*





Thái Hòa

Truyện ngắn của Trần Thanh Hà 

 

Thịnh nghiêng người, mấy lần định đáp xuống nhưng làn hơi lạnh dày đặc ở bên dưới đẩy bật anh trở lại. Và Thịnh cứ bay là đà, qua những ngọn cây những nóc nhà, lang thang mỏi mệt, chỉ mong cho chóng hết ngày hôm nay để anh được đáp xuống đó nghỉ ngơi. Thịnh đã bay suốt từ tinh mơ tới giờ, một ngày lê thê trôi qua trong trông đợi của anh, một ngày nhìn mãi thành phố đã quá quen dưới tầm bay anh. Thành phố dưới từng nhỏ nhặt của đời sống có gì khác không, còn trên chốn này hình hài vẫn thế, ngày nắng qua ngày mưa, không vui hơn không buồn thảm hơn. Trời  đang mưa, mưa mờ mờ giăng từ tầng không, những sợi nước đan vào nhau khiến không khí quánh lại, nặng và lạnh. Nhìn qua tầng mưa, thế giới con người bỗng nhiên giống nhau y xì, áo mưa nón lá, họ cun cút trên đường, họ cắm cúi ngoài chợ, khiến Thịnh muốn tìm vài gương mặt cũng không thể. Thịnh những tưởng mưa thế này sẽ xuống được sớm hơn, vội vàng khấp khởi, nhưng mỗi lần chạm mình vào tầng dương thế là mỗi lần anh đau đớn, mà giờ cõi đất mở cửa vẫn chưa tới. Cho đến khi nó mở thì Thịnh gần như bị rơi tõm xuống, chạm phải mặt đất, choáng váng mất một lúc anh mới hoàn hồn. Nằm trên bãi trống, đoán định mãi không biết khu  vực nào. Mặt tây thành phố có nhiều bãi hoang, không có nhà cửa, nhưng bù lại có rất nhiều khu lăng mộ, những lăng mộ trắng toát được xây nhanh như nấm mọc kể từ hồi hết chiến tranh. Vào buổi chập choạng hãy còn đôi bóng hình, là ma hay là người, đến Thịnh còn không phân định. Một lúc bâng khuâng, rồi Thịnh cũng tìm ra chốn cần tới, một nghĩa địa lâu năm ít người lai vãng. Trời chưa tối hẳn và Thịnh rất sợ gặp phải ai đó. Len qua mấy hàng mộ, không dám đến gần ngôi mộ anh vẫn trú mọi hôm, cũng không dám ghé vào đâu, thành thử Thịnh cứ đứng co ro, cả thân mình ướt đầm trong mưa. Rất lâu mới thấy Diệu hớt hải chạy lên, tấm vải choàng đi mưa rất cũ, mọi thứ đều cũ, nó là của một thời nào khác, không dấu vết gì của lần anh về Huế đột ngột gặp lại Diệu. “Bữa nay mưa, hàng ế, em phải chờ bán nốt, nếu không ngày mai không còn vốn đi chợ nữa” - Diệu nói. Diệu bỏ tấm choàng mưa, rũ rũ nó rồi vắt lên thành mộ, sà vào dưới mái che của ngôi mộ Đạt. “Lại đây anh” - Diệu gọi, và kéo Thịnh xuống sát bên mình. Thịnh e dè ngồi xuống. “Anh lạnh lắm” - Diệu nói. Bỗng nhiên Thịnh khóc. Nước mắt anh chảy xuống mặt nghe rõ cảm giác lạnh của nó. Diệu không biết, Diệu không bao giờ nhìn thấy rõ Thịnh. Thịnh thì thấy Diệu đã già, nhưng Thịnh vẫn hỏi, em già hay trẻ. Diệu nói, em còn trẻ. Diệu nằm xuống, và Thịnh cũng nằm xuống bên. Diệu quàng lấy Thịnh, hơi thở, mùi da thịt, tóc Diệu tỏa trên ngực Thịnh, môi Diệu trên mình Thịnh. Diệu nói: “Em làm anh vui không?” Thịnh nói, có, nhưng Thịnh còn khóc. Ôi sự sống, sự sống đã xa lạ với anh bao nhiêu. Thịnh nói, em nhìn anh đi. Diệu nói: “Có, em thấy anh trẻ như ngày xưa”. Thịnh bỗng tuyệt vọng, Diệu, Diệu hãy nhìn anh khóc, sao Diệu không thấy anh đang khóc. Nhưng Diệu đã ngủ. Thịnh ngồi dậy, rất nhiều năm rồi anh không biết giấc ngủ là gì. Thịnh nói to, Đạt, mày lên đây chơi với tao đi.

* * 

Năm xưa, hồi đến đây với Diệu lần đầu, biết người dưới mái hiên này là Đạt, Thịnh rất sợ. Thịnh sợ bỗng dưng Đạt hiện lên, hai đứa gặp lại nhau. Lần này chắc Đạt bắn trước, Đạt hẳn không tha cho Thịnh. Thịnh ngồi bên Diệu, sợ đến nỗi Diệu nói cái gì Thịnh không hề nghe, chỉ gà gật, rồi trong đêm không dám đánh thức Diệu Thịnh lặng lẽ biến đi. Nhiều bữa sau Thịnh vẫn còn sợ, nhưng lâu ngày thấy Đạt không bao giờ lên dần dà Thịnh quên mất. Nhưng rồi xuống đây quá nhiều lần, đằng đẵng trong mấy mươi năm, Thịnh đâm ra thắc mắc, sao mình không gặp Đạt, sao bao nhiêu thằng bên quân Đạt Thịnh gặp nhẵn mặt ở trên đó mà Đạt thì không. Có ngày, Thịnh nhẩn nha trong đám hỗn độn ở trên đó, hỏi mấy thằng ở lâu với nhau thành quen, mày biết thằng Đạt đâu không, hắn cao lớn, hồi trước làm lính dù... Mấy bóng, già có trẻ có, mặc rất nhiều thứ đồ khác nhau, đang sát phạt quanh một cỗ bài, không nghe Thịnh nói gì, cứ chực gạt ra. Nhưng Thịnh hỏi mãi, lâu lắm mới có một kẻ nhe răng ra cười, chửi bậy, muốn đòm cho một phát nữa ông nội, tụi này ngứa tay lắm, lâu ngày không bắn nhau, buồn lắm. Thịnh nói, đòm đi, chết nữa vui không, nhưng không thằng nào bắn, và Thịnh thì đi hết chỗ này qua chỗ khác, gặp ai cũng hỏi biết Đạt đâu không. Ờ, gặp nhau bây giờ biết đâu hay hơn. Về sau Thịnh nghĩ, hay thực ra Đạt chưa chết, vết đạn đó đã không giết Đạt và Đạt còn ở lại trên mặt đất. Hỏi Diệu, em có nhìn thấy Đạt chết không. Diệu nói, em thấy ảnh nằm chết, đạn bắn lủng ngực, chính tay em chôn cất ảnh. Vậy là Đạt đã chết, nhưng Đạt không có trong thế giới của Thịnh, Đạt cũng không có trên mặt đất. Đạt ở đâu? Thỉnh thoảng giữa đêm khi Diệu đã ngủ yên, ngồi lại một mình trên mặt đất ẩm, xung quanh yên lặng, buồn quá anh gọi Đạt lên, nhưng Đạt chẳng bao giờ lên.

Có một người nữa anh cất công tìm mà không thấy, đó là mẹ anh. Năm anh lên rừng, mẹ còn chạy chợ nuôi em đi học trong thành phố. Năm anh chán tầng trời bỏ đi lang thang và xuống mặt đất chơi, có lần về quê cũ, đã không còn thấy đâu dấu tích nhà cửa. Làng xóm biến đổi, nhiều cô cậu ra đời từ hồi nào mặt mũi lạ hoắc. Lắm hôm nhập nhoạng, trong nỗi côi cút khát khao tình mẹ, Thịnh liều lĩnh nhòm từng mặt người. Nhòm những người già. Những ông già khác nhau, người nào vẻ nấy, phân biệt được liền. Nhưng những bà già thì không khác, những bà già lầm lũi héo hon, người nào cũng chết chồng chết con, những bà già của xứ sở này không ai khác ai. Thịnh vừa đi vừa gọi, thấy những mắt ấy nhìn lên chịu đựng. Đi mãi đi mãi trong trời đất, cũng không sao tìm nổi mẹ già. Đến như Đạt, mộ đây gọi hoài không nghe, huống hồ mẹ không biết lưu lạc ở đâu. Nghe chuyện anh, một người ở cạnh năm xưa trên trần làm giáo học khuyên nên tìm gặp Nam Tào tra sổ. Thịnh có đến Nam Tào, ngài ngồi bên lò lửa, mặt đỏ như gấc, Thịnh gọi mãi ngài mới nghe. Ngài lấy cuốn sổ dài, dò mãi không ra tên, sổ người chết không đến sổ người sống cũng không, ngài cả cười nói như an ủi, chúng sinh vô lủng, thôi sống chết kể gì. Nhưng Thịnh không nghe, anh giật lấy sổ, gí mặt vào tìm, những trang giấy rọi ánh sáng làm đau không chịu nổi. Nam Tào còn cười, ngài cười mãi cả sau khi Thịnh bỏ đi. Thịnh còn tới Diêm Vương. Mặt ngài xanh rờn. Thế mà cũng hỏi a? Sống chết là gì. Một ngày trong thiên hà tiêu vong bao nhiêu mạng, mấy mạng nhà ngươi là gì, sao đòi ta bận tâm. Quay ra, chẳng còn chỗ nào mà hỏi nữa, đành thở một hơi, quả vậy, kể gì một mạng người trong thiên hà. 

* *          

Năm ấy, vào ba mươi Tết, những đoàn người lẳng lặng rời rừng, đi qua bóng đêm, đi qua những làng mạc im lìm để về Huế. Đánh nhau trong đêm, Phú Bài, Vĩ Dạ, An Hòa, Tam Thai... nơi nơi súng rền vang. Lửa đạn nhoáng nhoàng. Lửa rực trên trời. Lửa rực đất đai. Lửa trong lòng người. Sớm mai, Thịnh đã ở một khu vườn mé ngoài thành nội, ngồi dưới gốc táo và sa-pu-chê. Táo còn lác đác quả vì nhà vườn bán mãi trong Tết chưa hết, và sa-pu-chê đã thôi hoa, những quả xám xanh nhỏ ẩn trong tầng lá xanh rợp. Nhiều năm ở Huế, Thịnh chưa hề thấy sa-pu-chê thôi xanh, lúc nào cũng xanh, không có kỳ thay lá như nhiều loại cây khác, dù Huế một năm trải qua mấy thời khắc khác biệt nhau của thời tiết, và có những khi trời đất rất buồn, khiến tất cả hoa trái đều đổi khác. Người ta nói chung quanh thành này mỗi tấc đất vùi không biết chừng nào xác người, nên sa-pu-chê mới xanh như thế. Trời Huế mưa bay, mưa lất phất mà dầm dề. Mưa ẩm trên mái ngói cũ kỹ của ngôi nhà rường đơn vị Thịnh giữ. Đêm vô tới Kim Long, lệnh trước truyền tới có địch, dàn đội hình, nghe súng nổ Thịnh cũng kéo một băng đạn, đó đến sáng bắn thêm một ít nữa nhưng không rõ hình dạng thằng địch nào. Buổi sớm ngồi ngửi nòng súng, nghe còn mùi hắc nồng của thuốc súng. Chết ai chưa, Thịnh tự hỏi, cũng tự trả lời, chắc có chết, hắn không chết mình chết, đánh nhau mà. Lòng không băn khoăn gì mấy. Đêm đánh nhau, mỗi sáng thưa tiếng súng người ta tranh thủ chợp mắt. Nhưng không sáng nào Thịnh ngủ, anh ngồi nghển cổ trông qua bờ tường thành, tự hỏi cái điện Thái Hòa nằm ở đâu. Thành nội nhiều cây, cổ thụ um tùm bị bao bọc giữa những nhà vườn. Năm Thịnh lên Huế học thành nội đã đóng cửa, không có ai vô ra, thành quách ngủ yên trong chiến sự. Ký ức là những sách sử anh đọc hay những câu chuyện mẹ kể cho nghe. Cũng lần nào đó một bạn bè rủ vô thành chơi, Thịnh đã sợ, cái bóng điện đài lộng lẫy trong tâm, cái bóng đè lên rất nhiều giấc mơ khiến Thịnh bàng hoàng. Thịnh bèn nói với người bạn rằng, thôi, cái điện đó tao tỏ tường rồi, tỏ tường từ bé xíu, thôi, khỏi cần vô... Nhưng vàng son hình như quyến rũ, vì thỉnh thoảng Thịnh muốn đứng ngoài xa nhìn qua Ngọ Môn, này, cái đỉnh điện hình thù sao nhỉ... Những buổi tan học, đáng nhẽ đạp xe dọc sông Hương về nhà thì Thịnh lén lút vòng vô thành nội, đi qua những con đường rợp tán phượng, qua Ngọ Môn, qua Hiển Nhơn, đi phía sau lưng thành, thành cao che giấu bên trong bao nhiêu xưa cũ. Những bóng áo dài chậm rãi qua đường cùng cái hình ảnh lộng lẫy trong kia khiến Thịnh run bắn. Nhiều năm sau, ngày ngày rỗi rãi bay trên thành phố, Thịnh mới thấy toàn bộ tòa điện, nó chẳng hùng vĩ như trí tưởng của anh, cái điện quá nhỏ, phía trên nóc điện có mấy con rồng cong queo bất động. Một lần, hồi chưa gặp Diệu, Thịnh vào tận trong điện, thấy cái ngai cũ bỏ không, cũng chẳng oai phong gì như hồi nhỏ nghe mẹ kể, cái ngai giờ đây nằm trong lớp nước hòe lòe loẹt, chắc chắn vừa được sơn phết qua một cuộc trùng tu. Thịnh đi một mình trong sân điện, sờ mặt mấy quần thần đứng xếp hàng, chẳng ai động đậy, ma không người sống cũng không, trong cái điện này buồn hơn bất cứ chốn nào. Thôi, biết một lần rồi thôi, tự nghĩ vậy, nhưng ngày tháng dài không biết tiêu thời gian của mình vào đâu, thêm đôi ba lần nữa Thịnh xuống điện chơi, có lần ngồi vắt vẻo trên mấy con rồng, lần lân la chỗ hương án, lần nằm trong đáy đỉnh đồng nghe sương rơi, hay loanh quanh với hoa cỏ, chẳng lần nào gặp được ai, bèn đứng trong sân mà gọi thái hòa thái hòa, chán chê thì biến đi.

            Thịnh không thể nhớ anh đã bay trên thành phố bao nhiêu lần. Một ngày mấy vòng, dật dờ, vớ vẩn, ngày với Thịnh thường quá dài, dài hơn đời sống, chẳng có việc gì, chẳng có gì bận tâm, lang thang như một cách thức xua đuổi thời gian, lang thang cho hết một ngày, cho qua nhiều ngày, nhưng để hết một kiếp thì Thịnh không có cách nào. Thịnh là người chết. Mà xưa nay không ai nói hết một kiếp chết.

            Một chốn Thịnh hay qua lại là khu chợ Đông Ba. Cái chợ buổi nào cũng đông, đủ thứ con người, lời người ong ve náo nhiệt đưa tới chỗ Thịnh. Trong đám đông, một lần tình cờ anh phát hiện ra Diệu. Diệu ngồi bán rau ở góc chợ, gom mớ này bót mớ kia, chèo kéo, mua rẻ bán đắt, cũng chao chát chửi bới, chua chát xen lẫn trong loài người, lời nghe rất rõ nhưng gương mặt thì ẩn trong vành nón, Thịnh chẳng nhìn được. Phép tàng hình của Thịnh chỉ cho anh lẫn trong bóng tối, trong ánh sáng Thịnh ở một cõi khác, chẳng trong cõi người mà cũng chẳng phải thiên giới. Chiều ấy bám theo Diệu anh mới biết Diệu còn ở ngôi nhà cũ, và bất ngờ nhất là ba Diệu còn sống. Ông sống, nhưng cơ thể đã bất toại, không nói không nghe, nhưng tim còn đập, nó đập kiên nhẫn trong nhiều năm rồi. Làm sao ông sống được? Mãi mãi Thịnh không dám hỏi Diệu điều đó. Ông ra rừng với Thịnh một ngày, chính Thịnh áp giải ông và nhiều người nữa, và vào thời khắc Thịnh ngã xuống, anh đã nghĩ họ cũng chết, không thể một ai, không còn một ai không kết thúc như thế.

            Thịnh nhớ buổi sớm ra tới ven rừng. Máy bay quây tứ bề, bom, đạn rốc-két, và một đội người hỗn độn túm nhau lại. Ai đó la, bắn hết đi, bắn đi mà thoát thân, dắt díu nhau thế này chết mất. Người ta la Thịnh bắn đi. Thịnh chạy ngược xuôi, mắt mờ khói, toàn đụng người mà không nhận ra ai. Thịnh dốc cái nòng AK lên trời. Mũi súng cũng mù khói. Bắn đi, bắn đi, người ta nói như thế và Thịnh cũng nghĩ như thế. Nhưng sao chẳng bắn được nữa, tay đã mỏi mà súng không còn viên đạn nào. Hai mươi mấy ngày về trong phố, đêm nằm dưới chân thành còn chưa biết miền nào an hòa, thì giờ bắn nữa làm gì. Thịnh thả súng. Không còn súng nhưng Thịnh cứ đi lên. “Thịnh, bắn đi”. “Cho tôi về lại thành phố”- Thịnh nói. A, muốn chiêu hồi. Đ.M loài trí thức - tiếng người. Và Thịnh chợt thấy mình không thể đi lên nữa. Không có vết thương. Không đau đớn. Trong thời khắc cuối cùng của con người, hiện lên trong tâm Thịnh lại vẫn là hình ảnh ngôi điện Thái Hòa. Cái hình ảnh ngạo nghễ ấy từng chút một phình to ra, nó phình mãi cho đến khi nuốt chửng lấy Thịnh thì biến mất.

Thịnh cũng nhớ buổi sáng anh đến nhà Diệu. Thịnh và hai người trong đại đội. Ba Diệu đã ngồi sẵn ở nhà ngoài, ông mặc com-lê, thắt cà-vạt và đi giày da. Ông nói: tôi đang đợi mấy người. Toán của Thịnh không nói gì, họ lẳng lặng ra hiệu cho ông và tất cả cùng ra khỏi nhà. Chính khi ấy Thịnh đột ngột giáp mặt Diệu. Cô chưa kịp thay đồ ngủ, tóc rối bù, những dây áo trễ xuống, nước mắt vòng quanh. Diệu chắn trước mặt ông già, ba, ba không được đi. Ông già gạt Diệu, để ba đi, con đừng ngăn. Nhưng Diệu đã lồng lộn lên, Diệu hét, mấy người, mấy người không được bắt ba tôi, mấy người là thứ gì... Diệu nhằm vào Thịnh mà xỉa tới, gương mặt xinh đẹp vằn vện nước. Phải hai năm gì đó Thịnh mới thấy lại Diệu, trong hai năm đó ở trên rừng, gương mặt Diệu, cái hình ảnh da diết đó trở đi trở lại trong giấc mơ anh. Anh thấy ngày thái bình anh về Huế cưới Diệu, hai người ra đứng trước cửa điện Thái Hòa chụp ảnh. Giờ đây gặp lại Diệu, đáng lẽ vui sướng nói Diệu ơi Thịnh đây thì anh lại bỏ chạy. Anh chạy ra ngoài phố, chạy khỏi sự xa lạ căm hờn của Diệu, và oái oăm, anh gặp Đạt ở ngoài phố. 

* * 

Hồi gặp lại Diệu Thịnh đã ở trên kia được mười năm. Vài lần xuống mặt đất chơi, Thịnh biết có người con gái đêm đêm ra ôm mộ ngủ. Không dám làm quen, Thịnh nấp sau mấy ngôi mộ nhìn Diệu ngủ suốt đêm. Nhiều đêm, rồi tự người con gái vẫy Thịnh tới. Quen rồi mới giật mình nghe người con gái nói cô tên Diệu. “Người dưới mộ này là Đạt, chồng chưa cưới của em”, Diệu nói. Đúng Diệu, Diệu anh yêu trong năm tháng sống ngắn ngủi xưa kia. Diệu thời đó lộng lẫy xa xôi, giống như ngôi điện đài trong tâm, hiện lên từng thời khắc nhưng không từng tận mặt. Thịnh nghĩ, mình đi thôi, nhưng Diệu đã quàng lấy Thịnh, ở đây với em, sao mình không cần hai người cho vui hơn, cô nói. Và Thịnh đã ở cùng cô, tất cả những đêm, mọi đêm, anh nằm bên cô, anh ân ái cùng cô, anh yêu cô theo cái cách của một người không phải sống nữa. Rất nhiều năm sau Thịnh mới dám hỏi Diệu, em biết anh không phải người sống không. Diệu nói, em biết. Em có biết anh là ai không, Thịnh lại hỏi. Diệu nói, em biết anh ở bên thế giới của Đạt, anh là bạn Đạt... Thịnh lạnh người, suýt nữa nói rằng anh là kẻ đã bắn Đạt đây. Nhưng Diệu đã không nói nữa, Diệu bắt đầu một cung cách yêu thương, không bao giờ hỏi Thịnh tên chi, cũng không hỏi làm sao đây lại là anh chớ không phải Đạt.

Thịnh nghĩ, mọi sự chắc chắn chỉ đến thế này, chắc chắn không thể có một sự kiện gì ghê gớm hơn thế này nữa. Thịnh sẽ sống giữa cõi âm dương này mà mãi mãi không bao giờ còn trở về với thế giới của Diệu được nữa. Thịnh sẽ ở đây mà mơ cái giấc mơ được đứng trước Thái Hoà cùng Diệu. Nếu mà trở lại, chắc Thịnh sẽ làm khác. Nhưng Thịnh sẽ sống vào thời đại nào để được làm những việc anh mong làm, yêu những gì anh mong yêu…

Này anh, bên đó có gì vui? Em muốn thử một lần sang bên đó! Đột nhiên Diệu nói. Thịnh sững sờ, không Diệu, bên đó buồn hơn, như anh, làm sao cho hết kiếp được...           

TTH