*

Cali, No-2012
Bobin
Ghiền
TTT in Ký Ức Sơ Sài
Rain
Paris Review 60 năm
Sổ Đọc
Thảm họa dịch
Nostalgie de la boue
Ám ảnh phố phường
Câu hỏi hắc búa
Viết lại Truyện Kiều
Thơ vô ngôn
Hope in thin shell
Nhìn lại TLVD
Mit Crisis
Borges by Greene
NQT @ talawas
Tiểu thuyết là gì?
1968-Khe Sanh
Sarajevo Siege 1992
Paris tắm
Mit Critic
Ghiền
Cô Gái Chơi Cờ
Pamuk:
Cơn giận dữ của những kẻ bị trầm luân
Viết nhỏ by PTH
Anh Môn by The Economist
Cavafy by Vargas Llosa
Opium-Marx
20 năm VH Miền Nam
Granta Sex
The Good vs The Chtistian
Iceberg
Gatsby
Simic: What if
PCT triết gia
Season Elegy
Truyện ngắn bất khả
NHT by Nhật Tuấn
Steps
Lost_Intel
Chia tay
Youth
Fleeing by Cao Hành Kiện
Loneliness by CHK
To Young Poets by AZ
NHQ và HTXHCN
Bolano: Trong Ngoặc
Borges's Còm
Hà Nội Gió
Tạp Chí ST by CTC
Graham Greene Dangerous Edge
Đọc lại Agatha Christie
Message to 21th Century
Memory Trap
How to write a sentence
Bùi Ngọc Tuấn
Ôi chao giọng Huế
Lapham Kẻ Lạ
Inner Worlds
LMH case
Bịp
Lolita loathsome brillance
Kafka Poet
Once upon a sea
Images Life by Simic
Borges by Cioran
Centaur Question by P_Levi
Ars Erotica
Keo_LMH
A Place in the Country
Love-Letter by Durrell
Bad Words Praise
Imaginary Beings Book
Love Stories
Thôi bỏ đi Tám
Surf Tin Văn
Nơi cuộc chiến bắt đầu
Thông điệp I. Berlin
Mit vs Lò Thiêu

Why Lawers Love Shakespeare
Karl Popper on Democracy
Nh
ã Ca @ Cornell
NL vs Camus


Viết/Đọc mỗi ngày

Jan 25, 2016

Văn chương miền Nam: giữa chừng

Tôi cũng ngưỡng mộ bác Tin Văn, mặc dù ổng hay "chưởi tứ phía".
Một vị độc giả Blog NL
Khi mới ra hải ngoại, hăm hở với giấc mơ quy tụ suốt 1 dải hải ngoại về một mối, tạo thành 1 lực lượng, 1 phong trào…  như 1 tiếng nói đối nghịch hẳn lại, với Hội Nhà Thổ ở trong nước – thì cứ gọi đại như vậy - Gấu, báo nào cũng viết, nào báo của lũ chuột túi kan-gu-ru, bú rù, nào Kánh Én, nào Gió Đông, nào talawas… 

Khi ra sách lần đầu, gửi tặng búa xua, rất nhiều người chưa từng quen biết, chỉ nghe tên. Lần nhận sách từ nhà xb Văn Mới, từ Los Angeles mang xuống, Gấu ngồi ở Cà Phê Fuck [Factory], tặng sách tuốt đám Mít ở đó. Bà vợ NMG nói, thế không để bán ư, thế là ông bà NMG bày trò ra mắt sách tại gia, cho vợ chồng Gấu có tí tiền trở lại Canada.

Cái sự chưởi tứ phía, như bây giờ, là có ý nghĩa của nó.
Chửi, thật dữ, may ra có thay đổi.
Không lẽ khen thứ thơ vãi linh hồn, ngồi bên ly cà phê nhớ bạn hiền…
Chửi, chỉ trên Tin Văn, đâu ở chỗ nào khác, kể cả trên FB?


Trong “cú” chưởi của GCC, của Tin Văn, đúng hơn, có cái gọi là "bổn phận phục sinh", le "devoir de résurrection", của xứ Mít, nói theo 1 tác giả trên tờ ML của Tẩy, số đặc biệt về văn học Nga, dưới đây.

Tks, anyways.

"Nếu có 1 nhà văn lớn của Việt Nam, thì chắc sẽ là Linda Lê, lập lại nhận định của NL. " - GNV.

The writer we all are looking for is Tran Vu.
- GC

Blog NL

Trần Vũ, theo GCC, là 1 hiện tượng, không phải 1 nhà văn.
Anh xuất hiện, là nổi như cồn. Ở dây, có gì tương tự với hiện tượng Thầy Kuốc. 
Thứ thiệt, thường thì, khi xuất hiện, bị chửi nhiều hơn là được khen, hoặc chẳng ai thèm để ý đến. Hoặc bị từ chối, refusé.
TTT, khi mới xuất hiện mà chẳng bị chửi dữ sao?

Bây giờ đâu có ai đọc Trần Vũ nữa?

Hình như anh cũng hết viết văn, và chuyển qua nghề phỏng vấn?

GCC chỉ chịu được, mỗi bài viết của TV, kể lại lần gặp "hitman" HPNT, như đã có lần viết trên Tin Văn.
Bài viết này, cũng phỏng vấn, nhưng có thể, do bóng ma Mậu Thân phủ lên nó, nên quá đã!

Nhớ, 1 tay mũi lõ nào đó phán, Dante, sở dĩ còn được đọc, là vì bị từ chối!

Bạn chỉ trở thành nhà văn nhớn, khi bị từ chối, và có chân trong Hội Những Kẻ Bị Đá Đít, dưới đây!

Quand, rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part.

En attendant le train

Khi mệt quá, độc giả TV ngồi lại, GCC vưỡn tiếp tục chưởi!

*

*

* *

Trong Khi Chờ Tầu!

Nhân đọc mẩu viết về “tầu hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong Khi Chờ Godot, và đây là dụng ý của tay viết.

Và của Gấu!

EN ATTENDANT LE TRAIN

MÉDITANT SUR TOLSTOI ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner ouvre une brève parenthèse pour souligner le role stratégique des quais de gare chez ces deux auteurs. Leurs trajectoires, si souvent opposées et dont Steiner s'applique à minorer les divergences, se trouvent ainsi réunies, en attendant le train, II ne faudrait pas toutefois en conclure que le roman russe s'apparente à l'indicateur Chaix et encore moins à une littérature de gare, encore que lire Guerre et Paix dans le Transsibérien demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros de Tolstoi comme ceux de Dostoievski aiment voyager par le train, Que l'on songe à l'ouverture de L'ldiot, quand le prince Muichkine et Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie. Ou encore à la tragédie d'Anna Karénine qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
    Vronsky, on le sait, part pour la guerre. II existe d'autres destinations plus enviables. D'autant que le roman russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses héros vers de lointaines et mythiques frontières, là où campent les Cosaques, les tribus du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros tolstoien s'évade volontiers à la campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son salut dans le royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des Possédés conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
    Quand, rompus de fatigue, les héros restent à quai, c'est l'auteur qui part. Ainsi Tolstoi, abandonnant au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les lieux de sa jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui est à ses trousses. « Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une petite gare, à Astapovo, où il mourra en laissant sur sa table de chevet deux livres, ultimes compagnons de voyage: Les Frères Karamazov et les Essais de Montaigne.
    La Russie et l'Europe sont les deux patries des auteurs russes. Tolstoi admirait Stendhal. De son coté, Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif... Reconnaissant sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à Ivan Karamazov: « Je veux voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir d'ici. Et pourtant, je sais que je ne trouverai qu'un cimetière un très précieux cimetière, voilà ce que c'est! » Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait à Paris, Rome ou Vevey.
    Indifférente à tant de transports, l'Europe à longtemps consideré avec froideur et réticence les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos, l'absence de contraintes esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire face aces « grands monstres informes », selon la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a écrit pas moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il se risqua à bâtir une pièce de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec l'infinité, il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman ménage un prélude à l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit même trois pour éviter de tout à faire conclure

Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles de la littérature russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+

(1) George Steiner, Tolstoi ou Dostoievski, traduit de l'anglais par Rose Celli, réed, 10/18, 2004.


Sách & Báo Mới
Lướt Tin Văn

Viết như không viết

Đọc còm của độc giả Chợ Cá, về bài ký của Trần Vũ, Gấu ngộ ra một sự thực, về cái đọc của độc giả quyết định “số phận” cái diễn đàn của họ.
[Chợ Cá đâu phải bản chất là Chợ Cá, nhưng mà do những người hội họp ở một nơi, và nơi này từ đó có tên là Chợ Cá!]

Mr. TV dùng hình ảnh khoảng lưng trần đẹp ơi là đẹp của phụ nữ, để làm bật lên tấm lưng trần đầy sẹo của một người đàn ông, và nhân đó, nói về cái lưng trần "da beo" của chính TV.

Còn chuyện cái bụng đàn bà Mít đẻ ra cả một lũ ngu Mít, trong có Gấu, tất nhiên, lại là chuyện khác!

Cái tay thi sĩ ở trong nước, nhìn ra hình ảnh Chợ Cá, khi nó chưa là Chợ Cá, quả là thần sầu!

NQT

*

Linda Lê, une voix qui nous hante

Linda Lê, một giọng ám ảnh chúng ta

Blog Pierre Assouline giới thiệu cuốn sách mới xb của Linda Lê: Lame de fond [sóng dữ bất thình lình: lame soudaine, provenant d'un phénomène sous-marin. Petit Robert], 276 trang, 17 euros, nhà xb Christian Bourgois

TV sẽ có bản tiếng Việt, sau.

Nhà văn nào thì cũng viết so với sự bí mật của mình. Và cây kim để ở trong bọc mãi, thì cũng có ngày ló ra. Khi, bất thình lình; khi, nhỏ giọt. Những độc giả trung thành của Linda Lê, một câu lạc bộ không ngừng lớn mãi, rình mò từ hai chục năm nay điều này, qua chừng mười lăm cuốn sách. Và, “hình tượng lột da sống" ["écorchée vive", người tử đạo văn chương), (1) không phải thứ dễ dàng lôi kéo, hay hoảng sợ trước những cái micro, hay dưới ánh sáng chói loà ở phòng ghi âm, để trải ra sự loạn luân: cái vũ trụ đắng, chát được chuyển tải bằng 1 cách viết đòi hỏi, không dễ dàng đến với người đọc. Và nếu bạn chưa từng đọc, thì chỉ vào lúc này, hoặc là chẳng bao giờ. Bởi vì tác phẩm mới xb của bà, Lame de fond, (Sóng ngầm đáy biển), không phải chỉ, hoàn hảo nhất, thành tựu nhất: lãng mạn hơn so với đa phần tác phẩm xb trước đó, cắm sâu hơn, vững hơn, vào cái thực, nó còn tự ban cho nó cái quyền: chiếc chìa khoá của tác phẩm của bà, hay, ma trận, tử cung, cái khuôn, từ đó đẻ ra mọi tác phẩm.  
Người ta tìm thấy ở trong đó, cường độ và ý nghĩa của bi kịch của bà, những tang tóc, trở đi trở lại, đủ thứ tang tóc, về người, nơi chốn, ngôn ngữ, nhà cửa, mà lưu vong và bị nhổ, bật gốc mang theo (bà sinh năm 1963 tại Việt Nam) hay là từ tái tạo gốc, cắm lại rễ trong tiếng Pháp sống như một xứ sở ngôn ngữ đối với bà, một tổ quốc di động, ở đó, bà nương náu, và diễn tả bằng nói và bằng viết, trong 1 ngôn ngữ độc nhất, trừ bỏ hẳn đi một ngôn ngữ khác, nơi bà sống hiệu quả, kể từ những ngày “ngày mai ca hát”, sau ngày 30 Tháng Tư của cuộc chiến Mít.


(1)

Sep 7, 2012

Linda Lê, năm nay

Tiểu thuyết mới nhất của Linda Lê hứa hẹn sẽ có số phận đặc biệt vào mùa sách Pháp năm nay. Cuốn sách tên là Lame de fond (Sóng ngầm ở đáy biển), mà theo Linda Lê tự miêu tả là "có bốn giọng, viết về sự lưu đày, về một mối tình loạn luân" như trong bài trò chuyện với tôi hồi tháng Tư vừa rồi.

Trong khi chờ quyển sách thì có thể đọc bài của PA25 nhấn mạnh vào một giọng văn ám ảnh và khẳng định Lame du fond là tác phẩm thành tựu nhất từ xưa đến nay của Linda Lê. Trong mắt Pierre Assouline (cũng như trong mắt nhiều người), Linda Lê đích thực là một người tử đạo vì văn chương (PA dùng cụm từ "écorchée vive").

Cũng sắp có một cuốn sách của Nguyễn Khánh Long, người chính yếu đưa Linda Lê về (à quên, đến) Việt Nam. Chỉ riêng đây thôi cũng đã là một câu chuyện dài của lịch sử văn chương Việt Nam (lịch sử lớn chứ không phải lịch sử nhỏ).
* *

Cuốn này mới xứng đáng Goncourt, nhưng nói 1 cách nào đó, tuy ngược ngạo, Goncourt thực chưa xứng với nó, theo nghĩa, độc giả Tẩy, lớp trung bình/trung lưu thật "cũng" khó mà chịu nổi Linda Lê, và có thể, chính vì lý do này cuốn sách không được trao giải, theo Gấu Cà Chớn.

Nhân vật tên Van, đàn ông, Mít, đã chết rồi, một cách nào đó, là biểu tượng của cái giống đực Mít, cũng chết rồi, và chỉ còn sống trong hồi ức của ba người đàn bà cùng yêu anh ["Những cuộc sống của 1 người đã chết", "les vies d'un mort", là thế].
 Tại sao lại “ba”?
Đây cũng là con số của Hóa Thân, của Kafka [đọc bài của Nabokov về cuốn này thì hiểu tại sao “ba”, nhưng Mít thì chẳng cần đọc, cũng biết, và đau rồi!]

Vào ngày 30 Tháng Tư khi những người CS chiến thắng ở Việt Nam, Van đo luờng thảm họa… Một khi tới được Pháp, Van gạch bỏ Vietnam. Rồi thì, khi yêu Ulma, anh lại kiếm thấy nó… Sóng Ngầm có thể đọc như là 1 cú đâm vào cái gọi là gia đình [un terrible charge contre la famille]
Sức mạnh của ngòi viết của Linda Lê là ban cho những đứa con của gia đình Mít 1 cơ hội, một cái cửa mở ra tuyệt vời, một sinh lộ, có tên là văn chương!
Tuyệt!
Ngoài ra, còn bài viết của tay PA trên Blog của ông, cũng tới lắm, nhưng theo Gấu Cà Chớn, thua bài trên!
Đâu có phải tự nhiên, vô tư, mà Linda Lê phán, tôi mang trong tôi 1 đứa trẻ Việt Nam, đã chết.

Trần Vũ viết bóng bẩy, hung bạo, cố gắng rắc rối nhưng thiếu nội lực. Nên chỉ hấp dẫn dân Việt Nam dốt. Sách Trần Vũ đã được dịch sang Pháp Văn, nếu khá thì bà con thế giới đã nhận ra. (BBP)

Reply
Replies
  1. Thưa Bác Bụng Phệ, ngoài "bóng bẩy, hung bạo, cố gắng rắc rối" ra, Trần Vũ còn có nhiều hương vị khác, thú vị lắm. Linda Lê "gãi" đúng cái ngứa cuả châu Âu, dĩ nhiên phải được "nhận ra" chứ.

    Đọc Trần Vũ, là biết ngay anh viết cho độc giả Việt, tâm hồn cuả anh tác phẩm cuả anh như thể dành trọn cho người Việt, cho Đất Mẹ Việt Nam. Và rất nhiều người trong độc giả cuả anh không "dốt", được chưa?

  2. Sợ mấy quả "đất mẹ" này lắm. Haizz.

Nhà văn dởm kiêm nghề phỏng vấn làm sao mà so được với Linda Lê.
Chưa kịp viết là đã ngỏm rồi!
NQT

Gấu chưa hề thích, bất cứ một cái gì từ Mr. TV [Không phải Mr. Tin Văn]. Anh ta cường điệu quá. Đây là cú viết đầu tiên của anh ta, không cường điệu, và quá bảnh.
Trường hợp TV làm Gấu nhớ đến một xen trong Thạch Kiếm. Tay kiếm sĩ này bị kẻ thù săn đuổi, được một em kỹ nữ chứa chấp. Thấy mặt mày kiếm sĩ căng thẳng quá, em kỹ nữ mới đi một đường truyền dậy bí kíp đánh đàn, và em nói, y chang bí kíp đấu kiếm.
"Căng quá, thì giống thế này này”, và em cầm kiếm đi một đường đứt hết dây đàn.
Đại khái vậy.
Một tay kiếm sư trong phim Scaramouche mà Gấu coi từ hồi nhỏ cũng phán, cầm kiếm như cầm chim. Chặt quá, nó nghẹt thở, chết; lỏng quá, nó bay mất.
Từ trước giờ TV cầm chim chặt quá, chết mẹ mất chim. (1)

Bây giờ mới biết cầm!

NQT

(1) Cái tay cầm lỏng quá, theo Gấu, là me-xừ Đỗ KH.
Còn một tay nữa, cầm chim cũng chặt quá, mặt mày hầm hầm, như sắp O.K. Corral  tới nơi, thấy ớn, là PNH.

Đố bạn biết là ai?


Linda nổi tiếng mấy không cần biết, chỉ không muốn so sánh hai người.
Phải viết được bằng Tiếng Việt, thì mình mới ưng.
Ví dụ Nhị Linh du học Pháp, rất giỏi, nhưng lại không viết phê bình được bằng tiếng Việt, thì đâu còn là Nhị Linh nữa, đúng không? :-)

Note: Đọc, bèn nhớ đến Steiner.
Ông cảnh cáo "Bắc Kít, Phát Xít, Nazít":

For let us keep one fact clearly in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
 (Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)

George Steiner, Phép Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Cái thứ tiếng dạy con nít hận thù, nhét vô...  mắt chúng đủ thứ tội ác bịa đặt của Mỹ Ngụy, đâu phải tiếng Pháp?
NQT
1 Year Ago Today

Prague của Kafka

Kafka ra đời tại một building ở quảng trường Cổ Thành Prague, ngày 3 Tháng Bẩy, 1883. Ông di chuyển vài lần, nhưng không bao giờ ra khỏi thành...

See More
Quoc Tru Nguyen's photo.

Kafka's Prague

KAFKA WAS BORN IN A building on the square of Prague's Old Town on July 3, I883. He moved several times, but never far from the city of his birth. His Hebrew teacher recalled him saying, "Here was my secondary school, over there in that building facing us was the university, and a little further to the left, my office. My whole life-" and he drew a few small circles with his finger "-is confined to this small circle."

The building where Kafka was born was destroyed by a great fire in I889. When it was rebuilt in 1902, only a part of it was preserved. In 1995, a bust of Kafka was set into the building's outer wall. A portent of the Prague Spring, Kafka was finally recognized by the Czech communist authorities, hailed as a "revolutionary critic of capitalist alienation."

In a letter to a friend, he wrote: "There is within everyone a devil which gnaws the nights to destruction, and that is neither good nor bad, rather, it is life: if you did not have it, you could not live. So what you curse in yourself is your life. This devil is the material (and a fundamentally wonderful one) which you have been given and which you must now make use of. . . . On the Charles Bridge in Prague, there is a relief under the statue of a saint, which tells your story. The saint is sloughing a field there and has harnessed a devil to the plough. Of course, the devil is still furious (hence the transitional stage; as long as the devil is not satisfied the victory is not complete), he bares his teeth, looks back at his master with a crooked, nasty expression and convulsively retracts his tail; nevertheless, he is submitted to the yoke. . . ."

Kafka ra đời tại một building ở quảng trường Cổ Thành Prague, ngày 3 Tháng Bẩy, 1883. Ông di chuyển vài lần, nhưng không bao giờ ra khỏi thành phố. Ông thầy dạy tiếng Hebrew còn nhớ là vị học trò của mình có lần nói, “Đây l ngôi trường trung học của tôi, ở chỗ kia kìa, trong cái toà building đối diện chúng ta, là đại học, xa tí nữa, về phía trái, là văn phòng của tôi. Trọn đời tôi” – ông học trò khua vòng vòng ngón tay – “thì đóng khung ở trong cái vòng tròn nho nhỏ này”.

Tòa nhà nơi Kafka ra đời, bị một trận cháy lớn tiêu hủy vào năm 1889. Khi xây cất lại vào năm 1902, chỉ 1 phần được giữ lại. Vào năm 1995, một bức tượng nửa người của ông được dựng lên trong toà nhà, tường phía ngoài. Một điềm triệu của Mùa Xuân Prague, Kafka sau cùng được nhà cầm quyền CS Czech công nhận, như là một “nhà phê bình cách mạng về sự tha hóa của chế độ tư bản”.

Trong 1 lá thư cho bạn, Kafka viết, luần quần trong bất cứ 1 ai, là một con quỉ, nó gậm đêm, đến tang thương, đến hủy hoại, và điều này, đếch VC, và cũng đếch Ngụy, hay đúng hơn, đời Mít là như thế:
Nếu bạn đếch phải như thế, thì bạn đếch phải là Mít!
Bạn không thể sống, đúng hơn.

Còn quỉ này là… hàng – như trong cái ý, Nam Kít nhận họ, Bắc Kít nhận hàng – và bởi thế, hàng này mới thật là tuyệt vời, "ơi Thi ơi Thi ơi", một em Bắc Kít chẳng đã từng nghe, đến vãi lệ, 1 giọng Nam Kít, phát ra từ cặp loa Akai, tặng phẩm-chiến lợi phẩm của cuộc ăn cướp - Bạn ăn cướp và bây giờ bạn phải sử dụng nó, làm cho nó trở thành có ích… Trên cây cầu Charles Bridge ở Prague, có một cái bệ, bên dưới 1 bức tượng thánh, nó kể câu chuyện của bạn. Vị thánh trầm mình xuống một cánh bùn, kéo theo với ông một con quỉ. Lẽ dĩ nhiên, con quỉ đếch hài lòng, và tỏ ra hết sức giận dữ (và đây là ý nghĩa của ẩn dụ, một khi mà con quỉ cuộc chiến Mít chưa hài lòng, dù có dâng hết biển đảo cho nó, thì chiến thắng đỉnh cao vưỡn chưa hoàn tất), nó nhe răng, tính ngoạm lại sư phụ của nó 1 phát!

Trong tập tiểu luận, GCC thích nhất, bài viết “Prague của Kafka”. Tác giả lồng những cuộc thăm viếng thành phố của ông, với Prague của Kafka. Ông trích dẫn một số thư từ của Kafka, và có thể, đó là lý do GCC mê bài viết, thí dụ câu sau đây, nó làm GCC nhớ Xề Gòn:

Prague isn't willing to leave nor will it let us leave. This girl has claws and people must line up or we will have to light a fire at Vysehrad and the Old Town Square before we can possibly depart.
-Excerpt from a letter from Kafka to Oskar Pollak

Xề Gòn đếch muốn bỏ đi, mà cũng đếch muốn GCC bỏ đi.
Ẻn có răng, có móng, có vuốt, sắc lắm!


UNDER EASTERN EYES
Dưới con mắt Đông phương

Có một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi.
Khi dịch câu trên, Gấu nghĩ đến Nguyễn Huy Thiệp, Văn Cao.
Nhất là NHT, và câu chuyện do anh kể, “tớ” đã từng đi vượt biên, nửa đường bỏ về, bị tay dẫn đường “xém” làm thịt!
Nhớ luôn cả cái tay phỏng vấn Gấu, và câu mở đầu cuộc phỏng vấn, “off-record”, lần Gầu trở lại đất Bắc sau hơn nửa thế kỷ xa cách:
Tôi cũng đi vượt biên, mấy lần, mà không thoát.
Nhưng, nhớ, nhất, là, Quê Người của Tô Hoài.

Bài viết này thật là thần sầu.

Một cách nào đó, Gấu bị lừa, vì một “thiên sứ” dởm, bởi vậy, khi Chợ Cá vừa xuất hiện là Anh Cu Gấu bèn cắp rổ theo hầu SCN liền tù tì.
Gấu đọc NHT là cũng theo dòng “chuyện tình không suy tư” như vậy: “chấp nhận” Tướng Về Hưu, "thông cảm" với ông ta, sau khi góp phần xây dựng xong xuôi Ðịa Ngục Ðỏ của xứ Mít, bèn về hưu, sống nhờ đàn heo, đuợc vỗ béo bằng những thai nhi, của cô con dâu Bắc Kít...

Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ của “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác [không phải ‘ba ngôi’ nhe], giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, [trường hợp sống sót nào cũng thuộc loại độc nhất vô nhị, đại khái thế], nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế!

Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại hàm ý rằng, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết!

Chúng tôi đã được Bác H., một Ðại Ma Ðầu, trị vì, chứ không phải thằng Thiệu, đồ Việt gian, đồ Ngụy, đồ bán nước! 


*

Văn Hóa vs Cái Ác Bắc Kít

“Je suis une sorte de survivant, tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như vậy về ông, là cũng từ cái ý thế kỷ bửn mà không có tí cứt trên người, là đếch có được!
Nhờ ông già khôn như…  Bắc Kít, gia đình ông chạy kịp trên chuyến tầu chót rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông già của ông sau đó, chắc cũng đau vì sống sót nhờ khôn quá, khi ông con tính định cư luôn ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì thằng Hít Le quá đúng rồi, quá có lý, còn cái mẹ gì để mà nói nữa, và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại Âu Châu, quanh quẩn bên mớ tro than Lò Thiêu.
Cái cú gia đình Steiner thoát Lò Thiêu vào phút chót, gần như 1 phép lạ, như ông kể với tờ The Paris Review, (1) làm Gấu nhớ đến “phép lạ Mỹ Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót không bật ra cái ý nghĩ, nhường cho hai ông bạn người Phi hai ghế trong, quay lưng vào bờ, nhìn ra sông Sài Gòn về đêm với ánh đèn chói lòa tung tăng trên sóng nước, thì đâu còn anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không được VC thưởng cho hai trái mìn, thì Gấu dính cú Tổng Động Viên, và có thể cũng mất xác rồi cũng nên, hà hà!
Y chang chuyện tái ông thất mã!
Ly kỳ nhất, là cái lần đầu đi trình diện, gặp tay y bác sĩ quân y, ông ta coi cái hình cánh tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì đi, sợ gì, nhưng Tết đến đít rồi, thế là Gấu bèn trả lời, OK, đi, nhưng ông cho tôi ăn Tết với gia đình 1 phát, rồi ra Giêng ngày rộng tháng dài, tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu, và cho Gấu hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những lần sau, mấy ông y sĩ khác bắt chước ông thứ nhất, cho mày 3 tháng!


Viết/Đọc mỗi ngày
Quoc Tru Nguyen shared a memory from February 10, 2015.
1 Year Ago Today

Thơ Mỗi Ngày

Underground Poems
Poems on the Underground The Wider World

... See More
Quoc Tru Nguyen's photo.




Tôi rất thích đọc những tài liệu của báo Văn, và những bài phê bình đăng trước 75 của ông, như bài viết về Nguyễn Xuân Hoàng và Thanh Tâm Tuyền. Những tài liệu đặc sắc này đã giúp tôi kiếm đọc lại những tác phẩm của các nhà văn này. (Hiện tôi đang đọc Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền và hy vọng sẽ có dịp chia sẻ với ông ở vị trí một người đọc tác phẩm khoảng 60 năm sau lần xuất bản đầu tiên).
Một lần nữa, cám ơn ông. Kính chúc ông mạnh khoẻ.

Trân trọng,

Đinh Từ Bích Thuý

Tks. Chúc Mừng Năm Mới

NQT




(cho sinh nhật tôi)

gõ-viết
những con chữ
gieo nốt nhạc ...

See More

Lê Thị Thấm Vân's photo.


Lê Thị Thấm Vân

Với tôi, nó mãi mãi là phần đời khuất lấp.

*

Mua cuốn này, do đọc thoáng câu này, Stein vinh danh Sapho:
She ought to be a very happy woman. Now we are able to recognize a photograph. We are able to get what we want.
-"Marry Nettie," Gertrude Stein Writings 1903-1932
(New York, 1999)

Bức hình Sapho, làm sao có, thôi đành ngắm lưng trần của TV!

Câu này, của Sapho, mà chẳng sướng sao:
Do I sill long for my virginity?

Sự thực, Gấu đang tính viết về một "TV" của Nga, nữ thi sĩ Marina Tsvetaeva, sư phụ của Brodsky.
Bà này mới xứng đáng ở trong hội quần hồng của những cái đầu điên cuồng vì yêu, những người đàn bà viết lại thế giới!

Hồi viết cho Nguyễn Mộng Giác, ông chủ chi địa có gửi cho Gấu mấy cuốn của TV, có lời đề tặng. Để kiếm & giới thiệu luôn thể.

BHD phán, thứ tình yêu đầy đam mê mà anh có đó, em không có.
Cái thứ tình yêu 1/3 là confiance, 1/3 là respect, 1/3 là “je ne sais quoi”, có lẽ, hình như, em yêu anh như vậy.
Ôi chao, nhớ là cô Nga, nữ điện thoại viên, đọc đoạn đó, bèn lắc đầu, nhìn Gấu, thương hại, nói, cô này không thương cậu đâu.
Cô lớn tuổi hơn Gấu, đã có gia đình, còn Gấu là 1 thằng nhóc mới lớn...
Em đi bộ, từ nhà, ở Ngã Sáu Xề Gòn, tới Đài Liên Lạc VTD, số 5 Phan Đình Phùng, đưa cái thư ông cảnh sát chìm, gác Đài - sau cú ăn ăn mìn VC ở Mỹ Cảnh mới có, vì thời gian này Mẽo vẫn lên Đài nói chuyện với vợ con, gia đình, sau chúng kéo xuống USO ở đường Nguyễn Huệ..
Hồi chúng lên Đài nói chuyện viễn liên, có 1 anh Mỹ già, mê cô Phụng, nữ điện thoại viên, Dì Tám của cô Mai, trong “Những Ngày Ở Sài Gòn”. Anh già đi PX, mua quà cho cô Phụng, nào Pall Mall, nào Whiskey, cô cho Gấu tuốt. Khi Gấu và ông Trưởng Đài ăn mìn VC ở nhà hàng Mỹ Cảnh, cô nghĩ ông Thạch, Trưởng Đài chết, khóc quá, mọi người mới biết chuyện.
Có thể vì chuyện này 1 phần, 1 phần còn do kỹ sư Phương, sếp ông Thạch,
và ông Thạch, không chịu nhau, một ông ở Tây về, mù tịt về kỹ thuật, một ông cán sự Bưu Điện, học Phú Thọ, đàn anh của GCC,  mấy cô, do ông Phương đề nghị với ông Điều,Tổng Giám Đốc, cho chuyển về Bưu Điện chính hết, trên Đài chỉ còn mấy cô luống tuổi.
Gấu nhớ cô Phụng quá, và nhân cô than, cái headphone quá tệ, thế là Gấu mang cái headphone xịn ở trên Đài xuống, ngồi kế bên cô, nhìn cô làm việc suốt cả buổi, chấn động cả Bưu Điện.
Có người báo cho bà vợ ông Thạch, nửa đêm, Gấu gác Đài, ông Thạch phôn, nói, mày nói giùm với vợ tao, mày mê cô Phụng, mà xuống gặp cổ
, không phải tao biểu mày xuống!
Lần qua Mẽo, đến thăm hai vợ chồng, bà vợ hỏi Gấu, về Sài Gòn có gặp lại cô Phụng mà cả hai anh em cùng mê không?
Cô Phụng là người khi Thương Xá Eden vừa khai trương, Gấu và cô cùng đi, mua quà Noel cho BHD.
Khi Gấu lấy vợ, BHD đưa hết cho cô em họ, cô Vy, cái cô ở Đà Lạt, trong "Tứ Tấu Khúc", giữ giùm.
Cô Mai, cháu cô Phụng, cằn nhằn Gấu, anh cứ tò tò đi theo Dì Tám của tôi, làm sao Dì lấy chồng?
Cô Phụng này thật là tuyệt, từ từ Gấu viết thêm về cô.

* *

The Odd Women
Lorrie Moore   
April 13, 2000 Issue
Passionate Minds: Women Rewriting the World   
by Claudia Roth Pierpont
Knopf, 298 pp., $26.95
http://www.nybooks.com/articles/2000/04/13/the-odd-women/

Volkov: Ôi chao, thơ Tsvetaeva mới đằm thắm, mới giông bão, mới ướt át làm sao!
Brodsky: Chỉ riêng cái phần ưót át, erotic, không ai ăn nổi bà.
"Tôi học yêu bằng cơn đau xé cơ thể"
[I learn love through the pain all down my body].
*

Wang Wei chắc là Vương Duy. Czeslaw Milosz rất mê ông này. Trong cuốn sách giới thiệu thơ của ông, Cuốn sách của muôn điều thần sầu, A Book of Luminous Things, có mấy bài của Wang Wei

Viết/Đọc mỗi ngày

Saigon ngày nào của GCC

*


*

I Am Becoming
My Mother  

Yellow/brown woman
fingers smelling always of onions

My mother raises rare blooms
and waters them with tea
her birth waters sang like rivers
my mother is now me

My mother had a linen dress
the colour of the sky
and stored lace and damask
tablecloths
to pull shame out of her eye.

I am becoming my mother
brown/yellow woman
fingers smelling always of onions.

Lorna Goodison

Tôi đang trở thành má tôi

Người đàn bà /vàng/nâu
Mấy ngón tay lúc nào cũng có mùi hành

Má tôi trồng bông lạ
Tưới chúng bằng nước trà
Ngày sinh của bà nuớc reo như sông
Má tôi bây giờ là tôi

Má tôi có chiếc áo dài bằng lanh
Màu trời
Bà trữ dây vải, lụa
tạp dề
Để lấy nỗi tủi hổ khỏi mắt

Tôi trở thành má tôi
người đàn bà/vàng/nâu
Ngón tay sặc mùi hành

&

Bà cụ GCC @ Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, lần đưa xác thằng em trai từ Sóc Trăng về mai táng 

Em tôi nằm xuống với một viên đạn ở trong đầu. Mấy người lính kể lại, chuẩn uý không kịp đau đớn. Lời trối trăng nghe như gió thoảng lại: "Chắc tao chết mất..." Trung đội vi hành tuần tra vòng đai phi trường Sóc Trăng. Khi nghe tiếng súng, theo phản xạ, em tôi chúi đầu về phía trước. Chiếc nón sắt quên không buộc rớt xuống và một viên đạn trong tràng AK từ bên sông bắn hú họa xuống mặt sông, dội lên, xớt qua vai rồi hết đà nằm luôn trong ót. Viên bác sĩ quân y nói với tôi, ông đã không lấy viên đạn ra vì sợ làm nát khuôn mặt. "Chuẩn ý Sĩ không kịp ghi địa chỉ cấp báo. Chúng tôi phải nhờ Bưu Điện liên lạc với Sài-gòn. Ngoài mấy bức hình chụp lúc tẩm niệm, chuẩn uý không để lại gì cả. Quần áo, đồ dùng cá nhân, poncho... đều đi theo với chuẩn uý."

Có, có , chuẩn uý Sĩ có để lại một bà mẹ đau khổ như bất cứ một bà mẹ nào có con trai tử trận, một người anh trai để mang xác em về nghĩa trang quân đội Gò Vấp mai táng, một đứa cháu còn nằm trong viện bảo sanh, người chú vô thăm lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, như để tìm dấu vết thân thương, ruột thịt, trước đi vĩnh viễn bỏ đi...

Em tôi còn để lại một thành phố Sài-gòn trong đó có tuổi trẻ của tôi, của em tôi, thấp thoáng đâu đó nơi đầu đường, cuối chợ Vườn Chuối, ngày nào ba mẹ con dắt díu nhau rời con tầu khổng lồ Marine Serpent, miệng còn dư vị hột vịt lộn, người dân Sài-gòn trên những ghe nhỏ bám quanh con tầu, chuyền lên boong, trong những chiếc giỏ lủng lẳng ở đầu những cây sào dài. Hai anh em mồ côi cha vừa mới mất Hà-nội, ngơ ngác nhìn thành phố qua những đống rác khổng lồ nơi đại lộ Hàm Nghi, qua ánh điện chói chang, sáng lòa trên mặt sông, trên những con tầu đậu nối đuôi nhau suốt hai bên bờ vùng Khánh Hội, và đổ dài trên những con lộ thẳng băng. Qua những lần đổi vai đòn gánh của bà mẹ, từ cháo gà, miến gà, tới cháo lòng, bún riêu, bánh cuốn... Qua ánh mắt thất vọng của Người. Bốn anh chị em, bây giờ chỉ còn hai đứa, vậy mà cũng không nuôi nổi. Cuối cùng cả ba mẹ con đành lạc lối giữa những con hẻm chi chít, chằng chịt vùng Bàn Cờ. Tôi đi làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, làm trợ giáo, cố gắng tiếp tục học. Em tôi điếu đóm, hầu hạ một ông cử già, bà con với anh Hoạt, chồng người chị họ. Anh Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, bị bắt chung với Doãn Quốc Sĩ, sau mất ở trong khám Chí Hòa, chính quyền CS bắt phải hủy xác thành tro, trước khi mang ra khỏi nhà tù.

Một Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm khách quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris Match, với mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình một cậu bé mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua đi rồi mà!"

Đó là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có đủ thì giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng kỳ trên nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ, như một an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô Kim nào đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn chết trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của em tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình trà "ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."

Handbag

My mother's old leather handbag,
crowded with letters she carried
all through the war. The smell
of my mother's handbag: mints
and lipstick and Coty powder.
The look of those letters, softened
and worn at the edges, opened,
read, and refolded so often.
Letters from my father. Odour
of leather and powder, which ever
since then has meant womanliness,
and love, and anguish, and war.

Poems on the Underground

Ruth Fainlight

Túi xách tay

Cũ, bằng da, của má tôi
Chất chứa trong đó là
Những lá thư bà mang theo cùng với bà
Suốt cuộc chiến
Mùi bạc hà, mùi dầu cù là, mùi mồ hôi
Những lá thư, góc quăn, mở gấp nhiều lần,
Chữ bạc dần
Thư của ba tôi
Túi da, kể từ đó, nặng mùi nhất,
Là mùi đàn bà, tình yêu, thống khổ và sợ hãi.


Nhà cô bạn lúc này đã dời vô Chợ Lớn. Căn nhà cũ, khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, tuy không bị thiêu rụi trong biến cố Mậu Thân nhưng cũng không còn có thể ở được. Phần hồn của nó đã chết theo cả khu, còn chút nào cô gái đem theo cùng với cô về cuộc đời mới, một buổi tối làm như tình cờ ghé qua, thấy tất cả đều lạ mặt.

Cõi Khác
*

Bức hình, do cô bạn, từ phía trong nhà, chụp, những ngày trước Mậu Thân.
Lần đầu nhìn, NKL [anh bạn học từ thời trung học] gật gù, thằng cha nào mà đẹp trai thế?








Viết/Đọc mỗi ngày
Khiem Do was mentioned in a post.
Follow

Trong những người Việt đang sống tại nước ngoài thì mình ngưỡng mộ mỗi hai người: (i) Đặng Thái Sơn và (ii) chính uỷ Khiem Do. Đặng Thái Sơn thì thôi, khỏi bình luận, mọi người cứ đọc bài dưới đây thì biết là tại sao mình thích (bài này được dư luận viên nước ngoài viết theo chỉ đạo của mình để chào mừng đại hội thành công tuy là không tốt đẹp lắm). Còn về chính uỷ Khiem Do thì mình thích là vì ngài là người duy nhất (cho đến giờ) mà mình thấy bình thản, an nhiên lướt qua đôi hàng Quốc, Cộng. Ngài sống phớt Ăng-lê, thích làm gì thì làm. Ngài cũng đa tài từ viết tiểu thuyết chữ Tây (mình thề là mình mà đọc nổi một trang tiếng Tây của ngài thì chỉ ngày mai bộ chính trị sẽ đến nhà mình giao cho mình cái chứng chỉ về việc là người Bắc, có lý luận và không ham quyền lực), tới chụp ảnh gái (mà công nhận gái của ngài vừa đẹp, vừa sexy lại vừa military!). Nói chung, nhìn và đọc ngài thì thấy ngài An Nam hơn cả dân chính gốc An Nam, Ăng-lê hơn cả dân chính gốc Ăng-lê và tất nhiên là ga-lăng hơn cả dân Ba-lê xứ Gà Trống. Thôi, túm lại là ngài là chính uỷ và không bình luận nữa vì cái sự nhỏ nhen ghen tị (trong người mình) thì có kể hết cả nhiệm kỳ này cũng không hết.

Note:

Nhận xét về DTS, thì không có ý kiến, nhưng về “bạn Khờ của GCC”, nhảm. Nhất là cái thái độ lướt qua đôi hàng Quốc Cộng.
GCC theo dõi cái viết của bạn Khờ, từ những ngày vừa mới ra được hải ngoại. Cái sự thất vọng về anh, thì cũng đã nói ra rồi.
Cũng 1 thứ Bắc Kít cực kỳ thông minh!
An Nam hơn cả chính gốc An Nam, là theo nghĩa này?
Người giấu được cái sự tị hiềm, đối những người lỡ chọn bên, nhất là, lỡ chọn là Ngụy.
Thí dụ, khi Người viết về Phan Nhật Nam.
Người ở Mẽo, nhưng chửi Mẽo y chang Bắc Kít VC, tếu thế!
Ngày Tết, mà lèm bèm như vậy về bạn, thì đúng là "bad" Gấu, như K phán.
Nhưng thà là vậy!
Hà, hà!
30.4.1975 with Đỗ Khờ

Trong quân đội miền Nam, sĩ quan gốc Võ bị Quốc gia Đà Lạt là thành phần ưu tú, không bao giờ để bị nhầm lẫn với lại sĩ quan xuất thân từ trường Bộ binh trừ bị Thủ Đức, Long Thành. Vì vậy mà những bút ký của Phan Nhật Nam (Mùa Hè Đỏ Lửa, Dọc Đường Số 1...) mặc dù tác giả không ý thức hay là chủ ý, không phải là những bút ký về "người lính Việt Nam Cộng hòa" mà là về sĩ quan Võ bị.

DK

Theo GCC, nhận xét này sai.
Gấu đọc PNN, không thấy cái gọi là không ý thức hay chủ ý, mà chỉ thấy anh chọn nghề binh, chọn cả chuyện chống cộng ở trong đó. Chứng cớ, là, khi đi tù cũng không thay đổi, đếch thèm nhận quà thăm nuôi của phía thắng trận, đếch thèm tiếp phần “họ” của mình, ở ngoài Bắc.
Võ Bị Đà Lạt là của đám chọn binh nghiệp, khác hẳn Thủ Đức, là của những người bị động viên, phải vô lính. PNN có những dòng thổi Võ Bị Đà Lạt, tất nhiên, là cái nôi của anh, làm sao không. Nhưng đâu có dòng nào coi khinh đám Thủ Đức.
Nhận xét về văn nghiệp của PNN như thế, thì cũng cho phép GCC nhận xét về văn của DK, cũng y thế, một thứ văn chương Thủ Đức, đếch phải văn chương thứ thiệt của Đà Lạt, như của PNN!
Viết tiếng Việt còn thấy đỡ đỡ, bày đặt viết tiếng Tây, ai đọc?
Thú thực, đọc đám Mít viết tiếng Tây, GCC thấy buồn cười.
Tởm, đúng hơn.
Đó là thứ tiếng Tây viết đúng văn phạm, nhưng đếch phải văn chương.
Văn chương, là thể nào cũng có cái gì đó, có tính u hoài, gọi đại như vầy, về 1 xứ Mít đã mất. Linda Lê có bao giờ nhận bà là người Mít đâu, vậy mà đọc, vẫn cảm thấy cái đó, dù bà phán, tôi viết văn như kẻ giảng đạo ở giữa sa mạc.

NQT 

Phạm Duy Khiêm, xưa chê đám Mít viết văn bằng tiếng Mít, là tụi “ratés”, thất bại.
Có thể, vì tiếng Mít hồi đó còn hoang dại lắm.
Nhưng ratés, bi giờ là để chỉ đám viết văn bằng tiếng Tây, nhất là đám con cháu VC!
Chúng đếch biết viết, bằng thứ tiếng gì nữa, mặt trái/theo kiểu Kafka phán, tớ nói tất cả ngôn ngữ, nhưng bằng tiếng Do Thái
Với Kafka, là hãnh diện, còn đối với đám CCCC/VC này, là nhục nhã, mặt phải/theo kiểu Malaparte chửi Đồng Minh:

Thắng trận nhục nhã lắm!

Bạn DK này, ở Mẽo, nhưng đọc, thấy có vẻ rất ghét Mẽo!
Y chang đám Bắc Kít!

Hà, hà!


Albert Camus, 50 years on
In search of the real Camus
Jan 7th 2010


Ông Hoàng của SPhi Lý

Khi Camus bị tử nạn xe cộ cách đây 50 năm, vào ngày 4 tháng Giêng, ông 46 tuổi, đã được Nobel văn chương và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, Kẻ Xa Lạ, giới thiệu tới độc giả trên toàn thế giới một thứ triết học về sự phi lý. Tuy nhiên, vào thời điểm ông mất, Camus thấy mình là một tên bị xã hội ruồng bỏ, tứ cố vô thân tại Paris, bị nhạo báng bởi Jean-Paul Sartre và những trí thức tả phái khác, họ tố cáo thứ suy tư tự do của ông, là từ chối không chịu hò theo những quan điểm chính trị đang ăn khách. Như cô con gái của ông nói: “Bố tôi thì cu ki, chỉ có mình bố tôi” [“Papa was alone.”]
Lịch sử nhận ra Camus ở về phía của rất nhiều giải pháp đạo đức của thế kỷ 20. Ông gia nhập Kháng chiến Pháp chiến đấu chống Nazi, biên tập nhật báo chui Chiến đấu. Hô hào bãi bỏ án tử hình. Một thời đã từng theo CS, tác phẩm chống chế độ toàn trị Con người phản kháng, xb năm 1951, có trong nó những cảm nhận đáng kể về những cái ác của chủ nghĩa Stalin, và đưa đến cú đoạn tuyệt với Sartre, vào lúc đó vẫn bảo vệ Liên Xô và từ chối kết án hệ thống nhà tù Gulag.
Camus bỏ Algeria về đất liền Pháp quốc, nhưng Algeria không hề bỏ ông. Khi cuộc nổi dậy chống thực dân thuộc địa nổ ra vào những năm 1950, sự từ chối gia nhập vào lời kêu gọi hợp lề luật, bien-pensante, cho một nền độc lập đã bị coi là một hành vi phản quốc bởi đám tả phái người Pháp. Ngay cả khi khủng bố tấn công những người Algiers, Camus vẫn đòi hỏi một cách vô ích một giải pháp liên bang, cùng với một nơi chốn cho người định cư. Khi ông tuyên bố thật lẫy lừng, “Tôi tin tưởng ở công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công lý”, ông bị tố cáo là một kẻ biện hộ cho chủ nghĩa thực dân thuộc địa. Gần 40 năm sau, Mr Lenzini kiếm ra tông tích người cựu sinh viên Algerian đã gây hấn vì lời tuyên bố trên tại một cuộc họp báo, anh ta thú nhận, vào lúc đó, anh ta chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào của Camus, và sau đó, đã bị ‘sốc’ và cảm thấy mình chẳng là gì khi đọc Camus viết về sự nghèo khổ của những người Ả Rập.

The public recognition that Camus achieved in his lifetime never quite compensated for the wounds of rejection and disdain from those he had thought friends. He suffered cruelly at the hands of Sartre, Simone de Beauvoir and their snobbish, jealous literary clique, whose savage public assassination of Camus after the publication of “The Rebel” left deep scars. “You may have been poor once, but you aren't anymore,” Sartre lashed out in print.
“He would remain an outsider in this world of letters, confined to existential purgatory,” writes Mr Lenzini: “He was not part of it. He never would be. And they would never miss the chance to let him know that.” They accepted him, says Mr Tanase, “as long as he yielded to their authority.” What Sartre and his friends could not forgive was the stubborn independent-mindedness which, today, makes Camus appear so morally lucid, humane and resolutely modern.

Điều mà Sartre và bạn bè của ông, không tha thứ cho Camus, là sự bướng bỉnh của 1 tâm hồn độc lập, điều bây giờ, làm cho ông xuất hiện trước mắt chúng ta, thật trong sáng về lương tâm, thật nhân bản, và hiện đại 1 cách thật quyết liệt.

Rất đáng tiếc, Camus chẳng học được mấy từ Weil, nên về sau đã tạo ra một thứ triết học và văn chương quáng gà cộng thong manh dập dờn ánh nắng Địa Trung Hải, được một số trí thức Việt Nam vô cùng hưởng ứng, đặc biệt là Trần Thiện Đạo.
Blog NL

V/v Camus học được gì, từ Weil, để đó,
tính sau, nhưng nhận định TTD & Camus, theo GCC, không đúng.
GCC cũng đã từng lầm về đấng Tẩy mũi tẹt này, khi thấy ông ta dịch Sa Đọa. Ngoài ra là chấm hết. Ông này, có viết được cái gì đâu? Sao lại có cái đặc biệt ở đây?
TPG, cũng thế, may còn cái sáng tác, "Ngồi Lại Bên Cầu" (?)
Phải có cái viết ra cơ.
Sợ NL rồi cũng y chang mấy đấng này, hehe!
NQT

Cái sự kiện Camus ngày càng nổi cộm, liên quan đến sự can đảm của ông, khi một mình chống chọi với tất cả, đúng vào lúc thiên hạ chọn CS, hay tư bản.
Độc nhất Camus, dám chào đón Czeslaw Milosz khi ông bỏ chạy CS Ba Lan, xin tị nạn ở Paris.
Liệu có thể coi, Xứ Mít đang bị con virus dịch hạch, hoành hành, và người ở đó, thiếu cái gọi là can đảm, đúng như Tony Judt tiên đoán.
Camus có cả hai, lòng ẩn nhẫn, với những con bịnh, và sự can đảm, đối với kẻ ác.
Có thể, Camus cũng đếch cần đến văn chương, hay triết học, cũng nên.

à, Camus lại còn cái nữa rất là hehe: tủ sách mà Camus phụ trách cho nhà Gallimard tên là "Espoir" tức là hy vọng, nghe là đủ biết rồi đấy.
Blog NL

"Espoir" ở đây, gốc của nó, là từ Kafka, như khi Camus viết về ông:


Camus nhìn ra, cả hy vọng lẫn phi lý, ở n
ơi
Kafka: Nói đến hy vọng ở đây, không phải tiếu lâm, cà chớn (ridicule). Bởi vì, càng bi thảm tới cỡ nào là nỗi ở đời của những nhân vật của Kafka, hy vọng càng ngược ngạo chừng đó...
Hay nói như Kierkegaard, "Phải đập nát bấy hy vọng trần gian, để làm bật ra hy vọng thứ thiệt, và được cứu rỗi, nhờ nó"
(On doit frapper à mort l’espérance terrestre, c’est alors seulement qu’on se sauve par l’espérance véritable – la Pureté du coeur: Sự Trong trắng, trinh nguyên của trái tim)
.


Camus có 1 bài viết về Kafka, in trong 1 cuốn gồm nhiều phê bình gia, nhà văn viết về ông.
Để GCC kiếm, rồi trình độc giả TV.


e hèm, hôm có buổi toạ đàm về Nhượng Tống, mình không tham gia nhưng sau có nghe giang hồ đồn thổi cả ba diễn giả đều dẫn chiếu đến đây, như thế có được tính không? :p
Blog NL


Đây là cái chết của 1 người viết như NL, theo GCC.
Chết vì đồn thổi.
NQT

Câu phán của Camus về Kafka, sở dĩ nhắc tới “hy vọng”, vì đây là từ “chìa khoá”, khi đọc ông.

Trong bài viết “Một chuyến đi”, GCC đã nhắc tới từ này, và cả 1 bộ tiểu sử khổng lồ, về Kafka, mới được trình làng, 1 phần, là cũng để đả phá cái quan niệm cực kỳ bi quan của Kafka, về “hy vọng”:

Walter Benjamin, trong bài viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà nòi đĩ ở trong truyện Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never seem to be beautiful)... Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ xuất hiện tại những nơi u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều lĩnh dịch chữ "accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần bài viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính cái gọi là vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái" (17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka. "Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những tư tưởng hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka nói. Điều này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời: Thượng Đế chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải đâu,' Kafka nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng Đế, một ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà chúng ta biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng không cho chúng ta, dù chỉ một'.

Tờ Người Kinh Tế, khi điểm cuốn tiểu sử Kafka, mới ra lò, cho thấy, Kafka không đến nỗi bi quan như thế. Cuốn tiểu sử cũng đả phá cách nhìn Kafka, như là 1 nhà tiên tri về chủ nghĩa toàn trị.

 *

Hình trên báo giấy còn thấy được 1 con mắt của Kafka.

Note: Nervous brilliance, tạm dịch, “sáng chói bồn chồn”.
Bỗng nhớ Cô Tư, “sáng chói, đen, và hơi khùng” [thực ra là, “đen, buồn và hơi khùng”]

Nhưng cuốn tiểu sử của Mr Stach cũng cho thấy cái phần nhẹ nhàng, sáng sủa hơn của Kafka. Trong 1 lần holyday, đi chơi với bồ, ông cảm thấy mình bịnh, vì cười nhiều quá. Trong những năm sau cùng của đời mình, ông gặp 1 cô gái ngồi khóc ở 1 công viên, và cô nàng nói với ông, là cô làm mất con búp bế. Thế là mỗi ngày ông viết cho cô bé 1 lá thư, trong ba tuần lễ, lèm bèm về con búp bế bị mất. Với người tình sau cùng, Dora Diamant, rõ là ông tính lấy làm vợ. Cô này còn dụ ông trở lại được với Do Thái giáo.
Những giai thoại trên chọc thủng hình ảnh 1 Kafka khắc khổ, qua tác phẩm của ông. Mr Stach còn vứt vô thùng rác [undermine] những cái nhìn có tính ước lệ [conventional views] về 1 Kakka như 1 nhà tiên tri của những tội ác kinh hoàng ghê rợn [atrocities] sẽ tới (ba chị/em của ông chết trong trại tập trung Nazi, cũng như hai bạn gái của ông). Trong những nhận xét về mục tiêu bài Do Thái, ông mô tả 1 thế giới như ông nhìn thấy nó, đầy nỗi cô đơn và những cá nhân con người bị bách hại, nhưng không phải 1 thế giới không có hy vọng.


A definitive biography of a rare writer

“Kafka: The Years of Insight” is the second volume of Reiner Stach’s masterful biography of the author. The first dealt with the years 1910 to 1915, when Kafka was a young man writing furiously into the night while working 50-hour weeks. The second volume records his burgeoning fame up until his death in an Austrian sanatorium at the age of 40, after years of suffering from tuberculosis. (A third volume, tracing his early years, is in the works.)

In these final years, from 1916 to 1924, Kafka receives letters from quizzical bank managers asking him to explain his stories (“Sir, You have made me unhappy. I bought your ‘Metamorphosis’ as a present for my cousin, but she doesn’t know what to make of the story”). He spends hours nagging away at his prose, only to rip it up, throw it away and start again. He apparently denies being the author of certain stories when asked by other invalids at a retreat. He has four love affairs, mostly through letters, and spends much of his time away from his cramped office at the Workers’ Accident Insurance Institute. These are years of insight, but also of depression and illness.

Despite the gloom, this biography makes for an excellent read. Mr Stach, a German academic, expertly presents Kafka’s struggles with his work and health against the wider background of the first world war, the birth of Czechoslovakia and the hyperinflation of the 1920s. Alert to the limits of biography, Mr Stach bases everything on archival materials and, where possible, Kafka’s own view of events. He is also wryly aware of the academic cottage industry that has sprung up around Kafka’s work, hints of which had already emerged in his lifetime. “You are so pure, new, independent...that one ought to treat you as if you were already dead and immortal,” wrote one fan.

The picture that emerges is of a difficult, brilliant man. In Mr Stach’s view, Kafka was “a neurotic, hypochondriac, fastidious individual who was complex and sensitive in every regard, who always circled around himself and who made a problem out of absolutely everything”. A decision to visit a married woman, soon to be his lover, takes him three weeks and 20 letters. When writing to his first fiancée, he refers to himself in the third person and struggles to evoke intimacy. Kafka makes decisions only to swiftly unmake them. Other people irritate him. “Sometimes it almost seems to me that life itself is what gets on my nerves,” he wrote to a friend.

But Mr Stach’s biography also shows Kafka’s lighter side. On holiday with a mistress, he feels almost sick with laughter. In the last years of his life he meets a crying young girl in a park who explains that she has lost her doll. He then proceeds to write her a letter a day for three weeks from the perspective of the doll, recounting its exploits. With his final mistress, Dora Diamant, Kafka has no doubt that he wants to marry her. She even inspires him to recover his interest in Judaism.

Such anecdotes pierce the austere image left by Kafka’s work. Mr Stach also effectively undermines conventional views of Kafka as a prophet of the atrocities to come (his three sisters died in Nazi concentration camps, as did two of his mistresses). A frequent target of anti-Semitic remarks, Kafka depicted the world as he saw it, full of lonely and persecuted individuals, but not one without hope.


Lướt net, vớ được bài viết của Sontag, về Camus, có câu liên quan tới đấm sĩ.

A writer who acts as public conscience needs extraordinary nerve and fine instincts, like a boxer. (1)
Nhà văn, kẻ hành động như lương tâm công cộng, cần cân não khác thường và linh tính, phản xạ, trực giác...  cực bảnh, giống như một “bốc sĩ”.

Bài này thú, TV rảnh rảnh sẽ lèm bèm tiếp, vì cũng thuộc Sài Gòn ngày nào của GCC: Camus, hiện sinh, tiểu thuyết mới!

The Ideal Husband

Susan Sontag

Notebooks, 1935-42

by Albert Camus, Translated from the French by Philip Thody
Knopf, 225 pp., $5.00
The Writer


The Writer; drawing by David Levine


Saigon ngày nào của GCC

*


*

I Am Becoming
My Mother  

Yellow/brown woman
fingers smelling always of onions

My mother raises rare blooms
and waters them with tea
her birth waters sang like rivers
my mother is now me

My mother had a linen dress
the colour of the sky
and stored lace and damask
tablecloths
to pull shame out of her eye.

I am becoming my mother
brown/yellow woman
fingers smelling always of onions.

Lorna Goodison

Tôi đang trở thành má tôi

Người đàn bà /vàng/nâu
Mấy ngón tay lúc nào cũng có mùi hành

Má tôi trồng bông lạ
Tưới chúng bằng nước trà
Ngày sinh của bà nuớc reo như sông
Má tôi bây giờ là tôi

Má tôi có chiếc áo dài bằng lanh
Màu trời
Bà trữ dây vải, lụa
tạp dề
Để lấy nỗi tủi hổ khỏi mắt

Tôi trở thành má tôi
người đàn bà/vàng/nâu
Ngón tay sặc mùi hành

&

Bà cụ GCC @ Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, lần đưa xác thằng em trai từ Sóc Trăng về mai táng 

Em tôi nằm xuống với một viên đạn ở trong đầu. Mấy người lính kể lại, chuẩn uý không kịp đau đớn. Lời trối trăng nghe như gió thoảng lại: "Chắc tao chết mất..." Trung đội vi hành tuần tra vòng đai phi trường Sóc Trăng. Khi nghe tiếng súng, theo phản xạ, em tôi chúi đầu về phía trước. Chiếc nón sắt quên không buộc rớt xuống và một viên đạn trong tràng AK từ bên sông bắn hú họa xuống mặt sông, dội lên, xớt qua vai rồi hết đà nằm luôn trong ót. Viên bác sĩ quân y nói với tôi, ông đã không lấy viên đạn ra vì sợ làm nát khuôn mặt. "Chuẩn ý Sĩ không kịp ghi địa chỉ cấp báo. Chúng tôi phải nhờ Bưu Điện liên lạc với Sài-gòn. Ngoài mấy bức hình chụp lúc tẩm niệm, chuẩn uý không để lại gì cả. Quần áo, đồ dùng cá nhân, poncho... đều đi theo với chuẩn uý."

Có, có , chuẩn uý Sĩ có để lại một bà mẹ đau khổ như bất cứ một bà mẹ nào có con trai tử trận, một người anh trai để mang xác em về nghĩa trang quân đội Gò Vấp mai táng, một đứa cháu còn nằm trong viện bảo sanh, người chú vô thăm lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, như để tìm dấu vết thân thương, ruột thịt, trước đi vĩnh viễn bỏ đi...

Em tôi còn để lại một thành phố Sài-gòn trong đó có tuổi trẻ của tôi, của em tôi, thấp thoáng đâu đó nơi đầu đường, cuối chợ Vườn Chuối, ngày nào ba mẹ con dắt díu nhau rời con tầu khổng lồ Marine Serpent, miệng còn dư vị hột vịt lộn, người dân Sài-gòn trên những ghe nhỏ bám quanh con tầu, chuyền lên boong, trong những chiếc giỏ lủng lẳng ở đầu những cây sào dài. Hai anh em mồ côi cha vừa mới mất Hà-nội, ngơ ngác nhìn thành phố qua những đống rác khổng lồ nơi đại lộ Hàm Nghi, qua ánh điện chói chang, sáng lòa trên mặt sông, trên những con tầu đậu nối đuôi nhau suốt hai bên bờ vùng Khánh Hội, và đổ dài trên những con lộ thẳng băng. Qua những lần đổi vai đòn gánh của bà mẹ, từ cháo gà, miến gà, tới cháo lòng, bún riêu, bánh cuốn... Qua ánh mắt thất vọng của Người. Bốn anh chị em, bây giờ chỉ còn hai đứa, vậy mà cũng không nuôi nổi. Cuối cùng cả ba mẹ con đành lạc lối giữa những con hẻm chi chít, chằng chịt vùng Bàn Cờ. Tôi đi làm bồi bàn cho tiệm chả cá Thăng Long, làm trợ giáo, cố gắng tiếp tục học. Em tôi điếu đóm, hầu hạ một ông cử già, bà con với anh Hoạt, chồng người chị họ. Anh Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân, bị bắt chung với Doãn Quốc Sĩ, sau mất ở trong khám Chí Hòa, chính quyền CS bắt phải hủy xác thành tro, trước khi mang ra khỏi nhà tù.

Một Sài-gòn trong có quán cà phê Thái Chi ở đầu đường Nguyễn Phi Khanh, góc Đa Kao. Bà chủ quán khó tính, chỉ bằng lòng với một dúm khách quen ngồi dai dẳng như muốn dính vào tuờng, với dăm ba tờ báo Paris Match, với mớ bàn ghế lùn tịt. Trên tường treo một chiếc dĩa tráng men, in hình một cậu bé mếu máo, tay ôm cặp, với hàng chữ Pháp ở bên dưới: "Đi học hả? Hôm qua đi rồi mà!"

Đó là nơi em tôi thường ngồi lỳ, trong khi chờ đợi Tình Yêu và Cái Chết. Cuối cùng Thần Chết lẹ tay hơn, không để cho nạn nhân có đủ thì giờ đọc nốt mấy trang Lục Mạch Thần Kiếm, tiểu thuyết chưởng đăng hàng kỳ trên nhật báo Sài-gòn, để biết kết cục bi thảm của mối tình Kiều Phong-A Tỷ, như một an ủi mang theo, thay cho những mối tình tưởng tượng với một cô Mai, cô Kim nào đó, như một nhắn nhủ với bạn bè còn sống: "Đừng yêu sớm quá, nếu nuốn chết trẻ." Chỉ có bà chủ quán là không quên cậu khách quen. Ngày giỗ đầu của em tôi, bà cho người gửi tới, vàng hương, những lời chia buồn, và bộ bình trà "ngày xưa cậu Sĩ vẫn thường dùng."

Handbag

My mother's old leather handbag,
crowded with letters she carried
all through the war. The smell
of my mother's handbag: mints
and lipstick and Coty powder.
The look of those letters, softened
and worn at the edges, opened,
read, and refolded so often.
Letters from my father. Odour
of leather and powder, which ever
since then has meant womanliness,
and love, and anguish, and war.

Poems on the Underground

Ruth Fainlight

Túi xách tay

Cũ, bằng da, của má tôi
Chất chứa trong đó là
Những lá thư bà mang theo cùng với bà
Suốt cuộc chiến
Mùi bạc hà, mùi dầu cù là, mùi mồ hôi
Những lá thư, góc quăn, mở gấp nhiều lần,
Chữ bạc dần
Thư của ba tôi
Túi da, kể từ đó, nặng mùi nhất,
Là mùi đàn bà, tình yêu, thống khổ và sợ hãi.


Nhà cô bạn lúc này đã dời vô Chợ Lớn. Căn nhà cũ, khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, tuy không bị thiêu rụi trong biến cố Mậu Thân nhưng cũng không còn có thể ở được. Phần hồn của nó đã chết theo cả khu, còn chút nào cô gái đem theo cùng với cô về cuộc đời mới, một buổi tối làm như tình cờ ghé qua, thấy tất cả đều lạ mặt.

Cõi Khác
*

Bức hình, do cô bạn, từ phía trong nhà, chụp, những ngày trước Mậu Thân.
Lần đầu nhìn, NKL [anh bạn học từ thời trung học] gật gù, thằng cha nào mà đẹp trai thế?





*

Số báo Avril 2016

*

*
Chính sách ngoại giao của tên khùng Nixon
Chưa điên khùng bằng lũ Bắc Kít.
Chúng phịa ra cả 1 cuộc chiến, và hậu quả của nó, là địa ngục Mít hiện giờ, khi dựng lên cú Diệm đầu độc tù VC ở Phú Lợi, và sau đó thành lập MTGP Miền Nam, ra ý đây là chuyện nội bộ giữa nhân dân Miền Nam và chính quyền Sài Gòn. Đám VC nằm vùng, thí dụ tên Tiêu Dao Bảo Dạ vẫn rêu rao, bị chính quyền Sài Gòn bắt lính, là theo nghĩa này.
Nguyên do & động cơ cuộc chiến Mít, vào những ngày này, rõ như ban ngày.
Một bên là Cái Ác Bắc Kít, với “bộ mặt người” của nó, là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; một bên là thiện ý của Mẽo.
Bằng thiên tài sáng tạo, chỉ thoáng nghe 1 tên Xịa, nhân say rượu, xì ra, cái thiện ý của Mẽo, đi tìm 1 lực lượng thứ ba cho xứ Mít, Graham Greene bèn đi 1 đường giả tưởng, thực hơn cả muôn đời sự thực, sự thực vĩnh hằng, thì cứ nói đại như vậy, về cái giống người có tên là Mít - là cuốn “Người Mỹ Trầm Lặng”, mà cái side-effect - phản ứng phụ, sự thực bên lề, thêm ra - số phận những người đàn bà Mít, tên Phượng, trở thành món hàng xuất khẩu lý tưởng, kíu nguy cho xứ Mít.
Không chỉ xứ Mít, không chỉ thế kỷ 20, cuốn tiểu thuyết còn tiên đoán, những cuộc chiến khác, do Mẽo gây nên, cũng với thiện ý Mẽo, ở Iraq, Syria, và có thể, “lại” ở xứ Mít, như có thể sẽ xẩy ra, là cuộc đối đầu giữa Tẫu và Mẽo...
Một thiện ý làm chết không biết bao nhiêu con người, và còn tiếp tục nhân lên mãi, “Rợp bóng Greene”, như 1 bài viết về tác giả cuốn “Người Mỹ Trầm Lặng”.


AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali


The Disquieting Resonance of 'The Quiet American'

by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET

An American comes into a foreign place full of ideas of democracy and how he will teach an ancient culture a better — in fact, an American — way of doing things. An Englishman awaits him there, protecting himself against such foolishness by claiming to care about nothing at all. And between them shimmers a young local woman who seems ready to listen to either suitor, and certain to get the better of both.
The Quiet American, by Graham Greene, was written in 1955 and set in Vietnam, then the site of a rising local insurgency against French colonial rule. In its brilliant braiding together of a political and a romantic tangle, its characters serve as emblems of the American, European and Asian way, and yet ache and tremble as ordinary human beings do. It also is a typically Greenian prophecy of what would happen 10 years later when U.S. troops would arrive, determined to teach a rich and complex place the latest theories of Harvard Square. Lyrical, enchanted descriptions of rice paddies, languorous opium dens and even slightly sinister Buddhist political groups are a lantered backdrop to a tale of irony and betrayal.
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American, like many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on, a private bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon, as I have done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every other hotel. And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline of the same story.

Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại, đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái gì hết.
Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai 
Người Mẽo trầm lặng của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
But that's not why I keep reading and rereading The Quiet American, like many of Greene's books, and have it always with me in my carry-on, a private bible. Certainly it's true that if you walk through modern Saigon, as I have done, you can see Greene's romantic triangle playing out in every other hotel. And if you think about Iraq, Afghanistan, elsewhere, you see the outline of the same story.
Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ ràng là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác.
Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.


Cuốn này, thấy lâu rồi, nhưng không dám đụng vô. Bìa cứng, xót tiền quá, và đọc, thì cũng cực quá.
Nhân Tết Mít, bèn bệ về, vì, cũng có ý, đi 1 đường tưởng niệm ông anh nhà thơ, bằng cái bài của bà nữ phê bình mũi lõ này, về Langston Hughes. 

Lần đầu GCC nghe cái tên ông nhà thơ da đen này, là qua thơ TTT.
Nghê thuật đen.
Đen, với ông anh là da đen, là Jazz...
Nhưng với GCC, là…  cơm đen!

Như cái note dưới đây

Suicide's Note:

The calm,
Cool face of the river
Asked me for a kiss


*


The Ocean, the Bird, and the Scholar: Essays on Poets and Poetry
by Helen Vendler

Charles Simic đọc nữ phê bình gia số 1, một thứ Thụy Khê của Mẽo. Bà Thụy Khê Yankee mũi lõ này bảnh lắm, đúng là 1 chuyên gia về thơ.
Tin Văn sẽ đi bài này, thì cũng 1 cách giới thiệu cho những nhà phê bình Mít, phê bình là gì, và phê bình thơ ghê gớm cỡ nào.
Tuy nhiên, cái tít hình như chôm của NXH, phê bình gia không thể so sánh vs phê bình gia không phải thời nào cũng có được.

Helen Vendler khám phá ra tài phê bình thơ của bà năm 23 tuổi, khi đọc thơ Wallace Stevens. Trước đó bà cũng đã đọc thơ, và nhớ khá nhiều bài, nhưng đọc Stevens, là, như thi sĩ Mít hải ngoại Nguyễn Đức Tùng, hòa tan vô liền - chôm từ của Thanh Thảo, hay dùng từ của chính bà:  tôi cảm thấy cái tinh anh khoả thân của chính tôi nói với tôi từ trang giấy, “as if my own naked spirit spoke to me from the page”!
Bài viết này tuyệt lắm. Mít ta chưa có tay nào phê bình thơ bảnh như bà này.
Có Đặng Tiến, nhưng với riêng Gấu, Đặng Tiến phê bình thơ có cái bẩm sinh, nghĩa là ít…  đọc, còn bà này, đọc kinh người, khác hẳn.

Curriculum Vitae
http://scholar.harvard.edu/vendler/home

Helen Vendler is the A. Kingsley Porter University Professor at Harvard, where she received her Ph.D. in English and American literature, after completing an undergraduate degree in chemistry at Emmanuel College. She has written books on Yeats, Herbert, Keats, Stevens, Shakespeare, Seamus Heaney, and Emily Dickinson. Her most recent books are The Ocean, the Bird, and the Scholar; Dickinson: Selected Poems and Commentaries; Last Looks, Last Books: Stevens, Plath, Lowell, Bishop, Merrill; and Our Secret Discipline: Yeats and Lyric Form. She is a frequent reviewer of poetry in such journals as The New York Review of Books, The New York Times Book Review, and The New Republic. Her avocational interests include music, painting, and medicine.

Helen Vendler Lecture

The Ocean, the Bird, and the Scholar

Poetry is the scholar's art."

Wallace Stevens, Opus Posthumous




Since Basho went
not a single year
has lived up to its promise

Kể từ Basho đi xa,
Không có năm nào vươn tới chỉ,
Như nó hứa hẹn với ông!

1990-2010, haiku
translated with Takaka Lento

W.S. Merwin

This year is almost gone
yet the express money carrier crosses
the Seta bridge going the long way around

On the night we watch the old year out
age is treated
with reverence

Given Title: One Shoe

To my benefactor Sekiko
I manage to pay half my debt
at the end of the year

We stand watch to see the year out-
a dried salmon for a sword
a dried cod for a stick

POSTSCRIPT

Our Master Buson often said, "A collection of my haiku won't be needed; quite often the publication of a celebrated poet's work reduces his fame and reputation. Wouldn't it be worse for someone who is just among the ordinary?" However, one of his disciples, a publisher, wanted to print a collection of his haiku. Our Master of course refused to allow him to do so. After our Master passed away, a few of his disciples gathered those of his haiku they had recorded, and selected and organized them into two volumes to commemorate the Master's first and third memorials. Their desire was earnest. Yet, to publish this collection of his haiku does not respect our Master's wishes. May he not be judged by this collection. So I, Denpuku, do note.

Winter, the twelfth month of the fourth year of Tenmei Era (1784)

Sư phụ Buson thường lèm bèm, một tuyển tập Hai Cu của ta, thì chẳng cần, bởi là
vì cái sự in thơ, của ông số 1 thì cũng chỉ làm lấm lem cái danh tiếng của ông ta mà thôi,
nói gì ba thứ làm xàm bá láp, tạp ghi tạp ghiếc, bên kia bên ni con chữ!

Hà, hà!

To DPP & Friends there, instead of a Happy New Year

NQT

*

Thuần Hương, Việt Nam, 2010

NGUYỄN LƯƠNG VỴ

HỐT NHIÊN

Gửi Nguyễn Đình Thuần

Màu gọi màu như anh gọi em
Tường hoang rịn nắng nhớ lưng mềm
Một đêm hư vắng chìm sương khói
Gió thoảng hiên ngoài hư vắng thêm 

Màu gọi màu giây phút gọi nhau
Dẫu tàn phai chất ngất thương đau
Vẫn em xanh thẳm trong tà nguyệt
Đâu biết xa vời rợn bể dâu

Màu gọi màu nhan sắc gọi tên
Nhói trong tinh thể tím vang rền
Lóng xương vũ trụ  rung đường nét
Đỏ hết càn khôn trong một đêm

Màu gọi màu ảo hóa gọi ma
Vàng thu xưa ứa nguyệt quê nhà
Ứa thêm nhan sắc ngàn sông mộ
Nhấp nháy môi đèn ánh lửa xa…

10/2006

Nhìn hình, thì lại nhớ, cũng cảnh này, Phan Tấn Hải ký vội mấy cuốn sách tặng Sad Seagull và Gấu, ở 1 quán cà phê Starbucks, rồi vội vàng từ giã "cặp tình nhân" - một, cũng gần nửa đời người, một, ngày một ngày hai, lên chuyến tàu suốt – đi làm.

Em phán, cấm chụp hình, khi Gấu đề nghị, và còn chỉ cái đầu của Em, những hình ảnh nếu có đẹp thì ở trong này, làm sao "Bác" chụp được?
Bà vợ NDT dặn, nhớ chụp hình nhe, để coi Em của anh Trụ xinh đẹp cỡ nào!
Gấu đã sợ, không làm sao nhớ nổi khuôn mặt của Em, và đúng như thế.
Giả như số mệnh cho gặp lại, thì cũng thua!

Ui chao lại nhớ bài thơ của Borges, trên, hình ảnh của Em, với Gấu, thì đúng là như vậy.

.... my own destiny, formed from anxieties, love and futile upsets
and that of that metal disk
carried away by the water to the quiet depths

Phan Tấn Hải rất quí Gấu. 

Câu phán của anh về Gấu mới thật là tuyệt, viết ngàn ngàn trang sách, chưa 1 lần sơ thất!

NTV giải thích, đây là do hai cái huyệt "nhâm đốc" - cái con khỉ gì đó, Gấu đâu biết - đã được thông, thành ra viết cái gì cũng không sợ THNM!

Ui chao, lại tự sướng!

Bức hình, là của chuyến đi trước, chụp ở bên ngoài tiệm phở Nguyễn Huệ.
Lần này, Gấu gặp Em của Gấu, cũng ở đây.
Buổi tối hôm vừa tới, trong khi nhậu tại nhà NDT, mở mail, thấy của PTH, Gấu bèn phôn, hẹn sáng mai gặp ở phở Nguyễn Huệ.
Gặp, anh đưa cái phong bì, trong có tiền, của Em gửi cho Gấu.
Hỏi Em đâu, thiền sư trả lời, “cô ấy” chắc là ra liền bây giờ thôi.
Nghe 1 phát, là đã tính run, như ngày nào còn con nít!

Tiễn DC

ki niem, dinh cuong,
tai studio, santa ana, 2012.

Thuan Nguyen's photo.
LikeComment

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

*

HÌNH NHƯ
.

anh vẫn còn ngây dại lắm
xanh xao mắt ngó đời xuôi...

See More

Viết/Đọc mỗi ngày

Rất đáng tiếc, Camus chẳng học được mấy từ Weil, nên về sau đã tạo ra một thứ triết học và văn chương quáng gà cộng thong manh dập dờn ánh nắng Địa Trung Hải, được một số trí thức Việt Nam vô cùng hưởng ứng, đặc biệt là Trần Thiện Đạo.

Blog NL

V/v Camus học được gì, từ Weil, để đó,
tính sau, nhưng nhận định TTD & Camus, theo GCC, không đúng.
GCC cũng đã từng lầm về đấng Tẩy mũi tẹt này, khi thấy ông ta dịch Sa Đọa.
Cái sự kiện Camus ngày càng nổi cộm, liên quan đến sự can đảm của ông, khi một mình chống chọi với tất cả, đúng vào lúc thiên hạ chọn CS, hay tư bản.
Độc nhất 1 mình Camus, dám chào đón Czeslaw Milosz khi ông bỏ chạy CS Ba Lan, xin tị nạn ở Paris.

The plague bacillus never dies or vanishes entirely...

Liệu có thể coi, Xứ Mít đang bị con virus dịch hạch, hoành hành, và người ở đó, thiếu cái gọi là can đảm, đúng như Tony Judt, dưới đây, tiên đoán.

Camus có cả hai, lòng ẩn nhẫn, với những con bịnh, và sự can đảm, đối với kẻ ác.
Có thể, Camus cũng đếch cần đến văn chương, hay triết học, cũng nên.

The plague bacillus never dies or vanishes entirely, ... it can remain dormant for dozens of years in furniture or clothing, ... it waits patiently in bedrooms, cellars, trunks, handkerchiefs and old papers, and ... perhaps the day will come when for the instruction or misfortune of mankind, the plague will rouse its rats and send them to die in some well-contented city.


*

Camus by David Levine 

Thus The Plague teaches no lessons. Camus was a moraliste but he was no moralizer. He claimed to have taken great care to try to avoid writing a "tract," and to the extent that his novel offers little comfort to political polemicists of any school he can be said to have succeeded. But for that very reason it has not merely outlived its origins as an allegory of occupied France but has transcended its era. Looking back on the grim record of the twentieth century we can see more clearly now that Albert Camus had identified the central moral dilemmas of the age. Like Hannah Arendt, he saw that "the problem of evil will be the fundamental question of postwar intellectual life in Europe-as death became the fundamental problem after the last war.”
Fifty years after its first appearance, in an age of post-totalitarian satisfaction with our condition and prospects, when intellectuals pronounce the End of History and politicians proffer globalization as a universal palliative, the closing sentence of Camus's great novel rings truer than ever, a fire-bell in the night of complacency and forgetting:

The plague bacillus never dies or vanishes entirely, ... it can remain dormant for dozens of years in furniture or clothing, ... it waits patiently in bedrooms, cellars, trunks, handkerchiefs and old papers, and ... perhaps the day will come when for the instruction or misfortune of mankind, the plague will rouse its rats and send them to die in some well-contented city.

Tony Judt: Lessons of Camus’s “Plague”

NYRB Nov 29, 2001

Prince of the absurd

Ông Hoàng của SPhi Lý

Khi Camus bị tử nạn xe cộ cách đây 50 năm, vào ngày 4 tháng Giêng, ông 46 tuổi, đã được Nobel văn chương và cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông, Kẻ Xa Lạ, giới thiệu tới độc giả trên toàn thế giới một thứ triết học về sự phi lý. Tuy nhiên, vào thời điểm ông mất, Camus thấy mình là một tên bị xã hội ruồng bỏ, tứ cố vô thân tại Paris, bị nhạo báng bởi Jean-Paul Sartre và những trí thức tả phái khác, họ tố cáo thứ suy tư tự do của ông, là từ chối không chịu hò theo những quan điểm chính trị đang ăn khách. Như cô con gái của ông nói: “Bố tôi thì cu ki, chỉ có mình bố tôi” [“Papa was alone.”]
Lịch sử nhận ra Camus ở về phía của rất nhiều giải pháp đạo đức của thế kỷ 20. Ông gia nhập Kháng chiến Pháp chiến đấu chống Nazi, biên tập nhật báo chui Chiến đấu. Hô hào bãi bỏ án tử hình. Một thời đã từng theo CS, tác phẩm chống chế độ toàn trị Con người phản kháng, xb năm 1951, có trong nó những cảm nhận đáng kể về những cái ác của chủ nghĩa Stalin, và đưa đến cú đoạn tuyệt với Sartre, vào lúc đó vẫn bảo vệ Liên Xô và từ chối kết án hệ thống nhà tù Gulag.
Camus bỏ Algeria về đất liền Pháp quốc, nhưng Algeria không hề bỏ ông. Khi cuộc nổi dậy chống thực dân thuộc địa nổ ra vào những năm 1950, sự từ chối gia nhập vào lời kêu gọi hợp lề luật, bien-pensante, cho một nền độc lập đã bị coi là một hành vi phản quốc bởi đám tả phái người Pháp. Ngay cả khi khủng bố tấn công những người Algiers, Camus vẫn đòi hỏi một cách vô ích một giải pháp liên bang, cùng với một nơi chốn cho người định cư. Khi ông tuyên bố thật lẫy lừng, “Tôi tin tưởng ở công lý, nhưng tôi sẽ bảo vệ mẹ tôi trước công lý”, ông bị tố cáo là một kẻ biện hộ cho chủ nghĩa thực dân thuộc địa. Gần 40 năm sau, Mr Lenzini kiếm ra tông tích người cựu sinh viên Algerian đã gây hấn vì lời tuyên bố trên tại một cuộc họp báo, anh ta thú nhận, vào lúc đó, anh ta chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào của Camus, và sau đó, đã bị ‘sốc’ và cảm thấy mình chẳng là gì khi đọc Camus viết về sự nghèo khổ của những người Ả Rập.
*

*

Nadine Gordimer chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:

Non-fiction - Camus at "Combat": Writing  1944-1947 by Albert Camus, edited by Jacqueline Levi-Valensi (Princeton): editorials and other texts, letters, published at high personal risk by Camus in what began as an underground newspaper during the German of Occupation of France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of passionate conviction and objectivity in intellecctual force that distinguishes Camus's creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider. As editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the Occupation and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that destroy themselves owing to the heavy price they eventually exact when they seek to become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria what held good for other colonial empires as well: "The failure to peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II ... a serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.

… Loại không giả tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho người viết, trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng viết, chứa trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách quan, trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng tạo của Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch Kẻ Xa Lạ.  Vừa là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước Pháp bị] Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông chẳng còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên chúng ta, nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ chúng, và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần trong thực tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là tốt, không chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực dân thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa thực dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại nghiêm trọng, nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước Pháp”.
Nguồn

Camus, Albert

Tôi theo dõi chuyện xẩy ra cho ông ở Paris, sau khi ông cho xb cuốn Con Người Nổi Loạn [L’homme Révolté] hay Kẻ Nổi Loạn [The Rebel]. Ông viết như một con người tự do, nhưng sự thực hóa ra là, đếch được phép, bởi vì vào lúc đó con người tự do là con người chống Mẽo, phò Xô Viết,  nói theo kiểu nhà nước ta, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa, thì cũng rứa.
Cái chiến dịch xấu xa, bỉ ổi nhắm vào ông, do Sartre chủ xướng trên tờ Thời Mới, cùng với sự tiếp tay của Francis Jeanson, và sau đó, có thêm Simone de Beauvoir, xẩy ra đúng vào lúc tôi đoạn tình với Warsaw vào năm 1951. Đó là khi Sartre dậy dỗ Camus: “Nếu bạn không thích cả hai món, cộng sản lẫn tư bản, thì chỉ còn có một chỗ cho bạn an trí, đó là quần đảo Galapagos Islands”.

Camus ban cho tôi món quà hậu hĩ, là tình bạn của ông, và thật là quan trọng, khi có một đồng minh như thế trong nhà xb Gallimard, nơi ông làm việc. Ông khoái bản tiếng Tây, do Jeanne Hersch dịch, tác phẩm Thung Lũng Issa của tôi. Cuốn tiểu thuyết của tôi làm cho ông nhớ tới những gì Tolstoi viết, về thời thơ ấu của ông ta, ông nói với tôi như vậy.
Liên hệ giữa tôi và nhà xb Gallimard không khá. Như là một hậu quả của Giải thưởng Văn học Âu châu, họ in
Cướp Chính Quyền [The Seizure of Power], và liền theo đó, Cái Đầu Bị Cùm, hay Cầm Tưởng, The Captive Mind, nhưng cuốn sau, đố bạn thấy nó được bầy ở tiệm sách, và chẳng có lý do gì để mà nghi ngờ mấy ông chủ tiệm tẩy chay, vì những lý do chính trị. Họ in cuốn Thung Lũng Issa là do Camus yêu cầu, nhưng theo như ban hạch toán của nhà xb này, cuốn sách đã chẳng được đem ra khỏi kho  - cùng lúc đó, có người đem cho tôi, bản in lần thứ tư, của nó, tại Phi Châu.
Sau khi Camus mất, tôi chẳng còn ai nói giùm mình một tiếng ở đó nữa, và do tờ hợp đồng vẫn còn giá trị, tôi đề nghị cuốn Cõi Quê [Native Realm], qua bản dịch của Sédir, nhưng vào lúc đó, Dinoys Mascolo, một tay Cộng Sản phụ trách ban ngoại văn [foreign division] đã thỉnh ý kiến của Jerzy Liowski [đảng viên Đảng Cộng Sản Ba Lan, lúc đó ở Paris] về giá trị cuốn sách, với chủ ý làm thịt nó, y hệt như thế kỷ 19 toà đại sứ của Nga Hoàng được hỏi ý kiến về thái độ chính trị của những di dân Nga. Tay này viết một bài điểm, khen ngợi cuốn sách. Họ bèn in. Nhưng sau đó, là rã đám.

Tôi nhớ một lần trò chuyện với Camus. Ông hỏi, theo quan niệm của bạn, một tên vô thần như tớ [Camus] có nên cho con đi làm lễ thông công. Cuộc trò chuyện xẩy ra, chỉ ít lâu sau khi tôi ghé thăm Karl Jasper [một triết gia], ở Basel, và tôi hỏi ông, về chuyện [một thằng cựu CS như tôi - Hai Luá thêm vô], có nên dậy dỗ con cái như những tín đồ Ca Tô. Jasper trả lời, là một người theo Protestant, ông ta không khoái lắm cái đạo Ca Tô, nhưng trẻ con, theo ông, là phải được dậy dỗ theo đúng như niềm tin của chính chúng nó, và nếu như vậy, cứ để chúng tiếp cận truyền thống thánh kinh, và sau đó, chúng sẽ tự chọn cho chúng một tín ngưỡng.
Thế là tôi bèn trả lời Camus, đại khái như trên.

Milosz

1966-1975: Another Vietnam
http://www.anothervietnam.com/
Khiem Do liked this.

"Bên thắng cuộc" / "The winning side" đã trở thành một lexicon trong tiếng Anh...



Nhà cô bạn lúc này đã dời vô Chợ Lớn. Căn nhà cũ, khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, tuy không bị thiêu rụi trong biến cố Mậu Thân nhưng cũng không còn có thể ở được. Phần hồn của nó đã chết theo cả khu, còn chút nào cô gái đem theo cùng với cô về cuộc đời mới, một buổi tối làm như tình cờ ghé qua, thấy tất cả đều lạ mặt.

Cõi Khác
*

Bức hình, do cô bạn, từ phía trong nhà, chụp, những ngày trước Mậu Thân.
Lần đầu nhìn, NKL [anh bạn học từ thời trung học] gật gù, thằng cha nào mà đẹp trai thế?


















Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây






Un berger le long du Fleuve Jaune près de la ville industrielle de Shizuishan, en avril 2006. © Lu Guang/Contact Press Images
Le 03 février 2016 | Mise à jour le 04 février 2016

C’est la deuxième puissance économique du monde mais le premier pollueur de la planète. Aujourd’hui, le smog de Pékin est autant associé à la capitale chinoise que la Cité interdite et les problèmes écologiques dont la pollution sont devenus les premiers motifs de soulèvements populaires. Face au désastre, le pouvoir se donne les moyens d’agir. La Chine vient de signer avec les États-Unis un accord sur le climat et veut désormais être aussi efficace en matière environnementale qu’elle l’a été sur le plan économique.
Số 2 trên thế giới, về kinh tế, nhưng số 1, trên hành tinh, về ô nhiễm.



  Editor’s Picks   February 4th 2016  
 
The Economist
 
This week we use the cover to set out our plan for Europe’s refugee crisis. If the European Union fails to control the wave of migrants overrunning its borders, frontiers will close and right-wing nationalism will flourish. The EU needs to act all along the migrant trail, from Syria and Turkey to Greece and Germany

Zanny Minton Beddoes, Editor-in-Chief
 
 

BÁO NGƯỜI VIỆT/ NAM CALIFORNIA

Đặng Phú Phong với 'Bên Kia Con Chữ và Nghệ Thuật'
Wednesday, February 3, 2016 5:59:23 PM

...Continue Reading
Phong Dang's photo.



Lê Công Định liked this.
Follow

Từ Hà Nội, luật sư Lê Thị Công Nhân cho biết, chiều nay khoảng 16:00 chồng chị là anh Ngô Duy Quyền (1974) - một người đấu tranh dân chủ và là thành viên của hội Bầu Bí Tương Thân, đã bị bắt giữ khi đang trên đường đi bán gà. Lúc 18:00, cơ quan An ninh đã tiến hành lục soát nhà hai vợ chồng Lê Thị Công Nhân tịch thu máy tính, đồ đạc mà không có lệnh khám xét. Chị Công Nhân được thông báo, anh Quyền bị tạm giữ điều tra theo điều 258 Bộ luật Hình sự.

Luật sư Lê Thị Công Nhân bị...

See More

Lê Nguyễn Hương Trà's photo.

Note: Đây là cú ra quân đầu tiên chào mừng "Trò ma nớp của lũ bó sát" - chữ của tờ Người Kinh Tế - thành công.
Sẽ còn dài dài, theo GCC.  
Tên Trọng Lú cay lắm, nhịn nhục "thù trong giặc ngoài", sau khi khử được cái nhọt "y tá dạo", chúng mày biết tay "ông" chưa!

Những điều đáng tiếc của giải thưởng Hội Nhà văn
Tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" tạo nên một thách thức khó vượt qua của giải thưởng văn


Note: Bài viết dởm, nhưng vấn nạn, thực: Tại sao, sau Nỗi Buồn Chiến Tranh Bảo Ninh tịt ngòi?
Đây là câu hỏi của tờ Observer

Thấy gì ở mùa giải 2015?

Cần phải nói ngay rằng, tôi không quan tâm đến giải thưởng dành cho thơ. Thứ nhất, đơn giản bởi tôi không phải là chuyên gia. Thứ hai, trong đời sống văn chương hiện thời, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, thơ trữ tình không còn là thể loại mang tính đại diện cho đời sống văn chương.
Thơ vẫn cứ sống, người ta vẫn cứ làm thơ và vẫn có nhóm đọc thơ nhưng hãy thử hỏi, công chúng của thơ chiếm bao nhiêu phần công chúng văn học? Thơ sẽ thành thú vui của một thiểu số. Hãy nhìn vào giải Nobel văn chương. Bao năm rồi không có nhà thơ? Tôi cũng không quá quan tâm đến truyện ngắn. Nó sẽ mãi mãi là những mảnh vụn ở lưng chừng của một sự nghiệp văn học. Cái đáng quan tâm là tiểu thuyết, lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học.

Nhảm. Tomas Transtromer, thi sĩ, Munro chuyên về
truyện ngắn, được Nobel cũng mới đây thôi.
Mỗi lần Nobel về tay 1 nhà thơ là 1 biến cố trọng đại.
Truyện ngắn mà được giải Nobel mà không.... "viết
nhỏ" sao?
Tay tiến sĩ này, có giọng viết y chang Thầy Kuốc. Tao đếch quan tâm đến Nobel.

Và cũng như Thầy Kuốc, mù tịt về văn học thế giới.

Fifteen years after Bao Ninh's admired war novel, he explains his fears about publishing a sequel
Suzanne Goldenberg in Hanoi
Sunday November 19, 2006

Viết/Đọc mỗi ngày

Nhã Ca @ Cornell

image004
Poster của phong trào phản chiến tại Cornell.

Nha Ca 02
27-10-2015, họp mặt tại Đại học Cornell. Trưa, nói chuyện về “Mourning Headband for Hue” Chiều, chiếu phim Land of Sorrows dựng lại cảnh Mậu Thân tại Huế. Sau khi xem phim, Vũ Minh Hoàng của chương trình “Voices on Vietnam” giới thiệu Nhã Ca trả lời các câu hỏi.

Tks. NKL. NQT


  
Bà Tám published a note.
11 hrs
Tôi tuyên bố với nó, hôm nào cô rảnh sẽ kể chuyện ba cháu. Rồi từ hôm đó đến nay tôi nghĩ mãi mà không biết kể cái gì.
Nó là cháu, con của anh tôi. Gọi là nó thì nghe kỳ, bởi vì dù là cháu gọi bằng cô, năm nay cháu cũng đã có hai con vào đại học. Cô ỷ mình già muốn nói sao cũng được. :-)
Tôi sợ, thay vì mình nói về ba cháu và cháu, thì mình chỉ nói về cái tôi của mình. Thật tình tôi không thể kể chu...
...
13 people like this.
Comments
VũNguyệt Trần He he, mấy ông sư trẻ này nhìn không biết ra sao mà bạn Bà Tám mình sém...
Đoc bài nào cũng phì cười, tỷ như vụ ông Tám không chịu dùng máy cắt tuyết vậy đó!
Quoc Tru Nguyen Bài viết này, là để xin lỗi độc giả, không dám xeo phi như những Mợ Mít nhà văn. Tks

Đọc cái "tiểu bút" này, quái làm sao GCC nhớ đến 1 phim trinh thám, coi hồi mới lớn, une page arrachée, trang giấy bị xé ra từ 1 cuốn sách.
Chỉ là 1 câu văn, thiếu mất 1 mẩu.
Khi kiếm ra trang sách nguyên, tay thám tử biểu thuộc hạ, khoan nói, đứa nào là thủ phạm, hãy đọc hết cái câu văn cho ta nghe coi!
GCC sợ rằng thì là độc giả của Bà Tám, bây giờ cũng khổ như viên thám tử
!


Note: Loạt bài Ngu Yên đi trên…  Văn Vịt, hoá ra là dịch bài phỏng vấn trên The Paris Review. Xưa quá rồi, theo GCC.
Về Borges, cuốn Trò Chuyện này là mới nhất. Cuốn II cũng đã xb, nhưng GCC đọc [cọp] loáng thoáng bài điểm, trên 1 tờ chuyên về phê bình, thời gian này, Borges yếu quá rồi, sắp đi xa rồi, nên không bảnh bằng Cuốn I, trong đó, phần lèm bèm về Kafka, GCC đã thuổng, để vinh danh ông anh nhà thơ.
Nhưng khủng nhất, theo GCC, là đoạn lèm bèm về đạo hạnh và văn hóa, đã post trên TV, nhưng chưa dịch, và nó xoáy vào Cái Ác Bắc Kít, đúng như thế, đại khái, những người tốt thì khùng, còn những kẻ thông minh thì quỉ quái. Đây đúng là đề tài ruột của TV, khi phán, đâu có tên Bắc Kít nào ngu đâu, và tên nào cực kỳ thông minh, thì thể nào óc cũng bị thiến một mẩu, trong đó có “cái gọi là” lương tri con người.
Post lại ở đây, và đi 1 đường dịch thuật liền tù tì


Borges Conversations

You Only Need To Be Alive:

Art Should Free Itself from Time

OSVALDO FERRARI. Today we will talk about beauty. But before we do so, we will transcribe your views about the place of art and literature in our times as discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS BORGES. Art and literature ... should try and free themselves from time. Often, I have been told that art depends on politics or on history. I think that's untrue. It escapes, in some way, from the organized causality of history. Whether art happens or doesn't, either depend on the artist.
FERRARI. Another matter not usually talked or thought about, apart from the spiritual life, is beauty. It's odd that, these days, artists or writers do not talk about what is supposedly always their inspiration or objective, that is, beauty.
BORGES. Perhaps the word has been worn out but not the concept- because what purpose does art have other than beauty? Perhaps the word 'beauty' is not beautiful though the fact is, of course.
FERRARI. Certainly, but in your writing, your poems, your stories ...
BORGES. I try to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible, doesn't it? But there have been so many literary movements with horrible names. In Mexico, for example, there was a literary movement frighteningly called Stridentism. It finally shut up, which was the best thing it could do. To aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel Maples Arce led that movement against the great poet Ramon Lopez Velarde. I remember his first book-without any hint of beauty, it was called 'Inner Scaffolding'. That's very awkward isn't it? (Laughs) To possess inner scaffolding? I remember one line of a poem, if it was a poem at all: 'A man with tuberculosis has committed suicide in all the newspapers'. It's the only line I recall. Perhaps my forgetfulness is kind-if that was the best line in the book, on shouldn't expect much from the rest of it. I saw him many years later in Japan. I think he was the Mexican ambassador there and that had made him forget not only literature but his literature. But he has remained in the histories of literature, which collects everything, as the founder of the Stridentist movement (both laugh). Wanting to be strident-one of the most awkward of literary desires.
FERRARI. As we are talking about beauty, I would like to consult you about something that has caught my attention. Plato said that of all the archetypal and supernatural entities, the only visible one on earth the only manifest one, is beauty.
BORGES. Yes, made manifest through other things.
FERRARI. Caught by our senses.
BORGES. I'm not sure about that.
FERRARI. That's what Plato said.
BORGES. Well, of course, I suppose that the beauty of a poem has to appeal to our ears and the beauty of a sculpture has to pass through touch and sight. But these are mediums and nothing more. I don't know if we see beauty or if beauty reaches us through forms which could be verbal or sensual or, as in the case of music, auditory. Walter Pater said that all the arts aspire to the condition of music. I think that is because form and content fuse in music. That is, one can tell the plot of a story, perhaps even give it away, or that of a novel, but one cannot tell the story of a melody, however straightforward it may be. Stevenson said, though I think he was mistaken, that a literary character is nothing but a string of words. Well, it is true, but at the same time it's necessary that we perceive it as more than a string of  words. We must believe in it.
FERRARI. It must, in some way, be real.
BORGES. Yes. Because if we sense that a character is only a string of words, then that character has not been well created. For example, reading a novel, we must believe that its characters live beyond what the author tells us about them. If we think about any character in a novel or a play, we have to think that this character, in the moment that we see him, sleeps, dreams and carries out diverse functions. Because if we don't, then he would be completely unreal.
FERRARI. Yes. There's a sentence by Dostoyevsky that caught my eye as much as one by Plato. About beauty, he said, 'In beauty, God and the devil fight and the battlefield is man's heart.'
BORGES. That's very similar to one by Ibsen, 'That life is a battle with the devil in the grottoes and caverns of the brain and that poetry is the fact of celebrating the final judgment about oneself.' It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission. And among us, Murena has said that he considers beauty capable of transmitting an other-worldly truth.
BORGES. If it's not transmitted, if we do not receive it as a revelation beyond what's given by our senses, then it's useless. I believe that feeling is common. I have noticed that people are constantly capable of uttering poetic phrases they do not appreciate. For example, my mother commented on the death of a very young cousin to our cook from Cordoba. And the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora, in order to die, you only need to be alive.' You only need to be alive! She was unaware that she had uttered a memorable sentence. I used it later in a story: 'You only need to be alive'-you do not require any other conditions to die, that's the sole one. I think people are always uttering memorable phrases without realizing it. Perhaps the artist's role is to gather such phrases and retain them. George Bernard Shaw says that all his clever expressions are the ones he had casually overheard. But that could be another clever feature of Shaw's modesty.
FERRARI. A writer would be, in that case, a great coordinator of other people's wit.
BORGES. Yes, let's say, everyone's secretary-a secretary for so many masters that perhaps what matters is to be a secretary and not the inventor of the sayings.

FERRARI. An individual memory of a
collective.
BORGES. Yes, exactly that.

Bạn chỉ cần còn sống, và nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn sẽ đụng 1 cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng chẳng kém: Văn Chương.

*

Note: Mới tậu. Đi liền cú, Borges lèm bèm về Kafka, nhân TV đang dịch Trước Pháp Luật:

Kafka Could Be Part of Human Memory
Kafka có thể [có, là] phần hồi ức lịch sử

Mới ra lò, 2014.

Tên nhà xb mới thú: Seagull Books
www.seagullbooks.org

"Phần hồi ức con người" của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT, với hồi ức Mít: Chúng ta không thể nào hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa", thí dụ vậy,

Ferrari hỏi Borges, nghe người ta nói là, chúng ta không thể hiểu được lịch sử của thời chúng ta, nếu thiếu sự giúp đỡ của Kafka, Borges bèn trả lời, thì đúng như thế, nhưng quá thế nữa, Kafka quan trọng hơn lịch sử của chúng ta!

Ui chao em của GCC, HA, trách Gấu, mi viết hoài về TTT, ở trên net, rồi mi chết, thì mất liêu luôn, sao không chịu in ra giấy, vì TTT còn quan trọng hơn cả hồi ức Mít!

Hà, hà!

FERRARI. But we are told that we cannot make a faithful interpretation of our times without Kafka's help.
BORGES. Yes, but Kafka is more important than our times....

FERRARI. Borges, in your serenity, you can possibly enlighten me, given that we have talked about ethics and culture, about the importance of an ethical attitude to culture.

BORGES. I do not believe that culture can be understood without ethics. It seems to me that an educated person has to be ethical. For example, it's commonly supposed that good people are fools and intelligent ones are wicked. But I do not believe that-indeed, I believe the opposite. Wicked people are usually also naive. Someone acts in an evil way because he cannot imagine how his behaviour might affect another. So I think that there's some innocence in evil and some intelligence in goodness. Further, goodness, to be perfect-though I do not believe that anyone attains perfect goodness- has to be intelligent. For example, a good and not-too-intelligent person can say disagreeable things to others because he realizes that they are disagreeable. On the other hand, a person, in order to be good, must be intelligent-if not, his intelligence would be ... imperfect, he would be saying disagreeable things to others without realizing it.

*

Cuốn này mua xon, 9 tì, Oct 97, hồi mới ra hải ngoại, ở Vancouver, giữ mục Tạp Ghi cho tờ Văn Học của NMG. Ở 1 cái building toàn dân xì ke. Một lần chúng mở được hộp thư chôm mẹ cái ngân phiếu, NMG đành phải gửi cái khác, bù. Sau đó, phải đến Bưu Điện nhận thư, cho chắc ăn. Bài phỏng vấn Borges, July 1966, theo Gấu chẳng có gì đặc biệt, ngoài chi tiết, Borges nghĩ mình là nhà thơ, khi bắt đầu viết, nhưng sau đó, bị tai nạn, tưởng đi luôn....

*

http://www.theparisreview.org/interviews/4331/the-art-of-fiction-no-39-jorge-luis-borges

INTERVIEWER

If I may change the subject to your own fiction, I would like to ask about your having said that you were very timid about beginning to write stories.

BORGES

Yes, I was very timid because when I was young I thought of myself as a poet. So I thought, “If I write a story, everybody will know I'm an outsider, that I am intruding in forbidden ground.” Then I had an accident. You can feel the scar. If you touch my head here, you will see. Feel all those mountains, bumps? Then I spent a fortnight in a hospital. I had nightmares and sleeplessness—insomnia. After that they told me that I had been in danger, well, of dying, that it was really a wonderful thing that the operation had been successful. I began to fear for my mental integrity—I said, “Maybe I can't write anymore.” Then my life would have been practically over because literature is very important to me. Not because I think my own stuff particularly good, but because I know that I can't get along without writing. If I don't write, I feel, well, a kind of remorse, no? Then I thought I would try my hand at writing an article or a poem. But I thought, “I have written hundreds of articles and poems. If I can't do it, then I'll know at once that I am done for, that everything is over with me.” So I thought I'd try my hand at something I hadn't done: If I couldn't do it, there would be nothing strange about it because why should I write short stories? It would prepare me for the final overwhelming blow: knowing that I was at the end of my tether. I wrote a story called, let me see, I think, “Hombre de la esquina rosada,”* and everyone enjoyed it very much. It was a great relief to me. If it hadn't been for that particular knock on the head I got, perhaps I would never have written short stories.

Hiện thực huyền ảo, theo Ngu Yên, là do Borges phịa ra. Thì cũng được đi, nhưng từ hiện thực huyền ảo, ông phán “tưới” thêm, Borges là người “ảo hóa hiện thực”. Ui chao chữ mới chả nghĩa. Viết như thế, thì 1 thằng viết lách lăng nhăng như Gấu, mất mẹ mất cái chỗ đội nón rồi.
Bởi là vì bất cứ 1 tên viết nào, thì cũng làm, chỉ có mỗi 1 công chuyện, là… ảo hóa hiện thực hết. Viết, là tưởng tượng, là tưởng tượng là gì, nếu không phải là phịa ra 1 đời khác, khác với đời thực?
Quái nhất là, mấy đấng thi sĩ Mít bi giờ đều nhảy ra viết phê bình thơ, thế mới ghê!
Bạn Cà của GCC thì lầm "kinh điển" với.... "kinh nguyệt", còn Ngu Yên thì biến hiện thực huyền ảo thành ảo hóa hiện thực!


Jan 21, 2016

Daudet

ai từng trải qua những năm tháng mài mông học như con vẹt tiếng Pháp hồi còn bé, ắt hẳn sẽ sâu xa căm ghét hai nhân vật: Alphonse Daudet và Albert Camus; điều này là chắc chắn :p

nhưng nói cho đúng, Camus tôi ghét hơn nhiều, vì Daudet ít ra còn có Aventures prodigieuses de Tartarin de Tarascon, chứ Camus thì, đúng như Cioran từng nói, và nói rất sớm, văn chương tỉnh lẻ buồn cười bỏ xừ và hơn thế nữa, Daudet lại có Le Petit Chose:


TV post bài viết của Bolano, về Daudet, và sau đó, bài viết, cũng của ông, về Sa Đọa của Camus, đã kíu tử ông, như thế nào.

ALPHONSE DAUDET

Time passes at dizzying speed. When I was an adolescent and I lived in the south of Chile, I discovered Daudet, Alfonso Daudet, as he was called then, his name Hispanicized to make it more familiar, though I've never heard of Charles Baudelaire or Paul Verlaine being called Carlos Baudelaire or Pablo Verlaine.
    Reading Daudet back then was (and still is) a pleasure and a luxury that only an adolescent lost at the end of the world could fully appreciate, with the happy sense of license that comes after a perfect theft and the feeling of freedom derived from smoking one's first cigarettes, outside under a tree on a rainy afternoon. His books have accompanied me ever since, especially Tartarin of Tarascon, a treatise on the joy of living which can be ridiculous at times, though it isn't unusual to come upon the truth, hidden beneath the ridiculous, a brave, relative truth containing great doses of epicureanism; and also Letters from my Mill, a collection of cameos and miscellaneous prose to which the early work of Arreola is much indebted; or the Memoirs, a melancholy book in which Daudet, so well sketched by Jules Renard in his Journal, doesn't lecture on the human and the divine but rather glides, like a sleepwalker, from the human to the divine, from Cartesian clarity to pure song, from the useful to the useless, and even from the useless to the useless, this last a feat worthy of real writers; or The Nabob, a reflection on the figure of a politician; or L'Arlesienne, which Bizet set to music; not to forget the sequels to the unforgettable Tartarin: Tartarin on the Alps and Port Tarascon.
    Daudet was a friend of Victor Hugo, whose work he admired, and yet he didn't allow Hugo's titantic force to negatively influence his own work, which is much lighter, more delicate, approaching at moments the naturalism of Zola and Maupassant. Despite his prestige and success, he always saw himself as a lesser writer, easy to like. In other words, he never took himself too seriously. He was generous and, according to his contemporaries, lacking in envy, a sentiment all too common in the backbiting world of letters (which pretends to be so civilized). He loved his children. One of them, Leon Daudet, born in 1867, when his father was twenty-seven, became a writer, and his works rank among the worst of French literature, though it would've hurt his father more to know that in 1907, his crooked offspring would found, with Maurras, the Action Francaise, organ of the far right and seed of French fascism. But Alfonso Daudet didn't live to see it. He died in 1897, after suffering from a nervous complaint for many years. Today, in the south of Chile, almost no one reads Daudet. Not even writers, to whom Daudet sounds vaguely like the name of a pop singer or balladeer.

Bolano: Trong ngoặc [Between parentheses]

Cuốn này, cuốn tủ của thầy Roch Cường, năm Đệ Tứ Trung Học.
Còn Camus, đọc ở hành lang trường Đại Học Khoa Học, Sài Gòn, sau khi bị nó đ
ánh văng ra khỏi giảng đường.
Hai cuốn quá khác nhau, 1 của ấu thời, 1 của Kuốc Kộng phân tranh, làm sao lại để kế bên nhau cho được?
Cioran đêm đen Âu Châu, Camus mặt trời
Địa Trung Hải, làm sao ưa nhau?

* *

Cuốn đầu tay của Camus, nhà xb nhỏ ở Alger, 1937, đúng năm GCC ra đời.
Bài Préface thần sầu.
Mua khi còn tiệm sách Tẩy, Champlain, 02/10/2003.
Về cuối đời, Camus nhận ra trong cuốn sách đầu tay của mình, nguồn cảm hứng đẻ ra toàn bộ tác phẩm sau đó… và cái đề tài tủ này: sự câm lặng đáng mến của 1 bà mẹ và sự cố gắng của 1 người đàn ông, để tìm một công lý, hay một tình yêu, cân bằng sự câm lặng.

“Nhưng những hoàn cảnh giúp tôi. Để sửa chữa một dửng dưng tự nhiên, tôi bị đặt để ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin rằng, tất cả thì tốt lành dưới ánh mặt trời và trong lịch sử; mặt trời dạy tôi rằng lịch sử không phải là tất cả."

Người tóm lược bảnh nhất về Camus, là Faulkner: "Camus phán rằng, vai trò thực sự độc nhất của 1 con người, sống trong 1 thế giới phi lý, là sống, ý thức về cuộc sống, cuộc nổi loạn, và tự do của mình."
"Camus disait que le seul véritable rôle de l'homme, né dans un monde absurde, était de vivre, d'avoir conscience de sa vie, de sa révolte, de sa liberté."
*

Gấu này, ngay từ khi còn nhỏ xíu ở đất Bắc, mỗi lần đói quá, rét quá, lạnh quá, đau đớn nhục nhã quá vì bị khinh khi là đứa trẻ mồ côi ăn nhờ ở đậu hết ông chú bà bác lại đến bên nội bên ngoại, và vì đọc Tô Hoài viết về cái thời ông lang bạt vào Đàng Trong, thế là bèn mơ tưởng có ngày vô được xứ Nam Kỳ!
*

Nhà văn là một cái phong vũ biểu của thời của mình. Hình như có một nhà văn mũi lõ phán như vậy.
“Gấu nhà văn”, tuy đã về nhà hai lần, và được đón tiếp cũng hậu hĩ ra trò, nhưng lần thứ ba, sắp sửa về, ngửi ra mùi khói ở nơi quê nhà có gì không thơm, thế là bèn đi một cái mail, và được phúc đáp, thời tiết bi giờ không được đẹp như là hai lần về vừa rồi! Đừng có vác cái mặt mo về mà khổ cái thân già, còn khổ lây đến tụi này!
Thế là bèn đếch về nữa!

Khi thằng cu Gấu lên tầu há mồm vô Nam, bỏ chạy quê hương Bắc Kít của nó, ngoài hai cái rương [cái hòm] bằng gỗ nhỏ, có thể để mỗi cái lên một bên vai, trong đựng mấy cuốn sách, thằng bé còn thủ theo, toàn là những kỷ niệm về cái đói.
Và nửa thế kỷ sau trở về, cũng mang về đầy đủ những kỷ niệm đó, và trên đường về, tự hỏi, không hiểu bà chị mình có còn giữ được chúng…

Bà giữ đủ cả, chẳng thiếu một, nhưng, chị giữ một kiểu, em giữ một kiểu.
Nói rõ hơn, cũng những kỷ niệm về cái đói đó, ở nơi Gấu, được thời tiết Miền Nam làm cho dịu hết cả đi, và đều như những vết sẹo thân thương của một miền đất ở nơi Gấu.

Ui chao, chỉ nội kể về hai chuyến trở về, cũng đủ vài trăm trang, dư dả một cuốn tiểu thuyết, "có đầu, có đuôi", làm mọi người hài lòng, nhất là "Bác Gái"!

Mais les circonstances m'ont aidé. Pour corriger une indifférence naturelle, je fus placé à mi-distance de la misère et du soleil. La misère m'empêcha de croire que tout est bien sous le soleil et dans l' histoire; le soleil m'apprit que l'histoire n'est pas tout. Changer la vie, oui, mais non le monde dont je faisais ma divinité. C'est ainsi, sans doute, que j'abordai cette carrière inconfortable où je suis, m'engageant avec innocence sur un fil d'équilibre où j'avance péniblement, sans être sûr d'atteindre le but. Autrement dit, je devins un artiste, s'il est vrai qu'il n'est pas d'art sans refus ni sans consentement.
Albert Camus: L’Envers et l’Endroit. Préface.

Nhưng hoàn cảnh đã giúp tôi. Để sửa chữa một sự dửng dưng tự nhiên, tôi để mình ở giữa sự khốn cùng và mặt trời. Sự khốn cùng ngăn cản tôi tin rằng mọi chuyện đều tốt đẹp dưới ánh mặt trời và trong lịch sử, mặt trời làm cho tôi hiểu rằng lịch sử không phải là tất cả.

Đúng là tâm trạng của Gấu, Bắc Kỳ di cư, bỏ chạy sự khốn cùng để tìm mặt trời! (1)

Sự kiện Cioran và Beckett thân thiết, và cả hai đều có mùi hư vô, không có nghĩa là họ giống nhau.
Cioran đã từng mê Nazi, trong khi Beckett gia nhập kháng chiến Pháp, ngay ngày đầu tháng Chín, 1941:

He had followed the rise of Nazism in the 1930s with fascination, growing disgust, and, finally, horror. He had dipped with revulsion into Hitler's Mein Kampf and recognized the racial hatred that lay at the roots of national socialism. During his extended visit to Germany in 1936-37, he had witnessed at first hand the impact of anti-Semitism on individual painters whom he had met in Hamburg, persecuted simply because they were "non-Aryan."
James Knowlson: Damned to Fame

Trong khi đó, Cioran, như Simic viết:
Who reads E.M. Cioran nowadays? Someone must, since most of his books have been translated and are in print. At universities where graduate students and professors are familiar with every recent French philosopher and literary theorist, he’s practically unknown, though he was a much finer thinker and wrote far better prose than a whole lot of them. Much of the neglect of Cioran is unquestionably due to his uncompromisingly dark vision of the human condition; his denunciations of both Christianity and philosophy read at times like the ravings of a madman. To make it even more confusing, he had two lives and two identities: the Romanian Cioran of the 1930s who wrote in Romanian and the later, better-known French Cioran who wrote in French.

Sự kiện Cioran không đọc được Simone Weil cũng là 1 chi tiết cho thấy ông khác Camus, vì cả hai, Camus và Czeslaw Milosz đều chịu ảnh hưởng của Weil.
TTT chẳng đã từng phán thật nghiệt ngã về Camus, cái chết nhốt chặt ông ta vào dĩ vãng, trong khi ngược hẳn lại, càng ngày Camus càng được đọc

Thời phải chọn lựa giữa Camus, hay là Sartre, 1 cách nào đó, qua rồi. Grass chẳng đã mừng quá sá quà xa, là mình chọn đúng, và nhân vật mà ông mê, và muốn nhập vô, là Sisyphus. Vargas Llosa chọn Sartre, sau đổi ý, khi khủng bố giáng trúng đầu ông, và vinh danh Camus bằng 1 bài viết thật cảm động, TV đã từng dịch. TTT không chọn Camus, hay Sartre, nhưng mà là Malraux… Cái chuyện không làm sao chịu nổi Camus của bạn NL có gì khó hiểu, hay là ghen…  sắc, vì Camus được gái mê quá, chăng?

Hà, hà!

Trong bài viết “Who would dare?” Bolano kể, cuốn sách cứu tử ông, là The Fall, tức La Chute, mà ông Tẩy mũi tẹt TTD đã từng dịch, gửi đăng từng kỳ trên tờ Văn, là Sa Đọa - chính vì thế mà GCC lầm về ông ta, cũng như đã lầm về Sến, do một vì Thiên Sứ của Ẻn, hay lầm bạn Khờ, với 1 trung uý Kiệt, chạy thoát rồi vậy mà bò về để kịp…  chết - TV post tiếp ở đây, để cho thấy Camus đáng yêu biết là chừ
ng nào!

Bài viết của Simic, về Cioran, cho chúng ta thấy 1 điều, ông cực kỳ ngược ngạo. Do tờ NYRB không cho đọc toàn bài viết, TV sẽ scan và post, vì GCC, nói thiệt, cũng rất mê Cioran.
Ông phán, câu này, mà chẳng thú sao, người là 1 con thú bất hạnh, bị đá đít ra khỏi thiên đàng, với 1 tý tưởng tượng, đủ cho hắn khốn khổ khốn nạn.
Bạn đọc TV, đọc câu trên, làm sao không thông cảm cho Gấu Cà Chớn cho được, khi BHD đá GCC ra khỏi cuộc đời của em?

Simic cho thấy, mặc dù thực sự chẳng mê gì Hitler, nhưng chính vì thế mà Cioran phò Hitler, chỉ là vì ông tự nhủ mình, chỉ những thứ quỉ dữ như thế mới đưa đất nước tới vinh quang lớn lao!

Re: Weil & Cioran

Mới nhận được từ NL:

gửi chú cioran nói về simone trong Ecartelement (hai dòng cuối) :p

*
Cioran on Weil trên TV

Il y a chez Simone Weil un côté Antigone, qui l'a préservée du scepticisme et l'a rapprochée de la sainteté.
Simone Weil - cette femme extraordinaire, d'un orgueil sans précédent, et qui se croyait sincèrement modeste. Une telle méconnaissance de soi chez un être aussi exceptionnel est confondant. En fait de volonté, d'ambition, et d'illusion (Je dis bien, illusion) elle aurait pu rivaliser avec n'importe quel grand délirant de l'histoire contemporaine.
De la génération Sartre-Bataille, il n'est guère que Simone Weil qui m'intéresse. Elle est juste l'observation de Simone Weil, selon laquelle le christianisme était au judaïsme ce que le catharisme devait être à l'égard du christianisme ...
Je lis, entre l'admiration et l'exaspération, une vie de Simone Weil. Son immense orgueil me frappe encore plus que son intelligence.
Je viens de lire l'étude de Simone Weil sur l'Iliade. Vision fausse. Comment peut-elle dire que le monde grec commence par l'épopée et finit par l'Evangile? Qu'y a-t-il de commun entre Achille et le reste, et les pêcheurs de Judée?
Mon intérêt profond pour les Juifs et pour tout ce qui est juif. Des cas, tous. Simone Weil, Kafka. Des figures d'un autre monde. Eux seuls ont du mystère. Les non-Juifs sont trop évidents.
Longue discussion, hier soir, avec un poète hongrois (Pildusky) sur Simone Weil, qu'il considère comme une sainte. Je lui dis que je l’admire également mais qu'elle n'était pas une sainte, qu'elle avait en elle trop de cette passion et intolérance qu'elle détestait dans l'Ancien Testament dont elle est sortie et auquel elle ressemble malgré le mépris où elle le tenait. C'est un Ezéchiel ou un Isaïe féminin. Sans la foi, et les réserves que celle-ci implique et impose, elle aurait été d'une ambition effrénée. Ce qui ressort chez elle, c'est la volonté de faire accepter à tout prix son point de vue, en brusquant, en violentant même l'interlocuteur. J'ai dit encore au poète magyar qu'elle avait en elle autant d'énergie, de volonté et d'acharnement qu'un Hitler ... Là-dessus, mon poète ouvrit de grands yeux et me regarda intensément, comme s'il venait d'avoir une illumination, A mon étonnement, il me dit: “Vous avez raison ... ».
Ces deux Juives extraordinaires: Édith Stein et Simone Weil. J'aime leur soif, et leur dureté envers elles-mêmes.
Ce qui manque à Simone Weil, c'est l'humour. Mais si elle en eût été pourvue, elle n'aurait pas fait de tels progrès dans la vie spirituelle. Car l'humour fait manquer l'expérience de l'absolu. Mystique et humour ne vont pas ensemble.

Cioran, Cahiers (1957-1972), Gallimard, 1997, pp. 226, 372, 375, 376, 474, 620, 657, 816, 890, 903.

Ở S. Weil có khía cạnh Antigone, và điều này tránh cho bà trở nên hoài nghi, và tới gần sự thánh thiện.
Simone Weil, người đàn bà lạ thường, một sự kiêu ngạo chưa từng có, và thành thật tin mình là một người khiêm tốn. Một sự không biết gì về chính mình như thế, ở một con người hết sức đặc biệt như thế, quả là lạ. Về mặt thiện chí, tham vọng, và ảo vọng (Tôi nói rõ, ảo vọng], bà chẳng thua bất cứ một địch thủ khủng điên, phát rồ nào, trong số những đại gia của lịch sử đương thời.
Ở trào lưu Sartre-Bataille, chỉ Weil làm tôi quan tâm.

Nhận xét của bà đúng, theo đó, Ky tô giáo đối với Do thái giáo thì cũng chẳng khác gì catharisme đối đầu Ky tô.
Tôi đọc, với ngưỡng mộ, và nản quá nản quá, cuộc đời Weil. Sự kiêu ngạo của bà đánh tôi đau hơn là sự thông minh của bà!
Tôi vừa đọc Weil viết về Iliade, Viễn tưởng dởm. Làm sao mà bà có thể viết, thế giới Hy lạp bắt đầu bằng hùng ca và chấm dứt bằng Phúc Âm? Có gì là chung, giữa Achille và phần còn lại, và những ngư phủ Judée?

Sự quan tâm sâu xa của tôi đối với những người Do thái, và tất cả những gì liên quan tới Do thái. Những trường hợp. Tất cả. Simone Weil. Kafka. Những hình tượng của một thế giới khác, Chỉ có họ có sự bí ẩn. Những người không phải là Do Thái, thi đều quá hiển nhiên.

Tks. NQT

Sự kiện Cioran không đọc được Weil, theo GCC, là do ông không có niềm tin Ky Tô, và hơn thế nữa, còn báng bổ Ky Tô giáo. Thí dụ, ông viết, cái may mắn lớn lao nhất Jesus có được, là ông ta chết trẻ. Nếu ông sống được sáu bó, chắc là ông sẽ để lại cho hậu thế những hồi ký, thay vì cây thập tự.
Đây là 1 nhận xét của riêng Gấu, do đọc Weil không thấu, vì thiếu phần tu tập Ky Tô giáo mà ra.


Mít vs Lò Thiêu

Trọng Lú dưới cái nhìn của Người Kinh Tế qua Đại Hụi Bịp: Trò ma nớp của loài bò sát

Chính trị xứ Mít VC
Politics in Vietnam
Reptilian manoeuvres
Trò ma nớp của loài bò sát

A colourful prime minister goes, as the grey men stay
Một vì thủ tướng màu mè ra đi, một lũ muối tiêu ở lại

Note:
Bảnh thật, đám lề trái cũng không nghĩ ra nổi, hình ảnh 1 lũ bò sát ở Đại Hội Bịp, và cái chết của vị đại cha già dân tộc, là con rùa vàng, biểu tượng của
bốn ngàn năm văn minh Sông Hồng, nằm chết lều bều trên mặt Hồ Gươm!



Carry on, Nguyen Phu Trong
Cố lên, Trọng Lú, đừng để chết lâm sàng!
Nhiệm vụ Đảng giao, cố mà mang, dù sắp xuống lỗ rồi!
Khi vị Đại Cha Già, hậu duệ Thần Kim Qui, “Thiên Sứ….  Rùa” của xứ Mít, được phát giác ngỏm, nằm lềnh bềnh 1 đống trên mặt Hồ Gươm, đúng vào đêm “trừ tịch”, sáng ngày hôm sau Đại Hụi Bịp lần thứ 12, rất nhiều người Mít tin rằng đây là điềm gở giáng xuống chế độ toàn trị VC.
Thiên Sứ Rùa, theo truyền thuyết, đã từng hiện thân, trên mặt Hồ Gươm, để lấy lại thanh thần kiếm, trước đó, cho Vua Mít mượn, để đánh đuổi giặc Tẫu, thế kỷ 15
.
Viết/Đọc mỗi ngày  

Mother's Day

*

By Richie
To U, my Mom, with Love.
Mother's Day, 2010

Nóng

Mẹ chồng và nàng dâu sống cùng nhà với nhau thời này đã hiếm, nàng dâu và mẹ chồng thân nhau như mẹ con ruột lại còn hiếm hơn. Tôi may mắn có được cả hai thứ hiếm hoi ấy. Thành ra, tôi luôn bỏ chữ “chồng” đi liền sau chữ “mẹ”, kể cả khi kể chuyện…
Cuối tuần trước, mẹ gọi tôi ra góc vườn, nơi có chiếc xích đu dưới bóng mát cây bàng, ngọt ngào:
- Ngồi xuống đây con, mẹ con mình tâm sự…
Tôi ngồi xuống, nắm lấy tay mẹ, nheo mắt cười:
- Mẹ lại muốn kể chuyện thời oanh liệt phải không?
Mẹ cười hiền, bẹo má tôi:
- Bao nhiêu oanh liệt thời quá khứ mẹ kể cho con nghe hết rồi còn gì. Hôm nay mẹ muốn nói chuyện tương lai kia.
Tương lai có gì mà đáng nói? Chồng tôi là con một, là người thừa kế duy nhất căn biệt thự này. Thằng cu Beo sau này cũng sẽ là người thừa kế duy nhất khi hết đời vợ chồng tôi. Tương lai của cái nhà này xem ra có thể đoán trước được rồi. Nhưng có vẻ như mẹ đang muốn nói về cái tương lai khác. Mẹ thở dài, nhìn xa xăm:
- Từ ngày về hưu, ba mày sinh ra đổ đốn!
Điều này tôi biết và cứ ngỡ là giấu được mẹ để bà ấy khỏi buồn. Tôi nắm chặt tay mẹ hơn:
- Thôi mẹ ạ, ba sinh tật vài bữa rồi lại chán thôi.
Mẹ lắc đầu:
- Không đâu con, càng ngày càng hư đốn. Chuyện ông ấy đi bia ôm bia iếc với bạn mẹ không thèm để ý. Nhưng hôm rồi mẹ mới phát hiện ra ông ấy đang cặp bồ với một con bé còn nhỏ hơn cả tuổi của con…
Tội nghiệp mẹ, tôi an ủi:
- Dù sao ba mẹ cũng có đến mấy chục năm hạnh phúc!
Mẹ cười, giọng vui vẻ hơn:
- Thì vậy! Thiệt ra bây giờ mẹ chỉ lo nhiều hơn buồn.
Tôi trấn an với tư cách chủ tài khoản gia đình:
- Mẹ khỏi lo, ba toàn cho gái… à, không, toàn xài bằng tiền lương hưu và quỹ đen giấu giếm lâu, không ảnh hưởng đến kinh tế gia đình đâu ạ.
Mẹ nhếch mép:
- Không phải mẹ lo chuyện tiền bạc. Mẹ lo sau này con dâu của mẹ cũng lâm vào hoàn cảnh như mẹ bây giờ. Con biết đó, thằng chồng con, con trai mẹ… nó là thằng đào hoa có tiếng. Hồi chưa cưới con nó đã “quậy” có tiếng rồi.
Chuyện này tôi cũng biết, nhưng tôi ngạc nhiên:
- Nhưng như thế thì có liên quan gì đâu hả mẹ?
Mẹ nhìn tôi thương hại:
- Sao lại không? Cha nào con nấy! Ba nó trước kia đàng hoàng biết bao nhiêu mà giờ còn hư hỏng vậy huống chi là nó. Mai kia nó mà… già thì con sẽ khổ gấp nhiều lần so với mẹ bây giờ, con dâu ạ!
Tôi giật mình, không phải là không có lý!
Tối hôm ấy, tôi nói hết những băn khoăn sau buổi trò chuyện với mẹ cho chồng nghe. Anh ấy bật cười, ung dung đứng dậy đi lấy cho tôi một cuốn… tiểu thuyết và nhẹ nhàng:
- Đúng là cha nào thì con nấy. Anh ví dụ như anh và ba cùng đọc cuốn tiểu thuyết có phần đầu đầy trắc trở và phần kết rất có hậu này. Nhưng anh đọc xuôi từ đầu đến cuối, còn ba thì đọc ngược lại, em hiểu không?
Tôi lắc đầu, ngơ ngác. Chồng tôi thở dài rồi nói như hét vào mặt tôi:
- Nghĩa là anh bắt đầu “quậy” ngay từ thời trẻ, “quậy” chán rồi nên càng về già anh càng đàng hoàng. Còn ba, ông ấy trẻ không chơi nên già sinh đổ đốn, em hiểu chưa?
Lần này thì tôi hiểu nhưng vẫn gắt chồng:
- Anh làm gì mà hét lên vậy, không sợ thằng cu Beo nó nghe thấy à?
Tôi bực bội mở cửa ra ngoài. Thấy cu Beo đang ngồi đọc truyện, tôi lại gần, ôm vai con:
- Con đọc xuôi hay đọc ngược vậy con?
Beo trố mắt nhìn tôi:
- Đọc xuôi chứ, sao mẹ lại hỏi vậy?
Tôi thở phào:
- Tốt, đọc xuôi là tốt con à. À, mà này... con đã thích bạn gái nào trong lớp chưa?
Con trai tôi trợn mắt:
- Dạ chưa, mà sao mẹ lại hỏi vậy?
Tôi ấp úng:
- Thì nếu có, mẹ… mẹ sẽ cho con tiền dẫn bạn gái đi ăn kem và xem phim!
Quý tử của tôi há hốc miệng nhìn mẹ lắc đầu rồi cúi xuống lẩm bẩm:
- Chắc tại mấy hôm nay trời nóng quá…
Nguồn: Blog Cô Gái Đồ Long.

Còn cái này thì thuổng trong số báo Granta, Winter, 2004, về Mẹ, Mothers.

Bác sĩ:
Báo tin buồn cho cô biết, bà mẹ chồng của cô chết vì đau tim.
Cô con dâu của bà mẹ chồng Bắc Kít trợn mắt, hét:
Vô lý!
Đến lượt ông bác sĩ trợn mắt:
Sao?

Bả đâu có tim!


[To O., from K/GNV]

Bùi Văn Phú liked this.
Mới đây, dưới một status của tôi bàn về thủ tướng, một bạn đã vào bình luận, “chị cứ thử về làm thủ tướng đi, xem chị có làm được không”. Tôi ở vào 'tình cảnh' không về được, chứ đừng nói tới chuyện 'làm thủ tướng'.
Kiểu 'khích tướng' này không phải là hiếm gặp trong các bình luận trên các trang mạng xã hội, hay trong đời sống hàng ngày. Một lần khác, khi viết bài về vấn nạn cần sa trong cộng đồng, một vị trong cộng đồng cũng độp vào mặt tôi là, cho chị giải quyết chuyện trồng cần sa, chị có giải quyết được không? Tất nhiên là không. Văn minh như thế nước Anh, 'đành hanh' như thể Ba Lan cũng ch...
...
See More

Note: Tuyệt. Tks both of U
Nói ra thì xấu hổ, nhưng đọc đoạn sau đây, GCC bèn nghĩ ngay đến... Thầy Cuốc, chán thế:

Ở Tây có một nghề khá phổ biến đó là critic/ krytyk. Nói một cách nôm na dễ hiểu, đó là nghề 'cá trê'.
'Cá trê' hành nghề ở nhiều lĩnh vực khác nhau: Với văn học người ta có các nhà phê bình văn học; với sân khấu, có các nhà phê bình sân khấu; với hội họa, có phê bình hội họa... Và đặc biệt, nghề phê bình chính trị rất đắt giá và luôn được công chúng sát sao theo dõi. Mỗi khi có sự thay đổi trên chính trường, những nhà phê bình chính trị lại được dịp 'khua môi, múa mép'. Họ được báo giới phỏng vấn, mời lên truyền hình, mổ xẻ vấn đề, phân tích đúng/ sai, phải/ trái, đưa ra ý kiến, nhận xét... Trong nhiều trường hợp, các nhà hoạch định chính sách phải tham khảo ý kiến của họ. Ba Lan có hẳn chuyên trang về phê bình chính trị.
Những nhà 'cá trê' học thường có học hàm, học vị và nhận được sự kính trọng trong xã hội, nhưng hoàn cảnh của họ nhiều khi lại giống y chang anh chàng ngồi xổm ở quán bia kia. Nhà phê bình văn học cả đời chẳng viết được cuốn tiểu thuyết nào. Nhà phê bình hội họa hóa ra không biết vẽ. Nhà phê bình chính trị suốt đời chỉ là chuyên viên với mớ lý thuyết bùng nhùng, chẳng được nắm giữ chức vụ gì; và người ta không chắc, nếu cho làm thủ tướng, ông ấy có làm nổi hay không.


Borges: Cha đẻ chủ nghĩa hiện thực thần kỳ?

Đọc, trên….  Văn Vịt, thi sĩ Ngu Yên đi 1 xê ri bài về Borges, qua đó, ông coi Borges là cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực thần kỳ.
Không đúng.
Hiện thực thần kỳ là từ chủ nghĩa siêu thực mà ra, đúng như Rushdie nhận xét, khi viết về Garcia Marquez:

Trong một bài viết về tác giả Trăm Năm Cô Đơn (được in lại trong Quê Hương Tưởng Tượng), S. Rushdie cho rằng, sức tưởng tượng của Garcia Marquez phần lớn là từ kỷ niệm về bà nội ông. Ngoài ra còn những nguồn khác nữa. Tác giả đã từng xác nhận, ông ảnh hưởng Faulkner, và thế giới kỳ ảo Macondo là một phần bất động sản Yoknapatawpha của Faulkner được dời tới một khu rừng ở Colombia. Ngoài ra còn có Borges, và sau lưng vị khổng lồ này, nhiều người khác. Thời gian ông viết cho điện ảnh đã cho ông ý tưởng, người Mỹ đã bắt một nhà độc tài Mỹ châu La tinh phải đem biển cả trả cho họ, thay cho những món nợ còn thiếu, trong Mùa Thu của Trưởng Lão (L'Automne du Patriarche).
Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là người bà của ông. Trong một cuộc phỏng vấn, ông thừa nhận ông thừa hưởng ngôn ngữ của bà. "Chính giọng kể là của bà. Bà là một người kể chuyện tuyệt vời". Trong những gia đình thuộc sắc dân da đỏ, người đàn bà giữ gìn kho tàng chuyện kể, và Nam Mỹ cũng có truyền thống này. Garcia Marquez được ông bà nuôi nấng và ông chỉ gặp mẹ lần đầu tiên vào lúc 7, hoặc 8 tuổi. Sau 8 tuổi, chẳng có chuyện chi là "hay ho, khác thường" đối với ông. Ông nói về ông bà của mình: "Họ có một căn nhà thật lớn, đầy những ma. Họ cũng rất mê tín. Trong mỗi góc nhà là những bộ xương, và những kỷ niệm, và sau 6 giờ tối là không ai dám ra khỏi phòng". Từ những kỷ niệm về căn nhà, mượn thêm giọng kể của người bà như cục nam châm, ông xây dựng thế giới Macondo.
Nhưng rõ ràng ông còn có nhiều hơn thế nữa. Ông rời Aracataca, ngôi làng thơ ấu khi ông còn quá trẻ, và thực tại phố phường khác xa, nhiều khi trái ngược với vùng núi rừng. Trong Trăm Năm Cô Đơn, Người Đẹp Remedios bay lên trời là một biến cố được đợi chờ, nhưng khi chuyến xe lửa đầu tiên tới Macondo, một người đàn bà chạy ra giữa mặt lộ, la lớn: " Nó tới rồi. Cái gì giống như một cái bếp kéo theo sau nó cả một làng." Garcia Marquez đã quyết định để viễn ảnh thế giới của dân quê ở bên trên cái của kẻ tỉnh; đó là nguồn gốc sự diệu kỳ ở nơi ông.
Ở Mỹ Châu La Tinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn là do văn hóa. Sự thực được bưng bít đến nỗi không còn biết đâu là sự thực. Cuối cùng chỉ còn một sự thực độc nhất, đó là lúc nào người ta cũng nói dối. Những tác phẩm của Garcia Marquez không có tương quan trực tiếp tới chính trị, nhưng chúng đề cập tới những vấn đề đại chúng bằng những ẩn dụ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là một khai triển chiết ra từ chủ nghĩa siêu thực; một chủ nghĩa siêu thực diễn tả lương tâm đích thực của Thế Giới Thứ Ba, tức là của những xã hội được tạo thành "có một nửa", trong đó, cái cũ có vẻ như không thực chống lại cái mới làm người ta sợ, trong đó sự tham nhũng, thối nát "công cộng" của đám cầm quyền và nỗi khiếp sợ "riêng tư" của từng người dân, tất cả đều trở thành hiển nhiên. Trong thế giới tiểu thuyết của Garcia Marquez, những điều vô lý, những chuyện không thể xẩy ra, đều xẩy ra hoài hoài, ngay giữa ban ngày ban mặt. Thật hết sức lầm lẫn, nếu coi vũ trụ văn chương của ông là một hệ thống bịa đặt, khép kín. Nó không được viết ở trên mảnh đất nào khác mà chính là mảnh đất chúng ta đang sống. Macondo có thực. Và đó tính nhiệm mầu của ông.

Xứ Mít mê Garcia Marquez, theo GCC, trong bài viết “Mác Két ở xứ Mít”, chính cũng là từ cái ẩn ức “một nửa” mà ra!

Người rành nhất về Borges, theo GCC, là Vargas Llosa. Khi được Nobel, ông có đi 1 đường vinh danh những vị thầy của ông, trong có Borges, trong cuốn Wellsprings, “Giả tưởng của Borges”.
Bài viết sự thực đã từng in trong A Writer’s Reality.

Bài viết này rất thú. Tin Văn tính đi, nhưng lu bu hoài, quên hoài.
Ảnh hưởng của Borges lên văn chương của xứ ông, ở 1 số người viết, rất sâu đậm. Nhưng ông không phải là cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực
thần kỳ, và cõi văn của ông, cũng đếch thuộc "trường phái thần ký, hay thần kỳ". Hơn thế nữa, "nhân dân" không ưa ông, do mê tụi mũi lõ, quá rành tụi mũi lõ [Âu Châu] hơn mũi tẹt, có thể nói như vậy.

Trong bài viết "Giả tưởng của Borges", Vargas Llosa giải thích lý do tại sao Borges không được Nobel, trong 1 tiểu chú:

… I saw Borges very few times. The first time was in Paris, when I was a journalist. I went to interview him and was so impressed I could not speak. I remember one of the questions I asked him was "What do you think of politics?" He gave me an answer I have always remembered. He told me it was una de las formas del tedio (one of the forms of tedium). Initially, he was a very courteous, very shy man; but his personality changed when he became a celebrity. He adopted a public personality, very different from what he was before. He always repeated the same jokes. He made provocative remarks to é
pater le bourgeois (to shock the old fogeys). (1) But in spite of his remarks that sometimes seemed arrogant, he was one of the really modest writers I have met-modest about his achievements as a writer and about his genius. He did not believe that he was a genius. Until his fifties, he was an unknown man in his country. It was only when France and the rest of the world discovered him that he became a celebrity in Argentina and the rest of Latin America and that his life changed completely.

(1)

I think the reason Borges never received the Nobel Prize is because of his political statements, because he made rightest statements when it was unacceptable to be a rightest, to " épater le bourgeois." In fact, I do not think he was a rightest. He was a very courageous man; for instance, during the Peronist regime. He despised politics, but he opposed Peronism with great clarity and courage.

TV sẽ
scan & post bài viết này.

BORGES AND THE RAVENS

I'm in Geneva and I'm looking for the cemetery where Borges is buried. It's a cold autumn morning, although to the east there's a glimpse of sun, a few rays that cheer the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic tradition. The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect cemetery: the kind of place to come every afternoon read a book, sitting across from the grave of some government minister. It's really more like a park than a cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended. When I the keeper about Borges's grave, he looks down at the ground, nods, and tells me how to find it, not a word wasted. There’s no way to get lost. From what he says it's clear that visitors always coming and going. But this morning the cemetery is literally empty. And when I finally reach Borges's grave there’s no one nearby. I think about Calderon, I think about the English and German Romantics, I think how strange life is or, rather: I don't think anything at all. I just look at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges, the date of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse. And then I sit on a bench facing the grave and a raven says something in a croak, a few steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I were in a poem by Poe. Only then do I realize that the cemetery is full of ravens, enormous black ravens that hop up on the gravestones or the branches of the old trees or run through the clipped grass of the Plainpalais. And then I feel like walking, looking at more graves, maybe if I'm lucky I'll find Calvin's, and that's what I do, growing more and more uneasy, with the ravens following me, always keeping within the bounds of the cemetery, although I suppose that one occasionally flies off and goes to stand on the banks of the Rhone or the shores of the lake to watch the swans and ducks, somewhat disdainfully, of course.

Roberto Bolano: Between parentheses

Note: Tay Bolano này, đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu thế, nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc Hiến, cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết về… BHD, hà hà!

Borges và những con quạ

Tôi ở Geneva và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ. Đó là một buổi sáng mùa thu, trời lạnh, mặc dù phía đông thấy có tí mặt trời, và một vài tia nắng làm cư dân Geneva, một giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ, sướng điên lên.
Plainpalais, nghĩa địa Borges nằm nghỉ dài hạn, thực đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công viên mà Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn (1), nơi, cứ xế trưa là người ta bèn tới đó, kiếm 1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của một đấng, khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là một nghĩa địa, một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một mẩu đất cũng được chăm sóc. Khi tôi hỏi người coi coi giữ về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống đất, gật gật cái đầu và chỉ dẫn, không một lời thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều ông ta nói, thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó, quái làm sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges, tất nhiên là chẳng có ai lảng vảng quanh đó. Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics Hồng Mao và Đức. Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ cái mẹ gì hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày ông sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái băng ghế đối diện ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì đó, bằng thứ ngôn ngữ quoạc quoạc của nó, cách tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì ở Geneva, thì tôi ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận ra, nghĩa địa đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò giữa những ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên những thảm cỏ. Và tôi cảm thấy mình như đang lang thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu may mắn, tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và đúng là điều tôi đang làm, mỗi lúc một thêm bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau, luôn giữ giới hạn, như trong nghĩa địa, và, như tôi giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn làm 1 chuyến bay tới đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ, để ngắm thiên nga, vịt, với cái vẻ dè bỉu, khinh khi, tất nhiên!

*

Cũng sách xôn. Một thứ "chuyện nghề" của Vargas Llosa. Có bài, “Làm thế nào để biến 1 lời nói dối thành sự thực”, đọc cũng thú. Vargas Llosa, lúc đầu cũng rất chịu Steiner, nhất là cuốn “Ngôn ngữ và Câm Lặng.” Sau chán, chê nổ quá, cũng 1 thứ “enfant terrible” của thế kỷ. Rushdie thì kể như không đọc nổi Steiner. Chê rầm trời. Nhưng, đa số những người chê Steiner, theo GCC, đều không có nỗi đau Lò Thiêu, như 1 thứ bịnh kín, mort dans l'âme. Và thiếu nội lực, về tôn giáo Do Thái, thí dụ. Nhưng khi Oz chửi Steiner, khi ông này chọn thái độ vô tổ quốc, [bằng giá nào tớ, Oz, đếch bỏ cái chất Bắc Kít (căn cước Do Thái)], là không đọc tới ông.


 Saigon ngày nào của GCC

*

manhhai
SAIGON (01 June 1968) - Vụ trực thăng Mỹ bắn rocket nhầm vào trường Phước Đức (nay là trường Trần Bội Cơ, Chợ Lớn) trong biến cố Tết Mậu Thân đợt hai.


Note: GCC có gửi Radiophotos những tấm hình tương tự, và có viết đâu đó, trên TV.
Nghe nói toàn đệ tử của Râu Kẽm, và Râu Kẽm thoát chết, vì đến trễ, do mải rút xì phé, hoặc mê coi
chọi gà!
Và vẫn nghe nói, đòn độc của Thiệu!

Đường sách Xề Gòn.
Con phố ngắn này, có tên là Nguyễn Hậu thì phải, là nơi Bưu Điện có 1 block sử dụng làm Hộp Thư, Boite Postale. Thư Lưu Trữ.
Có thời gian, lúc sắp sửa đứt phim, khi Bưu Điện tách làm đôi, một Bưu Chính, vẫn thuộc Bưu Điện, một Viễn Thông, thuộc… Mẽo, Gấu làm dưới quyền 1 ông sếp mới, nghe nói Xịa, và có 1 căn phòng của riêng Gấu, là cả một tầng lầu phía bên trên mấy sạp sách.
Buồn buồn ngó đầu ra ngoài thở hơi me, phi xì ke, tuyệt cú...  me.
Gấu nhớ có viết về vụ này, đâu đó trên Tin Văn (1)
Tính kiếm 1 cái hình của thời cũ, trên manhhai, nhưng không thấy.

(1)

Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời,  phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn.  Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..."  tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.

Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.