Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn
Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư
năm 1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp
luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục, ở đầu
trang
Tin Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin
Văn, ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới thiệu,
chỉ để sử
dụng cho
cá
nhân
[for
personal
use],
xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM W.
G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải)
Đinh Tấn Lực
ĐỜI ĐỜI GHI NHỚ NHỮNG HÌNH ẢNH THÚ VẬT
NÀY...
Nguyễn Hữu Thao
TÔI COI ĐÂY LÀ TỘI ÁC
Tôi cũng rất đồng tình
Là Chính phủ Việt Nam
Phải chỉ thị lập tức
Chuyện này, Bộ công an.
Phải điều tra làm rõ
Ở đâu hình ảnh này
Từ hình ảnh phụ nữ
Tìm ra công an ngay!
Không phải chỉ ngày lễ
Mà chúng ta quan tâm
Hành hạ người phụ nữ
Đây còn là nhân dân!
Bởi vì quá nhiều đấy
Người dân chết trong đồn
Giày đạp, đá vào đầu
Không chết cũng tật luôn!
Nên chúng ta cần phải
Lên án những cực hình
Mà công an đâu đó
Đang hành hạ dân tình!!!
Quà tặng nhân ngày 8/3 của công
an Việt Nam tặng phụ nữ.
Tên thủ tướng Fuck của VC có nhìn
thấy bức hình làm nhục cả xứ Mít VC không?
Kẻ bị tra tấn là suốt đời bị tra tấn
Thánh Lò Thiêu, Améry, phán
Kẻ nào tra tấn là suốt đời thèm tra tấn
GCC phán
Torture, writes Améry, has "an indelible character". Whoever was
tortured, stays tortured.
Sebald: Chống Lại Sự Không Thể Đảo Ngược: Về Jean Améry,
trong Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt
[Against the Irreversible. On Jean Améry. On the natural history of destruction,
nhà xb Vintage Canada].
Améry viết, tra tấn có
cái tính quái dị, không thể tẩy xoá
đi được, là: Ai đã từng bị tra tấn, là suốt đời bị
tra tấn.
Câu này, theo Gấu
tôi, đọc [đảo] ngược lại, vẫn có nghĩa.
Rằng, kẻ tra tấn, là cứ thèm tra tấn suốt đời!
Jean Améry viết về Sầu
Xa Xứ:
Cái sầu xa xứ thứ thiệt, le vrai mal
du pays, le Hauptwehe, “nỗi nhức nhối số 1", “la douleur
capitale”, nếu tôi được phép mượn từ của Thomas Mann, thì
khác, cực khác về bản chất, so với những gì tôi
viết ở trên, và nó chỉ ngưng, khi bạn chỉ còn
bạn với bạn. Vào lúc đó, đếch có hát
hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con
mẹ gì nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít
đã mất, và bạn cũng không vãi ra những giọt nước
mắt đồng lõa. Sầu Xa Xứ thứ thiệt không phải là tự an
ủi, mà là tự huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
"Perhaps", writes
Nietzsche in the Genealogie der Moral,
"there is nothing more terrible and mysterious in the whole prehistory
of mankind than our mnemonic technique. We burn something into the mind
so that it will remain in the memory; only what still hurts will be retained".
Trong trọn thời kỳ tiền sử, có lẽ không có chi
khủng khiếp và bí ẩn hơn, so với kỹ thuật tạo dấu ấn của con
người, Nietzsche viết trong Genealogie
der Moral: Chúng ta đánh dấu trái tim
của chúng ta bằng lửa, sao cho, chỉ cái đau được giữ lại, [cái
sướng bỏ đi].
.. Weiss learned
in exile to understand the fate he escaped...... so vital to him, of whether
he himself was on the side of the creditors or the debtors. He finds the
answer to the question in the course of his own study, as it becomes increasingly
clear to him that rulers and ruled, exploiters and exploited, are in fact
the same species, so that he, the potential victim, must also range himself
with the perpetrators of the crime or at least theirs accomplices
Chỉ tới khi lưu vong thì Weiss mới hiểu ra phần số của mình,
ở về phía kẻ ăn cướp hay bị ăn cướp. Ông tìm thấy
câu hỏi cho câu trả lời theo dòng nghiên cứu
của chính ông, và mọi chuyện càng ngày
càng trở nên rõ ràng, đối với ông, là,
cai trị hay bị trị, bóc lộc hay bị bóc lột, thì cũng
rứa, và, bởi vì ông ta sinh ra là có tướng
bị ăn đòn rồi, thành thử bắt buộc phải tự xếp hàng
cùng với những kẻ tạo ác, hay chí ít, cũng
đồng phạm.
Sebald
… Weiss to attend the Auschwitz
trial in Frankfurt. He may also have been motivated before the event by
the hope, never quite extinguished, "that every injury has its equivalent
somewhere and can be truly compensated for, even if it be through the pain
of whoever inflicted the injury." This idea, which Nietzsche thought was
the basis of our sense of justice and which, he said, "rests on a contractual
relationship between creditor and debtor as old as the concept of law itself”…
W.G. Sebald: The Remorse of the
Heart.
On Memory and Cruelty
in the Work of Peter Weiss
Weiss tham dự tòa án
xử vụ Lò Thiêu ở Frankfurt. Có thể là do ông
vẫn còn hy vọng, một niềm hy vọng chẳng hề tàn lụi, rằng,
“mọi tổn thương thì có cái phần tương đương của nó,
ở đâu đó, và có thể thực sự được đền bù,
bù trừ, bồi hoàn, ngay cả, sự bồi hoàn này thông
qua nỗi đau của bất cứ kẻ nào
gây ra sự tổn thương”. Tư tưởng này
Nietzsche nghĩ, nó là cơ sở của cảm quan của chúng
ta về công lý, và nó, như ông nói,
“nằm trong liên hệ có tính khế ước, giữa chủ nợ và
con nợ, và nó cũng cổ xưa, lâu đời như là quan
niệm về luật pháp, chính nó”
W.G. Sebald:
Sự hối hận
của con tim.
… even if it be through the pain of whoever inflicted the injury.
Moi, je traine le fardeau de la faute collective,
dis-je, pas eux.
Jean Améry viết, trong Vượt quá tội ác và
hình phạt, Par-delà le
crime et le châtiment.
Gấu cũng có thể nói
như thế:
Ta mang cái gánh nặng của Cái Ác Bắc Kít,
đâu phải lũ Bắc Kít?
Con chim ousen [chim két]
hót ở trong rừng Cilgwri.
Hót hoài hót hoài như một dòng
suối dội lên những hòn đá rêu xanh
Nhưng cũng chưa xa xưa bằng con nhái Cors Fochno
Cảm thấy làn da lạnh chũng vào tới tận xương tận tuỷ.
Rushdie viết, rất ít nhà
thơ kết hôn sâu xa đằm thắm với đất mẹ như nhà thơ
R.S. Thomas, một nhà thơ dân tộc Welsh [a Welsh nationalist],
những vần thơ của ông tìm kiếm, bằng cách nhận ra, để
ý [noticing], khẳng định [arguing], làm thành vần điệu,
huyền hoặc hóa, biến đất nước thành một sinh vật rất ư là
nồng nàn, rất ư là trữ tình.
Tuy nhiên, cũng chính
ông này, cũng viết:
Sự hận thù mất nhiều thời
gian
Để mà đâm chồi nẩy lộc, và lòng hận thù
của tôi
Kể từ khi sinh ra, cứ thế mà tăng trưởng..
Không phải tôi thù
cái mảnh đất tàn nhẫn thô bạo dã man mà
tôi ra đời...
Tôi nhận ra một điều:
Cái lòng hận thù đó, là thù
cái làn da khốn kiếp của tôi,
Cái thứ khốn kiếp, là chính tôi!
Hate takes a long time
To grow in, and mine
Has increased from birth;
Not for the brute earth...
I find
This hate's for my own kind.
*
Thảo nào,
thằng cha Gấu thù chính nó, thù cái
chất Yankee mũi tẹt của chính nó! (1)
Jean Améry viết về Sầu
Xa Xứ: Cái sầu xa xứ thứ thiệt,
le vrai mal du pays, le Hauptwehe, “nỗi
nhức nhối số 1 “la douleur capitale”, nếu tôi được phép mượn
từ của Thomas Mann, thì khác, cực khác về bản chất,
so với những gì tôi viết ở trên, và nó chỉ
ngưng, khi bạn chỉ còn bạn với bạn. Vào lúc đó,
đếch có hát hỏng Thuyền Viễn Xứ cái con mẹ gì
nữa, cũng chẳng có gợi nhớ những đồng ruộng Mít đã mất,
và bạn cũng không vãi ra những giọt nước mắt đồng lõa.
Sầu Xa Xứ không phải là tự an ủi, mà là tự
huỷ.
Le vrai mal du pays ce n’était pas l’autocompassion, mais l’autodestruction.
SN_GCC_2017
Gấu trong lễ tuyên thệ trở
thành công dân Canada
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/01/van-chuong-mien-nam-giua-chung.html
Còn lại một việc nữa: văn chương miền Nam đâu có dừng
lại ở năm 1975. Đây mới là điều huyền bí nhất. Tất
nhiên là không thể như vậy được. Giờ, ta cần xác
định, đâu là những cột trụ quan trọng nhất để nói đến
một sự bảo toàn cho di sản văn chương miền Nam. Với tôi, hiển
nhiên không thể là Võ Phiến, nhưng hiển nhiên
phải là các nhân vật từng hết sức quan trọng ở giai
đoạn văn chương miền Nam trước 1975. Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh
chính yếu của họ lại nằm ở đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó
hiểu và khó nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người ra đi ngay từ đầu,
ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người đã, ngược
hẳn lại với Viên Linh, không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra đi vào
khoảng giữa. Đó chính là Nguyễn Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi đến cái
ngày, ngoài việc được viết về một số người khác,
được nói đến đối thủ lâu năm của tôi, Mr Tin Văn Nguyễn
Quốc Trụ.
Don’t set them up to jail
To become an asylum seeker in Europe is to have overcome adversity. First,
to have survived the dangers in your homeland. Then to have survived the
journey and reached your destination. Only last week, Unicef warned that women
and children were being raped, beaten and starved in Libyan detention centres.
Last year, more than 5,000 migrants died attempting to cross the Mediterranean,
and Balkan countries shut their borders, blocking many who had hoped to reach
northern Europe. To have your claim recognized, and to become a refugee,
is harder still. It means negotiating a complicated system that often gets
it wrong. So refugee status is a mark not only of suffering but of the ability
to withstand it. The attention already given to perilous journeys, and the
populist backlash to the surging numbers of asylum seekers in Europe over
recent years - though arrivals fell in 2016 - now needs to encompass what
happens at their destination. Making a home in a new land is challenging
even for those who move by choice and with plentiful resources. Now add in
trauma and sometimes physical issues too; a language barrier; skills or qualifications
that cannot be transferred. But many of the problems they face are entirely
unnecessary.
How the UK treats those gaining admittance is just as critical as who
we do and don't let in. We have not done our part if we allow them through
the door, but not to make themselves at home. Of Europe's big five nations,
only Italy - handling much larger numbers - treats asylum seekers and refugees
worse than Britain, which is, for instance, the only EU nation to allow indefinite
immigration detention. Asylum seekers are almost never granted the right
to work. Bizarrely, those recognized as refugees are routinely forced into
destitution because they lose existing entitlements and accommodation before
their new benefits and housing have been processed. The "move on" period
is 28 days; the British Red Cross has found it takes an average of 42 days
to first payment of benefits, and in some cases far longer.
The UK needs a proper dispersal policy, so asylum seekers are not just
dumped in areas with cheap housing. Allowing them to work - as many European
countries do - would help them to integrate and to support themselves. Much
could be learned from the UK's own Syrian Vulnerable Persons Resettlement
Programme, bringing in those already recognized as refugees. Though it has
its shortcomings, it is better funded and offers integrated support for 12
months. That has led to a two- tier system, and the challenge should be
to raise up the way that others are treated, not engage in a race to the
bottom. Treating people decently is the right thing to do. It ensures that
they are able to contribute to their new society as soon as possible. That
is better for everyone. Those seeking asylum in the UK have already succeeded
against the odds. Why do we then set them up for failure?
Note: GCC đến trại tị nạn sau dead line,
tức là sau cái ngày được tự động coi là tị nạn
chính trị, và phải trải qua thanh lọc.
Gửi thư cầu cứu 1 vị nữ văn sĩ, 1 trong 5 vị nổi tiếng số 1 trước 1975,
tại Miền Nam, vị này được 1 đấng Mẽo bệ về Mẽo trước 30 Tháng
Tư chừng ít này, khi thấy tên bà trên măng
xét 1 tờ báo của lực lượng Khiến Chán ở trong trại.
Bà viết thư trả lời, mi đi trễ quá, đi làm khỉ gì
nữa, hết mùa vượt biển rồi - nội dung thư đúng là như
thế - GCC đọc thư, thú thực, chỉ muốn viết thư cho VC, xin được hồi
chánh!
May quá. có được địa chỉ của Nguyễn ông Ngạc, qua
1 vị ở trong Trại.
Viết 1 phát là bạn trả lời liền kèm tý tiền
còm.
Tuyệt vời nhất, là bạn thông báo cho cả 1 lũ ở bên
Mẽo, những Viên Linh, Định Nguyên, chúng phôn cho
vị Chủ tịch Pen Mít ở hải ngoại.
Vị này, cũng nhận được lời cầu cứu qua vị nữ văn sĩ, nhưng nếu
không có lũ bạn bè như Viên Linh, NDN, DN phôn
phiếc, chắc là cũng vờ, vì, khi vị nữ văn sĩ thông báo
với anh, bà vờ luôn địa chỉ ở Trại của Gấu, chán thế.
Anh viết, bà nhờ tôi can thiệp cho 1 kẻ mà chính
bà vờ không cho biết địa chỉ của ông ta, làm sao
tôi can thiệp?
Vị này, viết thư xác nhận GCC là member của PEN/VN
(Ngụy)
Kể như xong được tầng đầu địa ngục!
http://www.tanvien.net/tg4/sach_qui.html
How many languages do you know?
(Anh biết mấy ngôn ngữ?)
Vào năm 1990, do đến trại tị nạn sau "tử điểm", tức là sau
thời hạn được "tự động" coi như là tị nạn chính trị, tôi
phải trải qua thanh lọc, qua đó nhà chức trách nước
tạm dung sẽ quyết định coi đủ tư cách tị nạn chính trị, hay
chỉ là di dân kinh tế.
Thời gian chờ đợi thanh lọc thường trên dưới một năm. Với chúng
tôi, nó còn là thời gian "chạy thuốc": liên
lạc thân nhân ở nước ngoài nếu có, hoặc bạn bè,
cơ quan, đơn vị cũ… để xin tiếp tế và lo giấy tờ xác nhận,
hoặc làm hồ sơ bảo lãnh. Nhân đọc một số báo (hình
như thuộc lực lượng kháng chiến), ở trong trại, thấy tên nhà
văn Trùng Dương, tôi viết thư tới bà, qua địa chỉ toà
soạn.
"Thư của bạn tới tôi sau khi đã đi gần hết nửa vòng
trái đất," bà viết thư trả lời, từ một địa chỉ Hồng Kông,
do đang được học bổng nghiên cứu về Trung Hoa lục địa. Bà than
giùm, "Bạn qua trễ quá!"
Kèm, là thư Nguyễn Ngọc Ngạn (khi đó là chủ
tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại), gửi cho Trùng Dương, "Bạn
nhờ tôi can thiệp cho một ông bạn nào đó, nhưng
lại quên không cho địa chỉ…". Tôi liên lạc. Anh
trả lời, gửi tặng sách (The Will of Heaven, chắc là muốn dặn
dò khéo: hãy cố lo học tiếng Anh!).
Kèm giấy xác nhận. Sau này gặp, anh cho biết, đã
phải nhờ một tờ báo địa phương in giùm, chỉ bốn giấy chứng
nhận, với tiêu đề Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại thật "hách
xì xằng". Bốn tờ xác nhận, cho bốn người, lúc đó
đang ở trại tị nạn. Ở Thái Lan, có Hồ Ông và tôi.
Có thể, việc xác nhận là "bổn phận" của anh, với tư
cách đương kim chủ tịch Văn bút, nhưng cứ nghĩ đến cảnh anh
loay hoay nhờ cậy người này người nọ "vẽ" giùm cho một "tác
phẩm" hách xì xằng như trên, thật đáng quí.
Tôi gặp Hồ Ông tại trại cấm Sikiew, do anh tới trại trước,
và đã trải qua thanh lọc. Anh dặn tôi, khi đi thanh lọc,
phải "nổ", đừng quá "khiêm tốn". Ngoài tờ giấy xác
nhận củaVăn bút, tôi có thêm được một tài
liệu quí giá cũng chẳng kém: cuốn Hai Mươi Năm Văn
Học Miền Nam , còn có tên thật "nổ" là Những
Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, do Nguyễn Đông
Ngạc xuất bản. Trong có hình tôi, và vài
dòng tiểu sử. Cuốn này tôi cũng tình cờ vớ được
ở trong trại. Chủ nhân cuốn sách, một học trò tiếng
Anh của tôi, đã tặng luôn cho thầy, làm tài
liệu thanh lọc.
Phỏng vấn thanh lọc, thường do một sinh viên luật Thái Lan
đảm trách, với một thông dịch viên, một người Việt ở
Thái Lan. Như đa số ở đây, họ có cảm tình với
Miền Bắc. Nhà thường có treo hình ông Hồ. Nhưng
cảm tình hay không cảm tình, nói chung, họ cố
dịch trung thực những gì họ nghe và hiểu được.
Trong cuộc phỏng vấn, có mấy chi tiết thật lý thú
liên quan tới "văn chương" có lẽ cũng nên viết ra ở đây,
để bạn đọc cùng thưởng thức.
Nói chung, thường rất khó mà hiểu được, người phỏng
vấn tin hay không tin, những câu trả lời. Và thường ra,
họ giữ một bộ mặt hết sức khách quan, phải nói là dửng
dưng, lạnh lẽo, suốt buổi hỏi cung. Riêng trường hợp của tôi,
khi nghe tôi nói là nhà văn, anh sinh viên
luật nhìn phần lý lịch ghi trên tờ phiếu cá nhân
trong hồ sơ Cao Uỷ Tị Nạn, và không qua thông dịch viên,
hỏi thẳng bằng tiếng Anh:
-Anh nói anh là nhà văn, nhưng anh viết thứ gì?
Nhớ lời dặn của Hồ Ông, tôi cho tới luôn:
-Tôi viết truyện ngắn, và phê bình văn học.
Anh nhìn lại tờ lý lịch và nói:
-Tôi cho anh nói lại. Ở đây, thấy ghi anh học hết trung
học, có một văn bằng đại học. Anh nói anh làm thơ, viết
truyện ngắn, tôi tin. Nhưng phê bình văn học, tôi
không tin. Tôi cho anh nói lại.
-Tôi mê văn chương từ hồi nhỏ, lại may mắn biết chút
ngoại ngữ, nên có đọc văn chương thế giới, và có
chút khiếu về phê bình văn học.
-Anh học tiếng Anh ở đâu, bao nhiêu năm?
-Tôi học hồi trung học, và sau đó có làm
cho một cơ quan thông tấn nước ngoài.
-Anh nói, anh có chút hiểu biết về ngoại ngữ, anh
biết mấy thứ tiếng?
-Tôi biết ba thứ tiếng.
-Trong này chỉ ghi tiếng Anh?
-Tôi biết tiếng Pháp nữa.
-Như vậy mới có hai, làm sao anh nói ba?
Tới lúc đó, tôi cũng hết còn bình tĩnh,
và hỏi lại:
-Ông quên tiếng mẹ đẻ của tôi ư?
Anh ta chợt mỉm cười.
Tôi nghĩ, trong số những người bị phỏng vấn, có lẽ tôi
là người độc nhất được hưởng một nụ cười như vậy.
The Voronezh Notebooks survived
by a miracle, or rather through the extraordinary
determination of Nadezhda Mandelstam. In
exile and poverty, under persecution and in isolation,
his manuscripts hidden in teapots, shared out with friends,
nightly renewed in the fragile casket of her human, fallible
recall, she made it her life's work to preserve her husband's
poetry.
Intro
Steiner
Theo ông,
Lò Thiêu bắt nghĩ “bi quan, tiêu cực”
về con người?
Imre Kertész. L'Holocauste
est différent des autres génocides. Parce qu'il a
eu lieu au sein de la civilisation chrétienne. Ce qui est
arrivé a ruiné de manière spectaculaire toutes
les valeurs qui avaient cours jusqu'alors. C'est rare d'assister
à un traumatisme humain universel de cette nature.
Lò
Thiêu khác những cú diệt chủng khác,
bởi là vì nó là “con cưng”
của tinh thần, văn minh Ky Tô, nó huỷ diệt thật
cụp lạc “gia tài của mẹ”, có được từ trước cho tới
bây giờ.
Le titre
de votre ouvrage, «l'Holocauste comme culture»,
n'est-il pas provocateur?
Cái
tít của cuốn sách của ông, cực khiêu
khích, “Lò Thiêu như Văn Hoá”?
I. Kertész. En
1992, j'ai reçu une invitation de l'université
de Vienne pour un colloque sur Jean Améry [opposant au
régime nazi et rescapé d'Auschwitz qui s'est
suicidé en 1978]. Je n'avais jamais entendu son nom.
Je me suis donc empressé de lire plusieurs livres,
que j'ai trouvés fantastiques. J'ai pris le risque de
dire qu'Auschwitz et l'Holocauste faisaient totalement partie
de notre culture, au même titre que notre langue, notre
musique, notre littérature. A ma grande surprise, cet
essai n'a pas été mal interprété,
ni mal accepté.
Quả
thế, nhưng thiên hạ coi bộ lại khoái, cái
ý tưởng, không phải nền văn minh sông
Hồng đưa đến Tận Thế là đây, với Mít, mà
chính là Cái Ác Bắc Kít.
Rõ
ràng là không có 1 tên
Bắc Kít nào tỏ ra bực bội về Tù Cải Tạo,
thì Tù Cải Tạo phải thuộc về văn hoá,
văn minh sông Hồng!
Viết
mỗi ngày
Em ra đi nơi này vẫn thế!
Không ngờ câu hát của TCS lại là lời trù
eỏ đời đời xứ Mít!
Tin Văn
1. Sir V.S. Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001.
Giải thưởng văn chương Nobel năm nay đã được trao cho nhà
văn Anh, gốc Ấn, V(idiadhar) S(urajprasad) Naipaul, sinh tại Chaguanas,
gần Port of Spain, thuộc Trinidad, “vì đã nhập làm
một - một lối viết tự sự mẫn cảm và một cái nhìn soi
mói đừng hòng mong mua chuộc – vào trong những tác
phẩm bắt chúng ta nhìn vào những cuộc đời bị vùi
giập” (bản tiếng Anh: “… for having united perceptive narrative and incorruptible
scr...
Continue Reading
Nobel_2001.
Tin Văn
1. Sir V.S. Naipaul (1932- ): Nobel văn chương 2001.
Giải thưởng văn chương Nobel năm nay đã được trao cho nhà
văn Anh, gốc Ấn, V(idiadhar) S(urajprasad) Naipaul, sinh tại Chaguanas,
gần Port of Spain, thuộc Trinidad, “vì đã nhập làm
một - một lối viết tự sự mẫn cảm và một cái nhìn soi
mói đừng hòng mong mua chuộc – vào trong những tác
phẩm bắt chúng ta nhìn vào những cuộc đời bị vùi
giập” (bản tiếng Anh: “… for having united perceptive narrative and incorruptible
scrutiny in works that compel us to see the presence of suppressed histories”).
Một tác giả gây tranh luận (“Controversial author”) đã
thắng giải văn chương Nobel, theo như một ký giả. Hàn Lâm
Viện Thụy Điển đã đặc biệt nhấn mạnh tới cuốn tiểu thuyết mang tính
tự thuật “The Enigma of Arrival” (tạm dịch “Bí ẩn khi tới”, 1987),
coi đây là “hình ảnh, cứ thế mà lặng lẽ suy sụp,
của văn hoá thực dân cũ, và sự suy tàn của những
xóm làng Âu Châu” (“an unrelenting image of the
placid collapse of the old colonial ruling culture and the decline of European
neighbourhoods”. Luôn cả “cái nhìn soi mói không
thể nào bị mua chuộc” đối với xã hội hậu thuộc địa, và
những nhận định gay gắt đối với Hồi giáo chính thống (Muslim
fundamentalism).
Naipaul được chọn, trong một danh sách chót gồm năm người.
Tên những người còn lại phải 50 năm sau mới được công
bố, nhưng theo tin tức hành lang, trong đó có nhà
văn người Israel, Amos Oz, nhà văn Nam Phi, JM Coetzee, nhà
văn người Canada, Margaret Atwood, và nhà văn người Mỹ, Philip
Roth.
Trên VHNT, người viết đã từng giới thiệu Naipaul, trước
khi ông được Nobel, nay xin đăng lại, và tiếp đó, xin
cống hiến bạn đọc một số nhận xét, và phản ứng của một số
tác giả, và của chính Naipaul, trước tin ông
được Nobel.
***
“Con người và nhà văn là một. Đây là
phát giác lớn lao nhất của nhà văn. Phải mất thời gian
– và biết bao là chữ viết! – mới nhập một được như vậy.”
(Man and writer were the same person. But that is a writer’s greatest
discovery. It took time – and how much writing! – to arrive at that synthesis)
V.S. Naipaul, “The Enigma of Arrival”
Trong bài tiểu luận “Lời mở đầu cho một Tự thuật” (“Prologue
to an Autobiography”), V.S. Naipaul kể về những di dân Ấn độ ở Trinidad.
Do muốn thoát ra khỏi vùng Bắc Ấn nghèo xơ nghèo
xác của thế kỷ 19, họ “đăng ký” làm công nhân
xuất khẩu, tới một thuộc địa khác của Anh quốc là Trinidad.
Rất nhiều người bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn, về một miếng đất cắm
dùi sau khi hết hợp đồng, hay một chuyến trở về quê hương miễn
phí, để xum họp với gia đình. Nhưng đã ra đi thì
khó mà trở lại. Và Trinidad tràn ngập những di
dân Ấn, không nhà cửa, không mảy may hy vọng trở
về.
Vào năm 1931, con tầu SS Ganges đã đưa một ngàn
di dân về Ấn. Năm sau, trở lại Trinidad, nó chỉ kiếm được một
ngàn, trong số hàng ngàn con người không nhà
nói trên. Ngỡ ngàng hơn, khi con tầu tới cảng Calcutta,
bến tầu tràn ngập những con người qui cố hương chuyến đầu: họ muốn
trở lại Trinidad, bởi vì bất cứ thứ gì họ nhìn thấy
ở quê nhà, dù một tí một tẹo, đều chứng tỏ một
điều: đây không phải thực mà là mộng. Ác
mộng.
“Em ra đi nơi này vẫn thế”. Ngày nay, du khách
ghé thăm Bắc Ấn, nơi những di dân đợt đầu tiên tới Trinidad
để lại sau họ, nó chẳng khác gì ngày xa xưa,
nghĩa là vẫn nghèo nàn xơ xác, vẫn những con
đường đầy bụi, những túp lều tranh vách đất, lụp xụp, những
đứa trẻ rách rưới, ngoài cánh đồng cũng vẫn cảnh người
cày thay trâu… Từ vùng đất đó, ông nội
của Naipaul đã được mang tới Trinidad, khi còn là một
đứa bé, vào năm 1880. Tại đây, những di dân người
Ấn túm tụm với nhau, tạo thành một cộng đồng khốn khó.
Vào năm 1906, Seepersad, cha của Naipaul, và bà mẹ,
sau khi đã hoàn tất thủ tục hồi hương, đúng lúc
tính bước chân xuống tầu, cậu bé Seepersad bỗng hoảng
sợ mất vía, trốn vào một xó cầu tiêu công
cộng, len lén nhìn ra biển, cho tới khi bà mẹ thay đổi
quyết định.
Chốn cũ vẫn như xưa, nhưng chốn mới chẳng hơn gì; cha của Seepersad,
chết trẻ; gánh nặng gia đình chuyền qua ông anh lớn,
còn là một đứa nhỏ, đã phải lăn lưng vào đời,
lãnh 8 xu mỗi ngày, tại một trại trồng mía – nửa thế
kỷ sau, kỷ niệm ấu thời làm ông bật khóc trước mặt đứa
cháu của mình là Naipaul. Bà chị của Seepersad,
một cô gái mù chữ, bị gửi đi xa, làm việc cho
một người bà con trong gia đình; bà chịu đựng hai cuộc
hôn nhân bất hạnh. Quãng đầu đời của Seepersad cũng chẳng
hân hoan thơ thới gì. Ông sống với người chị/em của mẹ
mình, ngày đi học, đêm làm việc tới khuya trong
một cửa tiệm. Sau này, khi đã có vợ, có thời gian
ông phải sống bám vào gia đình bà vợ giầu
có. Mãi sau đó, ông cố kiếm đường ngoi lên,
bằng một việc làm tại một tờ báo ở Trinidad, tờ Guardian; bà
mẹ vẫn sống, và sau cùng chết, trong nghèo nàn
cùng cực.
Chính cái nền đó, – những thảm kịch nho nhỏ của
một nhóm người nghèo đói, bị đánh bật ra khỏi
nơi chôn nhau cắt rốn, túm tụm với nhau tại vùng West
Indies, Trinidad – đã làm cho “Một căn nhà cho Ông
Biswas” (1961) - nhân vật chính lấy khuôn mẫu từø
người cha của Naipaul - trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết
viết bằng tiếng Anh tuyệt vời nhất của thế kỷ 20. Hơn thế nữa, nó
còn là một tài liệu giá trị, về một phần đất
không ai thèm ngó tới - theo nghĩa tinh thần – của thế
giới. Không thèm ngó tới, bởi vì đôi khi,
nó, và những phần đất tương tự như nó, có vẻ
như chẳng có gì đủ quan trọng, để được nhân loại để
ý ghi chép, về mặt chính trị cũng như văn hóa,
và thường ra, những vùng đất như thế đó chẳng thể nào
đẻ ra được những nhà văn, nhà trí thức: chính
những người này [mới] có thể ghi nhận sự thịnh suy của chúng.
Naipaul đã mượn luôn những câu chuyện về thời thơ
ấu ông bố, như là một đứa trẻ nhà quê Ấn Độ, rồi
những năm tháng đầu tiên sống đời di dân tại một vùng
quê Trinidaa, một cuộc đời mà Seepersad đã cố gắng
ngoi lên, và rồi viết về nó. Viết, đối với ông
bố của Naipaul, là “tất cả, cho dù nghịch cảnh”: nó
là hứa hẹn về một phẩm giá con người, một “từ chối bị tiêu
diệt”. Ông đã truyền lại cho người con, và với cả hai,
là mong ước “một sự công chính, ở một tương lai nào
đó”. Trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, Pankaj Mishra, khi
điểm những lá thư nhà (“Giữa Cha và Con: Thư
Nhà”, “Between Father and Son: Family Letters”. V.S. Naipaul,
nhà xb Knopf) đã coi nghèo đói, nỗi sợ bị tiêu
diệt (extinction), hy vọng một sự công chính (justice), và
viết như một cứu chuộc, là những đề tài trao đổi giữa Naipaul
và gia đình (Seepersal Naipaul, ông bố là tác
giả tập truyện “Những cuộc phiêu lưu của Gurudeva”, được xuất bản “một
cách riêng tư”, privately, vào năm 1943, tái bản
có sửa chữa và mở rộng thêm vào năm 1976, rồi
năm 1995), bắt đầu vào năm 1950, khi Naipaul tới Anh làm sinh
viên tại Oxford, nhờ học bổng toàn phần của nhà nước
thuộc địa. Ông bố lúc này coi như hết còn làm
việc được nữa; Kamla, bà chị của Naipaul, là sinh viên
tại đại học Benares Hindu University tại Ấn Độ, cô đơn, và bất
hạnh (unhappy), nhưng không làm sao có phương tiện rời
bỏ. Naipaul, 18 tuổi đầu, mang trên mình không chỉ trách
nhiệm cứu thoát gia đình khỏi nỗi khốn khó, mà
còn đèo thêm tham vọng văn chương, chưa biết nó
sẽ ra làm sao, và chưa biết sẽ thực hiện như thế nào.
“Bí ẩn khi tới” (1987) thoát thai từ những lá thư nhà
này, một cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật về một thanh
niên nhà quê hết sức ngu ngốc (profoundly ignorant) bị
đánh bật gốc, nỗi sợ hãi, chết khiếp, tứ cố vô thân
không nơi nương tựa, tại Anh Quốc.
Và như độc giả có thể đoán ra được, vượt lên
những bức thư, là một bức điện tín, gửi cho gia đình,
vào đầu năm 1956: TIỂU THUYẾT ĐƯỢC CHẤP NHẬN=YÊU, và
liền sau đó, ông viết thư cho người chị: “Đó là
bức thư mà em hằng mong được viết về cho gia đình, kể từ ngày
rời Trinidad. Một bức thư về cuốn sách của em.”
***
Chính trị hay không chính trị, không
ai có thể phủ nhận tính chất văn học của những tác phẩm
của Naipaul. Năm nay 69 tuổi, nhà văn người Anh, gốc Ấn, sinh tại
Trinidad, hiện đang sống ở Anh, trong vòng trên 45 năm đã
cho ra đời tổng cộng 26 tác phẩm, nhưng tuyệt phẩm của ông
là cuốn “Căn nhà cho Ông Biswas” (A House for Mr. Biswas).
Những tiểu luận, những tác phẩm phi-giả tưởng của ông thật
sống động, và cũng thật khiêu khích (provocative).
Horace England, thư ký Hàn Lâm Viện Thụy Điển,
người gọi điện thoại cho Naipaul báo tin ông được giải, cho
biết, “Ông thực sự ngạc nhiên, và tôi không
nghĩ là ông giả đò. Ông thực sự ngạc nhiên,
bởi vì cho rằng, như là một nhà văn, ông chẳng
đại diện cho một ai, ngoại trừ chính mình.” Đây có
lẽ cũng là một trong những lý do, ông được giải văn chương
cao quí nhất của nhân loại, cùng với Cao Hành
Kiện, năm ngoái. Nhà văn người Pháp gốc Trung Quốc
này cho rằng, câu chuyện văn chương chỉ là tri âm
tri kỷ giữa những con người chẳng cần phải gặp gỡ, hoặc chẳng thể nào
có duyên được gặp gỡ, mặt nhìn mặt, tay cầm tay nên
chỉ còn trông mong vào mớ chữ nghĩa… Có vẻ như
Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã phá bỏ truyền thống
ban giải thưởng cho những công trình văn học lớn lao, hoặc
đề cao vai trò nhà văn với một nhiệm vụ cao cả nào
đó…
“Tôi đã tưởng rằng mình ra rìa rồi.”
(“I thought I was no longer in the running, you know? I thought I had fallen
away”), Naipaul nói với thông tín viên thông
tấn xã AP. Đã từ lâu, thiên hạ xì xào
về ông, như là một “chuẩn Nobel”; ông là nhà
văn người Ấn đầu tiên được Nobel, kể từ Tagore, vào năm 1913.
Ông nói, sự kiện ông được Nobel là “một dâng
tặng cho cả hai, Ấn Độ, quê cha đất tổ của tôi và những
đất nước khác trong tiểu lục địa.”
Caryl Phillips, tiểu thuyết gia người Anh mà gia đình
cũng tới từ vùng Caribbean, cho biết, ông “ngưỡng mộ tính
tổng hợp giả tưởng và phi-giả tưởng của Naipaul”. “Ông ta ôm
gọn cả hai dạng văn học, thông minh tài tình, và
tràn trề sinh lực, như nhau”. Nhưng Phillips nói thêm,
“Naipaul không ưa những người gốc Phi Châu, điều này
theo tôi không thể giải thích, chỉ bằng sự kiện ông
gốc Ấn. Ông ta cũng ‘thật là không ưa’ người Hồi giáo.
Ông ta là một con người có đủ thứ vấn đề, với những
con người ở ngoài cái vòng tròn mà ông
ta gọi là “trung tâm mang tính lịch sử”. Và cái
trung tâm này được đóng rễ ở Âu Châu.
“Giữa những tín đồ: Một chuyến đi về vùng đất Hồi” (1981),
là một ghi nhận về chuyến đi Iran, Pakistan, và Indonesia.
Đây là một bức chân dung thật cay nghiệt, về những tín
đồ quay lưng về phía tiến bộ và thế giới hiện đại. Ông
kết án Hồi giáo chính thống, mà với nó,
“lịch sử phải làm đầy tớ cho thần học, luật pháp tách
khỏi ý tưởng về sự bình đẳng và học vấn tách
khỏi học vấn (learning is separated from learning).”
Mới hồi đầu tháng (10, 2001), Naipaul đã gây phẫn
nộ trong thế giới Hồi giáo, khi so sánh những hậu quả của
đạo này trên thế giới, cũng chẳng khác gì của
chế độ thực dân thuộc địa. “Nó tạo một hậu quả thê thảm
ở những người cải đạo”, ông nói, đặc biệt nhắm vào
Pakistan, “Muốn cải đạo, bạn phải huỷ diệt quá khứ, huỷ diệt đời mình
(your history).” Ông mô tả việc “quên mình”, “bỏ
ngã” (abolition of the self) mà Hồi giáo đòi
hỏi còn tồi tệ hơn sự huỷ diệt căn cước của một con người dưới chế
độ thực dân thuộc địa. Một thành viên của Hàn Lâm
Viện Thụy Điển, Per Wastberg, đã nói với hãng tin Reuters,
Naipaul chỉ trích tất cả mọi tôn giáo. “Ông ta
coi tôn giáo là tai họa cho nhân loại, nó
thui chột mọi ước ao, nó làm con người hết dám suy nghĩ,
kinh nghiệm (nguyên văn: He considers religion as the scourge of humanity,
which dampens downs our fantaisies and our lust to think and experiment).
Trên mục này, bạn đọc chắc còn nhớ bài phỏng vấn
George Steiner của tờ L’Express, và câu khẳng định của ông,
“nếu thế kỷ 21 là một thế kỷ của tín ngưỡng thì nó
sẽ tiêu luôn” (xem bài “Văn hóa không làm
tăng tính người”.)
Thật khó mà tin được, rằng Hàn Lâm Viện Thụy
Điển đã không để ý đến biến cố 911, những diễn biến
theo sau, và sự kiện Naipaul luôn tỏ ra “thù nghịch”
(hostility) Hồi giáo chính thống. Cũng khó mà
có thể tin được, họ đã quên một điều, rằng họ vờ đi
không lên tiếng khi cái đầu của nhà văn Rushdie
bị ra giá, trước đây, nhân vụ Quỉ Thi.
Tarek Fateh, chủ trì chương trình TV “Ký sự Hồi
giáo”, đã tỏ ra không thoải mái (uneasy) về chuyện
Naipaul được Nobel, mặc dù ông cho biết rất ngưỡng mộ những
khả năng văn học của ông ta. “Tôi thực sự tin rằng, việc ông
ta được Nobel sẽ gây ra những rắc rối sâu xa hơn nhiều, vượt
ra khỏi tầm tay văn chương”. “Nó gây tổn thương, do quá
nhiều những tình cảm chống Hồi giáo.”
Một nhà văn gây tranh luận. Đúng như vậy. Ngay trong
giới văn học, ông ta cũng không tỏ ra nương nhẹ những “văn hữu”.
Nói về James Joyce: Tôi không thể hiểu nổi tác
phẩm của một người mù. Về Dickens: Ông ta cắn phải luỡi (tự
nhại lại tác phẩm của chính mình)…
***
Hình như Borges có nói, người ta không thể
sử dụng từ ‘con dao’ trong một thai đố mà câu trả lời là
‘con dao’; Rushdie viện dẫn nhà văn Á Căn Đình, khi
viết về cuốn “Bí ẩn khi tới” của Naipaul; và từ mà ông
không thể nào kiếm thấy ở trong cuốn sách đó,
là “tình yêu”. Và một cuộc đời không có
tình yêu, hay một cuộc đời mà trong đó, tình
yêu bị chôn sâu tới nỗi không thể nào ló
đầu ra, đó là điều cuốn sách của Naipaul nói
tới. Bởi vậy, nó thật buồn, thật quá buồn.
Rushdie gọi, đó là nỗi buồn đồng quê, trong
bài viết về cuốn sách, trên tờ The Guardian số ra ngày
Thứ Sáu, 13, tháng Ba, 1987, khi nó vừa được xuất
bản; sau được in lại trong tập tiểu luận “Quê hương tưởng tượng”.
Khung cảnh của cuốn tiểu thuyết, là đồng quê Anh, một thứ
“khung rêu” (tên một tác phẩm của Thụy Vũ), hay là
câu chuyện về sự tàn tạ của một gia đình miệt vườn ở
miền nam nước Anh, với quá khứ thuộc địa, như là gia tài
của mẹ để lại, và rồi mang theo ra nước ngoài, của người chủ
đất. Rushdie cho rằng, thật có ý nghĩa, vì trái
ngược với đa số di dân khác, Naipaul đã chọn cho mình
một vùng quê Anh, với những trang viên (manoirs) và
những con sông lượn lờ chung quanh, để mà tái định cư.
Rushdie viết: “Di dân phải bịa đặt ra miếng đất ở dưới chân
mình”. (L’immigré doit inventer la terre qui se trouve sous
ses pieds).
http://www.tanvien.net/cn/Trang_Naipaul.html
cc
1906
Cái sự bành trướng
về phía Nam
là số phần của giống dân quần tụ tại đồng bằng sông
Hồng, lúc nào cũng nơm nớp hai hiểm họa, giặc Bắc và
lũ lụt. An Nam nhất thốn thổ, mảnh đất sông Hồng nhỏ quá,
người cứ đẻ mãi ra, đất thì chỉ có thế, ruộng thì
càng ngày càng co lại vì bờ nhiều hơn ruộng,
ruộng thì ngày càng cằn cỗi vì con đê
sông Hồng chặn hết mọi phù sa mầu mỡ, nước sông ngày
càng đục ngầu, mầu như mầu máu. Kể từ khi có Đàng
Trong, là toàn thể cộng đồng Bắc Hà nhìn về
nó, như là Miền Đất Hứa. Thành ra giải phóng
Miền Nam
thống nhất đất nước, hai miền chan hòa, là giấc mơ đẹp nhất
của xứ Bắc Kít.
Nhưng
không ai có thể ngờ được, nằm bên dưới giấc mơ đẹp nhất,
là Cái Độc, Cái Ác của một miền đất.
Chỉ
đến khi lấy được Miền Nam thì Cái Ác
mới lộ diện.
Phải
đầu hàng, không có bàn giao bàn giếc
mẹ cái gì hết! Bố khỉ!
Mày
phải đầu hàng, vì tao là kẻ chiến thắng, đất đai
của mày, nhà của mày, vợ con của mày, của
cải của mày, căn cước của mày… tất tất của tao, của chúng
ông, tất tất đều chiến lợi phẩm. Hiểu chưa, chú gà
tồ Big Minh!
Source
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|