*






Nguyễn Quang Lập

Nổi chìm một thị xã
 

Như thành phố Bôlônha của Ý, Ôđexa của Nga, Conventry của Anh, thị xã Quảng Trị hơn hai mươi năm về trước - năm 1972 - được thế giới biết đến như một "thành phố tuẫn đạo". Đạo ở đây là đạo lớn của đất trời non sông nước Việt bốn nghìn năm tích tụ, đạo của kiếp người khát sống tự do. Một thị xã chưa đầy sáu cây số vuông, một thời đã đưa ngực ra đỡ đạn cho Tổ Quốc, đã gánh chịu trên lưng mình một khối lượng bom đạn bằng bảy quả bom Hiroshima. Suốt 81 ngày đêm, hơn hai vạn quân tinh nhuệ chính quyền Sài Gòn đã không thể nào kéo được lá cờ của họ lên trên Thành Cổ. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tăng ngân phiếu từ 100 ngàn đồng lên 500 ngàn đồng cho bất kỳ ai cắm được lá cờ lên đấy nhưng cũng phải bó tay. Mỹ đã triệu trung tướng tư lệnh Frederick Abrams - "Người hùng nước Mỹ" về nước và thay thế bằng tướng Frederick Weyand, người được báo chí Mỹ cho là một cố vấn huyền thoại... và là một chuyên gia giỏi nhất nước Mỹ về Việt Nam". Vậy mà tướng Frederick Weyand cũng không cách gì xoay được tình thế. Được thua trong trận huyết chiến ở Thành Cổ Quảng Trị có ý nghĩa to lớn trên bàn hội nghị Paris. Vậy nên tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng với hai tướng Khiêm và Viên tất bật ra tận Quân khu I để khảo sát tình hình rồi lui về họp suốt đêm với bốn tư lệnh quân khu, nháo nhác ra Vũng Tàu cùng với 20 tỉnh trưởng tính kế bày mưu, cũng không làm gì nổi. Chủ Mỹ phải ra tay. Họ khẩn cấp thành lập :"ủy ban hành động" do Kissinger đứng đầu. Năm hàng không mẫu hạm: Kitty Hank, Constelltia, Oklahoma city, Midway Saroya - toàn những cái tên mới nghe đã sởn tóc gáy, đươc tập trung về biển Việt Nam. Cùng một lúc Mỹ đã huy động trên một ngàn máy bay, trong đó có 140 B52 và 60 chiến hạm, rốt cuộc cũng không làm gì xong. Thị xã Quảng Trị đã chiến thắng, nó hoàn toàn xứng đáng là "thành phố tuẫn đạo".

    Tôi kể vội vàng và sơ qua như vậy vì sợ có người lại kêu: "Biết rồi khổ quá nói mãi!". Vâng, giờ tôi xin kể nỗi truân chuyên của Thị Xã suốt 20 năm qua từ ngày Tổ Quốc thống nhất, có thể ai đó trong chúng ta chưa biết được chăng?...

    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy thắng lợi của tỉnh Quảng Trị và sau đó là cuộc tử thủ đẫm máu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị là một tập dượt vĩ đại để ba năm sau đó, năm1975, chúng ta tiến công vào Sài Gòn trong một cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử vệ quốc, có thể ví với cuộc hành quân thần tốc của Hoàng đế Quang Trung năm xưa. Vì thế, Quảng Trị chỉ còn gạch vụn và đất đỏ. Trường Bồ Đề, ngôi nhà còn lại duy nhất sau cuộc chiến cũng không còn nguyên vẹn, nó nham nhỡ vỡ nát, mang trên mình hàng ngàn vết đạn bom. Từ đó cỏ bắt đầu mọc. Cỏ mọc từ ngã ba sông Thạch Hãn tràn vào Thành Cổ, bò lây lan từ Nhan Biều đến Trí Bưu. Trên cỏ là cỏ lau, như rừng cổ xưa, trắng xóa. Hai mươi năm sau, khi tôi về ở men Thành Cổ, cỏ vẫn mọc xanh um thị xã như là một mảnh hoang sơ từ thủa hồng hoang rơi xuống thời hiện đại. Thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng rắn bò vào chuồng gà. Phía sau nhà tôi là một rừng cỏ lau lút đầu người. Đạo diễn Vương Đức về làm phim Cỏ lau đã nói đùa: "Chẳng cần lên rừng mới thấy cỏ lau, chỉ cần ra sau nhà ông là đủ."

Sau hòa bình, cái tên Thị xã Quảng Trị bỗng dưng biến mất. Nó biến đi một cách lạ lùng. Từ ngày nhập tỉnh, nhập huyện, nhập xã năm 1976, chẳng ai gọi đây là thị xã nữa. Nó là vùng đất không tên gọi. Không một văn bản nào ra quyết định xóa tên nó, chỉ vì chính quyền sở tại bỗng dưng không gọi nó nữa, vậy thôi .Đến nỗi bến xe An Hòa, bến xe tỉnh lị Bình Trị Thiên, trên tuyến đường Huế về Quảng Trị, trơ trẽn một cái biển đề: Huế - Hải Trí. Hải Trí là một xã ven Thành Cổ, cũng vừa có tên sau cuộc nhập tỉnh trớ trêu kia. Thị xã Quảng Trị bỗng biến mất trong cỏ, và vì vậy suốt hai mươi năm, nhiều người dân ở đây vẫn cay đắng gọi Thành Cổ là Thành Cỏ.

 Năm 1989, tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường đến chơi nhà anh Lê Vũ Bằng, một cán bộ kỳ cựu của Quảng Trị. Khi nhắc đến "Thành cổ anh hùng", anh Bằng khẽ thở dài, không nói gì. Anh Tường nói rằng cần phải làm một việc gì đó để khôi phục Thành Cổ, một di tích lịch sử vô giá. Anh Bằng gật đầu nói:

    -Có. Có đấy. Có ba đợt kỷ niệm, vào những năm1984,1985, 1987, các đơn vị từng chiến đấu ở Quảng Trị đã vào đây, tất cả đều đòi hỏi phải xây dựng một viện bảo tàng tại Thành Cổ. Mười một vị tướng về đây đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy cỏ và gạch vỡ trong Thành Cổ. Bộ quốc phòng đã cho công binh vào rà mìn, chở theo 80 tấn xi măng, các tư lệnh Quân Đoàn I và Quân đoàn II đều về dự, và có kế hoạch đóng góp xây dựng "một cái gì đó" cho Quảng Trị, Nhưng đùng một cái, tỉnh Bình Trị Thiên ra quyết định đình chỉ tất cả. Lý do là Bộ văn hóa cấm đụng tới khu Thành Cổ này, đây là di tích xếp hạng A1 quốc gia, huyện không được nhúng tay vào.

    -Ai quyết định đình chỉ? Tôi và anh Tường cùng kêu lên.

     Anh Bằng nói:

     - Theo tôi biết là sáng kiến của nghành Bảo tàng tỉnh, biến thành chủ trương của Bộ văn hóa và chủ tịch tỉnh Bình Trị Thiên lúc đó ra pháp lệnh.

     Anh Tường nhăn mặt hỏi:

 -Thế Bộ và Tỉnh đã đưa ra kế hoạch thế nào, làm gì?

     Anh Bằng cười chua chát:

     -Họ chỉ có một kế hoạch, là im lặng suốt mười mấy năm để mặc cho cỏ mọc.

 Vậy thì cỏ mọc. Cỏ hiện giờ đang trùm lên nhà lao Quảng Trị, xây từ thời Pháp, dùng để giam tù cộng sản, nơi mà đồng chí Lê Duẩn đã từng bị cầm cố. Cả hàng chữ quyết liệt và lãng mạn tuyệt vời của những người tu cộng sản viết bằng sơn trên đá: "Hãy hát lên, anh em ơi!" cũng bị cỏ phủi mờ, nay chẳng còn dấu tích.

 Chiến tranh đã để lại trong lòng đất Quảng Trị hàng chục ngàn nhân mạng, hàng chục ngàn nhân mạng trên một diện tích chưa đầy sáu cây số vuông. Có thể nói bất kỳ một thước đất nào ở đây cũng chứa đầy xương người và đạn pháo. Cứ chiều chiều, thường là vào buổi cơm chiều, thỉnh thoảng lại có tiếng mìn nổ. Tiếng mìn do những người dân nghèo đào sắt vụn chạm phải. Hẳn nhiên sau đó là cái chết thảm thương của những người dân tội nghiệp kia. Có trên ba mươi buổi chiều tôi đã bỏ cơm, uống rượu thật say để quên đi những thảm khốc sau chiến tranh kia. Ấy là một chuyện. Chuyện khác cũng đau đớn không kém, là cứ hai nhà đào móng xây nhà thì thế nào cũng có một nhà đào được xương người. Có nhà đào móng xây nhà mình xong cũng gom đủ bảy bộ xương người. Đất ở đây đã biến chất, và dù biết có thể mắc bệnh truyền nhiễm, có thể chết bất đắc kỳ tử, dân ở đây cũng phải đào giếng lấy nước uống. Hệ thống nước máy đã bị phá hủy hoàn toàn sau chiến tranh. Hai mươi năm sau vẫn nguyên xi sự phá hủy không một ai tái thiết.

 -Năm 1984 - Anh Lê Vũ Bằng rầu rĩ kể cho chúng tôi chuyện cũ - Hội Đồng Nhà Thờ Thế Giới có liên lạc với chính phủ ta, đề nghị viện trợ cho thị xã Quảng Trị 400.000 đô la dùng để trang bị hệ thống cung cấp nước cho thị xã, đổi lại, họ mong muốn có một đoàn sứ giả sang tới thăm nhà thờ La Vang để quan sát mức độ tàn phá của chiến tranh. Trung ương nhất trí, huyện Triệu Hải đã làm luận chứng khoa học, phân tích mẫu nước, thiết kế hệ thống lọc định dặt ở Tích Tường. Công trình đang tiến hành khả quan thì một lần nữa, lệnh của Tỉnh đưa ra: Phải đình chỉ ngay tức khắc. Đề án cấp nước bị bãi bỏ.

 Cỏ đã mọc xanh rờn như lãng quên và phi lý. Ngay cả khi tách tỉnh, thị xã Quảng Trị được tái lập, người ta cũng quên mất nơi đây là tỉnh lỵ có từ thời Pháp - một chọn lựa nghiêm túc về nhân hòa và địa lợi - để kéo nhau ra Đông Hà, một vùng đồi núi trập trùng hì hục xây tỉnh lỵ mới, gây ra không ít bất bình trong nhân dân.

 Trên cỏ là nước. Mùa lũ sắp đến rồi. Bây giờ tôi đang sống ven Hồ Gươm, nghĩ đến mùa lũ Quảng Trị còn giật mình đánh thót. Một trăm năm trước thị xã Quảng Trị không có lụt, đúng hơn là không có những trận lụt ghê gớm như năm 1983 cuốn trôi hàng trăm nóc nhà, không có trận lụt như năm 1984, cả thị xã gần như chìm hẳn trong nước. Không thể chối cãi việc làm con mương dẫn nước xuyên đồng Triệu Hải đã làm cho đồng đất Triệu Hải liên tục bội thu, Nhưng cũng vì thế dòng chảy sông Thạch Hãn bị đổi dòng và bị nghẽn lại. Vậy là lũ. Nước ngập mặt một vạn hai dân ở đây. Nhà nào nếu không quét vôi đi, ắt hẳn còn nguyên xi ngấn nước lũ vàng khè ở trên vách cửa, trên xà, cả đến gần nóc cũng có. Người dân ở đây sợ lũ còn hơn sợ giặc. Bởi vì giặc thì có thể cầm súng mà chống lại, còn với lũ thì vô phương. Năm 1989, tôi vinh dự được bầu vào Hội đồng nhân dân thị xã khóa I, khóa đầu tiên sau ngày Thị Xã được tái lập. Ngay kỳ họp đầu tiên đã bị bỏ dở vì lũ đến, toàn bộ Hội đồng táo tác đi chống lũ. Hai tuần sau mới họp lại và ra được một kiến nghị thống thiết kêu gọi hết Bộ này đến Bộ khác tìm mọi cách xóa lũ cho thị xã. Bốn năm sau mới có hồi âm, Bộ thủy lợi rót cho ít tiền làm hệ thống giảm lũ. Giảm chứ không phải xóa. Bởi vì muốn xóa phải có một món tiền ít nhất là 10 tỉ. Mười tỉ đồng chứ không phải bỡn. Thôi thì một vạn hai cư dân ở đây cứ chịu khó ngụp lặn trong nước, bao giờ có 10 tỉ đồng hẵng hay. Tôi là dân ngụ cư, lại chỉ sống với Thị Xã chừng bốn năm, nhưng hễ mùa lũ đến, thấy bà con ngồi trên thuyền cấp cứu di tản về ngôi nhà ba tầng duy nhất của thị xã để tránh lũ, nhớ đến mười tỉ đồng, cứ ước mong mình được xê-ri giải độc dắc, rồi chợt trong lòng mình dâng lên một điều gì đó như là oan ức và phi lý.

 Bây giờ thị xã đã có tên, cái tên có từ thời Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc... bây giờ đã có. Mừng quá! Hệ thống nước uống cho thị xã đã khởi hành nhưng không biết năm nảo năm nào thì xong vì kinh phí cứ từng giọt nhỏ về. Thành Cổ đã được xây cất một tượng đài, ròng rã hai năm vẫn chưa xong vì kinh phí lúc có lúc không, nom chưa ra hình gì, chỉ chắc mẩm là rất sâu sắc! Điện đường đã có nhưng mỗi đêm thì đỏ ba tiếng vì thiếu tiền trả cho Sở điện lực. Tất cả chỉ vì thiếu tiền, thiếu đến nỗi ông chủ tịch thị xã đi công tác mà chánh văn phòng phải chạy đi ký nợ từng lít xăng. Mỗi năm tỉnh chỉ rót về một hai trăm triệu, chưa đủ chi tiêu văn phòng, trả lương cho cán bộ đã sạch túi.Túng thì tính. Hội đồng nhân dân thị xã làm một chuyện liều: thu tiền đất không nộp lên trên, lấy đó xây dựng cơ sở vật chất cho thị xã. Được đâu chừng ba tỉ, hí hửng xây nhà trẻ Hoa Mai, xây khu văn hóa đa chức năng, tu sửa và nâng cấp các trường tiểu học.Được ít lâu, Viện kiểm sát phát hiện ra cái tội "cố ý làm trái", đòi bỏ tù ông chủ tịch và kỷ luật toàn bộ thường vụ Đảng ủy Thị Xã. May Tỉnh ủy Quảng Trị biết rõ mười mươi các ông này vì dân mà làm liều chứ không phải tham ô tham nhũng gì, bèn xử hòa bằng cách khiển trách Thị ủy, cách chức chủ tịch Thị xã. Thế là phải lắm. Phải lắm, nhưng vẫn thấy cay cay đầu sống mũi, cái buổi chiều anh Nguyễn Minh Chương, chủ tịch Thị xã, chia tay với Hội đồng nhân dân lên nhận nhiệm vụ ngồi chơi xơi nước trên tỉnh. Cũng buổi chiều ấy, anh Văn Hàn Thuyên phát bệnh ung thư, chết sau đó một tháng. Ngày xưa, ông bà ta không biết ung thư là cái gì, vẫn gọi đấy là "cục uất".

 Thị xã Quảng Trị của tôi, xin mạo muội được nhận mình là đứa con của Thị xã, dù bây giờ đã khởi sắc,vẫn chưa thoát cơn chìm nổi giữa lãng quên và phi lý. Thị xã Quảng Trị của tôi thừa đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh để "rủ bùn đứng dậy sáng lòa" như bao nhiêu vùng đất khác của Tổ Quốc, nhưng tuồng như đã không đứng dậy nổi sau nhiều cố gắng bất thành, chỉ đơn giản nó thiếu tiền, đúng hơn là nó thiếu một cơ chế tạo ra những đồng tiền lành mạnh cho nhân dân. Có lẽ vì thế cỏ vẫn phủ đầy Thị xã và bài hát "Cỏ non Thành Cổ" cứ một lần cất lên lại làm cho những ai đau đáu với mảnh đất này không cầm được nước mắt.

Nguyễn Quang Lập 

[Trích e_VHNT ]
Gủi TTH
Jennifer Tran