George Steiner: Văn hoá không làm
tăng tính người.
(La culture ne rend pas plus humain)
Nhà hiền triết phẫn
nộ (Le sage indigné). Khiêu khích, tai
tiếng, bốc lửa (Provocant, scandaleux, sulfureux)… xét theo những nhãn
hiệu
người ta gán cho ông và bằng vào sự thù ghét của ông đối với những kiểu
thời
thượng trí thức cũng như những chủ nghĩa quốc gia, vậy mà vẫn chỉ tạo
cho ông
những người bạn thân thiết. Ở cái tuổi 71 G. Steiner tỏ ra khinh bạc
hơn bao
giờ hết. Tính phẫn nộ của ông chẳng những không dịu đi mà còn tăng thêm
lên.
Vốn gốc Do thái, sinh ở Vienne (Áo quốc), cha mẹ lưu vong qua Pháp rồi
qua Hoa
kỳ, Steiner học ở New York, giảng dậy ở đại học Princeton và đại học
Cambridge.
Ông đã viết một số tác phẩm bác học như "Những nàng Antigone",
"Cái chết của Bi kịch", "Đính chính", "Sau tháp
Babel". Vị giáo sư không biên giới này mãi khước từ quay về tổ quốc của
Hitler (Đức) và của Haider (Áo). Trong cuốn "Những Ngữ pháp của sự Sáng
tạo", cuốn sách mới nhất của ông, ông có viết câu này: "Tôi chẳng có
một xác tín nào hết". Như thể ông đã hiểu tất cả, khi nói như vậy.
Thôi giã biệt nhé,
thế kỷ 20! Và chẳng luyến tiếc gì hết!
Cái thế kỷ đã chấm dứt này, rồi ra, chắc chắn người ta sẽ chẳng chúc
phúc cho
nó đâu!
Trong suốt lịch sử,
đó là thế kỷ con người tỏ ra man rợ
nhất, kinh tởm nhất đối với đồng loại. Hiển nhiên, buồn thảm, đã rồi,
là như
vậy đấy.
Chẳng có chi là mâu
thuẫn, người ta có thể đồng thời thừa
nhận, những bước tiến phi thường trong tri thức và lối sống ở thế kỷ
20. Nhưng
từ những lớp lang biến cố là một câu hỏi mang tính quyết định: Làm sao
sống với
ý nghĩ, rằng con người, mặc dù những tiến bộ bề ngoài, vẫn bị tù hãm
trong bản
tính cực kỳ dã man? Một con người dù văn hóa nở rộ nhưng vẫn không văn
minh? G.
Steiner từ bao lâu nay, vẫn coi đây là chủ đề suy tư, người ta có thể
thấy ông
u uất, bi quan, âu lo… Ông là như thế đó. Nhưng ngày nay, liệu chúng ta
có được
một chọn lựa nào khác, ngoài việc nối lại tư tưởng bi đát? Trong một
châu Âu từ
nay vắng bóng Thượng Đế, tin vào Quỉ Sứ chẳng phải là tốt hơn sao, để
còn có cơ
may xiết cổ nó?
(Dominique Simonnet, người phỏng vấn).
Người phỏng vấn: Chúng ta từ giã thế kỷ 20. Ít nhất người ta
có thể nói về nó: một thế kỷ quằn quại. Là người đã trải qua bao chục
năm quan
sát những con người đồng thời với mình, luôn luôn khởi từ tọa độ phân
tích, là
văn hoá cổ điển, ông nghĩ sao, khi nhìn lại thế kỷ vừa kết thúc?
G. Steiner: Thế kỷ
sát nhân nhất trong lịch sử loài người…
Những con số tới mức mà người ta không sao hiểu nổi. Theo những sử gia,
từ
tháng Tám 1914 tới tháng Năm 1945, số người chết là 70 triệu, do chiến
tranh,
trại tù, tra tấn, lưu đầy, đói; con số nạn nhân của chủ nghĩa Stalin
áng chừng
100 triệu… Sự dã man không diễn ra ở sa mạc Gobi (Á châu), hay sa mạc
Arizona
(Mỹ châu), nhưng ở giữa Moscow và Madrid, giữa Oslo và Palerme, và hai
cuộc
chiến được gọi là "thế chiến", trên hết phải nói, là những cuộc nội
chiến của Âu châu.
-Sự dã man, một cách
nào đó, là con đẻ của Âu châu?
Những ý thức hệ mang
tính toàn trị, những xã hội không tưởng
của cõi chết, như chủ nghĩa Quốc xã hay chủ nghĩa Lênin-Stalin, chúng
cắm rễ ở
trong lịch sử Âu châu. Ky tô giáo khởi đầu bằng những cuộc tàn sát lớn
lao ở
Rhénanie, những cuộc thập tự chiến, những vụ sát hại người Do thái và
những tín
đồ Hồi giáo. Phải chăng điều đó tất yếu dẫn tới Lò Thiêu? Xác định như
vậy ắt
là bằng chứng của một chủ nghĩa tất định khá ngây thơ. Nhưng ngay lúc
này, sự
tàn sát kia có thể suy tư được, có thể quan niệm hoá được, và đó là Âu
châu
hiện nay. Chúng ta có thể quên, nhưng Bỉ là nước đã gây nên cuộc giết
lớn lao ở
xứ Congo thuộc Bỉ (những chuyên gia đã đưa ra con số 10 triệu người
chết). Kỹ
thuật của việc tảo thanh chủng tộc bao gồm cả sự kinh hoàng không thể
diễn tả
của việc tùng xẻo con người một cách hệ thống đã ươm mầm trong những vụ
dã man
đầu tiên, vi phạm dưới thời vua Bỉ, Leopold II. Pol Pot và Rwanda đã
được đưa
vào lịch trình từ những ngày đó rồi. Tôi nghiêm trọng nói lên điều này:
Thế kỷ
20 đã hạ thấp bậc thềm nhân bản, cái gọi là tính người, của nhân loại.
Bây giờ
thì chúng ta điều hiểu, con người dám làm tới đâu.
-Người ta không biết
điều đó từ trước sao?
Qua những vụ làm thịt
người ở Passchendaele (Đức), vào năm
1917, và ở la Somme (Pháp), vào năm 1916, người ta đúng ra là phải
biết. Tuy
nhiên, tôi cho rằng, con số những người biết chuyện xẩy ra ở Auschwitz
thì
không nhiều. Không, người ta không biết, rằng, người ta có thể hát nhạc
Schubert vào buổi tối và tra tấn một con người vào bảnh mắt hôm sau.
Chỉ một
vài bậc tiên tri của đêm tối, thí dụ như Dostoievski, mới linh cảm điều
này.
Vào cuối đời, Sartre nói: "Bạn biết không, sẽ còn ai, trong số chúng
ta?
Céline" Vậy đó, trong sự bỉ ổi của Céline có cú nhìn này; chính ông ta
cũng đã nhận ra nó. Chẳng ai muốn làm cuộc Du hành tới tận cùng của đêm
đen…
(Voyage au bout de la nuit, tác phẩm của Céline, một nhà văn
người Pháp
vốn
được coi là theo khuynh hướng phát xít. CTND).
-Thất bại của Âu châu
văn minh, phải chăng đối với ông, là
thất bại của văn hóa?
Đúng thế. Học vấn,
văn hóa mang tính triết học, văn học, âm
nhạc không ngăn chặn được điều ghê gớm tởm lợm. [Trại tù, lò thiêu]
Buchenwald
chỉ cách khu vườn của Goethe chừng vài cây số. Trong Đệ Nhị Chiến, ở
Munich,
khi thính giả bước vào thính phòng, nghe trình diễn một chuỗi nhạc
tuyệt vời
của Debussy, họ có thể nghe thấy những tiếng la thét của những con
người bị
tống xuất tới [trại tù] Dachau, kế ngay đó. Chẳng có một nghệ sĩ nào
đứng bật
dậy, nói: "Tôi không thể chơi nhạc. Tôi sẽ làm ô nhục mình, ô nhục
Debussy, ô nhục âm nhạc." Cuộc chơi đâu có mất đi, dù chỉ trong một
chốc
một lát, tính thiên tài của nó! Âm nhạc đâu có nói: không!
-Lời hay ý đẹp - văn
chương - chiết ra từ Thời Ánh Sáng,
chẳng những thất bại trong việc nhân bản hóa thế giới, mà còn ngoảnh
mặt làm
ngơ trước một nhiệm vụ như thế?
Đúng như vậy. Vào
cuối đời, đây là cơn ác mộng ám ảnh tôi:
ngoảnh mặt làm ngơ trước một nhiệm vụ như thế. Nhân bản hoá con người,
qua văn
hóa, đây là lời hứa lớn của Thời Ánh Sáng. "Tín ngưỡng suy giảm tới đâu
hận thù tan biến tới đó", Voltaire khẳng định như vậy. Sự chấm dứt niềm
tin lại phơi ra một diễn tiến hiểm nghèo hơn nhiều, mà những triết gia
của Thời
Ánh Sáng không tiên đoán nổi. Trong khi đi tìm địa ngục, chúng ta đã
học được
cách xây dựng nó, và làm cho nó hoạt động, ở ngay trên mặt đất. Chúng
ta chẳng
những biết một cơn khủng hoảng văn hoá, mà còn biết từ khước cả lý trí.
Lời hứa
của Thời Ánh Sáng đã không giữ được. Những thư viện, những viện bảo
tàng, những
rạp hát, những đại học vẫn có thể nở rộ dưới bóng mát của những trại
cải tạo.
Bây giờ chúng ta mới hiểu ra: văn hoá không làm tăng tính người. Văn
hoá còn có thể làm người ta trở nên vô cảm trước sự khốn cùng của con
người.
-Vậy là chính ông đã
xác nhận điều này. Ông: một người dâng
hiến trọn đời mình cho việc nghiên cứu và giảng dậy những môn học nhân
văn?
Đối với tôi, chức
năng "nhân bản hóa" của những
ngành khoa học nhân văn phải được đặt vào trong tình trạng hồ nghi, một
cách
thật là nghiêm túc. "Những cái văn cái vẻ cái vẽ", những "thư
trung hữu ngọc"… toàn là những từ kiêu căng rởm đời! Toàn chuyện châm
biếm! Chúng ra sao bây giờ nhỉ? Khi tôi là học sinh trung học ở
Janson-de-Sailly,
một giáo sư đã đọc câu này, của Alain, cho chúng tôi nghe: "Mọi chân lý
là
niềm lãng quên thân xác" (Toute vérité est l’oubli du corps). Người ta
dậy
điều đó cho con nít! Nhưng nếu mọi chân lý là lãng quên thân xác, như
vậy là
hàm chứa luôn chuyện tàn sát! Tôi biết quá đi chứ, Alain dùng câu trên
như là
một nói đùa cực kỳ Platon (ultraplatonicienne), nhưng thứ tư tưởng như
vậy cứ
xoáy mãi sâu vào trong tôi, và ngay từ hồi còn con nít, tôi đã bắt đầu
để cho
cái trò chơi "trừu tượng hoá" sự vật bám dính cứng lấy, trở nên ngất
nga ngất ngư vì nó! Để tôi nói thẳng ra ở đây: Khi tôi bỏ ra cả một
ngày trời
cặm cụi nghiên cứu Vua Lear [kịch Shakespeare], hay là Ác Hoa [Les
Fleurs du
Mal, của nhà thơ người Pháp, Baudelaire], tới chiều, trở về nhà, tôi
vẫn còn ở
trong tình trạng "siêu thoát", và thế là tôi không nghe thấy tiếng
khóc ở trên đường phố. Ở trong văn hoá cao, có một sức mạnh, chính nó
đã làm
cho những đau thương, khốn khổ thực sự của con người, tầm thường, tẻ
nhạt, bát
nháo… trở thành trơ ra. Những giọt nước mắt của Cordélia [trong kịch
Shakespeare] trở nên sống động hơn, sờ sờ ngay trước mắt, thực hơn, so
với
tiếng khóc ở ngoài đường phố. Mỹ học, Cái Đẹp, một trang của
Shakespeare, của
Kant, của Descartes, của Hegel hay của Bergson cứ thế đẩy lui dần thực
tại thường
nhật. Thế là, qua năm mươi hai năm giảng dậy, tôi tự hỏi: "Mi có biết
rõ
cái việc mi đang làm, là giảng dậy ấy, nó ra làm sao?" "Liệu chúng ta
có thể thực sự tạo được sợi dây, nối kết văn hoá cao với một cung cách
cư xử
cho ra người?" Tôi cứ hỏi mãi tôi như vậy.
-Ông đã tìm ra câu
trả lời?
Trong đời tôi, tôi đã
gặp được năm hoặc sáu sinh viên phú
bẩm (doués), sáng láng (créatifs) hơn tôi. Một lần ở [Đại học]
Cambridge, một
trong những nữ sinh viên, con chim đầu đàn của khóa học, đã nói với
tôi:
"Tôi ghê tởm tất cả những gì thầy dậy tôi; tôi quá chán tất cả những gì
mà
thầy đại diện; tôi chẳng bao giờ thèm nghe nói về văn hóa, và tôi bỏ đi
làm một
người y sĩ chân trần ở Trung quốc." Vài năm sau, tôi được mời thăm Bắc
kinh, và vị Đại sứ Anh quốc đã cho tôi tin tức về người đàn bà này. Bà
là một y
sĩ, trong một làng quê không điện không nước… Vậy đó, bà ta có lẽ là
một thành
công độc nhất của tôi.
-Điều gì đã đẩy ông
tới ý thức như thế?
Một trong những bước
ngoặt là những biến động ở Cambodge.
Trên truyền hình, người ta loan tin Pol Pot đã chôn sống 100 ngàn
người. Ngày
hôm đó, ở Mỹ, ở Nga, ở Israel, ở Pháp đúng ra là người ta phải đứng bật
dậy,
nói: "Không! Ba mươi lăm năm sau Auschwitz, chúng ta không dám ngó mặt
mình ở trong gương khi biết điều này. Vứt mẹ nó đi, nào là pháp quyền
nào là
quyền lợi địa dư chính trị trong cái giỏ cua là xứ sở nhỏ bé đó, chúng
ta sẽ ra
tay ngăn chặn, chấm dứt điều này, bởi vì chúng ta là những con người."
Nói
ra như vậy có lẽ sẽ thay đổi được lịch sử của con người. Vậy mà, không
là
không. Cứ như chẳng có chuyện gì xẩy ra hết. Tôi viết thư cho những
người có
ảnh hưởng ở Do thái để vận động họ. Chẳng ăn thua gì hết. Và nước Anh
thân mến
của tôi cứ thế tiếp tục bán lén vũ khí cho bọn Khờ Me đỏ. Có thể nỗi
đau bây
giờ được nhận thức khác ngày xưa. Bởi vì nó chình ình ra đó: biết liền,
thấy
liền, nghe liền. Bây giờ chúng ta được thông tin khác trước đây. Những
phương
tiện truyền thông đại chúng biến chúng ta thành chứng nhân. Nhưng một
khi là
chứng nhân, chúng ta trở thành đồng lõa. Chúng ta cố nuốt trái dắng, cố
"chấp nhận" điều không thể chịu nổi.
-Theo suốt chiều dài
lịch sử, cũng có một vài người biết nói
không?
Những tiếng ‘không’
lớn lao, đối với trò man rợ, là từ những
con người mà chúng ta gọi là bình thường, giản dị, "Die einfache Leute,
die es nie sind", như [nhà soạn kịch người Đức] Bertolt Brecht nói
(những
người dân thường, họ có tầm thường đâu). Những cá nhân tuyệt vời đã
chọc thủng
bề dầy của vực thẳm: Simone Weil, bà đã có một thị kiến về chân lý, nó
giống
như mặt trời chói lòa, hay đúng hơn, đêm đen huyền bí, trên bộ não con
người;
Robert Antelme, Primo Levi… Điều này chẳng ngăn được những vụ tàn sát ở
vùng
Balkans, cũng chẳng ngăn được việc giết hại những trẻ thơ.
-Cùng với thế kỷ
[này], chúng ta phải chôn đi Thời Ánh Sáng,
và ý tưởng về tiến bộ: như là con đường giải thoát?
Phải chăng đây là món
nợ của chúng ta, trước những gì mà
chúng ta đã làm, đối với con người? Liệu chúng ta cứ thế tiếp tục sống,
như thể
chẳng có chuyện gì xẩy ra? Bước nhẩy vọt về phía trước, của khoa học,
kỹ thuật,
y học thật là đáng kể. Nhưng Lịch Sử, đối với chúng ta, không còn là
một sự
tiến triển. Kể từ nay, chúng ta bị hung hiểm hơn bao giờ hết, so với
những đàn
ông và đàn bà của một Tây phương có văn minh, nếu tính từ cuối thế kỷ
16. Chúng
ta phải nhắc lại nền tảng của truyền thống Tây phương, tái xây dựng hệ
thống
những giá trị của chúng ta. Thật không có gì khó khăn cho bằng, khi
chiến đấu
chống lại sự sơ khai của con người, như đã được chỉ ra bởi Freud,
Nietzsche,
Kant. "Tất cả những nền văn minh đều chết", [nhà thơ người Pháp]
Valéry nói. Tôi muốn thêm vô: tất cả những nền đạo hạnh cũng đều
chết.
-Nền đạo hạnh nào,
cho dù phiến diện, theo ông, chúng ta có
thể tái xây dựng nó, cho thế kỷ mới mẻ này?
Thần học xưa kia là
chỗ dựa của nền văn hoá cao của chúng
ta. Sau cùng, như chúng ta thấy đấy, chính thần học, hay giả thuyết về
một
Thượng Đế, đã củng cố những giá trị, kể cả những giá trị thẩm mỹ.
Nhưng, nếu
con người ngày một bớt tin tưởng thì càng cần phải tìm một nền đạo đức
của con
người, một nền đạo đức không có Thượng Đế, không có Mười Điều Răn, để
giúp
chúng ta. Phải tự nhủ với nhau, như thế này: "Con người đơn độc trên
trái
đất, cùng với loài vật, đó là tất cả những gì còn lại với con người."
Nếu
không có kiếp sau, có thể con người nên sáng tạo ra một nền đạo hạnh
thế tục?
Lại cũng vẫn những nhà văn lớn chỉ cho chúng ta con đường. Ở cuối tác
phẩm Phận
Người của [nhà văn người Pháp André] Malraux, một trong hai tay Cộng
sản, sắp
sửa chết bằng một cái chết cực kỳ ghê rợn, đã truyền viên thuốc độc
(cyanure)
cho người kia, để giúp cho anh ta không phải chịu đau đớn. Anh đã hành
động
bằng một đạo đức, theo đó, chính con người phải trách nhiệm về cái phẩm
giá tối
hậu của con người. Chúng ta có những cái nền, những nhà tư tưởng về nỗi
cô đơn
trơ trọi của con người không Thượng Đế, lẽ dĩ nhiên, trong đó có những
triết
gia vô thần cổ điển lớn.
-Một nền đạo đức vô
thần mới, và nó được soi sáng bởi những
điều thô bỉ của thế kỷ 20?
Malraux đã từng nói:
"Thế kỷ 21 phải là thế kỷ của tín
ngưỡng, bằng không sẽ không có thế kỷ 21." Tôi dám nói ngược lại: tôi
sợ
rằng, nếu thế kỷ 21 này là thế kỷ của tín ngưỡng, thì nó sẽ tiêu luôn.
Tôi có
hy vọng, rằng sẽ có những con người suy tư về phận người, chứ không suy
tư về
siêu thoát. Rằng, cái chủ nghĩa cuồng tín mang tính ý thức hệ sẽ trở
thành tội
tổ tông! Chúng ta còn chưa có ngôn ngữ người, Heidegger khẳng định như
vậy;
chúng ta vẫn chưa bắt đầu tập học suy tư và học nói.
-Ông "moi" cái đạo
đức mới này ở đâu ra vậy?
Tôi có cái may được
sống ở đại học Princeton và đại học
Cambridge, giữa những ông hoàng của nền khoa học cao. Với văn chương,
chữ
nghĩa, chúng tôi chơi trò bịp bợm lẫn nhau, từ sáng tới tối. Với khoa
học,
không thể bịp bợm. Nếu bạn bịp, vậy là bạn đi đoong. So với sự cách ly
của thế
giới khoa học, thì sự rút phép thông công kiểu trung cổ của giáo hội
trung cổ
chẳng là gì hết. Tôi nghĩ rằng, người ta có thể tìm thấy, trong những
ngành
khoa học, một nền đạo đức của chân lý, một thi tính của ngày mai, một ý
nghĩa
của tương lai, chúng là cái mầm nở ra những lề thói, cư xử mang tính
người một
cách tuyệt hảo.
-Cái gì làm được thì
cuối cùng khoa học cũng cứ làm. Chỉ sợ
rằng, rồi ra, nó sẽ chỉ biết nói không, chẳng khác chi âm nhạc?
Bạn còn bi quan hơn
cả tôi! Rõ ràng là có một số những nhà
nghiên cứu nghĩ rằng, giải thưởng Nobel đáng được chúc phúc. Nhưng
những người
mà tôi quen biết, tỏ ra quan tâm, nghiêm ngặt hơn thế nhiều. Vả chăng,
làm sao
nói tới văn hoá mà bỏ qua những nhà khoa học? Một khi mà người ta sắp
sửa thay
thế những phần của vỏ não con người, như vậy là những cái "tôi" (le
"moi", le "je") sẽ trở nên ra sao? Sau cùng lại vẫn là vinh
quang lẫy lừng của Rimbaud: "Tôi là kẻ khác" (Je est un autre). Vào
năm 1993, khi nhà toán học Andrew Wiles giải được bài toán hắc búa, là
định lý
Fermat, những đồng nghiệp của tôi sướng điên lên, họ nói với tôi: "Điều
này thật là đẹp! Ông ta đã chọn được một cách giải tuyệt đẹp. (It’s so
beautiful! Il a choisi la plus belle approche.) Với những nhà toán học,
từ
"đẹp" có một ý nghĩa cụ thể mà tôi chẳng thể nào hiểu được.
-Ông có vẻ sa đà, vậy
là đã quá xa những nền nhân văn yêu
quí thân thương của ông…
Khi người ta 71 tuổi,
người ta thử gắng đặt ra cho chính
mình, những câu hỏi thiết yếu. Thêm nữa, đây cũng là mục đích của đạo
sống Do
thái: Tự vấn, tự phán mình là có tội, và thử gắng làm kẻ hành hương
trong cuộc
đời. Tôi tin rằng sống ở đời là nghiêm khắc và đau đớn tự hỏi chính
mình rằng:
"Việc đó hỏng ở chỗ nào?", giống như người ta làm công việc nghiệm
thi sau khi đã xử lý tồi tệ một ca ở bệnh viện. Nơi mà những hệ thống
triết học
khiếm khuyết đối với chúng ta, thì khoa học vẫn còn năng động. Chúng ta
phải
giáp mặt với ba thách thức lớn: sự sáng tạo ra đời sống ở trong ống
nghiệm,
điều này sẽ đảo lộn pháp lý, chính trị và triết học; sự phân tích ý
thức con
người, Bewusstsein, như là những cơ chế hoá học thần kinh (mécanismes
neurochimiques); và sau cùng là lý thuyết về Vũ trụ của Stephen Hawking
và
những đồng nghiệp của ông [Vụ nổ lớn, lỗ đen…]. So với điều đó, giải
thưởng văn
học Goncourt có ý nghĩa gì? Chủ nghĩa hậu cơ cấu, hay hậu hiện đại là
cái gì?
Người ta lại trở về với câu nói lớn lao và cũng thật khủng khiếp của
người
Pháp: Kỳ dư, là hư văn. (Tout le reste est littérature).
[Jennifer Tran chuyển
ngữ cuộc phỏng vấn G. Steiner, do
Dominique Simonnet thực hiện cho tờ báo Pháp L’Express, số đề ngày
28.12.2000].