*






Mémoirs

Trong một truyện ngắn khác, “The Secret Miracle” của Borges, nhà viết kịch Hladik bị kết án tử hình.  Đêm trước ngày thi hành án, ông cầu chuyện Chúa ban cho ông một năm để hoàn thành vở kịch của mình.  Ngày hôm sau, khi bị dẫn ra đứng trước đội súng và viên chỉ huy đã ra lệnh bắn,  chợt thế giới trở nên bất động. Hladik, tuy bất động nhưng hoàn toàn tỉnh táo, nhận ra rằng Chúa đã nghe lời nguyện cầu của ông.  Ông có một năm để hoàn thành vở kịch của mình, và một năm đó là khoảng thời gian chủ quan của ông, bắt đầu từ khi lệnh bắn được phát ra cho đến khi viên đạn hoàn thành sứ mệnh của nó.  Với mọi người khác, thời gian vẫn trôi bình thường, nên chẳng ai nhận ra điều gì khác lạ.
Blog Gỗ Mun 

Mr. Tin Văn có dịch truyện của Borges rồi đó anh.
Hoàng. 

@ Hoàng: Thế à, trang tinvan nhiều thông tin phết, mỗi tội như rừng. Suýt nữa anh dịch truyện ấy rồi.
21:20 Ngày 16 tháng 2 năm 2011 

vâng ạ, mỗi khi muốn tìm gì trong ấy là em đi vòng qua google hết đó.
H

Blog Gỗ Mun

Description: http://www.blogger.com/img/icon_delete13.gif

Tks

Gấu này, cũng vậy. Mỗi lần cần kiếm bài cũ, là phải nhờ Google!

Borges, nhân câu của Byron, Nàng bước đi trong cái đẹp như đêm, phán, đọc là phải tưởng tượng, bởi vì muốn đọc, chỉ câu trên, là phải tưởng tượng ra 1 nàng cao, đen bước đi đẹp như đêm, và đêm đến lượt, là người đẹp cao tối, cứ thế, cứ thế.

Nhưng Borges, không nhận ra, chính câu phán của ông cũng cần phải tưởng tượng thì mới đọc ra được!

Điều này, ứng ngay vào cái truyện ngắn Phép Lạ Bí Ẩn của ông.

Bởi vì có vẻ như truyện ngắn thần sầu [thần sầu thực] của ông, ứng ngay vào cuộc chiến Mít. Và cái phép lạ bí ẩn ứng ngay vào nền văn học hải ngoại, mà có người coi là văn học Miền Nam nối dài.

Có hai truyện ngắn của thế giới, được viết ra, để tiên tri cái cú 30 Tháng Tư 1975, một là Y Sĩ Đồng Quê [bị damaged, mới kiếm thấy bản gốc, và thay thế] của Kafka, và một Phép Lạ Bí Ẩn của Borges.

Cái câu than “mình bị lừa”, của viên y sĩ, chẳng đúng là của bất cứ 1 anh bộ đội Cụ Hồ, qua hình ảnh một DTH ngồi vệ đường Sài Gòn khóc nức nở?

Còn cái phép lạ bí ẩn mà Thượng Đế ban cho anh chàng nhà văn Ngụy trong PLBA, chẳng đúng là thời gian đi cải tạo của những ông nhà văn nhà thơ Miền Nam?
Giữa tiếng hô bắn của viên trưởng toán đội hành quyết, và viên đạn bay tới đầu anh nhà văn Ngụy, là 1 năm, 10 năm, 100 năm, ngàn năm, của 1 tác phẩm, là nền văn học Miền Nam trước 1975, kéo dài dài mãi ra, chẳng bao giờ dứt.

Cái cảnh tượng Borges mô tả, dưới đây, chẳng đúng là của ngày 30 Tháng Tư, 1975:

Đêm 14 tháng Ba, 1939, trong căn phòng ở Zelternergasse, Prague, Jaromir Hladík mơ một trận đấu cờ dai dẳng. Anh là tác giả Những kẻ thù, một bi kịch chưa hoàn tất, Minh xác Vĩnh cửu, và một nghiên cứu những nguồn gốc Do-thái không trực tiếp của Jacob Boehme. Đối thủ không phải hai cá nhân, mà là hai gia đình nổi tiếng. Cuộc đấu đã bắt đầu từ bao thế kỷ trước. Không ai còn nhớ giải thưởng trị giá bao nhiêu, nhưng nghe nói lớn kinh khủng, và có lẽ vô cùng. Quân cờ, bàn cờ được bố trí ở trong một cái tháp bí mật. Jaromir (trong giấc mơ) là đứa con đầu lòng của một trong hai gia đình tranh đua. Giờ giấc cho nước cờ tới đã được đóng cứng trên mọi mặt đồng hồ, và không thể trì hoãn. Người mơ thấy mình chạy dài trên cát, dưới mưa, và không còn nhớ được những quân cờ cũng như luật chơi. Tới đó, anh tỉnh dậy. Ngưng luôn, tiếng ầm ầm của mưa và tiếng đồng hồ khủng khiếp. Một tiếng động nhịp nhàng, tách bạch với những tiếng người ra lệnh, từ Zeltnergasse vang lên. Rạng đông, những binh đoàn thiết giáp tiên phong của Đệ Tam Reich đang tiến vào thành phố Prague
*

Ui chao đúng cảnh Gấu chứng kiến, sáng ngày 30 Tháng Tư 1975.
Và cái anh chàng Hladik, bị 1 kẻ nào tố cáo là nhà văn phản động đồi truỵ Ngụy, sao nghe ra như là... Gấu!
Đứng thứ 7 trong 12 tên!

Lại tự thổi!
Sướng thật!

*

Anh đã xin Thượng Đế cho anh một năm để hoàn thành tác phẩm: Quyền năng vô hạn của Người đã bảo đảm điều này. Vì anh, Thượng Đế đã hoàn thành một phép lạ bí ẩn: Sự thắng thế, dẫn đầu của đối thủ Đức sẽ giết anh, ở một giờ giấc nhất định, nhưng trong tư tưởng của anh, một năm đã qua đi, giữa lệnh bắn của viên đội, và cuộc hành quyết. Hoang mang, anh đi tới ngỡ ngàng; từ ngỡ ngàng tới cam phận, từ cam phận tới lòng tri ân bất ngờ.

Anh đâu có tài liệu chi, ngoài hồi ức của riêng mình. Đám rong chơi tài tử, vốn đã quên những chương đoạn mơ hồ, phù phiếm, họ không thể tưởng tượng, anh đã từng có được một sự nghiêm thủ hạnh phúc, khi làm chủ từng khổ thơ thêm vô đó. Anh không làm, cho hậu thế, ngay cả cho Thượng Đế, cũng không, những thưởng ngoạn văn chương cũng chỉ là vô danh đối với anh. Hết sức tỉ mỉ, không cử động, hết sức bí mật, anh dệt đúng thời gian, mê cung vô hình, kiêu hãnh của anh. Anh làm đi làm lại hai lần, hồi thứ ba. Anh bỏ đi những biểu tượng quá lộ liễu: tiếng đập của thời gian, của âm nhạc. Chẳng có gì thúc hối anh. Anh bỏ bớt, anh cô đọng, anh khuếch đại. Có chỗ, anh trở lại nguyên bản. Anh thấy mình trở nên trìu mến cái sân, doanh trại, một trong những mặt tiền của nó, trước mặt anh, đã sửa đổi quan niệm của anh về tính tình của Roemerstadt. Anh khám phá ra rằng, những tạp âm nặng nề đã làm Flaubert bực mình rất nhiều, chỉ là những mê tín thị giác, sự yếu đuối và giới hạn của chữ viết, không phải chữ có âm thanh, trầm bổng... Anh kết thúc bi kịch của anh. Anh chỉ còn bận tâm với mỗi một câu. Anh đã kiếm thấy nó. Giọt mưa lăn trên má anh. Anh bắt đầu một tiếng kêu man rợ, xoay mặt qua một bên. Ba bề, bốn phía, một luồng hơi đẩy anh té xuống.

Jaromir Hladík chết vào ngày 29 tháng Ba, lúc 9:02 sáng.

Note: Mới post bản tiếng Anh, độc giả nào có hứng, coi lại giùm coi có sai sót, vì Gấu dịch truyện này từ lâu lắm rồi, khi mới ra được hải ngoại.

Cách hiểu PLBA như Gỗ Mun, là chưa đẩy tưởng tượng tới mức tuyệt đỉnh, thành thử mới phán:  

Ông có một năm để hoàn thành vở kịch của mình, và một năm đó là khoảng thời gian chủ quan của ông, bắt đầu từ khi lệnh bắn được phát ra cho đến khi viên đạn hoàn thành sứ mệnh của nó.  Với mọi người khác, thời gian vẫn trôi bình thường, nên chẳng ai nhận ra điều gì khác lạ.

Không phải như vậy!

Borges, sợ người đọc hiểu sai tác phẩm của mình, nên mới phải trích dẫn câu kinh Koran ở đầu truyện. 

Và Thượng đế làm anh ta chết đi suốt một trăm năm, và rồi Người cho sống lại và nói:
"Mi ở đây bao lâu rồi?"
"Một ngày, hay một phần của ngày," anh ta trả lời.
Koran, II 261 

Với tất cả mọi người, thì chẳng có phép lạ cái con khỉ gì, y chang đám Ngụy, đinh ninh, chỉ có 10 ngày cải tạo phù du, thực tế là trên 10 niên!

Cái tác phẩm của anh chàng Ngụy Hladik, chẳng là đã được hoàn tất trong 1(0) ngày, là gì: Thơ ở đâu xa, Ta Về, Tôi Cùng Gió Mùa…?

Lần đầu đọc Phép Lạ Bí Ẩn, Gấu choáng người, như bị cái rìu phá băng của Kafka bổ trúng đầu.

Và cứ thế lần mò đọc Borges.
Ông bị Naipaul chửi cả 1 bài dài, cả 1 cuốn sách, rồi Martel chê. Nhưng mấy ông này chửi, chê đều có dụng ý, nhằm cảnh tỉnh những đầu óc mê muội, cứ chúi mãi vào "cái còn lại là văn chương", như Tây mũi lõ phán [đọc trên blog thì rõ, những đấng vờ đời sống thực, chui vào đời sống ảo...]
*

Chính trị mới là đỉnh cao của… văn chương. Tây có câu, “cái còn lại là văn chương”, là để miệt thị thứ văn chương bỏ qua nỗi đau, nỗi khổ của người đương thời, mà chỉ đắm đuối trong cõi mộng, trong cõi chân thiện mỹ. Naipaul chửi Borges là cũng ý đó, ông ta lôi chữ “bất tử” ra, và cứ thế đùa nghịch với nó, quên mẹ mọi chuyện. Steiner phán, những người khóc khi coi truyện tình lãng mạn "Werther" hay nghe nhạc Chopin đâu có biết rằng, họ đi qua địa ngục thực.

Đọc blog trong nước, của những nhà văn thứ thiệt, than thở, đừng nói chuyện chính trị, chán lắm, là cũng nghĩa đó.
Nên nhớ, vẫn nên nhớ, chẳng cần đến Steiner, văn học quốc tế, dân Mít ngày xưa, học TQ, cũng đã biết được ‘tu thân, tề gia, bình thiên hạ’.
 
Câu của Naipaul chửi Borges, có thể áp dụng vào trường hợp NBC: Ông không hề biết đến lũ Ngụy, vì còn mải mê trong cõi bất tử của những con số.
NKTV

Nhưng câu của Martel mới rõ ra ý đó. Ông viết về Borges:

Borges is often described as a writer's writer. What this is supposed to mean is that writers will find in him all the finest qualities of the craft. I'm not sure I agree. By my reckoning a great book increases one's involvement with the world. One seemingly turns away from the world when one reads a book but only to see the world all the better once one has finished the book. Books, then, increase one's visual acuity of the world. With Borges, the more I read, the more the world was increasingly small and distant.



Có lẽ cái tay nhà văn viết văn bằng tiếng Tây hơn cả Tây, phải là Andrei Makine. Ông còn viết cả 1 cuốn sách chửi Tây thuộc dòng chính, thế mới ghê: "Nước Pháp mà người quên yêu."

Vốn sống, vốn viết của ông là cuộc chiến Nga, giữa Đỏ và Trắng, chống Nazi, và cuộc lên ngôi của Đế Quốc Đỏ sau đó, củng tất cả những hệ lụy của ó.

Nhưng có lẽ phải gọi ông là nhà văn chuyên viết truyện tình thì mới đúng.

GNV biết tới Makine, qua bài điểm cuốn được Goncourt của Tây, “Di chúc Pháp”. Đọc bài điểm mê quá, mò đi kiến tác phẩm. Sau đọc tiếp cuốn “Sông Tình Một Thuở”, cũng quá tuyệt, và, vẫn truyện tình. Mới đây, thấy TLS khen ông nức nở, với cuốn “Cuộc đời của 1 kẻ vô danh”, Bèn đi kiếm đọc, thay vì nó, thì lại vớ được cuốn mới nhất của ông sau đây:

*

Le destin de Dmitri Ress pourrait être mesuré en longues années de combats, de rêves et de souffrances. Ou bien à l'intensité de l'amour qu'il portait à une femme. Ou encore en blessures, d'âme et de corps, qu'il a reçues, happé par la violence de l'affrontement entre l'Occident et la Russie. Cette pesée du Bien et du Mal serait juste s'il n'y avait pas, dans nos vies hâtives, des instants humbles et essentiels où surviennent les retrouvailles avec le sens, avec le courage d'aimer, avec la grisante intimité de l'être.
Dans un style sobre et puissant, ce livre transcrit la mystérieuse symphonie de ces moments de grâce.
Les héros de Makine les vivent dans la vérité des passions peu loquaces, au cœur même de l'Histoire et si loin des brutales clameurs de notre monde.
Andreï Makine, né en Sibérie, a publié plusieurs romans, parmi lesquels Le Testament français (prix Goncourt et prix Médicis), La Musique d'une vie (prix RTL-Lire), La Femme qui attendait, L'Amour humain et La Vie d'un homme inconnu. Il est aussi l'auteur d'une pièce de théâtre: Le Monde selon Gabriel. Ses livres sont traduits en plus de quarante langues.

*

Chuyện Tình

-Ông là nhà văn hách xì xằng, đứng sau chót, trong dòng những nhà văn - Conrad, Beckett, Nabokov, Kundera - được đời biết đến nhờ những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ thứ nhì. Đâu là lợi, đâu là hại, khi đếch viết văn bằng tiếng mẹ đẻ?

Andrei Makine:
Khi bạn chuyển từ ngôn ngữ thứ nhất qua thứ nhì, bạn bị bắt buộc trở thành lưu vong, và điều này có thể rất ư là hướng thượng [positive]. Thí dụ, bạn có thể quẳng mẹ tất cả những bản kẽm, có từ thuở Hùng Vương dựng nước - thí dụ, quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không có thì đếch có thể lớn lên thành Mít được - ở đằng sau bạn; nói về mặt ngôn ngữ, bạn bèn bước vô một vùng đất trinh nguyên. Đúng là một kiểu tái sinh, sống lại.

Tại sao, bằng cách nào, và như thế nào, mà ông lại chọn anh chàng tài tử mặt ngựa, Jean-Paul Belmondo, như là một mẫu mã Tây Phương cho những cuốn tiểu thuyết của ông?

Một phần, là do cơ may, có thể nói như vậy, nhưng cũng còn vì điều này, những cuốn phim của anh ta được chiếu đại trà ở Nga. Khi tôi vừa mới lớn lên, là lập tức bị nhồi đủ thứ Đến hẹn lại lên, Hãy chết như anh... Anh mặt ngựa Belmondo hớp hồn chúng tôi ấy là vì anh ta có vẻ hoàn toàn tự do, cứ phơi phới mà yêu mà sống mà chết, vượt ra khỏi, vượt lên trên, chính trị. Anh ta rất ư là quyến rũ, rất ư là vô chính trị - với chúng tôi, anh ta chuyển hóa, vượt qua, transcendend, Cuộc Chiến Lạnh.

Nhưng tại sao lại là (tài tử Pháp) Belmondo?

Với cái mũi dèn dẹt, anh ta giống chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi - taiga, vodka, những trại - là từ những hình vóc đó. Những khuôn mặt của một vẻ đẹp man rợ hằn lên những đường nét khắc khổ. Tại sao anh ta?

Bởi vì anh ta chờ đợi chúng tôi. Anh ta không bỏ rơi chúng tôi ở bậc thềm một lâu đài tráng lệ, và những lần tới lui, giữa những giấc mơ và cuộc sống thường ngày của anh, anh ta luôn luôn ở bên cạnh chúng tôi. Người ta theo anh vào tới cái điều không thể tưởng tượng ra nổi.
Chúng tôi còn yêu anh, bởi cái điều vô ích, của những thành quả, những chiến công. Bởi sự phi lý của những chiến thắng, chinh phục. Thế giới mà chúng tôi sống dựa trên tương lai rạng rỡ của một ngày mai ca hát. Đó là luận lý của chúng tôi. Những buổi gắn mề đay nơi điện Cẩm Linh là một biểu tượng cao cả. Ngay cả trại (tù) cũng có chỗ đứng ở trong cái trật tự hài hòa đó.

Rồi Belmondo tới cùng với những thành quả chẳng để làm gì, những trình diễn chẳng cần mục đích, chủ nghĩa anh hùng rẻ tiền, miễn phí (gratuit). Chúng tôi khám phá ra rằng, sự hiện hữu xác thịt của con người tự nó là một cái đẹp. Chẳng cần bất cứ một ngụy tư tưởng mang tính ý thức hệ, hoặc vì tương lai. Kể từ ngày đó, chúng tôi biết, về cái tự tại, tự thân tuyệt vời có tên là Tây-phương.

Lại còn cuộc gặp gỡ tại phi trường. Người nữ điệp viên chờ đón vị anh hùng của chúng tôi phải có một vật gì đó để họ nhận ra nhau. Dữ thần chưa, đó là một... karavai, một mẩu bánh mì đen, được gọi bằng cái tên chính hiệu Nga của nó, trong một phim Pháp! Một tiếng rú vang lên, và cùng với nó là lòng tự hào Nga chạy dài theo suốt những hàng ghế trong rạp Tháng Mười Đỏ... Khi trở lại Svetlaia, chúng tôi chỉ nói về chuyện đó: vậy là, ở nơi chốn Tây-phương xa vời kia, họ cũng biết một tí, rằng chúng tôi hiện hữu!

Sông Tình Một Thuở

**



**

Tôi thức dậy, tôi đã mơ 1 âm nhạc... Nhạc 1 đời... đối với thằng em trai đã tử trận của Gấu, là bản “Tôi đẹp nhất đêm nay”, của “em” Sylvie Vartan, và cùng với bản nhạc của Đầm, là "Đồn anh đóng bên rừng mai", của Mít.
*

"Sao không hát cho những người vừa nằm xuống..."
Đã có một thời, tôi không sao chịu nổi. Chúng rũ rượi, mệt lả. Đầy sũng nước mưa, nước mắt. Chúng gọi tên thảm kịch. Thảm kịch của những cái vô ích. Của cuộc chiến điêu đứng, rồ dại. Chúng gợi tâm trạng nhớ. Nhớ bùn. Nhớ đời sống thảm hại, nhàm chán. Nhớ những kỷ niệm chẳng đáng nhớ. Nhớ ngã tư đường Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng gần nhà cô bé, khi chưa có tượng Thích Quảng Đức. Cô bé hớt hải chạy ra, hớt hải lắc đầu, rồi lại hớt hải chạy về. Nhớ những ngày nhà cô bé dời lên đường Gia Long. Buổi sáng, cô đưa em đi học trường Kiến Thiết gần khu Chợ Đũi, đưa mắt nhìn người yêu đang chờ đợi trong quán cà phê Tầu ở ngay đầu đường. Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành người lớn.
Nhớ, nhớ..."Nếu mai không nở, anh đâu biết Xuân về hay chưa...", em tôi vẫn thường nghêu ngao một mình trước khi bỏ đi.
Như những lời chúc dữ, chúng báo trước một Miền Nam mòn mỏi, suy sụp, trước một Miền Bắc lì lợm, dai dẳng.
Trong mỗi chúng ta đều có một Sài-gòn âm ỉ cháy. Tôi khơi cục than hồng của tôi, để cho Sài-gòn của bạn sáng ngời.

Lần Cuối Sài Gòn

*

Một trang TV cũ

Thơ tôi không cần thông điệp

Cơ bản, tài năng đếch cần lịch sử. [Basically, talent doesn’t need history]. Hãy nhớ lại những tài năng tiền chiến, đếch cần tới Mùa Thu Lịch Sử sau đó. Thê thảm hơn, họ bị nó nghiền nát bấy, biến thành, hoặc đao phủ hoặc nạn nhân. Người đọc chẳng đã sửng sốt vì những cái độc cái ác đầy rẫy ở trong sổ Ghi của Trần Dần, chúng đâu làm cho tài năng của ông lớn thêm lên đâu? Một cách nào đó, phải coi hành động tiêu diệt nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như là một hành động sát nhân.

Đọc Thơ

Joseph Huỳnh Văn 1975 & Anna Akhmatova 1917

Cynthia Ozick, trong “Tính Ích Kỷ của Nghệ Thuật” [The Selfishness of Art], viết, tiểu sử, hay gọi nó là cuộc đời, mắc míu tới một dúm nhà văn  - nhưng, chỉ với một dúm nhà văn - với sự kỳ lợm ma quái của một hồn ma: lịch sử, câu chuyện về cuộc đời của họ, cứ mờ dần đi và lẩn vào ngụ ngôn, biến thành giai thoại.

Ai nghĩ về một Scott Fitzgerald mà bỏ qua bệnh điên của bà vợ, Zelda?
Nguyễn Tuân, bỏ đi cây ba tong của ông?
Cây gậy, một sự kiện có thực, như thế đó, cũng biến thành huyền thoại, chẳng có khác gì cái hộp hổ phù đựng thuốc lào của một tay anh chị trong Vang Bóng Một Thời.

Có thể, chính vì nghĩ như vậy, Trần Dần chẳng hề “delete” những cái độc, cái ác, những ngày ông và bạn bè trải qua, sau Cách Mạng Mùa Thu.
Chính cái đời tư của ông trở thành một địch thủ đáng sợ của tác phẩm của ông.
*
Gấu cứ luẩn quẩn với câu hỏi, tại làm sao Trần Dần không “đánh bóng” Sổ Ghi, làm cho nó dịu dàng đi, bớt độc đi, cho đến khi đọc những dòng trên của Ozick.
Thành thử cái gọi là thông điệp, nếu có, ở những con người như Hoàng Cầm, như Trần Dần, lại chính là cuộc đời riêng tư của họ.
Chính cuộc đời của họ, và những cay đắng nhục nhã họ phải chịu đựng khi nói "Không" với quyền lực, đã tố cáo chế độ, mạnh hơn tác phẩm của họ.
Thơ của tôi không cần thông điệp, là còn theo nghĩa đó.
*
Trong bài Vài kỷ niệm về Mai Thảo, Gấu có nhắc tới Virginia Woolf. Trong năm bài essays nho nhỏ về thành phố London [The London Scene], bà có đưa ra một nhận xét, không hẳn giống như Ozick, về đời tư nhà văn nhớn:
London, may mắn thay, đầy những nhà của Vĩ Nhân, Great Men. Với đầy đủ những trò lẩm cẩm, nào là cái ghế họ ngồi, cái ly họ uống cà phê, cái giỏ đựng rác… Chúng ta đến căn nhà của Dickens, không hẳn hoàn toàn chỉ vì tò mò, nhưng mà còn để nhận ra một điều: có thể, họ cũng chẳng có một khiếu thẩm mỹ nào ghê gớm lắm, nhưng những dấu ấn của họ lên những đồ vật thì thật rõ nét… Cách họ sắp xếp bàn ghế, đồ đạc, nhà cửa của họ.. làm sao cho chúng trở thành một phần của cuộc đời của họ. Chỉ cần một giờ quanh quẩn ở nơi đó, là chúng ta có thể biết nhiều về họ, hơn những gì chúng ta được biết từ những cuốn tiểu sử dầy cộm.

Không hiểu những miếu đền, những ngàn chương sử, mà Mai Thảo mơ ước đó, là về ông, hay là về Sài Gòn, có Quán Chùa, hay Tiểu Sài Gòn, có căn phòng, có một ông già bịnh, mơ mơ màng màng, chẳng bao lâu, ta sẽ là cả thế giới…
Bientôt, je serai tout le monde.
Je serai mort

Borges.
Vài kỷ niệm về Mai Thảo
Bài viết này, có thể coi là bài văn tế sống Mai Thảo, viết vội, khi nghe ông sắp đi. Nguyễn Mộng Giác vội vàng mang vô nhà thương đọc cho Mai Thảo nghe. Ông cám ơn Gấu, qua Nguyễn Mộng Giác, và còn nói thêm, bây giờ, sao nó viết dễ đọc, khác hẳn ngày xưa.


Kundera: Gặp gỡ

Bài tản mạn trao đổi văn học giữa quý anh Nguyễn Mạnh Trinh và Bùi Vĩnh Phúc rất là rạch ròi, bổ ích. Dù quen biết đã lâu, tôi lúc nào cũng ngưỡng mộ phê bình gia Bùi Vĩnh Phúc về phong cách trí thức uyên thâm mà không cao ngạo của ông [ đây là một lời thật lòng, không hề mang kiểu cách "áo thụng . . ."].

Mấy lời !

HXS

Cái “còm” này thực sự là nhắm GNV. Trí thức uyên thâm mà không cao ngạo là khen Thầy Phúc, nhưng nhắm chửi GNV. Lại sợ người đọc không nhận ra, kết bằng ‘mấy lời’, là để nhắc lại cái còm của nhà thơ, đã từng lên lớp GNV, vì dám đụng đến bạn của nhà thơ là HNT. 

Cái chuyện, coi thằng cha Gấu này kiêu ngạo, phách lối, theo Gấu, chỉ là… huyền thoại!
Chứng cớ. 

-Với băng HXS. Ngay khi ra được hải ngoại, tờ báo đầu tiên mà Gấu “mặt dầy” xin cộng tác, là tờ Nắng Mới của băng này, trong khi GNV không cộng tác với tờ LV, dù đã từng gửi bài đăng, ngay từ khi ở Trại tị nạn Thái Lan.
-Khi băng đảng HXS ra mắt sách ở Toronto, GNV là người gật đầu làm MC, ngay khi 1 vị dược sĩ quen băng này đề nghị, không hề kiêu ngạo từ chối. Và khi GNV làm MC, thì cả bọn ngồi riêng ra 1 phòng, cùng nhau uống rượu, nghe GNV hết lời thổi cả bọn.
Cũng không hề cám ơn 1 tiếng.
Ai vô học, kiêu ngạo?

**

Gấu đang thổi Huế Buồn Chi!

-GNV chưa hề viết mail trả lời bạn văn, xưng là "anh chị Gấu", như 1 vị trong băng này, trả lời mail của Gấu. 

Có thể, trên trang TV, là trang nhà, trang riêng, GNV viết bằng 1 cái giọng tưng tửng, tếu tếu, tự trào tự khoe, phách lối, kiêu ngạo… hẳn là Gấu có quyền, vì là trang nhà, ai không thích thì cứ tự nhiên lướt qua trang khác, dễ quá mà.

 Bạn thử kiếm coi, ngoài trang TV, có trường hợp nào, có nơi nào…  Gấu sử dụng thứ văn mất dậy “mấy lời”, với bất cứ 1 diễn đàn khác?
Ai kiêu ngạo, ai phách lối?

Mấy lời!
Nhảm thật!
NQT

Trên TV, trong những kỳ tới, có thể sẽ có 1 số bài viết thật thẳng thừng, thật “dã man”, về 1 số nhà văn nhà thơ Mít, mà GNV thực tình nghĩ, họ là bạn, tuy không thân, không quí, nhưng thà như vậy, may ra, tình hình văn học hải ngoại sẽ khác đi.

Có thể, sẽ lôi thơ của nhà thơ của đất Thần Kinh ra làm thịt, văn của TDN, mổ xẻ, tài phê bình của Thầy Phúc, tính sổ…

Phải “trải đệm” thôi!
Hà, hà!

Nhân cú sắp sửa “trải đệm”: Đọc tờ Lire, trên, đặc biệt về Hemingway, có nhắc tới vụ đụng độ giữa hai đấng cùng Nobel, cùng Mẽo, là Faulkner và Heminway. Post ra đây, cũng vui:

*

Faulkner phạng Hemingway: Thằng chả đếch có tí can đảm. Chẳng bao giờ dám dính tí hiểm nguy. Chẳng bao giờ dùng chữ khiến độc giả phải dùng tới từ điển.

Hemingway: Đọc F. tôi ngửi ra ngay những đoạn ông hết hơi, kiệt sức, và phải cầu cứu tới rượu, y chang SF.

Nhưng cú này, của F, tuyệt cú: “Những nhân vật của H. loay hoay trong khoảng rỗng, họ chẳng có quá khứ, nhưng bất thình lình trong Ngư Ông, ông khám phá ra Thượng Đế”.

Bài viết về Ngư Ông, tuyệt nhất, với Gấu, là của tay Yann Martel, trong lá thư gửi thủ trưởng Canada, ra lệnh, hãy đọc cuốn này!


*

C'est son père qui offrit à Hemingway son premier fusil de chasse.
Et c'est avec ce même type d'arme qu'il mettra fin à ses jours,
peu de temps avant son soixante-deuxième anniversaire.

Cả hai bố con đều tự tử. Cùng 1 kiểu súng