in Romanian and the later, better-known French Cioran who wrote in French. Since his death in 1995, the sensational revelations about his youthful sympathies for Hitler and his involvement with the Iron Guard, the Romanian pro-fascist, nationalist, and anti-Semitic movement in the 1930s, have also contributed to his marginalization. And yet following the publication in 1949 of the first book he wrote in French, he was hailed in France as a stylist and thinker worthy of comparison to great seventeenth- and eighteenth-century moralists like La Rochefoucauld, La Bruyère, Chamfort, and Vauvenargues.
This is what makes Searching for Cioran by the late Ilinca Zarifopol-Johnston, who didn’t live to finish her book, so valuable. It tells the story of his Romanian years and gives a fine account of the personal and political circumstances in which both his philosophical ideas and his brand of nationalism were formed. In later years, Cioran spoke rarely of that shameful period in his life and never—except to allude vaguely to his “youthful follies”—talked openly of his one political tract, Romania’s Transfiguration (1936), a short, demented book in which he prescribed how his native country could overcome its second-rate historical status through radical, totalitarian methods. Along with Mircea Eliade, the philosopher and historian of religion, the playwright Eugène Ionesco, and many others, equally eminent but less known abroad, he was a member of Romania’s “Young Generation,” the “angry young men” responsible for both a cultural renaissance and apocalyptic nationalism in the 1930s. To understand what led Cioran to leave Romania and become disillusioned with ideas he espoused in his youth, it’s best to start at the beginning.
Emil Cioran was born in 1911, the second of three children, in the remote mountain village of Rasinari near the city of Sibiu in southern Transylvania, which at that time was still part of the Austro-Hungarian Empire. His father, Emilian, was a Romanian Orthodox priest who came from a long line of priests, as did his mother, Elvira. He loved his native landscape with its streams, hills, and woods where he ran free with other kids, even telling one interviewer, “I don’t know of anyone with a happier childhood than mine.”
At other times, when not moved by nostalgia, he called it this “cursed and splendid paradise” where …


Thái Hòa

Mon, November 8, 2010 10:09:33 PM
Gửi anh Trụ truyện ngắn đăng Tanvien cho vui

Trang TTH

Phận lưu vong

Chúng ta tụ tập nơi đây, trong phòng ốc sáng trưng, quyến rũ như thế này, để bàn về số phận nhà văn lưu vong, chúng ta hãy im lặng một phút, để nghĩ tới một vài người không có mặt ở phòng này. Hãy tưởng tượng, thí dụ, những người di dân Thổ nhĩ kỳ đang lang thang trong những con phố ở Tây Đức; thật xa lạ nhưng cũng thật thèm muốn đối với họ, là thực tại chung quanh. Hay hãy tưởng tượng những thuyền nhân Việt Nam đang chới với ở đầu sóng dữ, nơi biển cao, hay đã được ổn định tại một nơi chốn xa xôi hẻo lánh nào ở Úc. Chúng ta hãy tưởng tượng những di dân lậu người Mễ bò lết ở trong những đường hầm vượt biên giới ở vùng phiá Nam tiểu bang Cali. Hay chúng ta hãy tưởng tượng tới những con tầu chở dân Pakistanis đổ xuống đâu đó tại xứ Kuwait, hay Saudi Arabia, cố làm sao kiếm cho được 1 việc làm rẻ mạt, tại xứ sở của những ông chủ mỏ dầu giầu có, thứ công việc dân sở tại chê chẳng thèm làm. Hay tưởng tượng hằng hà những nguời Ethopians đi bộ vượt sa mạc vô xứ Somalia, [hay đi vòng vòng theo một lối khác?] cố làm sao cho khỏi chết đói.
Nhưng có lẽ chúng ta nên ngưng tại đây, bởi vì một phút đã qua, mặc dù danh sách còn dài. Chẳng có ai đếm được những người này, ngay cả Cao Uỷ Tị Nạn thì cũng chịu thua. Hàng triệu triệu con người như thế tạo thành điều được gọi là thiên di.
Thì cứ tạm gọi họ bằng cái từ đó, trong khi nhân loại cố kiếm cho ra 1 từ thân thương hơn.
Cho dù bạn dùng bất cứ một thứ tiếng nào để gọi hiện tượng này, di dân hay gì gì đó, có điều này, là tuyệt đối hiển nhiên: thật rất khó khăn đối với họ, khi nhìn thẳng mặt vào người đối diện để nói về số phận nhà văn lưu vong [one thing is absolutely clear: they make it very difficult to talk with a straight face about the plight of the writer in exile.]
Tuy nhiên, không thể không nói về số phận lưu vong của nhà văn, bởi vì không chỉ vì văn chương, và, văn chương, thì cũng giống như sự nghèo đói, nó có thói quen tự lo cho nó; nhưng còn là bởi vì, từ ngàn xưa, chúng ta có niềm tin, chẳng có cơ sở nào để mà kiểm chứng, rằng, nếu những sư phụ của thế gian này được truyền tụng rộng rãi, thì nỗi khổ đau giáng xuống những kẻ cơ cực được dịu đi…
Kể từ khi chẳng hy vọng, chẳng trông mong gì, về 1 thế giới tốt đẹp hơn, và kể từ khi mọi chuyện thì có vẻ đều hư hỏng, hoặc cách này, hoặc cách khác, chúng ta đành chấp nhận, và cố giữ cho được, văn chương là hình thức độc nhất của sự bảo hiểm đạo đức mà một xã hội có được, we must somehow maintain that literature is the only form of moral insurance that a society has, nó là cái thứ thuốc khử độc, trừ độc, giải độc, độc nhất, chống lại nguyên lý chó ăn chó, người ăn người [dog-eat-dog principle], nó, văn chương, cung cấp cho con người một luận cứ tốt đẹp nhất, chống lại bất cứ một giải pháp ủi sập đại trà [it provides the best argument against any sort of bulldozer mass-solution] – và nếu ‘báu vật của đời’, là văn chương, thì, văn chương cũng chính là lý do hiện hữu của cuộc đời.

Chúng ta phải nói, bởi vì chúng ta phải nhấn mạnh, văn chương thì lớn lao vĩ đại nhất - chắc chắn là lớn lao hơn bất cứ một tín ngưỡng nào – vị thầy của con người về sự tinh tế, và, do can thiệp vào sự hiện hữu tự nhiên của văn chương, vào khả năng của con người khi học những bài học của văn chương, một xã hội kìm hãm tiềm năng của nó, làm chậm bước tiến hoá, và sau cùng, nó khiến cho bản chất, yếu tính của chính cái xã hội đó lâm nguy. Chính vì thế mà chúng ta phải nói, không chỉ cho chúng ta mà còn cho văn chương.
Joseph Brodsky



Khi Đỏ là Đen



Linda Lê : “J'aime que les livres soient des brasiers"

Tác phẩm của bà còn bị ám ảnh bởi đề tài nhị phân, hai mặt...

Đúng thế. Tôi cảm thấy mình rất hai mặt, và hơn thế nữa, đa mặt, đa thân; những hồn ma luôn trú ngụ ở nơi tôi, và theo với đà viết, có được những cuốn sách, cùng lúc, tôi cảm thấy mình giầu có thêm lên, như thể tôi gọi dậy được những hồn ma, và họ nhập thân vào những nhân vật của tôi, nhờ tôi viết, mà những hồn ma ló dạng. Trước tiên là cha tôi, một người mà tôi luôn mong muốn thể hiện lòng kính trọng. Ông đã từng muốn là một họa sĩ, và đã từ bỏ tham vọng khi có một gia đình. Ông là một khuôn mẫu, và mấy bà chị cô em của tôi luôn nói đùa, tôi là đệ tử của ông. Khi tôi tới Pháp định cư, tôi viết thư cho ông, ở lại Việt Nam, ông trả lời, ông rất tin tưởng ở nơi tôi, và tuy ông không biết tôi sẽ làm gì, dự định ra sao, thế nào, nhưng ông tin rằng, tôi phải làm được một cái điều gì đó làm ông ngạc nhiên. Chính ông đã xui khiến, phải nói là, xúi đẩy, tạo hứng khởi cho tôi để trở thành nhà văn.


Kỷ niệm, kỷ niệm


Cái vụ anh Tây mũi tẹt này, không làm sao hiểu được mấy từ đơn giản Tình Yêu Trái Phá, của TCS, đúng là do anh ta bỏ chạy, bợ đít hay không bợ đít VC, mà ra.
Đây là do kinh nghiệm riêng của GNV mà ngộ ra điều trên, không phải buộc tội ẩu tả.
Hưỡn hưỡn, Gấu kể tiếp!

Thú thực, Gấu này không làm sao hiểu nổi, cái ông Tây mũi tẹt bỏ chạy cuộc chiến, chẳng biết gì về lựu đạn, trái phá, pháo kích, oanh kích, nó ra thế nào, và nỗi sợ nó giáng xuống, khác nhau ra làm sao, nhưng, ngay cả những tên Mít đã từng trải qua cuộc chiến, dù gián tiếp, vậy mà cũng có tên e thẹn đưa ra ý kiến, trái phá nên dịch ra tiếng Anh, tiếng U, là ‘grenade’, rồi nghĩ sao, lại thưa chị, em nghĩ, nên thêm vô, smoke grenade, lựu đạn khói, chắc là nghĩ phải có khói, thì mới mù được!

Đứa con gái lớn của Gấu, sinh ra đúng những ngày Mậu Thân, mẹ hàng đêm nghe pháo kích, sợ quá, ảnh hưởng tới đứa bé khi còn nằm trong bụng, thành thử cháu chậm biết đi, trí thông minh chỉ còn một nửa, chắc thế, so với mấy đứa kia, và đến già vẫn còn bị tật đái dầm, khủng khiếp hơn nũa, 1 trong hai đứa con của nó, cũng mắc tật đái dầm y như mẹ!
Từ 1 kinh nghiệm khủng khiếp như thế, thử hỏi phải dịch trái phá là gì? Trái lựu đạn ư?

Một người lính quen thân với Gấu, có truyền cho Gấu hai kinh nghiệm, 1 về lựu đạn, và 1 về trái phá. Anh ta biểu, hồi mới đánh nhau, tụi Mặt Trận sử dụng lựu đạn do cơ xuởng ở trong rừng của chúng chế tạo, kêu bằng lựu đạn nội hoá, mỗi lần tụi nó thẩy tới tụi này, lăn long lóc, thế là tụi này lấy cái nón sắt chụp, rồi ngồi lên, nghe đánh ình một cái, đít nhảy dựng lên 1 cú, là xong!

Còn trái phá, thì anh ta biểu, nếu mi nghe tiếng trái phá nổ đánh ình một cái kế bên, thì sau đó, liền lập tức, nhẩy vô cái hố, là khoẻ re, bởi chưa bao giờ xẩy ra trường hợp hai trái đạn trái phá cùng tranh nhau 1 cái lỗ cả!

Hà, hà!

Hai trái lựu đạn tranh nhau 1 cái lỗ, thì lại là 1 câu chuyện tiếu lâm tục, chắc cũng nhiều người đã từng nghe, và kể!

Thành thử thứ tình yêu như trái phá, nó khủng khiếp lắm, thê lương lắm, đầy mùi vị của cái chết, của người chết hai lần, của đêm nghe tiếng đại bác, của người phu quét đường dừng chổi đứng nghe...  làm sao mà 1 tên Mít bỏ chạy cuộc chiến hiểu được, vậy mà cũng bầy đặt, lên lớp, lên giọng bố chó xồm, trước đây mấy chục năm ta đã từng dịch Camus!

Tây mũi tẹt không hiểu, nhưng thứ chính hiệu mũi lõ, lại hiểu, có thể hiểu hơn cả anh nhạc sĩ da vàng hát nhạc đỏ, và có thể, đây cũng là cảm nhận của TTT, khi ông dịch bài thơ Barbara của Prévert, và khi ông viết lời tựa cho tập thơ Tiếng nói một người của Trần Lê Nguyễn.

Barbara, Barbara,
Đêm đó mưa rơi hoài xuống Brest.... 

Hỡi Barbara
Cuộc chiến tranh xuẩn ngốc xiết bao
Còn em giờ đã ra sao
Dưới trận mưa lửa thép….

Rappelle-toi Barbara
Il pleuvait sans cesse sur Brest ce jour-là
Et tu marchais souriante
Épanouie ravie ruisselante
Sous la pluie
Rappelle–toi Barbara
Il pleuvait sans cesse sur Brest
Et je t’ai croisée rue de Siam
Tu souriais
Et moi je souriais de même
Rappelle–toi Barbara
Toi que je ne connaissais pas
Toi qui ne me connaissais pas

Kỷ niệm thê lương, tuyệt vời, và nhớ đời, hết đời này qua đời khác, giả như có đời này, đời khác, kiếp này, kiếp khác, về "tình yêu như trái phá", Gấu lèm bèm về nó nhiều lần, và, có thể vì vậy, lần đầu tiên nghe ai đó hát lên, tình yêu như trái phá, con tim mù lòa ‘bỗng sáng rỡ ra’, là Gấu này thấm liền, ngộ ra liền….
*
Khi Nabokov cảnh báo về ‘ba bước tới địa ngục’ trong dịch thuật, có lẽ trong đầu ông chỉ nghĩ tới vấn đề lương tâm và đạo đức của dịch giả, như là một anh thợ, thợ dịch!
Alain mới là người nhìn rộng hơn, khi khuyên đệ tử, yêu ai thì cứ dịch người đó, rồi cũng sẽ trở thành nhà văn như thầy của mình.
Theo nghĩa đó, viết văn là phải có thầy, và dịch, cũng chính là sáng tạo.
Sở dĩ Mít chúng ta không có ‘nhiều’ dịch phẩm để đời, chính là vì đội ngũ những nhà dịch thuật của chúng ta, đa số chỉ là thợ, thợ dịch!
Một khi bạn coi dịch giả là sáng tác gia thì mọi khổ nạn liên quan tới sáng tác, cùng lúc, cũng là những đau nhức của dịch thuật!
Theo nghĩa đó, chúng ta nắc nỏm, tâm đắc… với Toni Morrison, khi bà trả lời tờ The Paris Review, trong mục Nghệ Thuật Giả Tưởng. 

INTERVIEWER
Do you ever read your work out loud while you are working on it?
MORRISON
Not until it's published. I don't trust a performance. I could get a response that might make me think it was successful when it wasn't at all. The difficulty for me in writing-among the difficulties-is to write language that can work quietly on a page for a reader who doesn't hear anything. Now for that, one has to work very carefully with what is in between the words. What is not said. This is measure, which is rhythm, and so on. So, it is what you don't write that frequently gives what you do write its power.
INTERVIEWER
How many times would you say you have to write a paragraph over to reach this standard?
MORRISON
Well, those that need reworking I do as long as I can. I mean, I've revised six times, seven times, thirteen times. But there's a line beetween revision and fretting, just working it to death. It is important to know when you are fretting it; when you are fretting it because it is not working, it needs to be scrapped.
INTERVIEWER
Do you ever go back over what has been published and wish you had fretted more over something?
MORRISON
A lot. Everything. 

Câu hỏi/trả lời thứ nhất, một cách nào đó, liên quan tới lời nhạc của TCS. Một khi chúng ta, những người yêu nhạc của ông, nghe tiếng hát của Lệ Thu, hay của Khánh Ly cất lên, "tình yêu như trái phá", lập tức, chúng ta cảm thấy đau, như thể có một quả đạn trái phá, nổ đâu đó, quanh ta, và có thể, bạn còn nghĩ đến, một người thân nào đó, đã banh xác vì nó! (1)
Đây là nỗi đau - bạn gọi nó là hạnh phúc thì cũng được - của đám Miền Nam, khi nghe nhạc họ Trịnh. Đám bỏ chạy, đám Bắc Kít sau 1975, không có nỗi đau này.
Hoặc có, nhưng họ vờ đi!
Hoặc cảm thấy nỗi đau, như nỗi nhục, vì đây là chiến lợi phẩm của họ, như là những tên ăn cướp!
Hà, hà!

Câu trả lời thứ nhì liên quan đến dịch thuật, như là sáng tác.

(1)

Garcia Marquez có 1 truyện ngắn, chúng ta có thể sử dụng nó, để ‘minh họa’ cho cái cảm giác, như nhìn thấy cái chết, khi KL hát lên lời liêu trai, trù eỏ, “tình yêu như trái phá”….
Câu chuyện một em chuyên làm nghề thầy bói, về già, bèn bói cho mình 1 quẻ, và quẻ phán, chỉ còn ít lâu thì ngoẻo; thế là em lo xây dựng phần mộ của mình, và mỗi lần đi thăm chốn yên nghỉ, thì bèn dẫn theo 1 con chó, hy vọng, khi em đi rồi, nó sẽ lâu lâu ghé thăm mộ, cùng một bó hoa; thế rồi một bữa, đi thăm nơi mình sẽ an nghỉ, trên đường về, gặp 1 chàng xin quá giang xe; đến nhà, chàng bèn tự nhiên như người Hà Nội, lững thững cùng em vô nhà, để cùng đưa nhau vào hạ, và đúng cái lúc lấy chìa khoá mở cửa phòng, thì em hiểu ra, những điềm triệu về cái chết của quẻ bói, chính là những điềm triệu của tình yêu.