*
 

Lolita vs BHD

Âm nhạc của trái cầu

Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành - chỉ nhiều tuổi thêm lên, rồi thì già – và sự cần thiết đồ chơi của chúng ta thì không bớt đi. Tôi vẫn nhớ rõ ràng thật là khủng, những giọt nước mắt cay đắng, giận dữ, mà 1 thằng bé là tôi ngày nào, nhỏ ra ròng ròng, khi, trong một lần cả gia đình làm chuyến dã ngoại, vào một bữa Chủ Nhật, buổi chiều, ở Cistecian Abbey, ở Mount Melleray, ở County Waterford và bà má của tôi đã từ chối mua cho tôi, trong một tiệm bán quà lưu niệm ở đó, một cuốn thánh kinh thu nhỏ, có cái bìa bằng da dê màu trắng mà tôi đã nhắm nhìn nó, thèm muốn nó đến đỏ cả con mắt.
Vào những ngày này, tôi viết những cuốn tiểu thuyết của tôi trong những cuốn vở được làm bằng tay, riêng cho tôi, bởi một trong vị tổ sư làm sách đương thời, Tom Cains. Những cuốn sách đẹp ơi là đẹp, được phủ bằng giấy Cockerell với những cái gáy sách bằng giấy thuộc da bê, chúng thì hơn hẳn những đồ chơi, tất nhiên, nhưng, mặc ai nói gì thì nói, tôi lúc nào vẫn nhìn thấy, ở trong những cuốn sách làm bằng tay đó, một sự an ủi, một sự hoài nhớ thì đúng hơn, về cái cuốn thánh kinh đã quên, hụt có, suốt đời thiếu nó, ngày nào.

Ui chao, đúng là tình cảnh của GCC, nhưng với Banville, thì là sự an ủi, còn với GCC, một sự trù ẻo của một miền đất!


*

Số báo cũng khá cũ [số 106, 2009] nhưng mua ở tiệm không phải bán sách báo cũ, nên giá chẳng cũ. Trong có 1 bài, ở lề của tờ báo, như bià sau ghi: Plus John Banville’s objet trouvé and poetry by Fanny Howe, [kèm bài viết vật kiếm thấy của Banville, và thơ của Howe].

*

Bài của JB ngắn, ở lề, nhưng tuyệt vời, viết về nghệ thuật mất, “the art of losing”.
TV sẽ dịch bài này, tặng độc giả TV, thứ nghệ thuật, không khó làm chủ, the art of losing is one that is not hard to master, và có rất nhiều điều hình như tắm đẫm cái ước mong được mất đi, nhờ vậy mà cái sự mất đi của chúng không là một thảm họa [“seem filled with the intent/to be lost that their loss is no disaster”], Banville mượn ý thơ của E. Bishop để giải thích.

Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già - và cái nhu cầu đồ chơi, và chơi đồ thì chẳng bao giờ yếu đi.

Tay Banville này, nhà văn, nhưng viết essay, viết review cũng thuộc bậc thầy.

Xứ Mít chưa đẻ ra được thứ nhà văn này. Toàn thứ viết làm xàm ba cái truyện ngắn, truyện dài, bằng 1 thứ văn phong “có sẵn trong trời đất”, trên báo chí, trong văn của người, nhiễm độc hồi nào không hay, bản thân, chưa từng có ai đẻ ra được 1 thứ văn phong của riêng mình...

*

John Banville còn thử thay nghề viết truyện trinh thám với cái nick Benjamin Black. TLS số April 13 2012 có nhắc tới ông, trong sổ tay văn học, với cái tít Who’s who, và tiện thể còn nhắc đến cả 1 lô những nhà văn viết bằng những cái nick khác nhau, như Romain Gary, người đợp hai lần Goncourt, dù giải này quy định, chỉ 1 lần là đủ, khác Booker Prize của Anh.
Tin Văn đã từng đi một đường tưởng niệm Mai Thảo, khi ông dùng cái nick Nhị, để mần thơ.
Nhưng TTT không có cái may này. Trước khi thành danh với cái nick TTT, thì ông có vài cái nick, nhưng sau khi “chết tên” rồi, là thôi.
Chứng cớ, trong thư gửi đảo xa, ông kể, ông làm thơ tặng đảo xa, đăng báo Văn, ký nick khác, MT & Ông Vượng, chủ báo lắc đầu, no!

GCC thì nhiều nick quá. Lần trốn cái tên NQT tên sa đích văn nghệ, mượn cái tên của đứa cháu gái, viết VHNT & Việt Báo online, "chấn động giang hồ", độc nhất có 1 tay phê bình gia BVP là nhận ra, vì quá rành những tác giả GCC đọc & trích dẫn [Steiner, Kafka, Bejamin… thí dụ]

Banville says that he started writing novels at the age of 12. His early attempts were "dreadful imitations" of Joyce's Dubliners; the opening line of one was, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the grave".

Banville cho biết ông khởi sự viết văn khi 12 tuổi, và những bản văn đầu tay “bắt chước thê thảm, chết người” Những người dân thành phố Dublin của Joyce, thí dụ dòng mở ra 1 bản văn, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the grave"
[tạm dịch, “Bông Tháng Năm, trắng toát, xỉu dần đi trong miệng huyệt mở rộng”]  

The past beats inside me like a second heart
All works of art are scar tissue.

Tác phẩm 'nghệ thuật' nào [của Gấu]  thì cũng như vết sẹo [ở trên tay cô bạn],
và quá khứ những ngày ở Sài Gòn là trái tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ... vết sẹo! (1)
John Banville

SUBJECT + OBJECT | JOHN BANVILLE

The music of the sphere

We never grow up - only older, then old - and our need for toys does not abate. I still remember with awful clarity the bitter, angry tears I shed as a little boy when, on a family outing one Sunday afternoon to the Cistercian Abbey at Mount Melleray in County Waterford, my mother refused to buy for me in the gift shop there a miniature missal bound in white calfskin on which I had fixed a longing eye. Nowadays I write my novels in manuscript books handmade for me by one of the great contemporary master bookbinders, Tony Cains. These beautiful volumes, covered in Cockerell paper with vellum spines, are more than toys, of course, but at one of the many levels on which we engage with our possessions I am sure I see in them a consolation for that original, never to be forgotten, missed missal.

Another time, another desired bauble. It was in Arles, twenty-some years ago, that I spotted it, in one of those bijou knick-knack shops the French do so well, presided over by a handsome, melancholy lady d'un certain age. To look at, it was nothing much, a seamless silver sphere the size of a 'steeler', as we used to call those jumbo ball bearings that trundled unstoppably through our games of marbles; when picked up, however, it made a delightful musical sound, a cross between the tinkling of a tiny harpsichord and a glass harmonica's ethereal whisperings. I wanted it - oh, I did so want it. But I also wanted a music box with a prancing Pierrot on the lid, which played a tune from The Magic Flute, and since I could not make up my mind I chose neither. My friends hung back, however, and ten minutes later appeared at the outdoor cafe where I was sipping a petit blanc and presented me with the musical ball; they knew me better than I knew myself, they said, and were sure I would never forgive myself if I were to leave Arles without at least one trophy. And they were right.

I loved that little silly thing, extravagantly, shamefacedly, superstitiously. I would make no journey without it, would board no train, embark on no boat, buckle myself into no aeroplane seat, if it was not in my pocket or my bag. Strangely, it never set off a single security alarm; I would walk through screening gates beltless, shoeless, walletless but with a metal object in my pocket the shape of a miniature anarchist's bomb, and no bell would shrill. On reading tours, how many lonely hotel rooms in how many anonymous cities have I crawled into at the end of another day spent impersonating myself, and picked up and listened to that ball, like a lost and landlocked South Sea Islander pressing a seashell against his ear to catch the sound of home.

And then, one day, it was gone. I had been to Australia and when I got home I searched in my bags but could not find it. Australia! That haystack, and my precious needle somewhere in it! I tried to track it down. I contacted hotels in Sydney, Melbourne, Adelaide; I called friends whose houses I had visited; I pleaded with airline representatives. No good, no trace. In one of Nabokov's works - this is another of my lost trouvailles - a character tells of someone losing something, a ring, I think it was, in a rock pool somewhere on the Riviera and returning a year later to the day and finding it again in exactly the spot where it was lost, but that kind of thing only happens in the Russian enchanter's magical version of our sullenly acquisitive world.

Elizabeth Bishop did her best to comfort me, when in her wonderful and jauntily melancholy poem 'One Art' she assures that the art of losing is one that is not hard to master, and that so many things 'seem filled with the intent / to be lost that their loss is no disaster'. And she is right, I know she is, this sensible and practical poet - 'Lose something every day' - for anything as doted on as my musical talisman was bound to make a break for freedom. I only hoped it was happy, playing its little tune for the wallabies and the platypuses out there in the Outback. I found a source on the Internet and got a new one; it was bigger, shinier, and played what to my ear was a coarser music. It was better than nothing, but just about. And then, a year ago, preparing for another trip abroad, I took down the bag I had not used since coming back from Australia and heard something as I did so, a faint, far, plaintive little chime. I delved in an inner pouch, thinking of kangaroos, and there it was, in its scuffed old velvet bag, my original and best-loved Arlesienne. Some toys, it seems, do return from the attic.

John Banville

 


Lolita vs BHD

Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành - chỉ nhiều tuổi thêm lên, rồi thì già – và sự cần thiết đồ chơi của chúng ta thì không bớt đi. Tôi vẫn nhớ rõ ràng thật là khủng, những giọt nước mắt cay đắng, giận dữ, mà 1 thằng bé là tôi ngày nào, nhỏ ra ròng ròng, khi, trong một lần cả gia đình làm chuyến dã ngoại, vào một bữa Chủ Nhật, buổi chiều, ở Cistecian Abbey, ở Mount Melleray, ở County Waterford và bà má của tôi đã từ chối mua cho tôi, trong một tiệm bán quà lưu niệm ở đó, một cuốn thánh kinh thu nhỏ, có cái bìa bằng da dê màu trắng mà tôi đã nhắm nhìn nó, thèm muốn nó đến đỏ cả con mắt.
Vào những ngày này, tôi viết những cuốn tiểu thuyết của tôi trong những cuốn vở được làm bằng tay, riêng cho tôi, bởi một trong vị tổ sư làm sách đương thời, Tom Cains. Những cuốn sách đẹp ơi là đẹp, được phủ bằng giấy Cockerell với những cái gáy sách bằng giấy thuộc da bê, chúng thì hơn hẳn những đồ chơi, tất nhiên, nhưng, mặc ai nói gì thì nói, tôi lúc nào vẫn nhìn thấy, ở trong những cuốn sách làm bằng tay đó, một sự an ủi, một sự hoài nhớ thì đúng hơn, về cái cuốn thánh kinh đã quên, hụt có, suốt đời thiếu nó, ngày nào.
Một lần khác, thì lại là một món đồ thèm muốn khác, và nó là 1 trái cầu liền, không có vết nối, hàn, bằng bạc, ở một tiệm bán ba thứ thứ đồ chơi vặt vãnh mà dân Tẩy rất rành, và chủ tiệm thì là một phu nhân, ở một độ tuổi nào đó, d'un certain age, [tiếng Tây trong nguyên tác tiếng Hồng Mao], đẹp, buồn hiu hắt [“ám ảnh phố phường, đèn vàng phố thị, hiu hắt tóc xanh”!]
Nơi chốn Arles, chừng hai chục năm gì đó, trước đây. Cầm trái cầu bạc lên, nó bèn phát ra tiếng nhạc tuyệt vời, thứ âm thanh ở giữa những tiếng “tinh tinh” của sợi dây đàn clavico và những tiếng thì thầm lâng lâng của chiếc khẩu cầm bằng thuỷ tinh. Tôi muốn nó - ối giời ơi là giời, tôi muốn nó. Nhưng tôi cũng muốn một cái hộp âm nhạc với 1 anh Pierrot nhảy cẫng ở trên cái nắp hộp, và mở ra, thì nó chơi một điệu nhạc từ Chiếc Sáo Thần, và tôi không làm sao chọn được, con tôm thì cũng tiếc, mà con riếc thì cũng muốn. Chừng 10 phút sau, trong khi tôi ngồi nhấm nháp cà phê, trong 1 cái ly nho nhỏ màu trắng, a petit blanc, tại một quán ngoài trời, thì những người bạn của tôi, sau khi quay lại cái quán đồ chơi, trở về, với trái cầu âm nhạc. Họ rành tôi hơn cả tôi, và biết tỏng đi rằng thì là, một khi rời khỏi Arles, thì tôi sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho tôi, nếu không tha về, ít nhất là con tôm, hoặc con tép.
Và họ có lý, lẽ tất nhiên!

Bạn quí mà, hiểu nhau quá!

Ui chao tôi mê trái cầu bạc nho nhỏ, ngớ ngẩn, dại khờ, yêu cuồng yêu dại, yêu man yêu rợ, yêu mê yêu tín. Tôi chẳng đi đâu mà không có nó, xe lửa không, ghe thuyền không, máy bay không, nếu không có nó trong túi, trong bị. Cũng thật lạ kỳ, chẳng bao giờ nó phát ra 1 tín hiệu báo động: như 1 kẻ vô hình, tôi bước qua cổng kiểm tra, không giầy, không giây nịt, không bóp ví, nhưng luôn có trái cầu bạc bằng trái bom nhỏ xíu của 1 tên cuồng tín, nằm im lìm trong túi, thế mới thần sầu, thế mới quái dị.
Trong những lần đi tua đọc sách, bao nhiêu căn phòng khách sạn cô đơn mình ên tôi bò vô, vào cuối ngày, rã rời sau khi đóng đã đời - đóng vai của chính mình, nhà văn nhớn đóng vai nhà văn nhớn nói về văn chương, văn chương của chính mình – và, cầm lên trái cầu, nghe âm thanh của nó, thấy mình đúng là anh chàng Lỗ Bình Sơn, nơi “đảo xa”, áp cái vỏ sò vào sát tai mình, và nghe, ới ới, thứ tiếng Mít, tiếng gọi của quê hương!

Và rồi một ngày nó bỏ đi. Khi đó, tôi ở Úc, và, trở về nhà lục tung mấy bị hành lý không thấy nó. Úc châu! Đống cỏ khô và cây kim quí giá của tôi nằm đâu đó ở trỏng. Đáy biển mò kim, tôi lần tìm những khách sạn Sydney, Melboune, Adelaide đã từng ghé, nhà bạn bè đã từng thăm, tôi cầu xin lòng thương hại của mấy hãng máy bay. Vô ích, vô phương, không dấu vết, tăm hơi.
Trong một trong những tác phẩm của Nabokov - thì cũng lại là 1 trong những mất đi tìm lại được của tôi - một nhân vật kể về một nhân vật đánh mất một cái gì đó - một cái nhẫn. Hình như tại một cái ao đá cuội ở một nơi nào đó ở Riviera, và một năm sau trở lại, vào ngày đó, và kiếm lại được cái nhẫn đúng tại nơi đã mất, nhưng cái thứ này chỉ xẩy ra trong 1 ấn bản thần tiên của một tay phù thuỷ Nga của cái th
ế giới buồn nản ham thu nhập thay vì mất mát của chúng ta.
Elizabeth Bishop đã làm điều thật đẹp của bà, khi an ủi tôi bằng một bài thơ, “Một Nghệ Thuật”. Bài thơ tuyệt vời, buồn trong cái dáng thong dong của nó. Qua bài thơ, bà khẳng định, đánh mất là 1 nghệ thuật, và trở thành sư phụ trong nghệ thuật đánh mất thì cũng không khó, và có rất nhiều điều “hình như hăm hở, hớn hở, ham hố… để được mất, để cho cái sự mất mát của chúng không là một thảm họa”.
Và bà quả quá đúng.
Bà quả đúng như vậy, một nhà thơ mẫn cảm, và thực ti
ễn. 
Và nếu như thế, thay vì, “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, thì hãy “Đánh mất một điều gì đó mỗi ngày” ['Lose something every day'] -  bởi vì, bất cứ một vật gì, cho dù lẩm cẩm, cà chớn, như trái cầu của tôi, một khi đánh mất như thế, nó làm vọng lên hai câu thơ của Thế Lữ, “Anh đi đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi” [a break for freedom].

Và rồi, cách đây một năm, trong khi sửa soạn cho một chuyến đi xa, tôi lôi cái túi đã lâu không dùng tới, kể từ chuyến đi Úc, và tôi bỗng nghe thấy 1 âm thanh yếu ớt, nhẹ nhàng, như có ý trách móc, rên rỉ, làm nũng, "đừng bỏ em một mình," “bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa”, vọng về.

Và ơ rơ ka, nó đây rồi.
Có những món đồ chơi, như tình cũ, không rủ cũng về.

Bàn chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa…
Như người xưa đánh rớt cây gươm xuống lòng sông, bèn ghi dấu nơi mạn thuyền, GCC, khi còn Sài Gòn, vưỡn lâu lâu trở lại chốn xưa, tìm vết giầy trên lớp bụi thời gian, và tiếng cười của BHD vẫn còn văng vẳng đâu đây!

Thứ tình yêu đầy những passion mà anh có đó, em không có, hay thứ tình yêu gồm một phần ba là confiance, một phần ba là respect, một phần ba là "je ne sais quoi" , có lẽ, hình như em đã yêu anh như vậy...

Già rồi, vãi...  linh hồn hoài, không sợ con nít nó cười cho ư?

Hồn Đông Phương thất lạc, buồn Tây Phương: Đọc thêm cái này nữa

*

par Linda Le
L'ÂME ROMANTIQUE
Reédition de l'anthologie consacrée aux romantiques allemands

NOVALIS disait qu'une traduction, ou bien est grammaticale (littérale), ou interprétative (adaptation), ou bien mythique. «Les traductions mythiques sont des traductions de haut style: elles reproduisent dans sa pureté et sa perfection le caractère de l'oeuvre d'art dans son individu. Ce n'est pas l’oeuvre d'art elle-même, réellement, qu'elles nous donnent, mais bien son idéal.» Les traductions d'Armel Guerne correspondent à cette définition. Elles révèlent, plus qu'un texte, l'âme même de l'ceuvre. Poète, traducteur incomparable, notamment de Moby Dick, Armel Guerne est aussi l'auteur d'un écrit sur le romantisme, L’Âme insurgée, paru chez Phebus. Le rnême éditeur reédite aujourd'hui l' anthologie, publiée en 1963, que Guerne a consacrée aux romantiques allemands. C'est à un voyage aux sources du rêve que nous sommes conviés. Toute une géneration de prophètes et de voyants s'offre à nous dans sa diversité. Et il est difficile de résister au fabuleux océan verbal du romantisme allemand sur lequel, dit Guerne, « resplendissent les jeunes feux de l'aube et les splendeurs du crépuscule ».
« Oh ! Que cette voyance, ce sanctuaire soit mon verbe ! ». s'exclame Holderlin sur lequel s'ouvre l'anthologie. Bettina von Arnim le comparait à un piano dont il aurait lui-même arraché les cordes. Holderlin, à la recherche du divin de lire, est l'image même du poète en quête de la langue des plus purs. En lui, le moi cherche à échapper au chaos originel et la puissance mystique du verbe tente de réparer la disharmonie fondamentale.
Le recueil fait la part belle aux saturnales littéraires de Novalis : «Le devoir le plus haut de la culture est de s'emparer de son moi transcendantal, d' être en même temps le moi de son moi.» Il n'est d'écrivain qu'habité par la langue. Jean Paul est de ceux-là, qui trouve dans le lyrisme un moyen de concilier le moi et le cosmos. L'anthologie donne à lire des texts fameux du romantisme allemand, comme le Lenz de Buchner, les intermèdes de Hoffmann sur Don Juan et Mozart, Ondine de La Motte-Fouque ou le fragment du Robert Guiscard, manuscrit brulé par Kleist dans un moment de désespoir, Mais l'interêt de l'ouvrage est aussi de faire découvrir ou redécouvrir des figures plus méconnues, comme Bonaventura, l'auteur des Veilles. A ses cotes, figurent Ludwig Tieck, l'ami de Novalis, Contessa, qui raconte l'histoire d'un peintre aux prises avec le démon, Karoline von Gunderode, la suicidée des berges du Rhin à laquelle Bettina von Arnim rend hommage dans un texte frémissant. Ajoutons, pour parfaire ce tableau où l'ironie et le mystère forment un couple indissociable, les reflexions de Schlegel sur le Witz, le sel de l'esprit, un conte à la Edgar Poe d'Achirn von Arnirn, une fable de Chamisso, le créateur de l'inoubliable Peter Schlemihl, l'homme qui a perdu son ombre, quelques pages d'Eichendorff, l'auteur des Scènes de la vie d'un propre à rien, sur un chasseur qui cherche sa soeur et devient fou, et enfin une confrontation de Don Juan et de Faust, par Christian Dietrich Grabbe, qui figure dans l'Anthologie de l'humour noir de Breton.
D'une lecture passionnante, ouvrant les fenêtres sur le rêve et le fantastique, cette somme est à placer au rayon des ceuvres rares, aux cotés de l'essai d'Albert Begum sur l'âme romantique, et de l'anthologie, plus philosophique, parue chez Corti, et intitulée La Forme poétique du monde .+ 

Les Romantiques allemands
Textes rassemblés et presentés par Armel
Guerne, traduits de l'allemand par Armel Guerne, Albert Beguin et al.
Ed. Phebus/libretto, 961 p., 14,90 e.

NOVALIS disait qu'une traduction, ou bien est grammaticale (littérale), ou interprétative (adaptation), ou bien mythique. «Les traductions mythiques sont des traductions de haut style: elles reproduisent dans sa pureté et sa perfection le caractère de l'oeuvre d'art dans son individu. Ce n'est pas l’oeuvre d'art elle- mnême, réellement, qu'elles nous donnent, mais bien son ideal.»

Novalis phán, dịch thuật thì hoặc có tính văn phạm (dịch sát, theo nghĩa đen), hay dẫn giải (phỏng theo), hoặc huyền hoặc. “Dịch huyền hoặc là hách nhất, nó tái tạo, trong tinh nguyên và tuyệt hảo của nó, tính chất của nghệ phẩm, ở trong cái cá nhân của nó. Không phải nghệ phẩm chính nó nữa mà chúng đem tới cho chúng ta, nhưng đúng là cái lý tưởng của nó."