nqt
 
I
(old)
1 2 3 4 5 6 7 8 9
10 11 12 14 15 16
17 18 19 20 21 22
23 24 25 26 27 28
29 30 31 32


Nguyễn Quốc Trụ

Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  1  2  3  4  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]


Looking on a Russian Photograph, 1928/1995
Chân Dung Nga

  James Joyce: Eveline
Liu Xiaobo Elegies
Nobel văn chương 2012

Anh Môn

Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz

IN MEMORIAM W. G. SEBALD
Tuyệt tác thế giới
2015 Nobel prize in literature
http://tapchivanhoc.org


Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày/Sách & Báo Mới
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1
Last Page


Happy New Year

 *

26.1.2017 @ Vientiane
Cu An Cúng Tết

*

 2016 @ Vientiane

Quoc Tru Nguyen shared a memory.
Just now ·

2 Years Ago
See Your Memories

Quoc Tru Nguyen
January 27, 2015 ·

Anh Cu An & Ông Nội

Image may contain: 2 people


   SIGNS 

for Susana Bombal 

Around 19I5, in Geneva, I saw on the terrace of a museum a tall bell with Chinese characters. In 1976 I write these lines: 

Undeciphered and alone, I know
in the vague night I can be a bronze
prayer or a saying in which is encoded
the flavor of a life or of an evening
or Chuang Tzu's dream, which you know already,
or an insignificant date or a parable
or a great emperor, now a few syllables,
or the universe or your secret name
or that enigma you investigated in vain
for so long a time through all your days.
I can be anything. Leave me in the dark.
-S.K. 

Xin xâm

Khoảng 1915, ở Geneva, trên terrace của 1 viện bảo tàng tớ nhìn thấy 1 cái chuông cao, với những hàng chữ Tầu.
Vào năm 1976, tớ bèn làm những dòng sau đây:

Đếch làm sao đọc được, và trơ cu lơ một mình,
Tớ
biết
Trong đêm mơ hồ
Tớ có thể là cái người cầu nguyện bằng đồng
Hay lá
sâm, khắc trong nó
Mùi đời
Hay mùi buổi chiều
Hay giấc mộng Trang Chu
Mà mi hẳn biết,
Hay một ngày tháng vô nghĩa
Hay ngụ ngôn, thần chú cái con mẹ gì đó
Hay vị đại hoà
ng đế,
Bây giờ
chỉ là dúm chữ
Hay vũ trụ
Hay tên bí mật của mi
Hay b
í ẩn mi tra cứu vô ích
Trong thời gian dài, qua tất cả những ngày của mi
Tớ có thể là bất cứ cái gì
Thôi, hã
y xéo, kệ cha tớ trong đêm tối thui.

Jorge Luis Borges: “Susana Bombal”
April 5, 2015    · by Paul Weinfield    · in Spanish. ·

https://paulweinfieldtranslations.wordpress.com/2015/04/05/jorge-luis-borges-susana-bombal/

Susana Bombal

Tall in the evening, exalted and proud,
she crosses her chaste garden and suddenly
is caught in the light of an irreversible moment
that gives to us this garden and this image,
silent and profound.  I see her here and now,
but at the same time, I see her in the antique
twilight of an ancient Babylonian town
or slowly descending the shallow steps
of a temple now reduced to the infinite dust
of a planet once built of stone and pride
or deciphering the magical alphabets
of stars lying deep in distant latitudes
or breathing the scent of an English rose.
Wherever there is music, she is too,
in the soft blue of the sky, in Grecian verses,
in the solitudes of we who seek her,
in the mirror of water that flows from the fountain,
in the marble of time, in a sharpened sword,
in the serenity of an open terrace
that looks upon the gardens and the sunsets.
And behind all the myths and masks:
her soul, which is always alone.
Jorge Luis Borges

Translated from Spanish by Paul Weinfield, © 2015

*

New Year Tet Saigon 1967 - Chợ Hoa Tết đường Nguyễn Huệ
Đúng 50 năm trước đây: 1967-2017
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/32473236416/

*

http://www.nybooks.com/articles/2000/01/20/1-jan-65/

NYRB Jan, 2000

Bài thơ này, được viết khi Brodsky bị lưu đầy nội xứ, ở 1 nông trại ở phiá Bắc nước Nga.
Ở Nga, lễ mừng năm mới được coi như lễ mừng Giáng Sinh.
Bản dịch tiếng Anh, của chính tác giả, được kiếm thấy trong những giấy tờ của ông
.

Ngày 1 Tháng Giêng, 1965

Những Vì Vua sẽ đánh mất những địa chỉ cũ của mi
Không một vì sao sẽ sáng lên nhằm tạo ấn tượng.
Tai của mi bèn chịu thua
Tiếng hú gào nhức nhối của những trận bão.
Cái bóng của mi
Bèn rụng rời, bye bye, cái lưng của mi
Mi bèn tắt đèn cầy, và bèn đụng cái bao tải
Bởi là vì mi còn phải bóc lịch dài dài,
Ở cái nông trường cải tạo Đỗ Hoà, Nhà Bè này
Bao nhiêu đèn cày cho đủ,
Cho những cuộc….  đốt đuốc chơi đêm?

Cái gì, cái này?
Nỗi buồn ư?
Nhớ Xề Gòn ư?
Nhớ mấy đứa nhỏ ư?
Đúng rồi, có lẽ nó, đấy,
Một khúc nhạc sến sẽ chẳng bao giờ ngưng

Cái gì gì,
Ngọn đèn đêm đứng im, “cuối” đầu!

Lũ Ngụy gần như thuộc nằm lòng, những khúc trầm bổng
Cầu cho nó được chơi rất đúng tông, cùng với những điều sắp tới
Với góc khuất của một ai đó
Bằng sự biết ơn, của mắt và của môi
Về những gì cho chúng biết,
Làm sao xoay sở
Về 1 điều xa xưa
Những ngày tháng cũ.

Và bèn ngước mắt nhìn lên, nơi không một đám mây trôi giạt
Bởi là vì mi cạn láng đời rồi, Gấu ơi là Gấu ơi.
Mi sẽ hiểu, tiện tặn nghĩa là gì:
Nó hợp với tuổi của mi.
Không phải 1 sự coi thường.
Quá trễ rồi, cho đột phá
Dành cho những phép lạ
Dành cho Ông Già Noel và bầy đoàn thê tử của Xừ Lủy

Và bất thình lình mi hiểu ra được
Mi, chính mi, là Phép Lạ
Hay, khiêm tốn hơn,
Một món quà triệt để, dứt khoát.

Note:

GCC viết "Những ngày ở Sài Gòn", sau khi thoát chết, mìn VC,
ở Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, 26-06-1965

Những ngày ở Sài Gòn (1965)

Tôi chờ đợi khi ra khỏi nhà thương, khi đứng ở trước cổng nhà thương Grall nhìn ra ngoài đời và  khi đó chiến tranh đã hết. 

Chợ Hoa Nguyễn Huệ 2017

*

VIETNAM - OCTOBER 10: A young dancer in traditional dress appears pensive in this portrait, Hue, Vietnam (Photo by Wilbur E. Garrett/National Geographic/Getty Images)
 “Her face as radiant as the moon…. Clouds lost their loveliness beside her hair…. Flowers envied her brilliance, willows coveted her grace…. Beside her, of what value were empires and citadels?” Such a fair Vietnamese as this dancer from Hue may well have inspired these extravagant lines by the poet Nguyen Du (1765-1820). - NATIONAL GEOGRAPHIC Magazine October 1961

https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/32125186340/

thượng thọ 02/2017

Today at 9:54 PM

năm mới kính chúc cô chú cùng qia quyến an khang và như ý

kính.

những dẫn nhập không số
mưa tháng giêng. giọt buồn. giọt lạnh. mùa đông năm nay khí hậu bất thường. buốt lạnh hơn. và mưa nhiều hơn tuyết. mưa tháng giêng nơi này rất ít. vậy mà mưa. rồi đông đá. cho những chiếc xe trượt dài. đổ vương vãi những nghĩ suy mông lung.
bắt đầu một năm mới. có mới? bắt đầu một cuốn lịch. còn muốn lật? đó là những sản phẩn của con người. thời gian thì luôn cần một cái mốc cố định. cái mốc tôi chuyển động. theo những chiều vô định. tất cả đều di động. thời gian? tôi không có.
đầu một năm mới kính chúc ông cùng gia quyến thật bằng an và như ý
- thời gian theo ông nó đi qua ông hay ông đi qua nó?
- “thần sầu” chữ của ông. chỉ có những người đọc tinh. có những vốn liếng cần thiết. có những liên hệ thời gian không gian về một ký ức khó quên. sẽ nhận ra được một đoạn. một câu. văn hoặc thơ “thần sầu”. “thần sầu” cuả ông có phải vậy? nếu phải. thì là “thần sầu” người đọc hay “thần sầu” người viết? hay là cả hai?
- những đoản văn của ông. ngọt bùi trộn lẫn. kéo người đọc tới lui. hay hướng họ tới một cái nhìn khác. ông có nghĩ ông thành công trong cái viết như vậy?
- ông nhìn vào phía trong nhiều quá. theo nhận xét của tôi. còn cái đẹp ngoài ông để đâu? hay đó là cái chung của những người ở vào cái tuổi của ông?
- “bonus” cái ông thường nhắc trong những lúc sau này. muốn hỏi ông rằng.cái được thêm hay cái bị thêm? viết chỉ để viết? hay viết để chỉ ra những điều cần được viết?
và lại một năm mới ông nhỉ.

mưa. tháng giêng
 
mưa. tháng giêng
giọt. lạnh
những. con đường trắng. hếu
mùa xuân. về trên xa lộ
sau một tuần. công việc. chóng mặt
cái quạt nước. xoa
xoa mờ. hiện tại
tháng giêng. không. cỏ non
vàng. úa rơm. rạ
chạy. qua những cánh đồng. tít tắp
bài bình luận. về ngày. đăng quang
không rõ. có ai vừa. bóp kèn
tiếng. rỗng
giọt. mưa xuân. đính chặt vào. kiếng
lù mù. rơi. xa xăm
tháng giêng. mưa. ở đây. thật hiếm
nét. mưa nhòa.
chất ngất
mưa. tháng giêng
giọt. buồn
cùng. mùa xuân. lặng.rơi

Chúc DS và gia đình một cái Tết thật đầm ấm vui tươi hạnh phúc. Và xin cho gửi lời chúc Tết tới toàn thể mọi người trong Đại Gia Đình mà ngày nào, có GNV là 1 thành viên, đứa con nuôi, và hai đứa con ruột của Cụ.
Đó là quãng đời đẹp nhất của Gấu Nhà Văn.

Tks
Take Care

NQT

- thời gian theo ông nó đi qua ông hay ông đi qua nó?

Câu hỏi này, thật căng, thật lạ.
Ở đây chỉ đưa ra hai gợi ý.

Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky. 

Và, bài thơ sau đây.

Đây là bài thơ tôi viết trước khi chết, và được sống lại.

From LAST & LOST POEMS (1989)

This Is a Poem I Wrote at Night, before the Dawn

This is a poem I wrote before I died and was reborn:
- After the years of the apples ripening and the eagles soaring,
After the festival here the small flowers gleamed like the first stars,
And the horses cantered and romped away like the experience of
    skill; mastered and serene
Power, grasped and governed by reins, lightly held by knowing
    hands.

The horses had cantered away, far enough away
So that I saw the horses' heads farther and farther away
And saw that they had reached the black horizon on the dusk of day
And were or seemed black thunderheads, massy and ominous
    waves in the doomed sky:
And it was then, for the first time, then that I said as I must
    always say
All through living death of night:
It is always darkness before delight!
The long night is always the beginning of the vivid blossom of day.


*

LITERATURE

With his New Directions debut in 1938, Delmore Schwartz was hailed as a genius and among the most promising writers of his generation. Yet he died in relative obscurity, wracked by mental illness. Sadly, his literary legacy has been overtaken by the story of his tragic life.
    Among poets, Schwartz was a prototype for the confessional movement made famous by Robert Lowell and John Berryman. His stories and novellas about Jewish-American experience laid the groundwork for novels by Saul Bellow (whose Humboldt's Gift is based on Schwartz's life) and Philip Roth.
    This volume aims to restore Schwartz to his proper place in the canon and introduce new readers to the breadth of his achievement. Included are selected stories and poems, excerpts from Schwartz's epic poem Genesis (long unavailable) and his never-completed book on T. S. Eliot, letters, verse plays, and unpublished poems.

"Dazzling - a new kind of telling, with urgent bluntness of its own." -John Ashbery
"Delmore Schwartz catapults past the fickleness of mere reputation (that posture and position that Lionel Trilling defined as characterizing a 'figure') into something close to legend." -Cynthia Ozick
"What complicates and enriches Schwartz's comedy is a reaching out toward nobility, a shy aspiring spirituality, a moment or two of achieved purity of feeling." -Irving Howe
"I wanted to write. One line as good as yours. My mountain. My inspiration." -Lou Reed

Delmore Schwartz was born in Brooklyn and is one of America's greatest poets and short-story writers. Schwartz received the Bollingen Prize in 1959. After a difficult period, he died of a heart attack in 1966.
Craig Morgan Teicher is a poet and critic whose most recent book of poems is To Keep Love Blurry. John Ashbery has won nearly every major American award for poetry, including the Pulitzer Prize, the National Book Award, and a MacArthur "Genius Grant." His latest collection is Breezeway.


All Gone into the Dark

Where's the blind old street preacher led by a little boy
Who said the world will end next Thursday at noon?
Where's the woman who walked down Madison Avenue
In the summer crowd, stark naked and proud of herself?
Where's the poet Delmore Schwartz I once saw sitting
In Washington Square Park gesturing theatrically to himself?
Where's the young man in a wheelchair pushed by his mother
Who kept shouting about wanting to kill more Vietnamese? 
Mr Undertaker, sitting in a window of a coffee shop
Chewing on a buttered roll, you probably have a hunch-
Or are you, like the rest of us, equally in the dark
As you busy yourself around the newly arrived dead?


Rồi tất cả cũng đi vào đêm tối

Ông linh mục mù già đường phố được một đứa bé dẫn dắt,
người rao giảng tận thế sẽ tới vào bữa trưa Thứ Năm,
ông ta đâu rồi nhỉ?
Ðâu rồi, người đàn bà đi xuống phố Madison Avenue
Giữa đám đông mùa hè, hoàn toàn khoả thân, và rất tự hào về mình?
Ðâu rồi, thi sĩ Delmore Schwartz, có lần tôi nhìn thấy ngồi ở
Washington Square Park, múa may quay cuồng về mình?
Ðâu rồi, anh thanh niên ngồi xe lăn, được mẹ đẩy
Miệng la bai bải hãy giết VC, giết nữa, giết nữa!
Tay nhà hòm, ngồi ở cửa sổ 1 tiệm cà phê
Nhai chả giò, bạn có thể có linh cảm –
Hay cũng như tất cả lũ chúng tôi, cùng trong bóng tối,
Bạn đang tự mình làm rộn mình, về những người chết mới tới?

Charles Simic

LONDON REVIEW OF BOOKS 9 SEPTEMBER 2010

- thời gian theo ông nó đi qua ông hay ông đi qua nó?

Có thể “đọc” câu trên, qua ý của Brodsky, thơ là thời gian được sắp xếp lại, that any poem is reorganized time, cái thiên thu gặp cái hiện tại:

http://www.tanvien.net/Tho_Poetry/giot_mua_troi_khoc.html

Trong Borges Tám Bó, có 1 chương dành cho thời gian: Time Is the Essential Mystery, Thời gian thì huyền bí như là yếu tính của nó

*

University of Chicago,
March 1980
Time Is the Essential Mystery

I think that time is the one essential mystery. Other things may be mysterious. Space is unimportant. You can think of a spaceless universe, for example, a universe made of music .... The problem of time involves the problem of ego, for, after all, what is the ego? The ego is the past, the present, and also the anticipation of time to come, of the future.
Chính là trong chương này, Borges cho biết, bà cụ của ông, là người viết ra dòng chót của truyện ngắn "The Intruder", mà chính Borges phán, đây là truyện ngắn tuyệt vời nhất mà tôi đã từng viết ra, và GCC áp dụng nó vô xứ Mít, khi cố tìm 1 cái giải thích có tí mùi "đạo đức", cho Cái Ác Bắc Kít
:

Trong bài viết về Borges, Hổ trong gương, “Tigers in the mirror”, trên The New Yorker, sau in trong “Steiner at The New Yorker”, Steiner có nhắc tới 1 truyện ngắn của Borges, mới được dịch qua tiếng Anh, The Intruder. Truyện này hoành dương, illustrate, tư tưởng hiện tại của Borges. Tò mò, Gấu kiếm trong “thư khố” của Gấu, về ông, không có. Lên net, có, nhưng chỉ cho đọc, không làm sao chôm: “The Intruder”, câu chuyện hai anh em chia nhau, một phụ nữ trẻ. Một trong họ, giết cô gái để cho tình anh em lại được trọn vẹn. Vì chỉ có cách đó mà hai em mới cùng san sẻ một cam kết mới: “bổn phận quên nàng”. Borges coi nó như là 1 vi-nhét - bức họa nhỏ, dùng để trang trí - cho những những câu chuyện đầu tay của Kipling. “Kẻ lén vô nhà, The Intruder”, quả là 1 chuyện nhỏ, nhẹ, nhưng không 1 tì vết và cảm động một cách lạ thường. Lần đầu đọc, trên net, Gấu mơ hồ nghĩ đến BHD, tượng trưng cho thứ văn học của Gấu, hay rộng ra, của cả Miền Nam đúng hơn, được cả hai thằng, anh Bắc Kít và em Nam Kít, cùng mê, và 1 thằng đã "làm thịt em" để cả hai cùng có bổn phận, quên nàng:

Như thể, sau khi Gấu lang thang xứ người, lưu vong nơi Xứ Lạnh, một bữa trở về Xề Gòn, và thấy Những Ngày Ở Sài Gòn, nằm trên bàn!

"The Intruder," a very short story recently translated into English, illustrates Borges's present ideal. Two brothers share a young woman. One of them kills her so that their fraternity may again be whole. They now share a new bond: "the obligation to forget her."
Borges himself compares this vignette to Kipling's first tales. "The Intruder" is a slight thing, but flawless and strangely moving. It is as if Borges, after his rare voyage through languages, cultures, mythologies, had come home and found the Aleph in the next patio.

Borges: … I remember I wrote a story called "The Intruder." Two hoodlums, two brothers, kill a woman because they are jealous of each other. The one way they had to get rid of her was to knife her. I came to the last sentence. My mother was writing it down. She disliked the whole thing. She was sick and tired of hoodlums and knives. Then I came to a moment when the elder brother had to tell the younger brother that he had knifed the woman that morning. Or he had strangled her, I don't know-why go into the gory details? He had to say that, and I had to find the right words. Then I told my mother: "How on earth can he say that?" And she said: "Let me think." This was in the morning. Then, suddenly, in quite a different voice, she said: "I know what he said." Then I said: "Well, write it down." She wrote it down and I asked her to read it. She read it and those words were: "To work, brother, I killed her this morning." And she found the right words for me. The story ended. I added a sentence or so. Then she asked me not to write any more of those blood- and-thunder stories. She was sick and tired of them. But she gave me the words, and at that moment she became, in a sense, one of the characters in the story, and she believed in it. She said "I know what he said" as though the thing had actually occurred. She gave me the key word for that story called "The Intruder," perhaps the best story-or perhaps the one story I have ever written.

Vưỡn trong cái dòng thời gian làm gì mi vs mi làm gì thời gian

Gunnar Thorgilsson

(1816-1879)
The memory of time
Is full of swords and ships
And the dust of empires
And the rumble of hexameters
And the high horses of war
And shouts and Shakespeare.
I want to recall that kiss, the kiss
You bestowed on me in Iceland.
-H.R.

Ký ức thời gian
Thì đầy gươm giáo và tầu thuyền
Và bụi bặm đế quốc
Và tiếng ùng ục của những vần thơ lục bát
Và ngựa chiến
Và tiếng la hét và Shakespeare.
Tớ chỉ muốn nhớ nụ hôn
Mà em ban cho tớ
Lần ở nghĩa trang Bắc Việt (1)


(1)
Lần Cuối Sài Gòn

1965. Những ngày viết "Những ngày ở Sài-gòn". Thời gian xa cách làm những giọt nước chín mùi, biến thành những chữ. Cô bé đã lớn, đã bước vào những năm cuối cùng của bậc Trung Học. Đã có lần tham gia biểu tình, bãi khóa. Đã có người yêu đón đưa những lần tới lớp, những giờ tan trường. Đã bị bà Giám Hiệu ra thông báo cấm những trò có hại cho thanh danh nhà trường như vậy. Đã bãi học không phải để tham gia biểu tình, nhưng để đi chơi với người yêu. Lợi dụng thành phố đang trong cơn nhốn nháo, cả hai theo chiếc xe lên nghĩa trang Bắc Việt để thì thầm những lời yêu đương giữa những nấm mồ và lắng nghe những người đã chết kể về từng gốc cây ngọn cỏ.


http://www.openlettersmonthly.com/borges-and-you/

Borges và mi

The conceit of being a minor poet allows Borges “with pretended ease” to assume the identity of everyman. Some everyman. If we can, for the moment, forget the four ponderous volumes of the Collected Works, or the colossal erudition, or the mastery of seven or eight languages, or the Nobel Prize he should have won, Jorge Luis Borges truly was an everyman, inhabiting our identities as we inhabit his. “Oh destino de Borges, tal vez no más extraño que el tuyo”: “Oh destiny of Borges, perhaps no stranger than yours.”

Ôi số mệnh Borges, chắc cũng lạ hơn Gấu! Chính vì thèm [hách xì xằng]
là 1 nhà thơ làng nhàng, làm ông có cái căn cước của bất cứ 1 ai, của mọi người. Nếu bạn, có 1 lúc, quên  kho tàng đồ sộ là những tác phẩm của ông, hay cái Nobel mà đúng ra ông phải được, thì Borges thực sự là bất cứ 1 ai, bất cứ mọi người, an everyman, cư ngụ trong những căn cước của chúng ta như chúng ta cư ngụ trong căn cước của ông
Nhưng thèm 1 cú hôn, thì hẳn thú hơn nhiều, thay vì thèm, nhìn bướm của 1 em, hay bầu sữa của bà mẹ.

Nhưng, ngoài Bắc Kít ra, liệu có giống dân nào, thèm nhìn bướm của 1 em, trước khi từ giã cõi đời?

- “thần sầu” chữ của ông.

SN-GCC, 2015

*

Hộp thư Văn Học số 143, Tháng Ba 1998.
Tks. NQT
Vậy mà GCC cứ nghĩ, cái từ "thần sầu" là do GCC phịa ra để tự xoa đầu mình. Thần sầu chính trị văn chương!

Tưởng Niệm

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

Graveside Oration

Our late friend hated blue skies,
Bible-quoting preachers,
Politicians kissing babies,
Women who are all sweetness.
He liked drunks in church,
Nudists playing volleyball,
Stray dogs making friends
Birds singing of fair weather as they crap. 
Charles Simic

Điếu văn bên mồ 

Ông bạn mới mất của chúng ta ghét trời xanh
Mấy ông Thầy Chùa trích dẫn Kinh Phật
Những chính trị gia hôn con nít
[Và, tất nhiên, ghét con nít hát, đêm qua em mơ gặp Bác H !]
Ghét đờn bà ngọt như mía lùi 

Bạn tôi thích nhậu ở nơi Cửa Phật, như Lỗ Trí Thâm (1)
Thích mấy em trần truồng chơi bóng chuyền
Chó hoang kết bạn
Chim xoa đầu thời tiết, khi chúng đang ị.

Note: Mượn hoa hiến Phật, bài thơ trên, đọc trước mồ bạn ta mà chẳng tuyệt sao?
Từ ‘xoa đầu’ mắc [đắt] thật. Làm Gấu nhớ những lần được ‘xoa đầu’!

Hà, hà!

(1) Nguyên văn: Thích mấy tên say ở nhà thờ.

&

Anh còn nhớ hình ảnh này không?
Sàigòn 1972 tại quán Hương Xưa quận GòVấp.
Cả 1 quãng đời thê lương, (1), may nhờ NTK mà còn giữ được.
Tks. NQT

(1)

Bao năm Gấu cháy hoài, như ngọn đèn dầu lạc,
Vẫn giấu ở trong tim một bóng hồng 

Và nếu trái tim của ngọn lửa này, là bóng hồng chẳng hề bị trấn áp
Đêm đen mơ mòng giùm Gấu, giấc mơ bất biến 


Tribute to Dinh Cuong
Thơ Mỗi Ngày

http://vanviet.info/tho/tho-bei-dao/

PHONG CẢNH TRÊN TỌA ĐỘ SỐ KHÔNG


Đó là lúc con chim ưng dạy tiếng hót bơi qua (*)
Đó là tiếng ca đuổi theo làn gió xa xưa nhất
Chúng tôi trao đổi nhau mấy mẩu chuyện vui
Từ nhiều nơi khác nhau
Cùng vào gia đình
Đó là phụ thân đã xác nhận sự đen tối
Sự đen tối ấy dẫn tới ánh chớp kinh điển
Cánh cửa khóc than hốt nhiên đóng sập
Âm vọng đuổi theo tiếng kêu khóc
Đó là ngọn bút nở hoa trong tuyệt vọng
Bông hoa ấy chống lại cuộc hành trình không tránh khỏi
Đó là tia sáng tình yêu hồi tỉnh
Chiếu sáng cảnh quan trên tọa độ số không.
Thiếu
Khanh dịch

Cali 2012 With H/A 

ASIA LITERARY REVIEW
Winter 2010

Modern Chinese Poetry - Insistent Voices

Landscape Above Zero

It was the seagull that taught the song to swim
It was the song that found the first wind's source

We shared shards of happiness
Entering the home from different directions

It was father who recognized darkness
It was darkness that led us to sudden lightning

The weeping door slammed shut
And echo pursued its cries

It was the pen that bloomed in despair
It was the flower that refused the necessary journey

It was rays of love that awoke
Lighting the landscape above zero 

Bei Dao

Phong cảnh ở bên trên con số không

Đó là hải âu dậy bài ca bơi
Đó là bài ca tìm thấy nguồn gió

Chúng ta chia nhau những mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều hướng khác nhau

Đó là người cha nhận ra bóng tối
Đó là bóng tối dẫn chúng ta tới ánh sáng bất thần

Cánh cửa nức nở đóng sầm lại
Và tiếng vang đuổi theo tiếng khóc của nó

Đó là cây viết nở hoa trong chán chường
Đó là bông hoa từ chối một chuyến đi cần thiết

Đó là những tia tình yêu thức giấc
Soi sáng phong cảnh ở trên con số không

Note: Bài thơ này, có tới hai bản tiếng Mít, một của GCC, khi đọc Bei Dao trên tờ Điểm Văn Á, Asia Literary Review, mê quá [tại sao mê thì đừng bắt GCC phải tự thú!] Sau, gặp tập thơ của ông, bèn chơi liền, và được bạn Dã Viên dịch thẳng từ tiếng Tầu. Vị độc giả này, dân Huế, rất mê thơ. Rất giỏi tiếng Tầu. Trang TV như vậy là có thêm 1 vị hộ pháp!

Tks All. NQT

Bei Dao

Phong cảnh trên độ không

Là ó biển dạy tiếng hát bơi
Là tiếng hát lần về ngọn gió sơ ngộ 

Chúng ta đổi trao những miểng vụn hân hoan
Tiến vào nhà từ những phương trời khác biệt

Là người cha xác nhận bóng tối
Là bóng tối nối liền ánh chớp kinh điển 

Cánh cửa nức nở đóng sầm lại
Tiếng vang đuổi theo tiếng nó khóc gào      

Là bút trổ bông trong tuyệt vọng
Là hoa từ chối cuộc lữ tất nhiên 

Là tia sáng tình yêu choàng tỉnh
Chiếu sáng phong cảnh trên độ không.

Bei Dao

Dã Viên
dịch từ nguyên tác


http://tanvien.net/new_daily_poetry/Bei_Dao.html
Bei Dao
Kafka's Prague
Đảo

Kính mời bác đọc bản dịch bài thơ "Đảo" của Bắc Đảo (đọc song song với bài thơ "Biển" của bác thì hợp lắm)
Chúc bác vui nhiều.

Kính
DV

Đa tạ
HA/NQT

Đảo

Mi rong ruổi trong biển sương mù
không có buồm
mi ngưng nghỉ dưới đêm trăng
không có neo
đường từ nơi này mất hút
đêm từ nơi này mất hút

2

Không có ký hiệu
không có giới hạn rõ ràng
chỉ có vách đá dựng với bọt sóng nguyện cầu
lưu lại dấu vết tháng năm buồn thảm
và một chút oai nghiêm kỷ niệm cỏn con. 

Bầy trẻ đi về phía bờ cát,
dưới ánh trăng, con cá kình phía xa,
đang phún lên những cột nước cao vút.

3

Bầy hải âu đã tỉnh,
cánh nối liền cánh,
tiếng kêu nghe sao thê thiết,
làm kinh động từng phiến lá hoan hợp,
và trái tim lũ trẻ

Trong thế giới nhỏ bé này,
lẽ nào chỉ lay tỉnh những điều đau khổ? 

4

Đường chân trời đổ nghiêng,
chấp chới, lật ngược lại,
một con hải âu rớt xuống,
máu nóng uốn cong chiếc lá bồ to rộng.
cái màu sắc bao trùm của đêm,
đã che đậy cả tiếng súng nổ. 

-Đây là đất cấm,
đây là kết cục của tự do.
một chiếc bút lông chim đang cắm trên cát,
mang không khí ẩm ướt
nó thuộc về mạn thuyền chao đảo và gió mùa,
thuộc về bờ, thuộc về sợi mưa nghiêng,
mặt trời của hôm qua hoặc ngày mai.
nhưng giờ lại ở đây,
viết xuống điều bí mật được cái chết chứng thực. 

 5

Trên mỗi ngọn sóng,
lềnh bềnh một chiếc lông vũ lấp lánh. 

Lũ trẻ vun lên từng gò cát nhỏ
nước biển chảy vòng qua
như vườn hoa, đong đưa quạnh vắng
bức liễn ai điếu của ánh trăng trải về bên trời.

6

A, cây cọ,
chính sự im lặng của mi,
vung lên thanh kiếm của kẻ phản loạn.
lại một lần,
gió thổi tung mái tóc,
như thổi ngọn cờ tung bay đón gió.
biên giới cuối cùng,
mãi mãi ở trong trái tim lũ trẻ. 

7

Đêm, đón gió mà đứng
vì tai kiếp
vì hung thủ ẩn nấp
trải xuống tấm thảm mềm êm
bày sẵn từng hàng cốc vỏ sò.

8

Có bầu trời vô tội là đủ rồi
có bầu trời là đủ rồi. 

Nghe đây, đàn,
đang gọi về


*

Biển

Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.

Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất cả

Cát ở đây được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này

Số phận còn thua hạt cát.

Hàng cây trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...

Sách & Báo Mới

*

FOREWORD

by Paul Bailey

I
 
The Passport is the shortest and bleakest of Herta Muller's short, bleak books. The people who function in its densely compressed scenes are each of them scarred in some way. They are, essentially, victims - of war; of what we now call ethnic cleansing; and of the uniquely crazy form of totalitarianism that marked the years when the regime led by Nicolae Ceausescu was in power in Romania. They are known as Swabians and they belong to a German-speaking minority. The villagers are outcasts in the province of Ban at which they have known since birth and in which those who are unable to escape, for any number of unhappy reasons, will die. This novel is about many things, but at the core of the narrative is the story of a miller named Windisch who is set on taking his wife and daughter to a city in west Germany - Munich, or Stuttgart, perhaps - where a better life awaits them. He needs a passport in order to leave the country, and to attain it he must bribe the mayor with sacks of flour. The militiaman and the priest, two other powerful pillars of the benighted community, require something else from him before the precious little book can become his guarantee of freedom. They remind the desperate man that he has an attractive daughter, Amalie, who has it within her means to expedite the process satisfactorily. He understands all too clearly what the men are demanding.
    That's the plot, so to speak. A more conventional writer would have used it as a device to accommodate suspense of the page-turning variety, with a murder or two to excite the reader's interest. But Herta Muller's often elliptical prose works to a different purpose. She is determined to give voice to those who were rendered voiceless by the state. Romanians of Hungarian and German origin were made aware, in the aftermath of the Second World War and beyond, that they were less second-class citizens than unwanted visitors. The heady references to racial purity that informed Ceausescu's vainglorious addresses to parliament only exacerbated the division between the pure and the impure. The "pure", it has to be recorded, had a miserable time when Nicolae and his truly ghastly consort Elena were proclaiming themselves the Father and Mother of the radiant nation, but the "impure" had it much, much worse.
    If The Passport (the German title of which can be translated literally as "Man is a Large Pheasant in the World") often reads like a medieval morality or a dark fairy story resurrected by the Brothers Grimm, then that is again intentional on Muller's part. Her characters aren't involved in a recognizable bourgeois society, for all that a few of them have telephones and television sets. An owl hovering over the village is a harbinger of death, as it would have been in centuries past. The superstitions of a bygone age are afforded everyday significance. Women are whores or household drudges, or both, while the men earn the risible wages for their toil that were made even more risible under Communism. Nothing changes, because nothing is expected to change.

II

The Passport is a deeply political novel, but not overtly so. There is no "message", as such. Once, and only once, does the author make plain her loathing of the peculiar kind of Stalinesque communism that held sway in Romania during her adolescent years and beyond. Amalie is spouting the party line to her young charges in primary school, as a thousand other teachers were ordered to do in the 1970s and 80s:

Amalie points at the map. "This is our Fatherland,". she says. With her fingertip she searches for the black dots on the map. "These are the towns of our Fatherland," says Amalie. "The towns are the rooms of this big house, our country. Our fathers and mothers live in our houses. They are our parents. Every child has its parents. Just as the father in the house in which we live is our father, so Comrade Nicolae Ceausescu is the father of our country. And just as the mother in the house in which we live is our mother, so Comrade Elena Ceausescu is the mother of our country. Comrade Nicolae Ceausescu is the father of all the children. And, Comrade Elena Ceausescu is the mother of all the children. All the children love Comrade Nicolae and Comrade Elena, because they are their parents."

    Amen. Herta Muller is acknowledging here that her own satirical powers are as nothing when compared to the absurdities otherwise intelligent and responsible citizens were commanded, by law, to speak by rote. You couldn't make it up, as tabloid journalists are fond of observing. For the Romania that began to be history at Christmas 1989 was a made-up place, the lunatic creation of two deluded monsters and their craven, fawning followers. It was the distinguished Romanian essayist and novelist Norman Manea who pointed out in his important book On Clowns that it was Ceausescu's rare achievement to present himself as a pillar of benevolent sanity in a country where the ungrateful were deemed mad. In fact, as I can attest, the writers and teachers and actors I met in the months before the revolution all used the word about themselves. "He makes us all think we are mad," they said, with varying degrees of irony, "because that's the way he wants it."
    The great poet George Bacovia defined Romania as a "sad country, full of humour". Herta Muller gives literary expression to that sadness, verging on hopelessness, in The Passport. The humour she records is of the last-ditch kind - the humour that looks horror in the face without turning away from it.

Ui chao, THNM, đứng ở tiệm, đọc cái mẩu trên 1 phát, là bèn nhớ tới nhà văn VC, Nhật Tuấn có thời là Sếp của GCC, khi ông được nhà xb Văn Học, bộ phận phía Nam, trao cho trách nhiệm kiểm tra bản dịch Mặt Trời Vẫn Mọc, của Hemingway, do GCC dịch, trước 1975, để tái bản.
Trên blog của NT, anh kể câu chuyện 1 bà vợ sĩ quan Ngụy, không có cách chi đi thăm chồng, bèn phải nhờ 1 ông bạn của NT. Ông này cũng cực kỳ sốt sắng, và bà vợ sĩ quan, ngoài cái body của mình, đâu còn gì nữa khác, để mà trả ơn. Cái body của bà, chẳng là cái passport, như trong truyện của Muller?
Những tội ác của lũ Bắc Kít, như thí dụ, trên, thì hằng hà. Nhật Tuấ
n kể lại câu chuyện, bằng giọng văn của anh, rất ư tự nhiên, khách quan.
Thì đâu có cách nào khác?
Có, cách của Muller: cái "u mặc", khi nhìn thẳng vào sự ghê sợ, ghê tởm, của lũ Bắc Kít, không thèm quay mặt đi chỗ khác!
"Romania là 1 xứ xở buồn, đầy u mặc"
Xứ Bắc Kít đếch có, cả hai!
Cuốn sách mỏng, thật u ám.
U ám nhất, của Muller.


Trời ơi, sao bác miệt thị người Bắc dữ vậy, bác thù tới tận xương tủy, bác làm tôi nhớ đến đoạn 18, 19 Sách Sáng Thế (Cựu Ước) ông Abraham mặc cả với Chúa, nếu tìm ra được một người tốt trong thành phố Sodome-Gomorrhe thì xin Chúa tha cho thành phố khỏi bị hủy – nhưng không tìm ra được một ai... nên thành phố phải bị hủy.
Bác «lãng mạn» quá, cứ mong chờ có một cú ngoạn mục của các nhân tài.
Mong bác sức khỏe sống lâu để chờ ngày đó.
O
*

Trong số Essays hay nhất của Mẽo, 2016, có bài của Steiner, Điều Răn Thứ 11.

Đọc loáng thoáng, và, THNM, thì bèn nhận ra, vị thầy của GCC này cũng có "ám ảnh" Do Thái, như Gấu có "ám ảnh" Bắc Kít
Bắc Kít không tin có Chúa, nhưng, liệu 1 tên Bắc Kít, là Gấu Cà Chớn, giúp Chúa... sống sót? (1)
Ôi chao, liệu 1 câu viết như thế, là 1 lời chúc Tết tuyệt vời nhất, gửi tới vị tín hữu Ky Tô, 1 trong hai vị "hộ pháp" của Tin Văn?

Btw, Chúc Tết "both of U", and many tks. NQT

(1)
Could man, the Jew in particular, have helped God to survive - Dieu a besoin des hommes - professed existentialism: "Pray to us, God," urged Paul Celan.

Cầu cho tên vô đạo Gấu Cà Chớn, bớ Lão Tặc Thiên!

Milosz

JULIA HARTWIG 1921-

Expectation of an imminent calamity. Many people have lived through such a moment, but they haven't left poems about it. Yet those moments are an integral part of history, of many cities and countries.

Ngửi thấy mùi thảm họa. Nhiều người Mít đã trải qua một khoảnh khắc như thế, nhưng họ quên để lại 1 bài thơ.
Tuy nhiên, những khoảnh khắc này là 1 phần toàn thể của lịch sử, của nhiều thành phố và xứ sở.

ABOVE US

Boys kicking a ball on a vast square beneath an obelisk
and the apocalyptic sky at sunset to the rear
Why the sudden menace in this view
as if someone wished to turn it all to red dust
The sun already knows
And the sky knows it too
And the water in the river knows
Music bursts from the loudspeakers like wild laughter
Only a star high above us
stands lost in thought with a finger to its lips

Translated from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh

Czeslaw Milosz giới thiệu, trong A Book of Luminous Things

Ở bên trên chúng ta

Trẻ con chơi đá banh ở một công viên rộng lớn
bên dưới Đài Kỷ Niệm Điện Biên
và bầu trời tận thế thì đỏ mọng,
‘không gian bỗng đỏ rực, rồi đêm xuống trùm lên tất cả’
Tại sao cái sự hăm dọa bất thần như thế
Như thể có 1 người nào đó ao ước biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt sạch Trường Sơn, thì cũng đốt]
Mặt trời biết điều đó
Bầu trời cũng biết điều đó
Nước sông Sài Gòn cũng biết luôn
Nhạc “Như có Bác H trong ngày vui như thế này”,
bỗng ré lên như 1 tiếng cười man rợ
từ chiếc loa của Ban Thông Tin Phường Bến Nghé
Chỉ có 1 ngôi sao ở thật cao trên đầu chúng ta,
thì vẫn như lạc lõng trong suy tư,
với ngón tay đặt lên đôi môi (1)


Chữ đuổi Thần Chết chạy có cờ

It seems that the voice we humans own
Will never sound, never celebrate,
Only a wind from the age of stone
Keeps on knocking at the black gate.
And it seems to me that under the sun
I alone remain-this honor's mine,
Simply because I was the first
Who wanted to drink the deadly wine.
1917
Akhmatova

 Có vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng ta có đó
Nó sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao giờ ăn mừng
Chỉ là tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên tục gõ lên chiếc cổng đen
Và hình như chỉ còn tôi, đơn độc dưới ánh mặt trời
Và đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị, ấy là vì tôi là người đầu tiên
Muốn uống ly rượu độc
 

THE LAST TOAST 

I drink to the house, already destroyed,
And my whole life, too awful to tell,
To the loneliness we together enjoyed,
I drink to you as well,
To the eyes with deadly cold imbued,
To the lips that betrayed me with a lie,
To the world for being cruel and rude,
To God who didn't save us, or try.
1934
Akhmatova

Bữa nhậu chót

Ta uống mừng căn nhà đã hoàn toàn bị tiêu huỷ
Mừng trọn đời ta, thật dễ sợ nếu phải kể ra
Mừng nỗi cô đơn mà ta và mi cùng chia sẻ
Mừng mi nữa chứ, làm sao không?
Mừng đôi mắt lạnh lùng chết người
Mừng cặp môi thốt lời dối trá
Mừng thế giới quá tàn nhẫn, thô bạo
Mừng Ông Trời đếch thèm cứu vớt,
và cũng chẳng thèm thử cứu vớt,
chúng ta.

Như một đề tài, cái chết là một thứ thuốc thử mầu tốt để xét nghiệm đạo hạnh của một nhà thơ. Thể loại ‘ai điếu’ thì thường được sử dụng để rèn luyện trò thương thân, hay dành cho những chuyến đi siêu hình nhằm thể hiện tính cao ngạo ngầm của kẻ sống sót đối với nạn nhân, của đa số (những kẻ còn sống) đối với thiểu số (những người đã chết). Anna Akhmatova không mắc mớ gì đến chuyện này. Bà chăm chút đến cái tư riêng của những người đã nằm xuống, thay vì biến họ trở thành những trường hợp chung, kể từ khi bà chỉ viết về 1 thiểu số, và như vậy, thật dễ dàng cho bà, khi phải nhận dạng trong bất cứ trường hợp. Bà giản dị viết về họ, coi họ như là những cá nhân mà bà đã từng quen biết, và là người mà bà cảm thấy sẽ không bị sử dụng như là điểm khởi đầu cho bất cứ một hướng đi nào, cho dù đặc biệt ra sao.
Lẽ đương nhiên, những bài thơ như thế không thể được in ra, ngay cả chuyện viết ra mặt giấy, hay là chép lại, thì cũng không. Chúng chỉ có thể được ghi vào trí nhớ, bởi nhà thơ, hay cùng lắm, bởi dăm ba bạn thân, kể từ khi mà bà không thể nào tin tưởng được cái trí nhớ của riêng bà. Đôi khi, gặp 1 người bạn thân như vậy, tại 1 nơi chốn riêng tư, bà sẽ nói, này, này, đọc lại một cách lặng lẽ bài này, hay bài kia, hay cái sự chọn lọc đó, như là 1 cách thức để sắp xếp cái ngăn kéo của hồi nhớ, dành riêng cho thơ. Đừng bao giờ nghĩ, đây là 1 thứ trò chơi quá trớn, hay cường điệu, hay thái quá: con người ở đây có thể bị biến mất, biệt tăm biệt tích, mãi mãi, chỉ vì những điều còn nhỏ nhặt hơn là 1 mảnh giấy với vài hàng chữ trên đó. Ngoài ra, bà không sợ, quá nhiều, cho riêng bà, hay cho cậu con trai đang ở tù, mà bà quá tuyệt vọng dõng dã 17 năm trời, chờ mong ngày nhận được giấy phép ra trại. Một mẩu giấy với vài hàng chữ trên đó gây mất mát, tổn hại rất nhiều, đối với người chủ của nó, hơn là đối với bà, một người chỉ còn có thể mất hy vọng, hay là mất luôn cái đầu, nghĩa là, trở thành điên loạn.
Hỡi ơi, những ngày của cả hai, - mất hy vọng và điên cái đầu - sẽ đếm được, khi nhà cầm quyền kiếm thấy “Kinh Cầu”, một vòng những bài thơ diễn tả tình cảnh, sự thử thách, của 1 người đàn bà, con trai bị bắt, và đứng đợi dưới chân những bức tường nhà tù với gói đồ thăm nuôi, hay chạy hối hả từ những nha sở này, tới nha sở khác để có được tin tức về số phận của con. Bây giờ, thời gian chung quanh bà, thì mang tính tự thuật, đúng như thế, tuy nhiên, sức mạnh, quyền uy, của “Kinh Cầu” thì hệ tại ở điều, là, 1 tự sự, 1 tự thuật, một nói về mình, như của Akhmatova, là của chung, ai ai thì cũng xêm xêm như vậy, [chồng con cải tạo, mẹ hay vợ đi thăm nuôi…, cả Miền Nam là như thế, và đó là tự thuật]. “Kinh Cầu” cầu nguyện cho những người cầu nguyện, khóc than cho những người khóc than: mẹ mất con, vợ biến thành góa phụ, đôi khi thành cả hai, như trường hợp của tác giả. Đó là bi kịch khi bản đồng ca cứ thế tàn tạ, cứ thế lịm đi trước nhân vật.
Joseph Brodsky


Viết Mỗi Ngày  

Thời sự

http://www.economist.com/blogs/democracyinamerica/2017/01/fantasy-justice

If humankind couldn’t predict Mr Trump, perhaps it can predict what Mr Trump will do
Predicting Donald Trump’s pick for the Supreme Court

PREDICTION, wrote Karl Popper, a philosopher, is “one of the oldest dreams of mankind—the dream of prophecy, the idea that we can know what the future has in store for us, and that we can profit from such knowledge by adjusting our policy to it.” It is a dream from which Donald Trump provided a shock awakening.
Over the summer of 2015, as Mr Trump surged in primary polls, analysts and journalists laid out, often in precise and gory detail, the steep trajectory of his inevitable fall. “Why the Republican Party shouldn’t worry about the Donald” and “Donald Trump’s Six Stages Of Doom” are representative headlines from those months. A year later, in an arena in Cleveland, Mr Trump accepted his party’s nomination.
But he didn’t stand a chance in the general, according to the people for whom predicting these sorts of things is their business. On the morning of November 8th, the Huffington Post gave Hillary Clinton a 98% chance of being elected president. The Princeton Election Consortium gave her a 93% chance. The New York Times arrived at 85%, and FiveThirtyEight, a data journalism website (where your blogger is employed part-time), at a more tempered 71%. But at 3am the next day, in a Hilton ballroom in Midtown Manhattan, Mr Trump delivered his victory speech.
This bloody face-plant into the cold cement of unpredictability will do little to deter future prognosticative efforts, however. Indeed, they’re already well underway. If humankind couldn’t predict Mr Trump, perhaps it can predict what Mr Trump will do.
For instance: What does the future of the Supreme Court hold? The court has been shorthanded since the death of Justice Antonin Scalia last February. Congressional Republicans successfully ignored Barack Obama’s nominee, Merrick Garland, for ten months, leaving Mr Trump with a powerful political card to play. What will he draw out of the deck?
There have been some official hints already. In May, Mr Trump released a list of 11 potential nominees to the court, assembled with the assistance of the conservative Heritage Foundation. In September, he augmented it with 10 more. In early January, those 21 were whittled down to a shortlist of eight, according to Politico.
But one project is gazing more deeply at the judicial tea leaves. FantasyJustice is a crowd-sourced prediction market of sorts, offering a menu of potential Trump justices, on which visitors to its website can vote. It’s an offshoot of FantasySCOTUS—fantasy sports but for predicting Supreme Court opinions. (For the most recent full term, its experts boasted an 84% accuracy rate.) Thousands have weighed in, and three favourite contenders for the vacant seat have emerged.

http://www.newyorker.com/news/john-cassidy/donald-trumps-new-world-disorder

His trade approach to China could lead to a crash in the global financial markets. And that would be just the beginning

In 1990, after the Berlin Wall came down, one of Trump’s Republican predecessors, George H. W. Bush, talked about establishing a “New World Order,” in which all the world’s nations could “prosper and live in harmony.” That turned out to be largely wishful thinking. But, for more than twenty-five years, the United States continued to pursue the postwar vision of an open global trading system, which developing countries such as China and India could choose to participate in—as they eventually did. Trump’s “America First” vision is very different. It is parochial, overtly nationalist, and focussed on obtaining immediate benefits for his alienated supporters. If he isn’t careful, it could turn out to be a recipe for a New World Disorder.

Trên Tin Văn, khi xẩy ra vụ Trump, Gấu đã viện dẫn “Cú Độc chống anh Mẽo”, giả tưởng đi trước thực tại.
Tờ Người Nữu Ước, cũng có ý đó, khi mở lại email của Philip Roth:
http://www.newyorker.com/magazine/2017/01/30/philip-roth-e-mails-on-trump

Roth wrote in the Times Book Review that “The Plot Against America” was not intended as a political roman à clef. Rather, he wanted to dramatize a series of what-ifs that never came to pass in America but were “somebody else’s reality”—i.e., that of the Jews of Europe. “All I do,” he wrote, “is to defatalize the past—if such a word exists—showing how it might have been different and might have happened here.”

Last week, Roth was asked, via e-mail, if it has happened here. He responded, “It is easier to comprehend the election of an imaginary President like Charles Lindbergh than an actual President like Donald Trump. Lindbergh, despite his Nazi sympathies and racist proclivities, was a great aviation hero who had displayed tremendous physical courage and aeronautical genius in crossing the Atlantic in 1927. He had character and he had substance and, along with Henry Ford, was, worldwide, the most famous American of his day. Trump is just a con artist. The relevant book about Trump’s American forebear is Herman Melville’s ‘The Confidence-Man,’ the darkly pessimistic, daringly inventive novel—Melville’s last—that could just as well have been called ‘The Art of the Scam.’ ”

American reality, the “American berserk,” Roth has noted, makes it harder to write fiction. Does Donald Trump outstrip the novelist’s imagination?

Roth replied, “It isn’t Trump as a character, a human type—the real-estate type, the callow and callous killer capitalist—that outstrips the imagination. It is Trump as President of the United States.

“I was born in 1933,” he continued, “the year that F.D.R. was inaugurated. He was President until I was twelve years old. I’ve been a Roosevelt Democrat ever since. I found much that was alarming about being a citizen during the tenures of Richard Nixon and George W. Bush. But, whatever I may have seen as their limitations of character or intellect, neither was anything like as humanly impoverished as Trump is: ignorant of government, of history, of science, of philosophy, of art, incapable of expressing or recognizing subtlety or nuance, destitute of all decency, and wielding a vocabulary of seventy-seven words that is better called Jerkish than English.”

Roth retired from writing at seventy-seven, but, given Trump’s threats to muzzle journalism that is critical of him, what role does he see for American writers of today?

“Unlike writers in Eastern Europe in the nineteen-seventies, American writers haven’t had their driver’s licenses confiscated and their children forbidden to matriculate in academic schools. Writers here don’t live enslaved in a totalitarian police state, and it would be unwise to act as if we did, unless—or until—there is a genuine assault on our rights and the country is drowning in Trump’s river of lies. In the meantime, I imagine writers will continue robustly to exploit the enormous American freedom that exists to write what they please, to speak out about the political situation, or to organize as they see fit.”



Lũ Bắc Kít cực kỳ dã man. Đó là sự thực của xứ Mít. Bao nhiêu tội ác của Mỹ Ngụy, đều từ tội ác đầu độc tù Phú Lợi, do chính chúng bịa ra, để lấy cớ thành lập MTGT, khiến Mỹ hoảng quá phải nhảy vô Miền Nam. Không có xứ nào dùng chính đất nước của mình, để mà nhử kẻ thù vô, khiến chúng sa lầy, rồi nhân đó, “phe ta” tha hồ hoành hành ở khắp nơi trên thế giới. Chính là lý luận như thế, mà lũ Bắc Bộ Phủ phán, ta đánh Mỹ Ngụy là cho Nga, cho Tầu! Cũng vì thế mà không 1 tên Bắc Kít nào nhỏ 1 giọt lệ cho 1 miền đất mà chúng đã huỷ diệt. Những bà vợ sĩ quan, binh sĩ VNCH sống bằng lương của chồng con, ngoài ra có biết làm gì, một khi chúng tống chồng con vô trại cải tạo, không có ngày về, thử hỏi, số phận của những gia đình như thế, sẽ thê thảm đến cỡ nào. Chúng còn tính, không cho Ngụy về xum họp với gia đình, mà cho gia đình xum họp với Ngụy trong Trại Tù, như Xì làm với Gulag. Giả như không có vụ dậy lũ VC 1 bài học, của Tẫu, là Ngụy chết sạch ở trong Trại Tù ở vùng Cực Bắc Bắc Việt rồi. Thảo Trường thoát chết, rồi qua Mỹ sống được 17 năm, bằng thời gian đi tù VC, là nhờ chúng chuyển từ Trại Tù Miền Bắc, về Suối Máu, gia đình nghe tin bịnh nặng, vội vàng lên cứu, kịp.
Thê lương thật.
Cái Ác ghê rợn Bắc Kít đó, không 1 tên Bắc Kít nào không có. Một tên như Gấu Bắc Kít, làm sao thoát?
Trang Tin Văn mở ra, chỉ vì 1 mục đích như thế, trục độc Bắc Kít, ở trong Gấu.
Lần về lại đất Bắc, biết được lý do tại sao ông bố của mình không theo Vẹm, Gấu mừng quá.
Đó là món quà tuyệt vời của ông bố để lại cho lũ con của ông
.


 Tin Van 28 Dec 2003

Quê Sơn Tây (Bắc Việt).
Vào Nam năm 1954.
Học Nguyễn Trãi (Hà-nội),
Chu văn An, Văn khoa (Sài-gòn).
Trước 1975 làm công chức Bưu Điện (Sài-gòn).
Tái định cư năm 1994 tại Canada.


Tác phẩm đã xuất bản:
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm Trắng,
do Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]

Thường xuyên cộng tác với VHNT trên lưới
Ngoại trừ trang Giới Thiệu, những bài viết trên Tin Văn
hầu hết xuất hiện trên VHNT [Sao Mai]
Bạn đọc có thể truy cập những số báo cũ, nếu cần chi tiết về ngày tháng.
Bản quyền thuộc VHNT và tác giả.
Trích đăng, vô vụ lợi, chỉ cần liên lạc chủ biên VHNT.
Cần ghi rõ xuất xứ khi sử dụng.

E_mail:
tanvien_sontay@yahoo.com

locot

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây


LINKS
SAO MAI
QUÁN GIÓ
ĐÀN CHIM VIỆT
VIỆT BÁO
TALAWAS
VIETNAM.NET
VN_EXPRESS
E-Văn
NGƯỜI VIỆT







Chúc Mừng Giáng Sinh và Năm Mới

Đêm Thánh Vô Cùng

Thank You, Mr Grass

“Tiểu thuyết gia không phải là thằng hầu của sử gia”
[«Le romancier n'est pas un valet des historiens»]
Milan Kundera
Cao Hành Kiện:
Không Có Chủ Nghĩa
Văn học là một thứ xa xỉ mà loài người sau khi lo toan sinh tồn được rồi mới có;
con người sở dĩ cần thiết hưởng thụ chút xa xỉ đó,

ấy là một chút kiêu ngạo của tác giả cũng như của độc giả.

Nghĩ về hội họa
Paz:
Hình Tượng

Diễn văn Nobel 2003
J. M. Coetzee
Anh và người của anh
Ông chủ và gã hầu


Salman Rushdie đọc Ô Nhục, Disgrace.
Đó là bề ngoài ra vẻ sẵn sàng, của cô con gái, rằng tụi đen kia, chúng mày hãy hiếp tao đi, như  một cách sử dụng cái tấm thân đàn bà da trắng của mình, là một nơi cần thiết, cho lịch sử “trả thù” [chắc là theo kiểu “trả thù dân tộc” của đám da vàng mít, là chúng ta!]....

vancao

Nhân 80 năm ngày sinh Văn Cao
[15/11/1923]
Trước một đứa trẻ chết đói, cuốn Buồn Nôn của tôi chẳng là cái thá gì [Sartre].
Bài Tiến Quân Ca, với sự căm giận của nó, "thề phanh thây uống máu quân thù",
đã được phát sinh ra như thế đó, nghĩa là từ cái chết của một đứa trẻ.
Một lời kinh cầu đầy phẫn nộ dành cho một đứa trẻ đã chết.
Một cách nào đó, nó là một nửa số phận một dân tộc.
Nửa còn lại kia, là do Trần Dần nhìn ra:

Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà,

Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ.

Ba biến khúc tuổi 65.
So, he was a murderer and a saint. He had been set apart for great things.
Joseph Roth: Tarabas, a guest on earth.[Tarabas, vị khách mời trên thế gian này].
[Vậy đó, ông ta là một kẻ sát nhân, và là một vị thánh.
Ông được ông Trời dành riêng ra để làm những việc lớn lao, phi thường].
Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca?
Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân
Vườn Thú Tuổi Thơ
Cầm Tưởng


  Vị Hoàng Đế của Hoài Nhớ
Emperor of Nostalgia
Hành Khúc Radetzky


Tuổi hai mươi yêu dấu
Chương Bốn
Giải trí bình dân
 Tất cả bọn con gái đều cố ra vẻ tự nhiên
khi mặc quần áo bơi ướt đẫm dán chặt vào người.

Một trang Tin Văn cũ
Trước một đứa trẻ chết đói, cuốn Buồn Nôn của tôi chẳng là cái thá gì [Sartre].
Bài Tiến Quân Ca, với sự căm giận của nó, "thề phanh thây uống máu quân thù", đã được phát sinh ra như thế đó, nghĩa là từ cái chết của một đứa trẻ. Một lời kinh cầu đầy phẫn nộ dành cho một đứa trẻ đã chết.
Một cách nào đó, nó là một nửa số phận một dân tộc.

Nửa còn lại kia, là do Trần Dần nhìn ra:

Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà,
Chỉ thấy mưa sa trên mầu cờ đỏ.

Note: Đứa trẻ chết đói này, là cháu của Văn Cao, như ông viết, trong Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca
:

Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường đã để lạc mất đứa cháu gái con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con.
Có thể nó nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu. Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ những năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bản nhạc yêu nước, như Đống Đa, Thăng Long Hành Khúc, Tiếng Rừng, và một số ca khúc khác.
Chúng tôi gặp nhau ở ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn. Ở đây quyết định cuộc đời mới của tôi.
Câu chuyện giữa chúng tôi thật hết sức đơn giản:
-Văn có thể thoát ly hoạt động đuợc chưa?
-Được.
-Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và cho quyết định về công tác. Đây là lần đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.

 My Old Saigon







Cảnh đẹp VN

Art2all
Việt Nam Xưa
Talawas
theguardian/books
Intel Life
Huế Mậu Thân
Cali Tháng Tám 2011

Thơ JHV

Trang đặc biệt

Tưởng nhớ Thảo Trường

Tưởng nhớ Nguyễn Tôn Nhan

War_Pix
Xử VC

Hình ảnh chiến tranh
Việt Nam của tờ Life

Vĩnh Biệt BHD

6 năm BHD ra đi


Blog TV

Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

Bếp Lửa trong văn chương

Báo Văn [Phê Bình] cũ, có bài của GCC

Mù Sương
Hồi Ký Viết Dưới Hầm
Nghĩ về phê bình
Mây Bay Đi
Nguyễn Du giữa chúng ta
  "Tạp Ghi" by Tuấn Anh
Chữ và Việc
TSVC
Nhã Tập
Truyện Kiều ABC

Xuân Vấn Đề Kỷ Dậu

Truyện ngắn Võ Phiến

Những ngày ở Sài Gòn
nhà xb Hoàng Đông Phương

Mộ Tuyết
[Hồi bắt đầu đi làm]

Happy Birthday GCC

Cali 3.08

Cali Tháng Tám 2011

Tribute to NCT:
Vietnam's Solzhenitsyn

Cali 2012 With H/A

Lolita vs BHD