Những
bức thư gửi cho ... hòn đảo xa
"Mượn
Dấu Thời Gian" xin phổ biến các đoạn trích từ những bức thư
của Thanh Tâm Tuyền viết những năm 1972, 73, 74 và 1982 gửi
cho một ... hòn đảo xa, nơi tác giả tự ví mình
như một Crusoé thất lạc.
"Mượn
Dấu Thời Gian" xin thất lễ với người đã khuất khi phổ biến những đoạn
thư khá riêng tư.
Việc
làm này không ngoài mục đích cung cấp
cho các nhà biên khảo và phê bình
văn học, cũng như những người yêu mến ông, một khía cạnh
khác của chân dung nhà thơ.
Từ
phía đó, một số tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền đã
như "sao rơi vào bất tận" trên khung trời văn học Việt Nam.
*
Công
bố ngày 22/03/2012
Những
đứa trẻ của Dickens
17.2.1973
Em
và anh thuộc loại máu lạnh ở xứ nóng không hợp
thật. Mấy ngày em ở Sài Gòn, tuy nói với em
là vẫn làm việc nhưng anh chẳng làm gì cả. Làm
mấy bài thơ thì có. Lúc nào anh cũng
ngóng, biết em không đến, nhất là hai bữa cuối trước
ngày em đi. Em đi lần này không có anh đưa. Giả
thử anh có đưa chỉ làm em nặng thêm, máy bay
nặng thêm. Bữa ấy - chắc là có cô H.A đưa ra đến
Phạm Ngũ Lão - có thấy nhẹ không?
Ngồi
trước mặt em, anh thật chẳng hiểu mình ra sao, mình muốn gì.
Bởi anh toàn nói bậy không. Lúc nào anh
cũng cứ nghĩ chẳng nên làm em buồn, hãy cùng
vui lúc bấy giờ. Nhưng cái vui anh gây ra cũng tệ. Anh
tự hỏi : tại sao đối với em, anh không làm như với những người
khác, hay bình thường là hai kẻ yêu nhau, như
mọi người. Bữa em hỏi anh có sợ em không, bây giờ anh
thấy có lẽ anh sợ em. "Sợ" như cái mặc cảm anh biết bắt rễ
tự nơi anh ngày nhỏ: không bao giờ anh có được
cái mà tất cả mọi người đều có. Đứa trẻ bất hạnh mồ
côi ra đời quá sớm mà. Nó chỉ nhìn đồ chơi
bày trong tủ kính, nhìn đồ chơi những đứa khác
chơi, nó chẳng có, chẳng ai nghĩ đến cho nó. Em có
biết anh đọc Le Petit Chose năm nào không? Năm học lớp ba và
từ xửa xưa đó anh đã thấy nhân vật đó là
anh rồi. Những đứa trẻ của Dickens đều vậy, lớn lên khá hơn
nhưng rốt cuộc vẫn khốn đốn vì yêu người.
Cháy
Thoáng
một ngày mưa lạ xong Sài gòn lại theo nhịp cũ. Nắng
kinh. Nắng gợi cho anh cái ý một truyện ngắn: tình
yêu bị nắng Sài Gòn đốt cháy tiêu. Bữa qua
cũng đã loay hoay, ngồi quán gần nhà in, định viết cho
em lá thư nữa, xong ồn quá lại đứng lên đi tìm
bạn hẹn nhậu.
.............................................................
Trong
khu vườn của tòa nhà phía trong chỗ anh làm
việc em chưa vào tới, anh đã đi dạo thẩn thơ hoài dưới
bóng cây xuyên đầy ánh trăng. Đã bảo em
làm anh thành "poet" mà. Độ này thao thức nhiều,
đầu cứ bạc mau thêm, hè em về chắc thấy anh tóc trắng
xóa chưa biết chừng.
Flamme
seule, je suis seul
Bruler
seule, rêver seul
Grand
symbole, double symbole incompris
Le
premier pour la femme,
toute
brulante, doit rester seule, sans rien dire;
Le
second pour l'homme taciturne qui n'a qu'une solitude à offrir.
Trong
một đêm anh đọc đoạn trên trong một quyển sách mỏng của
Bachelard, chép lại cho em đọc đỡ buồn. Câu đầu là thơ
của Tzara. Đoạn sau quãng diễn của Bachelard - philosophe già,
tóc trắng xóa, tâm trí thơ mộng vô cùng.
Anh có ý lấy đoạn này để cho Mắt Bão.
Em thích không ?
Mắt
Bão
Sài
gòn, 8.3.1973
Thư
trước báo cho em biết đi dậy học từ ngày 15.2, thư này
báo đã bỏ dậy học 28.2. Bất định quá. Vào lớp
chán quá, mặc dầu được học trò thương. Chắc anh khó
có thể trở lại nghề cũ. Xem bộ anh thấy mình khá hơn
xưa : chẳng còn cần đến những ánh mắt, nụ cười ngưỡng mộ tôn
kính nữa. Khỏi khoác một bộ vó chẳng ra gì.
Chẳng hiểu đúng không? Hết là thứ "ông giáo
làng" phải không em?
Còn
gì nữa ? Anh nghĩ đến Mắt Bão. Hồi đầu anh tưởng tượng
người đàn ông chết, người đàn bà mất tích.
Hôm qua anh tưởng tượng câu chuyện sẽ được kể lại sau khi người
đàn ông chết bằng chính người đàn ông.
Trước mặt mọi người, người đàn ông chết hẳn hòi, có
đám táng linh đình, đông đủ bà con thân
hữu. Nhưng đó là trò lừa của hai người. Sau khi người
đàn ông đã chết, do người đàn bà giết,
hai người trở lại ngôi nhà cũ bên hồ trong những ngày
cuối cùng của cuộc đời nhìn lại quãng đã qua.
Chương mở đầu gọi là Hẹn nhau sau khi chết. Anh còn
đang phân vân nên để cho người đàn bà đến
nơi hẹn chăng. Hay từ đầu chí cuối quyển tiểu thuyết là sự
chờ đợi. Bởi khu nhà của người đàn bà ở trong cái
khu như cù lao phía bên kia hồ.
Hồi
anh viết Cát Lầy, anh đã có ý ấy nhưng
sau bỏ vì nghĩ nó tàn nhẫn, trêu cợt người ta
quá. Trong Cát Lầy, Người đàn
bà tên Thuận tự tử nằm bên trong ngôi nhà
khóa trái cửa một đêm giông mà Trí
kêu gào bên ngoài trước khi ra bến xe đi với Diệp
sáng hôm sau, thực sự không chết. Anh định kết Cát
Lầy bằng đoạn Trí tìm thấy Hiệp và Thuận ở nơi
khác, lại đến thăm ngồi với hai người này một buổi tối, xong
mới đi hẹn với Diệp, nhưng rồi sau anh bỏ ý ấy, "kỳ" quá phải
không em ? Vì Trí còn trẻ, Diệp còn trẻ
.........................................
Sinh
Nhật
13.3.1973
Hôm
nay sinh nhật anh đây. Nhận được một lúc 3 thư. Mở đọc chẳng
biết cái nào trước cái nào sau. Đọc ào
ào. Rồi chiều đọc lại. Coi như món quà mừng. Yên
tâm vì thư không thất lạc. Mình đã là
thứ thất lạc rồi, mà thư của mình thất lạc nữa thì
là thất lạc của thất lạc...
Chỉ
biết hôm nay sinh nhật, anh đến ngồi hai buổi ở sở. Không làm
gì. Nghe những chuyện lẩm cẩm chật ních cả hai tai. Buổi sáng
gặp một anh chàng làm thơ trẻ ngoài Pagode, hắn cho
biết mới ngã ngửa ra là hai câu thơ "trời còn
đêm nay còn mãi mãi" mà anh tưởng không
có đoạn tiếp hóa ra anh đã làm một bài
từ hồi nào, có đăng rồi mà quên .......
Gối
đầu lên đám bèo
14.3.1973
...
Anh kín mít bởi lẽ đúng anh không được phép
nói bất cứ một điều gì nữa. Mai Thảo hắn bảo với anh như vậy,
hôm tối thứ bẩy. Hắn nói khi anh tới sát bờ vực, xong
anh lui lại trong khi có những người nhắm mắt đưa chân tới
thì anh không còn quyền để nói, không được
nói bất cứ điều gì. Bởi rõ ràng anh còn
và người khác thì đã mất. Hôm ấy anh thật
say, anh ứa nước mắt, chảy nước mũi ròng ròng. Anh cười, anh
thua nó, anh bảo je suis la^che, c'est comme ca. Nhưng thật ra anh
khóc mùi. Chạy xe về trong phố đêm anh vẫn còn
thấy nước mắt mình ròng ròng. A, đây là
lần thứ ba anh khóc trước mặt người khác. Mới đầu, hình
như bao giờ cũng vậy, với ai anh cũng tưởng anh phải chăm lo cho kẻ ấy -
kể cả Mai Thảo - anh sợ người ta sẩy chân, nhưng sau cùng hóa
ra chính anh là kẻ bám víu vào người
ta. Tối hôm thứ bẩy, Mai Thảo nó nhất định không bỏ dở
câu chuyện, nó nhất định phanh phui đến cùng, nó
nhất định ném anh đứng trơ vơ ra đó, nó bắt anh thú
nhận rằng anh không hơn nó, anh đừng có giọng kẻ cả,
"đắc thắng". Người thứ ba trong bàn là Phan Lạc Phúc
chịu trận hai thằng như chịu hai tên khùng. Nhưng dường như
anh cũng sung sướng, mãn nguyện, biết rằng thật ra mình chẳng
là cái gì, chẳng ai cần đến mình, mà
chính mình nhu nhược cần đến người khác quá nhiều.
.............................................................
Viết
kể với em, lúc này anh nhớ đến một câu thơ của Milozs
: Je suis plus mort que les morts de Lofoten. Nhảm. Mai Thảo nó bảo:
ca, c'est de la littérature, sống không như vậy. Điều đó
chính anh vẫn nói. Anh cũng chẳng hiểu tại sao lại mang kể
cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt để nói hình như anh cũng
đang bám víu vào em. Một kẻ chết đuối bám vào
một kẻ chết đuối. Nguy hiểm. Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi
viết cho em - có thể sau thư này - anh bất định quá.
Mới
đây, Nguyễn Mạnh Côn kể với anh về cái lần hụt chết của
anh ta. Đó là bữa anh ta bơi ở Hồ Tây, bị vọp bẻ cứng
cả tay chân, anh ta lật mình nằm ngửa coi như xong, không
ngờ thế nào lại gối đầu lên được một đám bèo.
Nhờ đó mà anh ta thoát chết. Anh quen với anh ta cũng
đã lâu, nhưng rất ghét không ưa trò chuyện
với anh ta bao giờ - sở dĩ có cuộc nói chuyện lần này
vì anh ta viết cho Tập San Quốc Phòng anh phải đến nhà
lấy bài ................
Em
thấy không, chỉ một đám bèo giữa hồ rộng và người
ta sống. Dễ sợ. Mình là đám bèo của nhau. Lúc
này anh chỉ còn tin là em là kẻ duy nhất nghe
được những gì vang động nơi anh.
Đó
khúc nhạc của mình đó, em yêu.
Hậu
sinh nhật
21.3.1973
Sinh
nhật anh 13 không phải 15. Anh mang con số xui mà, không
hiểu ngày ấy có phải là thứ sáu không
? Nếu phải là vendredi nữa thì hết nói. Đâu được
như em sinh vào ngày rằm trăng tròn. Tháng tới
sinh nhật em đây, đúng chưa? Hôm qua thấy xổ số ra đúng
ngày sinh nhật em, chỉ tiếc về Sài Gòn chẳng chịu đánh
số nữa. Không thì đã trúng.
Chủ
Nhật đang ngồi viết Một Chủ Nhật Khác cho Mr Khoan, thật ngon
trớn, chiều ngồi vào bàn đột nhiên quyết định dứt ngang
xương. Mọi người sẽ chưng hửng. Kể cả tác giả của nó. Có
lẽ tác giả bí. Cứ viết truyện tình là y như
bí. Kéo lòng dòng chẳng biết đi về đâu.
Bèn chấm một cái. Cho xong đi. Nhẹ người. Mang cất vào
một chỗ những cái còn lại cho riêng mình nhấm
nháp như bữa nay chẳng hạn.
Mới
đó trời đã xập tối. Thật mau. Mùa mưa sắp đến. Hình
như hôm nay còn trăng. Chốc nữa anh lại ra ngồi ngoài
bệ đá, dưới bóng cây. Cứ thế thôi. Mắt bão
mà. Mình tự làm ma nhát mình chơi. Vì
chẳng còn cái gì khác có thể nhát
mình nữa có chán không ?
....................................................................................
Có
lẽ mùa mưa sắp tới. Mấy chiều nay trời xỉn khác lạ. Mùa
mưa Sài Gòn dơ bẩn nhưng còn dễ chịu. Anh rất thích
những trận mưa ở đây. Ào ạt rồi thôi. Không dầm
dề, nẫu người như mưa Huế và cũng không hung dữ như mưa Đà
Lạt. Những trận mưa núi thật tán đởm. Vậy mà em tưởng
tượng hai năm trên ấy đã nhiều lần anh chạy xe gắn máy
trong mưa như vậy. Cả trong đêm nữa. Nghĩ lại bắt rùng mình,
nhưng sướng vì chạy trong một trận mưa như vậy mình như thể
tan thành nước, thành bão chẳng còn một chút
nghĩ ngợi nào.
Phan
Thiết, chân dung tự họa
20.11.1973
Quyển
thứ hai anh bắt đầu viết là chuyện về một thành phố "hạnh
phúc" khuất náu, gần biển với khá nhiều nhân
vật ngồ ngộ : một con bạc nhà nghề, một cô nữ quân nhân,
một nhà nghệ sĩ trẻ tuổi của thời đại, người đàn bà
được "bao", một cặp đào kép cải lương nổi danh và những
nhân vật của thành phố ấy. Anh nhớ Phan Thiết nơi anh
đã sống khoảng một năm khi anh từ Bắc vào, sau đó mới
di cư dần vào Biên Hòa rồi Gia Định Sài Gòn.
Đó là cái thành phố lạnh nhạt không ai
ghé chơi, không biến động. Quốc lộ 1 chạy ngang nhưng thiết
lộ thì không. Tàu đến ga Mường Mán rồi từ đấy
những người đi Phan Thiết phải chuyển tầu đi khoảng ngót 30
cây số nữa, nếu anh nhớ không lầm. Anh từ Hà Nội vào
đến ga Mường Mán lúc nửa đêm. Anh nhớ mãi. Thành
phố ấy có Bích Khê và có bài Lầu
Ông Hoàng của Hàn Mặc Tử với những câu như:
Ôi một trời Phan Thiết, Phan Thiết. Mà tang thương còn
lại mảnh sao rơi. Ta đến nơi nàng đã mất lâu rồi. Nghĩa
là chết từ muôn trăng thế kỷ. Thành phố có
con sông Mường Mán, cây cầu Mường Mán ngăn đôi
thành phố: khu buôn bán bình dân với chợ
và khu hành chánh với nhà ga. Có hai
bãi biển tắm. Bãi Tây và bãi ta. Nơi ấy
anh hút những điếu thuốc lá đầu tiên năm 8, 9 tuổi khi
được thả rong chơi với một thằng bạn tây lai "ma cà bông,
ma cà cúi, lúi húi đầu chợ". Nơi ấy anh bị lột
trần truồng đuổi ra khỏi nhà và nhất định bỏ nhà đi.
Nơi ấy anh xem cô Phùng Há đóng Mạnh Lệ Quân
thoát hài. Nơi ấy anh chứng kiến tấn tuồng đứa con trai mới
lớn - con của người đàn ông lấy mẹ anh - tằng tịu với chị người
ở nhà hàng xóm. Nơi ấy anh nghe lứa tuổi lớn hơn hát
One Day, Suối Mơ ... Nhiều, nhiều chuyện không thể kể hết. Chót
cuối là nơi ấy khi anh leo lên chiếc xe vận tải để vào
Nam theo mẹ, anh được một đứa bạn gái ở gần nhà tặng một bộ
bài - anh nhớ anh gọi là bài "học trò" vì
có một cây mang tên ấy - hao hao như bài tam cúc
- khổ nhỏ hơn tam cúc nhưng lại lớn hơn bài tứ sắc - đặc biệt
bài in có hình vẽ nhưng chỉ có trắng và
đen không có mầu như tam cúc và tứ sắc. Thường
ngày anh vẫn chui sang chơi bài với nó, nó học
trường nhà nước anh học trường tư - tạm bợ mà. Đó là
món quà đầu tiên trong đời anh. Anh chưa biết đặt tên
quyển tiểu thuyết này là gì. Hoặc là anh sẽ
cố tả anh qua thành phố, không qua người.
Tự
truyện
24.11.1973
Sáng
nay anh nẩy ý có lẽ rồi anh viết tự truỵên. Vì
em đấy. Chưa biết lúc nào thực hiện, có thời giờ thực
hiện không. Nhiều lúc thì trống huếch trống hoác,
nhiều lúc thì nghẹt ứ dồn cục. Anh có biết bao điều
muốn làm. Rồi anh bỏ cho trôi qua. Với em bây giờ, anh
ráng bình tâm làm việc dần dần. Tự truyện của
anh chắc chắn miên man không thể tưởng. Có thề là
bộ sách dầy. Có lẽ vì thế mà anh ngán
chăng? Hoặc vì từ trước đến nay chẳng ai đếm xỉa muốn biết, anh cũng
thấy chẳng cần cho ai biết? Anh muốn phanh phui với em lúc này
chăng? Có lẽ, chắc thế. Cứ ném từng mảnh đầu Ngô mình
Sở làm em chẳng thấy đầu cua tai nheo đâu. Anh sẽ viết, khi
anh có thời giờ, dần dần ngày một hai trang cho đến bao giờ
dứt thì thôi. Đó không phải là một công
cuộc đáng chú tâm? Anh trở lui, đúng nghĩa, trở
lui để em thấy. Anh đã thấy quyển thứ nhất sẽ được dành cho
những năm đầu cho đến khi bố chết - năm đó mới có sáu
tuổi. Ghê chưa. Ngán quá. Không hiểu đủ kiên
nhẫn không?
Em
có ngại đọc những sách dầy kiểu đó không? Có
khi anh cốt "hù" em chơi, đừng sợ.
Chuyến
du hành mùa đông
9.1.1974
Anh
vẫn cố trụ tâm viết quyển sách thứ hai cho nhà xuất
bản mặc dầu nhà xuất bản vừa điện thoại cho biết "tương lai đen tối"
lắm. Lúc ký hợp đồng anh tưởng mình là
kẻ bội ước, lo ghê chỉ dám hứa 1 năm, cái điệu này
thì chính nhà xuất bản bội ước chứ không phải
anh. Anh thế mà giỏi. Phải không? Anh đã tạm ngưng cái
tiểu thuyết về anh chàng đánh bạc rong và cặp đào
kép nổi tiếng, từ một tháng nay anh viết lại "Chuyến du
hành mùa đông" viết hồi còn trên Đà
Lạt, trước khi gặp em, mà một đoạn là "Đêm gió"
trích đăng hồi xuân Nhâm Tý ở Văn mà em
đã đọc. Anh viết như kẻ lẩn thẩn, sau cơn say cứ ợ chua mà
không chiụ nuốt ngồi nhai nghiền lại những đồ ăn đã nát
ngướu. Chỉ làm thơ là sướng thôi. Và viết kịch
nữa.
Vẫn
em
Thơ
tình ở Sài Gòn
Vẫn
em đồi trăng phơi mờ hoặc
Tóc
buông giải thẫm xóa canh thâu
Vẫn
em rừng lũng khuya trốt lộng
Ngút
đen mắt lạc ruỗi tin trăng
Vẫn
em đồng sông sao trời lạ
Phập
phồng tan nát lượng thời gian
Vẫn
em dáng cây nghiêng nẻo khuất
Sương
muộn ham mê thức lá buồn
Vẫn
em ngực thở vùi cơn bão
Trải
niềm không, xô sát niềm không
Vẫn
em trận mưa giông vách núi
Mở
buốt mông lung cửa đất trời
Vẫn
em thoáng trắng mây hiền hậu
Ngẩn
ngơ soi mặt biển điêu linh
Vẫn
em đóa quỳnh run hoảng nở
Hương
thầm choàng riết cõi đêm ta
21.4.1973
Thơ
tình trong tù, Vĩnh Phú - K2. Tân Lập
Vẫn
em của thuở trăng nào
Đêm
hôm nở đóa chiêm bao xanh ngần
Vẫn
em tình của trăm năm
Đoan
trang nét hạnh thâm trầm dáng thơ
Vẫn
em mối kết thiên thu
Vẫn
em xoa dịu sầu tư cõi này
8.1980
Tình
ca
Tình
ca của người tình của Cu Nghệ
Sự
trôi chảy không ngừng nghỉ không dời đổi
Trở
về mãi mãi những đêm xuân
Hạt
máu đọng thời gian ngủ ngoan qua mùa đông
Đừng
sợ, đừng sợ con sẽ lớn lên sau những nụ hôn lạnh lẽo phản bội
Tình
ca của đảo
Tình
tôi như đốm lửa xanh xao huyền hoặc
Anh,
gió khô khan độc địa không ngớt vùi dập
Ôi
gió tối tăm gió gầm trời nào
Thổi
bùng thành đám cháy không thể tắt
18.4.1982
Công
bố ngày 11/03/2012
Hậu
đường ngôi nhà mặt tiền
15.9.1972
Chiều
viết cho em xong lá thư, định ra phố gởi thì trời đổ mưa.
Nghe tin bão. Ngại không buồn đi, nhờ một người đi qua bưu
điện bỏ hộ. Không rõ em có nhận được chưa? Mưa tầm tã.
Ngồi mãi Hội Quán định trở về phòng viết tiếp thư vì
nhớ dường như nói còn sót ý, anh Cường sang chơi,
khen mấy bài thơ đăng trên Văn. Anh ngạc nhiên hỏi sao
biết là thơ của anh thì bảo trông thấy tên. Anh
chưa thấy tờ báo nhưng như thế chứng tỏ là Mai Thảo đã
không làm theo ý anh, ký tên thật một tiếng
thôi. Anh đoán chừng ý Mai Thảo hắn không muốn
anh đổi tên vì muốn cột anh vào luôn với hắn không
cho anh thay đổi và có lẽ cũng nghĩ như mọi người là
anh nhát sợ hoặc tức giận những kẻ thường công kích
mình mà tự chối bỏ. Em nghĩ thế nào về chuyện này
?
Chính
khi ghi chép bài thơ Ngôi nhà đỏ, anh đả có
ý bảo em chọn lấy một tên lạ nào đó ký,
rồi gửi cho anh từ ngoài vào (với điều kiện không phải
chữ em chép vì chúng cũng có thể nhận ra) để
anh xem thử bài thơ được tiếp đón thế nào. Anh không
ngờ em đã "khổ" vì bức điện mấy chữ. Ngay hôm ấy anh
cũng đã ra bưu điện, tính đánh trả lời : OK, comme tu
voudras ngay nhưng đến nơi lại bỏ ý định. Anh cầm cự ghê lắm,
nhớ là những lúc anh cầm cự thường làm em tức. Nhưng
tức thì chuột nhắt ráng chịu.
Anh
bảo em nên lúc trống trải thử viết một quyển tiểu thuyết. Tốt
nhất một quyển tiểu thuyết không phải về mình. Như thế sẽ cần
chăm chú, theo dõi người khác và sẽ quên
được mình rất nhiều. Anh nghĩ thế và hiện anh đang sửa soạn
làm vậy. Anh tin chắc là anh sẽ thành " nhà văn
lớn" mà.
Mưa
cũng đã tạnh. Anh viết thư này cho em, trong yên tĩnh.
Mấy lá thư kia đều viết trong giờ làm việc, có người
ra vào. Anh cũng chịu anh không thể tưởng tượng ra em đang
làm những gì ngoài ấy. Đúng là đảo xa
mù mịt trông chẳng thấy bóng.
Anh
đang mong em đã nhận được thư trước của anh và cũng đang viết
trả lời anh. Chịu khó viết nhiều cho anh đọc. Chừng nào biết
đích xác ngày về Sg anh sẽ đánh điện báo
em rõ, lúc ấy em hãy ngưng gửi thư về địa chỉ này.
Nhớ chưa ?
Ngôi
nhà đỏ, bis
2.10.1972
Anh
vừa qua một ngày đầy, đầy thật đầy. Hiếm. Đầy mà không
thấy mứa. Không phải "blue monday" mà là một ngày
thứ hai đủ màu. Sáng vẫn dậy sớm như thường lệ. Đầu đau ê
ẩm. Nhớ hồi 11 giờ đêm qua, Hải đập cửa phòng mang bánh
mì về gọi dậy ăn. Nín thinh làm bộ ngủ. Bụng vẫn ọc
ạch. Ngồi lầm lì trước bàn không buồn rửa mặt ngay như
thói quen. Hải dậy sớm, săn đón, tưởng giận vì chuyện
hắn về muộn bỏ đói hôm trước (đâu có biết mình
được mời ăn cơm ngon). Vẫn cứ lầm lì chẳng buồn mở miệng. Nhưng thay
vì thường lủi thủi xuống Hội Quán một mình thì
nhẩn nha ngồi đợi hắn. Hắn không biết anh đang rượt theo hai cái
âm "đuối nhớ, nhớ đuối". Mang theo xuống Hội Quán quyển Espagnol
cũng chẳng thèm mở đọc. (Ngày 26.8 em lên Đà
Lạt anh đã đọc đến bài số 18. Bây giờ anh đến bài
20. Cứ mấy bữa rượu, mấy bài thơ theo ám hoài). Tưởng
ngày bắt đầu như vậy kể như hư rồi.
Trở
về phòng làm việc, ngồi vào bàn làm việc
là bắt đầu "đuối nhớ nhớ đuối". Tất cả công việc của anh trong
một ngày là buổi sáng đọc mấy tờ báo, kiểm tin.
Nhưng sáng nay báo không có chỉ vì lẽ ngày
chủ nhật nhân viên phụ trách đi lấy báo đùn
nhau rốt cuộc người nọ tin người kia chẳng ai lấy cả. Không phải đọc
báo hàng ngày đã sướng, nhưng sướng hơn là
vì không có báo nên phòng đỡ đông
chật các bạn đồng nghiệp đến xem ké vào buổi sáng.
Thảnh thơi đóng cửa mà "nhớ đuối". Làm được đâu
3,4 khúc cái bụng lại ọc ạch róc rách. Nhớ thư
viết hôm qua đã dán chưa gửi. Mượn xe Jeep, một mình
ra phố. Ghé bưu điện bỏ thư. Ghé tiệm thuốc mua một ống Direxiode.
Xong trở về lại ngồi vào bàn. Làm xong bài thơ
chưa hết buổi sáng. Đi dạo một vòng, uống thuốc chặn bụng.
Về ăn cơm với vợ chồng người bạn không con.
Trở
về phòng ngủ, yên bụng. Trong giấc ngủ nghe lại những thanh
âm của vài câu chưa ổn. Thức dậy, ngồi vào bàn
...
Ngôi
nhà đỏ đồi trăng hồng đuối nhớ
Thở
hơi sương run rẩy. Ngã trong trời
Nhòe
gió bấc, ngựa mây dồn dập vó,
Tiếng
nhạn đen. Thả bổng quạnh hiu rơi
Đồi
bập bềnh trôi lũng biển trắng
Mái
nhà ôm, trở ngọn hú gào người
Người
gắng gượng rõi dáng hình lãng đãng
Hồn
như đêm lóng cóng. Cắn môi.
Những
bực đá lấp chìm, đá rét mướt,
Dâng
dưới chân, đợt sóng nổi chông chênh.
Người
hẳn tiếc những khuya trời ngỏ mở
Đá
nhún mình nâng gót nhẹ thênh.
Bụi
hoa trắng ngó tìm trên đầu dốc
(Hoa
ngời trông. Rạng hiện lối đơn sơ
Hoa
cừu địch. Cười ý cuồng lảo đảo)
Rũ
rượi buông cánh sũng. Quãng mờ.
Đèn
vàng lụn như đầu diêm xòe tắt
Lửa
thuyền xa. Đom đóm dạt phiêu bồng.
Tình
rầu rĩ kêu tiếng trầm cắn đắng,
Bóng
vang hư. Thoáng lịm như không
Kìa
tóc ướt tựa gờ tường đay nghiến
Bám
vịn trên cánh gỗ sượng sùng.
Thềm
hiên gió rập rờn xô huyễn hoặc,
Đầu
buốt mê tiếng gõ đập kinh hoàng.
....rồi
lướt đọc nhanh thư em.
Bao
giờ cũng vậy, giống như ngửa mặt phơi gió mặc cho thổi không
nghĩ ngợi.
Những
buổi sáng dưới hỏa diệm sơn
3.10.1972
Nói
đến thư trễ, anh nhớ anh vừa đọc xong trong tuần trước một quyển tiểu thuyết
thật tuyệt, Under the volcano của Malcolm Lowry . Một truyện tình
của một anh chàng say. Có những bức thư tình xếp xó
không gửi, những bức thư gửi đến được cất ở quán rượu không
được trả lời và một cái carte postale đến trễ cả hai năm trời,
đến vào lúc hai người đã gặp nhau vào cái
ngày của quyển tiểu thuyết. Thật tuyệt. Thật thơ. Lowry được so sánh
với Joyce với Eliot. Em tìm trong các thư viện, đọc thử xem.
Anh
thích những buổi sáng không thể tưởng. Ở Sài
Gòn có nhiều bữa anh ra đường khi trời chưa rạng, chạy xe
kiếm một quán cà phê chệt ngồi. Buổi sáng khi
Pagode vừa mở cửa thường khi anh là người khách đầu tiên
lúc còn làm ở Tiền Tuyến. Ở đây không thể
ra ngoài. Sợ lạnh vả lại trong trại binh đi lang thang bậy bạ nguy
hiểm không chơi. Hồi còn yên, mới vô lính,
4 giờ sáng dậy đi tuần xong chạy từ Cầu Kinh qua xa lộ vào
Sài Gòn. Nhớ hoài những buổi sáng. Anh chỉ mới
đón em, gọi dậy có mỗi một buổi sáng thôi. Buổi
sáng của anh khó có người chia xẻ. Dường như các
bạn thân thiết của anh chẳng có ai dậy sớm cả. Buổi sáng
sớm chẳng bao giờ làm người ta chán đời cả. Sáng sớm
dậy, thở, đi ngửa mặt khoan khoái thấy sống tỏa tràn trề không
hề nghĩ ngợi bậy bạ nhảm nhí.
Lần
ra Huế anh cũng còn nhớ những buổi sáng ở bên Hương
Giang lắng nghe tiếng chợ họp dấy bên kia sông. Nhớ con đường
hẹp như đường làng từ hồ Tịnh Tâm ra con đường phố trổ ra cửa
Thượng Tứ hàng cây trồng cách sao mà ngả đầu
vào phía trong như ngửa ưỡn người. Khu Gia Hội anh cũng đã
sang. Đã ăn một bữa tối ở tiệm ăn Tầu bàn bầy ngoài
vườn, chẳng hiểu có còn không (cùng phía
với rạp hát bóng, đi quá lên trên).
Anh
lại vừa nhớ đến những buổi sáng thức dậy trong Sở Thú. Hồi
Tết Mậu Thân, tái ngũ, làm ở Tiền Tuyến, trong đợt tấn
công thứ 2 vào Sg, cứ 4 tối anh lại bị một đêm dẫn lính
qua nằm phục bên Sở Thú. Ngủ trên bãi cỏ dưới
tàn cây. Ngủ trong nhà chòi bát giác
sát bờ sông Thị Nghè. Ngủ dưới chân cái
patio thẳng cổng chính vào trông thấy. Ngủ trong cái
quán nước đã dẹp bàn ghế. Nửa đêm ve kêu
râm ran. Sáng dậy nghe khỉ nghe voi kêu. Mời hết cả đám
lính đi với mình mỗi người một ly cà phê sữa cho
tỉnh trước khi về trại. Năm đó anh nhớ anh đánh bạc quanh
năm, được liên tu bất tận. Về vứt ống súng là chạy ra
Pagode ngồi đến 9 - 10 giờ về làm việc. Bây giờ thì
buổi sáng chong đèn - luật phòng thủ tối kỵ - viết
thư. Viết ba lăng nhăng, chẳng ra đâu vào đâu. Và
nếu cứ viết kiểu này hoài, chắp lại dám thành
quyển tiểu thuyết tình dầy. Có khác chi Under the volcano?
Khúc
Presto, mùa hè rực rỡ
6.10.1972
Từ
đầu tuần đến giờ anh gặp toàn chuyện xui. Khỏi cái bụng đến
cái đầu. Hết cái đầu phía sau đến cái đầu phía
trước. Số là bữa qua anh bị tai nạn kỳ cục. Từ Hội Quán về
phòng không có gì lạ. Vào bàn ngồi
đọc báo mở nhạc nghe. Nghe "Tứ Thời Khúc" của Vivaldi. Hết
sức hứng chí. Tới nỗi ông sếp phải vô phòng yêu
cầu vặn nhỏ bớt vì đang giờ làm việc. Lúc nào
anh nghe khúc Presto của mùa hè cũng thấy xốn xang
rưng rưng. Tắt nhạc ở khúc ấy, bước qua phòng bên. Không
hiểu anh choáng váng hay do nhân viên lúi
húi xếp gì trong góc cửa đẩy cánh mở, lúc
quay ra anh va trán vào cạnh sắc của cánh cửa. Cái
đầu ăn trầu. Tá hỏa tam tinh. Ôm cái trán qua
bệnh xá, nằm cho người ta khâu hai mũi. Anh chàng y tá
nói tuần nữa qua tháo giây, chắc chắn có vết
sẹo trên trán. Anh trở về phòng bảo cái anh chàng
đã gián tiếp gây tai nạn : Trước khi tôi rời Đà
Lạt anh để thẹo cho tôi làm kỷ niệm nghe. Trong khi ôm
đầu chạy trong mấy hành lang, gặp người hỏi thăm, mặc dù xây
xẩm anh còn kịp đùa: đánh lộn, đánh lộn.
Suốt
ngày qua cái đầu đau đằng trước, đau đằng sau. Mất chút
xíu máu ngây ngất bàng hoàng quá
trời. Một thứ say thiếu máu. Sáng nay hơi hơi tỉnh. Chiều
nhận được thư. Đọc hai lần, chậm rãi, ngay tức khắc. Rồi đi ra ngoài
nắng. Rồi đi dài ra khỏi vòng trường. Xuống khu vườn ở dưới
lũng nơi đặt hoa viên để cho sinh viên sĩ quan tiếp thân
nhân vào các ngày nghỉ. Vườn trong mùa
mưa gai góc mọc đầy. Rồi đi ra ngồi dưới tàn trắc bách
diệp của cái quán trông sang bến xe, trông sang
cái trạm gác đầu cầu đêm nào có lửa cháy
để sưởi, ngoảnh đầu thấy bờ hồ, ngửa mặt thấy dốc lên Hòa Bình,
ngó ngoái thấy những hàng cây xanh um của những
con đường đã đi qua. Cùng với Tòng, nhậu. Nhậu và
ngậm miệng. Chiều xuống ớn lạnh. Khỏi cần lá ngô đồng. Nội
cái thư em đủ cho anh thấy mùa thu. Lại còn thêm
cái chớm gió ngoài hồ thổi tới. Dập hết khúc
Presto. Dập luôn bài thơ anh vừa viết sáng nay, trưa
nay về ngôi nhà đỏ và mùa hè rực rỡ, mới
chỉ được mấy câu:
Ngôi
nhà đỏ trên đồi trăng hồng tía
Cửa
thiên thanh nóc xoãi ngủ sậm nâu
Cây
biếc lục trời tím than núi sững
Phố
rực vàng huyên náo những triền sâu
Hạ
đen thắm ngỡ ngàng đôi mắt sắc
Nắng
khắp ngày trải tấm thảm ham mê
Mở
rộng cửa, mở thời gian ủ dột
.......................................................
Quãng
lặng
7.10.1972
Bid
me not speak, bid me still
because
my secret is my writ;
to
show you all my heart would be my will
but
fate does not permit.
In
time dispels the sun's eternal course
the
gloomy night, and it submits to dawn;
the
rigid rock itself must burst perforce
that
hidden wells break out into the thirsty law.
In
friend's embrace all agony is healed
and
weary souls can be restored to hope;
alas,
an oath keeps my lips ever sealed,
and
but a god has power to break them open.
Goethe
Em
đọc bài thơ có thấy ghê không?
chép
em đọc chơi bài nữa, bù không có thơ của anh.
Bài còn khiếp hơn.
You
whom I don't tell that I lie awake
at
night and weep,
whose
being, like a cradle, makes
me
tired and tender;
you
who don't tell me when for my sake
you
cannot sleep:
what
if we endure this splendor
and
let it ache
without
relieving?
Look,
when the lovers start
confiding
the thoughts of their heart,
how
soon they're deceiving.
You
make me alone. You only I can exchange.
And
while it is you, then a noise that seems strange,
or
it is a fragrance without endeavor.
All
whom I held in my arms did not remain,
but
you are reborn again and again:
because
I never held you, I hold you forever.
Rainer Maria Rilke
Nude,
trắc
1.11.1972
Những
ngày này nhộn nhạo tứ bề. Vậy mà anh tĩnh lặng. Quả
có thể gọi là vô tâm. Tuần sau anh đã về
Sài Gòn. Cho đến bữa nay vẫn chưa sửa soạn tí gì.
Hôm qua đi gửi thư cho em. Hôm qua trời thật thu với mưa lay
bay từng quãng. Nhớ đến cái đề của em " ngôi nhà
đỏ trên đồi trăng hồng khỏa". Nghĩ thấy cần trổ tài với em,
anh viết bài này bằng vần trắc, dùng làm bài
chót cho tập "ngôi nhà đỏ, trăng hồng" (Biến khúc
quanh một bài thơ cổ).
Ngôi
nhà đỏ trên đồi trăng hồng khỏa
Trời
sương lam. Núi ngây rừng gió lạ
Cây
ngà say. Đêm heo hút ngoài khơi
Mùa
ngã độc. Rười rượi buồn cỏ lá.
Im.
Rớt im. Nhánh khô ròn. Bước động
Ngói
lệch xô bàng hoàng che giấu mộng
Chàng
quay lưng mỏi mệt ngắm phố chìm
Cửa
đóng bít. Rào vây. Mắt ngõ trống
Trăng
chợp lay. Nhỏ to vẳng tiếng hát
Mùa
hạ vàng rực rỡ và bát ngát
Đêm
ơi đêm còn khúc điệu nào chăng
Vỗ
về chàng. Trời yếu đau ngăn ngắt
Mỗi
bực cấp, bước leo đầm hiu quạnh
Thở
chênh chao. Hồn tả tơi sóng sánh
Đá
muộn phiền tẩm thẫm mầu lãng quên
Lối
mờ tỏ. Mưa giông khuya ngất tạnh
Hãy
đắm đuối, chàng Orphée khờ dại
Đừng
ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Bờ bụi
Trổ
đầy gai. Vườn hoang phế. Ảnh nàng
Trôi
tan tác trong hành lang rợp tối
Cửa
đang ngó trong nỗi mù dằng dặc
Hoa
hé trông gửi niềm riêng nghi hoặc
Đừng
ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Chàng si.
Trăng
ngỡ sáng. Trăng ngậm sương trầm mặc.
Mùa
trở gió, nhà nín hơi lẩn lút
Đồi
rì rào. Cây sượng sần lá trút
Đừng
ngoái nhìn. Nàng núp trốn cùng đêm
Đừng
ngoái nhìn. Trăng khỏa thân xanh mướt
Crusoé
về chốn thị thành
Liên,
đêm,
14.11.1972
Vẫn
viết cho em từ Gia Định. Ngày mốt mới đi làm lại. Cuối tuần
sẽ ra bưu điện kiếm thư. Ngày mai đi cắt tóc cạo râu.
Còn tắm thì ngày nào cũng tắm rồi. Anh không
nhớ là Crusoé ở đảo bao lâu. Riêng anh sau hai
năm rưỡi sống ở Đà Lạt, và những ngày cuối cùng,
anh trở về ngơ ngáo - xa lìa như người tỉnh một giấc ngủ hai
chục năm, đúng như ý muốn. Gặp lại người thân, bạn bè
thấy vẫn vậy - nhòa bớt đi ở mình. Cái xóm ở
18 năm vẫn vậy. Xóm anh ở như cái túi, người và
vật vẫn y nguyên. Những đứa trẻ lớn lên, những người lớn già
đi. Bọn con gái lấy Mỹ trở về lo làm ăn lại, bọn con trai
đi lính lừ đừ về thăm, bọn nhỏ hơn ghiền ma túy làm
du đãng. Đây là xóm lao động bình dân
không lịch sự như xóm nhà em. Nhà vách
ván nên tối ngày anh nghe nhạc từ máy nhà
hàng xóm, nghe tivi nhà trước nhà sau. Anh không
thể nghe nhạc của anh. Anh có một chiếc võng trên gác
ván phía đằng sau để nằm lúc sáng sớm và
chiều tối, đêm, trông thấy một khoảng trời một bóng cây
xanh giữa các mái nhà. Khu này anh cũng đã
ở từ năm 45, cô Liên ở đây những năm ấy. Sáng nay
anh đi vòng vòng những con đường cũ nhận ra những nhà
cũ và mới, các lối xóm xưa được sửa sang dung mạo.
Ở đây sót lại một cô bạn học từ năm lớp ba lớp nhì,
đã thành bà - tất nhiên. Hai người biết nhau vậy
nhưng chẳng có gì nói. Nhìn cô bạn học
cũ, anh phát giác em chơi với anh mệt vì anh không
còn sống tới mà lui. Chập chờn như chiếc bóng. Rõ
ràng thế. Sống tới với anh bây giờ chỉ còn nẻo duy nhất
: điên. Anh không ưa. Em cần sống tới, khổ cho em.
...................................................................................
Mấy
bài thơ về ngôi nhà, già Vượng khăng khăng yêu
cầu ký tên "thật". Anh nhường. Nghĩ cho cùng cái
sự anh muốn thủ tiêu hắn cũng chẳng ra quái gì. Anh
đã biết từ lâu nó sẽ đeo dính lấy mình
mà. Nó chẳng là của mình, nó là
của kẻ thù và bè bạn mình nữa. Kẻ thù
thì chẳng hệ, nhưng bè bạn đành nhường. Về đến nhà
thấy quyển sách mới của Doãn Quốc Sỹ gửi từ tháng trước
- Quyển Cúi Đầu - với một truyện đề tặng. Trông thấy cái
tên in trên truyện của người khác nghe lạ lạ ...
Công
bố ngày 01/03/2012
Quan
Âm, Tề Thiên Đại Thánh
Đà
Lạt, 26.12.1972
Từ
chiều hôm qua anh bắt đầu công việc sửa soạn rời Đà Lạt.
Trả mùng mền, áo lạnh cho nhà kho, trả sách
mượn cho thư viện, thanh toán tiền bạc với Hội Quán Sĩ Quan
...v...v... phải đi khắp các phòng sở cho người ta ký
nhận là mình không có mắc món nợ gì
của trường, có hoàn tất đầy đủ thủ tục mới có thể rời
đơn vị được. Thật là mất công, phải hôm nay nữa mới xong.
Trả sách thư viện, anh đã đền 450$ để giữ lại tập Rubaiyat
của Omar Khayam, tập thơ say của ông thi sĩ Ba Tư hồi thế kỷ XIV.
Bản in quý, có tranh vẽ, thật đẹp không ngờ lại rẻ thế
- nhờ là in hồi đầu thế kỷ, truy trong mục giá đề có
95 xu thôi. Anh đã giữ tập thơ này cả năm nay, gối đầu
giường đọc hoài không chán. Đó là tất cả
kỷ niệm hai năm hơn ở trường Võ Bị.
Hôm
qua cũng say một bữa khá ở nhà người bạn không con.
Lúc say vẫn thấy nửa đầu phía sau có cái niềng
sắt nịt bóp. Nhớ hồi xưa đi học nghe ông thầy giảng về Pascal
nói Pascal cũng mắc bệnh đau đầu, để có thể suy nghĩ được
Pascal đã phải làm cái niềng có chốt vặn siết
đeo trên đầu, mỗi khi nào đau quá thì siết cho
cái niềng bóp giữ thật khít. Chẳng hiểu có đúng
không, hồi học anh cho là ông thầy bịa chuyện tán
tụng vì quá mê Pascal. Bây giờ anh tin. Đau đầu
mà cứ nghĩ kiểu Pascal thì quả là dại. Việc gì
nghĩ lẩn thẩn cho mất công. Để trị cái con khỉ lí lắc
phá trời phá đất là Tôn Ngộ Không, Phật
Bà Quan Âm cũng tròng cho nó một cái niềng
sắt bao quanh đầu. Anh là Tôn Ngộ Không, còn không
hiểu ai là Phật Bà Quan Âm? Em đoán xem.
Tuy
nhiên về phòng, nằm thẳng cẳng, khỏi cần mùng - thành
thói quen rồi - ngủ say. Không uống thuốc, rất ghét
thuốc. Vạn bất đắc dĩ anh mới dùng thuốc. Sáng nay dậy thật
sớm, thấy êm. Bây giờ thì lúc nào cũng thường
xuyên thấy ê nặng nửa đầu sau nghĩa là bị cảnh cáo
coi chừng có đeo niềng sắt đấy, hễ bị niệm chú là lăn
lộn bưng đầu hết thước chữa. Chiều bữa qua nhận được thư ngày 24
của em mới biết nửa tháng nay đau không hay trời đất cũng là
vì bị "hầm hè". Đêm qua ngủ ngon chắc là nhờ không
bị niệm chú.
Sau
đây là công trình mấy ngày lạnh:
1.
Nàng
nghe hết thẩy âm thanh trong trời đất
Hết
thẩy dư vang khuất lấp đời ta
Nàng
hóa thân một tiếng ngã rớt
Bay
dò thăm thẳm suốt hồn ta
2.
Tay
xòe đóa sen
Mày
nổi vầng đêm
Nghiệt
súc, trời lồng lộng thanh thản
Mỗi
búp tay mỗi đỉnh non
3.
Mắt
khép mặc tình ta nhẩy nhót
Nhan
dâng hồng nguyệt vợi thinh không
Ta
cơn trốt bụi sao cuồng khấu
Hạnh
nguyện nàng rong ruỗi chập chùng
4.
Hỗn
mang trời biển sơ khai
Xuân
thu chia giạt bến mê dài
Vời
xa gió ngọn chan cô tịch
Ánh
cười rạng nở phôi thai
5.
Dưới
núi nằm sấp hầu nghe chừng
Hồn
tinh hang hốc bặt hồi âm
Giấc
đá nghiêm sâu vỡ thoát kiếp
Mộng
ẩn thâm u bồ tát nàng
Chắc
rồi còn nữa. Tán hoài không hết. Chẳng rõ
em ngán chưa? Ngán thì bảo. Noel vui không? 25
tính sang thăm nhưng ngại lỡ tầu như 24. Tối 25 thì gió
đùng đùng lại thôi. Cả ngày làm thơ miết....
Trái
tim ngậm trong miệng
3.11.1972
Anh
không ngờ em biết vẽ mà lại vẽ đẹp nữa. Em không thấy
em hơn hẳn anh một nguồn thú tuyệt vời sao? Vẽ là cái
món anh dở nhất. Dở không thể tưởng. Hồi đi học cái
môn dessin là đứng bét. Ngay như anh học toán
mà chẳng bao giờ anh vẽ được một đường thẳng cho ngay dù có
thước, chẳng bao giờ vẽ nổi một vòng tròn cho khít
dù xài compas. Tay vụng. "Hậu đậu" lúc bé cứ
bị nhà mắng vì hay làm vỡ đồ vật, giống như anh chàng
Le Petit Chose vậy. Viết là dở nhất, vẽ và nhạc là
tuyệt. Anh thích chơi với mấy người vẽ và nhạc là vì
anh coi trọng họ hơn là người viết. Khi em vẽ, em vừa làm
việc bằng chân tay, vừa làm việc trên chất liệu cụ thể,
những chất liệu khó bị làm cho hư ngụy (chữ nghĩa ai muốn hiểu
sao thì hiểu, chứ còn đỏ là đỏ - xanh là xanh)
và những gì em tạo ra nó hiện hình sờ sờ nguyên
vẹn là của em. Anh chơi rất thân với Duy Thanh - Ngọc Dũng,
phục tài một hồi - nhiều năm trước - bị lây anh cũng đòi
vẽ nhưng chịu chết. Chẳng thể nào anh tạo ra cái hình
thù gì cả.
Hôm
kia ra phố trông thấy cái bìa của Duy Thanh là
anh nhận thấy ngay tức khắc. Nét vẽ của mấy người bạn anh để đâu
anh cũng nhận ra. Anh yêu sự giản dị, khỏe mạnh, trữ tình của
DT không thể tưởng. Kỳ triển lãm đầu tiên của anh ấy
ở SG năm 55 phần lớn tên tranh là anh đặt tên, anh còn
nhớ vài cái tên như: Đường hoang đầy - Biết gửi về đâu
- Chiều với ngó đỉnh cây - Mai về tình thơ hôm
nay. Em có thấy cái tranh vừa rồi của anh ấy dễ thương không?
Cái nền hồng thật mát. Mầu hồng trong các bài
thơ của anh là cái mầu hồng đúng như thế. Còn
cái hình dòm anh có cảm tưởng anh ấy nghĩ đến
anh, vẽ anh. Cái đầu nhìn nghiêng của đứa con trai giống
hệt mấy cái anh ấy vẽ anh trong tập Tôi Không Còn
Cô Độc. Đứa con trai hôn trái tim có đường rạch
vu vơ phía sau và những giọt lệ đá xanh (hay những
chiếc lá?). Anh có chủ quan không? Anh mà hỏi
anh ấy, chắc chắn sẽ được trả lời lừng khừng: Chắc thế, không nhớ
nữa. Bữa nào em gửi cho anh xem một bức vẽ của em đi.
Công
bố ngày 25/02/2012
Mais
désespérément
Sài
Gòn 4.11.1973
Anh
cũng vậy. Anh cũng tuyệt vọng.
....................................................................
Mặc
dù nghĩ nhiều phần em không đến, chiều nay anh vẫn chờ, đứng
dáo dác ngoài cổng cho đến khi người ta kéo
rào sắt cô lập khu vực và cổng Vườn Thú đóng.
Vào đọc lại thư em. Rồi mở thư viết tiếp. Anh có ý định
đưa thư này trao tay như em vẫn làm nhưng số nó nặng
nợ với bưu điện. Chốc về ăn cơm anh sẽ bỏ hộp thư vậy. Em tránh gặp
anh để khỏi làm phiền, tránh viết cho anh này nọ để
anh khỏi đau đầu, giống hệt như anh vậy, anh cũng lẩn tránh thế.
Thật tâm có lúc anh mong em quên được anh cho em
nhẹ mình, em cũng nghĩ thế phải không? Nhưng thôi không
nói những chuyện tầm phào ấy, em lo chữa bệnh xong đã.
Ưu tiên một đấy. Còn anh cứ đành làm thơ và
viết nhăng. Sáng nay ngồi trực anh làm nhiều việc lắm. Trước
tiên là làm phần mở đầu của một bài thơ có
tựa "lập dị" Mais désespérément. Mais désespérément,
anh mê mấy cái âm vớ vẩn đó và sẽ làm
một bài thơ xuân theo commande của Mai Thảo cho Văn. Em thừa
nghe thấy bài thơ thế nào, nó sẽ quay quanh cái
thème "khi em trở lại", đại khái như:
Khi
em trở lại, anh mơ hồ giữa rừng tuyệt vọng thao thức
Những
lao xao trăn trở gọi mùa
Khi
em trở lại anh mở bừng mắt giữa chiêm bao bối rối
Vô
vàn cô đơn ấp úng
Sài
Gòn, 5.11.1973
.............................................................................
Còn
lẽ nữa, nếu em để ý từ hôm sáng thứ bẩy đó em
thấy, anh mất bình tĩnh. Anh đang lơ lửng giữa không trung.
Anh đang bắt đầu "Mắt Bão" mà. Mỗi lần bị hớp vào trong
trí tưởng tượng là y như rằng anh múa may kỳ cục. Em
biết không anh phải tạm đổi Mắt Bão thành Kẻ Bại Vong
hoạc Kẻ Vong Tình. Có thể sẽ còn đổi nữa. Và
trước lúc em ngồi trong ghế bành, anh phải bỏ ra ngoài
vì chịu không nổi cái đầu óc. Trên tờ giấy
ghi anh mới chỉ viết nổi hai giòng: La Narratrice - Thành
phố cũ. Anh cố nhìn sự vật bằng mắt của em, của người đàn
bà. Quyển sách sẽ thành hình trong nhãn
quan ấy. Điều anh chưa từng làm. Em thấy anh dáo dác
có phải không? Gặp em anh sung sướng nhưng cũng cực nhọc vì
sự vụng về lơ đãng của mình. Sáng chủ nhật làm
thơ, dịch thơ, viết thư sung sướng nhất. Hóa ra em cứ như bị "tế
sống", anh buồn thêm vì thế. Đó là sự sung sướng
hết sức ích kỷ. Em cũng thấy vậy phải không?
Em
đang làm nhòa mình để đến với anh và anh đón
em bằng cách đẩy em bật trở lại.
Ôi
thôi, nói hoài chẳng hết. Anh xin lỗi, cám ơn,
xin lỗi hoài không hết. Thành ra "nghề của chàng"
là xin lỗi.
Sài
Gòn, 22.11.1973
Sáng
nay trời trở lạnh. Anh bắt đầu thấm, cảm cúm, khan cổ. Đi làm
mặc áo dài tay. Nghĩ em đến bữa nay hoặc mai. Nhưng cũng nghĩ
luôn là em thấm mệt, thấm trận mưa bữa đó. Đúng
không? Buổi sáng làm xong bài thơ bỏ dở từ đêm
chủ nhật em tới. Chép cho em đọc đỡ buồn trước khi chép cho
Văn.
Mais
désespérément
Khi
trời tuôn những trận mưa mù
Gió,
gió quỷ quyệt
Qua
những vùng xanh biến tích
Gió,
gió hú trời lưu lạc
Buổi
tàn đông
Mờ
bạc sông xa
Đứng
giữa cỏ hèn giá
Ngọn
kiêu trơ
Rụng
cuống lá chót
Ngã
trên đất mủn rời
Khi
chỏm núi cao tạc tượng ác
Giấu
mặt mây đùn
Mặt
lở lói phế khuyết phô cổ đại
Rừng
trăn trở lao xao
Mùa
cay nghiệt
Chim
nào sống sót
Ngậm
tiếng than sau cùng
Giọt
nắng hè rực máu
Đồng
lụt bão bải hoải mênh mông
Nước
cuốn tuyệt vọng
Con
thú nào buốt cóng vẫy vùng
Giữa
mắt chiêm bao thức
Em
trở lại, bắt buộc trở lại. Em vô vàn cô đơn ấp úng
Dù
mùa xơ xác tan hoang
Em
trở lại hãi hùng thất sắc
Lửa
chụm cành mục lìa
Cành
góp lượm
Nhánh
trụi gẫy
Khóc
mịt mờ nước mắt dàn dụa
Trong
mưa khép nép bình minh
Em
kêu: em trở lại em trở lại
Thấy
không lửa đơn sơ lung lay
Phụt
tắt
Lửa
xanh xao rồi xỉu ngất
Theo
gió bay bờ bãi tiêu sơ
Em
trở lại , bắt buộc trở lại. Em biết bao khốn đốn
Lập
cập ngoài lau lách tả tơi.
Em
trở lại run rẩy cùng cực
Những
lối mòn bối rối gió mê man
Nín
lặng tha ma nín lặng khắp
Nơi
xóm làng nơi phố phường
Nơi
trốn lũ
Nơi
mộ địa bằn bặt khóc
Em
kêu: em trở lại em trở lại
Thấy
không nổi dậy những hoa phô
Ánh
sáng khiếp đảm tươi
Nhắc
nhở nhắc nhở mãi
Mạch
ngầm ứa lệ lộc non nhú
Sinh
huyễn đời côn trùng
Bóng
trời tá hỏa trầm
Bóng
trời xanh hoảng hốt
Khúc
hát vang lừng xuân tự ải
Khi
sông gọi biển trời gọi mùa thầm thì anh gọi em
Giải
sông trắng lấp trời, biển vỗ ru huy hoắc em trở lại
Hãy
ẩn mình trong chấn động tàn rơi
Hôn
em. 12g15'
Công
bố ngày 20/02/2012
Khúc
cầm xanh
Đà
Lạt, 27.10.1972
Đảo
xa,
Trong
cuốn băng có một mặt của Bach và một mặt của Beetho. 5 khúc
của Bach anh chọn cho em nghe đều là 5 khúc anh thích
và thường nghe vào sáng sớm hoặc lúc chiều bỗng
rực hiu quạnh. Khúc dạo mở đầu tưng bừng. Khúc đàn dây
du dương ngọt ngào (khúc này trích trong suite
số 3 của Bach - đoạn 2) dàn nhạc do Pablo Casals hướng dẫn. Tên
Pablo Casals có nhắc nhở em nhớ gì không? Espagnol,
tay đàn đại hồ cầm nhất thế giới vừa ăn mừng sinh nhật thứ 90 năm
ngoái năm kia gì đó. Tất cả các tay kéo
đại hồ cầm trên thế giới đã kéo nhau đến tụ họp, mừng
tuổi cụ, mỗi người mang theo cây đàn của mình và
hòa tấu cùng với cụ. Pablo này cũng vĩ đại như Pablo
Picasso bên hội họa. Hai Pablo năm 7, 80 tuổi đều còn nồng
nàn và đều lấy vợ, vợ khoảng 20 tuổi. Một người vẫn còn
kéo đàn và một người vẫn còn vẽ. Anh có
được nghe một bộ đĩa quý gồm những tác phẩm của Bach do Casals
tình cờ lục kiếm thấy, một mình Pablo đàn và
thỉnh thoảng nghe nổi giọng ngâm nga của Pablo theo tiếng đàn
của mình. Tuyệt. Em có thích tiếng đại hồ cầm không?
Anh mê. Đêm qua anh đã thu vào băng 7 biến khúc
cho Piano và đại hồ cầm của Beetho trên một thème của
Mozart nhưng lại phải xóa đi vì thiếu chỗ. Nếu em thích
lần sau anh mua cuốn băng 90 và sẽ thu cho em nghe những khúc
đại hồ cầm của Beeth. Anh cũng có một cuốn băng ru mình ngủ.
Pablo Casals độc tấu những điệu ru ngắn.
Khúc
thứ 3 - Sleepers awake - cũng như khúc trám sau Sonate
của Beetho - Jesus, Joy of Man's desiring - có tính cách
tôn giáo. Tuy nhiên nghe thoáng, bổng, mát
mẻ và trầm tĩnh nhường nào. Có phải không em?
Nhưng tuyệt nhất là khúc Toccata and Fugue. Anh nghe hoài
không chán những Fugue của Bach. Tuyệt đỉnh nghệ thuật của
Bach và cách viết Fugue (nghĩa là có bao nhiêu
giọng đều cùng trổi hết vẻ của mình, tưởng như ganh đua hỗn
độn mà hòa hợp tài tình) là cái
Bach mang đến cho âm nhạc. Nghe Fugue mới thấy tràn trề, yêu
đời, nồng nàn, cởi mở nghĩa là đúng như em nghĩ " hạnh
phúc túy lúy". Nhưng em nhớ, Bach mập lắm "túy
lúy" mà vẫn vững vàng oai vệ không hề "lảo
đảo" "hụt hơi" "chân nam đá chân xiêu" thảm hại
đâu. Em nghe kỹ xem.
Trước
khúc Toccata and Fugue, là Little Suite. Đúng là
little. Nhỏ nhẹ, dễ thương, gọn gàng, giản dị hết sức. Nhưng đâu
có kém đằm thắm. Bach thường viết ngay lập tức dễ dàng
những exercices để dậy con. Chắc đây cũng là bài Bach
viết buông bút, không chút cầu kỳ.
Chỉ
có thu đến Beeth là anh mệt. Đêm qua anh đã thức
đến 2 giờ sáng chỉ vì loay hoay chọn bài. Thu xong
xóa, rồi nằm nghe lại những bài định chọn, chừng mệt thiếp
anh trùm mền ngủ luôn khỏi giăng mùng. Sáng nay
ở Hội Quán về, thấm mệt, mắt mờ, nhưng cố thu cho xong. Khất hẹn
hoài lại bị riễu là ba đía. Mới đầu anh chỉ tính
thu toàn Bach cho em, nhưng cả hai mặt bande lại dư mỗi mặt vài
phút.........
..............................
Rồi
anh sẽ thu cho em Sonate à Kreutzer để em so sánh. Cũng vẫn
chỉ hai cây đàn, nhưng viết về sau này với đầy đủ đặc
tính của Beetho - kỹ thuật cũng như xúc cảm - Em có
đọc cái truyện ngắn của Tolstoi lấy nhan đề bài Sonate này
chưa? ( Anh thì chưa đọc vì anh vốn ghét Tolstoi)
Tối
qua thu nhạc, nghe no - kể từ bữa ốm dậy - trông cảnh cũng khác
thường. Trời mưa lây rây, chớp lóe thật nhiều. Khoảng
10 giờ xuống Hội Quán uống cà phê với Cường trở về,
cái áo khoác dầy em đã từng trùm, bám
ướt. Ho lụ khụ, uống thuốc như ông lão. Nửa đêm mưa dứt,
trăng xanh lè chiếu vào phòng. Thấm lạnh. Tưởng thế
nào sáng dậy cũng có chầu khặc khừ. Vậy mà 6
giờ sáng đã nhỏm dậy, nghe trước Khúc Mùa Xuân
rồi mới đi ăn sáng. Mệt, nhưng là cái mệt của người
đã khỏe.
Đà
Lạt, 30.10.1972
........................................................................................................
Sáng
nay trở dậy 05 giờ sáng. Vừa để nhạc thu vừa viết cho em đây.
Bây giờ là 7 giờ, đã có nắng. Đã thu xong
mặt gồm mấy cái Sonates cho cello và piano và đang
mở nghe lại. Còn mặt kia sẽ thu Sonate à Kreutzer. Chắc ngày
mai có thể đi gửi cho em cùng với thư này.
Cùng
với những ngày thu này, chắc là anh sẽ đầy rượu chát
và nhạc. Nghe Beeth no nê. Trưa chủ nhật ở phố về, mua kim
mới, anh cũng đã nằm nghe suốt buổi cho đến giờ hẹn với hai vợ chồng
người bạn. Sonate à Kreutzer khỏi nói em nghe cũng sẽ thấy
rõ cái chất của Beeth. Riêng mấy cái Sonates
cho cello và piano, anh đã chọn cho em mấy bản thủ thỉ dễ chịu.
Sonate Op. 69 vào cái thời Beeth còn chịu ảnh hưởng
của Haydn, Mozart, chưa phá. Sonate Op.102 số 1 đã thấy cái
mầm mống của những tác phẩm đặc Beeth sau này. Kế đó
là 7 biến khúc trên một thème của Mozart là
sự hòa hợp thú vị. Em biết Mozart là một tâm
hồn nghệ sĩ thuần trời cho, bay bổng tự nhiên không hề có
chút vướng mắc, nghe Mozart chẳng hề thấy bợn chút bụi trần.
Chỉ vào khoảng cuối đời, ở mấy cái symphonies 39-40-41 của
ông mới thấy tỏ lộ tính bi thảm của trần thế. Beeth là
một tâm hồn đối cực, lãng mạn hùng vĩ, đó là
con phượng hoàng bị tên ghim đầy mình vẫn bay vút
được đến chín tầng trời tung tiếng kêu thảm thiết bồi hồi xuống
nhân thế. Mozart chính thống trữ tình, Beeth chính
thống lãng mạn. Beeth khép mình vào cung bậc
của Mozart, đẩy sự tung tăng vô tư của người trước vào những
lối nồng nàn hệ lụy. Rồi anh sẽ thu tiếp cho em nghe thêm 12
biến khúc khác cũng trên một thème khác
và những biến khúc trên một thème của Haydn.
Em hãy lắng nghe tiếng cello- trầm, nặng, đầy nam tính. Em
hãy nghe lúc vào khuya, lúc hiu quạnh nhất. Em
nghe và cam đoan em không phải thở đâu. Em sẽ thiếp đi
trong bàng hoàng, trong heo hút. Em sẽ nghe như anh
đã nghe trong những đêm lồng lộng của anh đây.
Anh
cũng gửi theo cho em bài Tạp ghi thứ 2. Bài thứ 1 anh không
có. Từ ngày ấy anh cũng chẳng viết thêm bài nào
nữa. Tửng tửng hoài anh cũng đã chán. Anh sẽ nghiêm
trang hơn. Để viết quyển truyện tình của anh - không cứ bị
em chê hoài, kỳ quá. Nghe em đọc bài của H.P.A
xong chê anh bậy, bậy, anh lại thấy thích mới chết. Bởi chính
anh đọc bài ấy cũng thấy ngộp.Thường anh chẳng hề chú trọng
coi xem người ta nghĩ gì về mình, phê bình gì
về mình, bởi mỗi lần ngó thấy anh đều thấy như mình
bị đóng đinh. Anh đã là như thế nhưng anh còn
có thể khác chứ. Sao cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên
anh chẳng bao giờ xúc động lâu về những điều đàm tiếu,
thị phi hết. Em đọc bài Tạp ghi chắc thấy rõ khởi từ đâu
anh viết nó. Phải không?
Thôi
bắt đầu chóng mặt. Ngừng đây. Viết cho anh như anh đang viết
cho em.
Công
bố ngày 07/02/2012
Hải đảo
Trên
biển mù sóng cuộn
Ngày
lộng tuôn như máu loang khô
Sóng
thảng thốt dập vùi hải đảo
Cửa
ngàn trùng gió mở toang
Nâng
niu máu rỉ cườm tay nhỏ
Thời
khắc câm tiếng nỉ non
Hải
đảo xa vời em
Trên
miền non cao rừng rú
Gió
gào giận khốn tù
Trong
cõi mộng hung tàn
Một
mùa đông dài bão táp
Đêm
qua ác điểu đậu cành khuya
Thả
rớt trái tim ác độc
Trong
một tiếng tang thương
Đêm
qua gió cắp mộng lên non trốn chạy
Rồi
gió hú van
Trong
hành lang tối ám giờ lâm tử
Hải
đảo xa vời em
Trời
chuyển màu chớp xé
Cánh
chim bay cánh chim bay
Vào
mùa hư không trôi nổi
Khi
bóng đảo chìm
Tâm
Vang
vang bài thơ trăng
30.09.1972
Mon
ile,
Đã
hết tháng chín. Thêm bài "Ngôi nhà
đỏ" nữa. Thế có lãng mạn quá không? Bài
thơ thứ ba, thứ tư nếu kể cả bài Đảo. Hình như còn nữa.
Giống như họa sĩ đứng trước ngôi nhà vẽ vài chục bức,
với màu sắc ánh sáng bố cục thay đổi. Giống như nhạc
sĩ có một cái "thème" và nhiều "variations".
Chưa bao giờ anh nghe mình du dương lạ thế. Anh nghe vang hoài
"ngôi nhà đỏ trăng hồng..." và anh chỉ việc thêm
vào chữ chót rồi theo rõi cả ngày, cả tuần những
lúc quạnh hiu. Đã có trăng hồng hạ, trăng hồng lạ, trăng
hồng lả... Còn những trăng hồng gì nữa anh sẽ thấy. Có
thể anh viết hết cả xấp giấy này cho những bài trăng hồng
chưa chừng. Ráng mà đọc nghe.
26.10.1972
Ngôi
nhà đỏ đồi trăng hồng vằng vặc
Cửa
xanh xao. Xoãi ngủ mái nâu.
Cây
biếc lục. Trời tím than. Núi sững.
Phố
bật vàng tuôn chảy dưới triền sâu.
Hạ
đen mướt long lanh đôi mắt sắc
Cơn
sốt ngày. Nắng trải thảm ham mê
Đẩy
tung cửa nhốt thời gian ủ dột
Gió
miên man lùa rạng rỡ đêm hè.
Chàng
thở vội hương bay trên đầu dốc,
Ngực
cồn cào. Trống hụt những âm quên
Bực
đá gọi - tinh sương mùa thảo mộc
Gọi
trắng trong. Lãng đãng. Chuông rền
Trên
lối tưởng, đứng ngây. Mắt ứa lệ
Đêm
xưa, trời si dại, biệt tăm.
Tường
giãi im. Nàng ngửa đầu, chợp mộng.
Thềm
hoang đầy. Xanh miết miết trăng.
Chốt
lỏng gẫy. Cửa ngỏ không. Mờ hoặc
Chàng
là ai? Ghế mộc quỵ rời chân.
Trăng
dọi lối quanh co. Ngách lắng tiếng.
Chàng
là ai? Chim kêu lạc. Tần ngần.
Nàng
hớt hải ngoài vườn. Ngày huyễn ảo.
Thu
lượm cành. Đốt lửa. Xốn xang trăng.
Nhà
lảo đảo trên vòng xoay đám hội.
Gió
khắp đồi. Lửa rực sáng như băng.
Mấy
bài thơ về ngôi nhà này chừng đăng anh sẽ đề là
"Biến điệu quanh một bài thơ cổ" Anh nhớ bài thơ của Thôi
Hộ:
Tích
niên kim nhật thử môn trung
Phấn
diện đào hoa tương ánh hồng
Phấn
diện kim niên hà xứ khứ
Đào
hoa y cựu tiếu đông phong.
Và
anh sẽ đề tặng vợ chồng Nguyễn Tuấn Kiệt - vì chính họ mới
là chủ nhân của ngôi nhà đỏ.
Quyển
tiểu thuyết sẽ viết trong quá khứ
25.10.1972
Đảo
xa,
............................................................
Anh
vẫn chưa viết một chữ nào. Cái máy chữ đặt trên
chiếc bàn con ngay kế sau lưng bám bụi, cùng với cái
cassette còn lắp cuốn băng Vivaldi nghe từ hôm bị đụng đầu.
Hơn tháng không nghe nhạc, tại mải nghe những lóc cóc
trong đầu mình, nghe những cơn gió lửa và tuyết thổi
qua thân mình. Thật là tơi tả.
Anh
chưa biết là quyển tiểu thuyết sẽ viết ở ngôi thứ mấy. Cũng
chưa biết gọi nó là cái gì. Có hai cái
tên có thể tạm dùng được thì bị hư rồi. "Ung
thư" thì đã viết đăng tùm lum, đã đưa cho nxb
An Tiêm lấy tiền tiêu mà vẫn chưa chịu cho in. Bây
giờ mà đặt tên ấy nhất định là ông sư Thanh Tuệ
sẽ đòi in và mình chẳng có đồng xu bản quyền
nào nữa. Tên thứ hai là "Nỗi chết không rời" -
hồi đi Thủ Đức trích đăng ở Bách Khoa đã dùng
- sau bị ông Trần Phong Giao lấy xài ngang xương cho một tập
truyện của 2 anh em ông Duy Lam mất. Bí ngay từ cái
tên. Nhưng thôi cứ gác đó chưa vội gì.
Truyện
anh định viết là một truyện tình. Truyện tình của hai
kẻ không chỉ sống riêng với nhau trong một thế giới. Họ đều
là những kẻ chịu chằng chịt những ràng buộc với xung quanh
và mối tình chẳng bao giờ là của riêng họ. Họ
sống với nhiều người, sống với hư tưởng bao trùm cả một đời. Và
tình yêu sẽ như thế nào trong hoàn cảnh ấy? Anh
đang chiêm nghiệm. Câu truyện tình của anh mang đầy những
tham vọng. Nó sẽ cho người ta thấy những con người, một xã
hội và một lịch sử nào đó. Tấn thảm kịch của hai người
cũng là tấn thảm kịch của VN mấy chục năm trở lại đây.
Người
đàn ông lúc bấy giờ gần 40 tuổi, xuất thân từ
một gia đình "cách mạng". Ông bố là một cụ Cử,
theo tây học, tiêm nhiễm từ sớm xã hội chủ nghĩa. Con
cái nghỉ hè về làng là cụ bắt đi làm công
việc đồng áng. Cụ tổ chức ngôi làng - mà cụ là
kẻ có uy tín và thế lực- theo quan niệm xã hội.
Con của cụ mang tên Tô - Nga - Đại - Đồng. Cháu của cụ
mang tên Việt - Nam - Xích - Hóa. Trong những năm 1925
- 26 phong trào để tang cụ Tây Hồ, người anh cả trong gia đình
bị đuổi khỏi trường học, bị cấm thi, một buổi chiều đã cắt đứt mạch
máu ở cổ tay và chạy băng trên cánh đồng làng
cho đến khi kiệt sức. Nhân vật chính là kẻ đã
chạy theo anh ta trong buổi chiều ấy. Đó là cái background
của nhân vật. Đại khái là vậy. Từ năm 45 anh ta đứng
về phe QG và không tin tưởng chút nào - nhưng
anh ta vẫn hoạt động.
Còn
người đàn bà? Đó là một nhà văn. Một
nhà văn nữ giới cách đây vài chục năm, em hãy
tưởng tượng. Em có biết bà Thụy An không? Em đã
đọc bà ta bao giờ chưa? Hồi còn ở Hà Nội anh đã
trông thấy bà một vài lần trong thư viện. Đó
là nhân vật thứ hai. Họ đã yêu nhau từ ngày
xưa và bây giờ họ gặp lại nhau. Trong thành phố Hà
Nội, năm 54, những ngày sau Hiệp định Genève. Cuối một mùa
hè rực rỡ và một mùa thu hoang vắng.
Nhân
vật chính của anh là người đặt chất nổ phá sập Chùa
Một Cột vào một ngày thu. Và một buổi sáng lạ
lùng ấy, người ta tìm thấy hắn bị ám sát chết
trong một gian nhà hiu quạnh bên hồ nơi hắn và người
đàn bà đã sống những ngày hạnh phúc đầu
tiên trong đời của cả hai. Người đàn bà biệt tích.
Đại cương truyện là như vậy. Có vẻ như truyện trinh thám.
Trước khi Hà Nội được chuyển giao cũng đã xẩy ra vụ án
ly kỳ với hai nhân vật là bà Thụy An và ông
Đỗ Đình Đạo. Đỗ Đình Đạo bị giết chết. Đỗ Đình Đạo không
phải là nhân vật của anh. Anh chỉ giữ lại bà Thụy An
thôi.
Chính
yếu là anh sẽ cố sức giữ cho không lạc, mặc dầu những sức lôi
kéo và thu hút ở ngoài, là anh sẽ viết
một truyện tình. Mọi thứ khác chỉ là bầu không
khí. Anh sẽ cố sức viết quyển truyện tình này và
anh hy vọng nó sẽ soi sáng cho anh nhiều thứ lắm. Em có
nghĩ như thế không? Sẽ không hề có chút chi anh
và em nơi đó, nhưng rồi em sẽ nghe thấy đủ cái âm
vang của mùa hè và mùa thu mình đang
sống đây ở đó. Điều quan trọng là em sẽ nghe thấy, anh
sẽ phải làm sao cho em nghe thấy những điều anh không hở môi,
cũng như anh sẽ phải làm cho anh thấy rõ hình bóng
của em mà anh bắt gặp qua những bóng vang ở ngoài.
Đầy tham vọng phải không? Anh hứa anh sẽ không làm biếng
và lần này sẽ không bỏ cuộc như từ trước anh vẫn ưa
bỏ cuộc. Anh bằng lòng làm nhà văn thực sự mà.
Bởi anh có làm được gì khác nữa đâu, phải
không?
Có
lẽ về đến Sài Gòn anh sẽ bắt đầu làm việc. Những ngày
còn ở Đà Lạt, anh vẫn cứ tiếp tục lững thững rõi theo
cái thời tiết khó kiếm lại và chắc còn lâu
mới mong thấy. Và anh sẽ vẫn tiếp tục làm thơ cho em coi. Bình
tĩnh như chẳng có gì đáng kể, mà cứ kể hoài.
Phải không em?
Những
bài thơ chưa bao giờ phổ biến,
lần
đầu tiên được công bố trên "Mượn Dấu Thời Gian"
Công
bố ngày 30/01/2012
Thơ
làm trên xe taxi
Trên
taxi trở lại Sài Gòn một mình, anh làm được mấy
bài thơ sau:
Bài
thơ dài nhất đời
Lời
nói rụng không cùng
Căn
cớ chi chàng nói mãi?
Liên
hoàn
Chàng
đắm trong một vài phút giây
Mơ
màng đời khánh kiệt.
Tiếp
tục
Em
thấy em thấy
Nỗi
thẳm hiện phô phang.
Tái
tục
Trời
đất nào chứng giám
Khi
ta hoảng kinh phá đám đời ta.
Hậu
Kìa
tóc cỏ phơi mưa
Rì
rào hát lời tận số.
28.09.1973
Công
bố ngày 08/01/2012
Thơ
Tình
Je voudrais que mon amour
meure
et qu'il pleuve sur le cimetière
et les ruelles où je
vais
pleurant celle qui crut m'aimer
Mourning the first and the
last to love me.
S.Beckett
I.
Gọi em dậy
Gọi
em dậy trời mờ trên đồi
Hớt
hải mai xa ngựa nẹt đuôi
Lông
bờm mướt, da căng, gõ móng mặt đất nhớ
Mai
còn trăng, úa lững thững tuần trăng.
Trở
về, trở về trên dấu cỏ sương
Gọi
em dậy hoang mang mưa nhỏ
Rã
rượi mai phố xám tường cổ thành
Hào
rêu bèo, cầu đá, tường long lở
Mai
ngu ngơ trăng soi giữa đầm trời
Trở
về, trở về theo luống heo may
Gọi
em dậy ngày còn lạ sảng
Bay
trong vườn hơi hướng đêm thu
Rừng
mắc cở mắt nghiêng tóc lả tả
Mai
tinh mơ chết lửng tay hờn.
Trở
về, trở về trả lốt tịch dương
Gọi
em dậy Gọi em dậy
Nhìn
tuốt chiêm bao cười cợt gió
Đỉnh
núi ngất xanh khắc tình sầu
II.
Chiều lặng thinh ngoài
Chiều
lặng thinh ngoài, chiều thân thiết
Chiều
chưa bao giờ
Như
nụ hôn ủ
Của
thinh không chết điếng
Cây
khờ trong gió chao
Tình
một đóa thắm
Bỗng
một mùa giông
trong
đêm hè khánh kiệt
Náu
mình bên ghềnh đá
Nghe
tiếng thác nhòa
hát
Vi
vu khúc mùa đông
Khiếp
đảm đời kiếp kiếp
Đợi
gió thổi tan chiều
Và
nỗi thờ ơ bảng lảng
Pourquoi survivre poètes
décus
Que chaque verbe conduit au suicide?
A.Bosquet
III.
Thổi biệt mù tới
Thổi
biệt mù tới
Thổi
ta đi.
Chim
kêu líu lo
Trong
bão táp
chẳng
nín.
Thổi
lặng ngắt xứ xôn xao
Thổi
tan vỡ
Hạnh
phúc những chùm lá reo
Đá
mê thiếp
Miếng
hôn đau bằn bặt
Thổi
mờ mặt mũi ta
Lênh
đênh thể dạng.
Đồi
tở mở ngây
Đêm
cồn cào
Lũng
dâng tàn lửa
Thổi
vang huyên náo
Thổi
trống dư thừa
Đốm
sao nhào biệt
Cõi
trời góa
trên
giải sông trầm
Thổi
em đến ta
Thổi
ta mất tích.
IV.
Chúng
ta đứng hong phơi. Mưa dìu dặt. Gió xô vỗ sau lưng, lao
đao dưới vực.
Đứng
mê man như cây ẩm, lá sũng trong tối.
Thành
phố nào đã xa rời ? Bật sáng đèn đóm trong
khuôn các cửa nhà.
Thành
phố nào đó ? Đâu bóng chúng ta ? Chập chùng
đáy lũng lượn lờ triền đồi.
Thành
phố không dưng kể lể. Có nghe ? Có nghe nỗi niềm cao
thấp chênh vênh ?
Có
nghe biền biệt giữa trời nổi gió ?
Chúng
ta. Này vẫn chúng ta. Từ bao lâu ? Còn chúng
ta ư ? Như thể mọi mảnh gió cuốn. Như thể tẩn liệm trong băng, kết
khối. Chàng như tượng đá trồng sườn non. Giống nàng
cô phụ. Nàng cười rộn theo mưa rũ tóc.
C'est
formidable, c'est ridicule, c'est merveilleux, c'est toi ...
Mưa
thêm cũ kỹ. Chúng ta cũng cũ kỹ và huyền hoặc. Thành
phố lập lòe rền chấn động. Những luồng sóng truyền nứt rạn
ôm kín. Ruột đá nát. Chàng thấy biển nhấp
nhô hèn mọn. Một mùa mưa cổ kính phiêu bạt
theo đêm thu muộn ru chàng.
Mộng
lẩn vào rừng. Mưa bay tìm lối. Lối nào đâu ? Lối
nào đâu ?
Trong
giấc ngủ đầy của sự thể, gió động miền hoang dã. Mộng đâu
? Mộng đâu ? Gió gọi. Mưa lay. Gọi đứa trẻ lưu lạc giữa chiều
nắng quái ngoài đồng, đứa trẻ bó gối buổi mai bên
bờ nhìn hồ sương phủ, đứa trẻ lang thang theo con chó đói
ghẻ lở vừa đi vừa liếm vết thương trưa nắng trên hè thành
phố. Thành phố xụp đổ.
Gọi
đứa trẻ hãi hùng tuôn chạy xa tiếng gọi.
Mưa
còn đó không ? Mưa dìu dặt. Biển sóng
nguôi ngoai ôm thành phố lặn chìm. Chàng
đã hư hao và rộn rã. Còn nàng ? Nàng
vẫn cười như mưa thấp thoáng. Nàng vui vầy như mưa và
cỏ rối và đêm và trống trải. Phải chăng ?
Nàng
bật khóc như mưa.
Tháng 8.72
Tâm
Công
bố ngày 22/12/2011
Nằm
Võng Những Ngày Cuối Năm
Mắc
võng ngang hai đầu sinh tử
Dưới
trời sương bẩn, lớp mưa thưa.
Cây
yên khuất thần sầu quỷ khốc
Nắng
cạn niềm bải hoải sau xưa
Ngày
choáng váng nôn nao tịch diệt
Năm
hồi sinh chóng mặt im trơ
Đong
đưa sóng thảm chiều im lặng.
Cùng
kiệt trôi rực rỡ bóng thừa.
Mắc
võng bên bìa rừng thâm hiểm
Quạnh
trăm năm, trời đất xanh xao
Chim
bay mỏi, chông chênh sa lạc
Đồng
bãi nghiêng, bằn bặt âm hao.
Lá
phủ rợp, nồng ngây thảo dã
Tình
ơi tình, say mứa chiêm bao
Bổng
chìm heo hút quanh vòm bẫy
Cây
gọi cây, lạnh ngất lửa sao.
Mắc
võng trên đỉnh khuya mờ gió,
Trời
tuôn bay, thấp thỏm đáy sâu.
Đá
quặn ruột, đá hờn kết tụ.
Cỏ
buông hơi, cỏ kén thâm u.
Rễ
níu sững sờ tim cổ đại
Mỏm
khờ hai hớp giấc thiên thu
Thơ
ơi thơ rũ cuồng cơn chết
Lồng
lộng non xa thở tuyệt mù.
Mắc
võng ngang biển gào vô lối
Ào
ào cô quạnh ngõ môn sinh.
Đất
lênh đênh, sóng tàn hơi đuổi
Thốt
tiếng không, đảo dạt lặn chìm
Tình
đắm hoang mang, lời huyễn dụ
Đêm
chưa đêm, vật vã sơ sinh.
Bọt
lả tả, ngày còn biến mặt
Trời
tinh khôi, trắng xóa nhịp kinh.
Mắc
võng trong vườn hoang kiếp phế
Nghe
em về, hấp tấp mê hoan.
Đón
cửa nẻo, lưới giăng bắt mộng.
Lá
xum xuê, xô rạt bàng hoàng
Buổi
khốn lụy đưa chân thảng thốt
Thưở
xa vọng hiện bước canh tàn.
Đừng
khóc. Võng đu ngoài cõi biếc
Chợt
đứt rơi, thoảng tiếng gẫy ròn.
6/2/73
pnfoto
Tắm Giếng Đêm Trăng
Trời
còn đêm nay còn mãi mãi
Sao
như lệ ướt không muốn rơi.
Hồn
đuối trăng nghiêng trăng bờ bãi,
Thả
đắm dung nhan giữa giếng khơi.
Cười
vắng riêng mình, tuôn nước dội.
Thân
nhẹ mênh mông rực sáng ngời.
Tản
thần em mọc túa hắt hủi,
Xõa
tóc làm ma cợt ghẹo người.
04/10/1972
Attenzione
*
Trong
trời gió xô mây chạy hoảng
Rừng
thông cao như đám ngựa quần.
Ngựa
bị buộc cơn giông khô tối
Hí
vang rần sóng lớp bạt ngàn
Trăng
nhỏ thó nhấp nhô huyễn hoặc
Chạy
theo mây thở dốc khốn cùng
Hơi
giá ướt đẩy chân bấn loạn
Ngựa
lạc bầy đốc chứng hớp trăng
Hú
dùm ta còi dài thảm thiết
Mối
bi thương nhốn nháo cười hoài
Hú
dùm ta gọi nàng lồng lộng
Kìa
hố riêng nhào tới té lăn
Tâm
*
Tác giả có vẻ như đã viết nhanh bài thơ này
trên một mảnh giấy ghi vài lời
" lưu
ý " của một hãng thuộc da Italie.
|