nqt
 
I (old)
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 14 15 16 17 18
19

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]




  Thơ Mỗi Ngày

Bob Dylan: Nobel văn chương 2016

Bob Dylan wins Nobel prize in literature 2016 – live
The 2016 Nobel prize in literature will be announced today at 1pm CET (that’s midday in the UK). Follow the build up and all the reaction after the announcement here
Guardian Live

8m ago 12:01
And the winner is...
Bob Dylan “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”.


*  

Như vậy là Mẽo được Nobel, nhưng đếch phải nhà văn, mà là 1 nhạc sĩ

https://www.theguardian.com/books/2016/oct/13/bob-dylan-wins-2016-nobel-prize-in-literature

Bob Dylan was named the surprise winner of the Nobel prize for literature in Stockholm today “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”.
Speaking to reporters after the announcement, the permanent secretary of the Swedish Academy Sara Danius said she “hoped” the Academy would not be criticised for its choice.
“The times they are a’changing, perhaps”, she said, comparing the songs of the American songwriter, who had yet to be informed of his win, to the works of Homer and Sappho.
“Of course he deserves it – he’s got it,” she said. “He’s a great poet – a great poet in the English speaking tradition. For 54 years he’s been at it, reinventing himself constantly, creating a new identity.”
Danius said the choice of Dylan may appear surprising, “but if you look far back, 5000 years, you discover Homer and Sappho. They wrote poetic texts which were meant to be performed, and it’s the same way for Bob Dylan. We still read Homer and Sappho, and we enjoy it. We can and should read him.”
The winner of the Nobel prize for literature is chosen by the 18 members of the Swedish Academy, who are looking for “the person who shall have produced in the field of literature the most outstanding work in an ideal direction”, according to Alfred Nobel’s will. The award itself admits on its website that “Alfred Nobel’s prescriptions for the literature prize were quite vague”, adding that “in fact, the history of the literature prize appears as a series of attempts to interpret an imprecisely worded will”.
Major writers believed to have been in the running for the award included the Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the Japanese Haruki Murakami.
Danius advised those unfamiliar with the work of Dylan to start with the 1966 album Blonde on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial way of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was “not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps it’s a question of my generation – today I’m a fan of Bob Dylan,” she said.
Dylan becomes the first American to win the Nobel prize for literature since Toni Morrison took the prize in 1993. His triumph follows comments in 2008 from Horace Engdahl, then permanent secretary of the Nobel prize jury, that “the US is too isolated, too insular. They don’t translate enough and don’t really participate in the big dialogue of literature ... That ignorance is restraining.”
Today, a jury now headed by his successor has obviously changed their mind.


Hy vọng Nobel năm nay không bị chỉ trích.
Lẽ tất nhiên xứng đáng. Ông ta là nhà thơ lớn, trong dòng tiếng Anh. Có thể có tí ngạc nhiên, nhưng nhìn lại coi, 5 ngàn năm trước, có Homer, có Sappho.
Người Mẽo đầu tiên được Nobel, sau Toni Morrison, 1993. Mẽo quá cô lập, một hòn đảo, đâu phải 1 đại lục, đếch chịu dịch dọt, đếch thèm tham dự vào những cuộc lèm bèm lớn lao về văn học, viên thư ký thường trực Horace Engdahl chẳng đã dè bỉu, nhưng uỷ ban Nobel sau ông có thể đã thay đổi cái đầu.
Thay đổi cái đầu, có, nhưng vưỡn đếch cho nhà văn Mẽo!


The choice of Dylan follows speculation about disagreement amongst the judging panel. The prize was expected to be announced last week, in the same week as the science medals, and the Academy’s Per Wästberg said the different date was a matter of logistics. But Bjorn Wiman, cultural pages editor at Sweden’s Dagens Nyheter, told the South China Morning Post that “if you ask me, it’s absolutely not a ‘calendar’ issue. This is a sign there’s a disagreement in the process to select a winner.”
Major writers believed to have been in the running for the award included the Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the Japanese Haruki Murakami. At Ladbrokes, where the singer was at 16/1 from 50/1 when betting was suspended, spokesman Alex Donohue said that “a lot of people scoffed when his odds came in to 10/1 from 100/1 in 2011. Looks like there was something blowin’ in the wind after all.”
Danius advised those unfamiliar with the work of Dylan to start with the 1966 album Blonde on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial way of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was “not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps it’s a question of generation – today I’m a lover of Bob Dylan,” she said.

Đúng ra Nobel văn học được công bố tuần trước, nhưng có 1 sự không đồng thuận giữa mấy ông Hàn.

Sara Danius, nữ thư ký thường trực cho biết, hồi còn trẻ, bà không thích ông này, nhưng già thì lại mê. Trong nước, tờ VHTT net phán, cho Bob Dylan, vì là 1 Einstein của quần chúng. Đây là 1 ví von, khi anh ca sỡi được Ô
Bá Mà vinh danh, không mắc mớ đến Nobel. Thứ nào thứ đó. Vòng hoa Nobel là vòng hoa Nobel, “for having created new poetic expressions within the great American song tradition”, đã sáng tạo ra những cách diễn tả mới trong truyền thống lớn lao của dòng ca nhạc Mẽo.
Nhảm
http://www.dw.com/en/the-einstein-of-pop-music-bob-dylan-at-75/a-19278557
Culture
"The Einstein of pop music:" Bob Dylan at 75
As Bob Dylan's birthday is widely noted, music experts wonder whether there could ever be a worthy successor to him as poet, musician and cult figure.
        Bob Dylan has two honorary doctorates and was awarded the Pulitzer Prize in 2008 in recognition of his enormous influence on pop culture. In 2012, US President Barack Obama awarded him the country's highest civil distinction: the Presidential Medal of Freedom. Now he is also a Nobel Prize laureate.


Note: Để an ủi, FB post lại bài diễn văn Nobel của Kertesz
Quoc Tru Nguyen shared a memory.
1 Year Ago
See Your Memories

Heureka!
Nó đây rồi!
Diễn văn Nobel 2002
Imre Kertész

... See More

Tôi phải bắt đầu bằng một lời thú nhận. Một lời thú nhận lạ kỳ, có thể, nhưng mà là chân thiệt. Từ lúc bước lên phi cơ làm chuyến đi tới đây, Stockholm, để nhận giải Nobel văn chương năm này, tôi có cảm giác, một cái nhìn đăm đăm, bình thản, bám chặt ở sau lưng. Ngay cả vào giây phút trang trọng như lúc này, ở nơi nhĩ mục quan chiêm, tôi cảm thấy mình gần gụi với người chứng điềm tĩnh đó, hơn là với người văn mà tác phẩm đột nhiên được đọc trong cõi năm châu bốn bể. Và tôi chỉ mong rằng, biết đâu, nhờ dịp này, qua bài nói chuyện mà tôi có vinh dự đọc lên, sẽ giúp tôi rũ khỏi tình trạng nhập nhằng, và nhập được cả hai con người nói trên, vào làm một.



*

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Merwin.html


Merwin

Khong Lo
Vietnamese
medieval, Ly dynasty
died 1119

The Ideal Retreat

I will choose a place where the snakes feel safe.
All day I will love that remote country.
At times I will climb the peak of its lonely mountain
to stay and whistle until the sky grows cold.

1967, translated with
Nguyen Ngoc Bich

Nơi thần sầu để rút dù

Tớ sẽ chọn một nơi mà rắn [độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi đó
Tớ sẽ leo lên cái đỉnh núi trơ cu lơ của nó
Đếch thèm tìm bản chúc thư [của MT], hay xác con gấu, hay con cáo gì gì đó [của Hemingway]
Mà để hét lên 1 tiếng lạnh hư không!


Ngo Chi Lan
Vietnamese
15th century

AUTUMN

Sky full of autumn
earth like crystal
news arrives from a long way off following one wild goose.
The fragrance gone from the ten-foot lotus
by the Heavenly Well.
Beech leaves
fall through the night onto the cold river,
fireflies drift by the bamboo fence.
Summer clothes are too thin.
Suddenly the distant flute stops
and I stand a long time waiting.
Where is Paradise
so that I can mount the phoenix and fly there?

1968, translated with
Nguyen Ngoc Bich

Yosa Buson
Japanese
1716-1783

AN OLD DOG
Okinamaro
are you still keeping watch
without sleep through the short summer nights

            Washing my feet in a basin
            I see that the basin leaks
            water running out like the last of spring

A fish in an old well
leaps at mosquitoes
a sound of darkness

AT A PLACE CALLED KAYA IN TANGO REGION
This is happiness
crossing the stream in summer
carrying my straw sandals

            The cut duckweed along the road
            goes on flowering      
            in the evening rain

Ten wagonloads of sake barrel
sway along slowly
through the summer woods

            All the way  I have come
            all the way I am going
            here in this summer field

Mountain streams flow down
into each other
giving up their sounds

            Fragrance of a sachet
            the gesture of a young woman
            who is mute

In the flash of lightning
I hear the dewdrops rolling
down the bamboo leaves

            A wild boar lies down
            on the valerian
            dew gathers on the broken stems

The autumn chill becomes part of me
in the bedroom I step on a comb
that belonged to my dead wife

            Under the harvest moon
            a servant is on his way
            to abandon a puppy

Memories of my father and mother
come to me all by themselves
late in the autumn

            An autumn evening
            sandpipers too
            stand looking away

One step outside the gate
and I too am a traveller

            on an evening in autumn
            Some pilgrim drew eyes and nose
            on a gourd
            and went away

Beside the road
buckwheat flowers
flow over my hand

How I love hearing
the small birds
up in the eaves

UPON MARYUNA'S REQUEST FOR A VERSE
TO GO ON HIS PAINTING OF A BLACK DOG

His bark comes
out of the darkness inside him
deep in the autumn night

            It is autumn in me
            but tomorrow will come
            and I will miss tonight

A bagworm hangs
snug and comfortable
in the first winter rain

            In silence the winter rain
            soaks the roots
            of the camphor tree

Is it a winter shower
or a mouse running
over the koto strings

            Old quick
            which shall I cover
            my head or my feet

PUTTING ON MY STRAW HAT AND
SANDALS FOR A JOURNEY

Since Basho went
not a single year
has lived up to its promise
 

1990-2010, haiku translated with
Takako Lento

 


  Iosip Brodsky 
Russian
1940-1996

THE BLIND MUSICIANS

The blind go their way
        by night.
It's easier to cross
the squares
        at night.
The blind live
feeling their way,
brushing the world with their hands,
knowing neither shadow nor light,
and their hands drift over the stones
built into walls
of men, women,
children,
        money,
walls that cannot be broken,
        better
to follow along them.
Against them the music
hurls itself
and the stones soak it up.
In them the music dies
under the hands.
It's hard dying at night, hard
to die feeling your way.

The way of the blind is
simpler, the blind
        cross the empty squares.

1967, translated with
Wladimir Weidlé  


Viết Mỗi Ngày

Lê Công Định commented on this.
Follow

Cơ quan an ninh bắt Blogger Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) vào thời điểm này là ngầm dằn mặt Công Giáo vì Mẹ Nấm là gia đình theo Đạo.
Sự kiện dân Công giáo miền Trung nổi dậy làm điêu đứng thể chế cộng sản bắt đầu với cuộc biểu tình phản đối Formosa tại Giáo xứ Đông Yên và trước đó Công Giáo Nghệ an kéo vào Kỳ Anh nộp đơn kiện Formosa có nguy cơ bùng phát.

Nhà cầm quyền trong lúc này tập trung hết vào việc dập lửa. Bắt các Linh mục thì chưa dám nên họ nhắm bắt Mẹ Nấm với cái cớ "chống nhà nước" trong khi tài liệu khám nhà chỉ có các khẩu hiệu phản đối Formosa.

Ai cũng biết trong cái đảng đỏ máu này các phe phái ăn chia đang phân rã khủng khiếp. Quyết định dập lửa của họ đôi khi thay vì tưới nước có kẻ lại ngấm ngầm chuyển tới can xăng.

Việc cuối cùng, thay vì khóc ròng cho Nẹ Nấm và ngồi bói xem họ sắp bắt ai tiếp theo, tôi nghĩ ai yêu mến cô ấy hãy tìm mọi cách theo khả năng cưu mang đùm bọc hai đứa con cô ấy có lẽ là thiết thực.

Lê Công Định and 768 others

Note: Đúng quá. Cái cú di cư, nếu không có công giáo, thì cũng không biến thành biến động lịch sử.
Chúa vô Nam, bây giờ đúng là lúc Chúa trở lại Đất Bắc.
Bắc Kít rất cần 1 thứ tín ngưỡng như Thiên Chúa Giáo, thứ mà Bắc Kít thù nhất.

Đây cũng là lời tiên tri mà Steiner lọc ra, khi viết về Liên Xô:

Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian.
Steiner

Amen!
http://tanvien.net/Tribute_1/30.4.14_2.html

Steiner có hai bài viết trên tờ The New Yorker, [sau in lại trong Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt. Một, “De Profundis”, về Gulag, và một về Solz và những nhà văn Nga khác: Dưới cái nhìn Ðông phương, Under Eastern Eyes.

Steiner viết, những đòi hỏi của Solz, ở những người Nga đọc lén lút ông [bao nhiêu độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây Phương, thì thật là dữ dằn, nghiệt ngã. Ông biết, và coi khinh sự đáp ứng dễ dãi của người đọc Tây Phương, và cái khiếu thưởng ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant suffering, của họ. Ông rành chúng ta, hơn là chúng ta rành ông. Và như thế, ông là một tác giả hướng ngoại, a searcher-out, một thứ chó săn ăn tìm sự yếu ớt về thể xác của con người. Và, vẫn như thế, ông là 1 tác giả gây bực.

Every time a human being is flogged, starved, deprived of self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is an additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the irreparable fact of individual agony with anonymous categories of statistical analysis, historical theory, or sociological model-building. Consciously or not, anyone who offers a diagnostic explanation, however pious, or even condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the death by torture of this man or that woman, of the death by hunger of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As happens with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows that if we are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter their names, by the million, in an incessant requiem of nomination.

Mỗi một sự sỉ nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là một trường hợp riêng lẻ không thể giản đơn và không thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh đập, bị bỏ đói, bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại mở toạc ra trên tấm dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi thêm, làm cho sự phi nhân không còn có tính cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa chữa, về cơn hấp hối của từng cá nhân, bằng đủ thứ phạm trù vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch sử, hay xây dựng mẫu mã xã hội. Cố ý hay không, bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời giải thích chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào, hoặc ngay cả chỉ trích đi nữa, cũng làm tiêu hao, bào nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể không thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông này, bà kia, hoặc cái chết vì đói khát của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh bởi sự linh thiêng của khoảnh khắc đặc biệt, dị thường. Như đã từng xẩy ra với Dante, và Tolstoy, tên riêng của con người trào ra như thác dưới ngòi viết của ông. Ông biết, nếu chúng ta cầu nguyện cho những người chết vì tra tấn, chúng ta phải nhập tâm và thốt lên tên của họ, trong dòng kinh cầu hồn không ngừng, từng tên một, hàng triệu tên.

Dưới con mắt Đông phương

Có một nghịch lý về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak, những sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới, trọn một gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt của những vần thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn, chúng vẫn cho thấy một điều, không có chúng là không xong. Chúng ta không thể sẵn sàng bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và của nhân loại nói chung, nếu không có chúng ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử, chỉ có văn học cổ Hy Lạp là có thể so đo kèn cựa được với văn học Nga, nếu nói về tính phổ quát. Tuy nhiên, với một độc giả không phải là người Nga, khi đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn là một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén một bản văn, một cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền đạt cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả, phê bình Tây phương, cho dù ở những tay sắc sảo nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý, đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến những gam, những mảng quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương, của giới quê mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn học cao và Âu Châu hóa được những nhà văn Nga thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một con nhím xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này có thể xẩy ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức độ, tới đó, những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy tưởng tượng "quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha và Con, hay Chiến tranh và Hòa bình, hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị em). Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào một bản văn thì đã làm méo mó, sai lạc điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì không thể chỉ là do khoảng cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tác của Nga hiện hữu “mặc dù” chế độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài kiểm duyệt, nhìn chỗ nào cũng thấy có cặp mắt của…cớm, vậy mà Nga vưỡn có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm như thế, nó chửi bố chế độ, nó mời gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực tiếp, hoặc với một sự mặc cả hàm hồ nào đó, với chính quyền, hoặc Chuyên Chính Nhà Thờ, hoặc Mác Xít Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà Nga có 1 thật câu thật hách [thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít], nhà văn nhớn là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ, đổi chiều”, “the alternative state”. Những cuốn sách của người đó, là một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc nhất - của sự chống đối chính trị.
Trong trò chơi mèo chuột khó hiểu như thế đó, và nó gần như không thay đổi, kể từ thế kỷ 18, Viện Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và có khi còn cho phát hành, quảng bá những tác phẩm nghệ thuật hiển nhiên mang tính nổi loạn, phản động.
Với dòng đời trôi qua, thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những tác phẩm như thế đó - của Pushkin, Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng là những cái van an toàn chuyển vào miền tưởng tượng một số những đòi hỏi thay đổi, đổi mới chính trị, mà thực tại không cho phép. Cuộc truy lùng, săn đuổi những nhà văn-từng người, tống vào tù, cấm đoán sách của họ, là 1 phần của sự mà cả giữa đôi bên.
Một kẻ ở bên ngoài, không phải Nga, chỉ có thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào nỗi đau khổ của Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù của Dostoevsky ở Siberia, cuộc chiến đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt của Tolstoi, hay nhìn vào bảng mục lục dài những kẻ bị sát hại, mất tích, nó là cái biên nhận về sự thành tựu văn học Nga thế kỷ 20, và anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà văn Nga xục xạo, dính líu vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào nhân dân Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh ta dí mũi vào đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn chán, và dễ dãi của đồng nghiệp Tây phương. Thường xuyên, trọn ý thức Nga được truyền vào ngòi viết của anh ta. Và để đổi lại, là mạng sống của anh ta, nói cách khác, anh ta trải đời mình, len lỏi đời mình, suốt địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực sự cũng không nói trọn sự thực, nó vẫn giấu đi ở trong chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực giác, nó thì thật là hiển nhiên giữa những đấng nghệ sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài đừng hòng nắm bắt được.
Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác, sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại, riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng 1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.

Những đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm, rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì quá tổng quát, để mà xác định tính chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.


Và cuộc lưu vong, phát vãng xứ người, ra khỏi khối u, hộp đau, cục uất đó, bây giờ ám ảnh Solzhnitsyn. Với con người mãnh liệt bị ám ảnh này, có một cảm quan thực, qua đó, sự nhập thân nơi Gulag đem đến vinh quang và sự miễn nhiễm ở Tây Phương. Solz ghét Tây Phương, và cái sự la làng lên của ông về điều này thì chỉ khiến người ta dửng dưng và… vô tri. Cách đọc lịch sử của ông theo lý thuyết thần học Slavophile thì cực rõ. Cuộc cách mạng Pháp 1789 thăng hoa những ảo tưởng thế tục của con người, cuộc nổi loạn hời hợt của nó chống lại Chúa Ky Tô, và mạt thế luận. Chủ nghĩa Mác là hậu quả tất nhiên không thể nào tránh được, của cái thứ tự do bất khả tri này. Và chính con vai rớt, khuẩn trí thức, “đặc mũi lõ” đó, được đám trí thức mất gốc, phần lớn là Do Thái, cấy vô máu Gấu Mẹ vĩ đại, là nước Nga Thiêng, the Holy Russia. Gấu Mẹ vĩ đại sở dĩ nhiễm độc là do những rất dễ bị tổn thương, và hỗn loạn của hoàn cảnh, điều kiện một nước Nga sau những khủng hoảng quân sự lớn 1914. Chủ nghĩa CS là một nhạo nhại của những lý tưởng thực sự về đau khổ, tình anh em đã làm cho nước Nga được Chúa chọn. Nhưng 1914 chứng kiến một nước Nga nhếch nhác, thảm hại tàn khốc, và vô phương chống lại cơn dịch của chủ nghĩa duy lý vô thần.
Từ đó, chúng ta nhận ra tầm quan trọng khủng mà Solz đánh vào năm đầu của cuộc Thế Chiến, và sự giải quyết của ông, để làm bùng nổ ra mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của 1914 [một mùa Thu năm qua cách mạng tiến ra], và của những sự kiện đưa tới [Tôi nói đồng bào nghe rõ không] Tháng Ba, 1917, trong một dẫy những “sự kiện- giả tưởng” khổng lồ.
Nhưng trong cái khoa nghiên cứu quỉ ma này, Lenin đặt ra 1 vấn đề mà Solz cũng đã từ lâu quan tâm tới. Chủ nghĩa Mác có thể là thứ bịnh [quỉ] của Tây Phương và Hê-brơ [Do Thái], nhưng Lenin là một Trùm Nga, và chiến thắng Bôn sê vích chủ yếu là của ông ta. Rõ ràng, trong những bản viết đầu tay của Solz đã có những dấu vết chứng tỏ, một cá nhân con người, như là tác giả những bài viết, chống lại 1 hình tượng như là Lenin.
Trong một nghĩa chỉ có tí phần có tính ám dụ, Solz hình như cảm ra được rằng, ý chí, ước muốn kỳ quặc và viễn ảnh của riêng ông có gì xêm xêm của Lenin, và, cuộc chiến đấu cho linh hồn và tương lai của nước Nga, sẽ là cuộc tử đấu giữa ông và người tạo ra hệ thống Xô Viết: Trời cho mi ra đời là để dựng nên Xô Viết, còn ta, để huỷ diệt nó. Và tiếu lâm thay, đúng như 1 cú của định mệnh, thiên đường không đi, mà cả hai cùng hẹn nhau, không cùng lúc mà là trước sau, lần lượt: Solz thấy mình ở Zurich, cũng trong tình trạng lưu vong, với Lenin, là trước cú tận thế 1914. Solz đã đi 1 chương về Lenin trong “Tháng Tám 1914”, và còn dư chất liệu cho những tập kế tiếp mà ông đặt tên là “Knots". Nhưng cú tính cờ Zurich thì quá giầu có để mà bỏ đi. Từ đó, xuất hiện Lenin ở Zurich (nhà xb Farrar, Strauss & Giroux).

Kết quả thì không tiểu thuyết mà cũng chẳng luận văn chính trị, mà chỉ là một bộ, set, những điểm xuyết nặng ký, in depth. Solz nhắm “lên sơ đồ, hoạch định, tìm ra” những sở đoản, điểm bại, tử huyệt của Lenin. Tin tức về Cách Mạng Nga đến với Lenin trong kinh hoàng, theo nghĩa, ông hoàn toàn ngạc nhiên đến sững sờ. Ðầu óc thiên tài quỉ quyệt với những âm mưu gây loạn của Lenin khi đó chỉ nhắm tạo bất ổn ở Thuỵ Sĩ và đẩy đất nước này vào 1 cuộc chiến.

Ngồi ăn sáng mà Lenin buỗn nẫu ruột. Người quậy tứ lung tung cố moi ra tiền vỗ lớn cái bào thai cách mạng. Người nhức đầu vì một người đàn bà khác trong cuộc đời khổ hạnh của Người, nàng Inessa Armand cực phấn kích, làm rùng mình, và chấp nhận “lệch pha ý hệ” ra khỏi nàng, và điều này có nghĩa là một đệ tử của Thầy bị ăn đòn!
Trên hết, như Solz, đích thị xừ luỷ, Người nhận thấy cái sự khoan thứ, rộng luợng đã đư
ợc khử trùng và trở thành trong suốt của chủ nhà Thụy Sĩ khiến Người trở nên khùng:

Cả Zurich, chừng ¼ triệu con người, dân địa phương , hay từ các phần khác của Âu Châu, xúm xít ở dưới đó, làm việc, trao đổi công chuyện, đổi tiền, bán, mua, ăn nhà hàng, hội họp, đi bộ, lái xe lòng vòng, mỗi người mỗi ngả,   mỗi cái đầu thì đầy những ý nghĩ, tư tưởng chẳng có trật tự, chẳng hướng về đâu. Trong khi đó, đứng trên đỉnh núi, Người biết cách hướng dẫn họ, và thống nhất thành một mối ước muốn của họ.

Ngoại trừ điều này:  Người đếch có tí quyền lực cần thiết. Người có thể đứng trên đỉnh Zurich, hay nằm trong mồ, nhưng không thể thay đổi Zurich. Người đã sống hơn một năm ở đó, mà mọi cố gắng của Người đều vô ích, chẳng có gì thay đổi.

Và, kìa, chúng lại sắp hội hè nữa kìa!

Lenin trở về Nga, trong cái “xe đóng khằn” trứ danh, vi sự đồng lõa của nhà cầm quyền hoàng gia Ðức, và bộ tướng lãnh (họ mong làm sao chiến tranh đừng xẩy ra tại Nga). Nhưng Lenin chẳng hề có tham vọng này. Nó là từ cái đầu của Parvus, alias Dr. Helphand, alias Alexander Israel Lazarevich. Mặc dù cả một cuốn tiểu sử hoành tráng của Z.A. Zeman và W.E. Scharlau, “Tên mại bản cách mạng”, "The Merchant of Revolution", chúng ta chẳng biết chi nhiều, và rõ ràng, về ông này. Một nhà cách mạng a ma tưa, nhưng tầm nhìn đôi khi vượt cả của Lenin. Một tay gây vốn thiên tài cho Bolsheviks, nhưng còn là gián điệp nhị trùng, tam thùng, đi đi lại lại giữa các phần tử, đảng phái Thổ Nhĩ Kỳ, Ðức, và Nga. Ăn diện bảnh bao, dandy, người của muôn phương, cosmopolite, chàng bèn liền lập tức bị mất hồn và sướng điên lên vì chủ nghĩa khổ hạnh đến cuồng tín của những đường hướng của Lenin. Tòa villa sang trọng, giầu sang mà Parvus xây cho chính ông ta ở Berlin, và vào năm 1942, chết ở đó, sau này được Himmler sử dụng để đi một đường “giải pháp chót” [nhổ sạch cỏ] cho giống dân Do Thái.
*
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt. Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này. Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi [“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với tự do suy tư. Một tuyệt tá



Giới thiệu Đà Lạt qua mấy trang viết.

Viết về Đà Lạt mà bỏ qua không nhắc tới MCNK thì nhảm quá, và đọc như thế là hư cả Đà Lạt, do thiếu cái giai thoại nền tảng của nó, Đà Lạt là nghĩa địa của voi, đây cũng là ý nghĩa tương tự như Cội Rễ  Nhà Trời, Les Racines du Ciel, của Romain Gary

http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/10/da-lat-et-jentends-siffler-le-train.html

  1. có vẻ lần này Nguyễn Vĩnh Nguyên đã thực sự tìm được nhiều độc giả rồi đây :p

    Reply
    Replies
    1. "Như đôi mắt sớm thành ga cô quạnh..."

  2. thật không ngờ là đến một ngày sẽ có người trích thơ Lu Tử D. ở blog của tôi đấy :p

    Reply

Lu Tử D. Tuyệt kú nick. Đúng là chàng! Hà, hà!

Đâu phải vô tư mà Lê Cự Phách biến thành Du Tử Lê. Chàng biết chàng là ai, 1 kẻ làm thịt gái. Đúng là tên tìm tên, người tìm người, trâu tìm trâu, chó chơi với chó…. Bất giác lại nhớ đến 1 tay phóng viên, hỏi Naipaul 1 câu, Người sướng quá, cám ơn lia chia:
- Vào năm 1967, trong cuốn Lần Viếng Thăm Thứ Nhì, một thứ phóng sự về Ấn Độ, ông đã từng nói: "Tất cả những tự thuật Ấn Độ đều được viết bởi, vẫn chỉ có một người: dở dang". Phải chăng, đây là định nghĩa Willie? [nhân vật chính trong Nửa Đời Nửa Đoạn, La Moitié d'une vie, tác phẩm của Naipaul].
- Vâng, đúng như vậy. Cám ơn đã để ý tới điều này.
[Tạp Chí Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín 2005. Naipaul trả lời phỏng vấn].
Tên nhân vật, tên cuốn sách, số phận của 1 xứ sở, 1 dân tộc, là… 1. Tuyệt!
Cà, Lê, Táo…. Không thể so được với DÊ!
Tuyệt!
Trên TV có 1 bài viết về lần chàng về gặp lũ Cớm VC, từ 1 bài ở trong nước. Mới đây coi lại bài trong nước đã bị gỡ bỏ


2515. Hình ảnh họa sĩ/thi sĩ Đinh Cường trở về Đà Lạt và Dran lần cuối cùng tháng 11.2013 do phóng viên nhiếp ảnh Nguyễn Hữu thực hiện


Đà Lạt
5

Kiệt có, ở Đà Lạt, hai, trong số ba nàng của chàng: Oanh và Ly.
Hai Lúa có, hai, một cô bạn và một cô bé.
Cô Bé tức Bông Hồng Đen.
Cô bạn, là cái cô, y hệt Oanh, đã "miễn cưỡng" nhận lời mời đi coi ciné, với một anh chàng mê mình, ngày mai đi xa, ngày mai ra trận!
Anh ta bảo: Anh có thể ra Quảng Trị, hoặc Kontum, hoặc An Lộc… Oanh cười: Bắt chẹt Oanh quá vậy.
"Lần đầu tiên anh cầm tay em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông đó. Được chưa?"

Cô bạn là tác giả câu thơ mà bạn có thể để vào bài ai điếu, cho một nửa của bạn, khi nửa này chẳng may đi trước:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương.

Linda Lê, giữ mục "Trở Về Với Cổ Điển" cho tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số Tháng Giêng 2005, trong bài viết "Tâm Hồn Lãng Mạn", L'Âme Romantique, nhân dịp tái xb tuyển tập "Những Nhà Lãng Mạn Đức", Les Romantiques Allemands, đã nhắc tới một định nghĩa, thế nào là dịch thuật, của Novalis.
Một bản dịch, thì, hoặc, có tính văn phạm [dịch theo nghĩa đen, bám chữ], hay có tính dẫn giải [mô phỏng, phóng tác], hoặc, có tính huyền hoặc, mythique. "Những bản dịch huyền hoặc là thứ bảnh, văn phong thuộc loại thượng thừa, de haute style. Chúng tái tạo nghệ phẩm, đưa nó trở về dạng trinh nguyên, toàn bích, ấy là nói về tính cách của nghệ phẩm, ở trong cái gọi là cá biệt, nhất khoảnh của nó. Nói một cách riết róng, không phải một nghệ phẩm mà nó dâng hiến cho chúng ta, mà chính cái gọi là lý tuởng".... Nó làm bật ra, còn quá bản văn, mà là linh hồn của tác phẩm.
Dịch mà làm sao cống hiến cho người đọc, không chỉ bản văn, mà là linh hồn của nó, ấy mới là dịch vậy!
Theo nghĩa đó, câu thơ "Hồn Đông Phương thất lạc buồn Tây Phương" là một câu thơ dịch. Một bản sao.
Nó chuyển một Hồn Đông Phương thất lạc, không còn tìm thấy mình, thành nỗi buồn lưu vong, xa xứ.
Thành Buồn Tây Phương.

Borges đã từng suýt soa, dịch bản bảnh hơn nguyên bản, là vậy.
Cũng vẫn theo nghĩa đó, một tác phẩm chỉ là tác phẩm khi tìm được linh hồn của nó.
Ở trong dịch bản!

Cũng vẫn theo nghĩa đó, một nửa, nửa kia, của mình, mới là mình.
Mới là linh hồn của mình!

Mình là cái quái gì? Anh chỉ mong mọi người coi thường anh.
TTT: Một Chủ Nhật Khác
 *

Người đọc Một Chủ Nhật Khác, nếu tinh ý một chút, đã linh cảm ra được, kết cục bi thảm của nó, khi nhớ tới đoạn Kiệt gặp anh Trung Tá già, đã từng bị VC tóm được, trốn thoát. Hai người bàn về loài voi, khi biết mình sắp chết, là bò về nghĩa địa...

"Loài voi có đặc tính kỳ lạ là khi biết mình sắp chết thì tự động bỏ đàn lánh đến chỗ khuất nằm chờ chết? Các nhà thám hiểm Phi Châu thường gặp những nghĩa địa voi"

"Cũng có phần đúng, thành phố này là một nghĩa địa voi. Nhưng rừng ở đây tuyệt giống voi lâu rồi.... Cái ông bác sĩ tìm ra thành phố này là một con bệnh ông biết không? Ông ta mắc chứng kỳ quái...".


Một Chủ Nhật Khác

Một cuốn tiểu thuyết, một cách nào đó, giống như một bài toán đố. Những chi tiết, những sự kiện, giống như những giả thiết. Đọc, là tìm cách chứng minh bài toán, tìm ra cái định lý của nó.
Chính vì thế, người ta cho rằng, tiểu thuyết trinh thám mới đích thị là tiểu thuyết.
Theo nghĩa đó, Foucault cho rằng, bất cứ một kho tàng, dù chôn giấu kỹ lưỡng thế nào, người chôn cũng để lại tiêu ký, để cho người tìm có tí dấu vết mà lần mò.

Hai Lúa còn nhớ, có lần, tác giả Một Chủ Nhật Khác kể là, hình như trong một bài viết, lúc nghe tin ông Diệm bị làm thịt, ông đang ngồi với một vài ông bạn, cũng sĩ quan, lính tráng. Cả bọn đồng la lên: Hỏng rồi!

Hỏng rồi, là "đại cục" hỏng rồi?
Hỏng rồi, là vui sao nước mắt lại trào?
Hỏng rồi, là sẽ có 10 ngày ở... Thiên Thai?
Hỏng rồi, là sẽ có một con bọ?

Cái "tiêu ký" 'hỏng rồi' đó, sao mà... thảm thế!

Cách Mạng Vô Sản của Lê Nin
The Russian revolution
Missed connection
Vladimir Lenin’s railway journey from Switzerland to Russia changed history

http://www.tanvien.net/TG2/tg2_ve_van_lichsu.html

 TTT 10 năm

SN_GCC_2016
Quoc and Nguyễn are celebrating 3 years of friendship on Facebook!
See Your Memories


http://tanvien.net/new_daily_poetry/20.html

Son of Man and Son of God

Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM

Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.

Nguyên tác:

Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine 

Theo tôi, nên dịch như sau:

Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau –
Con, hay Chúa, ta là của bà 

Best regards,

DHQ
 

Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật, mà đúng là 1 câu quá quan trọng.
Tks again.
Best Regards

NQT


   Anh khoe khong?
K

OK rồi, không què đâu. Tks
NQT

Mạnh khỏe la vui roi!
O. 

Tks. Tưởng là què luôn.

V/v Đi tu tới bến.
Tôi đang đọc Weil, cũng có cảm giác đó

Bác Tru theo dao nao vậy?

Toi theo dao tho ong ba
Den gia, doc Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre theo dao Ky To, chac là thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.

*

NY Review Book 2005

Xuống phố, vô tiệm sách, vớ được cuốn trên. Đọc sơ sơ mấy dòng, thì vỡ ra tới hai điều rất ư là quan trọng, với riêng GNV:
Tại làm sao mà Gấu bị cái rìu phá băng Simone Weil bổ trúng đầu, đúng dịp Trần Trường Cờ Máu Hình Bác, tại ngay trung tâm Tiểu Sài Gòn, Cali?
Bản văn ‘Iliad hay là Bài thơ của Sức mạnh’ của Weil có một chị/em song sinh.
Khủng hơn nữa, cả hai tác giả, đều là nữ, và đều tự tử.

Bởi vì ngay cái tít của bài Intro cho cuốn sách trên, đã giải thích: Đây là câu chuyện của hai Iliads

Introduction: A tale of two Iliads

INTRODUCTION
A TALE OF TWO ILIADS 

The critic Kenneth Burke once suggested that literary works could serve as "equipment for living," by revealing familiar narrative patterns that would make sense of new and chaotic situations. If so, it should not surprise us that European readers in times of war should look to their first poem for guidance. As early as the fall of 1935, Jean Giraudoux's popular play La guerre de Troie n'aura pas lieu encouraged his French audience to think of their country as vulnerable Troy while an armed and menacing Hitler was the "Tiger at the Gates" (the play's English title). Truth was the first casualty of war, Giraudoux warned. "Everyone, when there's war in the air," his Andromache says, "learns to live in a new element: falsehood."

Giraudoux's suggestion that the Trojan War was an absurd contest over empty abstractions such as honor, courage, and heroism had a sinister real-life sequel when Giraudoux was named minister of wartime propaganda in 1939. In the wake of Munich, Minister Giraudoux announced that the most pressing danger to French security was not the Nazis but “one hundred thousand Ashkenasis, escaped from the ghettos of Poland or Rumania.”

After September 1939, the analogy between the crisis in Europe and the Iliad - which opens with broken truces and failed attempts to appease Achilles' wrath-seemed altogether too apt. During the early months of the war, two young French writers of Jewish background, Simone Weil and Rachel Bespaloff, apparently unaware of the coincidence, wrote arresting responses to the Iliad that are still fresh today. During the winter of 1940, Weil published in the Marseilles-based journal Cahiers du Sud her famous essay "L'Iliade, ou le poème de la force." Three years later - after both Weil and Bespaloff had fled France for New York - Jacques Schiffrin, a childhood friend of Bespaloff's who had become a distinguished publisher, published "De l'Iliade" in New York under the Brentano's imprint.

The idea of bringing these two complementary essays together was first pursued by Schiffrin and Bollingen editor John Barrett. After Mary McCarthy translated both essays into English plans were made to publish them in a single volume.' When rights to Weil's essay proved unavailable, Bespaloff's "On the Iliad" appeared separately in 1947, as the ninth volume in the Bollingen series, with a long introduction - nearly half as long as Bespaloff's own essay-by the Austrian novelist Hermann Broch, author of The Death of Virgil. In their respective essays, Weil and Bespaloff adopt some of the same themes while diverging sharply in their approach and interpretation. In her essay Weil condemns force outright while Bespaloff argues for resistance in defense of life's "perishable joys."

[suite]

NEW YORK REVIEW BOOKS CLASSICS
WAR AND THE ILIAD 

SIMONE WElL (1909-1943) was one of the first female graduates of the Ecole Normale Superieure and taught philosophy in provincial schools from 1931 to 1938. A socialist, she worked for a time on the Renault assembly line and volunteered to fight against the Fascists in the Spanish Civil War. In 1938, a mystical vision led Weil to convert to Roman Catholicism, though she refused the sacrament of baptism. Weil fled France for the United States in 1942, where, in solidarity with the people of Occupied France, she drastically limited her intake of food, so hastening her early death from tuberculosis. 

RACHEL BESPALOFF (1895-1949) was born to a Ukrainian Jewish family-her father was the Zionist theoretician Daniel Pasmanik-and raised in Geneva. Bespaloff intended to pursue a musical career, but after an encounter with the thinker Leo Shestov, she devoted herself to the study of philosophy. One of the first French readers of Heidegger, Bespaloff published essays in the 1930s about Kierkegaard, Gabriel Marcel, Andre Malraux, and Julien Green, among other philosophers and writers. In 1942, she left France for the United States, where she worked as a scriptwriter for the French Section of the Office of War Information before teaching French literature at Mount Holyoke. In 1949, Rachel Bespaloff committed suicide, leaving a note that said she she was "too fatigued to carry on."


Một chủ nhật khác

Lần trước còn học trong Thủ Đức, một chủ nhật được phép xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức giấc lúc trời tối mịt, không đợi xe buýt, ra khỏi doanh trại cùng vài người như những bóng ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn đèn thắp ngoài đường. Trên phố vắng vẻ, gió không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào xạc. Kiệt đứng trên hè ngó dãy phố đóng ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn.

Viết Mỗi Ngày

Frederic Dard, a master of French noir

This prolific novelist is little known to English-language readers. A new series of translations will introduce them to his sinister work
Trùm tiểu thuyết đen của Tẩy.
Như Simenon, cả hai đếch thèm chơi với giới văn nhân, và chẳng hề được coi là trí thức Tẩy

Dard, like Simenon, relished his status as a best-selling provincial outsider. “Neither of them had much connection with the literary world,” Bellos explains, “and neither could be considered a ‘French intellectual’: both left school at 15.” However, as much as his great counterpart, Dard roots slaughter and mayhem in the implacable collision of desire and destiny. That deadly machine can feel as classically French as a play by Racine or a novel by Balzac.
 
Both protagonist and victim, Albert cannot escape his fate, and nor does he wish to. Dard, notes Bellos, “had a view of humanity almost as unflattering as Simenon’s”. In a spasm of compassion, Albert gives a Christmas-tree decoration to Lucienne: a velvet bird in a silver cardboard cage. That present will help to damn him. The cage-door swings shut, and he locks himself inside.

Bird in a Cage by Frédéric Dard, translated by David Bellos (Pushkin Vertigo)

Ui chao, lại nhớ thời mới nhớn, mê Simenon như điên. Lúc nào cũng thủ 1 cuốn Simenon trong túi. Mỗi lần được phái đi sửa máy tại 1 đài Bưu Điện địa phương, là phải có Simenon cùng đi. Gấu khá tiếng Tẩy là nhờ tiểu thuyết đen Tẩy

Iceland’s penis museum pulls it off

Opened in 1997, the world’s only phallological museum has been growing ever since. This year the exhibition will attract 50,000 visitors


Mit Critic


From:
To:
Cc:
Sent: Thursday, August 23, 2001 5:30 PM
Subject: Fw: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Chao anh Tru
Them mot doc gia "sensitive" ve chuyen ve VN
Anh Tru co muon viet tra loi doc gia nay?
pcl
 ----- Original Message -----
From:
To:
Sent: Thursday, August 23, 2001 2:07 PM
Subject: Nguye^~n Quo^'c Tru.
Xin cha`o ca'c ba.n,
Ma^'y tua^`n na`y ddo.c ba'o chi' ha?i ngoa.i cu~ng nhu+ trong nu+o+'c tha^'y dda(ng ba`i pho?ng va^'n Nguye^~n Quo^'c Tru.- mo^.t ngu+o+`i co^ng ta'c vo+'i qui' ba'o- ve^` chuye^'n vie^'ng tha(m Vn cu?a o^ng ta.
Xin qui' ba'o cho bie^'t y' kie^'n ve^` chuye^.n na`y. DDa^y co' pha?i la` ha`nh ddo^ng tro+? ma(.t ba('t tay vo+'i Cs cu?a NQT hay kho^ng?
To^i i't khi le^n tie^'ng ve^` chuye^.n chi'nh tri. nhu+ng vi` to^i la` ddo^.c gi?a thu+o+`ng xuye^ng cu?a VHNT online va` ra^'t ye^u me^'n ta.p chi' na`y ne^n to^i mo+'i le^n tie^'ng.
Xin tha`nh tha^.t ca'm o+n.


Để có được bài viết của HNH, Gấu phải làm 1 cuộc trở về Hà Nội, và là người đầu tiên dám mở đường máu, không đơn giản đâu.
Mang ra hải ngoại, lọ mọ đánh máy, tìm cách giới thiệu, không chỉ trong giới viết lách mà ra quảng đại quần chúng qua trang Việt Báo.
Vậy mà không được tên khốn kiếp cám ơn 1 lời.
Không chỉ vờ, mà hắn còn chọc quê GCC, bằng cách
cám ơn HNH.
Ông này ở Hà Nội đâu có biết gì đâu?

Subject: Re: Texts
Date: Fri, 8 Dec 2000 10:27:39 -0800
From:
To:
Ca?m o+n anh Tru.
Ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia Ta^n The^' Ky? la` do to^i so't.
DDe^m nay se~ ddi ba`i "Dde^m Tha'nh 3" va` dde^m mai (Thu+' Ba?y) se~ ddi
ba`i Tu+ Tu+o+?ng Gia
To^i phu.c anh kinh khu?ng, ve^` su+' ddo.c, su+'c vie^'t, su+. nha.y be'n
va` lo`ng tho+ mo^.ng.
Sau na`y ddo^.c gia? trong va` ngoa`i nu+o+'c se~ ghi o+n anh (nhu+ to^i
dda~ no'i ho^`i anh ghe' Calif.), nha^'t la` gio+'i sinh vie^n va` dda(.c
bie^.t la` gio+'i nha` va(n nhu+ to^i.
Tha^n a'i


PTH Việt Báo

Đa tạ

NQT

Lũ này, chỉ quen cái chuyện áo thụng vái nhau, thơ văn như kít, nhưng vịn thơ nhau mà đứng dậy,
cái gì gì dựa hơi [hơi gì ?] nhau mà viết, thế là ô hô ai tai cả 1 giấc mộng xâm nhập văn chương nước người, thế giới. Không tên nào đọc được văn chương mũi lõ, điều này không hẳn là do dốt tiếng mũi lõ, mà phần nhiều là do tâm thức, thói quen, khẩu vị… Gấu đã kể, vào lúc mới lớn, mê Buồn Nôn, La Nausée, của Sartre, ông anh rể là Hiếu Chân phán đưa tao đọc thử, đọc chỉ vài dòng là quăng lại, và quả thế thực, phần nhật ký không ngày tháng mở ra cuốn này, cực khó đọc, hà, hà!











Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây