Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội] Chu Văn An,
Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan
Anh
chủ
trương] Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998] Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999] Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ,
Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
* Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index: Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục,
ở đầu trang
Tin
Văn. Email Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ 1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới
thiệu,
chỉ
để sử dụng
cho cá
nhân
[for personal
use], xài
thoải
mái
[free]
Ông
con trai thứ nhì của GCC.
Thằng lớn, đầu lòng, tới cô con gái,
rồi tới nó. Cô Út, sinh đúng vào
dịp 30 tháng Tư, 1975, vì vậy mà đành
ở lại. GCC đã viết về...
Tay này, được cả hai tờ Người
Nữu Ước và NYRB, số mới rồi, cùng khen nức nở, thú làm sao, vớ được liền, ở tiệm
sách, nhân không có "net", bèn lang thang.
Đọc bài giới thiệu mới ghê: Dos phịa ra tay này.
Và nghệ thuật viết của xừ luỷ, theo như tờ The New Yorker, quy
về, chỉ có mỗi
1 búa của TGK: Ready
to go and not going.
“Ready to go and not going” is the purgatorial condition throughout
the novel.
Bèn nhớ Camus: Chúng ta luôn có dáng
điệu của kẻ sắp sửa ra đi
Hay Dũng của Nhất Linh: Đứng trước gió, nơi Bến Gió, sắp
sửa ra đi.
Đi đâu?
Làm cách mạng chứ đi đâu!
Nhưng nhớ nhất, là nhân vật của Melville, Bartleby, với câu nói nổi tiếng:
I would prefer not to: Tôi chọn đừng.
Note: Nhân nhắc tới Camus. Căn đảm
trong cuộc đời, và tài năng trong cuộc viết
WOL SOYINKA
THE LITERARY LION
By Nadine Gordimer
JULY 2007
Albert Camus wrote, "One either serves the whole of man or one does not
serve him at all. And if man needs bread and justice, and if what has to
be done must be done to serve this need, he also needs pure beauty which is
the bread of his heart," and so Camus called for "courage in one's life and
talent in one's work." Wole Soyinka. This great Nigerian writer has in his
writings and in the conduct of his life served the whole of humankind. He
endured imprisonment in his dedication to the fight for bread and justice,
and his works attain the pure beauty of imaginative power that fulfills that
other hungry need, of the spirit. He has "courage in his life and talent
in his work." In Soyinka's fearless searching of human values, which are the
deep integument of even our most lyrical poetry, prose, and whatever modes
of written-word-created expression we devise, he never takes the easy way,
never shirks the lifetime commitment to write as well as he can. In every
new work he zestfully masters the challenge that without writing as well
as we can, without using the infinite and unique possibilities of the written
word, we shall not deserve the great responsibility of our talent, the manifold
sensibilities of the lives of our people which cannot be captured in flipped
images and can't be heard in the hullabaloo of mobile-phone chatter. Bread,
justice, and the bread of the heart-which is the beauty of literature, the
written word-Wole Soyinka fulfills all these. Vanity Fair's Writers on Writers
Nếu Tờ Răm [Trump,
đọc theo kiểu thủ tướng Fuck của Vẹm], có thể là Tông
Tông Mẽo, chuyện gì cũng có thể xẩy ra. Thế Giới Ngoại Giao Tẩy, le Monde Diplomatique, Dec
2016
"Xì tai hoang tưởng" [paronoid
style] của chính trị Mẽo.
Dolnad Trump đã thành công, trong cái trò
ma nớp [manipulating] những xốn xang [anxieties] của Yankees mũi lõ.
Những niềm tin riêng của ông ta, và tương lai chính
trị, đếch biết được!
The White House senior counsellor wants
the press to shut up. Will the Administration try the same tactic on federal
agencies?
Báo chí, câm miệng lại. Đã có cái
loa phường rồi!
Cái
nài kiu là "Cũng Đủ Lãng Quên Đời".
Từ bài viết về "Mơ Trăng Bóng Nước", thấy
cái tựa TÌNH LƠ của pạn Nguyễn Ngọc Tư dư cái
dấu, mới đi tìm truyện gốc, bỗng dưng tìm ra được 1
bài viết của TỊNH, có dính dáng tới M &
đồng pọn.
Mượn câu thơ của Huyền Kiêu làm tựa cho những “nàng
thơ” của tôi.
Một người bạn từng hỏi, vì sao tôi thường thích
đọc sách của tác giả nữ hơn là tác giả nam.
Đơn giản là vì, người đàn ông ít thường
phơi bày nỗi cô đơn mình ra trong văn. Một là
sẽ cứng cỏi dày dạn gói trọn nỗi cô đơn trong hố sâu
tuyệt vọng chẳng mảy may lộ rõ, còn không thì
sẽ thể hiện nỗi đơn độc trống rỗng đó vô cùng mãnh
liệt vô cùng tiêu cực đến chát chúa đớn
đau. Bằng thể này hay bằng thức khác, tôi dường như
sợ với sự chơi vơi đó, nếu quá mạnh mẽ thì thành
ra nhàm chán, nếu quá xót xa thành ra
ủy mị, nên đàn ông viết văn thành ra khó
hơn phụ nữ viết văn. Mà nỗi buồn của phụ nữ bao giờ cũng đẹp. Không
vì ở lối diễn đạt cách dùng từ, thì cũng ở chi
tiết hình ảnh, không đau đáu ôm ấp trong nhân
vật thì cũng ẩn dụ trong cành cây ngọn lá.
Tôi sợ đàn bà ở chỗ này. Nhưng cũng mê
đắm đàn bà ở chỗ này.
Note: Tình cờ đọc bạn, qua FB của Minh Ngọc. Cái
sự phân biệt nam & nữ khi đọc này, theo GCC, là
quá dở, và 1 phần nào đó, cho thấy cái
dở của cái mà viết, tức văn của bạn.
Không hề có khác giữa nam & nữ trong văn chương,
và mấy tác giả bạn thích đọc, họ đều có cái
phẩm chất văn học bực cao, và phải giải ra được cái bí
mật này, mới đúng, thay vì vậy, bạn phân biệt
nam nữ.
NNT và MN là hai tác giả GCC cũng mê đọc.
Nhưng mỗi người, với GCC, có mỗi cách đọc khác nhau.
Vì họ khác nhau.
Minh Ngọc, cõi văn của bà, theo GCC, hư rồi, vì
bà này tham quá. Nhà văn không phải thứ
"nhà" chường mặt ra với đời, bà này vừa muốn viết
văn, vừa muốn làm một nghệ sĩ, kiểu đó.
Chứ, với 1 cái truyện ngắn Trăng Huyết, là đã
làm rung rinh văn học Mít, trước 1975 rồi.
Gấu có quen bà này, và đã có
lần nói ra điều trên, và bà nhận, đúng
như thế.
Đàn ông ít phơi bày nỗi cô đơn?
Thơ văn của đàn ông, thì cũng cô đơn như
mỗi người đàn ông, vậy, có khác gì nữ
cô đơn?
Nhưng đàn ông, còn có gì khác
nữa. Đàn bà viết văn, muốn khác nữa, là đành
tự tử!
Woolf, thí dụ.
Thursday, February 2, 2017
DƯỚI ĐỘ ÂM
Tôi định cư ở tiểu bang Massachusetts đã
ba mươi năm. Mùa đông cũng như cái lạnh của
vùng New England cũng trở nên thân thiết như
người bạn đường. Từ mối quan hệ ấy lần lượt ra đời các bài
chưa công bố hoặc trong dạng phác thảo.
Những bài sau đây
là lời giới thiệu cho thi phẩm tương lai DƯỚI
ĐỘ ÂM.
Chân Phương
Theo Gấu Cà Chớn, "dưới
không độ" mới đúng!
Đây là viết, làm thơ… theo thói
quen, khi nói chuyện làm xàm giữa con người
với nhau, chẳng ai bắt bẻ làm chi, nhưng viết văn làm
thơ, thì phải.... cẩn thận.
Đấng này "bạn của bạn Gấu" - những đấng như
NKT, thí dụ - nổi tiếng thi sĩ, nhưng thú thật Gấu
chưa từng đọc được, chỉ 1 câu.
Nhân tiện, bèn dẫn thêm 1 trường
hợp khác nữa, cũng liên quan tới "con số không":
Đó là lúc
con chim ưng dạy tiếng hót bơi qua (*)
Đó là tiếng
ca đuổi theo làn gió xa xưa nhất
Chúng tôi
trao đổi nhau mấy mẩu chuyện vui
Từ nhiều nơi khác
nhau
Cùng vào
gia đình
Đó là phụ
thân đã xác nhận sự đen tối
Sự đen tối ấy dẫn tới
ánh chớp kinh điển
Cánh cửa khóc
than hốt nhiên đóng sập
Âm vọng đuổi theo
tiếng kêu khóc
Đó là ngọn
bút nở hoa trong tuyệt vọng
Bông hoa ấy chống
lại cuộc hành trình không tránh
khỏi
Đó là tia
sáng tình yêu hồi tỉnh
Chiếu sáng cảnh
quan trên tọa độ số không.
It was the seagull that taught
the song to swim
It was the song that
found the first wind's source
We shared shards of happiness
Entering the home from
different directions
It was father who recognized
darkness
It was darkness that
led us to sudden lightning
The weeping door slammed shut
And echo pursued its
cries
It was the pen that bloomed
in despair
It was the flower that
refused the necessary journey
It was rays of love that awoke
Lighting the landscape
above zero
Bei Dao
Phong cảnh ở bên trên con số không
Đó là hải âu
dậy bài ca bơi
Đó là
bài ca tìm thấy nguồn gió
Chúng ta chia nhau những
mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều
hướng khác nhau
Đó là người cha
nhận ra bóng tối
Đó là
bóng tối dẫn chúng ta tới ánh
sáng bất thần
Cánh cửa nức nở đóng
sầm lại
Và tiếng vang
đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây
viết nở hoa trong chán chường
Đó là
bông hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là những tia
tình yêu thức giấc
Soi sáng phong
cảnh ở trên con số không
Note: Bài thơ này,
có tới hai bản tiếng Mít, một của
GCC, khi đọc Bei Dao trên tờ Điểm Văn Á,
Asia Literary Review, mê quá.
Sau, gặp tập thơ của ông, bèn chơi liền,
và được bạn Dã Viên dịch thẳng từ tiếng
Tầu. Vị độc giả này, dân Huế, rất mê thơ.
Rất giỏi tiếng Tầu. Trang TV như vậy là có thêm
1 vị hộ pháp!
Kính mời bác đọc
bản dịch bài thơ "Đảo" của Bắc Đảo (đọc
song song với bài thơ "Biển" của bác
thì hợp lắm)
Chúc bác
vui nhiều.
Kính
DV
Đa tạ
HA/NQT
Đảo
Mi rong ruổi trong biển sương
mù
không có
buồm
mi ngưng nghỉ dưới đêm
trăng
không có
neo
đường từ nơi này
mất hút
đêm từ nơi này
mất hút
2
Không có ký
hiệu
không có
giới hạn rõ ràng
chỉ có vách
đá dựng với bọt sóng nguyện cầu
lưu lại dấu vết tháng
năm buồn thảm
và một chút
oai nghiêm kỷ niệm cỏn con.
Bầy trẻ đi về phía bờ
cát,
dưới ánh trăng,
con cá kình phía xa,
đang phún lên
những cột nước cao vút.
3
Bầy hải âu đã tỉnh,
cánh nối liền cánh,
tiếng kêu nghe sao
thê thiết,
làm kinh động từng
phiến lá hoan hợp,
và trái
tim lũ trẻ
Trong thế giới nhỏ bé
này,
lẽ nào chỉ lay
tỉnh những điều đau khổ?
4
Đường chân trời đổ nghiêng,
chấp chới, lật ngược lại,
một con hải âu rớt
xuống,
máu nóng
uốn cong chiếc lá bồ to rộng.
cái màu
sắc bao trùm của đêm,
đã che đậy cả tiếng
súng nổ.
-Đây là đất cấm,
đây là kết
cục của tự do.
một chiếc bút lông
chim đang cắm trên cát,
mang không khí
ẩm ướt
nó thuộc về mạn
thuyền chao đảo và gió mùa,
thuộc về bờ, thuộc về
sợi mưa nghiêng,
mặt trời của hôm
qua hoặc ngày mai.
nhưng giờ lại ở đây,
viết xuống điều bí
mật được cái chết chứng thực.
5
Trên mỗi ngọn sóng,
lềnh bềnh một chiếc lông
vũ lấp lánh.
Lũ trẻ vun lên từng gò
cát nhỏ
nước biển chảy vòng
qua
như vườn hoa, đong đưa
quạnh vắng
bức liễn ai điếu của ánh
trăng trải về bên trời.
6
A, cây cọ,
chính sự im lặng
của mi,
vung lên thanh kiếm
của kẻ phản loạn.
lại một lần,
gió thổi tung mái
tóc,
như thổi ngọn cờ tung
bay đón gió.
biên giới cuối cùng,
mãi mãi
ở trong trái tim lũ trẻ.
7
Đêm, đón gió
mà đứng
vì tai kiếp
vì hung thủ ẩn
nấp
trải xuống tấm thảm mềm
êm
bày sẵn từng hàng
cốc vỏ sò.
8
Có bầu trời vô
tội là đủ rồi
có bầu trời là
đủ rồi.
Buổi chiều đứng
trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên
kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển
lên cao, khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng
đỏ rực rồi đêm tối trùm lên tất
cả
Cát ở đây
được con người chở từ đâu tới
Còn ta bị quê
hương ruồng bỏ nên phải đứng ở chốn này
Số phận còn thua
hạt cát.
Hàng cây
trong công viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau
vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên
trời
Chỉ còn ta cô
đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu
già
Giấu chút tình
sầu
Vào lời thì
thầm của biển...
Vẫn theo GCC, thêm cụm
từ “tọa độ”, là hư mẹ bài thơ, và chẳng hiểu
1 tí gì về "con số không"!
Ý niệm về con số không, này,
những người mê toán, chắc là đều biết:
Nhân loại, vào cái thời ngu
ngơ của nó, không làm sao hiểu được ý
niệm “không” này.
Đếm 1 con cừu, 2 con cừu, OK!
0 con cừu, thua!
Bất giác lại nhớ bạn quí HPA, với tác
phẩm "Văn Chương và Kinh Nghiệm Hư Vô". Trong 1 lần về
Saigon, gặp bạn quí, bên ly bia, bên gái
bán bia ôm, anh kể lần gặp lại 1 ông thầy, chắc là
thầy Văn Khoa.
Ông hỏi tao, hư vô là
cái gì tôi không biết, làm sao trò biết, mà còn có
kinh nghiệm về nó nữa?
Chính vì thế, nó được khám
phá ra trễ nhất, trong cái trí khôn
nhỏ bé của giống
người!
Con số căn, căn số, mà chẳng ghê sao?
Đây là con số "xì căng đan", như 1
lần Gấu đọc 1 bài viết về nó, của 1 vị giáo
sư Tẩy.
Phải đến mãi cuối thế
kỷ 19 con người mới hiểu được sự hiện hữu của căn số, tức con số
"vừa chẵn lại vừa lẻ", khi toán cổ điển đưa ra ý niệm
về sự chia cắt, notion de coupure, tức chia con số thành những
lớp số, và con số căn nằm giữa hai lớp số thập phân, và tuyệt vời nhất, nhờ đó,
khám phá ra vi tích phân!
Đến tân toán, thì "số căn" lại
chỉ là 1 con số thực, nombre réel! (1)
Trên nó, còn có số ảo,
số siêu việt.... khi tân toán đưa ý
niệm về vòng, anneau, nhóm, groupe, thể, corps.
Có thể nói, chính tân
toán đẻ ra thơ tân hình thức, và chính
đây là điểm chết, "tử điểm" của nó!
Chắc bạn đọc Tin Văn còn nhớ, có 1 thời,
tân toán được đưa vô trường lớp, ngay từ khi còn học tiểu học,
hay mẫu giáo. Sau thấy hại nhiều hơn lợi, phải bỏ.
Bởi là vì nó khiến cho 1 đứa
con nít, bất cứ đứa nào, cũng nghĩ, ta là
ông Trùm về Toán, 1 ông Ngô Bảo
Châu, trong tương lai, khi phịa ra 1 tân toán
học!
Borges cũng đã nói ra điều này,
khi khuyên các thiên tài thi ca, nên
bắt đầu bằng thơ vần, thay vì, làm thơ tự do.
Ông phán, nếu không có
thơ vần, ai cũng là thiên tài, tức là,
là, những đấng như ôngTrùm tân hình
thức, như thi sĩ Khế Iêm, hay thi sĩ Chân Phương, thí
dụ!
Hà, hà!
Borges chẳng đã chỉ ra, phải trải qua, không biết bao nhiêu thế
kỷ, con người mới khám phá ra, cái "sô
pha, tràng kỷ", khi "ngả bàn đèn", tức là
lật cái ghế đẩu, cao thật cao, vào thế nằm ngang,
và từ đó, có cái tràng kỷ!
Nói tóm lại, trong con số zéro, có "cái gọi là"
tọa độ, rồi, và, còn có, hơn cả thế nữa,
tức có, ý niệm âm dương.
Ý niệm này, khi ápdụng vào
vi tính, ra cái iFone, bạn đang cầm!
"Dưới âm độ", là cái quái
gì không biết nữa!
Khi bạn nói, dưới âm độ, thực sự, nó
có nghĩa, dưới không độ!
Đây là do quá dốt tiếng mẹ đẻ.
Bữa trước, thì quá dốt tiếng Tẩy, đọc
không nổi bài thơ "Cầu Mirabeau":
Vienne
la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
GCC dịch
CP dịch, "tôi vẫn là tôi"!
Bạn bè của ông, như cái tay "vẫy
gọi nhau làm người", khen um lên, có tính
"triết ný"!
Chúng ta đều biết con
số vô tỷ, hay căn số (root). Thời Pythagore, con người chỉ có
thể giải thích nổi sự hiện hữu của các số chẵn, lẻ,
thập phân. Theo truyền thuyết, khi có người cắc cớ hỏi,
làm sao giải thích nổi chiều dài đường huyền một
tam giác vuông cân có cạnh bằng 1, các
đệ tử của Pythagore đêm đến được lệnh thầy cho người đó
đi mò tôm, bởi vì nếu bí mật về một con số
vừa chẵn lại vừa lẻ, tức căn số (Muốn chứng minh, đặt a/b= căn của 2),
lọt ra ngoài thì tan tành học thuyết Pythagore,
theo đó, thế giới được tạo dựng từ những con số.
Mãi đến cuối thế kỷ 19, Toán Cổ điển
mới giải thích nổi bài toán nhức đầu này
khi đưa ra ý niệm về sự chia cắt (notion de coupure), chia
đoạn thẳng ra từng lớp (classe) những con số. Tân Toán
học lại giải thích bằng ý niệm về sự trương nở (extension)
của các thể (corps). Thành thử có ba con số
căn: Một có thực, ở ngoài đời, một, trong Toán
Cổ điển, và một trong Tân Toán. Chúng là
những isomorphismes. Trong thế giới của ngôn ngữ, một sự thực
ngoài đời, khi đem vào trong văn chương, phải được hiểu
như là một giả tưởng. Căn số theo Toán Cổ điển, được "bịa
đặt" ra nhằm giải thích sự hiện hữu của một con số, "giống hệt
như nó", ở ngoài đời, nhưng quan trọng hơn, nhờ ý
niệm về sự chia cắt, toán học nhận ra sự uyển chuyển của những
con số, mở đường cho toán vi tích phân. Như vậy nó
đáp ứng một nhu cầu trí tuệ, vừa cấp thiết, vừa lâu
dài, của con người. Cũng vậy văn chương chỉ là dối trá,
bịa đặt, nhưng qua đó, nó biểu lộ một sự thực, "thực" hơn
cả đời sống.
Sở dĩ mượn toán học như một cái cớ, để
đưa ra một giải đáp cho một câu hỏi mang tính
nhị nguyên, văn chương là thực hay là ảo, chỉ
vì nỗi đam mê từ hồi còn cắp sách đến trường,
và cũng để tạ lỗi cùng nàng tiên toán
học, cõi tưởng tượng của mọi cõi tưởng tượng, nỗi đam
mê ngoài đam mê.
Sau này, khi đọc Michel Foucault, tôi
cũng thấy ông nói tới "déchirememt entre la
vie et l'oeuvre", "la grande coupure épistémologique"
(1) và nhận ra isomorphismes giữa những cơn điên khùng
và những dòng thơ của Holderlin.
President Trump Through a Loudspeaker
Trump và cái loa phường http://www.newyorker.com/news/daily-comment
Nếu cái loa phường ở
xứ Bắc Kít có chân, thì nó
cũng hạ cánh an toàn ở xứ Mẽo!
“Welcome to your destiny.”
In the next four to eight years, the U.S. will
be commandeered by a relentless deluge of misinformation.
Trong 4 hoặc 8 năm tới, xứ sở của Yankee
Mũi Lõ sẽ bị điều khiển, chỉ huy... bởi trận lũ lụt của thứ thông tin dởm,
sai, lệch, giả, ngụy tạo...
Akhmatova: Chỉ người nào có
sống ở Nga, và nghe radio (la-dô, đài) mỗi
ngày, mới hiểu chủ nghĩa Cộng-sản là gì.
(Only someone who lives in Russia and listens to the radio every
day can understand what communism is, trích dẫn từ Chuyện
trò với Joseph Brodsky, của Solomon Volkov, nhà
xb The Free Press, 1998).
In the next four to eight years, American
children will be born in a country led by a vainglorious man who wishes
to subordinate facts to his ego.
***
If you were a child growing up in China in the
late nineteen-eighties, you learned fairly early the universe
of things that were less than dependable: hot water, the bus schedule,
and, most irritatingly—if you were an introverted second grader—the
capricious offerings of the itinerant book cart. But one aspect
of our lives, from birth until, it seemed to me, death, remained as
constant as the sunrise. This was the voice of the loudspeaker broadcasts
in our Army hospital compound (my mother was a military doctor), which
woke me every morning before I could witness the dawn, accompanying
me through all three meals and, as I brushed my teeth for bed, sometimes
long after dusk.
The first time I read “1984,” George Orwell’s
classic dystopia, I was an eleventh grader in America, and
its portrayal of a world rife with loudspeaker announcements
and an omnipotent Party did not strike me as related to the world
we had left behind when I was eight years old. Winston Smith, the
protagonist of “1984,” is confined in an authoritarian prison, deprived
of the most fundamental freedoms and inculcated with Newspeak. In
my early childhood, at least as I remembered it, everyone I knew lived
ordinary, unmolested lives.
An impassioned teacher, given to rhetorical
drama, once tried to convince me otherwise: “Don’t you see?
The Chinese government hurt its own people, and you were a helpless
victim.” But I’m not hurt, I insisted. “I mean, a victim of that
cruel society,” she pleaded, in the manner of a missionary, impatient
with the pagan who won’t see the light. The two of us went on like
this for some time, both growing increasingly exasperated, neither
capable of explaining to the other her version of truth and reality.
Other details in our conversation have been lost to time, but I never
shook the expression on her face, flushed grapefruit pink and, it seemed
to me, quivering on the precipice of tears.
Years later, I recognized the expression on
my teacher’s face as one of profound frustration with perceived
irrationality. I knew it because, when I tried to begin a conversation
with my mother about the inglorious deeds of the Chinese Communist
Party (of which she had been a dedicated member for two decades), she
recoiled with such violence that I understood instantly that my catalogue
of facts was irrelevant. A complete rejection of the Party would amount
to a denial of the better part of her adult life. It was not political
but personal, and rationality had nothing to do with it.
Rational reasoning and truth have been much
on my mind as we enter a world of alternative facts and crypto-fascist
edicts from the White House, less than two weeks into Donald
Trump’s Administration. Last week, when “1984” rose toward the
top of Amazon’s best-seller list, I dug out my dog-eared paperback
copy and reread a quotation that I had underlined a decade and a half
earlier: “For, after all, how do we know that two and two make four?
Or that the force of gravity works? Or that the past is unchangeable?
If both the past and the external world exist only in the mind, and
if the mind itself is controllable—what then?”
In recent days, as Trump and his cohorts have
peddled blatant falsehoods—that his Inauguration attracted
the largest crowd in history, or that he lost the popular vote
owing to millions of votes by illegal aliens—I have wondered
about the extent to which minds can be controlled, or, rather, commandeered,
by the relentless deluge of misinformation.
Like many Chinese immigrants, my mother and
I came to America so that my father could pursue graduate studies,
not to seek political freedom. When I was old enough to study
the Cultural Revolution and the Tiananmen massacre, periods in
Chinese history when the authoritarian government subjected its
citizenry to inexpressible brutality, I would wonder about everything
I knew, or thought I had known. The one time I asked my mother
about why she did not resist, she answered distractedly and somewhat
defensively: it was a very confused time. Who could know what was
true and what was false? What to believe and whom to trust?
The muddling of fact and fiction is a tried-and-true
tactic of totalitarian regimes. What’s more, when the two are
confused for long enough, or when an indefatigable war on truth
has been waged for a year, or two years, or perhaps eight, it will
likely be harder and more tiresome to untangle them and remember a
time when a firm line was drawn between the true and the false as a matter
of course. If amnesia breeds normalization, fatigue has always served
as the authoritarian’s great accomplice.
At the time my mother and I were getting ready
to leave for America, neither of us knew the ways in which the
contours of the world could be different. For people of my mother’s
generation, the Party’s truth had become so embedded in their understanding
of themselves that the boundary between what they represented and
what the government propagandized had faded, shifting to form the
outline of a manufactured reality.
Perhaps this is exactly what Trump and his more
ideological aides, Steve Bannon among them, envision. But it’s
just as likely that they, too, have become so convinced of their
alternative reality that what we recognize to be fiction genuinely
constitutes their fact. Orwell again: “If you want to keep a secret,
you must also hide it from yourself.” In any case, no matter what
Trump thinks of China, something about the increasingly aggressive
repression of the media by China’s President, Xi Jinping, may well hold
some appeal for him as a model. How liberating would it be, Trump might
wonder, to make all legislation a matter of executive orders and sign
them at will without Congress, vexing million-strong protests, and a media
that readily reports them?
In the next four to eight years, American children
will be born in a country led by a vainglorious man who wishes
to fit facts—and their future—into the convenient shape of his ego.
But democracy, freedom of expression, and, above all, the right to
truth are not antiquated pieties. They belong to citizens who can
still make their voices heard, before resignation metastasizes into
complacency, exhaustion into self-doubt. The struggle will be to maintain
openness and tolerance as the norm, the values that our children absorb
into their identities naturally—to be defended rather than be defensive
about.
On the day that Donald Trump was inaugurated,
I received a message from a man who had previously disparaged
my work on social media: “Welcome to your destiny.” I imagined
him smirking as he typed those words and I wanted to tell him that
he got it backward, that I already know what it is like to live in a world
with an omnipotent leader and a renovated reality. I have known
loudspeakers, their mass persuasions, emotional arousals, and booming,
relentless broadcasts. And I know that they are not my destiny, because
I won’t let them be.
By Jiayang Fan
Note:
Bài viết này, TV sẽ có bản tiếng Việt. Còn
mấy bài trên Người Kinh Tế về Trump, có post lại
trong mục Thời Sự, cũng đáng đọc.
Thêm bài nóng hổi, nổi dậy ở Nhà
Trắng!
Cứ như VC cướp chính quyền ở Hà Lội 1945!
Volkov: Do you mean the line,
"Thank God I was left on this earth without a homeland?” Those words proved
prophetic. How did they pop out of you then, in 1962?
Brodsky. Well, there was this idea of solitude ... of detachment. After
all, in that Leningrad topography, there is really a very powerful split.
There's a tremendous difference between the center and the outskirts. And
suddenly I realized that the outskirts were the beginning of the world,
not the end. 'They were the end of the familiar world but the beginning
of the unfamiliar world, which is much bigger, much vaster. In principle
the idea was that, in leaving for the outskirts, you're distancing yourself
from everything you know and setting out for the real world.
Volkov: Bạn tính nói
cái dòng thơ “Cám ơn Trời tôi bị bỏ lại trên
thế gian này đếch có quê hương?”
Đúng là dòng thơ tiên tri. Quái làm
sao, nó lại bật ra vào năm 1962?
Brodsky: Chắc là do cô đơn, tách rời. Nói cho
cùng, cái địa thế của Leningrad gây chia lìa,
(đi hay ở là chọn lựa chết người. TTT). Có 1 sự khác
biệt khủng giữa trung tâm và ngoại vi. Và bất thình
lình tôi nhận ra, ngoại vi là khởi đầu của thế giới,
không phải tận cùng. Chúng là tận cùng
của thế giới quen thuộc, nhưng là bắt đầu của thế giới không
quen thuộc, lớn hơn, rộng hơn. Khi rời bỏ trung tâm tới ngoại vi, là
bạn tự tách mình ra khỏi mọi thứ bạn quen biết, và bước
vào thế giới thực.
Volkov: Chuyện trò với Brodsky
Lẽ dĩ nhiên
đường từ St Petersburg
tới Stockhom đi qua địa ngục, cũng vẫn nhà thơ người Nga, trong bài
diễn văn nhận giải Nobel văn chương, đã tuyên bố như vậy.
Nobel hay không Nobel, tôi cũng thử bắt chước ông và
tuyên bố: Lẽ dĩ nhiên, con đường trở về Hà Nội đi qua
địa ngục.
Nguyễn Quốc Trụ
PXA, đứng trước Tòa Đô
Chánh, Saigon, cc 1970. Bị mê hoặc bởi văn hóa
Mẽo, điệp viên cộng tác, như là ký giả cho tờ Time
PXA pose devant la marie de Saigon. Fasciné par
la culture américaine, l'espion collaborait comme journaliste
à Time Magazine
V/v cuộc
chiến Mít, bao nhiêu năm rồi, bao nhiêu nước chảy
qua cầu rồi, bây giờ, có thể nói, chúng ta
quá rành về nó, tại sao nó lại xẩy ra. Nhưng
trước bây giờ, có vài người nhìn ra nó,
thật tới, là Solzhenitsyn, bởi là vì vào
năm 1975, trên 1 đài truyền hình, trong 1 chương
trình văn học, ông đã phán, Bắc Kít sẽ
thắng, và sẽ ăn cướp Miền Nam.
Có điều ông không thể ngờ được Cái
Ác Bắc Kít không chỉ tàn phá Miền
Nam, mà còn huỷ hoại toàn thể nước Mít
như bây giờ.
Nhưng Graham Greene, bảnh hơn nữa, khi phán, đây
là cuộc chiến giữa "Cái Ác Bắc Kít" và
"Thiện Ý" của Mẽo, và đây là đề tài
của "Người Mỹ Trầm Lặng".
Sở dĩ Cái Bóng của GG kéo dài ra
mãi, "Rợp Bóng
GG" như 1 bài viết vinh danh ông, vì cuộc chiến
Mít cứ thể được lập lại, nếu với nó, là Quỉ Đỏ,
thì với cuộc chiến Iraq, là Quỉ Hồi Giáo!
Cái Ác Bắc Kít
chỉ làm chết xứ Mít, nhưng Thiện Ý của Mẽo, còn
làm chết dài dài!
Liệu Cái Ác Bắc Kít, hay nói rộng
ra, Cái Ác Á Châu có thuốc chữa,
như Cái Ác Nazi, đã bị kiềm chế?
GCC nghĩ, vô phương.
Tolstaya cũng nghĩ như thế, qua bài điểm sách
Conquest.
Tình cờ, đọc lại Milosz, cuốn Witness of Poetry,
ông cũng đau đáu - chữ của... Vẹm, đọc thấy đau đáu
- nỗi đau này, và qua bài thơ Né phố
Descartes cho thấy, ông đã tiên đoán ra
những tên bạo chúa Á Châu, như Chu Ân
Lai, Polpot, Phạm Văn Đồng (?), đều là học trò của Âu
Châu, nhung ông vẫn khẳng định, phải bắt đầu bằng Âu Châu.
Đây là 1 chương quan trọng, trong cuốn sách.
GCC hy vọng sẽ đi
1 đường về nó, nhưng không dám hứa lèo nữa!
Bypassing rue Descartes
I descended toward the Seine, shy, a traveler,
A young barbarian just come to the capital of the world.
We were many, from Jassy and
Koloshvar, Wilno and
Bucharest, Saigon and Marrakesh,
Ashamed to remember the customs of our homes,
About which nobody here should ever be told:
The clapping for servants, barefoot girls hurry in,
Dividing food with incantations,
Choral prayers recited by masters and household together.
I had left the cloudy provinces
behind,
I entered the universal, dazzled and desiring.
Soon enough, many from Jassy
and Koloshvar, or Saigon or
Marrakesh
Were killed because they wanted to abolish the customs of
their homes.
Soon enough, their peers were
seizing power
In order to kill in the name of the universal beautiful ideas.
Meanwhile, the city behaved
in accordance with its nature,
Rustling with throaty laughter in the dark,
Baking long breads and pouring wine into clay pitchers,
Buying fish, lemons and garlic at street markets,
Indifferent as it was to honor and shame and greatness and
glory,
Because that had been done and
transformed itself
Into monuments representing nobody knows whom,
Into arias hardly audible and into turns of speech.
Again I lean on the rough granite
of the embankment,
As if I had returned from travels through the underworlds
And suddenly saw in the light
the reeling wheel of the seasons
Where empires have fallen and
those once living are now dead.
There is no capital of the world, neither here nor anywhere
else,
And the abolished customs are restored to their small fame,
And I know the time of human generations is not like the time
of the earth.
As to my heavy sins, I remember
one most vividly:
How, one day, walking a forest path along a stream,
I pushed a rock down onto a water snake coiled in the grass.
And what I have met with in
life was the just punishment
Which reaches, sooner or later, everyone who breaks a taboo.
Czeslaw Milosz: The Witness of Poetry. Starting from My Europe
Giải Oan
Ba mươi năm qua rồi đó
em
Rừng em nằm sương nhỏ từng đêm
Bao nhiêu lớp lá vàng rơi rụng
Mưa nhạt nhòa, nắng chiếu xuyên nghiêng
Mắt em còn mở nhìn
trời cao
Hay úp mặt ngửi đất tanh tao
Máu đã khô nuôi mầm rễ mới
Chảy trong từng mạch nhựa xôn xao
Ba mươi năm chị thường nằm mộng
Thấy em vùi sóng nước vỗ bờ
Những đôi mắt quanh em thù hận
Và tiếng kêu loài thú hoang sơ
Em có nghe kinh cầu giải
oan
Mõ khua hòa trên sóng thênh
thang
Hồn em có chút gì xao động
Và tâm em có được bình an
Da thịt xưa giờ hòa trong
đất
Níu kéo chi cõi thực cõi hư
Ôi không muốn mà sao vướng vất
Nỗi oan khiên từ thuở dựng cờ
Đêm nay rằm trăng rồi
sẽ sáng
Lạnh từ trong chân tóc chưa tan
Kinh cầu nguyện xin làm chăn đắp
Khói nhang buồn sưởi ấm bi thương
Em hãy đi vào
nơi miên viễn
Hãy quên đi cuộc chiến đã tàn
Em hãy nhập vào dòng nhựa thắm
Nở mầm non xanh mướt rừng hoang
Lá sẽ che mộ em đã
lấp
Cỏ sẽ đùa với gió đi qua
Trong mơ chị sẽ không còn sóng
Và hồn em ríu rít chim ca
Thôi em đừng nhớ thiết
tha
Đặng Lệ Khánh
(viết cho em trai, mất tích
trên đường vượt biên qua Thái, xuyên Campuchia)
THE SECRET
I have my excuse, Mr. Death,
The old note my mother wrote
The day I missed school.
Snow fell. I told her my head hurt
And my chest. The clock struck
The hour. I lay in my father's bed
Pretending to be asleep.
Through the windows I could see
The snow-covered roofs. In my mind
I rode a horse; I was in a ship
On a stormy sea. Then I dozed off.
When I woke, the house was still.
Where was my mother?
Had she written the note and left?
I rose and went searching for her.
In the kitchen our white cat sat
Picking at the bloody head of a fish.
In the bathroom the tub was full,
The mirror and the window fogged over.
When I wiped them, I saw my mother
In her red bathrobe and slippers
Talking to a soldier on the street
While the snow went on falling,
And she put a finger
To her lips, and held it there.
Bí Mật
Xin lỗi, me-xừ Thần Chết,
Cái “note” cũ, mẹ tớ viết
Bữa tớ trốn học
Tuyết xuống
Tớ bảo bà bô
Sao con bịnh quá
Tớ nằm trên cái giuờng của ông bô
Giả đò ngủ
Qua cửa sổ
Tớ nhìn những mái nhà phủ tuyết
Trong đầu
Tớ thấy tớ cưỡi ngựa;
Tớ ở trên 1 cái tầu
Trên biển dông bão
Và rồi tớ... ngủ
Khi tỉnh giấc
Nhà thì vẫn nhà
Bà cụ
đâu nhỉ?
Hay là bà viết cái “note”, rồi bỏ đi đâu
đó?
Tớ dậy kiếm bà
bô của mình
Ở nhà bếp, một con mèo trắng ngồi
Hờ hững - từ này chôm của Thầy Kuốc – chơi cái
đầu cá đầy máu
Trong buồng tắm, bồn nước đầy
Gương, kính, cửa sổ mờ hơi nước
Tớ bèn lau
Và nhìn thấy bà cụ của mình
Đi dép
Mặc áo tắm màu đỏ
Ở dưới đường
Nói gì đó, với 1 anh lính
Trong khi tuyết xuống
Và bà đưa 1 ngón tay lên miệng
Và cứ để nguyên mãi như thế.
Thật kỳ cục. Đọc bài thơ của K, thì bèn đọc
liền bài thơ trên.
Trong The Voice at 3 AM.
Bonus bài dưới đây, cũng thật là tuyệt.
THE HEARSE for G.
Your hearse pulled by fortune-teller's white mice
Pulled by your mother and father
Pulled by the wind and rain
Pulled by teenage Jesus already carrying his cross
Pulled by your first love
Pulled by every dog you ever owned
Pulled by the fly whose legs you plucked
*
A hearse
like a rain-streaked telephone booth
Full of fire-sale leaflets
The receiver off the hook
A hiss as if a record had just ended
Some happy song played sadly
Your shirttails sticking out of a rear gate
Trying to make their getaway
*
You crawled out of your hearse
To help a fallen horse to his feet
Rows of sugar maples lined the road
Necessity the old coachman held the reins
A crow like a defrocked priest sat by his side
The hearse with whorehouse curtains
*
It's a ghost ship and on that ship
A pool table where you'll play snooker
With three veiled women Everything is made of light even the dark night
The candles whisper
As they draw close to watch
The great nothing hoard its winnings
Ui chao. tình cờ đọc lại bài thơ của K
Như chưa từng đọc bao giờ.
Thế rồi mấy bài sau, cứ thế ùa ra.
Take Care.
Both
NQT
Thơ của Simic, đọc sao thê lương quá đỗi.
Có thể vì thế, ông có nick "Nhà
siêu hình trong bóng tối"?
Và
bà đưa 1 ngón tay lên miệng
Và cứ để nguyên mãi như thế.
Everything
is made of light even the dark night
Xe Tang
Xe tang của mi, được 1 con mèo trắng kéo
Con mèo, là của 1 bà thầy bói
Bà này đã từng phán, mi là 1 đứa
trẻ mồ côi!
Được ông bô và bà bô của mi, đẩy
Và gió và mưa bèn phụ thêm
Và, phụ thêm, còn 1 đấng con nít: Chúa
Jesus
Khi Người mới 10 tuổi!
Vậy mà đã vác cây thánh giá
tổ chảng!
Người yêu đầu của mi nữa chứ
Cái cô phán, bi giờ ta hết lãng mạn rồi
Và, ta không hiểu tình yêu là cái
chó gì!
Rồi mọi con chó mi chưa từng sở hữu, dù chỉ 1 con!
Cộng 1 thêm 1 con ruồi, chân của nó mi đã
từng vặt trụi!
Note: Cái vụ được thày bói phán, mi là
1 đứa bé mồ côi, là có thực, và đã
kể ra rồi!
Nó xẩy ra đúng vào thời gian ông cụ của Gấu qua sông, rồi không
về nữa.
Ba mươi Tết, năm 1945.
Thằng
khốn, là Gấu, đọc ở đâu đó, cái từ "mồ côi",
mê quá, chẳng biết nghĩa là gì, bèn
phán ngay vào thằng em trai.
Đứa sau này tử trận.
Bị người lớn tát cho vài phát, đển nổ con mắt!
And for what,
except for you, do I feel love?
Do I press the extremest book of the wisest man
Close to me, hidden in me day and night?
In the uncertain light of single, certain truth,
Equal in living changingness to the light
In which I meet you, in which we sit at rest,
For a moment in the central of our being,
The vivid transparence that you bring is peace.
Wallace Stevens: Selected Poems
To My Sad Seagull, and Happy New
Year, and Please Take Care.
GNV
Mùa Giáng sinh
& Năm mới lại đến, kính chúc bác Gấu và
gia đình bác nhiều niềm vui, đầm ấm, hạnh phúc.
Chúc trang Tin văn, cùng với cõi văn củabác trẻ mãi,
Kính!
D.V
Tkank you
Merry Christmas and Happy New Year to you & family
Best Wishes
Best Regards
Take Care
NQT
Thư Texas
Monday, December 22, 2014 8:44 AM
Kính gửi ông Gấu,
Dám nói thẳng,
rõ và chỉ đích danh, cái ung nhọt của chế độ
Cộng sản Việt chỉ có ông Gấu !
Chúc ông cùng gia đình bình an, hạnh
phúc trong mùa lễ Giáng Sinh.
Độc giả TV
Trích Tin Văn:
“Những tên chóp
bu của chế độ VC đều vô văn hóa cả thì làm sao
mà khá cho được!
Chế độ Ngụy làm gì có 1 thằng ăn mày về
văn hóa, bằng cấp, học vấn, kỹ năng làm bộ trưởng, thí
dụ?”
Phúc đáp:
Đa tạ
Chúc bạn và gia đình một mùa Giáng
Sinh, một mùa Xuân mới, một năm mới an khang hạnh phúc
Best Regards
NQT
Nhân tiện,
xin chúc mừng Noel và Năm Mới tới tất cả độc giả TV, kèm
tin vui:
Trang Tin Văn, vừa rồi, có tí trục trặc với server, với
Nestcape composer, Gấu đã tính đóng cửa tiệm, nhưng
nay OK tất cả rồi, bèn renew domain name thêm 3 niên
nữa, chắc là vừa. Nếu tới lúc đó, vưỡn chưa chịu đi
xa, tính tiếp.
Trân trọng
NQT
TO ONE NO LONGER YOUNG
Already you can see the tragic
setting
And each thing there in its appointed place;
The broadsword and the ash destined for Dido,
The coin prepared for Belisarius.
Why do you go on searching in the furtive
Bronze of Greek hexameters for war
When these six feet of ground wait for you here,
The sudden rush of blood, the yawning grave?
Here watching you is the inscrutable glass
Which will dream up and then forget the face
Of all your dwindling days, your agony.
The last one now draws in. It is the house
In which your slow, brief evening comes to pass
And the street front that you look at every day.
Alastair Reid
J.L. Borges
Gửi Kẻ Đếch Còn Trẻ Nữa
Mi có thể nhìn
thấy rồi đấy, cú dàn dựng bi thương
Vật nào chỗ đó
Gươm và tro dành cho Dido
Đồng xu được sửa soạn cho Belisarius. Tại làm
sao mà mi hăm he đốt cháy Trường Sơn,
Tìm những vần thơ, thí dụ, đường ra trận mùa này
đẹp lắm?
Khi bốn tấm dài, hai tấm vắn,
Và vuông đất đã sẵn sàng cho mi, ở đây?
Khi máu dồn, mả đợi?
Chính là ở nơi đây, ngắm nhìn mi, là
những tấm gương bí ẩn
Chúng sẽ mơ, mơ, và rồi quên mẹ khuôn mặt
Của những ngày hèn mọn dần, nhạt nhòa mãi
đi, nhỏ mãi ra, của mi
Cơn hấp hối của mi
Khuôn mặt cuối cùng bây giờ bèn lê vào
Đây là căn nhà
Trong đó buổi chiều chậm chạp, ngắn ngủi của mi sẽ tạm ghé
qua
Và con phố đằng trước mặt, mọi ngày, hàng ngày,
mi nhìn.
THÔNG BÁO Đây
sẽ là nơi hành lễ cầu siêu cho nhà văn Vũ Huy
Quang:
- Chùa Liên Hoa, địa chỉ 9561 Bixby Ave, Garden Grove,
CA 92641
- Vào ngày 11 tháng 2 năm 2017, nhằm ngày
Nguyên Tiêu (Rằm Tháng Giêng năm Đinh Dậu).
- Từ lúc 11 giờ trưa.
Ngôi chùa này
cũng là chỗ lưu giữ bình tro và hình ảnh của
nhiều văn nghệ sĩ và bạn hữu chúng tôi như nhà
văn Nguyễn Mộng Giác, ca sĩ Quỳnh Dao, nhà văn Cao Xuân
Huy, ca sĩ Sĩ Phú, nhà thơ Định Nguyên, nhạc sĩ Nguyễn
Đức Quang...v.v...
Nhà văn Vũ Huy Quang sinh
ngày 9 tháng 7 năm 1942, mới mất ngày 14 tháng
1 năm 2017 tại Pacifica (Bắc California) sau một thời gian chống trả bệnh
ung thư, thọ 74 tuổi
Cái
truyện Cháo Rắn thần sầu, tiếc không
còn, nhưng Lão Tặc Thiên hình như
lúc nào cũng “care” GCC, tên Mít
độc nhất đã qua được cái test của Kafka, thế là
thằng chả bèn chìa ra 1 số báo cũ, tờ
The Paris Review 216, Spring 2016, trong có
1 truyện ngắn quá thần sầu, cũng trong dòng Cháo Rắn,
của Witold Gombrowicz (1904-69), mà tòa soạn
giới thiệu: Một trong nhà văn chủ chốt, major, của văn
chương Ba Lan hiện đại, có lẽ được biết nhiều nhờ cuốn tiểu
thuyết khôi hài, comic, Ferdydurke.
The Tragic Tale of the Baron and
His Wife
WITOLD GOMBROWICZ
Witold Gombrowicz’s war against
cliché. by Ruth Franklin
Note: Nhật ký của Witold
Gombrowicz, hay “cái gọi là” lưu vong Ba Lan
Bài này tuyệt lắm. TV sẽ scan
và dịch hầu độc giả.
Trích 1 câu trong nhật ký,
entry chót, viết trước khi ngỏm chỉ ít lâu:
“My entire life I have fought not to be a ‘Polish
writer’ but myself, Gombrowicz,” he wrote. He nearly succeeded.
"Trọn đời, tớ chiến đấu để không là
một 'nhà văn Ba Lan', nhưng là chính tớ,
Gombrowicz".
Xém 1 tí, là ông
thành công. Tác giả bài viết kết luận.
Câu trên nếu....
“liên tưởng”, thì đúng là của...
Gấu:
“Cả đời, ta chiến đấu để đếch
là nhà văn Bắc Kít, mà chỉ là
Gấu Nhà Văn”
Trong Những Di Chúc Bị Phản Bội, Kundera
vinh danh Gombrowicz:
Rời quê hương năm 1939, khi 35 tuổi.
Mang theo cuốn Ferdydurke, như
là căn cước cá nhân của mình....
Cuốn sách được in năm 1937, trước cuốn Buồn Nôn của
Sartre một năm, nhưng Gombrowicz, vô danh, Sartre, danh tiếng
như cồn sau Buồn Nôn.
Cuốn của Sartre đã chôm vị trí
Ferdydurke của Gombrowicz.
Nếu không có sự bất hạnh này, văn chương
Tây Phương, và có thể cả triết học, đã
đổi khác.
Mùa hè Đà
Lạt thường mưa buổi chiều, mưa liên tiếp ba buổi
rồi tạnh. Mưa núi buồn hơn mưa thành phố. Có
thể ngửa bàn tay hứng những hạt mưa đá li ti rồi
tan ngay. Mây xám thấp, sà xuống sát
núi. Chỉ chừa lại một loé sáng . Một màu
mây nếu vẽ lên tranh sẽ thấy thật dữ dội. Những cây
thông già mờ đi trong từng đám mây băng
qua. Và gió se lạnh. Phải kéo cao cổ áo.
Đến một thành phố khác, tìm mua một tờ báo
từ Sài Gòn lên như gặp được người quen, và
người quen thường đến chậm. Đọc báo ở địa phương cũng gặp những
nét riêng, biết được những sinh hoạt sinh động mà
âm thầm ...
Đã lâu lắm rồi không
qua lại đèo Ngoạn Mục. Từ Trại Hầm, Trạm Mát
đến Trạm Bò, Cầu Đất để về Xóm Rẫy ... Chuyến
xe đò lại vòng xuống Đức Trọng để rẽ qua con đường
về Nha Trang . Trên đoạn đường qua Đơn Dương, tôi như
lặng đi với bao nhiêu xúc cảm của một thời trai trẻ, đã
sống những ngày tháng nồng nàn , với những
bức tranh đầy sinh lực, thơ mộng .
Những đêm trăng trên
cánh rừng dương xĩ , tiếng vượn hú giữa khuya
, và bước chân của người bạn nhạc sĩ đến thăm
lâng lâng sương khói lúc chiều tà
: Nhớ không
Sơn rượu chiều Đơn Dương
bạn cùng ta uống cạn ...
Ban mai kéo nhau ra soi
mặt bên giòng suối trong ... Lạc Lâm
I , Lạc Lâm II , KaĐô, Đơn Dương . Mà sao
cứ nhớ mãi . "... Mặt đất này
chen chúc muôn loài hoa , mỗi loài
hoa có riêng một ngôn ngữ nói với
riêng tôi là đoá dã qùy
bao nhiêu năm rồi ở Đơn Dương, ở Đa Thọ mặt đất này
có bao nhiêu miền lạ mỗi một miền có riêng
một linh hồn mà linh hồn tôi mãi ở Đơn Dương
..." (Nguyễn Đạt)
Nhìn một rừng hoa qùy
vàng dại bên đường, thật xúc động,
khi bên cạnh là đứa con trai, hình ảnh tôi
thời mới lớn, mà nay cũng đã biết thắp lên
khoảng không những lời mịt mùng :
"Tôi cầm lửa đi qua chiều
thắp lên khoảng không
mầu nhiệm
trí nhớ thả đều những tiếng
rơi khô
mặt trời đỏ trên vai núi
..."
(Đinh Trường Chinh)
Xe qua đèo Eo Gió
lồng lộng ... Nhìn xuống lũng sâu, những đoạn đường
ngoằn ngoèo dưới đó . Qua hết đèo là Sông
Pha , một dải đồng bằng . Trên con đường hun hút , bỗng
gặp hai hàng phượng đỏ rực. Chưa thấy hàng phượng nào
đẹp như phượng Tháp Chàm. Thân cây thấp,
tiếp nối theo nhau một đoạn đường dài, đều đặn ...
Và biển đã hiện ra
phía bên phải. Một đoạn biển Cà Ná
cũng đủ dựng lên một cảnh trí. Nói chi đến
những đồng muối trắng, rồi những vườn xoài bạt ngàn
ở Cam Hòa. Muối được vun lên thành núi
, và xoài cũng vun lên thành núi.
Đẹp quá một đoạn đường đầu hạ đi qua. Lên rừng xuống
biển. Mới thở sương mai Đà Lạt, chiều đã ngâm
mình dưới biển Nha Trang. Màu nước xanh huyền diệu.
Một bờ cát chạy dài bên con đường ven biển lộng
gió . Đêm ra phố, lại tìm mua vài tờ báo.
Đọc được mấy bài thơ ngắn của Nguyễn Đình Thi , mà
nay anh vừa mới mất. Có bài "Hoa Không Quên"
mà anh đã chép tặng tôi trong cuốn
sổ tay năm 1987, hôm anh ghé Sài Gòn
: "Tím hồng
trên vách đá
một đóa hoa
bé nhỏ cười với núi
mây lộng gió
Đóa hoa không tên
từ rất xa
từ rất lâu
một ngày bỗng nở
Đoá hoa không quên
từ rất lâu
từ rất xa ..."
Phải, đoá hoa không
quên, từ rất lâu , từ rất xa ... của tôi
là đoá hoa phong lữ thảo trên những bồn
hoa bên cửa sổ những ngôi nhà Đà Lạt
, ngày nào.
Căn phòng thuê ở đường
Roses, suốt mùa
là những cánh hoa mong manh ấy, đủ màu,
chen dưới những đốm lá xanh tròn. Căn phòng
có cánh cửa không khóa , có
ngọn đèn cháy cả đêm. Cả đêm, tôi
say sưa vẽ, và Đỗ Long Vân say sưa dí mắt cận
vào sách. Từng đống vỏ Bastos xanh. Từng khuôn
mặt bè bạn : Thiệp, Sơn, Mai, Christian, Tường, Sâm ,
... Căn nhà nay là một công sở lớn. Màu ngói
màu sơn chói chan. Gió ở đâu lùa
về qua hai hàng thông cao còn đó, làm
tôi rùng mình ... "Níu vai phố rộng xin về Với cây gió trút
với hè nắng rung "
(Bùi Giáng)
Có ai ngờ, một ngày,
Bùi Giáng đã được mời lên Đà
Lạt để quay một cảnh trong phim ...
Buổi chiều, như ngày xưa,
thường ngồi ở Shanghai với Phạm Công Thiện, thời
Thiện ở dưới căn phòng đường Yagut, say sưa viết về Saroyan,
Henri Miller, ... Nay tôi lẳng lặng ngồi một mình
một góc trên chiếc băng ghế da dài ở café
Tùng. Ông Tùng mất đã hai năm nay. Còn
bà Tùng và con trai cả tiếp tục trông coi
quán . Café Tùng cũng như café Lâm
ở Hà Nội, lâu năm nhất, một góc thân thuộc
như linh hồn của phố, và của cả nghệ thuật ...
Vách bên trái
vẫn còn treo bức Thiếu Nữ Xanh của tôi, đã
40 năm, từ hôm ông mua ở phòng triễn lãm
tại Alliance Francaise Đalat, 1965 . Vách bên phải
là bức Người Chơi Đàn Guitar, đầu cúi xuống,
khổ lớn, màu nâu ấm, của Vị Ý . Phòng
trong vẫn còn bức chân dung thiếu nữ với chiếc bandeau
màu hồng nhạt của Cù Nguyễn.
Nhìn lại tranh xưa , qua
thời gian tàn phai, qua hoàn cảnh đổi thay
– ông phải giấu đi một thời gian dài mới đem
ra treo lại – lần gặp tôi về thăm đầu tiên, ông
nói vậy. Không biết bộ báo Bách Khoa
đóng bìa da mà ông sưu tập đầy đủ, có
còn không ...
Và nhà thờ Con Gà
Đà Lạt, in dấu vào bao nhiêu tranh thiếu
nữ của tôi đến ngày nay. Có lẽ ám
ảnh từ thời "Les Dimanches de Ville d’Avray", phim đen
trắng và cô bé Cybelle làm tôi
cảm động ... "Chuyện phim kể về anh chàng đánh giặc
về hơi khật khùng, thường đến đón một cô gái
nhỏ bị bỏ rơi ở trường học ngày cuối tuần. Cô gái
tên Cybelle (Si belle ?) . Một đêm lễ anh khật khùng
leo lên đỉnh tháp chuông, gỡ con gà bằng
đồng trên đó về cho cô gái để làm
quà tặng. Người trong làng nghi ngờ anh ta bắt cóc
cô gái và có tà ý . Anh
ta bị bắn từ trên tháp chuông rớt xuống đất chết
tốt , không kịp trối trăn ... " (Kiệt Tấn – Nụ Cười Tre Trúc
– nxb Văn Nghệ, trang 140).
Khi qua Paris, tôi đã
tìm đến thăm ngôi nhà thờ Con Gà
ở thành phố nhỏ Avray, kề cận Paris, cũng vì
để tìm lại bóng dáng nhà thờ Con
Gà Đà Lạt một thời sương khói. Sương khói
như trong "Một Chủ Nhật Khác" của Thanh Tâm
Tuyền. Tập truyện được viết trong không khí của mùa
hè nóng bỏng chiến tranh, trên thành
phố cao rực rỡ rét mướt, một truyện tình lãng
mạn, chứa chất những đam mê vô vọng.
Có đoạn làm nhớ khung
cảnh L’eau Vive,
quán ăn ấm cúng dưới một con dốc của các
dì xơ, những muỗng, nĩa bạc, khăn bàn trắng, nến lung
linh, bình hoa hồng sẫm...
Và Một Chủ Nhật Khác
đã in xong đúng tháng 4, 1975 , thất
tán. May Ngọc Dũng năm 75 trong hành lý
xách tay mang theo, lại chỉ có quyển truyện này.
Sau đưa cho cơ sở xuất bản Văn của Mai Thảo in lại bên này
...
Đà Lạt và đêm.
Những đêm sương toả ngát trời, đứng bên
đồi Lữ Quán Thanh Niên nhìn qua Domaine
de Marie, ánh đèn lấp loá dưới xa như những
ngọn hải đăng. Những đêm hoang vu nhất như người đi hái
hoa phù dung ... mà trong bức tranh cũ : "Người
Hái Hoa Đầu Địa Đàng" tôi đã ghi dấu.
Đó là một đồi thông, ngựa và thiếu nữ,
khăn voile bay, vầng trăng bạc ...
May là Đà Lạt vẫn
còn thông ... "Thông
với thơ là một. Trong núi thơ có đồi
thông. Trong đồi thông có núi thơ.
Núi thơ là đồi thông. Đồi thông là
núi thơ ... " (Nguyễn Đức Sơn).
Tôi còn tìm
được cho riêng mình cái mùi hăng
hắc của nhựa thông, khi đêm lạnh về bên ánh
lửa tàn, trước sân căn nhà nhỏ dưới con
dốc sâu đường Trần Hưng Đạo của Thân Trọng Minh.
Bạn đã đón tôi về, với ngụm trà thơm ngát
ban mai, nhìn ra những bụi mimosa vàng.
Tôi còn giữ mãi
hình ảnh Đà Lạt với màu mây dữ
dội.
Virginia, 9.03
ĐINH CƯỜNG
Và
Một Chủ Nhật Khác đã in xong
đúng tháng 4, 1975 , thất tán. May Ngọc
Dũng năm 75 trong hành lý xách tay mang
theo, lại chỉ có quyển truyện này. Sau đưa cho cơ
sở xuất bản Văn của Mai Thảo in lại bên này ..
DC
Tuyệt: Chi tiết là Thượng
Đế trong văn chương, và còn trong "đời thực",
như thế này, mới khiếp chứ!
Ui chao, Gấu lại nhớ ấn bản của
Gấu, được nhà thơ đích tay thân tặng,
một vài ngày, chắc cỡ đó, sau 30 Tháng
Tư, 1975, Gấu vừa ra khỏi một "rehap", tại một con hẻm Sài
Gòn, lấy cái vespa ghé thăm ông, hai
anh em ra một quán cà phê gần nhà ông,
khu Xóm Gà.
Và cũng chỉ ít tháng
sau đó, chắc cỡ đó, Gấu Cái xé
từng trang, sau khi đọc lần chót, rồi đưa vô bếp,
thay cho củi...
Bài viết của DC có
khá nhiều chi tiết là Thượng Đế trong đời thường.
Mấy bài thơ NDT.
"Cả đêm, tôi say
sưa vẽ, và Đỗ Long Vân say sưa dí mắt cận vào
sách"
"Tôi còn
tìm được cho riêng mình cái
mùi hăng hắc của nhựa thông."
* Hay,
cũng DC:
Đêm trên phố khuya
ấy là một kỷ niệm đẹp. Trong chúng ta, ai
mà không có những góc phố kỷ niệm
: Níu vai
phố rộng xin về Với cây gió
trút với hè nắng rưng
(Bùi Giáng)
Với Sơn thì : Về trên phố
cao nguyên ngồi Tiếng gà
trưa gáy khan bên đồi
như còn nghe rõ "ngọn
gió hoang vu thổi suốt xuân thì" của
chúng tôi trên phố Blao, Đơn Dương, Đà
Lạt ... Nguồn
ONE EVENING
after dinner I hurried out to the lake, which was darkly shrouded in
I no longer quite recall what type of rainy melancholy. I sat down on
a bench under the loose branches of a willow tree and gave myself over to
indefinite contemplation, wanting to convince myself that I was nowhere,
a philosophy that put me into a curiously exciting state of contentment.
How splendid it was, this picture of sadness on the rainy lake into whose
warm gray water it was thoroughly and as it were carefully raining. I
could see in my mind's eye my old father with his white hair, which made
me the insignificant, bashful schoolboy, and the picture of my mother mingled
with the quiet, graceful rippling of the gentle waves. In the large lake,
looking at me as much as I at it, I saw childhood also looking at me as
though with clear, good, beautiful eyes. Soon I entirely forgot where I was;
soon I remembered again. A few silent people walked warily back and forth
on the promenade; two factory girls sat down on the bench next to mine and
started chatting with each other; and out on the water, out there in the
dear lake, where the lovely cheerful crying gently spread, nautical aficionados
still sailed in sailboats and rowed in rowboats, umbrellas open over their
heads, a view that let me imagine I was in China or Japan or some other
equally dreamy, poetic country. It rained so sweetly, so softly on the water,
and it was so dark. All my thoughts slumbered, then all my thoughts were
wide awake again. A steamship pulled out onto the lake; its golden lights
shimmered marvelously on the bare, silver-dark water bearing the beautiful
ship as though happy about its own fairy-tale appearance. Night fell soon
afterward, and with it came the friendly command to stand up from the bench
under the trees, leave the promenade, and begin the walk home.
January 1915 (published
with next two pieces as "Three Little Fabulations")
Bạn đọc TV có thể đọc song song, những
ghi chép của DC về Đà Lạt, cái mẩu Walser viết.
Trong bài Tựa, tác giả, Ben Lerner trích
dẫn Susan Sontag: Cái cốt lõi đạo đức của nghệ thuật của
Walser là từ chối quyền uy, sự chế ngự, "the moral core of Walser's
art is the refusal of power; of domination".
Về họa của DC,
GCC thua, nhưng thơ của ông, quả có cái đó.
Làm thơ mà như không làm thơ, là
từ sự đơn điệu, mà Walser rất mê:
Introduction
....
No teacher is in a position to say whether midsummer green is a many-voiced
song, at least not without assuming a position of absurd literality,
and so Fritz's evocation of the teacher's corrective power is a way of
revealing its limits. Still, it would be wrong to say this passage only
mocks or ironizes submissiveness. There is the typically Walserian statement:
"I love things in one color, monotonous things." Praise for the monotonous,
the uniform, the mundane, the insignificant-such sentiments are everywhere
in Walser's work and maintain a crucial ambiguity. On the one hand they
are expressions of poetic attunement to those aspects of the world we too
readily overlook, and for which writers concerned with heroic exploits
often have no time. On the other hand, Walser's celebration of the monotonous
or uniform returns us to his fascination with subservience, with relinquishing
all personality to imposed order: "Modestly stepping aside can never be
recommended as a continual practice in strong enough terms." The force of
Walser's writing derives from this simultaneous valorization of irreducible
individuality and of sameness, smallness, interchangeability. In the most
various terms, Walser praises monotony; it makes it wonderfully
difficult to read his tone. When is he serious? When is he mocking the will
to conformity? Susan Sontag has written that "The moral core of Walser's
art is the refusal of power; of domination." And yet, paradoxically, part
of the power of Walser's art lies in how that refusal of domination interacts
with his narrators' demands to be dominated. Walser's voice is a strange
mix of exuberance and submission, lyrical abandon and self-abnegation. His
refusals are antiheroic, wavering; they reveal-sometimes comically, sometimes
tragically- how the desire to be ruled enters the subject, the son, the servant,
the pupil.
How can a writer refuse even the power of refusal,
preserve his freedom while falling all over himself to give it away?
Maybe the answer has to do with how Walser's singular sentences themselves
"step aside": one of the most notable effects of his prose is how it
seems to evaporate as you read. Walter Benjamin said of Walser's "garlands
of language" that "each sentence has the sole purpose of rendering the
previous one forgotten." This is not to say there aren't depths of meaning
and memorable passages, but Walser's genius often involves a kind of disappearing
act. W. G. Sebald has remarked that Walser's writing "has the tendency
to dissolve upon reading, so that only a few hours later one can barely
remember the ephemeral figures, events and things of which it spoke ...
Everything written in these incomparable books has-as their author might
himself have said-a tendency to vanish into thin air." The content of
Walser's sentences can vanish, I think, because Walser is often less concerned
with recording the finished thought than with capturing the movement of
a mind in the act of thinking; it's the motion that stays with you, not
a stable set of meanings.
Câu phán của W. Benjamin về Walser mà chẳng
"tuyệt cú", sao, mỗi câu có cái mục đích
độc nhất của nó, là đẩy câu trước đó vào
quên lãng!
Sartre cũng đã từng thổi Camus, mỗi câu là
1 hòn đảo, riêng lẻ, đơn độc, như trồi lên từ hư vô.
Mỗi câu là 1 bắt đầu, viết.
TTT: Dưng không trồi lên sự thực!
Bên hồ
Một buổi chiều, ăn xong, là tôi bèn vội vã
ra hồ, lúc này âm u giấu vào trong nỗi buồn
mưa, tôi không làm sao gợi nhớ, ra làm sao, như
thế nào. Tôi ngồi trên 1 băng ghế, dưới những cành
liễu lòng thòng, vương vãi, và chìm
vào chiêm ngưỡng, một chiêm ngưỡng thật khó
nói, như muốn tự nhủ mình, rằng mình đang ở một nơi
chốn đâu đâu, và mình thì đang hài
lòng, với chút
tò mò, lãng đãng. Ôi, tuyệt vời làm
sao, bức tranh của sự rầu rĩ, trên một cảnh hồ dưới mưa, và
nước hồ thì ấm và xám, như thể mưa thì suốt
khắp con hồ, và mưa thì thật là cẩn thận chu đáo.
Crumpled under a doomsday sign,
You roamed the streets
Convinced the day will come
You'll be meeting the Lord,
His face coming briefly into view
As the crowd pushes and parts open
At the subway entrance.
Come night, you vanished
With your soiled white raincoat,
Your gray beard and flowing hair
And your homemade sign
Warning of God's displeasure.
One time, with nothing better to do,
I followed your usual route,
Peeking into doorways and alleyways
Favored by the old and the destitute,
Wondering if you had a friend,
Or were you all alone in the world?
Charles Simic: Master in disguises
Tối như Đêm, Đêm như Tối
Nát bấy
người dưới tấm biển tận
thế
Mi mò theo những con phố
Tin chắc ngày sẽ tới
Mi sẽ được gặp Chúa
Khuôn mặt của Người thoáng hiện ra
Khi đám đông xô đẩy nhau, để lộ ra 1 khoảng trống
Ở lối xuống đường xe điện ngầm
Đêm xuống, mi biến mất
Với chiếc áo mưa trắng dơ dáy
Bộ râu xám của mi, mớ tóc lòa xòa của
mi
Và tấm biển tự
làm của mi
Cảnh báo sự không hài lòng của Người
Một lần, quá rảnh rỗi, và không làm sao kiếm
được điều gì khá hơn để làm
Thế là ta bèn mò theo mi
Theo lối đi quen thuộc
Nghé những hẻm, những ngõ, những hành lang
Chốn ưng ý của những người già, những kẻ khốn khó
Bèn lầm bầm
Không hiểu mi đã từng có 1 đấng bạn quí
Hay trơ cu lơ ở trên cõi đời này?
Same-as-Ever
There was a stonemason's yard,
But its dozen gravestones
Had no names on them yet.
Otherwise, not much to see here.
Early evening, the small stores
On Main Street already closed.
A few porch lights here and there.
The silence of bowed heads
Saying grace and gritting their teeth.
Nothing ever happens here,
Except for these foreign wars
That maim the young boys
And leave their golden girls
To hustle drinks in local dives.
Charles Simic: Master of Disguises
Vũ Như Cẩn
Đây là vườn của người thợ xây đá
Những tấm bia mộ thì chưa có tên của ai hết
Chừng trên chục
Ngoài ra, chẳng có chó gì nữa, để mà
coi!
Mới xém chiều
Những cửa tiệm nhỏ ở đường Tự Do ngày nào đã
đóng cửa
Vài ánh đèn ở cổng, chỗ này, chỗ kia
Cái im ắng của mấy cái đầu, cúi
đầu
Vừa nói lời ân sủng, vừa xỉa răng!
Chưa hề có cái chó gì xẩy ra ở đây
Ngoại trừ mấy cuộc chiến
Do bè lũ thực dân cũ và mới gây ra
Làm thịt sạch vài thế hệ zai mít, hay mít
zai
Lùa gái Mít vô snack bars
Hay vô giường, hầu hạ quan thầy Tẫu!
Bright and Early
Out of a bad dream's
Smoldering ruins,
A flight of crows'
Bloodied and dripping wings
Soared high over me
This morning
Like flying scissors
Snipping at threads,
Making my puppet head
Jerk sideways,
My feet jitterbug
On the patch of ice in the yard.
Charles
Simic: Master of Disguises
Sáng và Sớm
Từ những điêu tàn âm ỉ của một cơn mộng dữ
Một đàn quạ phọt ra
Máu chảy ròng ròng từ cánh
Bay quần quần ở trên đầu tớ
Sáng nay
Như những cây kéo bay
Cắt chỉ
Làm cái đầu búp bế của tớ (1)
Co giật
Chân của tớ như bị điện giựt
Trên lối đi băng giá
Ở vườn nhà
(1)
Re: puppet
Puppet Maker
In
his fear of solitude, he made us.
Fearing eternity, he gave us time.
I hear his white cane thumping
Up and down the hall.
I expect neighbors to complain, but no.
The little girl who sobbed
When her daddy crawled into her bed
Is quiet now.
It's quarter to two.
On this street of darkened pawnshops,
Welfare hotels and tenements,
One or two ragged puppets are awake.
Charles Simic
Lão Tặc Thiên
Sợ cô đơn, Lão bèn nặn ra lũ chúng
ta
Sợ vĩnh cửu, bèn cho chúng ta thời gian
[Đủ để làm đủ Tứ Khoái]
Tớ nghe tiếng ba toong của Lão
Lên và xuống hành lang
Tớ hy vọng lối xóm phàn nàn, nhưng
không
Cô bé khóc ư ử
Khi ông bố bò vô giường
Bi giờ chắc là ngủ rồi
Cỡ hai giờ thiếu mười lăm.
Trên con phố với những tiệm cầm đồ tối thui
Những khách sạn của dân ăn tiền trợ cấp xã
hội, và những khu nhà tập thể
Hai hay ba con rối tã tượi đã mở mắt
Note; Bài này, mới được 1 vị độc giả đi 1
cái còm thần sầu, nhưng giữ riêng, không
post được.
V/v Charles Simic, Gấu nhớ là hồi đầu, đọc, sợ, mãi
sau mới quen được.
Tập thơ mới nhất, toàn những bài ngắn, nhưng
thật là tuyệt vời.
Đúng cái ý của Brodsky, gừng càng
già càng cay.
Đó, đó, lại lăm le mở hé cửa quá
khứ. Bỏ đi tám ơi .
Tại sao lại hai giờ thiếu mười
lăm ? Giờ khắc này đánh dấu hay biểu hiện một điều gì
? Là lúc các con rối khác quá mỏi mệt
để khóc ? Là lúc các con rối khác nữa
chưa lục đục mang mặt nạ để cười ? Là khoảnh khắc nhỏ nhoi để sống
cho mình trong yên lặng ?
Trên số báo
Harvard có 1 bài về Viginia Woolf thật thú
vị. Gấu tính đi, và, tình cờ làm
sao, vớ số báo cũ ML, Oct 2007, có bài
của Linda Lê, trong mục của bà, viết về một nữ phiêu
lưu và nhà văn, "West Hoang Dại", trong đó, Woolf kể, bà
được gợi hứng như thế nào, từ West hoang dại, khi viết
“Orlando”. W viết cho Vita [West]:
Tớ sống ở trong cậu trong mấy tháng
trời, và bây giờ, tớ ra khỏi cậu. Cậu thực sự
giống ai? Cậu có thực? Tớ phịa ra cậu?
MARGOT LIVESEY Nothing Is Simply One Thing
She always had the feeling
that it was very,
very dangerous to live even one day. -Mrs. Dalloway
Note: Bài essay
này quá tuyệt.
GCC mê quá. hăm he giới thiệu
hoài, vì biết, có mấy vị độc giả ở trong
nước mê Woolf lắm, quả đúng là 1 sự kinh
ngạc.
Gấu đã từng kể, lần khám
phá ra Woolf, giữa cuộc chiến khốn kiếp, và,
sau đó, khoe với ông anh nhà thơ, ông
cũng thú quá, cùng với thằng em.... Ngồi
Quán Chùa, ông lim dim cặp mắt, mơ màng
nói với thằng em, cậu phải đọc nó vài lần,
nhớ nhe....
Ui chao, thế mà mất cả, mất cả ông
anh, lẫn Saigon, lẫn Quán Chùa!
She always had the feeling
that it was very,
very dangerous to live even one day. -Mrs. Dalloway
Sống 1 ngày, nguy hiểm
thế ư?
Vậy mà phải sống, cả cuộc chiến
nhơ nhớp, đê tiện, do Bắc Kít phịa ra, rồi bằng
mọi cách, kể cả mời thằng Tẫu vô giường... biến thành hiện thực, với ba
triệu người chết, trong nó, chưa nói, sau nó.
Và cuộc tù thê
lương sau đó!