nqt
 
I (old)
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]




   
SN_GCC_2016

1*

Lạ, hiếm, phong trần, tã: Vớ được tại tiệm sách cũ.

ROSE
Rose,
the unfading rose beyond my verse-
rose that's full and fragrant,
rose of the black garden in the deep of night,
rose of any garden and any night,
rose that's born again by the art of alchemy
out of tenuous ash,
rose of the Persians and Ariosto,
rose that's always by itself,
rose that's always the rose of roses,
the young Platonic flower,
the blind and burning rose beyond my verse,
unattainable rose.

[Norman Thomas di Giovanni]

J.L. Borges
Bông Hồng

http://tanvien.net/new_daily_poetry/9.html

Bồng hồng không tàn phai, vượt quá thơ của tôi
Bông hồng - nở trọn, thơm ngát –
Bông hồng, từ cánh vườn đen, nơi sâu thẳm của đêm
Bồng hồng của bất cứ vuờn, bất cứ đêm
Bồng hồng lại sinh ra nhờ huyền thuật,
từ tro than tinh khiết, giản dị.
Bông hồng của những người Ba Tư, và của Ariosto,
Bông hồng luôn luôn bằng chính nó
Bông hồng luôn luôn là bông hồng của những bông hồng
Bông hoa trẻ măng, của tình yêu Platonic - chiêm ngưỡng và kính trọng -
Bông hồng mù, cháy bỏng vượt quá thơ của tôi
Bông hồng không làm sao nắm bắt được.

Thơ Mỗi Ngày
Quoc Tru Nguyen shared a memory.
1 hr
1 Year Ago
See Your Memories

đặng lệ khánh

ÔI CHAO GIỌNG HUẾ !

Ôi chao giọng Huế !!

... See More

*

Away from Dogma

I was prevented by a sort of shame from going into churches ...
Nevertheless, I had three contacts with Catholicism that really counted.
-SIMONE WElL

1. In Portugal

One night in Portugal, alone in a forlorn
village at twilight, escaping her parents,
she saw a full moon baptized on the water
and the infallible heavens stained with clouds.

Vespers at eventide. A ragged procession
of fishermen's wives moving down to the sea,
carrying candles onto the boats, and singing
hymns of heartrending sadness. She thought:

this world is a smudged blue village
at sundown, the happenstance of stumbling
into the sixth canonical hour, discovering
the tawny sails of evening, the afflicted

religion of slaves. She thought: I am
one of those slaves, but I will not kneel
before Him, at least not now, not with
these tormented limbs that torment me still.

God is not manifest in this dusky light
and humiliated flesh: He is not among us.
But still the faith of the fishermen's wives
lifted her toward them, and she thought:

this life is a grave, mysterious moment
of hearing voices by the water and seeing
olive trees stretching out in the dirt,
of accepting the heavens cracked with rain.

The Poet at Seven

He could be any seven-year-old on the lawn,
holding a baseball in his hand, ready to throw.
He has the middle-class innocence of an American,

except for his blunt features and dark skin
that mark him as a Palestinian or a Jew,
his forehead furrowed like a question,

his concentration camp eyes, nervous, grim,
and too intense. He has the typical
blood of the exile, the refugee, the victim.

Look at him looking at the catcher for a slgn-
so violent and competitive, so unexceptional,
except for an ancestral lamentation,

a shadowy, grief-stricken need for freedom
laboring to express itself through him.

Thi sĩ lúc lên bảy
Chú có thể là bất cứ đứa bảy tuổi
Cầm trái banh trên bãi, sẵn sàng ném
Chú có cái vẻ ngây thơ, thuộc tầng lớp trung lưu, Mẽo/
Ngoại trừ những nét, vẻ , có vẻ ngổ ngáo, và da đen đen
Cho thấy, có thể chú gốc người Palestine, hay Do Thái
Trán nhăn nhăn như hằn một câu hỏi
Cặp mắt chú, đúng thứ đã từng ở trại tập trung, cáu kỉnh, bồn chồn, dữ dằn
Rất ư là căng thẳng
Đúng típ máu lưu vong, tị nạn, nạn nhân
Hãy nhìn chú, cái gì gì bắt trẻ đồng xanh, như là 1 ký hiệu
Ôi chao, sao mà hung dữ đến như thế, như muốn choảng nhau tới nơi,
Sao mà không thể chê trách được 1 chút nào như thế
Ngoại trừ cái nét than van, rầu rĩ, có từ tổ tiên ngàn đời của chú
Một nhu cầu, đòi hỏi, mờ ảo, như bị xâu xé bởi nỗi đau, ta cần tự do
Một đòi hỏi tự do, tự nó
kiếm đường, tự nó lao động cật lực, để diễn tả
Qua chú bé.

Note: Bài thơ quả là 1 phản bác cuốn Kẻ Phản Thùng, của VTN, Mít gốc Ngụy,
của 1 thi sĩ Mẽo, thứ chính cống Bà Lang Trọc!


Krakow, Six A.M.

-For Adam Zagajewski
I sit in a corner of the town square
and let the ancient city move through me.
I sip a cup of coffee, write a little,
and watch an old woman sweeping the stairs.

Poland is waking up now: blackbirds patrol
the cobblestones, nuns rush by in habits,
and the clock tower strikes six times.
Day breaks into the night's reverie.

The morning is as fresh and clean
as a butcher's apron hanging in a shop.
Now it is pressed and white, but soon
it will be spotted with blood.

Europe is waking up, but America
is going to sleep, a gangly teenager
sprawled out on a comfortable bed.
He has large hands and feet

and his dreams are innocent and bloodthirsty.
I want to throw a blanket over his shoulders
and tuck him in again, like a child,
now that his sleep is no longer untroubled.

I'm alone here in the Old World
where poetry matters, old hatreds seethe,
and history wears a crown of thorns.
Fresh bread wafts from the ovens

and daily life follows its own inexorable
course, like a drunk weaving slowly
across a courtyard, or a Dutch maid
throwing open the heavy shutters.

I suppose there's always a shopgirl
stationed in the doorway, a beggar taking up
his corner post, and newspapers fluttering
from store to store with bad news.

Poetry, too, seeks a place in the world-
feasting on darkness but needing light,
taking confession, listening for bells,
for the first strains of music in a town square.

Europe is going to work now-
look at those two businessmen hurrying
past the statue of the national bard-
as her younger brother sleeps
on the other side of the ocean,
innocent and violent, dreaming of glory.

Krakow, 6 A.M.

For Adam Zagajewski
Tôi ngồi ở một góc quảng trường
Và mặc kệ thành phố cổ chuyển động qua tôi
Tôi chơi 1 ngụm cà phê, viết tí tí
Và theo dõi 1 bà xụt xùi nơi
cầu thang

Ba Lan lúc này thức giấc:
chim hét tuần tra sỏi đường, nữ tu vội vã trong những bộ đồ tu hành
Và đồng hồ thành phố điểm sáu tiếng
Ngày giẫm vào cơn mơ màng của đêm

Buổi sáng tươi mát sạch, như chiếc tạp dề của anh hàng thịt treo trong tiệm
Vào lúc này, nó phẳng phiu, trắng tinh
Nhưng chẳng mấy chốc lấm tấm máu

Âu Châu thức giấc nhưng Mỹ Châu đi ngủ
Một cậu choai choai cao gầy
Xoải người trên cái giuờng thoải mái
Tay chân cu cậu to lớn làm sao

Và những giấc mơ của cậu ngây thơ, thèm máu thế nào
Tôi muốn tung 1 chiếc mền lên vai cậu
Và ấp ủ cậu, như 1 đứa bé
Lúc này giấc ngủ của cậu bèn êm ru bà rù

Tôi, ở đây, một mình, nơi Cựu Thế Giới
Nơi thơ “gây chuyện”, hận thù cũ sôi sục
Và lịch sử đeo vào đầu chiếc vương miện gai
Thoáng mùi bánh mì mới từ lò nướng

Và cuộc đời ngày lại ngày cứ thế trôi trong cái dửng dưng, vô cảm, đếch thèm động lòng của riêng nó
Như 1 tên say lừ khừ đi qua cái sân
Hay người tớ gái Hà Lan mở những cánh cửa nặng nề

Tôi cứ giả dụ luôn có 1 cô gái bán hà
ng đứng ở lối ra vô
Một người ăn xin tới giờ lên gác
Nghĩa là ngồi vô chỗ ngồi hàng ngày của anh ta
Ở 1 góc đường
Hay tờ nhựt trình lượn lờ từ sạp báo này tới sạp báo tới
Với những tin xấu

Thơ, thì cũng thế
Nó kiếm 1 chỗ trong thế giới
Thỏa thuê thèm thuồng trong bóng tối, nhưng cần ánh sáng
Đi 1 đường sám hối, thú tội; lắng nghe chuông gọi hồn ai
Hoặc đơn giản, lắng nghe những chuỗi nhạc đầu tiên ở 1 quảng trường thành phố

Âu Châu lúc này có công chuyện để làm nhe,
Nhìn hai đấng thương gia hối hả vượt quá cái bức tượng của nhà thơ nhà nước
Trong khi thằng em trai của nàng ngủ
Ở phiá bên kia bờ đại dương
Ngủ giấc ngủ ngây thơ, dữ dằn, hung bạo, mơ màng vinh quang, chiến thắng.

Mit Critic

Ông cũng chả có công mẹ gì trong cái vụ bà Tám ló ra ló vào văn chương này cả. Lý do là trang của ông chỉ một mình ông tự sướng. Bà Tám thì gửi bài cho nhiều nơi khác như Da Màu, Việt Văn Mới (newvietart.org), Thư Quán Bản Thảo, Sài Gòn Nhỏ, và nhiều nơi khác. Như vậy bà Tám được nhiều nơi khác giới thiệu cùng một lúc, mà ông nào có phải là nhà phê bình và là chủ bút một tờ báo nào đâu mà ông bảo là ông xúc bà Tám lên.

LB

Tên LB này quả là 1 độc giả hết sức “cần mẫn” của TV.
Trong 1 dịp tự hào về cái chiều dài 20 năm làm trang TV, Gấu quả có khoe, đã khám phá ra khá nhiều tác giả, trong có vị chủ trang blog Bà Tám nói trên, và Gấu thú thực, rất hãnh diện về chuyện này.
Nhưng cái sự nổi tiếng của Bà Tám, không có Gấu ở trỏng.
Thú thực cái trò có bài đăng búa xua ở những nơi như trên, chỉ làm bẩn mắt độc giả, vì, vừa mới đọc ở đây, lại phải đọc ở kia, hay đã khổ, mà dở thì thực là khốn nạn.

Steiner, trong 1 lần xoa đầu Sartre, lôi đúng câu mà Gấu trích dẫn, trong bài viết về LMH, “Bếp Lửa” trong văn chương:
Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình yêu."

LMH. Lần đầu tiên vợ chồng Gấu gặp gỡ gia đình, trong chuyến ngao du Paris cuối thiên niên, Bà nhắc tới bài biết của Gấu đăng trên Văn Học, và nói, làm sao mà ông lại kiếm ra đúng câu văn cháu giấu thật kỹ ở trong đó, không hề tin rằng có người tìm ra nó, để mà khen?

Cũng thế, là với Bà Tám. Câu văn mà Gấu, đọc 1 phát, đúng là bị chấn động khủng khiếp, nhưng khác câu của LMH, ai cũng đọc nó, không thể bỏ qua, nhưng thực sự, chưa đọc:

Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.

Bà Tám này, đúng ra là rất sợ nổi tiếng, theo Gấu.
Có lần chính Bà thú nhận, tôi sợ đau, nên không dám đụng vô những chỗ đau.
Và mỗi lần lỡ đụng vô, là có 1 bản văn thật được!
GCC mới đọc 1 truyện, đúng thứ đó.

Mời bạn nghe truyện ngắn Màu Mắt Chưa Quên qua giọng đọc của Ngọc Phụng. Cám ơn chị Ngọc Phụng và Gió O.  Nhắn nhỏ: Truyện hoàn toàn là tưởng tượng.

https://chuyenbangquo.wordpress.com/2016/09/06/mau-mat-chua-quen/

Thời gian viết cho Văn Học của NMG, Gấu được Thấm Vân gửi cho mấy tác phẩm của Bà, chắc cũng có ý nhờ đi 1 đường điểm sách.
Thú thực, lúc đó, Gấu không đọc được, do cái khẩu vị của mình không hợp.
Phải đến những ngày mới đây, tò mò theo dõi, khi được Bà yêu cầu/ra lệnh, ta cho phép mi là bạn FB của ta, thì mới nhận ra cái phần “ngộ nhận” của Gấu về chuyện sex của Thấm Vân: Tác giả cũng có “giấu”, khi đụng vô nỗi đau này.
Quái “1 phát”, là đây chính là nội dung “thư toà soạn” của tờ Văn Học Pháp, Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về Lò Thiêu, lấy từ 1 câu của Melville, “Tôi chọn đừng”.
Đây cũng là câu TTT viết, khi “ngừng viết”, sau khi ra khỏi Trại Tù VC, qua 1 ấn bản khác của nó:
Tôi tự hỏi khi nào tôi lại-viết?

Truyện ngắn của HH, theo tôi, đúng là thứ "tôi chọn đừng", như vậy, khi viết về nỗi đau/hạnh phúc:

Tôi không tiến tới dù chưa có người đàn ông nào làm tôi cơ thể thèm muốn đến thế. Tôi nhớ cái mùi đàn ông của anh đến ngây ngất. Tim tôi vẫn đập rộn ràng khi nghĩ đến buổi sáng dưới chân cầu. Scott thích mái tóc dài, dáng dấp nhỏ nhắn, nước da màu mật của tôi. Anh không ngần ngại nói với tôi điều này và ngạc nhiên khi tôi nói thật là tôi vẫn thường mang mặc cảm xấu xí. Màu da của anh và màu da của tôi thường làm tôi liên tưởng đến cà phê sữa và kem vanilla hay con ong bầu đậu trên hoa lan trắng. Anh thường bảo, “mỗi sáng em phải soi gương và tự bảo mình là Scott thấy em rất là xinh xắn.” Tôi nói xa xôi, “quan hệ làm việc không nên để lẫn tình cảm cá nhân. Những người làm việc chung dễ ghét nhau vì tranh tài giành chức giành quyền, tình cảm riêng tư thường bị tổn thương và chết sớm.” Anh hay nói đùa là tôi là hiện thân của sắt (thành cầu) và đá (chân cầu). Anh nói nếu vợ anh làm lương cao hơn, anh tình nguyện ở nhà nấu cơm và viết văn. “Nếu em trở thành xếp của tôi, tôi sẵn sàng nâng xếp lên khỏi đầu bằng hai cánh tay tôi.” Tôi dùng một ẩn dụ của dân kỹ thuật trả lời, “thép này đã từng đổ biết bao nhiêu mồ hôi đấy nhé!”
Điều mà tôi muốn nói nhưng giữ lại lời là, tôi là một phiến đá biết sầu tư!

Sách & Báo Mới

http://bibliobs.nouvelobs.com/rentree-litteraire/20160824.OBS6805/europe-daech-trump-les-predictions-de-salman-rushdie.html


*

*

Số báo này có bài essay của Bắc Đảo, Smells, Mùi, đọc tuyệt lắm, dù loáng thoáng, lúc nhặt nó lên, tự nhủ, đọc bài này, làm mồi, viết về ốc nhồi Bắc Kít, chắc là đã lắm:
Mùi Bắc Kít, khi bạn xa nó, nhớ nhất, thèm nhất, là mùi gì?
Với Gấu, là mùi ốc nhồi!
Bắc Đảo viết essay tới lắm. Tin Văn đã từng giới thiệu, nhưng cuốn essay của ông cũng đi theo Cô Út làm từ thiện mất rồi.
Về nhà, đọc, thêm được bài essay về Woolf cũng quá tuyệt, tác giả
Margot Livesey: (1)
Nothing Is Simply One Thing
She always had the feeling that it was very, very dangerous to live even one day.
Mrs Dalloway

http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Kafka_Prague.html

* *

Hai Anh commented on this.
Follow

Hai hôm trước thấy mọi người khen món bún ốc nguội, bún ốc nóng ở một chỗ là ngon nhất vịnh Việt Nam . Mình tò mò mua về ăn thử . Nói thật một cách khiêm tốn nhất ngon bằng 70 % mẹ mình nấu thôi nhé . Mình cả 10 năm nay không ăn bún ốc của ai nấu vì không ai nấu ngon bằng mẹ . Nịnh bà cho công thức Post lên cho cả nhà tham khảo nhé . Bạn nào thích nấu thử đi bảo đảm có món bún ốc thần thánh gia truyền của cô giáo Thiện ( mẹ mình Hà Nội gốc 8 đời ) Nhé
Chuẩn bị nguyên liệu (...

Continue Reading

Ui chao, đây là 1 trong những món Bắc Kít, Gấu cực mê.
Về già, Gấu tự hỏi mi mê nó, tất nhiên là do ngon, nhưng còn do 1 điều gì khác nữa, đúng không?
Quả có thế.
Chỉ đến khi trở lại đất Bắc, thì Gấu mới vỡ ra được.


(1)

Có lần Gấu lèm bèm về cái “viết như không viết” của Gấu Cái, khác hẳn cái viết cực kỳ khốn khổ của Gấu, Woolf giải thích, chỉ khi nào viết tới đỉnh thì mới bật ra được cái viết như không viết.
Nhưng dù Bà viết như thế, theo Gấu, vấn đề vẫn chưa thông.
Ở đây còn là vấn đề của “thiên tài của nơi chốn”: Lối viết của Thảo Trần, Cô Tư, Mai Minh, cái nhịp của nó là từ sông ngòi kênh, rạch… của Miền Nam:

Here she is, in 1926, in the thick of To the Lighthouse, writing to Vita.
Style is a very simple matter; it is all rhythm. Once you get that, you can't use the wrong words ... Now this is very profound, what rhythm is, and goes far deeper than words. A sight, an emotion, creates this wave in the mind, long before it makes words to fit it; and in writing (such is my present belief) one has to recapture this, and set this working (Which has nothing apparently to do with words) and then, as it breaks and tumbles in the mind, it makes words to fit it.


*

Cuốn này, mới mua, có minh họa, cuốn cũ, Cô Út làm từ thiện!

*

Fairies

The name of these creatures is linked to the Latin word faturn, meaning "fate" or "destiny"; with their magic they intervene in the affairs of men. Some have said that the Fairies are the most numerous, beautiful, and memorable of the minor deities. They are not limited to anyone region r time; the ancient Greeks, the Eskimos, and the American Indians tell stories of heroes who have won the love of these fantastic creatures. Such adventures are dangerous, however: once the Fairy's passion is satisfied, it may kill its lover.
    In Ireland and Scotland, Fairies are said to have underground dwellings where they lock up the men, women, and children that they kidnap. People believe that the neolithic arrowheads they dig up in their fields once belonged to the Fairies, and that these arrowheads possess unfailing medicinal properties.
    Fairies like singing and music and the color green. In the late seventeenth century, a Scottish cleric, one Reverend Kirk, of Aberfoyle, compiled a treatise titled The Secret Commonwealth of the Elves, Fairies, and Fauns. In 1815, Sir Walter Scott had Kirk's manuscript printed. Mr. Kirk was said to have been carried off by the Fairies because he had revealed their secrets. In the seas off Italy, there is a Fairy, the Fata Morgana, that weaves mirages that con- fuse sailors and make them lose their course.

http://www.tanvien.net/Viet/Borges_Imaging_Beings.html

*

Cuốn sách những sinh vật tưởng tượng

An Animal Imagined by Kafka

It is the animal with the big tail, a tail many yards long and like a fox's brush. How I should like to get my hands on this tail some time, but it is impossible, the animal is constantly moving about, the tail is constantly being flung this way and that. The animal resembles a kangaroo, but not as to the face, which is flat almost like a human face, and small and oval; only its teeth have any power of expression, whether they are concealed or bared. Sometimes I have the feeling that the animal is trying to tame me. What other purpose could it have in withdrawing its tail when I snatch at it, and then again waiting calmly until I am tempted again, and then leaping away once more?

FRANZ KAFKA: Dearest Father (Translated from the German by Ernst Kaiser and Eithne Wilkins)

Một con vật Kafka tưởng tượng ra

Ðó là 1 con vật có 1 cái đuôi lớn, dài nhiều mét, giống đuôi chồn. Ðòi phen tôi thèm được sờ 1 phát vào cái đuôi của em, [hãy nhớ cái cảnh, 1 anh học sinh, xa nhà, trọ học, đêm đêm được chồn viếng thăm, trong Liêu Trai, nhá!] nhưng vô phương, con vật cứ ngoe nguẩy cái đuôi, thân hình luôn uốn oéo. Con vật giống như con kangaro, nhưng cái mặt không giống, bèn bẹt y chang mặt người, nho nhỏ, xinh xinh, như cái gương bầu dục, chỉ có hàm răng là biểu hiện rõ rệt nhất của tình cảm của em chồn này, lúc thì giấu biệt, lúc thì phô ra. Ðôi khi tôi có cảm tưởng em tính thuần hóa tôi, biến tôi thành 1 con vật nuôi trong nhà, quanh quẩn bên em. Hẳn là thế, nếu không tại sao em thu cái đuôi lại, khi tôi với tay tính sờ 1 phát, và sau đó lại nhu mì ngồi, cho tới khi tôi thèm quá, thò tay ra, và em lại nguẩy 1 phát, đau nhói tim?

The Bloi and the Morlocks

The hero of the novel The Time Machine, which a young writer Herbert George Wells published in 1895, travels on a mechanical device into an unfathomable future. There he finds that mankind has split into two species: the Eloi, who are frail and defenseless aristocrats living in idle gardens and feeding on the fruits of the trees; and the Morlocks, a race of underground proletarians who, after ages of laboring in darkness, have gone blind, but driven by the force of the past, go on working at their rusted intricate machinery that produces nothing. Shafts with winding staircases unite the two worlds. On moonless nights, the Morlocks climb up out of their caverns and feed on the Eloi.
    The nameless hero, pursued by Morlocks, escapes back into the present. He brings with him as a solitary token of  his adventure an unknown flower that falls into dust and that will not blossom on earth until thousands and thousands of years are over.


Nguỵ vs VC

Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết “Máy Thời Gian”, sử dụng cái máy thần sầu du lịch xuyên qua thời gian tới những miền tương lai không làm sao mà dò được. Ở đó, anh ta thấy Mít – nhân loại - được chia thành hai, một, gọi là Ngụy, yếu ớt, ẻo lả, và là những nhà trưởng giả, bất lực, vô phương chống cự, sống trong những khu vườn nhàn nhã, ăn trái cây, và một, VC, gồm những tên bần cố nông, vô sản, sống dưới hầm, địa đạo [Củ Chi, thí dụ], và, do bao nhiêu đời lao động trong bóng tối, trở thành mù, và, được dẫn dắt bởi sức mạnh kẻ thù nào cũng đánh thắng, với sức người sỏi đá cũng thành cơm, cứ thế cứ thế lao động, để thâu hoạch "chẳng cái gì". Có những cầu thang nối liền hai thế giới, và vào những đêm không trăng, VC, từ những hang động, hầm hố, bò lên làm thịt lũ Ngụy.
Nhân vật chính, không tên, bị VC truy đuổi, trốn thoát được, và trở lại thời hiện tại. Anh ta mang theo cùng với anh, một BHD, như chứng tích của cuộc phiêu lưu, và vừa trở lại hiện tại, bông hồng bèn biến thành tro bụi, và, như….  Cô Sáu trong Tiền Kiếp Của GCC, hàng hàng đời sau, sẽ có ngày nào đó, bông hồng lại sống lại…

Who knows?
Hà, hà!



Đọc/Viết mỗi ngày
Ha Le liked this.

Báo #NaUy #Aftenposten đã chỉ trích #Facebook vì đã xóa hình ảnh hậu quả bom napalm ném xuống #ViệtNam.



Note: Bỏ, đúng.
Chính Kim Phúc là người khiến FB quyết định như vậy, theo GCC, khi Bà nói, tôi chạy trốn suốt đời, bức hình đó.
Bức hình đã làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó rồi. Đã đến lúc giải phóng nó ra khỏi gánh nặng đó. Trong cuộc chiến Bắc Kít phạm vô vàn tội ác, đã đến lúc phải khui ra, vì rõ ràng là hậu quả của những tội ác của chúng là 1 xứ Mít đang đi vào tận thế như hiện nay
...
NQT

*

Tôi muốn chạy trốn bức hình, chạy trốn đứa con nít trong bức hình đó, nhưng nó...  dai như điả

http://tempsreel.nouvelobs.com/en-direct/a-chaud/27539-facebook-facebook-revient-decision-censurer-celebre-photo.html

FB quyết định lại về bức hình KP

"Nous avons décidé de rétablir l'image sur Facebook là où nous sommes au courant qu'elle a été retirée", a indiqué un porte-parole du groupe, disant tenir compte des réactions de sa communauté d'utilisateurs et du "statut d'image emblématique et d'importance historique" du cliché incriminé.


*

John Gray

The Dialectical Man
Karl Marx: Greatness and Illusion
By Gareth Stedman Jones
Cái tít ở bìa mới thú: Full Marx

https://literaryreview.co.uk/the-dialectical-man

Tin Văn sẽ dịch/giới thiệu bài viết này, bonus kỷ niệm thời mới lớn mê Marx. Phải đến khi qua được trại tị nạn, đọc bài viết của Tolstaya, như đã từng lèm bèm nhiều lần, Gấu mới hỡi ơi, Bắc Kít chỉ lợi dụng chủ nghĩa Marx, như “ngọn cờ chính nghĩa”, nhằm che giấu Cái Độc, Cái Ác tầng tầng lớp lớp, trong suốt 4 ngàn năm sợ đói, sợ Tẫu của nó

In 1981, Leszek Kolakowski began the introduction to the first volume of his magisterial trilogy Main Currents of Marxism with the statement ‘Karl Marx was a German philosopher.’ If we add ‘who lived and worked in the nineteenth century’, this remains the perfect truism on the subject. The grand intellectual construction that later came to be known as Marxism has only a tenuous and oblique connection with Marx’s own efforts to understand and respond to the events of his time. Episodic and disjointed because of his uncertain life as a penurious émigré, Marx’s writings never added up to a unified world-view. Even his largest theoretical claims – those about capitalism made in The Communist Manifesto (1848), co-authored with Engels, for example – were reactions to particular historical circumstances. Reading Marx as the architect of Marxism can only lead to misunderstanding the man and his thought.
    This was the message of Jonathan Sperber’s Karl Marx: A Nineteenth-Century Life (2013), a methodical demolition of some of the myths surrounding Marx and his thought. An unfamiliar picture emerges from Sperber’s well-documented account. At points in the 1840s Marx’s political views had something in common with those of 20th-century anti-communists. In 1842 he wrote that as a result of the spread of communist ideas ‘our once blossoming commercial cities are no longer flourishing’, while in 1848 he rejected the idea of revolutionary dictatorship by a single class as ‘nonsense’. Partly as a result of the influence of Engels, Marx has often been seen as an admirer of Darwin. But in fact Marx disliked Darwin’s theory of natural selection because it left human progress ‘purely accidental’, preferring the work of the forgotten French ethnographer Pierre Trémaux, who argued that racial differences have ‘a natural basis’ in biology and geology – a common view at the time. Intellectually Marx was a prototypical 19th-century figure, absorbing from French positivist thinkers the idea that traditional religions were fading away and industrialism becoming better organised and ultimately more harmonious. These aspects of his thinking were at odds with others shaped by Hegelian philosophy and German radical humanism. Rather than being an exercise in system-building, Marx’s shifting and at times contradictory theoretical views were closely related to the political struggles in which he was actively involved.
    Gareth Stedman Jones shares with Sperber the objective of representing Marx as a 19th-century figure and covers much of the same ground. But the picture of Marx that emerges in Stedman Jones’s rich and deeply researched book is interestingly different. He is blunter than Sperber in discussing Marx’s complicated relationship with his Jewish ancestry. According to Marx, Stedman Jones writes, Judaism ‘despised nature, was uninterested in art or love except for the financial value they might contain, while its interest in law was primarily in its circumvention’. Despite the efforts of his father and brother, Marx ‘unhesitatingly adopted Napoléon’s secular equation between Judaism and usury. Not only did he attack the supposed monotheism of the Jew in the most insulting terms derived from Voltaire as “a polytheism of many needs”, but also went on to attack the Talmud as “the relation of the world of self-interest to the laws governing that world”.’ Marx’s essay on The Jewish Question (1843–4) contains many such ‘catty anti-Semitic jibes’.
The most original section of Stedman Jones’s account has to do with Marx’s view of village communities. Marx is commonly supposed to have thought that villages embodied an archaic form of life that would have no role in shaping socialism, and it is true that this view dominates his writings from the 1840s up to the publication of Capital in 1867. Throughout these years Marx was strongly modernist in his thinking, envisioning socialism as a successor to capitalism that would be based on the aspirations of the emerging industrial working class. From 1868 onwards, though, he began to look to traditional forms of communal agriculture as embodiments of an egalitarian type of community. From this point of view, the Russian mir – the communal ownership and periodic redivision of land in the Russian village community – provided an example of future regeneration by building on survivals from ancient and even primitive societies. One of the inspirations for socialism came not from visions of the future but vestiges of the past.
    In the case of Russia, this placed Marx close to thinkers who promoted agrarian populism, such as Alexander Herzen. In a draft of a letter written in 1881, Marx looked to the Russian peasant commune as the germ of a post-capitalist economy: ‘if the revolution comes at the opportune moment, if it concentrates all its forces to allow the rural commune its full scope, the latter will soon develop as an element of regeneration in Russian society and an element of superiority over the countries enslaved by the capitalist system.’ Marx’s social-democratic Russian disciples believed socialism would only be possible after a longish period of capitalist development, but the master scornfully repudiated these ‘Russian “Marxists”’ as holding views ‘diametrically opposed’ to his own. As he saw it, a socialist revolution was needed before capitalism destroyed the village commune.
    Marx’s views on this and many other matters have little in common with what later came to be understood as ‘Marxism’, but this is not because Marx’s work was traduced. Through his collaboration with Engels, Marx was implicated in the spread of a version of his ideas that differed significantly from his own understanding of them. Financially dependent on his collaborator, it was difficult for him to be open about the areas in which the two disagreed. Marx never endorsed Engels’s efforts to meld socialism with Darwinism, but neither did he ever clearly dissociate himself from them.
    What remains of Marx’s thought is his insight into the emergence and consequences of a global market, which Stedman Jones summarises forcefully. Marx, he writes:
was the first to chart the staggering transformation produced in less than a century by the emergence of a world market and the unleashing of the unparalleled productive powers of modern industry. He also delineated the endlessly inchoate, incessantly restless and unfinished character of modern capitalism as a phenomenon. He emphasized its inherent tendency to invent new needs and the means to satisfy them, its subversion of all inherited cultural practices and beliefs, its disregard of all boundaries, whether sacred or secular, its destabilization of every hallowed hierarchy, whether of ruler and ruled, man and woman or parent and child, its turning of everything into an object for sale.
    It is a prescient glimpse of our world. But along with many other thinkers of the 19th century (and the 20th), Marx failed to foresee how older forms of life would be reinvigorated even as the world was being transformed. While village life has not been renewed, religion and nationalism have mutated into new and at times strikingly malignant forms. Capitalism may be a revolutionary force, as Marx believed. But for that very reason it cannot help creating powerful forces that resist and sometimes defeat it.
    Stedman Jones describes Marx’s view of the village community as ‘a nineteenth century phantasm’, and in this he is surely right. There was no more reason to think a new socialist society would develop from peasant communes than from the industrial working class. Both visions of a post-capitalist society were illusions. The strength of Marx’s thought lies in his analysis of capitalism itself, whose enormous productive and disruptive potential he understood better than most thinkers in his time or ours.


http://www.magazine-litteraire.com/rencontre/amos-oz-%C2%AB-judas-cru-en-j%C3%A9sus-%C2%BB

Amos Oz: « Judas a cru en Jésus »
Le mercredi 7 septembre 2016
Ju Đà tin vào Chúa

Je crois aux compromis (…) et le contraire du compromis, ce n’est pas l’idéal, l’idéalisme, mais c’est le fanatisme et la mort. »
Tôi tin vào thỏa hiệp... và ngược lại thỏa hiệp, không phải là lý tưởng, mà là cuồng tín, là
cái chết
Thảo nào lũ Mít hải ngoại tên nào cũng bò về!
Sến chẳng đã từng mắng iêu GCC, sao mi cay đắng hoài như thế?



For those who have never experienced defeat, destruction, or exile, there is an undeniable charm to loss
Với những kẻ chưa từng kinh nghiệm thất bại, huỷ diệt, hay lưu vong, có 1 sự quyến rũ không thể nào chối cãi được về mất mát.
Lũ Ngụy, chỉ đến khi vô tù VC, thì mới hiểu được, chúng đánh mất, làm mất Thiên Đường Miền Nam!

La nostalgie de la boue is alien to history’s victims.
Nỗi nhớ bùn thì xa lạ, với những nạn nhân của lịch sử.

Bếp lửa trong văn chương  ( Nguyễn Quốc Trụ)

V/v Tận thế là đây:

Sartre (Situations, I) nhắc tới "ý hướng tính", coi đây là tư tưởng cơ bản của hiện tượng luận: "Husserl đã tái tạo dựng (réinstaller) sự ghê rợn và sự quyến rũ vào trong những sự vật. Ông tái tạo thế giới của những nghệ sĩ và của những nhà tiên tri: Ghê sợ, thù nghịch, nguy hiểm trùng trùng, với những bến cảng, nơi trú ẩn của ân sủng và tình yêu."
Tôi đã lầm, khi nghĩ, chẳng bao giờ người ta lại được đọc những trang sách tuyệt vời, về Hà-nội.
Có thể là do một câu thơ và viễn ảnh khủng khiếp nó gây ra ở nơi tôi.
"Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ" (Trần Dần), câu thơ như một "Apocalypse Now" (Tận Thế Là Đây), không phải chỉ riêng cho Hà-nội. Làm sao mà thi sĩ lại nhìn thấy suốt cuộc chiến sau đó, không phải chiến thắng, mà huỷ diệt, một thành phố, rồi cùng với nó, là biểu tượng của cả một dân tộc ?

Liệu Mít thoát “Tận Thế Là Đây”?

Một câu hỏi như thế, vô nghĩa, mà phải đặt ngược lại:

Chỉ Tận Thế mới cứu nổi Mít!

Kundera, trong Gặp Gỡ, có viết về cái gọi là Tận Thế Là Đây, qua kinh nghiệm nghe nhạc sến, khi đi tù VC, của....  GCC.

The Total Rejection of Heritage, or Iannis Xenakis (a text published in 1980, with two interventions from 2008)

1

IT WAS TWO OR THREE YEARS AFTER THE RUSSIAN INVA-sion of Czechoslovakia. I fell in love with the music of Edgard Varese and Iannis Xenakis.
    I wonder why. Out of avant-garde snobbery? In the solitary life I was living at the time, snobbery would have made no sense. Out of an expert's interest? I might, with some effort, understand a piece by Bach, but faced with Xenakis's music I was completely unprepared, unschooled, uninitiated, an utterly naive listener. And yet I felt genuine pleasure at hearing his works, and I would listen avidly. I needed them: they brought me some strange consolation.
    Yes, the word slipped out: I found consolation in Xenakis's music. I learned to love it during the darkest time of my life, and that of my homeland.
    But why did I seek consolation in Xenakis rather than in the patriotic music of Smetana, where I could have found the illusion of perennial life for my country, which had just gotten a death sentence?
    The disenchantment brought on by the catastrophe that had struck my country (a catastrophe whose consequences will be felt for centuries) was not only about political events: the disenchantment was about man as man, man with his cruelty but also with the alibi he uses to disguise that cruelty, man always quick to justify his barbarity by his feelings. I was seeing that sentimental agitation (in private life as well as public) is not antithetical to brutality, but rather, merges with it, is part and parcel of it ....
(1980)
KUNDERA: ENCOUNTER

Note: Bài này tuyệt lắm. Đúng là thứ kinh nghiệm GCC đã từng trải qua khi đi tù VC, thay vì 10 ngày lương thực, ăn hết là được về đời, thì là 1 nhúm nhạc sến, qua suốt 9 cửa địa ngục.

http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/09/nhung-tro-lai.html#more

càng ngày, tôi càng thấy thực sự phải coi Phan Khôi là "âm chuẩn" của một thời: đúng thế, Phạm Quỳnh có tư cách học trò chứ không có tư cách học giả, cái học của Phạm Quỳnh là cái học kiểu Trương Vĩnh Ký, mà ta có thể coi là một truyền thống không nhỏ của nửa cuối thế kỷ 19 và đoạn đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam (về Trương Vĩnh Ký, ta sẽ nói kỹ sau); trong khi, Phan Khôi và các trí thức thế hệ tiếp theo coi trọng thực học, và nhất là tác động của học thuật để làm thay đổi xã hội


GCC nghĩ, ngược lại.

Ở đây, là cuộc đối đầu lớn hơn nhiều, giữa, Cái Ác Nazi mà đỉnh cao của nó là Lò Thiêu, và, nhờ sống sót nó, nên Âu Châu, trong có Tẩy,
trị được nó, nhờ vậy thoát Quỉ Đỏ, và Cái Ác Á Châu, Cái Ác Bắc Kít, cho đến bây giờ, chưa thuốc chủng, và chỉ Tận Thế mới cứu nổi xứ Mít, là vậy.
Ở đây, còn vọng lên câu, Đông là Đông, Tây là Tây.
Cái đám Bắc Kít đã từng mê Liên Xô, cho đến giờ này vẫn chửi Tây Phương, là cũng từ những mầm ác này mà ra.
GCC đã từng lèm bèm,
Xứ Mít chết, đúng vào lúc Bác Hồ trốn thoát Cớm Tẩy, ở Paris, qua được Moscow, thoát cú thanh trừng của Xì và được phái về Trung Quốc hoạt động trong cái gọi Đông Phương Vụ cái con mẹ gì đó, tháng tháng lãnh lương Cớm Đệ Tam, tối ngủ Xẩm Tầu Tăng Tuyết Nghi [?]....
Đừng nghĩ đây là do GCC phịa ra, mà đúng là lịch sử nó phải như thế.
Cuốn Ngôi Mộ của Kis viết về cú này. Bóng Đêm của Koestler cũ
ng vậy, bởi thế mà GCC tin rằng chỉ có giả tưởng mới cưu mang được sự thực xứ Mít.

Đâu có phải "vô tư",
vào những giây phút cuối cùng của đời mình, bị VC dùng đá đập cho tới chết, vì tiếc 1 viên đạn, cho tên Việt Gian, Phạm Quỳnh vẫn phán, không có thằng Tẩy, là thằng Mít chết.
Ở Phan Khôi, vẫn có cái tiểu khí - vết thương hình chữ S -
mà sau này,VP, có.
Khi GCC gọi VP nhà văn Bình Định, Viên Linh thú quá, phán, đúng quá, là vậy.
Phạm Quỳnh không có nỗi đau hình chữ S.

Bài thơ của
Szymborska dưới đây, đúng là bông hoa tưởng niệm PQ, khi ông bị VC dùng đá đập, cho tới chết:

Khi một người nào đó đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra từ mọi cú liếm.


GREEK STATUE

With the help of people and the other elements
time hasn't done a bad job on it.
It first removed the nose, then the genitalia,
next, one by one, the toes and fingers,
over the years the arms, one after the other,
the left thigh, the right,
the shoulders, hips, head, and buttocks,
and whatever dropped off has since fallen to pieces,
to rubble, to gravel, to sand.

When someone living dies that way
blood flows at every blow.

But marble statues die white
and not always completely.

From the one under discussion only the torso lingers
and it's like a breath held with great effort,
since now it must
draw
to itself
all the grace and gravity
of what was lost.

And it does,
for now it does,
it does and it dazzles,
it dazzles and endures-
Time likewise merits some applause here,
since it stopped work early,
and left some for later.

Wislawa Szymborska: Here

Tượng Hy Lạp

Với sự giúp đỡ của con người và những yếu tố khác
Thời gian đã làm được một việc không tệ ở đây.
Trước tiên, nó liếm cái mũi, rồi tới bộ đồ lòng
Tiếp, từng cái một, ngón chân, ngón tay
Theo năm tháng, những cánh tay, cái này tới cái kia
Bắp đùi trái, phải
Vai, hông, đầu, mông đít,
Và bất cứ cái gì rời ra,
là kể từ đó, trở thành miểng,
thành sỏi, đá, thành cát.

Khi một người nào đó đang còn sống, chết kiểu như trên
Máu tuôn ra từ mọi cú liếm.

Nhưng tượng đá chết trắng
Và không phải luôn luôn trọn vẹn

Từ cái chết đang được bàn tới ở đây,
Còn một nửa,
Còn bức tượng bán thân
Cứ như thể, mọi hơi thở, cố níu kéo
Bởi vì kể từ bây giờ
Nó phải níu vào chính nó
tất cả ân sủng và trọng lực (1)
cái phần đã bị liếm mất

Và nó làm được
Kể từ giờ này nó làm được
Và nó chói lòa,
Nó chói loà, và nó kéo dài, nó tồn tại –
Thời gian, như thế, thì cũng đáng để mà vỗ tay khen 1 phát ỏ đây,
Kể từ khi mà nó ngưng cái việc liếm, để mai tính, mốt tính, cái phần còn lại.

(1)

Chắc là thuổng hai từ này của Simone Weil.
Bà này, “bạn quí” của Milosz, mà Milosz thì là “đệ tử” của Weil!
Bài thơ quá tuyệt, nhưng bản dịch của GCC chưa tới, thực sự là vậy.
Không làm sao mà nói lên được cái ý ân sủng và trọng lực!

NQT


* *

Hội chứng Bartleby

Tính bỏ dziết, Melville bèn tưởng tượng ra 1 anh chàng Bartleby, chấp nhận thách đố im lặng và hư vô, bằng cách chui vô 1 căn phòng vắng mặt với mọi người và với chính mình. Tôi chọn đừng làm bất cứ cái gì

*

HERMAN MELVILLE: Le maudit, tên trời đánh thánh vật!

Đừng, đừng, chẳng bõ, chẳng đáng:

Un lunatique du Non

Pour Enrique Vila-Matas, le modèle du personnage de Bartleby serait à chercher du côté de son créateur lui-même. II voit en Melville un “lunatique du non”, qui dans sa vie comme dans son oeuvre, préférait ne pas.


Herman Melville's reticent scrivener is the ideal symbol for this new wave of passive protests as well as for the original occupy Gezi events

Đọc, thì bèn nhớ tới bài viết của Enrique Vila-Matas, trong số ML, về Melville. TV sẽ chuyển ngữ bài này. Tuyệt lắm. Nó làm GCC nhớ tới em Oanh, cô học trò của Kiệt, trong Một Chủ Nhật Khác, khi em đề nghị, bỏ hết, lẽo đẽo theo Thầy:

Đừng đừng, chẳng bõ, chẳng đáng!

Liệu Lỗ Bình Sơn, đã có lần trả lời Đảo Xa, như trên?

*




Nhân viết về le Carré, có 1 cuốn phim mới ra lò, phỏng theo tiểu thuyết của ông, rất ăn khách, The Night Manager. GCC đang coi, OK lắm!

The Night Manager (TV Mini-Series 2016) - IMDb















Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây