Notes
on Writing and the Nation
Ghi
chú về Viết và Nước.
Notes
on Writing and the Nation
[For
Index on Censorship]
Salman
Rushdie
The
nation requires anthems, flags.
The
poet offers discord. Rags
Nhà
nước đòi Tiến Quân Ca. Cờ Máu.
Nhà
thơ bèn chìa ra: Cứt. (1)
(1)
Discord: Sự bất hòa. Không khứng giao lưu, hòa giải. Rag: Giẻ rách. Từ
"cứt",
là mượn của cả hai, NHT và nhà thơ Nguyễn Chí Thiện: Ông nhà thơ, thay
vì làm
thơ ca ngợi nhân ngày sinh nhật Bác, thì bèn đi ị.
Nhưng
chưa thảm bằng trường hợp của chính nhà thơ Văn Cao.
Nhà
nước đòi quốc ca, ông OK, nhưng nhà nước lại biểu, đi giết người đã,
rồi sau
đó, làm TQC, vưỡn còn kịp!
*
Con
chim ousen [chim két] hót ở trong rừng Cilgwri.
Hót
hoài hót hoài như một dòng suối dội lên những hòn đá rêu xanh
Nhưng
cũng chưa xa xưa bằng con nhái Cors Fochno
Cảm
thấy làn da lạnh chũng vào tới tận xương tận tuỷ.
Rushdie
viết, rất ít nhà thơ kết hôn sâu xa đằm thắm với đất mẹ như nhà thơ
R.S.
Thomas, một nhà thơ dân tộc Welsh [a Welsh nationalist], những vần thơ
của ông
tìm kiếm, bằng cách nhận ra, để ý [noticing], khẳng định [arguing], làm
thành
vần điệu, huyền hoặc hóa, biến đất nước thành một sinh vật rất ư là
nồng nàn,
rất ư là trữ tình.
Tuy
nhiên, cũng chính ông này, cũng viết:
Sự
hận thù mất nhiều thời gian
Để
mà đâm chồi nẩy lộc, và lòng hận thù của tôi
Kể
từ khi sinh ra, cứ thế mà tăng trưởng..
Không
phải tôi thù cái mảnh đất tàn nhẫn thô bạo dã man mà tôi ra đời...
Tôi
nhận ra một điều:
Cái
lòng hận thù đó, là thù cái làn da khốn kiếp của tôi,
Cái
thứ khốn kiếp, là chính tôi!
Hate
takes a long time
To
grow in, and mine
Has
increased from birth;
Not
for the brute earth...
I
find
This
hate's for my own kind.
*
Thảo
nào, thằng cha Gấu thù chính nó, thù cái chất Yankee mũi tẹt của chính
nó!
*
Rushdie
viết, thật cũng quái, khi quàng vô, cái sự thù ghét, tởm chính mình,
với những
dòng quốc ca, tuy nhiên, có lẽ, đây là cái kiểu cọ nhà quốc gia độc
nhất mà nhà
văn có thể khoác cho mình. [yet this perhaps is the only kind of
nationlist a
writer can be]. Một khi mà sự tưởng tượng được đam mê bật đèn xanh, nó
nhìn
bóng tối y chang ánh sáng. Một khi xúc cảm hung hãn xổ chuồng, thì kiêu
ngạo,
tự cao, hãnh diện cũng y chang nhục nhã, ti tiện, xấu xa; thù hận y
chang yêu đương. Cái sự nhục nhã kiêu ngạo, cái tình yêu thù hận,
chúng thường ban cho nhà văn cơn phẫn nộ quốc gia.
The
nation requires anthems, flags.
The
poet offers discord. Rags
Nhà
nước đòi quốc ca, quốc kỳ.
Nhà
thơ chìa ra sự bất giao lưu. Giẻ rách.
*
Nationalism
corrupts writers,
too. Vide Limonov's poisonous interventions in the war in former Yugoslavia.
In
a time of ever more narrowly defined nationalisms, of walled-in
tribalisms,
writers will be found uttering the war cries of their tribes. Closed
systems
have always appealed to writers. This is why so much writing deals with
prisons, police forces, hospitals, schools. Is the nation a closed
system? In
this internationalized moment, can any system remain closed?
Nationalism is
that "revolt against history" which seeks to close what cannot any
longer be closed. To fence in what should be frontierless.
Good writing assumes a
frontierless nation. Writers who serve fronntiers have become border
guards.
*
If writing turns repeatedly
toward nation, it just as repeatedly turns away. The deliberately
uprooted
intellectual (Naipaul) views the world as only a free intelligence can,
going
where the action is and offering reports. The intellectual uprooted
against his
will (a category that includes, these days, many of the finest Arab
writers)
rejects the narrow enclosures that have rejected him. There is great
loss, and
much yearning, in such rootlessness. But there is also gain. The
frontierless
nation is not a fantasy.
Chủ nghĩa nhà nước cũng làm hư ruỗng nhà văn.
Hãy đọc những bài viết
độc địa của Limonov khi can thiệp vào cuộc chiến ở cựu Yugoslavia. Vào cái thời cực thịnh của chủ
nghĩa quốc gia, của chủ nghĩa bộ lạc, nhà văn gào thét chiến tranh theo
nhà nước, thề phanh thây uống máu quân thù, đường ra trận mùa này đẹp
lắm, thề quyết tử cho nhà nước quyết sinh. Những hệ thống khép kín
luôn luôn xúi bẩy nhà văn ăn cứt gà. Nhà văn đến lượt mình xúi nhân dân
nhỏ máu ngón tay viết thư tình nguyện vô chiến trường Miền Nam. Chính
vì thế mà viết là đụng tới nhà tù, công an, bệnh viện, trường học. Liệu
nhà nước là một căn phòng tối, là hệ thống đóng kín? Vào cái thời điểm
quốc tế như hiện nay, liệu có một hệ thống nào đóng kín? Chủ nghĩa
quốc gia, cái "chống lại lịch sử", tìm cách đóng cửa rút cầu cái
không thể đóng cửa rút cầu được nữa. Tìm cách biên cương cái không có
biên cương.
Văn chương thứ bảnh đề xuất một nhà nước không biên giới. Nhà văn phục
vụ biên giới biến thành tên lính biên phòng.
*
Nếu văn chương liên tục bợ đít nhà nước, thì nó cũng liên tục ngoay
ngoảy cắp đít bỏ đi. Nhà trí thức hơi bị được mất gốc (Naipaul)
nhìn thế giới như chỉ một trí thức tự do có thể nhìn, ông đi tới nơi
nào xẩy ra sự kiện, vụ việc, để ghi chú, để tường thuật. Nhà trí thức
mất gốc bất đắc dĩ (thứ này, ngày này, gồm rất nhiều nhà văn Ả Rập,
toàn thứ bảnh nhất) đếch thèm để ý đến những ao nhà ngày nào xua đuổi
họ. Mất mát nhiều, hoài nhớ, ca cẩm cũng chẳng kém, trong cái sự mất
gốc như
thế. Nhưng cũng có thâu hoạch. Nhà nước không biên giới không
phải là chuyện quái đản
Connections
have been made
between the historical development of the twin "narratives" of the
novel and the nation-state. The progress of a story through its pages
toward
its goal is likened to the self-image of the nation, moving through
history
toward its manifest destiny. Appealing as such a parallel is, I take
it, these
days, with a pinch of salt. Eleven years ago, at the famous PEN
congress in New York City,
the
world's writers discussed "The Imagination of the Writer and the
Imagination of the State," a subject of Maileresque grandeur, dreamed
up,
of course, by Norman Mailer. Striking how many ways there were to read
that
little "and." For many of us, it meant "versus." South
African writers - Gordimer, Coetzee - in those days of apartheid set
themselves
against the official definition of the nation. Rescuing, perhaps, the
true
nation from those who held it captive. Other writers were more in tune
with
their nations. John Updike sang an unforgettable hymn of praise to the
little
mailboxes of America,
emblems, for him, of the free transmission of ideas. Danilo Kis gave an
example
of a 'joke" by the state: a letter, received by him in Paris,
posted in what was then still Yugoslavia.
Inside the sealed envelope, stamped on the first page, were the words This
letter has not been censored.
*
On compare souvent le
développement historique des «récits» jumeaux du roman et de
l'Etat-nation. La
progression de l'histoire au fil des pages vers son but est assimilée
à
l'image qu'a d'elle-même une nation, évoluant à travers l'histoire vers
sa
destinée manifeste. Si séduisant que soit un tel parallèle, je ne
l'évoque ces
derniers temps qu'avec une pincée de sel attique. Il y a onze ans, lors
du
fameux congrès du PEN Club à New
York,
les écrivains du monde entier avaient discuté “L'imagination de
l'écrivain et
l'imagination de l'Etat “, sujet d'une grandeur toute mailerienne,
imaginé,
naturellement, par Norman Mailer. Étonnant le nombre de manières dont
on
pouvait lire ce petit «et ». Pour nombre d'entre nous il signifiait
«contre ».
Les auteurs sud-africains - Gordimer, Coetzee - se dressaient contre la
définition officielle de la nation à cette époque d'apartheid. Sauvant,
peut-être, la nation véritable de ceux qui la tenaient captive.
D'autres
écrivains étaient plus en accord avec la leur. John Updike entonna un
inoubliable éloge des petites boîtes aux lettres américaines, symboles,
pour
lui, de la libre circulation des idées. Danilo Kis donna l'exemple
d'une
«plaisanterie» de l'État: une lettre qu'il avait reçue à Paris, postée
dans ce qui était encore la
Yougoslavie. A l'intérieur de l'enveloppe scellée, sur la première
page, avait
été estampillée la formule suivante:
Cette lettre n'a pas été censurée.
*
Người ta luôn so sánh sự phát triển có tính lịch sử
của hai "chuyện kể" sinh đôi, một, tiểu thuyết, và một, nhà
nước. Sự tiến triển của một câu chuyện theo những trang sách tới mục
đích của nó, được đồng hóa với hình ảnh một nhà nước về chính nó,
triển nở, tiến hoá xuyên qua lịch sử. Thật là quyến rũ, thật là
mùi mẫn, một sự song song như thế đó, những ngày này, tôi đành nuốt nó
cùng với một nhúm muối. Mười một năm trước, tại một cuộc hội họp nổi
tiếng của Văn Bút ở New York, những nhà văn trên toàn thế giới bàn về
"Sự tưởng tượng của nhà văn và sự tưởng tượng của nhà nước", một đề tài
xứng đáng với tầm vóc của Mailer, được tưởng tượng bởi, lẽ dĩ
nhiên, chính xừ lủy. Hơi bị ngạc nhiên, ấy là về con số những kiểu
người ta có thể đọc, về chỉ một từ "và" đó. Với nhiều
người trong số chúng tôi, đúng ra phải là "chống": "Sự tưởng tượng của
nhà văn chống lại sự tưởng tượng của Nhà Nước". Những tác giả Nam Phi -
Gordimer, Coetzee -
nhẩy bổ lên chống định nghĩa chính thức của nhà nước, vào thời kỳ phân
biệt chủng
tộc. Cũng là để cứu vớt, có lẽ, nhà nước thực, ra khỏi những kẻ cầm tù
nó.
Những nhà văn khác thì ăn ý với nhà nước của họ. John Updike, chẳng
hạn, đã đi một đường ngợi ca bất hủ, những cái hộp đựng thư nho
nhỏ, của người Mẽo, những biểu tượng theo ông của sự luân lưu tự do của
tư tưởng. Danilo Kis đóng góp câu chuyện tếu, về nhà nước: Hồi ở Paris,
ông nhận được một cái thư, từ Yugoslavia.
Bên trong phong bì, là con dấu của nhà nước, với dòng chữ: Thư này không bị được kiểm duyệt.
The
nation either co-opts its
greatest writers (Shakespeare, Goethe, Camoens, Tagore), or else seeks
to
destroy them (Ovid's exile, Soyinka's exile). Both fates are
problematic. The
hush of reverence is inappropriate for literature; great writing makes
a great
noise in the mind, the heart. There are those who believe that
persecution is
good for writers. This is false.
[Nhà
nước hoặc o bế những nhà văn lớn
lao nhất của nó, hoặc, tìm cách huỷ diệt họ. Cả hai số phận đều khốn
khổ khốn nạn. Đều vấn nạn. Im lặng cung kính đếch có hợp với văn
chương; viết lớn gây ồn lớn, ở trong đầu, trong tim. Có những người tin
rằng, bách hại, khu trục, làm thịt... là tốt cho nhà văn. Bố náo, bố
nếu!
4
Beware the writer who sets
himself or herself up as the voice of a nation. This includes nations
of race,
gender, sexual orientation, elective affinity. This is the New
Behalfism.
Beware behalfies!
The New Behalfism demands
uplift, accentuates the positive, offers stirring moral instruction. It
abhors
the tragic sense of life. Seeing literature as inescapably political,
it substitutes
political values for literary ones. It is the murderer of thought.
Beware!
Hãy coi
chừng ông, hay bà, nhà văn, tự thổi mình lên, như là tiếng nói của quốc
gia, dân tộc, nhà nước. Nhà nước ở đây, còn gồm chủng tộc, giới tính,
định huớng dục tính, chọn lọc thân quen. Đây là chủ nghĩa nhân danh
mới. Hãy coi chừng những kẻ nhân danh.
Chủ
nghĩa nhân danh mới đòi hỏi hãy vươn lên, hãy hướng thượng, hãy sống,
chiến đấu và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại. Nó ghê tởm ý nghĩa bi
đát của cuộc đời. Coi văn chương không làm sao trốn thoát khỏi chính
trị, nó thay thế những giá trị chính trị cho những giá trị văn học. Nó
là tên sát nhân của tư tưởng. Hãy coi chừng!
5
Be advised my passport's
green.
America, I'm putting my queer shoulder to the wheel.
To forge in the smithy of my
soul the uncreated conscience of my race.
Kadare's Albania,
Ivo Andric's Bosnia,
Achebe's Nigeria,
Garda
Marquez's Colombia,
Jorge
Amado's Brazil:
writers are unable to deny the lure of the nation, its tides in our
blood.
Writing as mapping: the cartography of the imagination. (Or, as modern
critical
theory might spell it, Imagi/Nation.) In the best writing, however, a
map of a
nation will also turn out to be a map of the world.
Hãy ghi
nhận, giấy thông hành của ta thì mầu xanh.
Mẽo quốc, ta đang tì cái vai kỳ cục của ta vô bánh xe.
Trong lò cừ linh hồn, ta rèn lương tâm nòi giống chưa từng được tạo ra
của ta.
Kadare's Albania,
Ivo Andric's Bosnia,
Achebe's Nigeria,
Garda
Marquez's Colombia,
Jorge
Amado's Brazil:
Nhà văn không thể nào chối từ sự níu kéo của nhà nước, những cơn sóng
sùng sục của nó thì ở trong máu của bạn Viết thì cũng như vẽ bản đồ:
Bản đồ của sự tưởng tượng. Hay là, như lý thuyết phê bình hiện đại đánh
vần: Imagi/Nation. Trong văn
chương, thứ bảnh nhất, bản đồ của một quốc gia hoá ra lại là bản đồ của
thế giới.
6
History has become debatable.
In the aftermath of Empire, in the age of super-power, under the
"footprint" of the partisan simplifications beamed down to us from
satellites, we can no longer easily agree on what is the case, let
alone what
it might mean. Literature steps into this ring. Historians, media
moguls,
politicians do not care for the intruder, but the intruder is a
stubborn sort.
In this ambiguous atmosphere, upon this trampled earth, in these muddy
waters,
there is work for him to do