Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn
Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ, Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục, ở đầu
trang Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới thiệu,
chỉ để sử
dụng cho
cá
nhân
[for
personal
use],
xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM
W. G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Happy New Year
Richie @ school with friends
Thơ
Mỗi Ngày
One Art
The art of losing isn't hard
to master;
so many things seem filled with the intent
to be lost that their loss is no disaster.
Lose something every day. Accept
the fluster
Of lost door keys, the hour badly spent.
The art of losing isn't hard to master.
Then practice losing farther,
losing faster:
places, and names, and where it was you meant
to travel. None of these will bring disaster.
I lost my mother's watch. And
look! my last, or
next-to-last, of three loved houses went.
The art of losing isn't hard to master.
I lost two cities, lovely ones.
And, vaster,
some realms I owned, two rivers, a continent.
I miss them, but it wasn't a disaster.
-Even losing you (the joking
voice, a gesture
I love) I shan't have lied. It's evident
the art of losing's not too hard to master
though it may look like (Write it!) like disaster.
-Elizabeth Bishop, The Complete Poems, 1927-1979,
Farrar, Straus & Giroux
[Robert Hass: Now & Then]
Một Nghệ Thuật
Nghệ thuật mất thì không
khó để trở thành một “sư”;
Rất nhiều thứ, có mặt trên cõi đời này, là
để mất đi, 1 cách hăm hở,
Ra ý, ta có ra khỏi đời mi, thì đâu có
phải là 1 thảm họa,
Vả chăng, mi cũng đâu có thương yêu gì ta,
hử, GCC?
Mất 1 cái gì đó,
mỗi ngày, mọi ngày.
Chấp nhận vô thường, mất nhộn nhịp
Nào chùm chìa khóa,
Nào những giờ phút qua đi một cách đếch ra cái
chó gì!
Nghệ thuật mất đâu có khó để mà làm
1 bậc đại sư phụ.
Rồi thực tập nó, làm
sao mất mau lẹ hơn, xa mãi hơn: nơi chốn, tên tuổi,
những thánh địa mà bạn hằng mong thăm viếng [căn nhà
ở đường PDP ư?]
Chẳng có cái chi trong ba thứ làm xàm đó
sẽ mang đến thảm họa
Tớ mất cái đồng hồ của
mẹ tớ.
Mà nhìn kìa, căn nhà sau cùng, kế
cái sau cùng, của ba căn nhà thân thương, thì
đều đi đong!
Nghệ thuật mất, dễ ợt, không học cũng thành bậc sư
Gấu mất một thành phố,
rồi hai thành phố, toàn những thành phố cực thân
thương.
Rồi rộng rãi hơn, thoáng hơn, Gấu mất mẹ một đất nước.
Vài cõi Gấu sở hữu, hai con sông, một đại lục
Gấu nhớ quá, làm sao không, nhưng đếch phải 1 thảm
họa
Ngay cả mất Em (một giọng nói
tếu tếu, một cử chỉ mà Gấu cực mê),
Gấu không nói dối. Thì hiển nhiên rồi, nghệ
thuật mất thì không khó làm chủ
Tuy rằng, nó cẩm như (Này, viết ra liền nhe!),
một thảm họa.
Whoever wishes
to remember must trust to oblivion, to the risk entailed in forgetting
absolutely, and to this wonderful accident that memory then becomes.
-Maurice Blanchot
Người nào mong mỏi hoài
nhớ chắc hẳn đã tin rằng có lãng quên, tin rằng
có sự rủi ro tiếp đó là sẽ quên tuốt tuột, và
chính từ sự ngẫu nhiên tuyệt vời này mà kỷ niệm
được hình thành.
Người ta biết rằng sẽ quên, không
chừng quên tuốt, nên biến những gì đáng nhớ thành
ký ức, để sau này khỏi quên đó mà .
K
I seek the crucial region of
the soul where absolute Evil and fraternity clash.
-Andre Malraux
Tôi tìm vùng
chủ yếu của linh hồn, nơi Cái Ác tuyệt đối và tình
anh em đụng độ (1)
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/11.html
By Claudia Roth Pierpont
She was vigilant about
giving nothing away in her poetry, but a new biography examines her harrowing
personal life.
Keep This to Yourself
There are country roads now that are empty.
They'll hold on to the light of the day
A bit longer, mindful some boy
May be heading home after a game.
Whoever he is, he'll have to hurry.
This lovely moment won't last long.
The road before him lies white
Here and there under the dark trees,
As if some mad girl in the neighborhood
Had emptied her linen closet
And had been spreading her things
Over the soft late summer dust.
Nhím cho riêng mi
Có những con đường nhà quê bi giờ trống trơn
Chúng sẽ níu kéo ánh sáng của
ngày
Lâu hơn một tị, chắc là có tí quan hoài
tới 1 đứa bé nào đó
Có thể trên đường về nhà, sau một trò
chơi
Đứa nào thì đứa nào, thằng bé phải
vội vã
Chút khoảnh khắc rất đỗi đáng yêu này
chẳng thể kéo dài
Con đường trải dài trước thằng bé một màu
trắng
Đây, đó, dưới những cái cây sẫm đen
Như thể một cô gái lối xóm
Soạn cái tủ đựng quần áo của cô
Và bèn trải ra những cái xú chiêng,
những cái xịp
Trên lớp bụi mờ của một mùa hè, nhẹ, muộn.
Charles Simic
Thơ Simic, thoạt đầu, Gấu không dám đọc, vì
sợ. Nhất là cái lần đọc bài "Đọc Lịch Sử" của ông,
THNM, nhớ đến cái chết của ông cụ của Gấu, bị chúng
làm thịt hồi đầu “Kách Mệnh”, thuổng cách viết của
Trùm Vẹm. Sau quá mê.
Bài trên, mà không mê sao?
Charles Simic
SHELLEY
for M. Follain
Poet of the dead leaves driven
like ghosts.
Driven like pestilence-stricken multitudes.
I read you first
One rainy evening in New York City.
In my atrocious Slavic accent.
Saying the mellifluous verses
From a battered. much-stained volume
I had bought earlier that day
In a secondhand bookstore on Fourth Avenue
Run by an initiate of the occult masters.
The little money I had being
almost spent.
I walked the streets. my nose in the book.
I sat in a dingy coffee shop
With last summer's dead flies on the table.
The owner was an ex-sailor
Who had grown a huge hump on his back
While watching the rain. the empty street.
He was glad to have me sit and read.
He'd refill my cup with a liquid
dark as river Styx.
Shelley spoke of a mad. blind. dying king;
Of rulers who neither see. nor feel. nor know;
Of graves from which a glorious Phantom may
Burst to illumine our tempestuous day.
I too felt like a glorious phantom
Going to have my dinner
In a Chinese restaurant I knew so well.
It had a three-fingered waiter
Who'd bring my soup and rice each night
Without ever saying a word.
I never saw anyone else there.
The kitchen was separated by a curtain
Of glass beads which clicked faintly
Whenever the front door opened.
The front door opened that evening
To admit a pale little girl with glasses.
The poet spoke of the everlasting
universe
Of things.... of gleams of a remoter world
Which visit the soul in sleep....
Of a desert peopled by storms alone ....
The streets were strewn with
broken umbrellas
Which looked like funereal kites
This little Chinese girl might have made.
The bars on MacDougal Street were emptying.
There had been a fistfight.
A man leaned against a lamppost, arms extended as if aucified.
The rain washing the blood off his face.
In a dimly lit side street,
Where the sidewalk shone like a ballroom mirror
At closing time-
A well-dressed man without any shoes
Asked me for money.
His eyes shone, he looked triumphant
Like a fencing master
Who had just struck a mortal blow.
How strange it all was.... The
world's raffle
That dark October night....
The yellowed volume of poetry
With its Splendors and Glooms
Which I studied by the light of storefronts:
Drugstores and barbershops,
Afraid of my small windowless room
Cold as a tomb of an infant emperor.
SHELLEY
Thi sĩ của người chết rời bỏ,
bị xua đuổi như những con ma
Như đám người bị dịch bịnh
Tôi đọc bà lần đầu
Một buổi chiều mưa ở New York City.
Trong giọng Slavic tàn
khốc
Tôi đọc những câu thơ ngọt ngào
Trong cuốn thơ tả tơi, nhem nhuốc
Tôi mua vào lúc đầu ngày
Tại một tiệm bán sách cũ ở Đại Lộ Thứ Tư
Chủ tiệm là 1 tay mới được kết nạp để trở thành
một
trong những sư phụ của 1 thứ tôn giáo thần bí
Tí tiền còm mà
tôi có, kể như xong
Tôi bước trên phố, dí mũi vô cuốn thơ.
Tôi ngồi trong 1 tiệm cà phê dơ dáy
Với những con ruồi chết
của mùa hè sau cùng, trên mặt bàn.
Người chủ tiệm là 1 tay cựu thủy thủ
Lưng ông ta có 1 cái bướu tổ chảng
Lớn dần theo những giờ ngắm mưa,
ngắm con phố trống rỗng.
Ông ta mừng ơi là mừng khi thấy tôi ngồi, và
đọc thơ
Và châm thêm ly cà phê với thứ
nước
đen như nước kênh cầu Thị Nghè!
Shelley nói về 1 vì
vua khùng, mù, hấp hối;
Những tên cai trị hết còn nhìn, cảm, biết;
Những ngôi mồ, từ đó, một Bóng Ma có
thể
Đột ngột xuất hiện để chiếu sáng cái ngày
dông bão của chúng ta
Tôi cũng cảm thấy mình
như 1 bóng ma huy hoàng
Đi dự bữa ăn tối của mình
Tại một nhà hàng Tẫu mà tôi quá
rành.
Ở đó có một người bồi chỉ ba ngón tay
Mang món xúp cho tôi mỗi đêm
Đếch bao giờ mở miệng lèm bèm dù chỉ 1 lời
Tôi đếch thấy ai nữa ở
đó
Nhà bếp thì chia cách bởi một bức rèm
Làm bằng những chuỗi hạt thuỷ tinh
Chúng leng keng nhè nhẹ khi cửa trước mở
Bữa tối hôm đó, cửa trước mở
Cho vô một cô gái nhỏ xanh xao với những cái
ly.
Nhà thơ nói về
một vũ trụ hằng hằng
Về những sự vật… về những tia sáng yếu ớt đến từ một thế
giới xa hơn
Viếng thăm linh hồn khi ngủ…
Về một sa mạc cư dân là bão tố không
thôi…
Những con phố lốm đốm những
cái ô, dù bể, gãy, thủng, rách…
Trông chẳng khác gì những cánh diều
đám ma
Có thể cô bé con người Tầu làm
Những quầy rượu ở con phố MacDougal vắng hoe.
Có 1 trận đấm đá, so găng.
Một người đàn ông tựa người vô cái trụ
đèn, tay duỗi dài ra, như bị đóng đinh trên
cây thập tự
Nước mưa rửa sạch máu trên mặt anh ta.
Trong một con phố nhỏ, ánh
đèn lù tù mù
Hè đường sáng lên như tấm gương ở phòng
khiêu vũ
Vào lúc đóng cửa –
Một người đàn ông, ăn mặc thật là bảnh, đếch
mang giày
Hỏi xin tiền tôi
Mắt anh ta sáng rực lên, vẻ chiến thắng
Như một tổ sư kiếm,
Vừa trúng 1 đòn chí tử.
Kỳ lạ làm sao tất cả…
cặn bã của thế giới
Đêm tháng Muời u tối…
Cuốn thơ màu vàng
Với những Huy hoàng và Âm u của nó
Tôi đọc dưới anh đèn đằng trước cửa tiệm: Tiệm thuốc,
tiệm cắt tóc
Sợ căn phòng nhỏ, đếch cửa sổ của tôi
Lạnh như nấm mồ của một ông vua con nít.
Cặn bã, dơ dáy,
cuốn thơ màu vàng... Gấu bỗng
nhớ tới nhóm Mở Miệng và đòn VC đang đánh
tới tấp lên con “dê tế thần" là em NT kiều diễm [?]
Hà, hà!
"Dê tế thần", theo nghĩa của Kafka. Không phải cú
NVGP, quy hồi vĩnh cửu, theo GCC.
NVGP dính tới chính trị. Cú này, cú
CVD trước đó, văn chương.
Nhà văn là 1 thứ dê tế thần. Nhờ họ mà
VC an tâm gây tội chẳng cần hối lỗi!
Helen Vendler, chuyên
gia về thơ, nổi tiếng, trong bài Totemic Sifting,
điểm mấy cuốn của Simic [Cuốn sách
của Thần và của Quỉ, The Book of Gods and Devils, Khách sạn
Mất ngủ, Hotel Insomnia, và Dime-Store Alchemy], lôi
bài thơ Shelley ra lèm
bèm về hai chi tiết thật quái, là "cặn bã thế
giới", và cái "mồ của tên hoàng đế trẻ con", GCC
post ở đây:
The two books of poems under scrutiny here, while preserving Simic's
coercive style, vary in content. The
Book of Gods and Devils is often autobiographical, sometimes covertly
(as is Simic's wont) but at other times overtly so. There is, for example,
a touching glimpse of Simic's first reading of Shelley in a "dingy coffee
shop" in New York: The poem alternates between urban wreckage- drunks,
the homeless, broken umbrellas-and the visionary reaches of Shelley's social
prophecies:
How strange it all was…. The world's raffle
That dark October
night…..
The yellowed volume
of poetry
With its Splendors
and Glooms
Which I studied
by the light of storefronts:
Drugstores and barbershops,
Afraid of my small
windowless room
Cold as a tomb of
an infant emperor.
("Shelley")
What distinguishes this excerpt,
and makes it something more than a reminiscence of adolescent idealization
juxtaposed with urban banality, is the presence of two startling phrases-
"the world's raffle," and the "tomb of an infant emperor." Neither of
these is at all expectable, and one halts in coming to them as before
a surrealist effect. Neither is strictly speaking surreal; both can be
pressed into sense. But the essential lawless nature of Simic's imagination,
darting against his coercive structures, is continually escaping the very
prisons he has himself built.
Hồi
nhỏ, biết bố mất tích, và nghe kể, bố bị dìm sống,
dưới sông, Gấu, mỗi lần tắm sông, tắm ao, là bèn
lặn sâu, cố nhịn thở, để như cùng chịu cái chết vì
nghẹt thở như bố.
Simic cũng có kinh nghiệm về 1 ông bố bị Gestapo
bắt [được thả sau đó], nhưng cái cảm tưởng của ông,
khi còn là con nít, cũng chẳng khác gì
của Gấu. Ông có 1 bài thơ tả cảnh cả gia đình
đợi suốt đêm coi bố có được trở về hay không.
Như hầu hết các bài
thơ của Adam Zagajewski, có lẽ bác dịch thơ của nhà
thơ này là tới nhất (mặc dù tôi không
đủ năng lực tiếng Anh để kiểm chứng), khác với thơ dịch Simic,
khó nuốt, (xin lỗi bác, đây chỉ là cảm nhận
riêng mà thôi).
Ðộc giả TV
Thơ Simic trầm trọng hơn so
với Zagajewki. Trong thơ Simic có cái quá khứ Mít. Có
thể vì thế mà chúng ta thích đọc thơ Zagajewski
hơn chăng?
Bài dưới đây mà
chẳng trầm trọng sao?
Gấu cứ nghĩ đến 1 anh cu Gấu,
của một thời vị lai, đang đọc sử Mít, và chứng kiến cái
cảnh ông cụ của Gấu bị lịch sử cho đi mò tôm!
READING HISTORY
for Hans Magnus
At times, reading here
In the library,
I'm given a glimpse
Of those condemned to death
Centuries ago,
And of their executioners.
I see each pale face before me
The way a judge
Pronouncing a sentence would,
Marveling at the thought
That I do not exist yet.
With eyes closed I can hear
The evening birds.
Soon they will be quiet
And the final night on earth
Will commence
In the fullness of its sorrow.
How vast, dark, and impenetrable
Are the early-morning skies
Of those led to their death
In a world from which I'm entirely absent,
Where I can still watch
Someone's slumped back,
Someone who is walking away
from me
With his hands tied,
His graying head still on his shoulders,
Someone who
In what little remains of his life
Knows in some vague way about me,
And thinks of me as God,
As Devil.
Đọc Sử
Ký
Gửi Hans Magnus
Đôi khi đọc ở đây
Tại thư viện
Tôi được đưa mắt nhìn
Những người bị kết án tử hình
Những thế kỷ đã qua
Và những đao phủ của họ
Tôi nhìn mỗi khuôn mặt nhợt nhạt
Cách ông tòa tuyên án
Lạ làm sao, là, tôi thấy mừng
Khi nghĩ rằng,
May quá, khi đó mình chưa ra đời!
Với cặp mắt nhắm tít,
tôi có thể nghe
Những con chim chiều tối
Chẳng mấy chốc, chúng sẽ mần thinh
Và đêm sau cùng trên trái đất
Sẽ bắt đầu
Trong trọn nỗi thống khổ của nó
Bao la, tối, không cách
nào xuyên thủng,
Là những bầu trời sáng sớm
Của những con người bị dẫn tới cái chết của họ
Trong một thế giới mà tôi thì hoàn
toàn vắng mặt
Từ cái chỗ của tôi, tôi vẫn có thể ngắm
Cái lưng lảo đảo,
Của một người nào đó,
Một người nào đó đang bước xa ra khỏi tôi
Với hai tay bị trói
Cái đầu xám của người đó thì vẫn còn
trên hai vai
Một người nào đó
Trong tí xíu thời gian còn lại của cuộc đời
của mình
Biết, một cách mơ hồ về tôi
Và nghĩ về tôi, như là Thượng Đế
Như là Quỉ
SN_GCC_2017
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/29.html
Bài thơ sau đây, tưởng niệm tháng ba - giỗ
lần thứ 11 ông anh nhà thơ - tháng tư (giỗ giỗ
giỗ 30 tháng tư) - quá đau, quá đã!
Ông anh của GCC cũng là 1 cao thủ cờ tướng.
RICARDO REIS
I've heard that once, during I don't know
What war of Persia,
When invaders rampaged through the City
And the women screamed,
Two chess players kept on playing
Their endless game.
In the shade of a leafy tree they stared
At the old chessboard,
And next to each player was a mug of wine,
Solemnly ready
To quench his thirst in the moments when,
Having made his move,
He could sit back and relax, waiting
On his opponent.
Houses were burning, walls were torn down
And coffers plundered;
Women were raped and propped against
The crumbling walls;
Children, pierced by spears, were so much
Blood in the streets ...
But the two chess players stayed where they were,
Close to the city
And far from its clamor, and kept on playing
Their game of chess
Even if, in the bleak wind's messages,
They heard the screams
And, upon reflection, knew in their hearts
That surely their women
And their tender daughters were being raped
In the nearby distance,
Even if, in the moment they thought this,
A fleeting shadow
Passed over their hazy, oblivious brows,
Soon their calm eyes
Returned with confident attention
To the old chessboard.
When the ivory king's in danger, who cares
About the flesh and blood
Of sisters and mothers and little children?
When the rook can't cover
The retreat of the white queen, what
Does pillaging matter?
And when with sure hand the opponent's king
Is placed in check,
It hardly concerns one's soul that children
Are dying in the distance.
Even if the infuriated face
Of an invading warrior
Should suddenly peer over the wall and cause
The solemn chess player
To fall right there in a bloody heap,
The moment before that
Was still devoted to the favorite game
Of the supremely indifferent.
Let cities fall and people suffer,
Let life and freedom
Perish, let secure, ancestral properties
Be burned and uprooted,
But when war interrupts the game, make sure
The king's not in check
And the most advanced of the ivory pawns
Is ready to redeem the rook.
My brothers in loving Epicurus
And in understanding him
More in accord with our view than with his,
Let's learn from the story
Of the impassive chess players how
To spend our lives.
Let serious things scarcely matter to us
And grave things weigh little,
And let the natural drive of instincts yield
To the futile pleasure
(In the peaceful shade of the trees)
Of playing a good game.
Whatever we take from this useless life,
Be it glory or fame,
Love, science, or life itself,
It's worth no more
Than the memory of a well-played game
And a match won
Against a better player.
Glory weighs like an overlarge burden
And fame like a fever,
Love wearies, for it ardently searches,
Science never finds,
And life grieves, for it knows it is passing ...
The game of chess
Completely absorbs one's heart but weighs little
When lost, for it's nothing.
Ah, in the shade that unconsciously loves us
And with a mug of wine
At our side, intent only on the useless
Effort of the chess game,
Even if the game is only a dream
And we have no partner,
Let's do as the Persians of this story:
Wherever out there,
Near or faraway, war and our country
And life are calling us,
Let them call in vain, while we dream
In the friendly shade
Of our partners, and the chess game dreams
Of its indifference.
1 JUNE 1916
FERNANDO PESSOA: A LITTLE LARGER THAN THE ENTIRE UNIVERSE
Cao Thủ Cờ Tướng
Tôi nghe nói, trong 1 cuộc chiến ở Persia,
cuộc chiến nào tôi không rõ,
khi những kẻ xâm lăng tàn phá Thành
Phố,
đàn bà la thét,
hai cao thủ cờ tướng,
tiếp tục cuộc cờ không chấm dứt của họ,
ở dưới bóng cây, họ cắm mắt cắm mũi vào
một cái bàn cờ cũ,
và bên cạnh là một vại cuốc lủi,
thật trịnh trọng, và luôn luôn sẵn sàng
làm dịu cơn khát của hai cao thủ, sau một nước
cờ,
bèn ngửa người ra phía sau, tu một đường, chờ
đối thủ đi nước cờ của anh ta.
Nhà cháy, tường đổ, của cải bị ăn cướp
Đàn bà bị hiếp, bị trấn vô tường, để tiếp
tục hiếp,
trẻ con bị đâm, chém, đường phố đầy máu…
Nhưng hai cao thủ vẫn bình chân như vại, ngay
dưới chân thành phố,
tiếp tục chơi cờ, trong tiếng la hét từ phiá
xa vọng tới.
Ngay cả khi, trong tiếng gió thoảng, có tiếng
la thét, và họ,
trong thâm tâm, thoáng có nghĩ tới,
những người đàn bà của họ,
những đứa con gái ngoan ngoãn của họ, đang
bị hiếp,
chắc cũng không quá xa nơi họ đang chơi cờ,
và lông mày, lông mi của họ có
thoáng âm u,
tâm tư của họ có nhầu nát, tí ti,
thoáng 1 tí,
và họ lại chú mục vào cuộc chơi không
chấm dứt,
trở về một cách thật là vững tâm
với cái bàn cờ cũ của họ.
Khi ông vua bằng ngà trên bàn cờ
cũ bị nguy hiểm, thì ai để ý làm gì tới
thịt rơi, máu đổ, ở trên đường phố,
biển máu biển miếc, bà mẹ, người vợ, đứa chị,
con em
bị, hay được… giải phóng ?
Giải phóng hay ăn cướp thì có ăn thua
gì tới
một đường thối của Bạch Hoàng Hậu?
Và một khi đi được một nước vừa ý, đặt ông
vua vào đúng vị trí,
thì những đứa trẻ đang chết ở xa xa kia, là cái
chó gì mà phải quan tâm?
****
Borges made a profound impression on Spanish literary prose,
as before him Ruben Dado had on poetry. The difference between them
is that Dado imported and introduced from France a number of mannerisms
and themes that he adapted to his own world and to his own idiosyncratic
style. In some way all this expressed the feelings, and at times the snobbery,
of a whole period and a certain social milieu. Which is why his devices
could be used by so many without his followers losing their individual
voices. The Borges revolution was personal. It represented him alone,
and only in a vague, roundabout way was it connected with the setting in
which he was formed and which in turn he helped crucially to form - that
of the magazine Sur. Which is why in anyone else's
hands Borges' style comes across as a caricature.
Vargas Llosa: The Fictions of Borges
Trong 1 bài viết về Borges, trong cuốn tưởng niệm ông,
của một số tác giả, Vargas Llosa cho rằng, Borges tạo một ấn tượng
sâu đậm vào văn xuôi Tây Ban Nha, như là
trước đó, Rubén Darío, vào thơ.
Cũng vẫn ông, cuộc cách mạng của Borges là
cá nhân. Nó đại diện mình ông ta, và
chỉ là một ngọn sóng…. bởi thế, văn phong của Borges đụng
bất cứ 1 tên TBN, là để lại 1 vết sẹo!
Tuyệt!
TTT, sở dĩ đếch có truyền nhân, là cũng
xêm xêm. Ngoài lý do, thơ của TTT, 1 thứ thơ
trí tuệ không 1 tên Mít nào có
được, còn có cái lý do Vargas Llosa vừa nói
tới.
Cái thứ thơ ngồi bên ly cà phê, nhớ
bạn, thì cần chó gì đến trí tuệ.
Chẳng tên nào muốn làm thơ mà lại dính
vết sẹo ở trong lòng bàn tay.
Cần chó gì sư phụ.
Không có sư phụ, thì đếch có vết sẹo!
Cả 1 cõi thơ TTT, có thể nói, đầy ắp Hà
Nội, nhất là trong Tôi không còn cô
độc, Liên Đêm…
Con đường tình tự Ga Hàng Cỏ
Nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang
Đâu phải mưa ô buy vào thành phố
Nửa đêm Hà Nội
Anh sợ cái cột đèn đổ xuống....
Toàn những hình ảnh của Hà Nội
Chỉ đến khi đi tù - trở lại cố quận – thì
người đàn bà Nam Kít, xuất hiện, như hình
ảnh của một quê hương mới, chốn trở về sau khổ lụy.
Giả như tụi Tẫu không phát động cuộc chiến biên
giới, thì cuộc hội ngộ sẽ xẩy ra ở trong tù, ở Cổng Trời,
thí dụ.
Cái tên thi sĩ dởm NDT mới nhảm làm sao.
Hắn đếch đọc được thơ TTT, bèn lên giọng dè bỉu.
Một thái độ như thế mà sao không tởm cho được.
Cái lũ làm thơ bên ly cà phê
hẳn cũng bực Gấu lắm.
Nhưng, kệ cha chúng.
Vargas Llosa, trong bài viết trích dẫn, cho biết,
đám Tây Bán Nhà cũng rất ư là nực Borges,
ở những dòng thơ đếch có tí mùi thịt chó,
rau muống!
Một vị, ra đi từ miền Bắc , khi đọc bài thơ viết về
Budapest, cái gì gì, hãy cho anh
khóc bằng.... 'bướm' em, GCC đưa lên mục Tạp Ghi
trên tờ Văn Học, phán, cứ tưởng của 1 ông mũi lõ
nào!
Borges cũng bị những đồng hương của ông chê, mất
chất… Mít!
Valentine's
Day
À Quoi Bon Dire
Lời Nào
Em Không Nói
Mười bảy năm trước em phán
Có điều gì nghe như Good-bye
Và mọi người đều nghĩ, em đi xa
Không phải em mà là anh.
Và như thế, anh, ườn mãi
ra, già mãi đi.
Uờn như thế, già như thế, thì cũng là
Good-bye.
Và mọi người thì đều thấy anh già.
Em, vưỡn như ngày nào.
Và một buổi sáng
đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài người sẽ chẳng còn ai yêu, như
là họ yêu nhau
Trong khi đâu đó, ở đằng xa kia,
Em sẽ mỉm cười, và anh sẽ đụng nhẹ lên mái
tóc em.
*
Đáng lẽ đầu năm thì
bỏ qua, mà đọc bài thơ dịch "A quoi bon dire" ... thì
phải ghẹo ít chữ .
Bài thơ này, theo
như lời giới thiệu :
Here, from 1916, in the years
of American modernism, next to poems by D. H. Lawrence and Ezra Pound
and H.D., is a piece by Charlotte Mew:
Tức là của bà Charlotte Mew, vậy thì
người xưng I ở đây chắc nên cho là phái nữ
.
K nghĩ ý nó như
vậy nè :
Mười bảy năm trước anh nói
gì gì nghe như thể vĩnh biệt
Và giờ đây mọi người đều nghĩ, anh chết rồi
Trừ em
Thế rồi, em càng ngày
càng khô, càng lão
Em giờ cũng nói vĩnh biệt này nọ.
Và ai cũng thấy rằng em già thật
Trừ anh
Và một buổi sáng
đẹp trời, nơi con lộ lẻ, nhuộm nắng
Một cô và một cậu sẽ gặp, và sẽ thề thốt
Rằng loài người sẽ chẳng còn ai yêu, như
là họ yêu nhau
Trong khi đâu đó, ở đằng xa kia,
Anh sẽ mỉm cười, và em sẽ đùa với mái
tóc của anh.
Tks.
Nhân tiện, chúc
Tết Tây K & O luôn.
NQT
Osip
Mandelstam
The Voronezh Notebooks survived
by a miracle, or rather through the extraordinary determination of
Nadezhda Mandelstam. In exile and poverty, under persecution and in
isolation, his manuscripts hidden in teapots, shared out with friends,
nightly renewed in the fragile casket of her human, fallible recall,
she made it her life's work to preserve her husband's poetry.
Intro
76
A living being is incomparable; don't compare.
With a sort of tender fear
I embraced the plain's monotony,
The circle of the sky my enemy.
I appealed to my servant, the air,
Waited for its favors, fresh rumors,
Gathered for a journey, floated in an arc
Of journeys that refused to start ...
I'm ready to wander where my sky is greater,
But a limpid sadness will not let me leave
The still raw hills of Vor6nezh
For the clearing, all-human hills of Tuscany.
March 16, 1937
77
Rome
Where the frogs of the fountains croaked
And splashed, they sleep no more.
Once wakened, overcome with weeping,
With all the power of their throats and shells
They water the city, toady to
The mighty, with amphibious tears-
Summery, cheeky, a light antiquity,
With fallen arches and a glance of avidity,
Like the untouched bridge of Sant' Angelo
Flatfoot over the yellow flow-
Light blue, unformed, ashen,
In a tumor of houses like a drum,
The city's a swallow, made into a dome,
A cupola of paths and drafts-
You've turned it into a murder-nursery,
You-you brown-blood mercenaries-
Italian Blackshirts-
Vicious whelps of departed Caesars ...
They're all your orphans, Michelangelo,
Shrouded in marble and shame:
The night soaked in tears and the
Fleet young David, faultless,
And the bed on which Moses
Lies like a cataract, without motion-
Freedom of power and a lion's portion
Fall silent in slavery and sleep.
Yieldings of the furrowed stairs,
Of flights of rivers flowing to the square:
Let those steps ring out like deeds,
Let the somnolent citizens of Rome arise,
But not for crippled joys like these,
Like idle sponges of the sea.
The pits of the Forum are dug up anew,
And Herod's Gate opened at last-
And over Rome hangs the heavy jaw
Of the dictator-outcast.
March 16, 1937
Osip Mandelstam
Russian
1891-1938
LENINGRAD
I've come back to my city. These
are my own old tears,
my own little veins, the swollen glands of my childhood.
So you're back. Open wide. Swallow
the fish oil from the river lamps of Leningrad.
Open your eyes. Do you know
this December day,
the egg yolk with the deadly tar beaten into it?
Petersburg! I don't want to
die yet!
You know my telephone numbers.
Petersburg! I've still got the
addresses:
I can look up dead voices.
I live on back stairs, and the
bell,
torn-out nerves and all, jangles in my temples.
And I wait till morning for
guests that I love,
and rattle the door in its chains.
Leningrad. December 1930
1972, translated with Clarence
Brown
W.S. Merwin
I returned to my city, familiar
to tears,
to my childhood's tonsils and
varicose veins.
You have returned here-then
swallow
the Leningrad street-lamps' cod-liver oil.
Recognize now the day of December
fog
when ominous street-tar is mixed with the yolk of egg.
Petersburg, I do not want to
die yet
I have your telephone numbers in my head.
Petersburg, I still have addresses
at which
I will find the voice of the dead.
I live on a black stair, and
into my temple
strikes the doorbell, torn out with flesh.
And all night long I await the
dear guests,
and I jangle my fetters, the chains on the door.
[Osip Mandelstam, Selected Poems, translated by David McDuff.
Cambridge: River Press, 1973, p.111] (1)
LENINGRAD
Tôi trở
lại thành phố của tôi, thân quen với những dòng
lệ,
với cơn đau thịt thừa trong cổ họng thuở ấu thơ,
và chứng chướng tĩnh mạch
Bạn đã trở về đây - vậy thì hãy
nuốt
dầu đèn phố Leningrad
Hãy nhận
ra bây giờ ngày tháng Chạp mù sương...
Petersburg, tôi chưa muốn chết
Tôi có số điện thoại của bạn ở trong đầu Petersburg,
tôi vẫn có những địa chỉ, tại đó, tôi
sẽ tìm ra tiếng nói của những người đã chết...
Viết
mỗi ngày
Đọc TTT, Gấu đụng mấy thai đố.
Tại làm sao, khi đọc Trầm Tư của Hồ Hữu Tường, khi HHT mơ
Phật trở lại thế gian, TTT lại nghĩ đến cánh đồng Bắc Kít
chằng chịt, bờ nhiều hơn ruộng?
Và, khi cánh đồng Bắc Kít liền thành
1 dải, nhờ chính sách lao động tập thể của Vẹm, thay vì
Phật, Quỉ Đỏ xuất hiện.
Liệu đây là 1 ác mộng của TTT, như những ác
mộng của Kafka, tiên đoán thế giới toàn trị?
Cái sự không làm sao đọc được 1 nhà thơ
Nga, như Osip, của những nhà thơ như Hass, hay Auden, là
do họ không làm sao cảm nhận ra được cái sự khủng khiếp
của Cái Ác Á Châu, đến mức nào. ]
Xì đâu có phịa ra được 1 tội ác nào
mới mẻ: chúng có sẵn trong lịch sử Nga.
Với xứ Bắc Kít, chẳng khác. Đám hậu duệ Vẹm
ở trong nước thi nhau đổ tội cho Đảng, về những tội ác giáng
xuống đầu dân Mít, nhưng Đảng đâu có cấm chúng
nhỏ… 1 giọt nước mắt cho Trại Tù VC dành cho Ngụy?
Một khi lấy được Miền Nam 1 phát là Cái Ác
Bắc Kít, lưu cữu 4 ngàn năm trong những ao tù đóng
váng, lập tức, như xổ chuồng, bèn nở rộ.
Phan Khôi chẳng đã nhắc tới Cỏ Cụ Hồ, tức Bông
Cứt Lợn, xuất hiện ở mảnh đất Điện Biên, cùng lúc với
Vẹm ư?
http://www.tanvien.net/tg/tg_mim_cuoi.html
Tatyana Tolstaya, trong một bài người viết tình cờ
đọc đã lâu, khi còn ở Trại Cấm, và chỉ được
đọc qua bản dịch, Những Thời Ăn Thịt Người (đăng
trên tờ Thế Kỷ 21), cho rằng, chủ nghĩa Cộng-sản không phải
từ trên trời rớt xuống, cái tư duy chuyên chế không
phải do Xô-viết bịa đặt ra, mà đã nhô lên
từ những tầng sâu hoang vắng của lịch sử Nga. Người dân Nga,
dưới thời Ivan Bạo Chúa, đã từng bảo nhau, người Nga không
ăn, mà ăn thịt lẫn nhau. Chính cái phần Á-châu
man rợ đó đã được đưa lên làm giai cấp nồng
cốt xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bà khẳng định, nếu không
có sự yểm trợ của nhân dân Nga, chế độ Stalin không
thể sống dai như thế. Puskhin đã từng van vái: Lạy Trời đừng
bao giờ phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Bây giờ đọc lại Phan Khôi, liệu chúng ta có
thể hiểu ông nhiều hơn, khi không giản lược câu chuyện
ông kể, về Cỏ Cụ Hồ, chỉ là một cách xả xú báp
của một vị thâm nho, trước chế độ độc tài, theo suy nghĩ
châm biếm, hài hước là khí giới của kẻ yếu
thế. Trong Nhân Văn Giai Phẩm, ông
kể chuyện Điện Biên, và sự xuất hiện một thứ cỏ tại vùng
này. Cỏ nở hoa, "không thể ngửi được". Người Miền Bắc gọi là
hoa cứt lợn (heo). Nhưng người dân Điện Biên vì thấy
cỏ xuất hiện cùng lúc với quân đội Cộng Sản, nên
gọi là Cỏ Cụ Hồ.
Tuy nhiên, giấc mơ Phật trở lại xứ Mít của HHT, được
Steiner cùng cảm nhận và chia sẻ, và cái nhìn
của ông, còn giải thích cái sự không
làm sao đọc thơ Osip của Hass.
http://www.tanvien.net/Notes_2/under_eastern_eyes.html
Dưới con mắt Đông phương
Có một nghịch lý
về thiên tài văn chương Nga. Từ Pushkin đến Pasternak, những
sư phụ của thơ ca và giả tưởng Nga thuộc về thế giới, trọn một
gói. Ngay cả ở trong những bản dịch què quặt của những vần
thơ trữ tình, những cuốn tiểu thuyết và những truyện ngắn,
chúng vẫn cho thấy một điều, không có chúng
là không xong. Chúng ta không thể sẵn sàng
bầy ra cái bảng mục lục những cảm nghĩ của chúng ta và
của nhân loại nói chung, nếu không có chúng
ở trong đó. Ngắn gọn, khiên cưỡng, theo dòng lịch sử,
chỉ có văn học cổ Hy Lạp là có thể so đo kèn
cựa được với văn học Nga, nếu nói về tính phổ quát.
Tuy nhiên, với một độc giả không phải là người Nga, khi
đọc Pushkin, Gogol, Dostoevsky, Mandelstam, họ vẫn luôn luôn
là một kẻ đứng bên lề, một tên ngoại đạo. Họ có
cảm giác mình đang nghe trộm, đọc lén một bản văn, một
cuộc nói chuyện nội tại, rõ ràng thật dễ hiểu, sức truyền
đạt cao, sự thích hợp phổ thông, vậy mà giới học giả,
phê bình Tây phương, cho dù ở những tay sắc sảo
nhất, vẫn không tin rằng họ hiểu đúng vấn đề. Có một
cái gì đó mang tính quốc hồn quốc tuý,
đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không chịu bỏ nước
ra đi. Tất nhiên, đây là một vấn đề liên quan tới
ngôn ngữ, hay chính xác hơn, đến những gam, những mảng
quai quái, hoang dại của ngôn ngữ, từ tiếng địa phương, của
giới quê mùa, cho tới thứ tiếng nói của giới văn học
cao và Âu Châu hóa được những nhà văn Nga
thi thố. Những trở ngại mà một Pushkin, một Gogol, một Anna Akhmatova
bầy ra, nhằm ngăn chặn một bản dịch tròn trịa, giống như một con
nhím xù lông ra khi bị đe dọa. Nhưng điều này
có thể xẩy ra đối với những tác phẩm cổ điển của rất nhiều
ngôn ngữ, và, nói cho cùng, có một mức
độ, tới đó, những bản văn lớn lao viết bằng tiếng Nga vượt qua (Hãy
tưởng tượng "quang cảnh quê ta" sẽ ra sao nếu thiếu Cha
và Con, hay Chiến tranh và Hòa bình,
hay Anh em nhà Karamazov, hay Ba chị
em). Và nếu có người vẫn nghĩ rằng, không đúng
như vậy, rằng Tây phương, khi quá chú tâm vào
một bản văn thì đã làm méo mó, sai lạc
điều mà một nhà văn Nga tính nói, thì
không thể chỉ là do khoảng cách về ngôn ngữ.
Văn học Nga được viết dưới con mắt cú vọ của kiểm duyệt.
Người Nga cũng là giống dân đầu tiên đưa ra nhận xét
có tính “chuyện thường ngày ở huyện” này.
Lấy đơn vị là một năm, thì, chỉ chừng một năm thôi
[“là phai rồi thương nhớ”], mọi thứ “sĩ” của Nga, thi sĩ, tiểu
thuyết gia, kịch tác gia, người nào người nấy, viết, với
con mắt dòm chừng của nhân dân, thay vì với
tự do suy tư. Một tuyệt tác của Nga hiện hữu “mặc dù” chế
độ. Nói rõ hơn, dưới chế độ độc tài kiểm duyệt, nhìn
chỗ nào cũng thấy có cặp mắt của…cớm, vậy mà Nga vưỡn
có tuyệt phẩm!
Một tuyệt phẩm như thế, nó chửi bố chế độ, nó mời
gọi lật đổ, nó thách đố, hoặc trực tiếp, hoặc với một sự
mặc cả hàm hồ nào đó, với chính quyền, hoặc
Chuyên Chính Nhà Thờ, hoặc Mác Xít
Lê Nin Nít, Xì Ta Lít.
Bởi vậy mà Nga có 1 thật câu thật hách
[thật oách, cho đúng tiếng Bắc Kít], nhà
văn nhớn là một “nhà nước thay đổi, xen kẽ, đổi chiều”,
“the alternative state”. Những cuốn sách của người đó, là
một hành động chủ yếu - ở nhiều điểm, độc nhất - của sự chống đối
chính trị.
Trong trò chơi mèo chuột khó hiểu như thế đó,
và nó gần như không thay đổi, kể từ thế kỷ 18, Viện
Cẩm Linh cho phép sáng tạo, và có khi còn
cho phát hành, quảng bá những tác phẩm nghệ
thuật hiển nhiên mang tính nổi loạn, phản động.
Với dòng đời trôi qua, thế hệ này tiếp nối thế
hệ khác, những tác phẩm như thế đó - của Pushkin,
Turgenev, Chekhov - trở thành cổ điển, chúng là những
cái van an toàn chuyển vào miền tưởng tượng một số những
đòi hỏi thay đổi, đổi mới chính trị, mà thực tại không
cho phép. Cuộc truy lùng, săn đuổi những nhà văn-từng
người, tống vào tù, cấm đoán sách của họ, là
1 phần của sự mà cả giữa đôi bên.
Một kẻ ở bên ngoài, không phải Nga, chỉ có
thể biết đến cỡ đó. Anh ta nhìn vào nỗi đau khổ của
Pushkin, sự chán chường của Gogol, hạn tù của Dostoevsky
ở Siberia, cuộc chiến đấu thống khổ chống lại kiểm duyệt của Tolstoi, hay
nhìn vào bảng mục lục dài những kẻ bị sát hại,
mất tích, nó là cái biên nhận về sự thành
tựu văn học Nga thế kỷ 20, và anh ta sẽ nắm bắt được “cơ chế”: Nhà
văn Nga xục xạo, dính líu vào đủ thứ chuyện. Chỗ nào
nhân dân Nga cần, là có nhà văn Nga. Anh
ta dí mũi vào đủ thứ, khác hẳn thái độ buồn
chán, và dễ dãi của đồng nghiệp Tây phương. Thường
xuyên, trọn ý thức Nga được truyền vào ngòi viết
của anh ta. Và để đổi lại, là mạng sống của anh ta, nói
cách khác, anh ta trải đời mình, len lỏi đời mình,
suốt địa ngục. Nhưng cái biện chứng tàn nhẫn này thực
sự cũng không nói trọn sự thực, nó vẫn giấu đi ở trong
chính nó, một sự thực khác, mà bằng trực giác,
nó thì thật là hiển nhiên giữa những đấng nghệ
sĩ Nga, nhưng kẻ bên ngoài đừng hòng nắm bắt được.
Lịch sử Nga là một lịch sử của đau khổ
và nhục nhã gần như không làm sao hiểu được,
hay, chấp nhận được. Nhưng cả hai - quằn quại vì đau khổ, và
ô nhục vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một
viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì độc nhất
vô nhị, hay là sự phán quyết sáng ngời. Cảm quan
này có thể chuyển dịch vào một thành ngữ “the
Orthodox Slavophile”, với niềm tin của nó, là, Nga là
một xứ sở thiêng liêng theo một nghĩa thật là cụ thể,
chỉ có nó, không thể có 1 xứ nào khác,
sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa Ky Tô,
khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng có thể được
hoá thân vào trong chủ nghĩa thế tục thiên sứ [chúng
ông đều là Phù Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé,
như anh VC Trần Bạch Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ
Hồ], với niềm tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội
tuyệt hảo, về một rạng đông thiên niên
kỷ của một công lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên,
tất cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn
lựa thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung
của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng thức
của nó. Và điều đó còn có nghĩa, có
một liên hệ tam giác giữa nhà văn Nga, độc giả của người
đó, và sự hiện diện đâu đâu cũng có của
nhà nước, cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa
quyết định. Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa
bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó
sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai đó
gặp, nói về cái sự sống sót của họ, với một sự ngỡ ngàng
chết lặng, không một khách tham quan nào thực sự có
thể chia sẻ, nhưng cũng cùng lúc đó, cùng trong
giọng ngỡ ngàng câm nín đó, lại ló ra một
hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ quái, rất ư là
tế vi. Dùng cái từ “hoài niệm” này thì
quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả là như thế, tếu thế! Họ
không quên những điều ghê rợn mà họ đã từng
trải qua, nhưng họ lại xuýt xoa, ui chao, may quá, những điều
ghê rợn đó, chúng tôi được Ðại Ác Nhân
ban cho, được một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không
phải đồ gà chết! Và họ gợi ý rằng, chỉ cái sự
kiện sống sót tại Nga dưới thời Xì Ta Lin, hay dưới thời Ivan
Bạo Chúa là một bằng chứng hiển nhiên về nguy nga tận
thế hay về lạ kỳ sáng tạo của số mệnh, Cuộc bàn luận giữa
chính họ với sự ghê rợn thì mang tính nội tại,
riêng tư, cá nhân. Người ngoài, nghe lén
được thì chỉ biểu lộ sự rẻ rúng, hay đáp ứng bằng
1 thái độ sẵn sàng, dễ dãi.
Những
đại văn hào Nga là như thế đó. Sự kêu gào
tự do của họ, sự rất ư bực mình của họ trước cái lương tâm
ù lì của Tây Phương, thì rất ư là rền
rĩ và rất ư là chân thực. Nhưng họ không chờ
đợi được lắng nghe hay được đáp ứng bằng một thái độ thẳng
thừng, ngay bong. Những giải pháp thì chỉ có thể có
được, từ phía bên trong, theo kiểu nội ứng với những chiều
hướng thuần sắc tộc và tiên tri. Nhà thơ Nga sẽ thù
ghét tên kiểm duyệt, khinh miệt lũ chó săn, đám
côn đồ cảnh sát truy nã anh ta. Nhưng anh ta sẽ chọn
thế đứng với chúng, trong 1 liên hệ có tính
cần thiết nhức nhối, cho dù đó là do giận dữ, hay
là do thông cảm. Cái sự kiêu ngạo nguy hiểm,
rằng có một mối giao hảo theo kiểu nam châm hút lẫn
nhau giữa kẻ tra tấn và nạn nhân, một quan niệm như thế thì
quá tổng quát, để mà xác định tính
chất của bàu khí linh văn Nga. Nhưng nó gần gụi
hơn, so với sự ngây thơ tự do. Và nó giúp
chúng ta giải thích, tại sao cái số mệnh tệ hại
nhất giáng xuống đầu một nhà văn Nga, thì không
phải là cầm tù, hay, ngay cả cái chết, nhưng mà
là lưu vong qua Tây Phương, một chốn u u minh minh rất dễ
tiêu trầm, may lắm thì mới có được sự sống sót.
http://www.tanvien.net/Tribute_1/TTT_10_Yeras_Memoriam.html
"Seldom can a year have been blackened before its time as effectively
as George Orwell did to 1984."
Họa hoằn lắm mới có 1 năm, bị bôi đen ngòm,
trước thời gian của nó, hiệu quả, như Orwell làm, với cái
năm 1984.
Ui chao, Steiner đếch biết, TTT cũng đã làm y
chang, với Bếp Lửa 1954!
Le premier, Bêp lua (Foyer du feu,
1954) décrit l'ambiance de Hanoi avant 1954, où ceux qui
partent comme ceux qui restent sont contraints à des choix forcés,
la séparation ou la mort. La réaction de la critique des écrivains
révolutionnaires fut immédiate. Dans un compte rendu de
Van Nghê (Littérature et Art), un critique m'a demandé
: « Pendant que le peuple du nord du pays est en train de livrer
toutes ses forces pour construire le socialisme, où va le personnage
du Foyer de feu ? » J'ai répondu : « II va vers la destruction
de l'histoire », chaque écrivain est un survivant.
Le Huu Khoa dịch sang tiếng Tây, trong Mảng Lưu Vong
Cuốn đầu, Bếp Lửa, 1954, miêu tả không khí
Hà-nội trước 1954; đi và ở đều là những chọn lựa
miễn cưỡng, chia lìa hoặc cái chết. Lập tức có phản
ứng của những nhà văn cách mạng. Trong một bài điểm
sách trên Văn Nghệ, một nhà phê bình hỏi
tôi: "Trong khi nhân dân miền Bắc đất nước ra công
xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhân vật trong Bếp Lửa đi
đâu?". Tôi trả lời: "Anh ta đi đến sự huỷ diệt của lịch sử,"
mỗi nhà văn là một kẻ sống sót.
La poésie entre la guerre et le camp
Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù (1)
Lần Sến cô nương lôi bài viết ‘sao dám
ghét ta la bà’ về Chợ Cá, và ‘bạn hàng’
chê ỏng chê eo, Gấu bèn đi một đường ‘tự sướng’:
Phải đọc Tin Văn trong tinh thần chờ đợi, tự mình khám
phá ra, một định luật văn học, định luật này chẳng thua
gì định luật “vạn vật hấp dẫn” ở trong vật lý học, của
Newton!
Ấy là Gấu mô phỏng Koestler, khi ông coi
Newton như là một ông nhạc trưởng của một dàn nhạc
đại hoà tấu. Theo nghĩa:
Những hiện tượng vật lý, thí dụ như thuỷ triều,
làm sao anh qua nổi con trăng này?, trái sầu riêng
rớt trúng đầu… chúng có vẻ như chẳng ăn nhập gì
với nhau, cho đến khi Newton xuất hiện, và giơ cao cây đũa
thần, thế là mọi thứ y khuôn một phép, ai vào
vị trí đó, cùng tấu bản đại hoà tấu “vạn vật
hấp dẫn”!
Những trang Tin Văn tản mạn, không đầu không đuôi,
làm xàm, bá láp… cũng đang chờ một
độc giả xuất hiện, và giơ cao cây đũa thần, và thế
là bản “Diệt Cái Ác Bắc Kít” được tấu lên!
*
Ui chao, vừa vừa thôi cha nội!
Sắp chết - chết đến đít rồi, sắp gì nữa - hiền
đi là vừa rồi!
*
Nếu vậy, thì lấy câu dưới đây, làm
"blast" cho Tin Văn:
"These fragments I have shored against my ruins”
[Những mảnh miểng này, tôi vun vén nhằm
chống lại nỗi điêu tàn của tôi:
Ôi, ôm Em trong tay mà đã nhớ Em
những ngày sắp tới].
Đây là câu thơ – These fragments…
- kết thúc Hoang Địa, The Waste Land, của Eliot.
Câu thơ đưa chúng ta trở về với Xuân Sách,
khi ông hỏi Chế Lan Viên:
Điêu Tàn ư,
Đâu chỉ có Điêu Tàn? (1)
Nhân nhắc tới Xuân Sách. Theo GCC, sở dĩ những bức
chân dung nhà văn của XS, “cực” ăn khách, đến nỗi có
những vị thèm được ông chiếu cố, để mắt tới, là do tính
“tiên tri” của chúng.
Thí dụ như “điêu tàn ư, đâu chỉ điêu
tàn”, tiên tri ở chỗ, “đâu chỉ điêu tàn?”.
XS nhìn quá chân dung, tới cái bóng
của chúng, và trong đó, có, của chế độ, được
phóng chiếu lớn ra, rõ ra.
Sự kiện, NL chê đám trong nước không biết gì
đến Steiner, theo GCC, đáng chê trách hơn nhiều, ở cái
khiá cạnh này: S. là chuyên gia về văn học Nga.
Lũ phê bình gia ở trong nước như Vương Đại Gia, tự hào,
chúng rành văn học Nga. Chúng chẳng biết gì
về văn học Nga, như những Steiner, hay Remnick, hay Wilson... Trong cuốn
“Steiner ở tờ the New Yorker, S. at the New Yorker” có hai bài
về Liên Xô, đúng hơn, về Solz, quá tuyệt. Do Cô
Út làm từ thiện, Gấu đành phải order, mua lần thứ nhì,
và sẽ giới thiệu mấy bài viết mà GCC quá mê,
ở trong đó, thí dụ, bài tưởng niệm Koestler, bài
viết về BB [Bertold Brecht]….
Steiner có hai bài viết
trên tờ The New Yorker,
[sau in lại trong Steiner @ The New Yorker] về văn học Nga, thật tuyệt.
Một, “De Profundis”, về Gulag, và một về Solz và những
nhà văn Nga khác: Dưới cái nhìn Ðông
phương, Under Eastern Eyes.
Steiner viết, những đòi hỏi
của Solz, ở những người Nga đọc lén lút ông [bao nhiêu
độc giả?], và khối độc giả bao la ở Tây Phương, thì
thật là dữ dằn, nghiệt ngã. Ông biết, và coi khinh
sự đáp ứng dễ dãi của người đọc Tây Phương, và
cái khiếu thưởng ngoạn về sự khổ đau ở xa, distant suffering, của
họ. Ông rành chúng ta, hơn là chúng ta rành
ông. Và như thế, ông là một tác giả hướng
ngoại, a searcher-out, một thứ chó săn ăn tìm sự yếu ớt về
thể xác của con người. Và, vẫn như thế, ông là
1 tác giả gây bực.
Every time a human being is flogged,
starved, deprived of self-respect, a specific black hole opens in the fabric
of life. It is an additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket
the irreparable fact of individual agony with anonymous categories of statistical
analysis, historical theory, or sociological model-building. Consciously
or not, anyone who offers a diagnostic explanation, however pious, or even
condemnatory, erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness
of the death by torture of this man or that woman, of the death by hunger
of this child. Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular.
As happens with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He
knows that if we are to pray for the tortured dead, we must commit to memory
and utter their names, by the million, in an incessant requiem of nomination.
Mỗi một
sự sỉ nhục, mỗi một sự tra tấn giáng lên một con người là
một trường hợp riêng lẻ không thể giản đơn và không
thể đền bù được . Mỗi khi con người bị đánh đập, bị bỏ đói,
bị tước đoạt nhân phẩm thì một lỗ hổng đen ngòm lại
mở toạc ra trên tấm dệt đời. Đây là một sự bẩn thỉu bồi
thêm, làm cho sự phi nhân không còn có
tính cá biệt, và phủ lên sự vô phương sửa
chữa, về cơn hấp hối của từng cá nhân, bằng đủ thứ phạm trù
vô danh về nghiên cứu thống kê, về lý thuyết lịch
sử, hay xây dựng mẫu mã xã hội. Cố ý hay không,
bất cứ người nào tìm cách đưa ra một lời giải thích
chẩn đoán, dù có đầy thiện ý cách nào,
hoặc ngay cả chỉ trích đi nữa, cũng làm tiêu hao, bào
nhẵn đến gần như quên béng đi tính cách cụ thể
không thay đổi được về cái chết do sự tra tấn của ông
này, bà kia, hoặc cái chết vì đói khát
của em bé nọ. Solz. bị ám ảnh bởi sự linh thiêng của
khoảnh khắc đặc biệt, dị thường. Như đã từng xẩy ra với Dante, và
Tolstoy, tên riêng của con người trào ra như thác
dưới ngòi viết của ông. Ông biết, nếu chúng ta
cầu nguyện cho những người chết vì tra tấn, chúng ta phải nhập
tâm và thốt lên tên của họ, trong dòng kinh
cầu hồn không ngừng, từng tên một, hàng triệu tên.
DE PROFUNDIS
THE EXACTIONS ALEXANDER Solzhenitsyn makes of his
clandestine readers in the Soviet Union
(how many are there?) and of his vast Western public have a shrewd ferocity.
He knows and despises the readiness of sympathetic response in his Western
audience, the vaguely prurient appetite for distant suffering. It is not
so much we who read Solzhenitsyn as it is he who reads us. As Tolstoy was
during his later years, so Solzhenitsyn is a searcher-out, a harrier of men's
debilities, and an embarrassment to the world.
Solzhenitsyn, a theocratic anarchist, has little
esteem for reason, particularly when it stems from the "intellectual," from
the man who makes his more or less mundane living by dispassion. In the
presence of the inhuman, reason is often a small-indeed, a laughable-agent.
It can also be subtly self-flattering, and Solzhenitsyn plays harshly on
the facile "objectivity" of those who would argue with him, who would try
to be "reasonable" without having been exposed to even a millimeter of the
archipelago of pain. What has historical analysis to say in the presence
of Solzhenitsyn's own sufferings and the cry he has sent through modern history?
Each indignity visited upon a human being, each torture, is irreducibly singular
and inexpiable. Every time a human being is flogged, starved, deprived of
self-respect, a specific black hole opens in the fabric of life. It is an
additional obscenity to depersonalize inhumanness, to blanket the irreparable
fact of individual agony with anonymous categories of statistical analysis,
historical theory, or sociological model-building. Consciously or not, anyone
who offers a diagnostic explanation, however pious, or even condemnatory,
erodes, smoothes toward oblivion, the irremediable concreteness of the death
by torture of this man or that woman, of the death by hunger of this child.
Solzhenitsyn is obsessed by the holiness of the minute particular. As happens
with Dante and Tolstoy, proper names cascade from his pen. He knows that
if we are to pray for the tortured dead, we must commit to memory and utter
their names, by the million, in an incessant requiem of nomination.
But the mortal mind is so constructed that it cannot
contain, in genuine individuation, more than a thimbleful of known presences.
At least twenty million men, women, and children were done to death in the
Stalinist purges. If we possess a vivid inward perception, we can visualize,
we can number, and, in some measure, we can identify with fifty persons,
perhaps a hundred. Beyond that stretches the comfortable limbo of abstraction.
So if we are to understand at all we must try to analyze, to classify, to
put forward those reveries of reason which are called theories.
It is a platitude older than Thucydides that in
the exercise of political power the human species can and will turn to bestiality.
Massacres have punctuated the millennia with strident monotony. The routine
treatment of slaves, of familial dependents, of the crippled or the crazed
in epochs and societies we now look back to as of eminent artistic, intellectual,
or civic splendor is such as to numb the imagination. Oases of compassion
were few and far between. (Hence the Christian promise of a compensating
Heaven.) No one really knows whether or not grass did grow again where Genghis
Khan had passed; there was no one left to look. Throughout large stretches
of Central Europe during
the Thirty Years War, there were only wolves left to devour the wind.
But there was an Indian summer, a relative armistice
with history, in the luckier parts of Western Europe and the United States
during much of the eighteenth century, and again between the close of the
Napoleonic wars and 1914. The constant of savagery lay in the hands of specialized
professional armies and had been exported to the frontier or the colonies.
Voltaire was not a naive Utopian when he foresaw the disappearance of torture
and mass reprisal from political life. The signs were positive. General
Sherman's Hunnish tactics looked like an isolated, embarrassing atavism.
It is the Armenian massacres of 1915-16 that are
at once pivotal and problematic. Were they, as some have argued, a nightmarish
epilogue to a long history of "barbarian" invasion and ravage, a throwback
to the world of Attila? Or were they, as others contend, the opening of
the age of holocaust and genocide? And what, if any, are the psychological
and technical links between the deliberate murder of one million Armenians
by the Turks and the exactly contemporary hecatombs on the Western front?
Whatever the diagnosis, the overwhelming fact was that political, nationalist
man, equipped with unprecedented weapons, had remembered or rediscovered
the logic of annihilation.
It is according to this logic that we have conducted
our affairs since. The logic has entailed the insanity of mass homicide
from 1914 to 1918 (almost three-quarters of a million at Verdun alone), the
eradication of civilian sites and peoples, the planned poisoning of the natural
environment, the wanton killing of animal species, and the Nazi murder of
Jews and Gypsies. Today, this same logic entails the cold-blooded eradication
of native tribes throughout Amazonia, the ubiquity in Uruguay and Argentina
of a degree of torture and terror which matches anything known of Stalin's
thugs and the Gestapo. Today, at this minute, it is a logic that underwrites
the suicidal bloodletting in Cambodia. The Gulag has no real
borders.
This is not to diminish by one jot the specificity
of Solzhenitsyn’s reports from Hell. But it is to ask in what ways the Soviet
edifice of servitude and degradation is or is not a segment of a more general
catastrophe. Solzhenitsyn himself is not clear on this issue. The first
two volumes of the Gulag chronicle contained crassly peremptory asides on
the distinctions to be drawn between Nazi and Stalinist practices. Solzhenitsyn
made much of the (undoubted) truth that Stalin had slaughtered many millions
more than had Hitler. (At full tide, as Robert Conquest has shown in his
classic studies, the Soviet camps comprised some eight million inmates.)
Solzhenitsyn even advanced the supposition that the Gestapo tortured to elicit
the "facts," whereas the Russian secret police tortured to produce false
witness. No such vulgarities mar this third volume, The Gulag Archipelago
Three (Harper & Row), but Solzhenitsyn remains undecided as to where and
how the Gulag fits into the texture of Russian history and of the Russian
temper. At some points, he voices the belief that oppression from above and
obeisance to brute authority by the great mass of the population characterize
the Russian spirit. But at other points he hammers at the specifically Bolshevik
nature of the regime of terror, a regime initiated by Lenin, brought to lunatic
efficacy by Stalin, and continuing in madness today on a less apocalyptic
scale. Solzhenitsyn frequently and sarcastically contrasts the relatively
benign deviltries of the czarist punitive apparatus (as reported by Chekhov
or Dostoevsky) with the consuming bestiality of the Soviet solution.
If Solzhenitsyn were to be asked whether the reversion
of modern political man to mass torture, incarceration, and murder represents
some general phenomenon, or whether each instance is an appalling singularity,
he would, I imagine, say something like this: When mankind rejected the
true meaning and urgency of Christ's example, when it turned to secular ideals
and material hopes, it severed its history and political institutions from
compassion, from the imperative of grace. A politics or a social bureaucracy
divorced from theological sanction has within it, ineluctably, the mechanics
of nihilism, of self-destructive wantonness. The Gulag-planet, the ubiquity
of torture and homicide in our public existence, is only the most dramatic,
the most shameless manifestation of a pervasive inhumanity.
It is this theological-penitential reading of man's
condition which underwrites the most eccentric but also the most deeply
felt of Solzhenitsyn's dogmas: his detestation of secular liberalism as it
flows from the French Revolution; his distaste for the Jews, in whom he
sees not merely the initial refuses of Christ but the radical libertarians
whose restlessness culminates in Marxism and utopian socialism; his contempt
for the "degenerate hedonism" and conspicuous consumption in Western societies;
his undisguised nostalgia for the theocratic aura of Orthodox-almost of
Byzantine- Russia.
This is an isolating, often maddening set of theses.
It has against it an alliance, at once ludicrous and, to Solzhenitsyn, entirely
natural, of the K.G.B., Mrs. Jimmy Carter (vide her attempt to rebut Solzhenitsyn's
tirade at the Harvard commencement), and the Swiss tax authorities seeking
to take their tithe of the royalties of their recent guest. Conjoined,
these beliefs of Solzhenitsyn make for a "mystical" explanation of modern
barbarism. It is an explanation that is, by its very nature, impossible
to prove or to deny. But is there a better one?
Many have tried to find one. The late Hannah Arendt
strove to locate the roots of modern totalitarianism in certain definite
aspects of the evolution of the encompassing nation-state, and of the quality
of economic and psychological collectivism after the Enlightenment. Others
have seen in the concentration and death camps a final enactment, at once
logical and parodist, of the industrial processes of assembly lines and standardization.
I have put forward the "working metaphor" whereby the erosion of God's
presentences from daily life and from the legitimacy of political power
generated the need to institute a surrogate damnation on earth (a Hell above
ground), this surrogate being the Nazi, the Soviet, the Chilean, and the
Cambodian Gulags. But none of these hypotheses are really explanatory. What
we are left with is the central fact: In a way and on a scale inconceivable
to educated Western man from, say, Erasmus to Woodrow Wilson, we have reverted
to or contrived a politics of torment and massacre. From this fact cries
out the only question that matters: Can the infernal cycle be stopped?
Solzhenitsyn, who has survived not only the Gulag
but the cancer ward, is animated by a raging will. More, perhaps, than anyone
since Nietzsche and Tolstoy, he is mesmerized by and master of the boundless
resilience of the human spirit. His answer would be: Yes, it is possible
to stop the juggernaut; it is possible to repudiate the banality of evil
and to say no to those who would reduce one to a worker in the slaughterhouse.
He would say-or should do so in the blaze of his own vision-that the United States could halt the genocide in Amazonia,
the sadistic circus in Argentina,
the degradations in Chile
by withdrawing from these grotesque regimes the investments, the corporate
interests, on whose largesse they operate. Solzhenitsyn can and must proclaim
that the automatism of oppression can be arrested, because he has seen
it arrested or, at least, ground to temporary impotence in the pits of
Hell itself.
This
is the testimony of the final volume of the trilogy, with its enthralling
record of camp uprisings, of escapes, of defiance by individuals and groups
of victims. Solzhenitsyn records the forty magnificent days and nights of
the revolt of May and June, 1954, in the Kengir camp. He tells the tale-it
is a classic narrative-of Georgi P. Tenno, virtuoso escaper. In poignant
closing chapters, he recalls his own resurrection from the house of the
dead, his own reentry, at once agonizing and joyous, into the habitual daylight
of more or less normal, licensed existence.
Yet this colossus of a man, so markedly a stranger
to common humanity, does not end his epic in consolation. After nine years
of clandestine writing, Solzhenitsyn closes his trilogy on the grim notice
that a century has passed since the invention of barbed wire. And he, who
has seen, lived, recounted the utmost of resistance, of hope against Hell,
implies that it is this invention that will continue to determine the history
of modern man. There is in the blackness of this great fresco no touch more
desperate.
Steiner:
September 4, 1978
[G. Steiner @ The New Yorker]
Phải là 1 tên Nam Kít,
như HTT, thì mới có được giấc mơ Phật trở lại xứ Mít,
và phải 1 nước Nga với 1 niềm tin tôn giáo của họ, mới
có 1 giấc mơ Chúa sẽ trở lại thế gian này: Hope again
Hell.
Bắc Kít quá khốn nạn:
Chúng không có niềm tin tôn giáo. Đây
cũng là điều Ha Jin chửi xứ Tẫu của ông, khi viết về Solz (1)
(1)
http://www.tanvien.net/Souvenir/day_notes_5.html
Cioran cũng tin rằng,
chính cái sự huỷ diệt Ông Trời của CS là nguồn
cơn của...vô cảm.
Một khi thần thánh
hóa Lịch Sử, bất tín nhiệm Thượng Đế, chủ nghĩa Marx chỉ thành
công, là làm cho Thượng Đế trở nên xa lạ, và
trở thành một ám ảnh khôn nguôi.
En divinisant l'Histoire pour discréditer
Dieu, le marxisme n'a réussi qu'à rendre
Dieu plus étrange et obsédant.
Cioran: Nga xô và con
vi-rút tự do, La Russie
et le virus de la liberté, trong Lịch sử và Không
tưởng, Histoire et Utopie
Người dân Miền Bắc ngày
xưa tin vào Trời Phật. Họ tin có đời sau, tin làm điều
lành thì có lợi cho đời sau, cho con cái, "đời
cha ăn mặn đời con khát nước", thí dụ. Khi CS thắng thế, họ
làm thịt Trời Phật, thay thế vào đó, là Ðảng.
Một khi Ðảng làm bậy, thì hết thuốc chữa.
Tôi [Ha Jin] luôn bị xúc
động bởi sự can đảm của Solz, và sự chấp nhận đơn độc như là
điều kiện làm việc của ông. “Cả đời tôi chỉ xoáy
vào 1 chuyện – làm việc”, ông có lần nói.
Cái làng Cavendish vào lúc đó không
có bác sĩ, theo người viết tiểu sử của ông, D. M. Thomas,
và do đau thần kinh tọa, nhà văn Solz có tuổi phải đứng
ở 1 cái bục để viết. Ðiều làm ông kiên trì
đến như thế thì không chỉ là do ông dâng
hiến mình vào việc viết, nhưng mà còn là
do niềm tin Ky Tô giáo của ông, chính niềm tin
này tạo ở nơi ông một sự kế tục quá khỏi cuộc đời này
Niềm tin vào đời sau có thể khiến cho 1 con người sống cuộc
đời này không sợ hãi. Trong một cuộc phỏng vấn trước
khi rời Nga, được hỏi, có sợ chết, Solz trả lời với nụ cười trên
mặt: "Tuyệt nhiên không! Chỉ là 1 sự chuyển đổi nhẹ nhàng,
bình an. Như 1 tín hữu Ky Tô, tôi tin rằng có
cuộc đời sau cái chết, và vì thế tôi không
tin chết là chấm dứt cuộc đời. Linh hồn có 1 sự tiếp tục, vẫn
sống tiếp. Chết chỉ là 1 giai đoạn, có người còn nói,
một giải thoát. Trong bất cứ trường hợp, tôi đếch sợ chết.”
Trong 1 đoạn khác, ông nói, “Mục đích của Con
Người không phải là hạnh phúc mà là sự
tăng trưởng, nẩy nở tinh thần”. Ðiều này cho thấy sức mạnh tinh
thần mà với nó, ông hoàn tất tác phẩm của
ông khi lưu vong.
Lời nói của ông làm tôi nhớ đến 1 cuộc gặp gỡ
của tôi với một nhóm nhà thơ Tầu ở River Falls, Wisconsin,
vào mùa hạ, 2001. Một trong số họ là 1 bạn học cũ của
tôi. Anh rất thích thành phố nhỏ Midwestern, vì
khí hậu và cảnh sắc của nó làm anh nhớ tới vùng
Ðông Bắc Tầu, nơi cả hai chúng tôi đều từ đó
tới. Tôi hỏi anh ta: "Nếu có thể, ông có
tính ở lại thành phố đó một mình để chú
tâm vào việc làm thơ?” Anh trả lời: “Tôi cần ít
nhất 1 người bạn”.
Ðúng là 1 câu trả lời rất Tầu. Ðúng
kiểu Tầu. Tâm hồn người Tầu không trông mong vào
một quyền lực vượt quá con người, như là 1 nguồn nuôi
dưỡng tinh thần. Ðiều này giải thích tại sao rất ít
người Trung Hoa lưu vong ở Bắc Mỹ sống tách biệt, riêng lẻ, và
tại sao hầu hết họ cư ngụ tại những thành phố. Tính bầy đàn
chỉ là mặt nổi của vấn đề, ở dưới sâu là sự thiếu vắng
một niềm tin tôn giáo, chính nó tạo ra 1 cái
nhìn khác biệt về cuộc đời.
Nóng hổi, 2009: Steiner ở Người Nữu Ước
CONTENTS
Introduction by Robert
Boyers
I. HISTORY & POLITICS
"The Cleric of Treason" (on Anthony Blunt)
"Wien, Wien, Nur du Allein" (on Webern & Vienna)
"De Profundis" (on Solzhenitsyn's Gulag)
"God's Spies" (on Graham Greene)
"From The House of the Dead" (on Albert Speer)
"De Mortuis" (on Aries & New French History)
II. WRITERS AND WRITING
"One Thousand Years of Solitude" (on Salvatore Satta)
"Killing Time" (on George Orwell's 1984)
"Black Danube" (on Karl Kraus & Thomas Bernhard)
"B. B." (on Bertolt Brecht)
"Uneasy Rider" (on Robert M. Pirsig)
"Rare Bird" (on Guy Davenport)
"Dead letters" (on John Barth)
"Tigers in the Mirror" (on Jorge Luis Borges)
"Of Nuance and Scruple" (on Samuel Beckett)
"Under Eastern Eyes" (on Alexander Solzhenitsyn &
Other Russians)
"Cat Man" (on Louis-Ferdinand Celine)
III. THINKERS
"The Friend of a Friend" (on Walter Benjamin &
Gershom Scholem)
"Bad Friday" (on Simone Weil)
"The lost Garden" (on Claude Levi-Strauss)
"Short Shrift" (on E.M. Cioran)
"Ancient Glittering Eyes" (on Bertrand Russell)
"A Tale of Three Cities" (on Elias Canetti)
"La Morte D'Arthur" (on Arthur Koestler)
"The Tongues of Man" (on Noam Chomsky)
IV. LIFE STUDIES
"A Death of Kings" (on Chess)
"Give The Word" (on James Murray & The OED)
"An Examined life" (on Robert Hutchins & The University
of Chicago)
Appendix: All Steiner's Essays in The New Yorker
Re: Steiner vs Mít
Độc giả Mít đầu tiên,
có lẽ là Nguyễn Tiến Văn. Anh đọc Ngôn Ngữ và
Câm Lặng từ khi còn Sai Gòn của lũ Ngụy, 1960s.
Anh cũng là người giúp GCC trong cái vụ dịch Steiner,
và khi thấy GCC "mặc khải", đây là Thầy của mình,
anh nhận xét, tôi đọc ông ta và không “chấn
động” gì hết, như vậy ông phải có 1 cái gì
đó, của Steiner, ở trong ông....
Về già, Gấu ngộ ra, cái mà Gấu có, mà
nhờ đọc Steiner, nhận ra, là Cái Ác Bắc Kít,
đúng hơn, nỗi đau Lò Thiêu, Lò Cải Tạo.
Sư phụ Steiner, ở đây, là 1 vì thầy thuốc, trong khi
ông nhún nhường coi ông chỉ là 1 tên phu
trạm, facteur, hoặc, chỉ là bọ chét, trong bộ lông sư
tử.
Trong cuốn trên, còn 1 bài viết cũng thật tuyệt, về
Elias Canetti, nhà văn Đức, Nobel văn chương.
Bài về Weil, 1 vị bằng hữu dịch giùm TV
http://www.tanvien.net/Dich_1/bad_friday.html
Alain, sư phụ Weil
Simone de Beauvoir, Mémoires d’une fille rangée,
1958. S. de Beauvoir nhớ đã từng nhìn thấy Weil, "Bà
khiến tôi tò mò, do lời đồn, cực kỳ thông minh,
và ăn mặc không giống ai; bà tản bộ trong sân
trường Sorbonne, đằng sau là một đám học trò cũ của
Alain, túi áo thủ một số Libres
Propos, túi kia, một số báo CS. Một trận đói
lớn xẩy ra ở TQ, và người ta kể cho tôi nghe, là nghe
tin, bà khóc ròng. Những giọt nước mắt của bà
khiến tôi kính trọng, hơn, so với tài triết của bà."
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|