*

TƯỞNG NIỆM




Tưởng Niệm Cách Mạng Hung


Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào

Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Ðau dấu đạn
Ðêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
12-56


**
*
Chấm dứt huyền thoại Cộng Sản
*
Hai bài thơ, thật lạ lùng,
cùng bắt đầu và chấm dứt, như nhau.

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Hãy học thuộc lòng bài thơ này của tôi.

Những ngày hạnh phúc của tôi ở Địa Ngục
Đó là tập thơ của một tiếng nói kháng chiến Hung, viết  trong trại tập trung cải tạo Stalin, bằng cọng chổi, và máu, trên giấy đi cầu. Ông vừa mất ngày 1 Tháng Chín, thọ 95 tuổi.
Đau khổ không phải là một đức hạnh, có lần nhà thơ nói.
[Người Kinh Tế 16-22 Tháng Chín 2006]
*
Nhà thơ đang ngắm ngọn lửa phần thư 30 Tháng Tư 1975 Sài Gòn, và nhắn nhủ:
Đó là khi thành phố của bạn bị đốt rụi,
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.*
*
Hãy cho anh khóc bằng mắt em,
Những cuộc tình duyên Budapest
Thế mới đúng là áo thụng vái nhau chứ! NQT

Gyorgy Faludy
Hungarian poet and author whose life and work were his homeland's 20th century history.
George Gomori
Saturday September 9, 2006
The Guardian

Then, in 1950 he was charged with being an American agent. Asked the identity of his CIA contact, he gave the names of William Blake and Edgar Allan Poe. Faludy decided to agree to the wildest accusations, hoping that he would yet survive Stalin, and was sent to the infamous Recsk labour camp (1950-53)
Khi được nhà nước tra hỏi, mấy điệp viên Xịa thường liên lạc với mi là ai, ông cho tên William Blake và Edgar Allan Poe. Tội gì tao cũng nhận, bởi vì tao sẽ sống dai hơn chế độ của tụi mi

Kỷ niệm lần thứ 50 Cách Mạng Hung, chúng ta đã có bài thơ của TTT,
Hãy cho anh khóc bằng mắt em,
Những cuộc tình duyên Budapest
Viết liền ngay khi nó nổ ra.
Tin Văn sẽ giới thiệu thêm, một truyện ngắn về nó,
Truyện ngắn Prayer, xuất hiện năm 1966.
Bản tiếng Anh, lần đầu xuất hiện trên TLS số đề ngày 1 Tháng Chín 2006.
Truyện kết thúc bằng câu:
Có thể nhìn thẳng vào cái chết, với hy vọng.
"It is possible to face death with hope"

*

Moscow 1941: Một thành phố và những người dân của nó trong cuộc chiến.

Đây có lẽ là cuốn sách mấy anh VC, nhất là "người Hà Nội" nên tìm đọc.
Và hãy luôn nhớ câu cảnh cáo dưới đây, từ bài điểm sách trên, mỗi khi hát,
"Hà Nội ta vẫn hiên ngang hất đầu lên trời":
Nga xô hiện đại càng cố gắng sử dụng chủ nghĩa anh hùng trong chiến tranh bao nhiêu
- như huyền thoại về chân lý muôn đời, nước Nga xô là một -
 thì càng cho thấy, Hitler và Stalin đều quỉ sứ chẳng thua gì nhau.
*
*
Chúng ta phải trả nợ "họa con Bọ", hậu quả của chiến thắng Miền Nam.
Còn thế giới ?
Umberto Eco :
"Nous payons toujours aujourd'hui l'effondrement de l'empire soviétique"
Bây giờ chúng ta luôn còng lưng trả nợ, hậu quả sự sụp đổ đế quốc Đỏ

*
Phải đợi một nửa thế kỷ, nhân loại mới tìm ra tên của nó:
Một cuộc cách mạng đạo đức.
[Bìa báo Tin Nhanh, L'Express Inter, số đề ngày 19-25 Tháng Mười, 2006].

**
Cái tấm bia tưởng niệm đó, được giấu đằng sau một bức màn, tại trụ sở xưa kia của Đảng Cộng Sản Hung,
không phải tưởng niệm những người nổi dậy,
mà là những công chức CS, bị những người nổi dậy giết,
khi họ chiếm được trụ sở Đảng, vào năm 1956.
[Người Kinh Tế  21-27 Oct, 2006]
*
Đó là khi thành phố của bạn bị đốt rụi,
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.
*
Hãy cho anh khóc bằng mắt Em
Những cuộc tình duyên Budapest
["Quốc Tế Ca" (1) của những người tù VC]
(1) Chữ của ĐT
Trước 1975, Gấu có một anh bạn, sĩ quan Thủ Đức. Anh người Nam, cứ mong mãi, "Bắc Tiến thành công, thống nhất đất nước", tao sẽ có dịp thăm Hà Nội. Coi nó có đẹp như tụi mày ca hay không !
Cũng một anh sĩ quan Ngụy như thế, mặt cứ nghệt ra, khi đi đăng ký cải tạo, và được ông cán bộ hạch hỏi:
-Chúng mày sẽ đối xử với chúng ông như thế nào, nếu chúng mày chiếm được Hà Nội ?

*

Bài thơ của TTT, xuất hiện lần đầu tiên, ở hải ngoại, trên tờ Văn Học, của Nguyễn Mộng Giác, trong mục Tạp Ghi do Gấu, NQT, phụ trách, vào năm 1998, nhân đọc bài trên tờ NYRB.
Bức hình, đầu lâu Stalin lăn lóc trên đường phố, là cũng từ số báo này.
[Volume 43, Number 18 · November 14, 1996 Review Hungary's Revolution: Forty Years On By Timothy Garton Ash].

Một nhà thơ, ra đi từ Miền Bắc, nhận xét, lần đầu đọc, cứ tưởng là của một ông Tây !
Nhưng phải đợi Đặng Tiến - có thể thoạt đầu, như ông thường nói, 'vui thôi mà' -  coi đây là một thứ "Quốc Tế Ca", ý nghĩa của bài thơ mới lộ hẳn ra.
Cũng thế, cuộc cách mạng Hung, phải đợi nửa thế kỷ, mới định danh, khi thêm vào hai chữ "đạo đức".
Trong bài viết của Ash, ông nhận xét, nhân loại ngày càng biết ơn nó, vì nếu không có nó, không có Mùa Xuân Prague, là Âu Châu bị nhuộm đỏ từ lâu rồi.

*
Gyorgy Faludy, tiếng nói của kháng chiến Hung,
mất ngày 1 Tháng Chín, 2006, thọ 95 tuổi
[Người Kinh Tế, số đề ngày 16 Tháng Chín 2006]

Không có viết và mực, ở trong trại tập trung Stalinist tại Hung, Gyorgy Faludy dùng cọng chổi để viết, bằng máu, và trên giấy vệ sinh. Đau khổ, như một lần ông nói, không phải là một đức hạnh. Nhưng ba năm của ông tại Recsk, từ 1950 đến 1953, theo một nghĩa nào đó, quả là những năm tháng mặc khải. Tập thơ xuôi, "tản văn", như lối nói hiện nay, nổi tiếng ở bên ngoài nước Hung, kể lại quãng đời hưng phấn một cách âm u đó, darkly inspiring, tức thời gian ông ở tù "VC Hung" được ông đặt tên là “Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Ở Địa Ngục”.

Vẫn theo một nghĩa nào đó, Mr Faludy chọn nhà tù. Ông đã được đề nghị, một cơ may, chạy trốn quê hương, qua Áo tái định cư, nhưng từ chối, và lý luận, rằng, tôi phải tận mắt chứng kiến, những đau khổ, những rùng rợn, cho dù tới đỉnh cao cỡ nào, mà những người Cộng Sản mơ tưởng ra được, cho xứ sở của tôi. Trong bài thơ Mừng Thượng Thọ 70 Ông Xì, ông liệt kê danh sách những số phận dành cho kẻ can đảm: giầy đinh thúc vào mạng mỡ, đạn bắn vào đầu, và giá treo cổ. Và tất nhiên, làm sao tránh khỏi, số phận của thi sĩ, sau bài thơ: Ông chọn nhà tù, chẳng mấy chốc sau đó.
Thân thể trong tù, như Bác Hồ nói, nhưng cái đầu của nhà thơ thì ở bên ngoài nhà tù. "Đói khủng khiếp, lạnh cứng người," ông viết, "tôi co cụm, thu lu thành một đống trên sàn đá, phủ lên người đủ thứ mảnh vải đầy chấy rận rệp, áo choàng, giống như một tấm lều, và thở qua tay áo, thổi hơi thở vô thân mình để sưởi ấm nó, và cứ thế làm thơ". Khi tay quản giáo chìa cho ông xem, những bài thơ của người cháu trai của anh ta, nhà thơ nhăn mũi, phán, suy đồi, và phản cách mạng.
Tay quản giáo giận tái mặt.
Bị tống vô xà lim, chật cứng, tối thui, nhà thơ trải qua hàng giờ vận nội lực, trở thành chết cứng, rồi biến hoá, transfixed, thành một sợi nắng mùa đông chạy dài trên sàn xà lim. Ông tưởng tượng mình đang ở Biển Nam.
Ông và bạn tù mở một đại học đặc biệt, dậy thơ ca, lịch sử và văn chương. Một bạn tù huýt sáo trọn bài "Don Giovanni" của Mozart, một người khác kể "Chiến Tranh và Hòa Bình". Nhà thơ đề nghị bạn tù nhớ ở trong đầu họ, thơ của ông, khi ông viết chúng ra, theo cách như ở trên đã nói. Nếu có người nào được thả, thì người này sẽ tới thăm bà xã nhà thơ, và đọc cho bả nghe.
Ông được thả vào năm 1953, khi Stalin chết, nhưng trại tù chẳng bao giờ thả [tha, cũng được] ông. Nó trở lại thí dụ, như trong bài thơ sau đây, làm vào năm 1983.

Learn by heart this poem of mine,
       Books only last a little time,
       And this one will be borrowed, scarred,
       Burned by Hungarian border guards,
       Lost by the library, broken-backed,
       Its paper dried up, crisped and cracked,
       Worm-eaten, crumbling into dust,
       Or slowly brown and self-combust,
       When climbing Fahrenheit has got
       To 451, for that's how hot
       it will be when your town bums down.
       Learn by heart this poem of mine
*

Hãy học thuộc lòng bài thơ này của tôi,
Sách thọ đâu được bao lâu ?
Và cuốn này thì sẽ bị mượn, bị vạch nát,
Bị đốt bởi lính biên phòng Hung,
Bị mất bởi thư viện, bị long gáy,
Những trang sách khô, ròn, rồi vỡ vụn ra,
Bị gián, mọt ăn, gặm, nát thành bụi,
Hay cứ thế từ từ vàng ố đi, tự huỷ diệt bằng hơi nóng,
Một khi nhiệt độ leo đến 451 Fahrenheit,
Đó là khi mà thành phố của bạn bị đốt rụi.
Hãy thuộc lòng bài thơ này của tôi.

Chàng mê thơ rất sớm, và tất nhiên, không chỉ thơ, mà còn những quán cà phê Budapest, và một cuộc sống văn chương. Nhưng ông bố khoa học gia lắc đầu, phán, Budapest hiện đã có 20 ngàn thi sỡi, không một thằng nào trong số đó, nuôi nổi thân. Thế là ông đóng thùng ông con, tống đi Vienna, học kỹ sư hóa. Chẳng ông thầy hóa nào biết đến ông, ấy là vì ông dành thời giờ, thay vì học hóa, thì là để dịch và cho xb những dòng thơ của Francois Villon, một thi sĩ nổi loạn người Pháp, thế kỷ 15, và ông khởi nghiệp thơ của mình bằng cách đó. Ông còn viết một bài thơ phạng Hitler và được ông này thưởng cho 14 năm tù, nhưng ông trốn được, bằng cách giúi tiền vào túi quần tay quản giáo. Và khi cuộc chiến bùng nổ, ông chơi một cái thuyền, làm một chuyến du ngoạn tới Morocco, tìm cách tới Mẽo, và đăng lính Sao Sọc.

Làm thơ bằng những dấu chân chim.

Ông trở lại Budapest sau chiến tranh, để chứng kiến, quan sát, điều mà ông gọi là, "một nền dân chủ được xây dựng lên mà đếch cần đến những người dân chủ" ['democracy being built without democrats"].
Tháng Mười 1956 Cách Mạng Hung bùng ra, chống lại sự chiếm đóng của Liên Xô. nhà thơ tắm đẫm mình vào trong đó, như là một thành viên của phái đoàn. Phái đoàn gì cơ chứ? Phái đoàn Hội Nhà Văn bên cạnh Hội Đồng những công nhân điều hành cuộc cách mạng. Nhưng khi chiến xa Liên xô tràn tới, ông lại chuồn đi Tây Phương: Vienna, Florence, Malta, New York, và Toronto. Tại đây, ông sống chung nhà với một tay khiêu vũ, dancer, người Mỹ tên là Eric Johnson.
Tay thanh niên trẻ đẹp trai này lần ra dấu vết của nhà thơ tại Malta sau khi đọc Những Ngày Hạnh Phúc Của Tôi Tại Địa Ngục. Mr Faludy sống tại đây, sau khi bà vợ mất. Ông cảm nặng Eric, và làm một số bài sonnets vì anh ta. Tại Toronto, họ chia một căn phòng nhỏ cùng với một đôi chim sẻ. Đôi chim thường đậu trên bàn máy chữ của nhà thơ. Và chỉ bay lên khi tiếng chuông báo hiệu chấm dứt một dòng.
Trên hai chục năm, đến 1989, khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, nhà thơ sống tại Canada. Sau hết, nhà thơ cũng trở về cố hương, sách của ông hết còn bị cấm sau bốn thập kỷ, và sống trong trong một căn hộ rộng rãi trông ra sông Danube, do nhà chức trách thành phố ban cho ông. Tại quê nhà, ông gây sốc cho nhân dân, khi bỏ Eric, chạy theo một em nữ thi sĩ nhí, nhỏ hơn ông 60 tuổi, duyên dáng, uyển chuyển, và kết hôn với em, và xuất hiện với em, gần như hoàn toàn khỏa thân, trên trang bìa tờ Penhouse, ấn bản tại Hung. Với mớ tóc dài, trắng phau tỏa lên hai bờ vai, với đôi mắt nâu và cái nhìn chiếu xoáy, ông trông như một ông tiên trong truyện cổ tích, cùng với nàng Fanny của ông tiên.
Được dân chúng ngưỡng mộ, vinh danh, cùng những giải thưởng, ông làm thơ cho đến tận cùng. Tập thơ chót của ông, xuất bản năm 2003, có tên là Thế Kỷ Giông Bão.
Ông thường có thói quen dậy thật sớm, ngắm dòng sông Danube chảy bên ngoài, nhịp dòng sông cũng là nhịp của những bài thơ chảy trong máu ông.
*

.... Within the poetry of the Hungarian Gyorgy Faludy, who has died aged 95, Hungarian and other European traditions mingle, and there can be found a record of the turbulent 20th century.
Guardian
[Trong thơ của nhà thơ có truyền thống Hung và những truyền thống Âu Châu khác được trộn lẫn hòa nhập, và từ đó, là một ghi nhận về cơn chao đảo của thế kỷ 20].
Đặng Tiến cũng phán, gần như tương tự, về TTT, chỉ thiếu cái khúc "a record of the turbulent 20 th century", nhưng theo Gấu, có thể thay bằng câu của TTT, viết về Bếp Lửa, và về Hà Nội 1954, "đi và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết....".
Nguồn
*
Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét. Ví dụ trong thơ Tô Thuỳ Yên, chủ yếu ta thấy thảm kịch Việt Nam; thơ Lê Đạt chủ yếu phản ánh tâm cảnh người dân châu thổ Sông Hồng; thơ Dương Tường đưa vào nhiều tiếng nước ngoài, thảnh thót giọt mưa dương cầm tím mộng scheherazade, vẫn là cái liếc nhìn ra thế giới, không phải là tầm nhìn sâu thẳm, xâu xé, xoáy vào thân phận làm người, chủ yếu là người nhược tiểu. Nói như vậy, không có ngụ ý rằng thơ Thanh Tâm Tuyền nhẹ tính cách dân tộc. Phân biệt dân tộc với nhân loại là phiến diện: trong thế giới có Việt Nam và trong Việt Nam có thế giới. Trong «Guernica» của Picasso có Bến Tre, trong tranh khắc gỗ đình làng Việt Nam có Picasso. Tôi nói thơ Thanh Tâm Tuyền trong hình thức và nội dung là một bước ngoặt trong nghệ thuật và tâm thức Việt Nam là vậy.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận với ít nhiều tiếc rẻ là lối thơ Thanh Tâm Tuyền không có người thừa kế.
Nguồn