*



Trịnh Công Sơn vs Lịch Sử

Milosz, trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán một lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý nghĩ đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS đã được "thanh toán".
Milosz cho rằng, cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak, khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.
Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài người.
Hãy hát tình ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã mất.
“Cái từ giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai chữ: Tình Yêu.”
*
Tôi thu tôi lại...
Hạt bụi nào...

He has turned into the life-giving ear of grain
Or into the gentlest rain of which he sang
Akhmatova
Người thi sĩ ấy biến thành mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó
D.M. Thomas trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak. 


Trịnh Công Sơn:
Chim Thiêng Hót Lời Mệnh Bạc
L'oiseau sacré chante le destin tragique

*
Un jour se noyer et flotter
[Cũng sẽ chìm trôi]

Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
La course de l'eau la limpidité
Mon âme l’eau trouble
Les hérons s'envolent crient le calme absolu
Les chemins de la vie proches
Mais les pas ralentissent de fatigue
Ah ! la lune en haut
Assis je suis en bas
Les chemins tordus
La lumière soudaine
Depuis l'oiseau sacré chante le destin tragique
Chaque goutte de l'infini
Se noie disparaît sans appel de retour

Lời Việt::

Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một dòng í-a trong veo, sao lòng ối-a còn đục
Bầy vạc í-a bay qua, kêu mòn ối-a tịch lặng
Đường đời í-a không xa, sao chồn ôi-à gối chân
Nhật nguyệt í-a trên cao, ta ngồi ôi-à dưới thấp
Một đường í-a cong queo, nắng vàng ối-a đột ngột
Từ độ í-a chim thiêng, hót lời ối-a mệnh bạc
Từng giọt í-a vô biên, trôi chìm ôi-à tiếng tăm

Partir et revenir
[Một cõi đi về]

Les années écoulées les départs
Partir tourner la vie les fatigues
Les épaules aux deux bouts de la lune
Le reflet transversal de cent ans partir et revenir

Quelle sera la parole des arbres
Quelle sera la parole de l'herbe étrangère
Un seul coucher du soleil dans l'ivresse
Quelle vie légère appartient déjà au passé
Ruine du printemps ruine de l'été
Un jour d'automne l'écho du galop au loin

Nuage couvre la tête soleil sur les épaules
Les pas s'en vont les rivières savent rester
Soudain l'otage de l'amour m'appelle
A l’intérieur apparaît l'ombre de l’être
Le détour de la pluie dans l'âme
Une pluie fine
Cent ans l'infini la chance de rencontre sera nulle
Quel lieu sera chez moi
Les chemins les détours les cercles en ruine
Le côté a' herbe le côté de rêve
Chaque parole du crépuscule
Chaque parole de la terre des tombes
Voix de la mer des fleuves de leurs sources.

Alors qu'on rentre on se souvient déjà qu'on partira
Partir vers les monts
Revenir vers le large
Les bras de la vie n’offrent jamais l'indulgence
Seul un vent impossible souffle tout au long de la
jeunesse

Trinh Cong Son
Traduit par Le Huu Khoa

Connu avec Pham Duy comme l'un des deux plus grands compositeurs du Vietnam actuel, Trinh Cong Son se veut avant tout poète et chante « les rêves en ruines de ses êtres ». Son œuvre raconte l'exil collectif de son peuple mais aussi l'éphémère de l'amour et de la beauté. Trinh Cong Son réussit pas à pas sa méditation sur la souffrance, ses textes construits autour d'un lieu de fractures né du passage des guerres offrent un fond de réinterprétations extrêmement riches du bouddhisme, du taoïsme.L'évidence esthétique du texte fait corps avec l'inexistence de l'être.
Được biết đến cùng với Phạm Duy như là một trong hai nhà soạn nhạc lớn lao nhất của Việt Nam hiện nay, Trịnh Công Sơn tự muốn mình, trước hết, như là một nhà thơ và hát "những giấc mơ điêu tàn của đồng loại". Tác phẩm của ông kể cuộc lưu vong tập thể của dân tộc ông, và về sự phù du của tình yêu và cái đẹp. Từng bước, Trịnh Công Sơn hoàn tất cơn trầm tư của mình về sự khổ đau, những bài ca của ông xoay quanh một nơi chốn tang thương đổ nát do chiến tranh cầy đi cầy lại, và chúng tạo nên một cái nền của những tái diễn giải cực kỳ giầu có, tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Cái đẹp hiển nhiên của bài ca làm bật ra nỗi vô thường của kiếp người.
Le Huu Khoa: Mảng lưu vong [La Part d'Exil]
*
Note: Tks K. Gấu

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về

Lời nào của cây lời nào cỏ lạ
Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ ngày qua
Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa

Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người

Nghe mưa nơi nầy lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà

Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa
Từng lời tà dương là lời mộ địa
Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe

Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
Ngọn gió hoang vu thổi buốt xuân thì.....
[net]


Đi tìm phê

30.4.2016

*

* *

*

Miền Nam bị cả hai tên Yankees, mũi lõ lẫn mũi tẹt, làm thịt

30.4.2016

Phải là một trí tuệ siêu việt thì mới ngộ được rằng mầm mống thảm họa của Việt Nam ngày nay được gieo ở thành phố Tour cách đây gần 100 năm. Các friends không nên bỏ qua đoạn văn này: TIẾP SÓNG
________________________________________________________________ .
LỜI AI ĐIẾU
LỜI AI ĐIẾU là tập hồi kí chân thực của nhà báo 74 tuổi Lê Phú Khải do nhà xuất bản của người Việt ở nước ngoài vừa phát hành. Ngoài những sự việc, con người mang đậm dấu ấn của một thời lịch sử oan nghiệt,...

Continue Reading

Theo GCC, không đúng.
Mít chết, đúng vào lúc Hồ thoát được sự canh chừng của Cớm Tẩy, đến được Moscow, thần phục Xì, làm Cớm Đỏ Quốc Tế, được Xì phái về Tầu hoạt động.
Chẳng có đảng CS nào ở Cựu Lục Địa có thực lực cả. Đó là chứng cớ xác thực nhất.
Cái Ác Á Châu, qua anh Nga, cộng cái Ác Á Châu, qua anh Tẫu, cộng Cái Ác Bắt Kít, ra nước Mít của VC hiện nay. 






Tên gián điệp yêu chúng ta
The Spy Who Loved Us

Đúng ra, cái vòng tay lớn, mà TCS hát trên đài phát thanh Sài Gòn, có cả Mẽo, ở trong đó. Và đó là ước nguyện của Cao Bồi, theo Gấu.
Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt là Tông Tông Mẽo Carter đã chìa tay ra mà VC đếch chịu.
Giờ, dân Mít chịu quá, nhất là Bắc Kít, Hà Nội, trừ lũ ngu, là Bắc Bộ Phủ, và đám lâu la của nó.
Có tên còn tỏ ra rất căm thù, vì số đạn vãi ra để giết, chỉ có 20 thường dân.
Tại làm sao mà sử dụng đạn nhiều đến như thế, từ đó, có thể là do bị panic, như Oliver Stone, nhận xét.
Cũng như, cái sự nhất định không từ chức, của Kerry, có thể còn là do, tội ác của ông ta, liên quan đến 1 nước Mít như hiện giờ.    
Tức là do cái thiện ý của Mẽo, như GG chỉ ra

*

[Hình, từ báo Anh, Guardian]


30.4.2016

tòa án xét xử tội phạm chiến tranh

cuộc chiến việt nam có phiên tòa quốc tế xét xử tội phạm chiến tranh: phiên tòa của russell. phiên tòa này không có giá trị thực thi, và không xét xử cá nhân, nhưng ít nhất nó cũng đặt ra những vấn đề về tội phạm chiến tranh ở việt nam. tội phạm chiến tranh ở mỹ lai cũng có phiên tòa xét xử. vụ thạch phong không thấy có phiên tòa nào xét xử. không rõ là do hết thời hiệu truy cứu hình sự hay không ai quan tâm về xét xử nữa.

Note:
Hầu hết người dân Miền Bắc không rành về cuộc chiến Mít, do chỉ đọc thứ tin tức của nhà nước VC.
Cả cuộc chiến đó, và những tội ác ghê rợn của Mỹ Ngụy, bắt đầu bằng cái tội ác dởm mà đám VC nằm vùng, theo lệnh Bắc Bộ Phủ, vu cho Diệm đầu độc tù VC nằm vùng - những tên này, theo hiệp định Genève phải đi tập kết, lén ở lại -
được Diệm gom vào 1 chỗ, là trại tù Phú Lợi.
Sự thực, tù nhân ăn trúng thực, ỉa chảy, phải dùng băng ca chở vô nhà thương rửa ruột.
Mới đây, GCC gặp Nguyễn Quốc Thái, cũng 1 thứ phản chiến, làm tờ Trình Bày, ở Cali, anh cho biết, bạn anh, 1 ký giả có phỏng vấn đám tù VC đã từng ở Phú Lợi, họ nói làm gì có vụ đầu độc.
Tới lúc đó, thì Gấu nhớ ra, đã từng nhìn thấy những tấm hình, như trên.
VNCH là 1 thể chế được quốc tế công nhận. Mẽo lúc đó chỉ lèo tèo vài tên cố vấn.
Chính Bắc Kít tìm cách nhử chúng vô, để đẩy
cả 1 miền đất vào thế thù nghịch, để tạo ra cuộc chiến, để ăn cướp, đúng như thế.
Hậu quả cuộc chiến, một nước Mít
như hiện nay, 41 năm sau, thì liên can gì đến cuộc chiến nữa?

Đây không phải là 1 cuộc chiến tranh giải phóng, của 1 xứ sở cựu thuộc địa, do đằng sau Bắc Kít là thằng Tẫu, kẻ thù muôn đời, truyền kiếp của Mít.
Chúng thờ thằngTẫu làm Thầy, đâu có nghĩ đến hậu quả như bây giờ.
Chỉ có 1 người nhìn ra cuộc chiến Mít là cuộc tranh chấp giữa những thế lực đế quốc, là Solzhenitsyn.
Ông bị Octavio Paz phản biện, nhưng bây giờ thì rõ ràng là Solz có lý
.


Trong Về những nhà thơ và những người khác, On poets and Others, Paz dành hai bài, một cho Solz, và một cho Gulag. Bài Gulag, viết thêm, bổ túc cái nhìn trước. Trong bài này, Paz nhắc tới Việt Nam, và chê cái nhìn của Solz về VN, bị hạn chế, [theo Paz, Solz phán, cuộc chiến Đông Dương là mâu thuẫn quyền lợi giữa đám đế quốc, the war in Indochina was an imperial conflict, và như thế, Solz không nhìn ra, đây là cuộc chiến giành độc lập của 1 quốc gia]. Nhưng ông bào chữa giùm cho Solz, quan điểm của ông [dù hạn chế. NQT] không làm giảm giá trị của tác phẩm, [Gulag. NQT], như là 1 chứng liệu.

Note: Không hiểu, giả như Paz, nếu còn sống, đọc lại những dòng trên, có còn chê Solz?

GCC sợ rằng, Solz phán quá đúng. Chỉ là tranh chấp qưyền lợi giữa, không chỉ thực dân cũ [Tẩy], và mới [Mẽo], mà còn có anh Tẫu nữa.
Làm đếch gì cái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mà chỉ có cú…  ăn cướp? Toàn đoạn văn Paz lèm bèm về cuộc chiến Mít, đọc thú lắm. TV sẽ post liền tù tì, và bàn tiếp, hà, hà!




* *

* *

Huế Mậu Thân
30.4.2016
Lê Công Định liked this.

Bài riêng về Tiến sĩ Nguyễn Quang A trên The New York Times. Thì ra tướng Giáp giúp ông A được giải ngũ về làm kinh doanh và nghiên cứu.

That turned out to be a big break. “General Giap helped me escape from the army,” he said. He was assigned to a civilian job at an informatics branch of the government, but he stayed only briefly



Nguyen Quang A, an activist blocked from meeting with President Obama, says the Communist Party sometimes needs coaxing, and sometimes confrontation.
mobile.nytimes.com|By Jane Perlez

“If you have influence, they crack down,” he said. “But if the authorities were smart, they would know that the protesters don’t want to overthrow them, but want to negotiate to change the policies.”
NQA

Theo GCC, nhảm. Phải dẹp bỏ chế độ khốn kiếp đó. No other way!
Cái chế độ Vẹm, từ thuở dựng nước của nó, 1945, là toàn sử dụng những đòn nhơ bửn.
Chúng chưa từng có 1 hành động nhân từ nào.
Chúng có policy nào, ngoài cái độc cái ác cái bất nhân?

Nhè Vẹm mà nói chuyện smart!
Lớp 1, chăn trâu, y tá chích dạo mà... smart ư?
Chúng chỉ thay đổi chính sách, khi chưa làm thịt được bạn


Thôi bỏ đi Tám

“Bỏ qua đi. Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn”.

Chủ Nhật, ngày 06 tháng 9 năm 2015

Cái dở của “lực lượng thứ ba”
Phạm Hồng Sơn
http://nhucaytrevn.blogspot.ca/2015/09/cai-do-cua-luc-luong-thu-ba.html

Ông Nguyễn Ngọc Giao, một trí thức miền Nam ủng hộ miền Bắc cộng sản, tức thuộc “lực lượng thứ ba” thời Việt Nam Cộng Hòa, vừa kể lại một chi tiết nhỏ liên quan tới chuyện đi "học tập cải tạo" của một viên chức Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30/4. Ông Giao thuật rằng người tù khi trở về đã trả lời người con về chuyện đối xử trong tù cộng sản thế này:

“Bỏ qua đi. Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn”.

Note: Tên NNG này mà là lực lượng thứ ba ư?
Hắn là VC nằm vùng, đệ tử của Phạm Xuân Ẩn, làm Cớm chìm cho Bắc Việt, lực lượng thứ ba cái con khỉ gì?
Sau bị Xịa gài, trong vụ Một Ngàn Giọt Lệ
Mà làm gì có lực lượng thứ ba?

Đây là “password” của Xịa, và của…  Graham Greene, khi nghe lóm được và bèn viết Người Mẽo Trầm Lặng, trên cái chi tiết thần sầu này.
Người tù được nhắc tới ở đây, là ông già của tay ký giả mới mất, cựu nhân viên BBC.
Trên TV đã lèm bèm về vụ này rồi.
Tuy nhiên, theo GCC, không thể coi NNG là trí thức Miền Nam được. Hắn học cùng promotion với GCC, ở Chu Văn An, bố là giám thị trường, ông Cư Bướu, hình như thế, theo như học sinh hồi đó gọi ông, được Ngụy cho đi du học, có ở Miền Nam ngày nào đâu mà trí thức Miền Nam?

Cái gọi là lực lượng thứ ba, giả như có, thì cũng là do VC dựng lên, như MTGP, sau 30 Tháng Tư là bị dẹp sạch.

Tuy nhiên Mẽo quả là có ý định tìm 1 thứ lực lượng thứ ba, như trong Người Mỹ Trầm Lặng cho thấy, đây là “thiện ý” của Yankee mũi lõ. Chúng không hề có ý ăn cướp, giầy xéo… cái con mẹ gì xứ Mít, nhưng thiện ý mới bỏ mẹ, có khi còn "bỏ mẹ" hơn cả cái ác ý cốt lõi của Cái Ác Bắc Kít. Và đây là ý nghĩa bài viết “Đọc Graham Greene ở thế kỷ 21”, của Monica Ali, trong “Những mép bờ nguy hiểm của Graham Greene”, cuốn sách tiên tri những “thiện ý” của Mẽo trong tương lai, bỏ qua cái quá khứ gần, là cú chúng phịa ra Iraq có vũ khí huỷ diệt để xâm lăng xứ này, mà hậu quả như hiện nay. Nhà Nước Hồi Giáo, là do thiện ý của Mẽo mà ra.

Graham Greene Dangerous Edge


The Disquieting Resonance of 'The Quiet American'

by Pico Iyer
April 21, 2008 5:08 PM ET

Cả cuộc chiến Mít, với những tội ác của nó, con số người chết, 1 đất nước ngày càng tàn tạ, mất mẹ lương tâm đạo đức, mất tất cả "cái gọi là Mít", là do VC phịa ra, rồi biến nó thành hiện thực, khởi từ ý hướng tốt của anh Mẽo trầm lặng, cố tìm 1 lực lượng thứ ba, không theo Tẩy, Tẫu, Mút Ku.... 1 tên Mít đúng là Mít, cho xứ Mít!

AFTERWORD
Reading Graham Greene in the Twenty-First Century
Đọc GG trong thế kỷ 21
Monica Ali

Cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là 1 bằng chứng chết người, của những thiện ý, của Mỹ, khi họ nhẩy vô Miền Nam
Bắc Kít bắt đúng gân Mẽo, khi thành lập MTGP: Chỉ có cách phịa ra cuộc chiến Mít thì mới thắng nó!
Nên nhớ, lịch sử Mít đã từng xẩy ra Trịnh Nguyễn phân tranh, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Bắc Kít thua, không làm sao lấy được Miền Nam.
Nhờ nhử Mẽo vô mà thắng!

Rợp bóng Greene:

Tháng 11, 2005, trên tờ Newsweek, ký giả Christopher Dickey viết, “Một lần nữa, những lầm lẫn chết người của những thiện ý của Tông Tông Bush làm nhớ đến anh chàng Mẽo ngây thơ Pyle, trong Người Mỹ Trầm Lặng”. Tay ký giả Mẽo đi 1 đường trích dẫn, về những ngày đầu Mẽo vô Miền Nam:
'He was absorbed already in the dilemmas of Democracy and the responsibilities of the West; he was determined - I learnt that very soon - to do good, not to any individual person but to a country, a continent, a world ... When he saw a dead body he couldn't even see the wounds. A Red menace, a soldier of democracy'. Replace the word 'Red' with 'Islamic', and fast forward 50 years.

Chỉ cần thay từ Đỏ, bằng từ  Hồi Giáo, là thấy 50 năm trôi qua.



Những gì tôi ghi nhận về Trần Hạnh hoàn toàn khớp với những đánh giá trích dẫn ở trên, nên xin phép không dài dòng. Tiễn biệt Trần Hạnh, tôi chỉ xin kể lại một câu chuyện được anh tâm sự. Những năm qua, tôi nhiều lần muốn viết, nhưng vẫn ngừng tay vì muốn đợi chính anh viết ra. Nay anh đột nhiên ra đi, tôi xin vắn tắt kể lại. Cha anh là một sĩ quan cấp tá Việt Nam cộng hoà, thuộc ngành quân pháp. Trần Hanh kể lại năm 1972, khi anh sang Úc du học (học bổng Colombo), cha anh chỉ dặn một câu : cố gắng học hành, không tham gia chính trị. Sau năm 1975, ông bị đưa đi “học tập cải tạo”, tôi không nhớ bao nhiêu năm, chỉ mang máng khá lâu. Khi ông trở về, cha con gặp nhạu, Hạnh hỏi ông ở tù ra sao, ông không chịu kể, chỉ nói : “Bỏ qua đi. Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn”. Mấy năm sau, ông qua Mỹ theo diện HO. Hạnh kể lại cái tết đầu tiên, họp mặt đầy đủ toàn thể gia đình ở California. Ông mang ra cái áo cũ, còn thấy vết máu. Đó là cái áo của cụ thân sinh bị giết tết Mậu Thân ở Huế, mà một người chú của Trần Hạnh đã gìn giữ cho con cháu dòng họ. Không một lời, ông đã đốt cái áo ấy, như người ta đốt vàng mã trong ngày tết gia đình sum họp tưởng nhớ tổ tiên.

http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/tiec-thuong-tran-hanh-1954-2015


Note: Tên này, cũng 1 tên VC nằm vùng, được Ngụy cho đi du học, bợ đít VC, viết về Trần Hạnh. Không chỉ bợ đít, mà còn làm Cớm chìm cho VC.

Cái sự đối xử tàn nhẫn của VC đối với Ngụy, ra sao, thì tất cả mọi người đều biết. 

Cái câu mà ông bố của Trần Hạnh, nói với con, bây giờ cả hai đều đã chết, làm sao chứng tỏ, sự thực?
tệ hơn, thì sẽ như thế nào?

Gấu đã nói rồi, lũ khốn kiếp này quá tởm!


Giả như, có thật, thì cũng không thể nào viết ra được nữa. Đây là cái sự thực tối thiểu, phải nói là lương tri, của 1 người cầm viết.
Gấu chưa từng thấy 1 tên VC nằm vùng nào ra hồn cả, kinh thật!
Tởm thật!


V/v tệ hơn.

Trên TV, Gấu đã từng viết về cái tình cảnh này. Một tên Ngụy đi trình diện cải tạo, ngớ người khi bị 1 tên Bắc Kít hỏi, giả như mi thắng chúng ông, thì mi đối xử ra sao?
Đây là chuyện thật. Gấu cũng đi trình diện bữa đó, và nghe tên đó hỏi, 1 anh lính Ngụy. Anh ta ngớ người, đúng như thế.
Một câu hỏi như thế, là hàm ý trong nó, cái cực kỳ khốn nạn, chính cái đó làm 1 tên Bắc Kít, như Nobel Toán, như SCN, hay như tên này, phịa ra - hẳn là như thế -  cái câu của ông bố của Trần Hạnh. Não của chúng, bị thiến một mẩu, cái mẩu thiếu mà Đức Phật Sống đã từng nói, về bè lũ Bắc Kinh, tức quan thầy của bè lũ Bắc Bộ Phủ.
Tên khốn này, óc cũng
bị thiến mất một mẩu.
Tên khốn này, đệ tử của Cao Bồi, "bạn của Gấu".
Cao Bồi, đi không nổi, nắm tay vợ khóc, kíu anh với, oan hồn đòi mạng anh. Tên này hẳn phải biết chuyện này, do chính lũ VC trong nước xì ra, để bôi nhọ những tên đã từng theo chúng. Võ Tướng Quân cũng thế, tưởng không làm sao đi nổi. Rồi hiện tại, thì là tên đao phủ Mậu Thân.


Một câu nói như thế, một cái sự đốt áo cái con mẹ gì đó, theo Gấu, đều không có. Đây là những trò chạy tội, của lũ bỏ chạy, trước thực trạng 1 đất nước như bây giờ, trong có sự đóng góp của chúng.

Giống như trò khen thơ phản chiến của Nguyễn Bắc Sơn, hay, coi đây là thứ thơ bi hài, hay thảo khấu “cái con mẹ gì đó”. Hai bố con, ở hai bên cuộc chiến, rất có thể giết nhau, mà…  bi hài?

Đó là thảm kịch chứ sao lại bi hài? Thơ của NBS theo Gấu cũng 1 thứ “Ways of Escape”, tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, của anh.
Cả cõi thơ của anh, chỉ l
à
1 giấc mộng, chết bèn biến thành mây bay.

Một vị thân hữu của TV hỏi Gấu, trong cuộc chiến, anh trốn nó, bằng đọc sách. Ra hải ngoại, tại sao đọc? Cái đọc của Gấu bây giờ, khác hẳn trước đây, trước là chạy trốn, bây giờ là chạy vô, cố giải ra được Cái Ác Bắt Kít, thì cứ gọi đại như vậy.


Tên khốn này, “người của chúng ta ở Paris”, sống sót cuộc chiến nhờ bỏ chạy, mà bỏ chạy được là nhờ Ngụy, chúng chủ trương, qua chính sách du học, giữ người có tí học hành, để hết cuộc chiến trở về xây dựng đất nước. Cũng thế là tên VC làm bồi Mẽo ở ổ VC ở Mẽo, NBC. Tên này, học dốt, đi du học nhờ bỏ tiền ra mua cái bằng Tú Tài, hạng Bình, hay Bình Thứ, Gấu đoán vậy, thế là suốt đời thù Ngụy, nhưng thôi, bỏ, mất thì giờ làm gì với lũ nhơ bửn này.



Trường hợp Lê Công Định 

Trên Điểm Sách London, số 23 July, 2009, trong Berlusconi ở Tehran, Slavoj Zizek viết:

Khi một chế độ quyền lực đi tới cú giẫy chết, ngay trước khi đó, bất thình lình, một cú gẫy đổ, thoái vị bí ẩn, a mysterious rupture, xuất hiện, và nhân dân của nó ngộ ra, xong rồi, tới lúc rồi: họ giản dị ngưng sợ, they simply cease to be afraid.

Không phải chế độ mất tính chính thống, its legitimacy: cái sự phô trương quyền lực của nó, vào lúc này, làm cho người ta nhận ra, đây là một hành động trong cơn hoảng hốt, a panic action, một hành động của sự bất lực.

Rysard Kapuscinski trong Shah of Shads, kể về cuộc cách mạng Khomeini, đã định vị một cách thật là rõ ràng, cái thời khắc bể vỡ, rồi thoái trào, này: Tại một ngã tư hay ngã ba, hay ngã sáu Tehran, một người biểu tình, chỉ một người, một cư dân của thành phố, hẳn thế, đếch chịu nhúc nhích khi một ông công an nhân dân ra lệnh, hãy đi chỗ khác chơi, và cái anh công an nhân dân bèn bứt rứt rút lui, and the embarrassed policeman withdrew!
Chỉ trong vài giờ đồng hồ, cả thành phố đều biết biến cố trên, và mặc dù cuộc chiến đấu trong đường phố còn tiếp tục trong nhiều tuần lễ tiếp theo, nhưng mọi người đều hiểu, xong rồi!

Liệu cái cú LCD, cái cú diễn đàn Bô Xịt, cái cú NTT, là những cánh chim báo bão, về cái cú ‘gẫy đổ, sụm bà chè bí ấn’ của nhà nước VC? Hình như ngài Bùi Tín có vẻ rất tin tưởng chuyện này, vì trước đó chưa hề có. Những LCD, NTT, những đứa trẻ của cách mạng 30 Tháng Tư 1975, đúng ra là phải ngồi vào chỗ của họ, ở trên đầu nhân dân, vậy mà không khứng ngồi, báo hiệu cái mysterious rupture mà Zizek nói tới.

Có thể lắm, bởi vì cái sự bắt giữ LCD, NTT... có gì hoảng loạn ở trong đó.

*
Blogger Huỳnh Thục Vy nói trong phỏng vấn với BBC sau khi được trả tự do rằng Đảng cầm quyền đã suy yếu và người dân cần can đảm đấu tranh. (1)

Số NYRB số mới nhất July 12, 2012 có mấy bài thật thú. Thí dụ, bài điểm cuốn tiểu sử của Aung San Suu Kui, The Lady and the Peacok: Những Ngày Miến Điện, Burmese Days [chắc là thuổng Những Ngày Ở Sài Gòn của... Gấu!], nhưng cái tít ở trang bìa mới thú: Miến Điện: Phía Mặt Tối [Burma: The Dark Side]. (2)

TV sẽ giới thiệu bài này, thay cho bài điểm cũng cuốn này, trên tờ TLS.

Bài viết về Mẽo Đực Tiểu Thuyết Gia cũng....  thú lắm, American Male Novelists: The New Deal, trong đó, tác giả bài viết nói về sự khác biệt giữa Michel Houellebecq và John Updike, thí dụ: Cùng 1 thứ nhân vật, đếch được gái yêu, và cùng thứ bịnh, loserdom, nhưng mỗi ông viết cách.



17.12.2005
Nguyễn Quốc Trụ

Người Đức sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho người Do Thái, vì vụ Lò Thiêu

Lần đầu đọc cái tít bài của Bùi Văn Phú, tôi cũng sững sờ như Đỗ Kh. Nhưng sau đó, tôi hiểu, khi nhớ lại trường hợp bài thơ của Paul Celan, nhà thơ sống sót Lò Thiêu. Như trong một bài viết về ông trên trang nhà Tin Văn của tôi, trích đoạn sau đây:

Sự "thành công mang tính đại chúng" của bài thơ "Tẩu Khúc của Thần Chết" ở Đức, sau khi chiến tranh chấm dứt, đặc biệt trong giới trẻ, trở thành trò thờ phụng, sùng bái….

"Tẩu Khúc của Thần Chết" đã đem đến cho người Đức một niềm khuây khỏa "lớn lao, kỳ diệu", ngang xứng với khôi hài đen, một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng thời: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do Thái về Auschwitz”.

Cái tít bài của Bùi Văn Phú, theo tôi, cũng tương tự. Thú nhất là, ở đoạn cuối bài, sau khi nhắc nhở nhà nước ta, ông chơi thêm cú nữa, khi kết luận bài viết bằng một câu xanh rờn: “Cách đối xử với nạn nhân của một dân tộc nói lên lịch sử và văn hoá của dân tộc đó”.

Hoá ra là nạn nhân của nhà nước ta, không phải là nạn nhân của dân tộc ta!

Cám ơn cả hai ông Bùi Văn Phú và Đỗ Kh.

Talawas


Ui chao, đọc lại thì lại nhớ ra cách Bắc Kít đối xử với lũ Ngụy & Mỹ (Bob Kerry) & Obama!

trong tội ác và hình phạt có câu: mọi tội ác đều phải bị trừng phạt. chừng nào tội ác chưa bị trừng phạt thì không thể có tha thứ. nhiều người lầm tưởng rằng cứ quay đầu là bờ, hạ đao xuống là thành phật. đâu có đơn giản như vậy.

Comments
Đào Quốc Minh Anh kết nhất tinh thần Thiên Chúa Giáo trong stt này.
LikeReply11 hr

Những tội ác, như trên, đều xuất phát từ tội ác bịa đặt Diệm đầu độc tù ở trại tù VC Phú Lợi, nhân đó thành lập MTGP Miền Nam, ra ý Miền Nam không thích tên độc tài Diệm do Mỹ phịa ra, và chính quyền Saigon của ông ta.
Tội ác Nazi & Lò Thiêu cũng bắt đầu bằng 1 tội ác ác bịa đặt như vậy, gán cho Do Thái.
Tội ác khủng khiếp nhất, là của Bắc Kít.
Cả cuộc chiến Mít là do Bắc Kít cố tình làm cho nó xẩy ra, để lấy cớ đưa bộ đội vô ăn cướp Miền Nam.
Đó là sự thực lịch sử. Ba cái lem nhem khác, chẳng bõ nói ra.
Xứ Mít như hiện nay, không lẽ do 1 tên Bob Kerry gây nên?
Cái tội ác của Bắc Kít, được che đậy bằng cái giấc mơ muôn đời của người Mít. Vì có giấc mơ đó, mà có giống dân có tên là Mít.
Chỉ đến khi gấc mơ được thực hiện, thì nó biến thành sự thực, và nó là Cái Ác Bắc Kít!
Nước Nga cũng lâm vô tình trạng y chang. D.M. Thomas, tác giả cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, viết về 1 thế kỷ ở trong nhà văn Solz, là cũng dựa trên cái nền Thiên Sứ & Quỉ Đỏ:
Bắc Kít, trước 1975, là Thiên Sứ với giấc mơ tuyệt vời của giống Mít.
Sau 1975, hiện nguyên hình là Quỉ Đỏ, hiện thân của Cái Ác Bắc Kít!
Người Bắc, sinh sau 1975, bị VC nhồi nhét thứ văn hóa hận thù, không làm sao mà hiểu được cái xã hội Miền Nam, trước 1975.
Trước 1975, thì cũng rứa!
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là 1 mặt của vấn đề. Chính cái thiện ý của Mẽo, gây họa khủng khiếp hơn cả Cái Ác Bắc Kít.
Đây mới là vấn đề của hiện đại.


http://www.tanvien.net/gocsaigon/Greene_Quiet_American.html

"Thai đố", là được "gợi hứng" từ câu trả lời phỏng vấn của nhà đạo diễn điện ảnh Oliver Stone, tác giả một số phim nổi tiếng về Việt Nam, và cũng từng tham gia cuộc chiến tại đây, trên tờ Time số May 7, 2001: "Chuyện những người dân lành miền nam ở làng Thanh Phong bị giết hại, liên quan tới Thượng Nghị Sĩ Kerry, làm tôi nhớ rất nhiều tới những khó khăn của cuộc chiến, những hàm hồ của nó. Tôi đã ở trong những làng nơi người dân quê bị giết và bị lạm dụng. Giận dữ, sợ hãi, từ đó mà ra. Có những vụ hãm hiếp, đánh đập, và sát nhân. Tôi nghe được những câu chuyện [như vậy] từ những người thân cận với tôi. Bạn ở trong một vùng lửa đạn nóng bỏng. Một người dân làng tiến tới từ phía sau bạn, thí dụ như từ một đụn cát. Người đó đầu hàng, nhưng đôi khi, một kẻ nào đó nổ súng, và làm toi một mạng người.
Chuyện xẩy ra với Thượng Nghị Sĩ Kerry, đó là: liệu có tiếng súng bắn về hướng họ hay là không. Đây là câu chuyện (giống như trong phim) Địa Ngục Môn….". Đây là phim nổi tiếng của Nhật, câu chuyện về một cái chết của người chồng là một kiếm sĩ, qua lời kể của từng nhân vật liên quan. Mỗi người nói một cách, và cuối cùng chẳng biết đâu là sự thực.
Người viết làm quen với Greene những ngày học trung học, qua tác phẩm "Người thứ ba", câu chuyện về một người đàn ông truy tìm thủ phạm đã sát hại bạn thân của mình, rút cục khám phá ra, chính cái tay bạn thân của mình, đã dùng kế kim thuyền thoát xác, tức là giết địch thủ, rồi để lại giấy tờ của mình cho cái xác chết, và tiếp tục giết hàng triệu triệu trẻ em trên thế giới, qua trò sản xuất, và tung ra khắp thế giới, loại thuốc trụ sinh dởm…
Qua tin báo chí, viên tướng tình báo cộng sản, Phạm Xuân Ẩn, trước nằm vùng tại miền nam, có gặp gỡ phái đoàn quay phim, khi đang được quay tại Sài Gòn và cho biết, ông có chứng kiến vụ nổ bom trên, và cho biết thêm, ông biết nhà văn Graham Greene là gián điệp Anh. Điều này thế giới đều biết, vì Greene cũng chẳng giấu. Nhưng chi tiết trên chứng tỏ, Ẩn đã hoạt động gián điệp từ lâu. Và cái việc, vào giờ chót, ông ta đưa Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ thời ông Diệm, lên máy bay ra nước ngoài, chứng tỏ một điều: hai người có thể đã hiểu rõ nhau từ khuya!

Tôi sẽ mở ra một cuốn sách bí mật
Và trong khi cái đầu của bạn như muốn nổ bung ra, vì giận dữ,
Tôi sẽ nói cho bạn biết nội dung sâu xa, và nguy hiểm của nó.


Nhà phê bình văn học người Pháp, Marthe Robert cho rằng, có hai cách "làm thịt" người. Một cách, cứ tạm gọi bằng cái tên, làm thịt người theo kiểu Cam Bốt, giống như người ta thường nói, làm món vịt quay theo kiểu Bắc Kinh, thí dụ vậy – và một, theo kiểu... Việt Nam. Kiểu thứ nhất, theo bà, là kiểu của những tên đồ tể "hăm hở", kiểu thứ nhì, của những tay "nhẩn nha". Sau cùng, kiểu nhẩn nha thắng, nó làm thịt luôn cả những tên đồ tể "hăm hở".
[Nguyên văn: Nhận xét của tôi về tính "hăm hở" của những người Cam Bốt, và tính "nhẩn nha" của Việt Nam, đã được nghiệm chứng một cách thật là kinh khiếp. Chỉ là vấn đề thời gian: những kẻ "hăm hở" làm thịt thế giới của họ ngay lập tức, liền tù tì, trong khi những kẻ "nhẩn nha", nhẫn nại hơn, kiên trì hơn: từng tí, từng tí, họ làm thịt thế giới của họ, trong khi đợi làm sạch luôn cả những tên đồ tể "hăm hở"] (1)

Phải nhẩn nha lắm, mới có thể nhốt "thế giới của họ" hàng chục năm trời, trong những trại cải tạo, mà mục đích của nó, là tẩy não, phục hồi nhân phẩm cho những con người "không phải là con người": những tên ngụy.


(1): Ma remarque sur la "véhémence" des Cambodgiens et la "pondération" du Vietnam s’est trouvée entre-temps monstrueusement confirmée. C’était somme toute une affaire de temps: les "véhéments" exterminaient leur monde sur-le-champs, tandis que les "pondérés", plus patients, exterminaient le leur petit à petit, en attendant d’anéantir également les "véhéments" exterminateurs.
Marthe Robert: La Vérité Littéraire (Grasset, Livre de Poche, Collection biblio essais).



* *

Origin: Fyodor Dostoyevsky's 1866 novel, Crime and Punishment

From Dante's Inferno, where hell seems a good deal more interesting than heaven, to Milton's Paradise Lost, where Satan gets all the best lines, to Shakespeare's Othello, where Iago's intrigues are more compelling than Othello's virtues, writers have learned fiction's dark secret: the allure of evil trumps the banality of good. Yet in Fyodor Dostoyevsky's Crime and Punishment, the author passes rapidly over his main character's evil deeds-the pointless murders of an innocent old woman and her half-sister-to explore their psychological consequences.
    Dostoyevsky understood punishment not as a concept but as bitterly lived experience. A parlor radical in his youth, he was arrested, along with dozens of utopian associates who questioned the regime of Czar Nicholas I, and put through a mind-bending form of psychological torture: he was convicted of treason, sentenced to death, blindfolded and put in front of a firing squad-only to be given a reprieve at the last moment and sentenced to four years of exile in a Siberian prison camp.
    The author's years in chains deepened and darkened his view of the human condition and inspired his creation of Raskolnikov, the impoverished former student whose love of idealistic concepts outpaces his love for the messy realities of human life and leads him to justify his murders as an expression of his self-declared superiority over the common man. In Raskolnikov, Dostoyevsky traced the chilling trajectory of the sort of evil that begins with grandiose visions of the superhuman, only to end in the death camps of Hitler's Germany, the gulag of Stalin's Russia and the horrors of the Great Cultural Revolution of Mao's China. The guilty young man is the dark prophet of the 20th century's false gods.

Time: The 100 most influential people who never lived, 100 người ảnh hưởng nhất chưa hề sống.

Note: Bài điểm thần sầu. Mít mũi tẹt khó mà viết nổi những bài như vầy, lý do là, viết như kít, cả 1 đám băng đảng xúm lại hít hà rùi!

Hà, hà!

GCC đọc Tội Ác đúng thời mới lớn, quen BHD, khi chờ Em, trong 1 quán cà phê túi của Sài Gòn, cùng những tác giả của thời mới lớn như Sartre, với Buồn Nôn, Camus với Kẻ Xa Lạ, Faulkner, và những tác giả Mác xít như Henri Lefebvre, Lukacs..

Cùng với những cuộc phiêu lưu của những tác phẩm lớn ở trong tôi, Sài-gòn trở thành một sân khấu cho tôi đóng vai những nhân vật-nhà văn. Thành phố thân yêu, một buổi sáng đẹp trời bỗng nhường cho một St. Petersbourg thời Dostoievsky với những cầu thang âm u, và cậu sinh viên, trong một góc bàn tại một tiệm cà phê Tầu nơi Ngã Sáu, một mình đi lại trong giấc mơ vĩ đại, biến đổi thế giới, làm lại loài người.

NQT Lần Cuối Sài Gòn

Note: Đó là Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, đó, nghe chưa Thái Dúi!

*

Từ Inferno, Hỏa Ngục, của Dante, nơi địa ngục xem ra thú vị hơn nhiều, một cái “deal” - tạm dịch từ này, theo 1 nghĩa tiếng Tây, dễ hiểu hơn so với tiếng Anh, một “áp phe” tốt, so với thiên đàng, tới Thiên Đàng Đã Mất của Milton, nơi quỉ Satan có được những dòng tuyệt cú mèo, tới Othello của Shakespeare, nơi những mưu đồ của Iago xem ra bảnh [compelling: ép buộc] hơn so với đạo hạnh của Othello, những nhà văn đã học được cái bí mật đen thui của giả tưởng: Cái Ác mới là bố chó xồm, chứ không phải Cái Tốt! [Cái dáng vẻ của cái ác, đẹp hơn nhiều, so với bộ dạng tầm phào, nhà quê, cù lần của….  GCC, ấy chết xin lỗi, của cái tốt của con người]. Tuy nhiên, trong Tội Ác và Hình Phạt, của Dos, tác giả nháng 1 phát, qua hai cú giết người, mụ già cầm đồ và cô em/chị, của nhân vật chính, và dành thì giờ triển khai những hậu quả tâm lý của chúng.
Dos hiểu hình phạt, không như 1 quan niệm, mà là kinh nghiệm sống chát chúa. Vừa chập choạng vào đời, mê tư tưởng cấp tiến, bèn bị mã tà, lính kín, của nhà nước tóm, cùng với chừng một tá bạn bè cũng không tưởng như anh ta, khi cả đám dám tra vấn, hỏi tội chế độ Nga Hoàng Ni Cô La Đệ Nhất, và trải qua 1 cuộc tra tấn tâm lý: anh bị kết tội phản bội, bị án tử, bị buộc vô 1 cái cột, mắt bị bịt kín, chờ 1 viên đạn kết thúc đời mình từ đội hành quyết, nơi pháp trường, chỉ tới phút chót thì mới biết, án chết được đổi thành án lưu đày bốn năm nơi trại tù Siberia.
Những năm trong xiềng càng làm sâu tối thêm cái nhìn của tác giả về phận người, và tạo hứng cho ông đẻ ra nhân vật Raskolnikov, anh chàng cựu sinh viên nghèo mà tình yêu những quan điểm lý tưởng vượt lên khỏi cõi đời thực làm xàm, bát nháo, dẫn anh ta tới chuyện biện minh cho hai cú làm thịt người, như là để trình diễn tính ưu việt của 1 thứ cá nhân con người như anh ta, so với hạ cấp đồng loại là toàn thể nhân loại còn lại kia. Qua nhân vật Raskolnikov, Dostoyevsky vẽ ra quỹ đạo ớn lạnh của 1 thứ ác, bắt đầu bằng những viễn ảnh hoành tráng về siêu nhân, than ôi, sau cùng bèn chấm dứt bằng những trại tử thần của 1 nước Đức của Hitler, bằng Gulag của một nước Nga của Xì Ta Lỉn, bằng những ghê rợn của cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa của một nước Tẫu của Mao Xếnh Xáng, bằng Lò Cải Tạo của 1 Bắc Kít của Bác Hát. Anh chàng trẻ tuổi tội lỗi này đúng là 1 nhà tiên tri u ám của những vị thần dởm của thế kỷ 20.

30.4.2016

*

    
LULJETA LLESHANAKU (b. 1968)

Chess

Autumn. Veins of marble
swell in the rain.

The graves of my relatives
four inches of space between them
lined up
like cars at a railroad crossing.

What once kept them together
like fingers in an ironsmith's glove
has vanished .... The war is over.

In the afterlife there are only a few strangers
waiting for the train to pass ...

The smell of the earth
reminds me of home
where a clock that once hung on the wall is missing.

I polish the dust off their names with care -
the years ... like little bruises on a knee,
love ... which now pricks less
than the thorns of a rose.

There, at the entrance to the cemetery
the guard sits in his booth
playing chess with himself.

Translated from the Albanian by  Henry Israreli and Shpresa Qatipi
Cờ Tướng


Mùa Thu. Vân đá hoa
Phơi trong mưa

Những nấm mồ thân nhân của tôi
Mồ nọ cách mồ kia chừng vài phân
Nằm thành rẫy
Như xe hơi ở một cổng xe lửa

Cái điều quấn quít họ thành một mối
Như những ngón tay trong cái bao tay của người thợ rèn
Đã biến mất…
Chiến tranh thì đã tàn.

Ở trong đời sau, hay, sau đời
[Trong vương quốc của những người đã chết]
Chỉ còn vài kẻ lạ
Đợi xe lửa qua….

Mùi đất
Làm tôi nhớ căn nhà của mình
Trên tường có cái đồng hồ bị mất
Tôi cẩn thận cọ rửa tên của họ -
Năm tháng, như những vết thâm ở đầu gối
Tình yêu… nỗi đau của nó gây ra
Thì không bằng
Những cái gai của một bông hồng

Ở nơi cổng nghĩa địa
Người gác ngồi trong chòi
Bèn chơi cờ một mình
Với chính mình
.

Brief September Elegy
I don't know how you came,
but there must be a road
leading back from death.

You are seated in the garden,
your hands in your lap, filled with sweetness,
your eyes resting on the last roses
of these vast and calm September days.

What music do you follow so intently
that you don't even notice me?
What forest, or river, or sea?
Or is it within yourself
that everything still sings?

I would like to speak to you,
just to tell you that I'm here,
but I'm afraid,
afraid the music all will stop
and you will cease to see the roses.
Afraid of breaking the thread
with which you weave unremembered days

With what words
or kisses or tears
can one awake the dead without harming them,
without bringing them to that black foam
where bodies and bodies repeat themselves
parsimoniously, among shadows?

Stay as you are then,
filled with sweetness,
seated, gazing at the roses,
and so very far away
you don't even notice me.

Translated from the Portuguese by Alexis Levitin

Bi khúc Ngắn Tháng Chín

Tôi không biết bằng cái nào em trở lại
Hẳn là có 1 con đường
Dẫn em về từ cõi chết

Em ngồi nơi khu vườn
Tay đặt lên đùi, thật ngọt ngào
Mắt em đọng trên những bông hồng cuối cùng
Của những ngày thênh thang êm ả của Tháng Chín này

Âm nhạc nào em đang lắng nghe
Đến quên để ý đến sự có mặt của anh?
Rừng nào, sô
ng nào, hay biển nào?
Hay là ở trong em
Mọi điều, vẫn hát?

Anh muốn nói với em
Anh ở đây, anh đây này
Nhưng lại sợ
Âm nhạc sẽ ngừng
Em sẽ ngưng nhìn những bông hồng.
Sợ làm đứt sợi dây mà em đang dệt
Những ngày không làm sao tưởng nhớ được

Những lời nào
Những nụ hôn nào
Những giọt nước mắt nào
Mà anh có thể có được
Để đánh thức những người chết
Mà không làm thương tổn họ
Không đẩy họ tới vùng biển đen ngòm
Nơi những xác người và những xác người, chồng chất lên nhau
Lập lại nhau 
Dè sẻn,
Giữa những cái bóng

Em hãy cứ ngồi đó nhé
Giữa tràn đầy ngọt ngào
Nhìn ngắm những bông hoa hồng
Xa vời vợi
Chẳng cần để ý đến anh mà làm gì.


*

WRITTEN IN A HOTEL

Kyoto is fortunate,
fortunate and full of palaces,
winged roofs,
stairs like musical scales.
Aged but flirtatious,
stony but alive,
wooden,
but growing from sky to earth,
Kyoto is a city
whose beauty moves you to tears.

I mean the real tears
III' a certain gentleman,
A connoisseur, lover of antiquities,
who at a key moment
from behind a green table,
exclaimed that after all
there are so many inferior cities
and burst out sobbing
in his seat.

That's how Kyoto, far lovelier
than Hiroshima, was saved.

But this is ancient history.
I can’t dwell on it forever
or keep asking endlessly,
what’s next, what's next.

Day to day I trust in permanence,
In history's prospects.
How can I sink my teeth into apples
In a constant state of terror,
Now and then I hear about some Prometheus
wearing his fire helmet,
enjoying his grandkids.

While writing these lines.
I wonder
what in them will come to sound
ridiculous and when.

Fear strikes me
only at times.
On the road.
In a strange city.

With garden-variety brick walls,
a tower, old and ordinary,
stucco peeling under slapdash moldings,
cracker-box housing projects,
nothing,
a helpless little tree.

What would he do here,
that tenderhearted gentleman,
the connoisseur, lover of antiquities.

Plaster god,. have mercy on him.
Heave a sigh, oh classic,
from the depths of your mass-produced bust.

Only now and then,
in a city, one of many.
In a hotel room
overlooking the gutter
with a cat howling like a baby
under the stars.

In a city with lots of people,
many more than you'll find painted
on jugs, cups, saucers, and silk screens.

In a city about which I know
this one thing:
it's not Kyoto,
not Kyoto for sure.

Szymborska

Bạn có thể tưởng tượng, cũng như thế đó, Hà Nội được cứu thoát, và Obama, thay vì Szymborska, đã viết bài thơ trên, tại 1 khách sạn ở Hà Nội.
Vả chăng Obama chẳng cần xin lỗi. Chính Yankees mũi tẹt nhử chúng vô, thì làm sao phải xin lỗi!

That's how Kyoto, far lovelier
than Hiroshima, was saved.

OBAMA- CHẲNG CẦN PHẢI “XIN LỖI” ĐỂ VĨ ĐẠI! - Đặng Mỹ Hạnh

Tôi thường, có lúc hời hợt với thế sự. Thế nhưng, cuộc thăm viếng của Ngài Obama đến Hiroshima. Và bằng vòng hoa tại một đài Tưởng niệm cho 140.000 nạn nhân của một quả bom có nickname là “Little Boy”, lại đáng suy ngẫm. Ở hai bờ Thái Bình Dương, dường như, mọi thứ đã tan biến. Những kẻ thù của thời chiến giờ không những là bạn mà còn là đồng minh. Bất kể những tranh chấp về căn cứ Mỹ trên lãnh thổ Nhật, và nhữn...

Continue Reading

Chuyến đi Mít của Tông Tông da đen, Yankee mũi lõ, làm nhớ tới anh chàng Pyle ngây thơ, cù lần của Graham Greene, innocence  abroad, đề tài của Người Mỹ Trầm Lặng.
Anh ta đến Việt Nam với đầy thiện ý, ta sẽ dậy cho xứ Mít cựu thuộc địa của Tẩy, thế nào là lối sống Mỹ.
Obama, đến, chẳng mang theo thông điệp nào, mà chỉ biểu xứ Mít, cái mà tụi mi tìm, là ở trong tụi mi.
Obama không hề biết, bốn ngàn năm, Bắc Kít không hề có thứ đó, cái gọi là dân chủ. Đói 4 ngàn năm, biết, nhưng không có dân chủ, cũng 4 ngàn năm, thì không biết! 
Sở dĩ Bắc Kít mê Liên Xô 1 phần là do cả hai đều không có dân chủ, suốt chiều dài dựng nước.
Thành thử, nếu không có tụi Tẩy, thì Đàng Trong bị Đàng Ngoài nuốt cái một, và cũng chịu chung đúng thứ số mệnh thê thảm đó.
Nhờ Tẩy mà có 1 Miền Nam dân chủ, y chang mẫu quốc, qua chế độ tự trị của Tẩy.

Cái việc mà Mẽo - qua Obama - tính nói /làm với xứ Mít, thì cũng là cái điều Mẽo muốn nói/ làm với Liên Xô, và đó là 1 việc làm
vô ích.
Xứ Mít với Bắc Kít và Cái Ác của nó thống trị, không bao giờ biết đến dân chủ tự do.
Đừng nghĩ là GCC cương ẩu. Applebaum đã viết ra rồi
Ukraine

Trong bài viết “Phát Xít, Nga và Ukraine”, Snyder nói ra cái điều mà GCC lèm bèm hoài, chính Cái Ác Á Châu đã làm cho nhân dân của nó hướng về Âu Châu, được coi như thiên đàng đếch có Cái Ác Á Châu. Trong ao ước gia nhập Liên Minh Âu Châu của nhân dân Ukraine, có giấc mơ đó, và chính nó, mới là giấc mơ ra khỏi luỹ tre làng, khi đám trẻ Bắc Kít xẻ dọc Trường Sơn kíu nước.

Có hai thế lực đối đầu nhau tại Ukraine: Liên Minh Á(c) Châu, và Liên Minh Âu Châu:

The future of this protest movement will be decided by Ukrainians. And yet it began with the hope that Ukraine could one day join the European Union, an aspiration that for many Ukrainians means something like the rule of law, the absence of fear, the end of corruption, the social welfare state, and free markets without intimidation from syndicates controlled by the president.

The course of the protest has very much been influenced by the presence of a rival project, based in Moscow, called the Eurasian Union.

Đây là 1 bài viết tuyệt vời - trên NYRB, TV bèn bệ về, sợ tờ báo không cho đọc free - lạ làm sao, đúng y chang “bước đi lịch sử” của trang Tin Văn, hà, hà: Vạch rõ ra Cái Ác Bắc Kít mới là nguồn cơn của cuộc chiến Mít!

Bài của Anne Applebaum, cái tít, là cũng nói ý đó: Russia Will Never Be Like Us

We’ve spent 20 years trying to make it a Western country. Bad idea.

Bài này được Phạm Vũ Lửa Hạ dịch, đăng trên Blog SCN:

Nga sẽ chẳng bao giờ giống chúng ta

Chúng ta mất 20 năm gắng biến Nga thành một nước phương Tây. Vô ích.

Từ “bad idea”, dịch là “vô ích”, tuyệt.

Làm bật ra câu thật xưa, “Đông là Đông, Tây là Tây”, mà đến bây giờ Gấu mới hiểu, hai bên khác nhau chỉ vì 1 chữ Ác.

Theo Tolstaya, chính cái phần dã man của Á Châu, được trục lên, từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử miền đất này, và được sử dụng như những chuồi, những rễ, thành phần nồng cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đây là Con Quỉ Á Châu, so với Con Quỉ Âu Châu, là Hitler và đám Nazi.

Một lũ bò sát với những trò ma nớp của chúng: Tờ Người Kinh Tế, tàn nhẫn gọi Bắc Kít và cái trò hề bầu cử của chúng.
Không lẽ xứ Mít sẽ có tự do, dân chủ từ 1 lũ
bò sát?

V/v Obama & Pyle

&

The unsurprising link between authorship and espionage
Nhà văn cớm

Cái link chẳng có gì là ngạc nhiên giữa viết văn và làm nghề gián điệp

Of the CIA spy, Alden Pyle, Greene’s narrator in “The Quiet American”, observes, “I never knew a man who had better motives for all the trouble he caused.”  
Về tên Xịa, Alden Pyle, nhân vật kể chuyện – anh ký giả già, ghiền
Hồng Mao, Fowler - trong Người Mỹ Trầm Lặng nhận xét, tôi chưa từng biết 1 tên với nhiều thiện ý, về tất cả trouble, do anh ta gây ra.
*
Greene chọn Norman Sherry, giáo sư văn chương đại học Trinity San Antonio, Texas, là người viết tiểu sử, là do mê ông này, khi viết về Joseph Conrad [Conrad’s Western World]. Nhất là sự kiện Norman Sherry, để viết về Conrad, đã thực hiện những chuyến đi thực tế tới vùng Viễn Đông và đặc biệt là những khám phá của Norman Sherry ở Tây Phi về Trái Tim Của Bóng Đen, của Conrad. Chính Greene đã tìm cách tiếp cận Sherry, qua một nhà báo, William Igoe. Ông này nói với Sherry, trong một bữa cùng ăn trưa, “Có một tay, đúng là một huyền thoại của chính thời đại của anh ta, và tay này rất mê tác phẩm của bạn”. Sau đó, hai người gặp gỡ, vào lúc đó, như Sherry sau này mới biết, Greene đang bị gia đình và bạn bè đòi hỏi, phải kiếm cho ra một tay viết tiểu sử về mình. Và trong khi ông đang tỏ ra thích thú bởi nụ cười rất ư là đặc biệt, và cặp mắt xanh của Greene, bất thình lình, ông này nói: “Bạn khó mà viết về tôi, như là bạn viết về Conrad. Bạn khó có thể viết về tôi, bởi vì bạn không thể tới Sài Gòn." [Bối cảnh của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng là Sài Gòn thập niên 1950. Câu nói của Greene là vào năm 1974, tình hình chiến sự và thái độ của nhà cầm quyền miền nam không cho phép Sherry tới đây, như đã từng tới Phi Châu, khi viết về Conrad.]
 *

Khó khăn thứ nhì, Greene đòi hỏi, Sherry, người viết tiểu sử của mình, phải "theo từng bước chân của tôi". Thế là Sherry phải đi thực tế tới những nơi từng làm bà đỡ cho những tác phẩm lớn của Greene, như Mexico, Liberia, Cuba, Việt Nam, và cả lố những vùng chẳng hề thân thiện với đám mũi lõ. Trong khi cố gắng hoàn thành lời hứa, đi theo những vết chân của tôi, ông đã tới những vùng như Haiti, Argentina, Paraguay, Japan, Malaya, Sierra Leone, và nhiều nơi khác nữa, và trong những chuyến đi thực tế như vậy, đã bị mù sáu tháng, bị sốt rét tại Africa, và hoại thư, khiến ông mất một khúc ruột tại Panama.

  Sherry gần như xục xạo tới từng chi tiết trong đời Greene, và ông khám phá ra, tất cả những nhân vật của Greene đều có nguyên mẫu ở ngoài đời, và nguyên mẫu số một, còn ai trồng khoai xứ này nữa, nếu không phải là chính chàng!

   Điều này gây trở ngại lớn. Greene sống, đến mút chỉ đời mình, và có rất nhiều mối tình, tình nào cũng lâm ly bi đát. Có nhiều mối tình cùng xẩy ra một lúc, sóng đôi sóng ba mí nhau. Ông làm điệp viên cho MI6, phản gián Anh. Ông hít tô phe. Đi xóm hằng bữa! Càng "đi" nhiều càng viết khỏe. Làm sao nhuần nhuyễn tất cả, mà vẫn tôn trọng sự kín đáo, vẫn bảo vệ đời tư của tất cả, và nhất là của Greene? Bản thân Greene cũng chơi tới hai cuốn nhật ký, viết song song, hai ấn bản khác nhau, để giấu giếm những lần đi chơi điếm, hoặc tới động hút. Có lần ông viết cho Catherine Walston, một trong những cô bồ lâu ngày của mình: "Nếu có ai cố tìm cách viết tiểu sử của tôi, người đó sẽ thấy rắc rối, phức tạp làm sao, và rất dễ lầm đường lạc lối như thế nào."

  Nhưng như trên đã viết, cái chiều sâu thăm thẳm của tác phẩm của Greene chỉ được vén mở, nếu chúng ta nhìn lại giá sách của ông, và nhận ra rằng, người đi trước, “thần tượng” của ông, chính là Henry James, hay nói theo Zadie Smith, trong tiểu thuyết của Greene cũng như của James, tất cả những thăng trầm của một kiếp người, “những thói đời”, đều được đem lên bàn mổ. Cá tính nhân vật, mà người đọc cảm thấy như là nói về chính mình, và hãnh diện về chúng [“Tốt lành như tôi đây, còn nó, bạn thấy đấy, chỉ là một tên đểu giả”], đột nhiên bị lột trần, và chẳng là cái đếch gì cả khi bị đẩy tới cực điểm: Chiến Tranh, Chết Chóc, Mất Mát, Đổ Vỡ, Tình Yêu…. Đúng như Greene nhận xét: Bản chất con người không đen và trắng, mà là đen xám, hay đúng hơn, xám xịt.[Human nature is not black and white but black and grey].

Chính trong cái bầu khí xám xịt đó, là Sài Gòn thập niên 1950, mà cuộc tình tay ba, trong Người Mỹ Trầm Lặng, với ba đỉnh của nó, được mở ra: tính dễ bị mua chuộc, mà cũng rất ư là thành thực, không mầu mè, của một cô Phượng [với giấc mơ lấy chồng Mẽo, làm dâu Mẽo, hay tệ hại hơn, làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… như những cô Phượng hiện nay ở Việt Nam…], tính dãn ra, chẳng còn muốn vướng vào những vấn đề của một xứ xở thuộc địa như Việt Nam, của anh mũi lõ già nghiền thuốc phiện, là Fowler, và sự ngây thơ của một anh Mẽo trẻ tuổi đẹp trai, thiện nguyện viên, hay cố vấn Pyle! Đúng là một tam giác lý tưởng để dựng nên một cuốn tiểu thuyết lý tưởng! Nó làm cho Zadie Smith [trên tờ Guardian] nhớ tới trò chơi “jack straw”, trong đó mỗi người chơi, tới lượt mình, rút một cọng rơm mà không đượcđụng những cọng rơm còn lại. Tài nghệ của tiểu thuyết gia ở đây, là làm sao cân bằng cả ba, bắt từng nhân vật đối diện với chính mình, và với hai kẻ kia, trong tấn trò đời, với tất cả những lên voi xuống chó, những hy vọng, những thất bại - và nhất là, phải làm sao cho độc giả đừng trông mong có được một nhận định, đánh giá sau cùng, khi gấp sách lại, [và thở phào, rằng, việc đọc của ta như vậy là xong!]. Greene không thích những độc giả của ông có được sự hài lòng, thoải mái, theo nghĩa này: “Khi chúng ta không chắc chắn, như vậy là chúng ta vưỡn còn sống!”

 
Trường hợp Người Mỹ Trầm Lặng, bầu khí mang chất đạo hạnh trong đó được xây dựng từ từng mỗi viên gạch của nó, như Zadie Smith đã nói tới, về một hệ thống đạo đức được so đo đong đếm đến từng chi tiết. Nó làm Zadie Smith nhớ tới Henry James trong tác phẩm Những Người Âu Châu, nhưng có khác, với Greene, câu chuyện không xẩy ra ở trong một căn phòng, mà là ở trận địa. Có gì là chắc chắn khi lọt vào một trận địa. Độc giả, như Greene, bị đẩy vào trong những cuộc tranh chấp dơ dáy, bẩn thỉu, tởm lợm nhất của thế kỷ, thí dụ như cuộc chiến Việt Nam, và rất nhiều cuộc chiến khác, một khi con người vẫn cứ lăn xả vào nhau, chém giết nhau, cho dù những “nghĩa cả” đã trở nên tối mò mò, chẳng ai còn tin tưởng vào chúng nữa. Những nhân vật của Greene làm bật ra sự bất toàn, tính không thể nào xác định được, của cái gọi là đạo đức, đạo hạnh, sự lẫn lộn, chẳng biết đàng nào mà lần, một khi con người sống ở trong một cuộc chiến không [làm sao] chấm dứt. Nhưng, cho dù vậy, tại Việt Nam, trong Người Mỹ Trầm Lặng, Phượng và tay phóng viên Fowler đã tìm được nhau, đúng là một sự chúc phúc, quá mức mong đợi ít ra là đối với Fowler. Đây đúng là một sự cứu nguy vào phút chót, sắp sửa chìm lỉm thì vớ được sợi thừng cứu mạng!

“Tôi là một kẻ có niềm tin lớn lao vào Lò Luyện Ngục”, Greene đã từng trả lời như vậy, trong một cuộc phỏng vấn. “Lò Luyện Ngục, với tôi, là có ý nghĩa…. một khi bị ném vào đó, con người có ấn tượng về sự du di, chuyển động. Tôi không thể nào tin vào Thiên Đàng. Mọi người cứ ỳ ra, ở đó. Đâu còn có điều gì để mà làm nữa!”

 Ở Lò Luyện Ngục đó - ở cuộc chiến Việt Nam đó – Fowler vô trước, sau tới anh chàng thiện nguyện, cố vấn Mẽo, đẹp trai, trẻ măng. Anh này tin vào Thiên Đàng. Anh ta tới, được trang bị bằng cả một tự sự lớn [a great narrative], về Việt Nam. Anh ta sẽ bắt ép Việt Nam phải “thích hợp” với nó – Tiền Đồn Chống Cộng cho cả một trái đất sẽ không còn Cộng Sản nữa, thí dụ vậy. Anh ta có một câu chuyện của anh ta về Fowler, và ngược lại, Fowler cũng có một câu chuyện riêng của mình, về tên thực dân mới ngu si đần độn, cứ tưởng mình sẽ đem tự do dân chủ theo kiểu Mẽo đến cho thuộc địa cũ của Tây, và đây là giọng kể chính của cuốn tiểu thuyết. Cả hai tay này lại có những câu chuyện của riêng của họ về Phượng. Chẳng có một câu chuyện nào tin được. Chúng đều được dựng lên, theo yêu cầu của từng cá nhân, cho hợp với vai trò của mình. Greene hiểu rất rõ, những toan tính vị kỷ, nằm nơi đáy sâu con người, sẽ đẩy con người đi tới đâu. Ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, những toan tính cá nhân này được hiện rõ ra, trên cái nền chính trị, và cùng với nó, là một xứ sở. Qua Phượng, người đọc cảm thấy, đây là một người đàn bà thực, đang hít thở không khí, không phải là một ý tưởng về một người đàn bà mà Pyle đang chôm từ Fowler.

Gừng càng già càng cay, càng ngày, tính ngây thơ ngốc ngếch, mù tịt về thế giới của anh chàng cố vấn Mẽo Pyle càng nổi lên cùng với cuốn truyện, kể từ khi được xuất bản, đúng như Fowler cảnh cáo anh ta:

“Tôi cầu mong Chúa làm cho anh hiểu được những gì anh đang làm ở đây. Ôi, tôi hiểu rất rõ, những nguyên nhân, những mục đích, những ý hướng tốt đẹp của anh.  Chúng luôn luôn tốt… Tôi chỉ mong, đôi khi anh có được một vài ý hướng xấu, có lẽ anh sẽ hiểu thêm được một tí, về thế thái nhân tình, về con người. Điều này áp dụng luôn cho cả cái xứ Mẽo của anh đấy, Pyle ạ.”

Nhưng theo Zadie Smith [Guardian], Pyle không chịu học. Sau cùng, anh ta cho rằng, niềm tin quan trọng hơn hoà bình, tư tưởng sống động hơn con người. Sự ngây thơ của anh ta, trên bình diện thế giới, chẳng khác gì một thứ chính thống giáo [fundamentalism]. Đọc lại cuốn truyện càng củng cố thêm lên nỗi sợ của  Zadie Simith, về tất cả những me-xừ Pyle trên toàn thế giới. Họ đâu có muốn làm cho chúng ta bị thương tổn. Chúng tôi tới với bạn là do thiện ý, do niềm tin, cơ mà? Nhưng chính những me-xừ Pyle này làm chúng ta đau khổ, làm thương tổn chúng ta. Thành quả lớn lao của Greene ở trong Người Mỹ Trầm Lặng, là cho tên già đểu giả, Fowler, nhân danh “nghĩa cả”, khi chỉ vào đống xác người mà Pyle coi, đó chỉ là biểu tượng. Fowler, và những người như anh ta, đều lý tưởng quá đủ, để mà chứng minh rằng, trên trái đất này, chẳng có một lý tưởng nào xứng đáng để mà lăn xả vào nhau, chém giết lẫn nhau,  vì nó. Khi Pyle hỏi Fowler, như vậy, anh tin vào điều chi, “Tôi tin, tin chứ. Tôi tin, mình đang tựa lưng vô tường, và có một họng súng ở đằng kia kìa”. Pyle lắc đầu: “Tôi đâu tính hỏi bạn như vậy”.

Nhưng tác phẩm của Greene là đúng như vậy đó. Ông mang tới cho người đọc, một hy vọng, thứ hy vọng mà một người quan sát viên dán mắt vào sự kiện đem lại cho chúng ta. Theo nghĩa đó, Greene là tay ký giả bậc thầy. Ông dâng hiến cho chúng ta những chi tiết, và những chi tiết chính chúng, sẽ chiến đấu, trong một cuộc chiến đấu nhằm chống lại những thùng rỗng kêu to, nói rõ hơn, những ý nghĩ, tư tuởng lớn lao, nhưng vô ngã, vô vị, vô hình, vô ảnh, như của Pyle.

Ruth Franklin trên tờ Người Nữu Ước, tìm ra, Thượng Đế là ở trong những chi tiết, ngược hẳn với Zadie Smith, trên tờ Guardian, bà thấy Ma Quỉ ở trong những chi tiết, khi đọc Greene. Nhưng bà thêm vô, cứu chuộc cũng là từ đó.

Và có thể, đó cũng là của Greene, như ông từng có lần cầu nguyện, “Một vài người trong chúng ta có thiên hướng tin yêu Chúa. Một vài người khác, có thiên hướng tin yêu con người. Cầu xin làm sao thiên hướng của tôi đừng bị phí phạm”.

Cầu sao được vậy.

Nó quả đã không bị phí phạm.

NQT
    
LULJETA LLESHANAKU (b. 1968)

Chess

Autumn. Veins of marble
swell in the rain.

The graves of my relatives
four inches of space between them
lined up
like cars at a railroad crossing.

What once kept them together
like fingers in an ironsmith's glove
has vanished .... The war is over.

In the afterlife there are only a few strangers
waiting for the train to pass ...

The smell of the earth
reminds me of home
where a clock that once hung on the wall is missing.

I polish the dust off their names with care -
the years ... like little bruises on a knee,
love ... which now pricks less
than the thorns of a rose.

There, at the entrance to the cemetery
the guard sits in his booth
playing chess with himself.

Translated from the Albanian by  Henry Israreli and Shpresa Qatipi
   
EUGENIO DE ANDRADE (1923-2005)

Brief September Elegy
I don't know how you came,
but there must be a road
leading back from death.

You are seated in the garden,
your hands in your lap, filled with sweetness,
your eyes resting on the last roses
of these vast and calm September days.

What music do you follow so intently
that you don't even notice me?
What forest, or river, or sea?
Or is it within yourself
that everything still sings?

I would like to speak to you,
just to tell you that I'm here,
but I'm afraid,
afraid the music all will stop
and you will cease to see the roses.
Afraid of breaking the thread
with which you weave unremembered days

With what words
or kisses or tears
can one awake the dead without harming them,
without bringing them to that black foam
where bodies and bodies repeat themselves
parsimoniously, among shadows?

Stay as you are then,
filled with sweetness,
seated, gazing at the roses,
and so very far away
you don't even notice me.

Translated from the Portuguese by Alexis Levitin

30.4.2016

Rất ư là tình cờ, Gấu vớ tờ Người Nữu Ước cũ, đọc cái còm của David Remnick, trong có kể về lần Havel ghé Cẩm Linh, Moscow, gặp Gorbachev.
Đây là lần đầu tiên 1 ông Trùm Đông Âu tới Cẩm Linh, 1 cách bảnh tỏng.
Trước đó, thì chỉ là chư hầu đến xin lịnh của Minh Chủ, Ông Trùm Xì.
Remick nhắc tới 1 câu của Havel
, không hiểu sao, làm Gấu móc vô cái tình trạng nước Mít hiện giờ.
Havel phán, thất vọng, chán ngá
n, là 1 cái tội không thể tha thứ được:

For Havel, though, despair was indeed an unforgivable sin. In his first New Year's address to the Czech people, Havel admitted that the years of oppression had led them to live in a "contaminated moral environment. “Occupation, resentment, terror, and religious hatred have done the same in a place where despair is a constant shadow. Moral leadership, a moral generosity in politics, will not resolve every question-to suppose that it will is a form of sentimentality-but it is an essential part of what is required in Jerusalem and beyond.

COMMENT
 
HAVEL IN JERUSALEM

Havel ở Jerusalem


Not long after his unlikely rise from Czech prisoner to Czech President, Viclav Havel paid a visit to Moscow. Until that moment, the leaders of Eastern and Central Europe had arrived at the gates of the Kremlin as little more than nerve-racked supplicants. They came to receive instructions and to pay obeisance to the General Secretary. Now Havel was there to see Mikhail Gorbachev, but, with an air of modest self-confidence, he carried a set of demands and an ironic prop. As Michael Zantovsky tells the story in his excellent new biography, Havel asked that the Soviet Union remove its troops from Czech territory, and that the two nations sign a statement declaring them equals. Gorbachev, who had already relinquished his imperial holdings, agreed, at which point Havel produced a peace pipe, telling Gorbachev that it had been given to him by the chief of a Native American tribe during a recent trip to the United States.
"Mr. President," Havel said, "it occurred to me right there and then that I should bring this pipe to Moscow and that the two of us should smoke it together." Zantovsky, who was Havel's press aide at the time, recalls that Gorbachev"looked at the pipe as if it were a hand grenade.” Then the Soviet leader turned to Havel and stammered, "But I ... don't smoke."
Last week, a bust of Havel, who died in 2011, was unveiled at a ceremony in the Capitol Rotunda, in Washington, exactly twenty-five years after Czechoslovakia, in concert with the rest of the Eastern and Central European countries under Moscow's rule became free. For decades, this had been beyond imagining. The rupture, seemingly so sudden, had many underlying reasons, not least Gorbachev's realization that the imperial system was bankrupt, immoral, and without a future. But it was led and shaped by a singular politician-a playwright of the absurd who well understood the comic improbabilities of his life. Havel was a child of the Czech bourgeoisie, a lab assistant, a soldier, a stagehand, a dramatist, a moral philosopher, a dissident, a political prisoner for four years, and, finally, a President for fourteen. Part of the reason that Havel is so celebrated today is that he radiated a homey brand of intellectual glamour-his passion for the Velvet Underground and for the Plastic People of the Universe, his decision to ride around the Castle on a scooter, his late, smoky nights in pubs and theatre basements. Although he trafficked in footlights and stage makeup, there was nothing false about him. His honesty was so extreme, so theatrically self-exposing, that his aides came to dread it. In April of 1990, less than a year after he became President, Havel visited Jerusalem and spoke at the Hebrew University, where he confessed a "long and intimate affinity" with his countryman Franz Kafka, and the near-certainty that his ascent to the Castle had been illusory and undeserved, and was sure to end in his being found out by the authorities:
I am the kind of person who would not be in the least surprised if, in the very middle of my Presidency, I were to be summoned and led off to stand trial before some shadowy tribunal, or taken straight to a quarry .... Nor would I be surprised if I were to suddenly hear the reveille and wake up in my prison cell, and then, with great bemusement, proceed to tell my fellow prisoners everything that had happened to me in the past six months .... The lower I am, the more proper my place seems; and the higher I am, the stronger my suspicion that there has been some mistake. Like all politicians, Havel made errors of judgment; what was unusual about him was that he openly acknowledged it. He was also assisted, as he knew, by certain advantages. He was working with a relatively prosperous nation and could look for political inspiration to figures from the pre-Communist past, particularly the great democrat.
Tomas Masaryk, who was President in the nineteen-twenties and thirties. Nevertheless, Havel must be credited with guiding his country, which had been ruled for so long by Berlin and Moscow, to independence, democracy, and the rule of law. He preferred to seize opportunities rather than to nurse grievances. When Gorbachev asked that there be no retribution against Czech Communists, Havel readily agreed.
Such moral imagination is, globally, in short supply. The day before Havel was honored in Washington, another chapter of cruelty unfolded not far from where he delivered his speech at the Hebrew University. In the Har Nof neighborhood of West Jerusalem, two Palestinians, cousins from East Jerusalem, burst into Kehilat Bnei Torah, a synagogue filled with people at their morning prayers. Yelling "Allahu Akhbar!"-God is great!-the men attacked the worshippers, with cleavers and guns. They seriously injured eight and killed five, including a rabbi named Moshe Twersky, who was a grandson of the late Joseph Soloveitchik, the leader of Modern Orthodoxy; and a young Israeli policeman, a Druze named Zidan Saif Then came the moral leadership: Mushir al-Masri, a spokesman for Hamas, wrote on his Facebook page, "The new operation is heroic and a natural reaction to Zionist criminality against our people and our holy places. We have the full right to revenge for the blood of our martyrs in all possible means." There are many ways to think about such a horror, but one might start with the fact that this was a deliberate massacre of human beings at a moment of devotion-no less an act of bloody-minded fanaticism than the one carried out twenty years ago by an Israeli physician named Baruch Goldstein, when he entered the mosque in the Cave of the Patriarchs, in Hebron, and opened fire with a machine gun, killing twenty-nine Muslims at prayer. The Hamas spokesman's attempt to provide a triumphal "context" is as indecent as the veneration of Goldstein as a martyr by some Israeli fundamentalists.
It is hard to ward off despair when looking at the cast of political players in this drama: the cynical, the racist, the exhausted. For Havel, though, despair was indeed an unforgivable sin. In his first New Year's address to the Czech people, Havel admitted that the years of oppression had led them to live in a "contaminated moral environment. “Occupation, resentment, terror, and religious hatred have done the same in a place where despair is a constant shadow. Moral leadership, a moral generosity in politics, will not resolve every question-to suppose that it will is a form of sentimentality-but it is an essential part of what is required in Jerusalem and beyond.
-David Remnick

THE NEW YORKER, DECEMBER 1, 2014  

Ô Bá Mà @ VN
Barack Obama in Vietnam
Cash for questions
Can freer trade soften Vietnam’s thuggish ways?
May 21st 2016 | HANOI | From the print edition   

http://www.economist.com/news/asia/21699162-can-freer-trade-soften-vietnams-thuggish-ways-cash-questions

WHEN she was sent to prison for helping organise a strike at a shoe factory in Vietnam’s Mekong-delta region, Do Thi Minh Hanh was only 25. In the four years that followed the young labour activist was shuffled through six different jails, enduring beatings from guards and other inmates. Released in 2014, Ms Hanh carries on with her campaigning. But she says that police stationed near her house often prevent her from travelling to meet workers. Women, their identities hidden by face masks, are sometimes enlisted to manhandle her back into her home.
Ms Hanh is one of many outcasts hoping that Barack Obama’s three-day visit to Vietnam, which begins on May 23rd, will bring a little succour. Mr Obama is the third American president to visit the country since the Vietnam war, and the tour will further deepen ties that have improved during his two terms—some analysts even think that the White House may ease an arms embargo. Mr Obama’s visit is a chance to celebrate the signing of the Trans-Pacific Partnership (TPP), an American-led free-trade pact agreed upon late last year that Vietnam is expected to ratify soon. As a condition of entry, the ruling Communist Party of Vietnam has made some surprising commitments, including to tolerate the kind of independent labour-organising that has made Ms Hanh a pariah. But that is a promise on paper only.
No nation stands to gain more from the TPP than Vietnam, which, the World Bank guesses, will get a GDP boost of 10% by 2030. Lower foreign tariffs would increase exports such as garments and shoes. The deal would also spur local production of fabric and much else that is currently imported. The TPP is popular with ordinary Vietnamese. They like any effort that reduces their dependence on China, Vietnam’s big northern neighbour, with which it has a big trade deficit and a bitter territorial dispute. Meanwhile, reformers in government hope that TPP membership will hasten the privatisation of bloated state-owned enterprises, which have long weighed on the economy but which vested interests make difficult to slim.
A giant step for a paranoid party
More sensitive is the obligation to liberalise Vietnam’s labour laws. A side agreement signed with America—and designed to satisfy critics in the American Congress—requires Vietnam to pass a law allowing workers to form independent trade unions at the factory level by the time the TPP comes into force; and after five years these unions must be allowed to form national and industrial federations. Some of the valuable tariff exemptions on offer to Vietnam will be held back until after this five-year target has been met.
The stipulations stand to end a monopoly long held by the Vietnam General Confederation of Labour, a fusty arm of the party under which all unions are presently herded. Its affiliates and its 8,000 full-time staff transmit the party line and organise morale-raising shindigs. It is common to find union leaders holding down jobs in company personnel departments. But the confederation has become less effective at averting strikes, which have grown to 4,000 in the past ten years, a fourfold increase on the previous decade.
Tolerating independent unions would be a big step for a paranoid one-party state in which churches and chess clubs receive formal supervision. There are few signs that the state is ready to make the leap. In the past few weeks police have carted away activists protesting against pollution that appears to have caused tonnes of dead fish to wash up on beaches in north-central Vietnam. The authorities claim that the demonstrations have been instigated by “terrorists” abroad.
The indications are that the party will find ways to neuter its pledge on unions, for fear of midwifing movements which may one day threaten its control. Activists warn that an official summary of Vietnam’s labour agreement with America omits details such as the right of independent unions to collect fees from employers, as the state’s labour federation does. The summary also hints that authorities will continue to hobble groups deemed to endanger “societal orderliness”.
A partial implementation of the agreement may yet be better than nothing. A debate about labour laws might at least help reformers fashion the state-run union into a more effective body, thinks Erwin Schweisshelm of the Friedrich Ebert Foundation, a German think-tank. But much relies on America’s convincing the government that it is prepared to withhold Vietnam’s tariff exemptions should progress be deemed insufficient. The deal’s critics in the West claim that America has done a bad job of enforcing labour-rights clauses in previous free-trade agreements, for example with Peru and Colombia. Supporters counter that the wording of the deal with Vietnam lays out the obligations, and potential sanctions, more explicitly than do previous agreements.
The one certainty is that none of this will be tested if, as is increasingly feared, America’s own lawmakers end up not ratifying the TPP. Activists in Vietnam are not holding their breath. In November, weeks after the terms of the TPP were made public, plain-clothes policemen spirited Ms Hanh away from a meeting with fired factory workers to a police station; she says she was choked and beaten about the head. The government accuses her and others like her of aiming to overthrow it. She says she only wants workers to know their rights.

Khi bị VC bắt, vì giúp thợ làm giầy tổ chức biểu tình, Đỗ Thị Minh Hạnh chỉ mới 25 tuổi. Bốn năm sau đó, cô thợ trẻ, nhà hoạt động trải qua 6 nhà tù, bị cớm VC và đại bàng đánh đập. Được VC thả năm 2014, cô tiếp tục con đường
hoạt động của mình, nhưng cho biết cớm VC đi 1 đường lập 1 cái trạm thường trực ngay bên nhà cô, để ngăn cản cô gặp gỡ công nhân. Những con mụ đeo khẩu trang thay cho mặt nạ, tóm lấy cô, đẩy vô nhà, không cho ra đường. 
Cô Hạnh là 1 trong nhiều kẻ sống bên lề xã hội, thành phần gây loạn, khủng bố, outcasts, như VC dán nhãn, hy vọng chuyến thăm viếng ba ngày của ông tổng thống da đen Mẽo, sắp sửa về nhà đuổi gà cho vợ, mang đến cho xứ Mít đã từng đá đít Mẽo ra khỏi đất nước của họ, trong 1 cuộc bỏ chạy tán loạn, tí ti hy vọng, tí ti giúp đỡ, tí ti viện trợ. Viện Trợ Mẽo, như Ngụy đã từng gọi.

Đáng suy ngẫm!

Hàng nghìn người đứng hai bên đường phố vẫy chào đoàn xe của Tổng thống…
thanhnien.vn|By Báo Thanh Niên

Miền Bắc nhận "hàng": Trong những "hàng" này, có cái gọi là phồn vinh giả tạo, cơm thừa canh cặn mà Mẽo, trong cú bỏ chạy tán loạn, không kịp mang theo, chăng?
Tks U, Yankee mũi lõ, bây giờ mới có dịp!


Là kẻ học đọc học viết cả đời, mình thấy cái câu Ngô Bảo Châu viết hôm vừa rồi hay quá cơ. Không phải là nhiều nghĩa mà là nhiều tầng nghĩa.
Có lẽ vì thế mà nhận phản ứng theo mình thì hết sức ngộ nghĩnh từ nhiều tầng đọc.

Comments
Chung Le Mình cũng rất tâm đắc với câu đó của Ngô Bảo Châu.
Quoc Tru Nguyen Trong các tầng nghĩa, có tầng, viết ra rồi nuốt vô [xóa bỏ]?
LikeReplyJust now

I conclude with some words of Leszek Kolakowski that, I am convinced, reflect Andrei Sakharov's view: "No victory is irreversible, no defeat is definitive. That is what makes life worth living."

The New York Review 13 Jan 2011

Note: Khi NBC được Nobel Toán, GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một cú tương tự như trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:

"Không có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó".

Ui chao, mừng hụt! NQT

*

Những người làm nên cuộc cách mạng. Người cha tinh thần của nó, nhà bác học Sakharov.

Khi NBC được Nobel Toán, GCC đã muờng tượng, ông sẽ trở thành 1 thứ như Sakharov, cha đẻ bom nguyên tử của Liên Xô, người lãnh đạo tinh thần của xứ Bắc Kít.
Nhưng "Người" thua cả Dương Thu Hương, 1 "người" đàn bà Bắc Kỳ.
Bà Hương, khi Nguyễn Văn Linh đề nghị cho căn nhà, bà lắc đầu.

Cái status của NBC, là của 1 tên ngớ ngẩn.
Một người như ông, nói cái gì phải thật đàng hoàng, rạch ròi, không thể hiểu khác đi, theo kiểu ẩn dụ, nhiều tầng được. Đâu có phải là văn chương, ở đây. Đất Bắc thiếu, đúng thứ như Sakharov. Ông này rất ư là yếu đuối, theo như bài viết của Rushdie về ông, nhưng khi cần là làm, là “tới luôn bác tài”.
Sĩ phu Bắc Kít, thứ cực điểm thông minh, như NBC,
không tên nào có dũng khí cả, theo GCC.
Hoàng Cầm, khi Tố Hữ
u bắt viết tự kiểm là ngồi nắn nót viết!
Não của chúng bị thiến mất một mẩu, đúng như GCC từng lèm bèm.

http://www.tanvien.net/tribute/Tribute_Sakharov.html

*

On Andrei Sakharov
Adam Michnik

Andrei Dmitrievich Sakharov- có một con người, và có điều mà người đó hoàn tất. Con người, tôi chỉ gặp ông ta một lần trong đời – vào ngày 16 Tháng Mười, 1989, gần như hai tháng trước khi ông mất vào tháng Chạp cùng năm. Ðó là lý do tại sao tôi sẽ nói về điều mà ông đã làm. Sakharov là nhân vật chủ yếu của những phong trào đòi hỏi dân chủ trong khối Xô Viết. Ông là nhà khoa học, làm việc trong một trường, a field, trường vật lý nguyên tử, cực kỳ quan trọng của nhà nước. Ông rất thành công. Ðược nhà nước kính trọng và ban thưởng. Ông có thể cảm thấy an toàn, bảo đảm.

Nhưng, sau khi quan sát chuyện xẩy ra trên thế giới, Sakharov chọn một con đường khác, con đường của một số những nhà khoa học Tây Phương lớn lao, như Einstein. Ông cảnh cáo thế giới trước hiểm họa một cuộc chiến hạt nhân. Ở Tây Phương, một vị trí như thế cũng đòi hỏi can đảm, và sự cố gắng về mặt tưởng tượng. Ở Liên Xô, nó đòi hỏi sự can đảm, tính anh hùng. Những thành viên của phong trào dân chủ ở Liên Xô được được gọi bằng cái nick, những kẻ “thất bại, thua, thiệt”, những kẻ có những tham vọng không mạnh khoẻ và  thèm khát quyền lực. Những từ như thế thì “nhảm, giả”, nếu áp dụng cho Sakharov. Ông là bằng chứng của sự thuần lý, mạch lạc của công cuộc đòi hỏi dân chủ.

Ông bắt đầu bằng niềm tin vào thay đổi và thuyết phục, vào sống chung hòa bình, và tụ điểm. Sau cùng ông đòi hỏi, biện hộ cho sự chống đối thông cảm hiểu biết lẫn nhau, toàn diện, và sự thực không tô son điểm phấn, đánh véc ni. Không bao giờ ông kêu gào cách mạng hay bạo lực. Ông không “mà cả” khi thấy cần thiết, nhưng sẵn sàng khoan nhượng khi cảm thấy có thể được, như ước muốn. Vị trí, thái độ của ông, khi “trân trọng”, respect, trước bạo lực và cách mạng, thì tương tự của Einstein, Martin Luther King Jr., Ðức Dalai Lama, John Paul II, và Vaclav Havel. Quan điểm của ông không phải của một nhà chính trị mà là của một chứng nhân trước lịch sử, một kẻ bị lôi kéo vào cuộc sống chính trị, và đem đến cho nó, những giá trị thật mạnh mẽ, của riêng ông. Những giá trị thật quan trọng đối với ông là tự do và phẩm giá của cá nhân con người. Ông không tin vào minh triết, túi khôn của đám đông, tập thể, quần chúng, bởi vì chúng thật dễ bị giật dây. Ông không tin vào chủ nghĩa quốc gia sắc tộc, hay chủ nghĩa đế quốc. Ông là nhà ái quốc Nga, trong cái “xì tai” của Chekhov và Herzen. Chính vì vậy mà ông kết án sự can thiệp của Xô Viết vào Czechoslovakia, năm 1968 và Afghanistan, 1979. Phản đối lại những chủ trương, chính sách ngoại giao lầm lạc của nhà nước ông, là hình thức của ông về chủ nghĩa ái quốc. Khi Liên Xô chiến tranh với Hitler, ông tin tưởng “lý tưởng, nghĩa cả của chúng tôi đúng”, nhưng ông hết còn tin nó đúng nữa, khi xẩy ra trường hợp Xô Viết dập nát Mùa Xuân Prague.
Cái giá ông phải trả mới cao làm sao: Trở thành nạn nhân của chiến dịch điên cuồng bôi nhọ, vu khống, tách biệt, cô lập ông và gia đình với toàn thể, tống đi biệt xứ ở thành phố Gorky xa xôi, thường xuyên bị theo dõi, đàn áp bởi cớm Liên Xô. Tất cả những điều trên đã giáng 1 đòn thật nặng lên sức khoẻ của ông, khiến ông từ giã sớm sủa cuộc đời này.
Sakharov với chúng ta ở Ba Lan, thì là một nguồn sức mạnh và hy vọng trong những năm CS, nhưng ông cũng còn là một thách đố. Nhiều người trong chúng ta đã thay đổi đời của mình khi nhìn thấy những gì ông đã làm. Không giống như nhiều người muốn sửa đổi chủ nghĩa Bôn Sê Vích, ông không bám chặt vào sự độc đoán, và hoàn toàn tự do, thoải mái với những “chủ nghĩa” khác. Thí dụ, ông không hề tin vào chủ nghĩa thần bí tôn giáo-quốc gia, ông là truyền nhân của truyền thống thuần lý tự do. Ông không phải là kẻ cuồng tín cho bất cứ một thứ lý thuyết nào - với ông, những con người, những dân tộc đang sống thì quan trọng hơn bất cứ một thứ khung tư tưởng trừu tượng nào.
Từ lưu đày nơi Gorky trở về, ông chọn con đường khoan nhượng chiết trung và hỗ trợ phong trào perestroika, khác nhiều di dân hay ly khai. Ông không phải là 1 người bất mãn hoài hoài hay quan sát với hận thù. Ông không tin vào cái gọi là cái “tệ nhất-tốt nhất”. Ông hiểu rõ “tệ hại là tệ hại”, và “tốt hơn là tốt hơn”. Và ông làm tất cả những gì có thể, để tốt hơn. Ông muốn một nước Nga dân chủ và bình thường trong một thế giới dân chủ và bình thường. Bài nói chuyện của ông ở Hạ viện Xô Viết hoành dương tư tưởng này.
Sakharov là một con người của xã hội dân sự, không phải chính trị gia của một đảng phái. Ông để lại di sản này cho chúng ta:

-Kiên nhẫn và trung thành với nguyên tắc
-Ða nguyên và mong muốn sự dàn xếp, thỏa hiệp, khoan nhượng – chúng ta phải chấp nhận những bất đồng xẩy tới
-Khoan dung
-“Cái tốt hơn-tốt hơn” (hoàn toàn không như Lênin: “cái tồi tệ-tốt hơn”)
-Chủ nghĩa ái quốc của những con người tự do: một quốc gia mà bách hại một quốc gia khác thì tự nó không thể tự do
-Trung thực với sự thực lịch sử
-Từ bỏ bạo lực.

Tôi kết luận bằng lời của Leszek Kolakowski, mà tôi tin tưởng, nó nói lên quan điểm của Sakharov: "Không có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó".

On Andrei Sakharov
Adam Michnik

This statement was made at a conference in Moscow in December 2009 in honor of the twentieth anniversary of Andrei Sakharov's death.

Andrei Dmitrievich Sakharov-there was the man and there is what he accomplished. I saw the man only once in my life-on October 16, 1989, almost two months before he died in December of that year. That is why I will speak about what he did. Sakharov was a key figure for the democratic movements in the Soviet bloc. He was a scientist, working in a field, nuclear physics, of supreme importance for the state. Sakharov was highly successful. He was esteemed and rewarded by the government. He could feel secure.

But after observing what was going on in the world, Sakharov chose another path, the path of some other great Western physicists, like Einstein. He warned the world against nuclear war. In the West such a position could require courage and imaginative effort. In the Soviet Union it required heroism. Members of the democratic movement in the Soviet Union have often been called "losers," with unhealthy ambitions and a lust for power. Such thoughts are patently false if applied to Sakharov. He is proof of the rationality of democratic protest.

He began with a belief in reforms and persuasion, in peaceful coexistence and convergence. In the end he advocated comprehensive opposition and unvarnished truth. But he never called for revolution or violence. He remained uncompromising when that was necessary, but he was ready to compromise when that seemed desirable.

His position with respect to violence and revolution was similar to those of Einstein, Martin Luther King Jr., the Dalai Lama, John Paul II, and Vaclav Havel. His point of view was not that of a politician but rather that of a witness to history who had been drawn into political life and brought to it his own strong values.

The most important values for him were freedom and the dignity of the individual. He didn't believe in the wisdom of the crowd, of the masses who can be easily manipulated. He didn't believe in ethnic nationalism or in imperialism. He was a Russian patriot in the style of Chekhov and Herzen. That's why he condemned Soviet intervention in Czechoslovakia in 1968 and in Afghanistan in 1979.

Protest against the wrongful policies of his government was his form of patriotism. When the Soviet Union was at war with Hitler he believed that "our cause is just" but he no longer believed this to be true in the case of the Soviet suppression of the Prague Spring.

He paid a very high price: he became the victim of a furious slander campaign, of discrimination against him and his family, and of isolation in Gorky, enforced by constant and oppressive police surveillance. All this took a toll on his health and led to his early death.

Sakharov for us in Poland was a source of strength and hope during the Communist years, but he was also a challenge. Many of us changed our lives when we saw what he was doing. Unlike many of those who wanted to reform Bolshevism he was not bound by dogma, and he was free from other "isms." For example, he never believed in nationalist-religious mysticism; he was the heir of the rationalist and liberal tradition. He was not a fanatic devotee of any doctrine-for him, living people were more important than any abstract scheme of ideas.

Having returned from exile in Gorky, he chose the path of compromise and selective support for perestroika, unlike many emigrants and dissidents. He was not a man who was perpetually dissatisfied or obsessed with revenge. He did not believe "the worse-the better." He understood that "worse is worse," and "better is better." And he did all he could to make it better. He wanted a democratic and normal Russia in a democratic and normal world. His speeches in the Soviet parliament promoted this idea.

Sakharov was a man of civil society, not a party politician. He left us this legacy:

• Patience and fidelity to principle
• Pluralism and willingness to compromise-we must accept that honest disagreements will occur
• Tolerance
• "The better-the better" (exactly unlike Lenin's "the worse-the better")
• The patriotism of free peoples: a nation that persecutes another nation cannot itself be free
• Fidelity to historic truth
• Renunciation of violence

I conclude with some words of Leszek Kolakowski that, I am convinced, reflect Andrei Sakharov's view: "No victory is irreversible, no defeat is definitive. That is what makes life worth living."

The New York Review 13 Jan 2011

Note: Khi NBC được Nobel Toán, GNV đã mơ mòng tưởng tượng ra, một cú tương tự như trên.
“Chàng” đứng giữa Bắc Bộ Phủ, Ba Đình, Lăng Bác H… dõng dạc cảnh cáo:

"Không có chiến thắng nào mà không có thể đảo ngược, không có thất bại nào là chung quyết. Đó là điều làm cho cuộc đời xứng đáng để cho chúng ta sống, nó".

Ui chao, mừng hụt! NQT
*

Về Andrei Sakharov

Bài phát biểu này được đọc tại buổi nói chuyện tại Moscow vào Tháng Chạp 2009, nhân kỷ niệm lần thứ 20, ngày mất của Andrei Sakharov

Andrei Dmitrievich Sakharov – một người đàn ông và điều mà người đó đã làm được. Tôi nhìn thấy người này chỉ một lần trong đời – vào ngày 16 Tháng Mười, 1989, hai tháng trước khi ông mất, vào Tháng Chạp năm đó. Đó là lý do tại sao tôi sẽ nói về điều mà ông đã làm được. Sakharov là nhân vật chủ yếu cho những vận động dân chủ trong khối Liên Xô. Ông là nhà khoa học, làm việc trong ngành vật lý nguyên tử, cực kỳ quan trọng của nhà nước. Ông rất thành công. Được nhà nước quí trọng và ban thưởng. Ông có thể cảm thấy an tâm, an toàn.
Nhưng sau khi quan sát chuyển biến trên thế giới, Andrei Dmitrievich Sakharov chọn một con đường khác, và là con đường của một số nhà vật lý Tây Phương khác, như Einstein. Ông cảnh báo thế giới trước chiến tranh nguyên tử. Ở Tây Phương, một vị thế như thế có thể đòi hỏi sự can đảm, và cố gắng về mặt tưởng tượng. Ở Liên Xô, nó đòi hỏi chủ nghĩa anh hùng. Những thành viên của phong trào dân chủ ở Liên Xô thường được gọi là “những kẻ thất bại”, với những tham vọng bệnh hoạn, thèm khát quyền lực. Với ai không biết, nhưng thật sai lầm nếu áp dụng chúng vào Sakharov. Ông là bằng chứng của sự đòi hỏi dân chủ, dựa trên cái nền hữu tình hữu lý.

Elena Bonner

Tôi được dậy dỗ từ những trường Xô viết; ở đó, những nghiên cứu xã hội và giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Xô Viết, là bắt buộc. Sau đó, tại trường y, tôi nghiên cứu triết học (lẽ dĩ nhiên, chủ nghĩa Mácxít-Lêninít), và kinh tế chính trị. Tôi chẳng tự hỏi chính mình, rằng có tí sự thực nào ở trong đó không. Khi qua được kỳ thi, nếu thiếu nó, tôi chẳng thể nào có bằng và trở thành bác sĩ, tôi quên tất cả những gì đã học.

Phải mất nhiều năm tôi mới hiểu, do không chịu nghiên cứu những môn học vượt quá mức yêu cầu, tôi đã bỏ qua một phần quan trọng, và có lẽ, phần cơ bản, về nhân văn, và trở thành một con người không có một cái nhìn hiểu biết [mang tính tri thức], về thế giới.

Tôi đang nói về chính mình, bởi vì làm gì có một trường hợp ngoại lệ cho tôi ở đây. Hầu hết những người thuộc thế hệ cha mẹ của tôi, và của tôi, đã có chung một kinh nghiệm tương tự. Chúng tôi sống và trưởng thành trong một bầu không khí của một sự sợ hãi toàn diện, vậy mà thường xuyên không nhận ra. Lớp học tôi có 23 đứa, 11 đứa có cha mẹ bị bắt. "Khủng bố là yếu tính thực sự của cái kiểu chính quyền này", Hannah Arendt viết như vậy, trong "Những nguồn gốc của chủ nghĩa toàn trị".

Cái chết của Stalin và sự sụp đổ của chủ nghĩa toàn trị chẳng làm cho nỗi sợ này biến mất. Nó như trở thành một phần trong cấu tạo cơ thể của chúng tôi và cứ thế truyền từ đời này qua đời khác. Đó là lý do tại sao không hề có một phong trào sinh viên học sinh nào ở Liên bang Xô viết. Nói chung, xã hội chúng tôi là một xã hội không có những niềm tin tưởng thực sự, cốt lõi. Tôi không nói tới một ý thức hệ quốc gia – bây giờ chúng tôi không có, và chúng tôi chẳng cần có! – nhưng mà là sự thiếu vắng một nguyên tắc đạo đức, sự thiếu vắng khả năng phân biệt sự thực so với những điều dối trá, cái tốt so với cái xấu.

http://www.tanvien.net/tg/tg15_nbc.html