Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn
Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ, Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục, ở đầu
trang Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới thiệu,
chỉ để sử
dụng cho
cá
nhân
[for
personal
use],
xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM W.
G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Happy New Year
SN_GCC_2017
những dẫn nhâp không
số
xuân ngấp nghé. tháng 3. toronto “có
gì lạ không” ông? tháng 3. tháng của
một nhà thơ được sinh ra và mất đi. tháng của một
dòng thơ lộng lẫy lên ngôi. viết như chỉ để cho riêng
mình nhưng lại cho mọi người. viết cho một người nhưng lại viết
cho tất cả. viết như một việc cần thiết cho chính mình nhưng
lại đủ cho một thời. viết cái chưa từng được viết. cái viết
đó quả là ghê gớm
- vậy hỏi ông làm sao viết như không có
gì xảy ra? và nếu viết như vậy thì là viết
cái gì?
- hình như khi “thiếu thốn” thì cái viết
mới “nở” ra. thế ông tự làm mình “thiếu thốn” bằng
cách gì? “phiạ” ra hay “làm” thật?
- khi “ấm” chỗ ngồi thì mới “cầm tay” rồi “biết dịa chỉ”
là “đất”. nhưng khi “cúi xuống là” ông. ông
nghĩ sao về cách đặt để này?
- cái gì tới rồi sẽ tới. nhưng mơ vẫn cứ mơ. tưởng
vẫn cứ tưởng (dầu là tưởng bở). rồi cái ác bắc kít.
rồi những bài thơ được chuyển ngữ. rồi những vấn đề được đặt ra.
để đó. rồi làm gì với chúng vậy ông?
- viết để phải chịu nhiều gièm pha. chê trách.
viết không công mà cũng viết. nay hỏi có phải
đó là “viết như không có gì xảy ra”? (và phì
cười)
chủ nhật 2-12-17
ngọn gió. điên. thổi cuồng. vào
buổi sáng. nghẽn. nắng
tháng hai. trời. sập xệ
cây evergreen. ẻo. lả
những cái. máy cắt cỏ. kín miệng
đưòng. thêm nhiều. ổ gà
những điều. điên khùng. gắn. trên
bảng biểu ngữ. bạc màu
vị hoàng đế. mất đi. vào một. ngày tháng
nào. đó
hay mất ngôi. vào một. ngày tháng nào.
đó
có khác. biệt
tôi. suy gẫm. theo chiếc lá khô. chạy vòng.
quanh
trên đường
tiếng hát khan. từ cái radio. trong xe
lùng bùng. điệu. cổ điển
bàn ghế. già nua. bụi bặm
những tỳ vết. trên thân thể. chúng
kể lại. chuyện gì cho tôi. nghe
ngày chủ nhật. trống toang hoác. thổi
vào những. cơn gió
làm sao. ngồi xuống viết. một lá thư
để gửi về. nhà khi
cái điện thoại. bên cạnh
đứa con gái. chắc mặn mà hơn. xưa
muốn nổi loạn. nhưng. thời gian
chìm xuống. đáy
cô gái. quấn. khăn
quàng cổ. xanh. đi vào nhà. dưỡng lão
gói đồ ăn. to go. trên tay
có tôi. ngồi phiá trong. đó
mà không. phải là. con sói
trong. trang giấy
giả sử. không có. biển
đất liền. đất
giả sử. không. biên giới
thì chì là. một
và. những bức tường. sẽ không. bao giờ
được xây. lên và sụp. xuống
chúng ta. là những chất. thừa thải
trong. một cuộc (làm) tình. của đất trời
đừng. mong đợi. bất cứ. điều gì
bởi tất cả là. quá khứ
tôi. viết bài thơ. vào ngày mai
và mai nữa. sẽ là ngày. lễ tình nhân
Đài Sử
The Feminist Mystique
Mar 9, 2016
Tập thơ này:
Còn bi ca? Nhà thơ Việt Nam
duy nhất viết bi ca là Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong tập
Mặt trời tìm thấy, là
một kiệt tác lớn:
bài bi ca này của Thanh Tâm
Tuyền còn đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của nó đặt
vào tương lai, một hiện tượng rất quái gở....
Chúc Mừng SN bạn Khờ. Take Care. NQT
V/v ông anh và vấn nạn, viết hay không viết, viết
như chẳng hề có Lò Thiêu, Trại Cải Tạo….
Nhớ, lần nói chuyện điện thoại với ông anh, hỏi, ông
cho biết, trời cho có thế, và đó là cách
ông trả lời, tại sao ngưng viết.
Tuy nhiên, có vẻ như ông đã tiên
đoán được chuyện này, khi viết MCNK, 1 câu chuyện
giả tưởng, về 1 anh chàng được Ngụy cho đi du học, vội về để chết,
trước khi cuộc chiến kết thúc.
Không hiểu bạn NL, khi coi Liên Đêm là
1 thứ bi khúc “vị lai”, là được gợi hứng từ MCNK?
Cái anh chàng vội về này, để kịp chết, đã
có 1 thời, Gấu "nghi" là ông bạn Khờ của GCC. Anh cũng
vội về, y chang như thế, mà, không phải như thế, thảm thế,
chán thế, thú thế!
Không hiểu làm sao mà TTT có thể tưởng
tượng ra 1 tên Ngụy bỏ chạy vội bò về để chết, như thế?
Adam Zagajewski Remembers C.K. Williams
The Threepenny Review Summer 2016
tháng
3. tháng của một nhà thơ được sinh ra và mất đi.
LIVES
C. K. Williams (1936-2015)
Adam Zagajewski
ON SEPTEMBER 20th, 2015, in Hopewell, New Jersey, the distinguished
poet C. K. Williams died after a long illness. He was born in 1936. Polish
readers know him from the translations of Maja Wodecka: the Polish press
as brought out Czuwanie (The Vigil), and Zeszyty Literackie (Literary
Notebooks) published his poems on numerous occasions. No doubt some
of Krakow's inhabitants also remember him-a tall man who read his own poems
consummately, with the greatest energy, with complete conviction-from his
author's evenings in this city, which occurred mainly in the context of
the seminar "Americans in Krakow." He really was very American; although
his grandmother, Mrs. Grabowiecka, was born in Lviv (she told her grandson
that she came to the States from Austria!). Her overlong surname was changed,
as was the case for thousands of other immigrants, on Ellis Island.
He was American, Jewish-American (his poetic debut
bore the title A Day for Anne Frank), but also European. There are,
in the United States, poets who consciously restrict themselves to "Americanness";
Europe intimidates them, cultural pluralism disturbs them, foreign languages
seem to them like implements of torture. Charlie was different. He lived
for a long time in Paris, considered that city his home, spoke French-translated
Francis Ponge- and in the afternoon he liked to drop in to a pastry shop
to ask for "un financier, s'il vous plait" (a "financier" being not
a banker, but an almond-flavored cake). He was not interested in France alone;
he followed the poetry of many languages and countries. I know that he
belonged to the group of poets who were greatly impressed by the anthology
of Polish poetry edited in 1965 by Czeslaw Milosz ( Postwar Polish Poetry).
From that moment, Polish poetry belonged to his literary canon, and Milosz
took up one of the main places in his personal pantheon.
He was not a lyrical poet (although he wrote beautiful
poems for his wife Catherine, who was the great love of his life). He was
fascinated by the disorder of the human world, the chaos of America; his
poems tried to introduce a certain harmony into this element. He was a moralist,
but an experiential, an empirical, and not an armchair moralist. In no way
did he resemble those who only condemn, without abandoning the library or
dirtying their hands. He spent his childhood in Newark, New Jersey. He
knew the suburbs, small towns, parks, and car parks; he knew New York and
Philadelphia, Paris and Boston; he taught in Fairfax, Virginia, at George
Mason University, and then for many years at Princeton. Usually, he divided
his time between Princeton and France.
He also knew the great museums, was a connoisseur
of art, loved music. If this category were not so imprecise, so overused,
I would say that he was a truly modern poet. His hero was Walt Whitman, about
whom we know that he liked to wander for hours around Manhattan, observing
and recording what he saw. Charlie also wandered through our world (more
than once we strolled together through the streets of Paris), striving to
uncover the magical, impossible formula which would allow one to capture
both the canvases of Rembrandt and the seedy alleys of New York where dealers
search for clients, both Parisian concert halls and the twenty-four-hour
petrol stations where, at night, the cashiers barricade themselves in cramped
offices. It was as if he wanted to annul the academic and not particularly
wise division between high and low. He was passionate about Greek tragedy,
but also about the slang of young Americans who attempted by means of hip-hop
to express their rebellion.
He taught classes in creative writing, and was a
conscientious and attentive teacher. I have met many young poets who remembered
very fondly the workshops that he ran.
He was famous for his poetics, for his long lines.
His strength was neither in metaphor nor in simile, but rather in the massiveness
and consistency of his poems. These poems are as if forged from iron; there
is in them nothing ephemeral or fleeting; the adjectives and nouns march
like Roman legions. Someone averse to him might remark: here everything is
said, there are no empty spaces, no surprises-which is true; Williams spoke,
as it were, "too much," repeated epithets, multiplied synonyms, could not
bear understatement; but, surprisingly, these hyperboles produced a wonderful
new quality. This was his secret, the alchemical secret of a rhetoric that
transmuted itself into poetry.
He was a realist in search of justice. "rendering
justice to the visible universe," but also to the invisible- because he
saw so many riddles, came upon so many mysteries, that he could not restrict
himself to tangible things. His breakthrough book was the collection Tar
(1983); this was the first appearance of his mature poetic style, of a voice
that was then perfected over the next few decades. The young Williams was
a poet of rage (he once wrote a poem with the refrain "It stinks, it stinks,
it stinks"), of a rage that harmonized with the mood of the Sixties, with
the campaign against the Vietnam War. Later, however, the poet's voice underwent
an evolution. He was still critical, but his rage transformed itself into
a great curiosity about the world, into an empathy towards his neighbors,
into a poetry of attentive observation and compassion.
In the title poem of his book Singing, Williams-the
same poet who emerged from a generation that condemned America's sins, chief
among these being racism-did not transform into a racist, God forbid, but
rather, in a poignant way and not without sorrow, noted the impossibility
of his reaching an understanding with a young black artist. The place of
rage was taken by a bitter wisdom.
He was named among the greatest contemporary American
poets and received the most important American prizes. He was especially
pleased to receive the Pulitzer Prize in 2000.
How did we meet? Once, in January 1986, in New York
(a few months after the appearance of my first book in America), Charlie
walked up to me, introduced himself, and said: "We are going to be friends."
And so we were, friends until the end. +
(Translated from the Polish by Jakob Ziguras)
******
- viết để phải chịu nhiều gièm pha. chê trách. viết
không công mà cũng viết. nay hỏi có phải đó
là “viết như không có gì xảy ra”? (và phì
cười)
Note: Trên 1 số báo ML cũ, có 1 bài
viết của Simon Leys về vụ này. Tuyệt cú mèo.
Bèn post ở đây, để phúc đáp hai vị bằng
hữu K/O, và nhà thơ DS
Le Magazine Littéraire Mars 2005
Góc Hà nội
Nhật Ký @ Panat Nikhom, Thailand:
Dec 13 93. The Knight was
dying inside his armor (comparing with VC). J. le Carré
Anh Bộ Đ ội Cụ Hồ chết trong chiếc
áo giáp bách chiến bách thắng.
Nhật ký những ngày
ở trại tị nạn Panat Nikhom Thái Lan.
Có vẻ như Gấu Nhà
Văn hồi đó giỏi tiếng Anh, tiếng U hơn bi giờ!
Những dòng đầu là về BHD và ông Bố
của em:
Chính là
do sự độc ác (?), mà ông bố Bắc Kít muốn
con học bác sĩ. Ông muốn cô con gái trở thành
cái máy làm ra tiền.
Trong số những cô
gái mà Gấu quen, TL [nhân vật chính trong
Bụi] là hạnh phúc nhất,
có một tuổi thơ được gia đình chiều chuộng, nhưng căn bịnh
đã vượt lên tất cả.
Người ta nói,
thành phố, một khi bị lột truồng mọi ảo tưởng, mất đi một cái
gì thánh thiện, và xì ra một cái
mùi gì đó. Nó trở thành bà
già, không còn là thành phố.
13 Tháng 12, 1993. Anh bộ đội Cụ Hồ chết trong chiếc áo
giáp bách chiến bách thắng.
Dec 13 93. The Knight was dying inside his armor (comparing with
VC). J. le Carré
Hà Nội Của Gấu
Gấu, Bắc Kỳ 54. Rời Hà Nội khi
vừa mới biết yêu cái cột đèn, cái ngã
tư, tiếng còi mười giờ chạy trên thành phố... Vào
Nam, Gấu nhớ tiếng còi, nhớ cái tháp rùa đến
ngơ ngẩn mụ cả người, bèn tự nhủ thầm, phải kiếm cho được một cô
bé Hà Nội...
Cô là em của một người bạn học. Ông anh vợ
hụt học dưới Gấu một lớp. Quen qua một người bạn, tên Uyển, hồi
ở hẻm Đội Có, Phú Nhuận.
Kỷ niệm lần đầu tới nhà cô
bé, nghĩ lại thấy thật buồn cười.
Ông anh cô khi đó
đang học Đệ Tam, ban toán, và ông đã ra câu
đố: muốn gặp em tao thì phải giải cho được bài toán
hình học này. Chẳng hiểu ông thực tình bí,
hay là muốn thử tài, theo kiểu: mày có đủ
sức chinh phục con em tao hay không? Hồi đi học, Gấu vốn nổi tiếng
là một cây toán. Cô em cũng dân toán,
sau học y khoa.
Lên đại học, ghi danh chứng chỉ Toán Đại Cương; tới
kỳ thi, không hiểu bài toán muốn gì, Gấu nộp
giấy trắng ra về!
Nhà nghèo, Gấu chỉ đủ tiền mua cours của giáo
sư Monavon, mà không hề làm một bài tập nào.
Ôi, giấc mộng đã tan mà sao ảo tưởng vẫn còn!
Khi Gấu quen, cô bé mới
mười một tuổi, chưa có núm cau. Chưa có gì,
chỉ có một nỗi buồn Hà Nội, ở trong đôi mắt thăm thẳm.
Như lạnh lùng tra hỏi: anh yêu tôi hay là
anh yêu Hà Nội?
Vừa ra ý ỡm ờ: anh yêu tôi, vì tôi
độc?
Và đẹp?
Nhà cô bé giầu,
Gấu sững sờ tự hỏi, tại sao lại có nỗi buồn như thế ở trong cô
bé mới mười một tuổi?
Sau này thân rồi, cô tâm sự: đi học,
H. chỉ có mỗi một cái áo dài trắng độc nhất.
Có lần, H. nghe mấy con bạn nói đằng sau lưng: con nhỏ
này nó làm bộ nghèo...
Lần cuối cùng gặp cô bé, khi mối tình
đã tan vỡ. Cô lúc này coi Gấu như một người
thân, nói: H. mới đi chợ cho mẹ, lỡ tiêu quá
một chút, anh đưa H. để bù vô. H. rất ghét
phải giải thích...
Em gái của cô, mỗi lần thấy bố vô phòng,
là bỏ ra ngoài.
Lần cuối cùng hẹn gặp trước khi Gấu lấy vợ: cô đang
học y khoa, ở tít mãi trong Chợ Lớn. Chỗ gặp mặt là
một quán Tầu ngay Chợ Đũi. Gấu vẫn thường ngồi đó, chờ
cô bé đưa em đi học tại một trường kế bên, rồi ghé.
Cô em gái có lần thấy, đang bữa ăn chiều như nhớ ra,
kêu "chị, chị ra đây em nói cái này hay
lắm: buổi sáng em thấy chị đi với anh Gấu."
Bạn bè, cô, và cô em gái vẫn
gọi anh bằng cái tên đó. "Có thể bữa nào
giận H. nó sẽ nói cho cả nhà nghe, nhưng cũng chẳng
sao..."; Gấu ngồi chờ, cố nhớ lại những kỷ niệm cũ. Khi quá giờ
hẹn 5 phút, anh bỏ đi.
Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời
mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường
Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích,
vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới
nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có
lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó,
em hiểu.
Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán.
Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa
xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch
giùm tất cả những kỷ niệm về một cô gái
Hà Nội,
độc,
và
đẹp...
Độc, là chuyện sau này, do Gấu tưởng tượng ra, khi
đi tìm một cái tên, cho một cuộc chiến.
Sự thực, những kỷ niệm về một miền đất, về một thành phố,
và về cô bé, chúng thật đẹp.
*****
"Suốt khoảng phố gần trường toàn
nhà một tầng cửa gỗ lùa, lọt vào một nhà
cửa sổ chấn song sắt luôn mở rộng. Có một lồng chim ngày
nào đi học tôi cũng thấy treo phía ngoài. Chim
gì chẳng đẹp. Trông như mớ cỏ rối. Nhưng tiếng hót
thì trong veo. Trong. Và phấp phỏng như nắng thu đang do dự
rây qua ngàn vạn lá xuống phố. Nhà ấy không
bán hàng. Có những đứa trẻ ăn mặc đẹp hơn tôi,
chân đi dép nhựa ra vào. Chúng đến đó
học đàn. Chúng làm tôi tủi thân nhiều hơn
là thẹn. Có một lần tôi bị tụt quai dép cao
su và tôi chẳng còn cách nào hơn là
lếch thếch xách cả dép lẫn cặp nhón nhén đi
bộ trên hè phố trước mặt chúng nó.
Từ ngôi nhà chúng ra vào bay ra những
hợp âm thô kệch, lập cập. Thua tiếng hót của con chim
giống như nùi cỏ rối (....) Nhưng không hiểu sao tôi
cứ buồn buồn khi nghe tiếng dương cầm vang lên lập cà lập
cập dưới ngón tay bọn trẻ con không quen biết..."
"Có lần tôi nhìn thấy cô chơi đàn.
Tôi không biết đó là bản gì. Nhưng
tiếng pi-a-nô buổi tối thành phố lên đèn ấy
tôi nhớ lập tức. Tiếng đàn mới cao sang làm sao.
Trong vắt. Róc rách. Dường như những thân sao đen
cao vút đang từ từ vướn lên, vòm lá mở ra để
lộ một bầu trời đen thẫm, mịn màng như một đĩa thạch và
chi chít sao."
"Chiến tranh đánh phá lần thứ hai. Có vẻ
ác liệt hơn lần trước. Cũng có thể là vì
tôi lớn hơn và biết sợ nhiều hơn trước. Chúng tôi
lại đi sơ tán. Để lại Hà Nội những hầm công cộng dài
rộng mênh mông, những hố tăng xê ngập nước ngày
mưa. Để lại tiếng loa truyền thanh và tiếng còi báo
động nghe hết hồn hết vía rú lên từ phía Nhà
Hát Lớn..."
".... Hồi ức chiến tranh thường chỉ quẫy cựa khi đi qua Phố Huế.
Một đứa lớp tôi chết ở đó. Vệt bom liếm hết nhà nó
thì dừng và hôm đó là hôm nó
về lấy gạo nuôi em."
(Những giọt trầm, truyện ngắn Lê Minh Hà)
Gấu được đi học Hà Nội, là
nhờ bà cô lấy chồng Pháp. Một kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông
Dương. Bà cô đẹp, cao, sang, không một chút
liên can tới cái làng nghèo đói ven
đê sông Hồng. Người ở đó không muốn bà
về. Chỉ cần tháng tháng gửi tiền. Vì cũng là
một người cùng làng, thằng cháu bị vạ lây, thời
gian đầu sống với bà cô.
Có thể, lúc đầu bà cô chỉ nghĩ tới
Gấu, do tội nghiệp. Chẳng bao giờ bà hỏi han. Gấu cũng chẳng dám
đòi hỏi gì, ngoài hai bữa cơm, rồi lo đi học. Bà
cho Gấu ở riêng một căn phòng kế bên nhà bếp.
Không được bén mảng lên nhà trên.
Gấu chỉ có một bộ quần áo đi học. Mỗi lần giặt,
ủi liền, cho kịp giờ đi học. Có những lần quá ướt, bàn
ủi không kịp nóng. Cho tới một bữa, Gấu ỷ y, chạy ra ngoài,
khi ngửi mùi khét thì đã xong một bên
ống quần.
Đó là một villa trông ra hồ Halais. Nhà
của hai ông Tây, đều kỹ sư Sở Hỏa Xa Đông Dương. Ông
Tây già, là chồng bà cô. Chức vụ chắc
thua ông Tây trẻ, vì ông này có
tới hai người hầu: một người bếp, một người bồi. Ông Tây già
ăn uống đều do bà vợ. Ông bếp già, vào những
ngày cuối tuần, chủ đi chơi, thường dắt gái về nằm trong
bóng tối hành lang phía trước. Mỗi lần như vậy, Gấu
lén lên nhà trên, bò tới sát, chỉ
cách bức tường, cánh cửa, rồi hồi hộp lắng nghe. Một lần
cô gái làng chơi biết, nói: có người ở
bên trong nhà. Ông bếp hừ, hai thằng bé, trời tối
mịt, chúng nó chẳng thấy gì đâu.
Mỵ là tên anh bồi. Gấu không nhớ tên
ông bếp già. Ông rất thù ghét Tây,
tuy làm bồi bếp. Gấu biết từng chi tiết chiến thắng Điện Biên
Phủ, là do ông kể. Chắc cũng chỉ từ trí tưởng tượng
của ông. Hiệp định Genève chia đôi đất nước, ông
về làng, chắc chắn là khổ sở với quá khứ Việt gian.
Gấu gặp cả hai vợ chồng anh Mỵ, và đứa con gái duy nhất
mới sinh được vài tháng, ở Hải Phòng, những ngày
chờ đợi tầu. Thằng em đã về quê, ở với bà vợ lớn.
Lần đó, anh Mỵ nói với bà cô. Bữa hôm
sau, bà dẫn Gấu đi mua mấy bộ quần áo. Bà mắng:
tại sao không nói. Thấy thằng cháu im thin thít,
bà như hiểu ra, giải thích: Tao chỉ ghét mẹ mày.
Cả làng cả họ cứ xúm vào gấu váy con mụ me
Tây này.
Không những mắng, mà còn tát
cho Gấu vài cái.
Đó là lần bà bắt gặp hai đứa, Gấu, thằng
Hìu, em anh Mỵ, trời tối thui mà cũng cố căng mắt nhìn
ra phía ngoài...
Lếch thếch xách dép, một kỷ niệm như vậy dù
sao cũng dễ thương hơn nhiều, so với của Gấu, những ngày đầu học
Nguyễn Trãi, với cái quần độc nhất, với đôi guốc
lạch cạch nện trên đường phố, trong sân trường. Nhưng dù
dép, dù guốc, cũng không bằng chân trần, lúc
tan học, nhìn lũ bạn đứng từ ngoài liệng cả dép
lẫn cặp vào tới tận gậm giường bên trong nhà, rồi
theo nhau chạy ra bãi cát dưới chân cầu sông
Hồng, hoặc lang thang bên dưới vòm trời thành phố.
Và tiếng còi dễ thương đuổi theo Gấu suốt đời chưa biến
thành ghê rợn, nhưng tiếng kèn đồng thê thảm
từ một vũ trường gần bờ Hồ theo Gấu mãi, cùng với hình
ảnh cô gái bán rau muống bị Tây hiếp đứng co
ro cố túm chiếc quần còn rỉ dòng nước nhờn, khi nhìn
thấy thằng nhỏ đi học đang bước tới, ngay gần nhà ở ngoại ô
Bạch Mai, kế bên đường rầy xe điện.
"Vậy mà không hiểu sao
đôi khi tôi cứ nghẹn ngào, không làm
sao dứt đứt ra khỏi lòng dạ những xôn xao của cái thời
ngốc".
(Lê Minh Hà, Những giọt trầm)
Ngay khi từ biệt, Gấu đã biết,
sẽ có ngày cô bé (Hà-nội?) trở
lại, qua một hình bóng khác. Khó mà
dứt đứt ra khỏi lòng dạ, một thành phố, một đoạn đời.
Sự thực, khi gặp ông anh
vợ hụt lần đầu, Gấu không hề biết, ông có một người
em gái, tên là "cô bé". Nhưng chuyện
ông đưa ra bài toán đố là có thiệt.
Về già nghĩ lại, bao chuyện may rủi trên đời, đều là
do chuyện mê toán của Gấu, kể từ khi còn ở Hà
Nội. Người đầu tiên khám phá ra tài làm
toán của Gấu là Ông Tây, chồng bà cô.
Bà cô Gấu, tuy bề ngoài lạnh lùng,
nhưng lúc nào cũng để ý đến Gấu, qua... Ông
Tây. Một lần bà nói, “Ông Tây bảo, mày
còn ngu hơn thằng Hìu, em anh Mỹ”.
Đó là một buổi chiều, Ông Tây
đi làm về. Có bà cô ngồi trên xe. Khi
xe làm hiệu rẽ vào cổng, thằng cháu nhanh nhẩu tập
làm bồi, mở vội hai cánh cổng bằng sắt. Thằng Hìu
đứng bên, dơ tay chặn lại. Không hiểu làm sao nó
biết, hai người chỉ đậu xe, về nhà thay đồ, và còn
đi shopping.
Lần thứ nhì đụng độ Ông Tây, là
bữa Gấu mê mải làm toán, ngay hành lang trước
villa. Dùng phấn trắng vẽ ngay trên mặt gạch. Gấu không
nghe thấy tiếng xe, tiếng mở cổng, ngay cả khi Ông Tây tới
sát bên Gấu… chỉ tới khi ông hừ một tiếng rất ư là
hài lòng, và sau đó bỏ vào trong nhà.
Chắc ông đã mê mải theo dõi, và hồi
hộp, không hiểu thằng bé nhà quê này
có chứng minh nổi bài toán hình học hay không.
Ông là kỹ sư, và hình ảnh thằng nhỏ đang say
sưa với bài toán đến nỗi quên phận sự làm bồi,
không mở cổng cho ông, có thể làm ông
nhớ lại thằng nhỏ-là ông ngày nào.
Bữa sau, bà cô mặt mày tươi tỉnh cải chính
câu nói bữa trước, “Không, Ông Tây nói,
mày thông minh hơn thằng Hìu.”
Chính Ông Tây mới là người quyết
định tương lai của Gấu. Bởi vì bà cô, kể từ đó,
đã có ý định cố lo cho thằng cháu ăn học.
Trong quyết định bỏ vào Nam của Gấu, có giấc mơ
học giỏi tiếng Pháp, để viết một bức thư cám ơn một ông
tây thuộc địa.
Cửa sổ nhà mình nhìn thẳng qua đê
- phố Trần Khát Chân.
Xưa sáu tuổi đi sơ tán về buổi chiều vẫn cùng
lũ trẻ con mua rau ngay ngõ cuối phố thông lên đê,
nơi có mấy bậc gạch kể trong bài.
Nhìn sang đê, biết có những cảnh đời y như
của Nguyễn Đình Lạp. Rồi thôi.
Không biết có Đào Nguyễn ở đó.
Hai năm trước về, Nguyễn Xuân Khánh với Dương Tường
có mặt ở chỗ mình kí sách. Sao lại có
người hiền đến thế, lặng lẽ đến thế, đến mức thành ra những vang
vọng của đời.
V/v Ông Tây.
Gấu có hai kỷ niệm thực là tuyệt vời về
Ông Tây, chồng bà cô, Cô Dung Me Tây
của Gấu.
Kỷ niệm về Toán, kể rồi.
Kỷ niệm sau đây, sau này, như được lập
lại ở 1 số vị bằng hữu, và luôn ở cả ông anh của GCC.
Số là vào Mùa Thu, hay Mùa Đông, ở
Hà Nội, ở kế ngay bên hồ Halais, Gấu có thói
quen, vào buổi chiều, mò ra cái cổng sắt, và
cứ thế tì vào những song sắt, ngắm sương mù mỗi lúc
1 thêm dày đặc trên mặt hồ.
Cứ đứng hàng giờ đồng hồ như thế. Đâu có nghĩ là
có ai thèm để ý, vậy mà có lần vô
tình ngó lại, nhìn lên, và thấy Ông
Tây đứng nhìn thằng bé nhà quê Bắc Kít
từ hổi nào hồi nào!
Ui chao, mỗi lần Gấu viết, mà có tí mùi cải
lương, là y như rằng, Gấu lại nhìn thấy cặp mắt của Ông
Tây, qua mấy vị bằng hữu, và ông anh nhà thơ, nhìn
Gấu, ra cái vẻ an ủi, thông cảm, nè đừng có nhè
đấy nhé, anh cu Gấu!
Hà, hà!
Valentine's
Day
M-iêu
M đứng trên mi Anh
Tóc M trong tóc Anh
Dáng M lòng tay anh
Mắt M mầu mắt Anh
M cuộn thành bóng Anh
Như sỏi đá bầu trời
Mắt M luôn mở lớn
Chẳng hề cho Anh ngủ
Mơ M ngập ngụa nắng
Làm bốc muôn mặt trời
Làm Anh cười, khóc, cười,
Nói chẳng nói lên lời
http://www.tanvien.net/Poesie/Lady_Love.html
Note: Nhân đọc bài thơ này, thì
bèn nhớ ra bài viết của Steiner, về Sylvia Plath, "Dying Is
An Art". Nữ thi sĩ Mẽo, tự tử. Trong Ngôn Ngữ và Câm
Lặng.
BOOKS
NOTES ON A VOICE
Sylvia Plath
Tragic, yes, but full of life.
Madeleine Kruhly tunes in
"Queen of Sorrows, the spokeswoman for our most private, most helpless
nightmares." This is Sylvia Plath, as seen by Joyce Carol Oates. Of nightmares
and sorrows, Plath was too well learned. Born in Boston in 1932, she published
her first poem at the age of eight, soon after her father's death. Her collections
'The Colossus" and "Ariel" still attract new readers, as does her only novel,
"The Bell Jar", which follows a whip- smart woman's spiral into depression.
Her work has never gone away: in 2017 the Smithsonian will devote an exhibition
to her at the National Portrait Gallery.
At 30, Plath took her own life, setting herself up
to be seen through the lens of tragedy, but there is tremendous spark in her
poems. She did not always deal in despair, and if she did, it was with supreme,
and silver-tongued, awareness. "If neurotic is wanting two mutually exclusive
things at one and the same time," she said, "then I'm neurotic as hell."
KEY DECISIONS
Two educational, one existential. (1) Going to Smith, a private women's
college where Plath was thrilled to be surrounded by "free-thinkers". (2)
Moving on to Cambridge on a Fulbright scholarship. There she met Ted Hughes;
four months later, they were married. (3) Taking a leaf out of William Ernest
Henley's book. Plath wrote in high school, "I am the one who creates part
of my fate, and I'll fight destiny all the way. So!"
STRONG POINTS
(1) A dry wit, lending itself to the morbid. "Dying/ Is an art, like
everything else./I do it exceptionally well" ("Lady Lazarus"). (2) Subverting
the tender, and reclaiming it, against her own intentions. "The moon is
my mother. She is not sweet like Mary./Her blue garments unloose small bats
and owls./How I would like to believe in tenderness" ("The Moon and the
Yew Tree"). (3) The direct address. No other poet uses the second person
as well as Plath does - the "you" is dynamic and unresolved. (4) A rhythm
of repetition. Echoes become an obsession: "I shall not be accused, I shall
not be accused./The clock shall not find me wanting, nor these stars" ("Three
Women"). (5) Spotting double standards, and calling them out. Plath could
not allow for men "to have a double life, one pure and one not" ("The Bell
Jar").
GOLDEN RULE
Never be perfect, never be predictable. Not that she found it easy: she
doubted her abilities, striving to be faultless. And she often felt a stranger,
saying in an early diary entry, "I still do not know myself. Perhaps I never
will." But Plath did recognize she could be more than others expected, imperfect
or otherwise: "I am too pure for you or anyone./Your body/Hurts me as the
world hurts God. I am a lantern -" ("Fever 103").
FAVOURITE TRICKS
(1) Rhetorical questions, to which she even replied, scathingly. "Is
it a penny, a pearl-/Your soul, your soul? /1'11 carry it off like a rich
pretty girl" ("Stopped Dead"). (2) Unnerving similes. "He hands her the
cut-out heart like a cracked heirloom" ("Two Views of a Cadaver Room"). (3)
Going from a shriek to a hush, and back. Plath sears and burns, but she falls
quiet in the briefest, and most poignant, of moments. See "Nick and the Candlestick"
for a striking balance.
ROLE MODELS
Emily Dickinson, for a strong first-person persona and a love of paradox.
Anne Sexton, for sheer guts and a weakness for anaphora. Fyodor Dostoyevsky,
for fervour and streaks of the macabre.
STARTER PACK
"Ariel" (1965) is a sure-fire introduction. Once you've devoured it,
try "Three Women: A Poem for Three Voices", a haunting radio play set in
a maternity ward.
TYPICAL LINES
These, from "The Colossus", for their wave-like rhythms and unapologetic
tone. "The sun rises under the pillar of your tongue./My hours are married
to shadow./No longer do I listen for the scrape of a keel/On the black stones
of the landing".
Mỗi đàn bà lấy
một tay phát xít.
[Chaque femme épouse un fasciste].
Sylvia Plath: Chuông Tuyệt Vọng [Cloche de détresse. Nhà
xb Denoel].
"Pauvre Sylvia Plath", nàng Sylvia Plath đáng thương, bài
viết trên tờ Lire, số tháng 11, 2004, mở đầu.
Sylvia Plath [1932-1963]: Một thứ Virginia Woolf của thập niên
1960, và cũng tự huỷ mình như Woolf, nhưng chán đời
theo một kiểu hoang dại, sauvage, hơn nhiều.
Ngôi sao băng trên nền trời thi ca Mẽo, tuy thoáng
hiện rồi mất tích, nhưng để lại dấu ấn trên rất nhiều nhà
văn, rất ư là khác biệt trong số họ, như: Adrienne Rich, Erica
Jong, hay Philip Roth.
Tên miền của bà [Son territoire]: Sự tự thú [la confession].
Khí giới của bà: Sự hung bạo bất thần [la violence pulsionnelle]
Chuông Tuyệt Vọng: Một thứ tiểu thuyết nửa nhật ký riêng
tư, nửa giả tự thuật về mình [mi-journal intime, mi-autofiction],
một cuốn sách thờ, và câu văn nổi tiếng kể trên,
đã trở thành tuyên ngôn của phong trào giải
phóng phụ nữ.
The Lover
When I lived on a farm I
wrote love letters
To chickens pecking in the
yard,
Or I’d sit in the outhouse
writing one to a spider
Mending his web over my head.
That’s when my wife took off
with the mailman.
The neighbors were leaving,
too,
Their sow and piglets squealing
As they ran after the moving
truck,
And even that scarecrow I once
tied to a tree
So it would have to listen
to me.
Charles Simic is a Pulitzer Prize-winning
poet and the author, most recently, of “The Lunatic.”
Người Tìn
Khi sống ở một trang trại
Tớ bèn viết thư tìn
Cho mấy chú gà con, đang mổ lóc
chóc ở ngoài sân
Hay là ngồi ở nhà xí
Viết thư tìn
Cho con nhện
Đang vá lưới trên đầu
Khi vợ tớ bỏ tớ, theo tên bưu tá
Hàng xóm cũng bỏ tớ
Con heo nái và lũ heo con kêu
eng éc
Khi chạy theo chiếc xe tải
Ngay cả thằng người rơm!
Có lần tớ trói nó vô 1
cái cây,
Thì chỉ có mỗi cách đó
Để bắt nó nghe tớ đọc thư tìn.
Osip
Mandelstam
Viết
mỗi ngày
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21717357-extraordinary-story-book-changed-world-how-victor-hugo-came-write-les
How Victor Hugo came to write “Les Misérables”,
his magnum opus
The extraordinary story of a book that changed the world (1)
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21717355-richard-holmes-describes-biography-handshake-across-time-expert-biographer-looks
Illuminating the past
An expert biographer looks back at his craft
Richard Holmes describes biography as a “handshake across time”
Note: Mấy bài này, đều thật OK. Tờ báo không
cho GCC đọc free, nên đành mua báo giấy, và
sẽ lai lai ba sợi sau. Độc giả TV đọc bản tiếng Anh cho đỡ ghiền. Cuốn
Những Kẻ Khốn Cùng được tờ NKT [The Economist] coi là cuốn
sách của thế kỷ. GCC đọc cuốn này, bản tiếng Tây,
ở nhà sách Lê Phan, từ sáng cho tới tối luôn,
bị 1 cô nhân viên mời ra ngoài.
(1)
http://www.tanvien.net/D_1/10.html
Fire outside
TLS 2.1.2009
đọc Hòn đá kiên nhẫn:
Văn phong là từ kịch.
Trên
tờ Văn học Pháp, Le Magazine
Littéraire số tháng Chạp, dưới
đây, có bài viết của Atiq Rahimi vinh danh Majrouh,
"bởi vì ông ta, bởi vì tôi" [parce que c'est
lui, parce que c'est moi], (1) nhà thơ, triết gia Afgan, bị ám
sát cách đây 20 năm khi lưu vong, tại Pakistan.
(1) Câu này của Montaigne, để nói về tình
bạn.
O.
Tks
Đúng là già rồi, mắt mờ, chữ tác
đánh chữ tộ!
Tks again. NQT
*
Lâu
lắm rồi, khi quê hương tôi chưa bị gót giầy Liên
Xô chà đạp, chúng tôi còn có
thể mơ mộng tương lai, hy vọng có ngày sống những giấc mộng,
những ảo tưởng của mình. Khi đó, tôi còn trẻ.
Những giấc mơ của tôi, tôi kiếm thấy chúng ở trong trái
tim của những cuốn sách, ở trong mầu trắng giữa những chữ. Luôn
luôn, sau giờ học, tôi chui vô thư viện ở Kaboul. Hay
lang thang tại khu có những tiệm sách ở trong thành
phố, hay tại những tay chuyên môn buôn bán sách
cũ nơi bờ sông tìm những cuốn tiểu thuyết trinh thám
hay khoa học giả tưởng. Lúc này lúc nọ, những cuốn
sách cổ điển của văn chương viết bằng tiếng persane, hay những
dịch phẩm từ những tác giả nước ngoài soi sáng tâm
trí tôi. Chính là vào
một thời điểm như vậy mà tôi khám phá ra cuốn
tiểu thuyết đầu tiên của mình: Những người khốn khổ của
Victor Hugo. Mỗi trang là một mặc khải đối với tôi, về một
thế giới khác, một khả hữu khác để sống Lịch Sử.
Một bữa tôi rớt vô một cuốn sách lạ, nhà
xb quốc gia Á Phú Hãn, Afghan. Bìa cũng
lạ, trên cái nền mầu hồng nhạt là hình vẽ
một con rồng cuộn tròn. Và trong vòng tròn
đó là cái tít, Ajdahai khodi [dịch nghĩa đen: một con rồng tự thân,
un dragon de soi], của một tay nào đó tên là
Sayd Bahodine Majrouh. Đúng là một cái tít
bí hiểm. Một thứ chuyện cổ tích kỳ quái chăng? Tôi
mở ra và đọc trang đầu. Ở đâu ra bản văn này, một
lối viết vừa cổ điển vừa hiện đại, không thể nào nhập vô
và cũng không làm sao hiểu nổi, với một đứa trẻ 15
tuổi là tôi hồi đó. Tuy nhiên, những chữ ở trong
đó như có nam châm, một khi nó lọt vào
đầu bạn, là vô phương lấy ra.
Xốn xang, tôi gập cuốn sách lại, và để nó
vô chỗ cũ.
Mãi sau đó, dưới thời Liên xô xâm
lăng, tôi khám phá ra nhà thơ Liban, Khalil
Gibran qua cuốn Nhà Tiên
Tri của ông, và chính cuốn này khiến
tôi tìm lại cuốn của Majrouh. Tôi đi tìm, vô
phương. Chẳng thể nào thấy nó trong những thư viện, nhà
sách, tiệm sách cũ. Thư viện quốc gia Kaboul cũng không.
Cuốn sách bị cấm, tác giả bỏ chạy lưu vong qua Pakistan.
Nhưng một bữa, tình cờ tôi vớ được nó, ngay
tại nhà tôi, trong một cái hộp carton, giữa những
cuốn sách của cha tôi. Tôi lại mở nó ra. Tôi
đọc vài trang. Vẫn như nam châm, hút chặt lấy bạn, vẫn
vô phương xâm nhập, không làm sao hiểu nổi. Tôi
lại để vô chỗ cũ.
Một thời gian sau đó, một nhà sách đưa cho
tôi một cuốn sách dịch, một tuyển tập của nhiều người viết,
tên là Con người và những biểu tượng của nó,
người chủ biên là một tay nào đó tên là
C.G. Jung. “Đó có lẽ là chìa khóa mở
ra tác phẩm của Majrouh.” Đúng như vậy, sau khi đọc cuốn
đó, những từ, những chữ, những bài thơ của Majrouh trở nên
sáng ngời đối với tôi.
Atiq Rahimi: Majrouth, voie magnétique.
*
Thật kỳ cục, thú vị, tuổi mới lớn của Gấu, tại Sài
Gòn, y chang như tay này, ở Kaboul! Gấu cũng khám
phá ra Những
người khốn khổ tại nhà sách Lê
Phan, bản tiếng Tây, đứng đọc cọp từ sáng đến tối, và
bị một nữ nhân viên của tiệm đuổi ra ngoài!
Nếu mỗi anh Âu Châu ra trận,
Đệ Nhất Thế Chiến, trong ba lô có cuốn "Mặt Trận Miền Tây
vẫn yên tĩnh", nếu mỗi anh Yankee mũi lõ tới xứ Nam Kít
có cuốn "Người Mỹ Trầm Lặng", thì mỗi anh lính Ngụy,
có cuốn Les Miserables, mà chúng đọc là Lee’s
Miserables, Lee là tên viên tướng Ngụy, của cuộc nội
chiến Huê Kỳ!
Khi mà còn ngu dốt và nghèo đói
ở trên trái đất, như Victor Hugo viết trong lời tựa, thì
cuốn sách như cuốn này vẫn chưa vô dụng.
Trên 155 năm kể từ khi được xb lần đầu tại Pháp, và
đâu đó, trên thế giới sau đó, cuốn sách
không hề mất sự xác đáng và phổ thông
của nó. Cái đám học lớp 1, chăn trâu, hễ có
ai hỏi, tại làm sao theo Cách Mạng, là trích
dẫn Victor Hugo.
Được chuyển thể thành hình ảnh, 65 phim, nhưng ngay
cả những khán giả mê phim này, thì cũng hiểu
ra sự thực cay đắng, đây là 1 lục địa đã mất. Trên
Tin Văn có lần viết về anh tù khổ sai gánh cả gánh
nặng lương tâm nhân loại lên vai mình, theo 1
bài viết trên 1 tờ điểm sách của 1 tạp chí Mẽo,
là theo ý này: Mơ giấc mơ, Dream the Dream.
Hồ Tôn Hiến, tức Víp Va Ka, có câu nói
để đời, cứ nhìn vầng trán thông minh của các
Cháu Ngoan Bác Hồ, là thấy tương lai của xứ Mít.
Câu này, theo GCC, là từ Victor Hugo mà ra!
My Old Saigon
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|