Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn
Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ, Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục, ở đầu
trang Tin
Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới thiệu,
chỉ để sử
dụng cho
cá
nhân
[for
personal
use],
xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM
W. G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Happy New Year
Mung Ba Tet with Family in Vientiane Lao
-
Thơ
Mỗi
Ngày
«Ne pas vivre plus qu'on ne peut se souvenir »
Đừng sống quá cái sức nhớ của mi
? Sống tới đâu, nhớ tới đó. Sống tới đâu,
đọc tới đó, sống tới đâu khổ tới đó….
Hà, hà
!
http://tanvien.net/new_daily_poetry/Borges_Page.html
Bất giác lại nhớ Mai Thảo, và một lần
ngồi Quán Chùa. Ông nhắc tới TTT, và
nói, hắn ta nói, mi cầm một cây lao, quay
người lại, và phóng về quá khứ. Cây
lao cắm tới chỗ nào, là hồi nhớ của mi tới đó
!
Sau đó, có lần ngồi với ông
anh, nhân nhắc tới bạo động trong thơ của ông, Gấu
bèn nhớ tới giai thoại trên, bèn kể. Ông
anh chắc là cũng thấy thú, bèn xì ra
1 kỷ niệm, 1 lần dậy học, ở cuối lớp có 1 tay học trò
chỉ lo dỡn, ông bực quá, bèn vo cái khăn lau
bảng thành 1 cục, và thẳng tay ném tới anh học trò,
rồi quát, mang nó lên đây.
Quả bóng bay tới chỗ anh học trò,
anh cúi xuống nhặt, líu ríu mang lên
cho ông Thầy.
The Just
A man who cultivates
his garden, as Voltaire wished.
He who is grateful
for the existence of music.
He who takes pleasure
in tracing an etymology.
Two workmen playing,
in a café in the South,
a silent game of
chess.
The potter, contemplating
a color and a form.
The typographer
who sets this page well,
aaathough it may
not please him.
A woman and a man,
who read the last tercets
aaaof a certain
canto.
He who strokes a
sleeping animal.
He who justifies,
or wishes to, a wrong done him.
He who is grateful
for the existence of a Stevenson.
He who prefers others
to be right.
These people, unaware,
are saving the world.
Translated by Alastair
Reid from: “Insomnia”, Six Poems by Jorge Luis Borges,
Harper’s Magazine, February, 1999
Tên chính trực
Tên đờn ông, kẻ
săn sóc mảnh vườn của hắn, như Voltaire mong
muốn
Kẻ biết ơn sự hiện
hữu của âm nhạc
Kẻ lấy làm
hài lòng, khi đi 1 đường tầm nguyên
Hai công nhân
lặng lẽ nhâm nhi 1 ván cờ ở 1 quán
cà phê ở xứ Nam Kít
Tên thợ máy
nhà dây thép chiêm ngưỡng và kính
trọng BHD, ây a, xin lỗi, một màu sắc, một
hình thể
Người thợ in, làm
trang sách này thật ra hồn, tuy nhiên,
đã chắc gì, anh ta thích thú?
Một người đàn
bà, và một người đàn ông,
đọc đoạn thơ cuối của 1 khổ thơ nào đó
Một kẻ nào
đó, ngủ đi anh, mộng bình thường, như
1 đứa con nít, hay 1 con mèo đang ngái
ngủ trên tay em!
Kẻ chỉnh lý
hay mong chỉnh lý, một lầm lỡ mà ai
đó, gây ra cho anh ta
Kẻ biết ơn có
Stevenson ở trên đời này
Kẻ thích
những kẻ khác có lý.
Những người này,
không biết, là họ đang cứu vớt thế
giới
PAUL CELAN RECALÉ
AU NOBEL
Paul Celan, “xém", được Nobel [recalé: failed,
hụt]?
En 1966, la poétesse allemande Nelly Sachs et
l'écrivain israélien Samuel Joseph Agnon obtenaient
le prix Nobel de littérature. Mais qui figurait sur la liste
de sélectionnés ?
L'Académie suédoise a rendu publiques
ses archives, qui révèlent la présence du nom
de Paul Celan. Ainsi le prix Nobel manqua un monument de la poésie.
L'auteur de « Lait noir » ne fut jamais couronné
et se suicida en 1970. Autre surprise, dans cette liste : la large
représentation de la littérature française à
travers Marcel Pagnol, René Char, Henry de Montherlant, Jean
Giono, Henri Bosco et Jean Anouilh.
Viện Hà Lâm Thụy Điển cho khui hồ sơ Nobel, có
tên Paul Celan.
Như thế là giải Noebl đã bỏ qua 1 "đài thơ".
Tác giả "Sữa Đen" chẳng bao giờ được trao tặng vòng hoa
Nobel, và tự trầm vào năm 1970.
http://www.tanvien.net/TG_TP/Paul_Celan.html
Paul Celan
Mẹ có đau khổ không mẹ ơi
PAUL CELAN AND LANGUAGE
JACQUES DERRIDA
Q: Would you say that one must
have been, like Celan maybe, capable of living the death of language
in order to try to render that experience "live"?
A: It seems to me that he had
to live that death at each moment. In several ways. He must have lived
it everywhere where he felt that the German language had been killed
in a certain way, for example by subjects of the German language who
made a specific use of it: the language is manhandled, killed, put to death
because it is made to say in this or that way. The experience of Nazism
is a crime against the German language. What was said in German under
Nazism is a death. There is another death, namely the canalization, the
trivialization of language, of the German language for example, anywhere,
anytime. And then there is another death, which is the one that cannot
happen to language because of what it is, that is to say: repetition,
slide into lethargy, mechanization, etcetera. The poetic act thus constitutes
a kind of resurrection: the poet is someone who is permanently involved
with a language that is dying and which he resurrects, not by giving it
back some triumphant aspect but by making it return sometimes, like a specter
or a ghost: the poet wakes up language and in order to really make the
"live" experience of this waking up, of this return to life of language,
one has to be very close to the corpse of the language. One has to be as
close as possible to its remains. I wouldn't want to give in to pathos
too much here, but I suppose that Celan had constantly to deal with a language
that was in danger of becoming a dead language. The poet is someone who
notices that language, that his language, the language he inherits in
the sense I mentioned earlier, risks becoming a dead language again and
that therefore he has the responsibility, a very grave responsibility,
to wake it up, to resuscitate it (not in the sense of Christian glory but
in the sense of the resurrection of language), neither as an immortal
body nor as a glorious body but as a mortal body, fragile and at times
indecipherable, as is each poem by Celan. Each poem is a resurrection,
but one that engages us with a vulnerable body that may yet again slip
into oblivion. I believe that in a certain way all of Celan's poems "remain
indecipherable, keep some indecipherability, and this decipherability can
either call interminably for a sort of interpretation, a resurrection,
new breaths of interpretation or fade away, perish again. Nothing insures
a poem against its death, because its archive can always be burned in
crematory ovens or in house fires, or because, without being burned, it
is simply forgotten, or not interpreted or permitted to slip into lethargy.
Forgetting is always a possibility.
From an interview with Evelyne
Grossman, Europe 861-62 (January
-February 2001): 90-91.
Ông muốn nói, một
người phải, như Celan, thí dụ, có khả năng sống cái
chết của ngôn ngữ để làm cho kinh nghiệm này thành
“sống”?
Theo tôi, ông ta
phải sống cái chết đó từ mỗi thời điểm, khoảnh khắc. Theo
một vài đường hướng. Ông ta phải sống nó ở mọi nơi,
một khi mà ông ta cảm thấy, rằng, cái ngôn ngữ
Đức đã bị làm thịt, theo một cách nào đó,
bởi lũ Nazi Đức. Lũ này đã sử dụng tiếng Đức một cách
đặc biệt để hưởng lợi, trục lợi, từ đó [nước Mít là
một, sông có thể cạn núi có thể mòn,
song chân lý này không bao giờ thay đổi, thí
dụ]: Tiếng nói, ngôn ngữ Mít bị lũ VC thao túng,
làm thịt, khi bắt phải nói thế này, thế nọ, nói
khác là đi tù cải tạo mút mùa lệ thủy.
Kinh nghiệm Nazi/VC là một tội ác đối với ngôn ngữ
Mít/Đức. Điều được nói dưới chế độ VC/Nazi là một
cái chết. Còn một cái chết khác, là đào
rạch, tầm thường hóa ngôn ngữ, bất cứ lúc nào,
bất cứ ở đâu. Và rồi còn 1 cái chết khác
nữa, một cái chết đúng ra không thể xẩy ra cho ngôn
ngữ, bởi vì nó là ngôn ngữ, đó là,
sự lập đi lập lại, chìm vào hôn mê, máy
móc hoá, etcetera. Hành động thơ ca do đó
tạo ra một hình thức tái sinh, nhà thơ là một
người thường trực mắc míu với một ngôn ngữ đang chết, và
anh cố làm nó tái sinh, không phải bằng cách
đem cho nó một khiá cạnh, sắc thái huy hoàng,
chiến thắng nào đó, nhưng mà là, làm
cho nó, đôi khi, trở lại như một bóng ma [Ta về như
bóng ma hờn tủi. TTY]: nhà thơ đánh thức ngôn
ngữ, và như thế, anh ta thực sự làm “sống’ cái kinh
nghiệm đánh thức đó, cái sự trở về lại với đời sống
của ngôn ngữ, người phải luôn luôn thật cận kề với cái
cái xác thân ngôn ngữ. Người phải gần gụi tới mức
tối đa mà người đó có thể, với cái còn
lại, tro cốt, tro than của ngôn ngữ. Tôi không muốn làm
cái trò thở than, vãi linh hồn ở đây, nhưng tôi
giả dụ, đề xuất rằng thì là Celan đã phải hằng hằng,
liên luỷ ăn thua đủ [deal] với 1 ngôn ngữ đang trong cơn nguy
nàn trở thành 1 ngôn ngữ chết. Nhà thơ là
một kẻ nào đó, và kẻ này nhận ra rằng ngôn
ngữ, ngôn ngữ của anh ta, ngôn ngữ mà anh ta thừa hưởng
như tôi mới vừa nói, có nguy cơ lại trở thành
1 ngôn ngữ chết, và do đó, anh ta có trách
nhiệm, một trách nhiệm nặng nề, là đánh thức nó
dậy, làm cho nó tái sinh [tái sinh ở đây
không có nghĩa tràn đầy hào quang, ân sủng
theo Ky Tô giáo, nhưng mà là theo nghĩa, sự tái
sinh của ngôn ngữ), không phải như là một cái bất
tử, cũng không phải như là 1 cái xác đầy vinh
quang [như Xác Ướp của Bác ở trong Lăng Ba Đình, thí
dụ đểu!], nhưng là 1 cái xác phàm có sống
có chết, mảnh mai, mỏng manh, và đôi khi, không
thể giải mã, như mỗi bài thơ của Celan. Mỗi bài thơ
là 1 tái sinh, một sự tái sinh khiến chúng ta
có thể dấn thân vào 1 cơ thể tầm thường, yếu ớt, rất dễ
bị tổn thương, và có thể, rất dễ lại chìm vào
cõi mê, vào giấc hôn thụy. Tôi tin rằng,
theo một đuờng hướng nào đó, tất cả những bài thơ của
Celan không thể giải mã được, chúng giữ 1 cái
sự không thể giải mã nào đó. Và cái
sự không thể giải mã này kêu gọi một thứ "lại dẫn
giải", một tái sinh, những hơi thở mới của diễn giải, hay...
diễm xưa dần, và lại điêu tàn, huỷ diệt. Chẳng có
gì bảo đảm [insure: bảo hiểm] một bài thơ chống lại cái
chết của nó....
Note: Bài viết của Derrida,
tuy ngắn, nhưng thật quan trọng, về 1 vấn nạn mà Mít
gần như lơ là, tức là về ngôn ngữ Mít, sau
Lò Cải Tạo.
Khi dịch "Phép Lạ Hổng",
của Steiner, Gấu đã lờ mờ nhận ra điều này, và chôm
1 câu trong bài, làm đề từ cho bài điểm cuốn
Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn:
For let us keep one fact clearly
in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không
thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của
chủ nghĩa Nazi.)
George Steiner, Phép Lạ
Hổng (The Hollow Miracle)
In Memoriam Paul Celan
Lay these words into the dead man's grave
next to the almonds and black cherries-
tiny skulls and flowering blood-drops, eyes,
and Thou, O bitterness that pillows his head.
Lay these words on the dead man's eyelids
like eyebrights, like medieval trumpet flowers
that will flourish, this time, in the shade.
Let the beheaded tulips glisten with rain.
Lay these words on his drowned eyelids
like coins or stars, ancillary eyes.
Canopy the swollen sky with sunspots
while thunder addresses the ground.
Syllable by syllable, clawed and handled,
the words have united in grief.
It is the ghostly hour of lamentation,
the void's turn, mournful and absolute.
Lay these words on the dead man's lips
like burning tongs, a tongue of flame.
A scouring eagle wheels and shrieks.
Let God pray to us for this man.
NTST Poems
"And miles to go before I sleep/ And miles to go before
I sleep.
"And miles to go before I sleep/
And miles to go before I sleep." There we see that the same words
have two different meanings. In the first of the last two verses,
the words stand for miles and going and sleeping. And in the last
line, sleep stands for death.
And that, I think, is the chief achievement of Frost.
He could write poems that seem simple, but every time you read
them you are delving deeper and finding many winding paths and many
different senses. So Frost has given us a new idea of metaphor. He
gives us metaphor in such a way that we take it as a simple, straightforward
statement. And then you find that it is a metaphor. "And miles to go
before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the
same words have two different meanings. In the first of the last two
verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the
last line, sleep stands for death.
Borges:
Và đó là thành tựu “lớn
nhất, chủ, trùm...” [chief] của Frost. Ông có
thể viết những bài thơ xem ra thì thật giản dị, nhưng
mỗi lần chúng ta đọc, là mọi lần chúng ta đào
bới sâu thêm, và tìm ra không biết
bao nhiêu là lối đi, và nghĩa nghiếc khác
nhau.
Và thế là thi sĩ đem tới cho chúng
ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông cho chúng ta
ẩn dụ, theo cái cách mà chúng ta coi
nó như là 1 phát biểu tự nhiên, giản dị,
thẳng 1 lèo. Và thế rồi, bạn ngộ ra, đây là
1 ẩn dụ:
Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!
Ông [Borges] đồng ý với… Gấu, ẩn
dụ không đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng
thực sự, là đốn ngộ, là mặc khải.
Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè “Ôi
nắng vàng sao mà nhớ nhung", nhìn sang nhà
hàng xóm, thấy cái áo cánh trắng
phất phơ bay trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, áo
ai nhỉ, và nhớ ra là Loan, đi học Hà Nội, nghỉ
hè, về.
Khám pháp đó chỉ là bề mặt,
giản dị!
Bề sâu, "siêu hình mà nói",
Dũng khám phá ra tình yêu của mình!
Đoạn
văn dưới đây là phần chính bài
nói chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền
trong Đêm Thơ Vũ Hoàng Chương ngày 16-1-1975
tại phòng trà Khánh Ly, đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền
Sự hiện
diện của các bạn cùng chúng tôi hôm nay
là một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Chẳng
những cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm thơ - không
biết, không thể làm gì khác - mà còn
cho tất cả mọi thi sĩ và qua các thi sĩ là một cuộc
tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao tôn
vinh Thơ? Thơ quan hệ chi đến đời sống chúng ta?
Sướng ích chi mà có những người để
một đời như Vũ Hoàng Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không
biết - thật chăng? Có lẽ cũng chỉ là một cách
nói riêng của thi sĩ. Riêng chúng
ta có biết, chúng ta biết tận trong thâm
tâm chúng ta, biết qua động cơ thúc đẩy cuộc
hội họp tối nay được chính chúng ta dấu diếm bằng
những lý lẽ rất tầm thường hằng ngày. Chúng
ta biết rằng chúng ta muốn gặp mặt nhau, nhìn mặt
nhau đêm nay: “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa
- Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.” Chúng
ta biết rằng khi mọi giá trị thiêng liêng đều
chẳng còn đáng gì, đều bị liệng bỏ dần dọc
theo đời người thì thơ vẫn còn lại. Phải thế chăng?
Dù cho thơ có thể chẳng thay thế được các
giá trị thiêng liêng. Không là
giá trị thiêng liêng - có bao giờ thơ
như thế? - thì nó vẫn ở cùng trong đời sống
chúng ta - như lúc này, giây phút
này đây - và nó đủ năng lực để cuốn đời
sống chúng ta đến chân trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng chúng
ta đang sống, sống lạ lùng, sống với ta và sống với
người.
Chúng ta còn có
thể nói đến những điều ghê gớm hơn nữa về
thơ nhưng rồi thơ lại còn có thể vượt ra ngoài
mọi điều ghê gớm ấy. Tuy nhiên nói cho
đến cùng (biết đâu là cùng?) Thơ
vẫn chỉ là lẽ thường của đời người, là sự thường
của kiếp sống - ngắn ngủi và vô hạn như một tiếng
hát.
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này
sông cát bồi.
Và
lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống là
Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người
rốt cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số người
nào đó, một bộ lạc nào nhất định. Nói
như Đinh Hùng Thơ là “tiếng ca bộ lạc.” Đêm
nay chúng ta quây quần nơi đây nào
khác, như giữa đám rừng dầy hung bạo có ngọn
lửa kia đốt lên và tiếng trống kêu gọi ta đến.
Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng thẳm của Thơ mời chúng ta
đến tôn vinh cho Thơ. Thơ như nhịp trống bập bùng gọi ta
về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn, cầm chân ta ở lại vui chơi, giục
ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho Thơ cũng
là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm
thơ, suốt đời chỉ làm thơ, không biết và
cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng
ta có một vài người, như Vũ Hoàng Chương,
Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ
hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ
ngách phi lý, đẩy đưa đời người vào
cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý
ấy là chính chúng ta, cõi phi lý
ấy chính là đời chúng ta. Như đêm
nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ
chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm
thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận
tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ
hốt hoảng thì vẫn là cái “không thể làm”
được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không
làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự
nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm
trọng cũng là tự nhiên của thơ và của
việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng
ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời.
Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương
đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng” từ
“Phách ngọt đàn say đêm khói êm”
từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán” đến
Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không
gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng
ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn
đi đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng
ta trong giây phút này có biết chúng
ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang
biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với
Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một
cách nói thôi. Như Trang nói chết là
tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì
mới biết được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống,
để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà
nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói.
Nói miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói. Để
làm gì?
Thôi nói chi những
chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời.
Đã đến lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc
trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương.
16-1-1975
(Văn, giai phẩm, 14-2-75)
AT 1:50 PM
Nguồn
Điều Borges phán, về ẩn dụ, cũng chính
là điều TTT phán, về… thơ, khi ông vinh danh
Vũ Hoàng Chương trước khi mất "nước Xề Gòn":
“Thơ là lời hơn lời”
Cái đấng thi sĩ dởm Nguyễn Đăng Thường, “khiêm
tốn” nhận thơ của hắn ta là thơ đời thường, ngôn ngữ
đời thường, suốt đời không làm nổi, chỉ 1 câu thơ,
đọc không nổi bài thơ Dạ Khúc, của TTT, làm
sao “ngộ” ra được chân lý giản dị trên, thơ là
lời hơn lời. Vẫn là lời – ngôn ngữ đời thường như hắn nói
– nhưng cũng chính ngôn ngữ đó, hơn lên 1
tí, là thành thơ:
In the first of the last two verses, the words stand
for miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands
for death.
Câu thơ trước, cầm tay xin địa chỉ
Câu thơ sau, thì đã là ngàn
thu sau!
http://www.tanvien.net/Viet/HNB_Case.html
Chiều ngồi quán
Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm
thơ thì phải có "một chút Paris, hay
nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Chúa ơi!
Rõ ràng là, bài Dạ Khúc
của TTT, không đọc được, thì làm sao đọc... Beckett?
HNB Case
“The tears of the world are a constant
quantity. For each one who begins to weep somewhere else
another stops. The same is true of the laugh.”
― Samuel Beckett, Waiting for Godot
Trong những điều được nói về
Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô điểm.
Duy có điều này: Nó thực sự là
một địa ngục.
-Nước mắt cũng có hạn. Nơi này
đổ ra nhiều thì nơi khác dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm dụng
cảm xúc?
-Người ta chỉ đọc khi xúc động.
Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của độc giả cũng
như của chính mình.
NQT: Bụi
Cái truyện ngắn Bụi,
của GCC, được viết ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan. Đúng
thời gian đó, Gấu vớ được "Trong khi chờ Godot", bản
tiếng Anh.
Câu, “Nước mắt cũng có hạn…
“, hóa ra chôm của Beckett, lúc nào
không biết, nó ăn mẹ vô tiềm thức, rồi phọt
ra.
Cũng thế với Beckett, hà, hà!
Một cách nào đó,
ông viết, ở 1 Trại Cấm nào đó, những
câu văn thần sầu của ông. Thua, thua
nữa, thua cho bảnh, là từ Worstward Ho:
“All of old. Nothing else ever.
Ever tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail again.
Fail better.”
― Samuel Beckett, Worstward Ho
Trong cuốn tiểu sử
của ông, Trầm Luân vào Danh Vọng, “Damned
to Fame”, chương dành cho Thua Cho Bảnh, "Fail Better",
chứng minh điều GCC phán, Beckett viết văn từ 1 trại tị
nạn. Đúng hơn, từ cái bóng của Lò Thiêu,
đúng hơn nữa, ông viết cho nạn nhân Lò
Thiêu.
Một số từ ngữ mà ông sử
dụng trong "Tiến Lên Tàn Mạt, Già Hồ",
là để mô tả tình trạng thiếu ăn của nạn nhân
Lò Thiêu
Nếu Nazi có giải pháp
chót, thì Beckett có “grand finale”,
chữ của Beckett. Kịch “Catastrophe”, thảm họa, viết bằng tiếng
Pháp – bà vợ của ông, Suzanne, dùng
từ này, khi biết tin ông được Nobel văn chương - được
Beckett đề tặng Vaclav Havel. Sau khi ra tù, Havel chơi
1 cái kịch đáp lễ, Lỗi Lầm, “The Mistake”. Hai kịch
bổ túc cho nhau. Havel nói với một đấng Mẽo, một cách
khiêm tốn, tôi không có ý đứng ngang
hàng với ông ta, như là hai nhà soạn kịch
- đừng bắt hai ông đứng kế nhau nhe, Thầy Phúc - "I am not
suggesting that I am equal as a playwright to Samuel Beckett".
Beckett phải mất 7 tháng chỉ
để viết bản nháp đầu tiên, the first draft,
của Worstward Ho, [Hồ, Hồ, Tiến Lên
Tàn Mạt. “Hồ, Hồ”, là từ tiếng reo hò,
thời cả thế giới ủng hộ Bắc Kít]. Vào thời gian, trong
mùa đông 1981-82, ông suy sụp, bịnh, Ông
viết cho bạn, "Chiến đấu với văn xuôi bất khả. Tiếng Anh.
Với tởm lợm”:
BACK IN PARIS for the summer, after
meeting his German publisher, Dr. Siegfried Unseld, for coffee
in the PLM hotel on Sunday morning, August 9, 1981,84 Beckett returned
to his desk to write three brief paragraphs of a new piece of
prose in English. After starting with his 1960s concern with
imagining "a body" and "a place" where there was neither, he wrote:
"All before. Nothing else ever. lwer tried. Ever failed. No matter.
Try again. Fail again. Fail better." The will to "fail better" provided
this text with its initial impetus. And, in order to fail better,
the strategy Beckett adopted was to strive for the worst.
He took his cue
from Edgar's speech in King Lear.
He copied out quotations from three different points in the speech
into his little commonplace book:"The lamentable change is from
the best, / The worst returns to laughter"; "Who is't can say,
I am at the worst"; and "The worst is not so long as one can say, This
is the worst." For some time, when he alluded to his new text in letters,
he entitled it "Better worse." Later on, he called the book Worstward
Ho, playing on the title of Webster and Dekker's play Westward
Hoe (1607) and Charles Kingsley's better known novel Westward Ho!
(1855). At one level, the text, like III Seen
III Said, is concerned with the failure of language:
when anything is said, it must inevitably be missaid. So language is
deliberately pared down, reduced to a few lexical items assembled
in a variety of combinations, so that it reaches out toward an "unworsenable
worse." It is part of the strategy to be rid of Romantic accretions.
So images evoking human memories or literary allusions are excised.
That at least is how it first appears.
Bạn, đọc văn Mít Butor, cũng 1 thứ “Romantic”
mà Beckett vứt vô sọt rác (to be rid of).
Vậy mà thất bại rực rỡ. Kiệt tác!
Chỉ nội mấy dòng GCC trích dẫn,
là đủ chửi bố mấy đấng bịp bợm!
Và, quả đúng, hai đấng này,
không đọc nổi Beckett!
Cái thất bại được thấy ra, chỉ ra, từ
Beckett, một phần, là do/của ngôn ngữ: Khi cái
gì được nói ra thì nó bắt buộc phải
là nói trật, trìa: When anything is said,
it must inevitable be missaid.
Thê thảm hơn thế nhiều, đây là
hiện tượng đói ăn, thiếu dinh dưỡng, chết dần chết mòn,
không phải chỉ của ngôn ngữ, mà là của
nạn nhân Lò Thiêu.
“Every word is like an unnecessary
stain on silence and nothingness.”
― Samuel Beckett
Mọi từ thì cũng như vết trầy
không cần thiết lên im lặng và hư vô.
V/v Không đọc được.
GCC đã từng thú nhận, không
đọc được Dickinson, và không chỉ Dickinson, mà
còn nhiều nhà thơ khác, và trước đó,
không đọc được thơ.
Tuy nhiên, chưa bao giờ không đọc được,
mà chê 1 tác giả, như NDT và bà
Huệ, chủ diễn đàn Gió O. Bà này chê
thơ TTT, thua cả thơ Nguyễn Đăng Thường, và Nguyễn Đăng Thường
cũng nhân đó, bèn chê TTT tơi bời hoa lá
cành. Sa-đích. [Không phải từ của GCC]. Thua
cả thơ Đỗ Quí Toàn!
Ui chao đến thơ TTT mà còn không
đọc được, thì làm sao đọc được Beckett?
Lê Thị Huệ: So sánh hai bài thơ "Tiễn Một Nguời Vào
Dĩ Vãng Đậm Màu" với bài thơ "Phục
Sinh" của Thanh Tâm Tuyền. Là một khoảng cách
lớn lao. Bài Phục Sinh làm dáng
và rỗng, chỉ được cái phá cách, self-esteem
vào thời đó. Bài "Tiễn Một Người Vào
Dĩ Vãng Đậm Màu", già dặn, trí
tuệ cũng phá cách nhưng cái phá cách
của một lõi trí. Anh có tự cảm thấy cái khoảng cách chữ
nghĩa giữa anh và nhà thơ lãnh tụ thơ Tự Do thời
1960 ở Việt Nam.
Nguyễn Đăng Thường: Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền được công nhận
là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ tôi là
ngôn ngữ đời thường, có thể chưa được đóng mộc.
Khi nhại, hay cập nhựt Bài Ngợi Ca Tình Yêu
của Thanh Tâm Tuyền với tựa đề mới Bài
Ngợi Ca Chó Đá, tôi nghĩ
tới nội dung bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, và hiện
tình đất nước ta hôm nay nhiều hơn ngôn ngữ, dù
nội dung và hình thức như hình với bóng,
không thể tách đôi. Tác phẩm bị giễu nhại
vẫn còn y nguyên, nhưng đã có thêm
những tác phẩm song đôi. Tác phẩm bị, được giễu nhại
nhiều nhứt, là bức tranh La Joconda, cho ra đời
vô số những tranh "nhại họa" vô cùng thú vị.
Salvador Dalí cũng nhại tranh Andy Warhol với các tranh
Marilyn Mao. Các lãnh tụ độc tài
vì bất an nên rất sợ bị chế giễu. Cậu Ủn Bắc Hàn là
một thí dụ.
http://www.gio-o.com/NguyenDangThuong/NguyenDangThuongPhongVan4.htm
Thơ của vị bằng hữu NTST có tới tam tuyệt, cực
kỳ cao ngạo, cực kỳ cao sang, và cũng cực kỳ tâm sự,
riêng tư - đúng như thế, GCC chưa từng khen ai theo
cái kiểu đãi bôi, hay, phán loạn cào
cào, không có chứng từ dẫn chứng, nhưng quả có
1 sự rắc rối, khó hiểu, ở đây.
Vị này, Nam Kít, và, dân
Nam, họ rất ưa xuề xòa.
Tâm sự, riêng tư, OK, nhưng cao ngạo, cao
sang, vô lý quá, hà, hà!
Đàn bà ba miền, theo GCC, cái gọi
là cao sang, thường là thuộc dân Huế.
Tinh tế, tế nhị, Bắc Kít.
Nam Kít, kể như chẳng có gì hết.
Vậy mà bà này, ôm "tam tuyệt"
vào thơ của bà, quái dị thực!
Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi
lệ ấm bàn tay
Ui chao, chỉ cần hai câu thơ thôi, là
đã ôm hết cả cõi thơ, cả cõi đàn
bà, vô mình rồi!
NQT
Phục sinh
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu
tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang
tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh
từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh
tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi
tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật
TTT
Bài "Phục Sinh" làm dáng và rỗng,
chỉ được cái phá cách, self-esteem vào
thời đó.
LTH.
self-esteem? [tự sướng?].
Chắc cũng giống xeo phi?
Và chắc là do câu thơ “tôi gọi tên
tôi cho đỡ nhớ"?
Nhớ, lần cả đám bạn ông em, Thất Hiền, xúm
nhau lại "tra tấn" ông anh vì bài thơ này,
vì cái từ "sao", trong "buổi chiều 'sao' vỡ vào
chuông giáo đường"....
"Ðâu phải mưa ô buy
vào thành phố"...
1954, vào Nam, thi sĩ Thanh Tâm
Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên có
những dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những dòng
nhạc của một "Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội", hay "Hướng Về
Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ loáng
thoáng, trong tập "Tôi không còn cô độc",
đã một thời làm ngơ ngẩn cả đám bạn bè hồi cùng
học trung học.
Ngớ ngẩn, đúng hơn.
Số là Phạm Năng Cẩn rất mê
câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến
Nguyễn Quốc Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là
mưa gì? Tôi nhớ là, bạn Cẩn ngớ ra, và...
cương đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến thành
bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim cương trên những chiếc áo Mùa
Thu, Hà Nội!
Sủng coi bộ không hài lòng
với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong lúc
cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô
buy là một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô buy là mưa
đại bác, mưa trái phá!
Sau này tôi được biết,
người miền nam gọi trái phá là trái ô
buy. Họ gọi phạm nhe là người y tá, và hồi mới
vào Sài Gòn, tôi đã từng khổ sở vì
không hiểu nghĩa của nó, sau cùng truy ra, là
do từ tiếng Pháp, infirmier.
Nước Pháp, “hóa thân”
vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa thân”
vào từ ô buy, và được một nhà thơ miền bắc
âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi chao số phận của “trái
đại bác” Tây, nhờ một miền đất, rồi nhờ một nhà thơ,
biến thành cơn mưa bụi ở một miền đất khác, trong cùng
một quê nhà, sao mà may mắn hơn cái từ chiên
hẩm hiu thế!
Bởi vì không phải ngẫu
nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”:
ông vẫn bị những cơn mưa từ cái thành phố mà
ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên
mà ông bạn ngày xưa của tôi tán ẩu,
ông cũng bị ám ảnh....
Patti Page
Patti Page, who has died aged
85, had a huge hit in the United States with How Much Is That Doggie
In The Window? and became the biggest-selling female star of the 1950s.
Patti Page, nữ danh ca số 1 của
1 thời, đã mất, thọ 85 tuổi
Ui chao, Em này đúng
là thần tượng của Anh Cu Gấu nhà quê Bắc Kít.
Và có thể - có thể gì nữa - của
nhà thơ TTT, vì nhà thơ hẳn là cũng quá
mê em, và Jazz.
O, Let me go, lover, Smoking my sad cigarette… Trong Tôi Không Còn Cô Độc,
TTT cũng có vài bài vinh danh Jazz, hình
như thế.
Trong Liên Đêm.
Thí dụ bài này, nền của nó chẳng
là tiếng kèn của Jazz ư:
Dạ khúc
Anh sợ những cột đèn đổ
xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến
công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày
sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng
dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai (1)
Bài thơ này có
1 giai thoại thú lắm, do chính thi sĩ kể và được
1 em ca sĩ xì ra. Bài thơ được phổ nhạc và mấy em
cứ hát sai đi [chắc là cố tình] "đưa em vào
quán trọ".
Nghe nói, thi sĩ bực lắm.
Nếu là Gấu, thì không bực!
Bài thơ thần sầu,
Anh là thằng điên
khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày
sắp tới
Chiếc kèn hát mãi
than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Chiều ngồi quán
Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm
thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa
đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT
Chúa ơi!
Note: Tên này, bửn thực!
NQT
Hắn ta có thể chê thơ TTT,
hơn thế nữa, khi ông còn sống, nhóm Sáng Tạo còn,
vì hắn sống cùng thời với họ.
Bài viết của hắn, đúng là thứ “ai điếu” mà
Brodsky chửi, 1 thứ thuốc thử đạo hạnh của những tên còn sống,
khi viết về những người đã chết. Cũng thế, là những gì
mà tên Lang Băm viết về Gấu, khi núp váy 1 người
đàn bà, viết cực kỳ nhơ bửn về TTT, về NXH. Bởi thế mà
GCC mới dám phán, lũ Mít viết văn làm thơ, cả
từ Bắc cho tới Nam, thiếu hẳn “cái gọi là” đạo hạnh. Một tên
thi sĩ như tên “TMBLCP”, thì chôm thơ Joseph trên
trang Tin Văn, rồi phán, đọc đâu đó trên Thời Tập,
trong khi hắn đã từng được TTT coi là bạn, và đã
từng được ông làm thơ tặng nữa, tếu thế!
Đi tù VC, TTT mang theo Beckett.
Viết về Beckett, là để tặng cô con gái.
Lạ, cực lạ.
Và Gấu giải thích, cô con gái của
ông là hình ảnh của Hà Nội, thành
phố “nền” của tập thơ đầu tay của ông, "Tôi không còn
cô độc". Bài thơ “Dạ Khúc”, nền của nó, là
Jazz, với những hình
ảnh Hà Nội, "nửa đêm Hà Nội", mà tên
sĩ chuyên nghề nhạo
nhại thơ người, không làm sao nhận ra, do đố kỵ.
Cái gì làm cho
TTT nhắc tới Beckett?
Theo Gấu, có 1 cái gì
đó liên hệ giữa ông và Beckett, nếu như chúng
ta chấp nhận cái nick mà Steiner ban cho Beckett, trong
1 bài viết trên The New Yorker, “Master of nuance
and scruple” [Sư phụ của sắc thái và ngần ngại”].
Không thể viết sau Trại Tù của TTT, tương tự sự
câm lặng của Beckett.
Beckett's reductio of language-Echo's Bones, the title
of his early book of verse, is a perfect designation-relates to much
that is distinctive of modern feeling. "It was the same, the word is
not too strong" exhibits the tense playfulness oflinguistic philosophy.
There are passages in Beckett nearly interchangeable with the "language
exercises" in Wittgenstein's Investigations; both stalk the vapid in-
flations and imprecisions of our common speech. Act
Without Words (1957) is to drama what "Black on
Black" is to painting, a display of final logic. Beckett's silences, his
wry assumption that a rose may indeed be a rose but that only a fool would
take so scandalous a proposition for granted or feel confident of translating
it into art, are akin to monochrome canvas, Warhol statics, and silent
music. But with a difference. There is in Beckett a formidable inverse
eloquence. Words, hoarded and threadbare as they are, dance for him as
they do for all Irish bards. Partly this is a matter of repetition made
musical; partly it springs from a cunning delicacy of to and fro, a rhythm
of exchange closely modelled on slapstick. Beckett has links with Gertrude
Stein and Kafka. But it is from the Marx Brothers that Vladimir and Estragon
or Hamm and Clov have learned most. There are fugues of dialogue in Waiting
for Godot-although "dialogue:' with its implication of efficient contact,
is painfully the wrong word-that come nearest in current litera-
ture to pure rhetoric:
VLADIMIR: We have our reasons.
ESTRAGON: All the dead voices.
VLADIMIR: They make a noise like wings.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like sand:
ESTRAGON: Like leaves.
Silence
VLADIMIR: They all speak at once.
ESTRAGON: Each one to itself.
Silence
VLADIMIR: Rather they whisper.
ESTRAGON: They rustle.
VLADIMIR: they murmur.
ESTRAGON: They rustle.
Silence
VLADIMIR: What do they say?
ESTRAGON: They talk about their lives.
VLADIMIR: To have lived is not enough for them.
ESTRAGON: They have to talk about it.
VLADIMIR: To be dead is not enough for them.
ESTRAGON: It is not sufficient.
Silence
VLADIMIR: They make a noise like feathers.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like ashes.
ESTRAGON: Like leaves.
Long silence
STEINER: OF NUANCE AND SCRUPLE
Note: V/v cái từ, tiếng Tây,
Beckett, dịch qua tiếng
Anh, sau dịch trở lại tiếng Pháp, thì cái từ tiếng
Pháp, không còn sử dụng được nữa, bữa nay kiếm ra
rồi:
http://www.tanvien.net/Souvenir/Daily_Notes.html
Nói về đặt tít, thì,
nếu Sến cực độc, cực ngắn, gọn, thí dụ, sửa giùm
Gấu những cái tít như Dịch
Là Cướp, Miếng Cơm Manh Chữ… khi Gấu còn cắp rổ theo
hầu Sến, và Chợ Cá còn, thì Cô Tư, cực
thần sầu trong cái gọi là “chiều sâu tâm linh”
của từ, thí dụ "Xác Bụi", "Cúi Xuống Là Đất"...
Gấu Cái lần đầu đọc,
chỉ nội cái tít "Cúi Xuống Là Đất", là
đã lắc đầu bái phục.
Nhưng, 1 cách nào
đó, Gấu Cái bảnh hơn Cô Tư, ở cái phần “viết
như không viết”, như em Sad Seagull của Gấu nhận ra, hà,
hà!
Em phán, Miền Nam của
Thảo Trần bảnh hơn Miền Nam của Cô Tư, vì chưa nhiễm độc
Bắc Kít.
Cô Tư, do gia đình hình như cũng có tí
mắc mớ với Cách Mạng, nên khác Thảo Trần, có
chồng là nhà văn Ngụy, đi tù VC nhiều lần!
Thua xa… Beckett.
Với ông này cái
tít đúng là tử công phu. Gấu mới lôi
cuốn về Beckett, trên, mua từ đời nào, ra đọc.
Hóa ra thì là Cioran cũng đã từng gọi
Beckett là 1 vì phong nhã.
Trong bài viết ngắn
của ông về bạn mình, Cioran viết về từ Lessness,
của Beckett, dịch từ “Sans”, tên 1 tác phẩm tiếng Tẩy của
Beckett. Cioran bị hớp hồn, ”envouté”, bởi từ này, và
một bữa, un soir, ông biểu bạn, tôi không làm
sao tìm ra 1 từ tiếng Tẩy nào tương đương với nó [tất
nhiên, không phải từ “sans” mà nó được dịch từ
đó ra].
“Tôi không thể
nào ngủ được nếu không kiếm ra 1 từ ra hồn, honorable. Thế là
cả hai bù đầu kiếm, bằng cách kết hợp những từ chung quanh
hai từ sans, và moindre. Và khi từ giã,
cả hai đều thất vọng.
Trở về nhà, Cioran vẫn khổ với nó, cho đến lúc
ông bật ra ý nghĩ, hay là mò từ nguồn la tinh,
và ngày hôm sau, ông viết cho Beckett, cái
từ sinéité, và tuyệt vời làm sao, cũng đúng
lúc đó, Beckett kiếm ra từ này.
Đúng là 1 giai thoại thần sầu. TV post sau đây,
để chứng minh, là không phịa ra.
Le texte francais Sans s'appelle en anglais Lessness, vocable
forgé par Beckett, comme il a forgé l'équivalent
allemand Losigkeit. Ce mot de Lessness (aussi insondable que l'Ungrund
de Boehme) m'ayant envouté , je dis un soir à
Beckett que je ne me coucherais pas avant d'en avoir trouvé en francais
un équivalent honorable ... Nous avions envisagé ensemble
toutes les formes possibles suggerées par sans et
moindre. Aucune ne nous avait paru approcher
de l'inépuisable Lessness, mélange de privation
et d'infini, vacuité synonyme d'apothéose. Nous nous séparames
plutôt décus. Rentré à la maison, je continuai
à tourner et retourner dans mon esprit ce pauvre
sans. Au moment ou j'allais capituler, l'idée me
vint qu'il fallait chercher du côté du latin
sine. J'écrivis le lendemain à Beckett
que sineité me semblait le mot rêvé.
II me repondit qu'il y avait pensé lui aussi, peut-être au même
instant. Notre trouvaille cependant, il faut bien le reconnaitre, n'en
était pas une . Nous tombâmes d'accord qu'on devait abandonner
l'enquête, qu'il n'y avait pas de substantif francais capable d'exprimer
l'absence en soi, l'absence à l'état pur, et qu'il fallait
se résigner à la misère métaphysique d'une préposition.
E.M. Cioran: Quelques rencontres.
Về cái từ “người phong
nhã”, "l’homme noble", thì Cioran viện tới hai đấng, Maitre
Eckhart và Nietzsche, cũng đã từng viết về từ này,
tức là về Beckett và với Gấu, thì thêm vô,
ông bạn Bạn!
Re: TTT.
TTT ngay từ khi mới xuất
hiện, là đã bị chửi tơi bời hoa lá cành rồi.
Đâu phải đợi đến khi ông nằm xuống, để được 1 tên
cũng cùng thời với ông, là NDT lôi thơ ra chê
đâu.
Nhưng thà là như thế.
Một khi 1 tác giả đã mất đi, viết về họ, là cả 1
"tử công phu" theo Gấu. Phải có 1 cái nhìn hết
sức đứng đắn, và hơn thế, phải có những phát hiện mới
về tác giả mà mình đề cập tới.
Bạn NL đọc TTT, coi Liên Điêm là bi khúc,
tuyệt.
NQT
Hôm
trước đang nói dở câu chuyện về "bi ca" tức "élégie",
Rilke và nhà thơ Việt Nam nào thực sự viết "bi ca",
thì vướng tí chút lộn xộn :p nên giờ mới nói
tiếp được.
Bi ca là một vấn đề hết sức lớn của văn chương phương Tây.
Tôi từng dịch một bài (xem ở
đây), một người đã gọi ngay một người là "élégiaque",
tức là một cách vinh danh rất lớn; vì kinh ngạc quá
nên tôi đã dịch ngay bài ấy: hai ông thầy
của tôi, một trực tiếp, một gián tiếp, xưa kia chẳng ưa gì
nhau, thế mà về già lại đổ đốn đi ca ngợi nhau :p
Thơ Việt Nam nếu có một thứ rất đặc biệt, thì là
"thơ thể hành".
Đặc điểm của thơ thể hành là rất dễ làm. Ai cũng
làm được, gần gần như lục bát. Tôi chỉ cần ngồi năm
phút là tạo ra được một bài nhìn qua rất là
giống "Tống biệt hành" (không hề nói phét). Lời
lẽ hoang vắng, đầy mélancholie và nostalgie, chữ nghĩa khúc
khuỷu, nhịp thơ uất hận vân vân. Nhưng đó là nhìn
vẻ ngoài. Thơ thể hành dễ làm nhưng có một
đòi hỏi cốt yếu, chệch một li là hỏng: bài thơ phải
thực sự nhất khí quán hạ. "Thăm mả cũ bên đường"
của Tản Đà chưa hề ăn thua, mà tôi thấy đỉnh cao của thể
này chính là "Giời mưa ở Huế" của Nguyễn Bính.
Người ta rất ca ngợi bài "Ta về" của Tô Thùy Yên,
nhưng đó là một bài thơ hỏng.
Còn bi ca? Nhà thơ Việt Nam duy nhất viết bi ca là
Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong tập Mặt trời tìm thấy,
là một kiệt tác lớn:
bài bi ca này của Thanh Tâm Tuyền còn đặc
biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của nó đặt vào tương lai, một hiện
tượng rất quái gở....
Cái sự kiện, khi TTT nằm xuống, được hải ngoại vinh danh, là
do thái độ đạo hạnh của ông, hơn là do thơ, theo GCC.
Bài viết trên đây, nhớ là Tin Văn cũng đã
lèm bèm về nó rồi, nhưng không làm sao
kiếm ra được..... Thơ TTT, theo Gấu, đi đúng cái đường mà
Brodsky nhận xét, về 1 thi sĩ thứ thiệt, càng già càng
bảnh.
Nhất: Thơ tù. Rồi tới Liên Đêm, rồi tới Tôi
không còn cô độc.... Nhưng Tôi không
còn cô độc có những nét cực kỳ ngây
thơ, của TTT khi còn trẻ, ở Hà Nội, cái gì gì,
"nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang", thí
dụ.
Tks
NQT/Đài Sử
Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html
Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh
Ôi cô bé Vermeer, ôi viên
ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh sáng
còn tôi thì làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương hại.
Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners
Vermeer's Little Girl
Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.
Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/36.html
CELLO
Those who don't like it say
it's
just a mutant violin
that's been kicked out of the chorus.
Not so.
The cello has many secrets,
but it never sobs,
just sings in its low voice.
Not everything turns into song though.
Sometimes you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't sleep.
Adam Zagajewski
Hồ Cầm
Kẻ không thích,
thì phán,
Ui dào chỉ là cái vĩ cầm chưa thành
vĩ cầm
Bị dàn nhạc đá văng ra khỏi bản đồng ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có nhiều bí ẩn,
nhưng không bao giờ sụt sùi,
chỉ hát trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải mọi chuyện thì đều
biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn bắt được một tiếng thì
thầm, hay thỏ thẻ:
Anh Gấu ơi,
Ðêm nay, em cô đơn,
Em không thể ngủ được.
Robert Frost
Stopping By Woods on a Snowy
Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Tạm dịch:
Dừng ngựa bên rừng buổi
chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi
nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy
kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà
cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy
cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này,
chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng
của hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và
sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái
Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có cái
tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.
As to the metaphor, I should
add that I now see that metaphor is a far more complicated thing
than I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying,
"the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more subtle
way.
Think of Robert Frost. You of course remember the lines:
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
If we take the last two lines,
the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the
poet is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And
miles to go before I sleep," the line becomes a
metaphor; for "miles," stands for "days," for "years,"
for a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death."
Perhaps I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the
pleasure lies not in our translating "miles" into "years" and "sleep"
into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This craft
of verse
Borges lèm bèm:
Về ẩn dụ, tôi có lẽ nên nói
thêm là, nó rất ư “cà chớn”, rất rắc
rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó không
giản dị chỉ là so sánh sự vật này với sự vật khác
- thí dụ, "mặt trăng thì như là... " - Không,
nó “tế vi” hơn nhiều.
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
Nếu lấy hai dòng đầu,
thì nó là 1 câu phán của thi
sĩ, về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập
lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến
thành "ngày", thành "năm", và dài
dài mãi ra, và "ngủ", có nghĩa là,
ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc lại bài
thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách
dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái
tít!
Những lời hứa phải giữ!
Bài tiểu luận lấy làm
tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí,
On Grief and Reason, của Brodsky, là
viết về [vinh danh] Robert Frost.
Brodsky viết:
Vào năm 1959, trong 1 bữa tiệc mừng sinh nhật
lần thứ 85 của Frost, tại New York, nhà phê bình
sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó, the most prominent literary
critic at the time, Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu có
cẳng, goblet, phán, Robert Frost là nhà thơ
khủng khiếp, a terrifying poet. Lẽ dĩ nhiên, có những
tiếng ồn ào tiếp theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng là
từ dành cho Frost:
Now, I want you to make the
distinction here between terrifying and tragic. Tragedy, as you know, is
always a “fait accompli”, whereas
terror always has to do with anticipation, with man's recognition of his
own negative potential-with his sense of what he is capable of. And it is
the latter that was Frost's forte, not the former. In other words, his posture
is radically different from the Continental tradition of the poet as tragic
hero. And that difference alone makes him- for want of a better term-America.
Ui chao, đọc 1 phát,
Gấu nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho Hoàng
Đông Phương!
Between Two Worlds
Brodsky ventures, "American
poetry is essentially Virgilian, which is to say contemplative."
Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu
hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm
thơ sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch sử Nga, có
thể lập lại câu hỏi trên, bằng cách thay tên
Auschwitz bằng 1 cái tên khác, và sự chứng
thực, justification, còn bảnh hơn, even greater, Auschwitz,
bởi vì con số những người chết trong trại tù Stalin vượt
quá hơn nhiều, so với Lò Thiêu, hay, như nhà
thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng, retorted, Adorno: “Làm
sao một người có thể ăn trưa [sau Lò Thiêu]?”
Trong bất cứ trường hợp,
thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm thứ thơ
đó [that poetry].
Thơ ca Mít, nhất là đám Miền Nam
sau 1975, đụng đúng cú này, và TTT trả
lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như đếch có
gì xẩy ra?
Note: Phản ứng của Brodsky, trước câu
phán của Adorno, đúng, nhưng sai, do ông không
làm sao phân biệt được Cái Ác Nazi và
Cái Ác Châu, y chang trường hợp Auden, hay Hass, không
đọc được thơ Osip Mandelstam. Thuật ngữ thường được dùng cho Lò
Thiêu, "không thể nói được", "unspeakble", đúng
ra phải dùng cho Cái Ác Á Châu.
Nhờ "nói được", qua những kẻ sống sót, như
Celan, Levi.... cho nên Âu Châu sống sót
Cái Ác Nazi, và có thuốc chủng, như Todorov
phán: Khử bằng hồi ức.
Cái Ác Á Châu, vô phương!
Chúng làm Ác, tạo Ác, và
dửng dưng như không:
Thánh Nhân Bất Nhân, Coi Thiên Hạ
Như Chó Rơm!
Bạn chỉ cho GCC thấy, 1 tên Bắc Kít, nhỏ
1 giọt nước mắt cá sấu , cho 1 tên Ngụy, đi
tù 17 niên, như Thảo Trường, thí dụ?
Memory as a Remedy for Evil
Todorov mở ra cuốn sách
nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc
trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận
xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của dân
Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và
chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver
us from evil". Câu này ngụ ý, trong chúng ta
có... quỉ, và chỉ có Thượng
Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng
con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm hở
với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng này
đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.
Cái giấc mơ thống nhất
nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn
trị!
Thế mới chết!
(1)
Todorov
Re: Pourtant,
il affirme qu'« on peut aimer passionnément la littérature,
sans pour autant croire qu'hors des livres il n'y a point de
salut ».
Today at
2:42 PM
“on peut
aimer passionnément la littérature, sans pour autant croire
qu'hors des livres il n'y a point de salut”
Bác Gúc dịch:
One can passionately love literature, without believing
that outside of books there is no salvation
Nôm na, mình yêu sách nhưng đừng
nghĩ chỉ có sách mới cứu!
Bac khoe khong?
I am OK. Tks
Osip
Mandelstam
8
It's true, I lie in the earth, moving
my lips,
But what I say will be learned in every school:
The round earth is rounder in Red Square,
And its slope asserts itself, willingly,
The round earth is rounder in Red Square,
And its slope is vast, unexpectedly
Sloping down-to fields of rice-
As long as one last slave is left alive.
May 1935
Osip Mandelstam: Voronezh Notebooks
Đúng như thế đấy, tớ nằm trong lòng
đất, mấp máy môi
Nhưng những gì tớ phán thì
sẽ được học trong mọi ngôi trường
Trái đất tròn, tròn hơn, ở
Công Trường Đỏ
Và đường cong của nó, khẳng định chính
nó, rất ư là hài lòng
Trái đất tròn, tròn hơn ở Công
Truờng Đỏ
Và đường cong của nó rộng rãi,
thênh thang, rất ư là không ngờ
Đường cong trải dài mãi ra, tới đồng,
tới ruộng
Trải dài mãi
Cho đến khi tên nô lệ cuối cùng,
còn lại.
INTRODUCTION
W. H. AUDEN once complained to Joseph Brodsky: "I.
don't see why Mandelstam is considered a great poet. The translations
that I've seen don't convince me at all"*-a comment that indicates
the conflict between Osip Mandelstam's reputation as one of the
greatest poets of the twentieth century and his equally notorious
impermeability to translation, if not to comprehension itself. Why
is Mandelstam so hard to get at? There is, of course, the density of
his language and imagery and the prominent role of rhyme and rhythm in
his work. He was one of the great “orchestrators" of language, one of
the great masters of sound and cadence, which has posed enormous-some
would say insuperable-obstacles to translation. Related is the tantalizing,
and perennial, question of the differences between Russian and English
poetic practice, a question whose scope and complexity is beyond my capacity
to deal with here. But underlying everything, I think, is the
* Joseph Brodsky, "The Child of Civilization," in Less
Than One: Selected Essays (New York: Farrar, Straus and Giroux,
1987), 142.
unique, the radical demand that Mandelstam places on
his readers. All of Mandelstam's poetry is excavated from the midden
of his experience. This is its fundamental, invariable, characteristic,
and essential principle. There was little of the theoretician and
nothing of the mystic in him; he was the most earthly of men. One
can see this clearly in the highly unusual way he treats three common
poetic images, both in the Voronezh Notebooks and in his earlier
poetry, images through which he expressed his horror at being separated
from life. Not just by death-though death was a real threat when he was
composing the Notebooks -by any-thing that prevented him from immersing
himself in physical, palpable existence. For Mandelstam, the sky (nebo)
most often suggested not some paradise or heaven but sexless, inhuman,
asphyxiating emptiness. The appearance of stars in his poetry indicated,
as his wife, Nadezhda, pointed out, not a movement toward the eternal but
the shrinking away from the essentially human and, therefore, the coming
to an end of the poetic impulse. And air ( vozduhk)-or rather the
lack of it, one of Mandelstam's greatest preoccupations in the Notebooks-stood
in not as an animating principle, not as some cipher for the soul, but
as an earthly element. It represented the most insistent of the triad of
life's physical necessities-food, water, breath-and by extension the
freedom to move in a physical world..
Looking on a Russian Photograph, 1928/1995
It's the classic picture of doom.
Three great poets stand together in 1928, the Revolution just a decade old,
their hearts and brains soon to be dashed out on the rocks of Russian fascism,
the flower of their achievements destined to be crushed by the new czar,
Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - each will die
in his own tortured way. Mayakovski, rebuffed in love, imprisoned
in Moscow, will kill himself in 1930, at the age of thirty-six.
Eisenstein's broken heart will give out in 1948, cherished projects
betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely
watched at home. Pasternak, long denied by his government, will
finally survive Stalin - yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago,
earns him the Nobel Prize in 1958, he will not be permitted to accept,
his book burned, his name excoriated in his homeland.
But there they stand in 1928, brave young hearts,
frozen in triumph, the last symbols of a civilization about to go
mad. Yet I find. myself thinking - how lucky they are, these three,
able to experience lives of great crisis and choice. Were they not
gifted with an energy that brought them each full-bore into what
Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their
times"?
We shall all lose, it is inevitable. The issue
is how we lose, on what terms. These three men played out their
lives across the dark landscape of a cursed country, each sought
as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind tortured
them with the impossibility of reason.
I do not seek such death. I choose the milder climes
of the USA circa the late twentieth century - although these
times, less sinister certainly than Stalinist ones, may be equally
dangerous-for what is in danger, in the largest sense, is the soul.
And the soul that dies in its lifetime is the sterile, timid, cynical
soul that is never tested by its time. Though tests too can be boredom.
Luxury, television and the accelerating sameness of information can
be far more ruthless than war or disease.
So I say-in death, rest. There is much time later
to sleep.
Until then party - party hard, suffer hard. Live
lives suffused with cycles of joy and sorrow. Participate above
all in the travails of your time, as artists your shoulders equal
to all working and struggling people, neither higher nor lower but
equal to its spirit in its own time.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak
- I salute you.
- Oliver Stone
The Paris Review Winter 1995: Russian Portraits
Quái đản thật. Ở cái
xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng,
phò Đảng thì cũng bảnh, cực bảnh, như bộ ba trên
đây.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak
- Gấu Cà Chớn chào các bạn.
Ở cái xứ Bắc Kít,
toàn Kít!
Một bức hình
cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ
lớn chụp chung với nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì
mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ nát bấy
ra trên những hòn đá của phát xít
Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền nát dưới gót
giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin. Eisenstein, Mayakovski, Pasternak
- mỗi người một cái chết, mỗi
người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự tuyệt trong
tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát
vào năm 1930, ở tuổi đời 36. Trái tim bể của Eisenstein
ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị
phản bội, nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách
hại khi ở hải ngoại, bị canh trừng chặt chẽ khi ở nhà.
Pasternak, đã
từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau
cùng sống sót chế độ Stalin – tuy nhiên khi
tuyệt tác của ông Bác
Sĩ Zhivago được trao Nobel, ông không được phép
đi nhận giải, sách bị đốt, tên bị trà đạp bôi
nhọ ở quê nhà.
Nhưng, như bức
hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang,
vào năm 1928, ba trái tim trẻ, can đảm, đông
lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1 nền
văn minh trước khi khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên,
riêng tôi, thì lại nhận ra 1 điều, họ mới hạnh
phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những
cuộc khủng hoảng lớn, và chọn lựa lớn.
Làm sao
Ông đã làm sao...
Tố Hữu
Vào tháng 11 năm 1933,
Osip Mandelstam sáng tác bài thơ trứ danh
“Vịnh Stalin”, ‘người leo núi Cẩm Linh’, ‘kẻ sát nhân
tên làm thịt dân quê’. Tháng Năm
1934, ông bị bắt vì tội 'phản cách mạng', bị
tra hỏi trong 2 tuần, nhưng lạ lùng làm sao, do lệnh
trên ban xuống, không bị làm thịt hay bỏ tù,
mà chỉ bị ‘cách ly nhưng đừng để chết’. Hai vợ chồng trải
qua 3 năm lưu vong ra khỏi những thành phố lớn; khi trở về, sống
giữa đám bạn bè lòng vòng ở Moscow. Tháng
Năm 1938, ông chồng bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù,
và lần này bị đầy đi Vladivostok, chỉ kịp gửi một cái
note, cho ông em/anh, gửi ‘quần áo sạch’; ông không
thoát được mùa đông tại đó. Bà vợ sống
dai hơn ông chồng 42 năm, nhẩn nha nhớ lại thơ chồng. Chúng
ta được biết những chi tiết hiếm quí đó là qua hồi
ký tuyệt vời của bà vợ, “Hy vọng chống lại hy vọng”
Là một độc giả mê cuốn hồi ý
trên, Robert Litell gặp bà vợ nhà thơ vào
năm 1979, cuộc gặp gỡ ông kể lại ở cuối cuốn tiểu thuyết
của ông, một giả tưởng tái tạo dựng những sự kiện trong
4 năm, từ khi nhà thơ trước tác bài thơ vịnh
Xì Ta lin, cho tới cái chết của ông, cộng thêm
vào đó là những giọng nói của Osip, của
bạn bè của ông, của thời của họ, cộng giọng nói
giả tưởng hóa của tay trùm cận vệ Xì….
Tribute
to Hoàng Cầm
Có 2 cách đọc Nguyễn
Tuân?
Không chỉ NT, mà còn Hoàng
Cầm, thí dụ.
Nhưng với HC có tí khác.
Nói rõ hơn, VC, sĩ phu Bắc Hà
đúng hơn, đọc HC, khen thơ HC, là cũng để thông
cảm với cái hèn của tất cả.
Của chung chúng ta! (1)
1. Tình cờ ghé Blog
của me- xừ Đông B, ông ta gọi cái món
này là 'mặc cảm dòng chính'!
Hình như tụi Mẽo cũng có thứ mặc
cảm này, 'chỉ sợ mình Mẽo hơn tên hàng
xóm'.
Anh VC thì cũng rứa! Nào là
phục hồi nhân phẩm cho Ngụy, nào là em về
đâu hỡi em khi đời không chút nắng, đời gọi
em biết bao lần!
Khổ một nỗi, khi chúng mất nhân phẩm
thì không thể nào phục hồi được!
"Tớ phục vụ một cái nghĩa cả cà chớn,
và tớ nhận tiền từ nhân dân Bắc Kít mà
tớ lừa bịp họ với những bài thơ 'lá liếc' nhảm nhí
của tớ. Tớ là một tên bất lương. Nhưng mà này,
bản thân tớ thì là cái thống chế gì
ở đây? Tớ chỉ là một hạt cát trong Cái
Ác Bắc Kít… Đây là lỗi lầm của cái
thời mà có tớ sống ở trong đó”!
Hà, hà!
Hút
vậy hại sức khoẻ lắm.
Câu ấy ai cũng nói. Nhưng nó
theo cả đời rồi. Mình phải cầm đóm lấy mới ngon.
Để người châm hộ không ngon.
Thật ra sống đủ rồi, không muốn sống đau
ốm, thế nên cho trách giời một tí.
Khốn nạn thực. Từ hải ngoại tốn
công tốn của, chịu nhục, bò về, để châm đóm
cho nhà thơ, mà vưỡn bị chửi, xê ra cho người
ta hút thuốc lào.
Để mi châm hộ, hút, mất cả ngon!
Akhmatova:
Nửa Thế Kỷ Của Tôi
You invented me. No such person exists,
that's for sure,
There's no such creature anywhere
in sight.
No poet can quench my thirst,
no physician has a cure,
The shadow of your ghost haunts
me day and night.
We met in an unbelievable year,
The energies of the world were
worn through,
The world was in mourning,
everything sagged with
fear,
And only the graves were new.
In the absence of light, how
black the Neva grew,
The deaf night surrounded us
like a wall . . .
That's exactly when I called
out to you!
What I was doing-I didn't yet
understand at all.
And, as if led by a star you
came to me,
As if walking on a carpet the
tragic autumn had grown,
Into that house ravaged for
the rest of eternity,
From whence a flock of burned
verses has flown.
1956
Mi phịa ra ta. Làm gì
có cô gái nào tên là
BHD, chắc chắn như thế,
Làm gì có
thứ bông hoa lạ như thế ở khắp mọi nơi, trong tầm
nhìn
Chẳng tên thi sĩ nào
có thể làm dịu cơn khát của ta, không
tên y sĩ nào có thứ thần dược chữa trị,
Cái bóng của con
ma tình, là mi, tên GCC, làm
khổ ta ngày và đêm
Hai đứa ta gặp nhau đúng
trong cái năm không thể nào tin tưởng
được đó
Nhiệt tình trọn thế gian
đốt trọn cuốn lịch
Thế giới ư, tóc tang tang
tóc, mọi chuyện chùng xuống vì
sợ hãi
Chỉ những nấm mồ là mới.
Thiếu vắng ánh sáng,
con sông Neva bèn càng đen thui
Đêm điếc đặc bao quanh
đôi ta như bức tường
Đúng là vào
lúc như thế ta gào tên mi, GCC!
Ta đang làm gì
đây - Ta chẳng thể nào hiểu
Và, như thể được 1 vì
sao dẫn dắt,
Mi bèn đến với ta....
Selected and Translated by
Lyn Coffin
OSIP MANDELSTAM
I
July 28, 1957
AND LOZINSKY'S DEATH
SOMEHOW broke the thread of my reminiscences. I no
longer dare to recall things that he cannot corroborate (about
the Poets' Guild, Acmeism, the journal
The Hyperborean, and so forth). In recent years
we rarely saw each other because of his illness and I didn't get
a chance to have a real talk with him about some important matters
or to read him my poems from the 1930s ( Requiem). Probably
that accounts for the fact that he continued to think of me to
some degree as the same poet he had known long ago in Tsarskoe Selo.
This became clear when we were both reading the proofs of my collection
From Six Books in 1940.
* * *
Something similar happened
with Mandelstam, who of course knew all my poems,
but in a different way. He did not know how to reminisce rather
it was a different sort of process for him that I don't have a
name for now, but something doubtless akin to creativity. (For
example, Petersburg in The Noise
of Time seen through the bright eyes of a five-year-old boy.)
Mandelstam was one of the most brilliant conversationalists. He didn't
just listen to himself and answer himself, which is what almost everyone
does nowadays. In conversation he was polite, quick to react, and always
original. I never heard him repeat himself or "play the same old record”.
He learned foreign language with unusual ease
Poetry and History: Polish
Poetry after the End of the World
In 1973, when I was twenty-three years old,
I decided to stop in Warsaw during a year I was
traveling in Europe. From that trip I remember one chilly
gray dusk in particular when I walked through the neighborhood
that had once been the Warsaw Ghetto. People were bustling
home from work, but their activity only seemed to accentuate
the eerie and even ghostly absence of all those missing persons,
an annihilated people. One didn't need to travel to Auschwitz
to feel guilty absence and palpable vacancy. That night I reread
Czeslaw Milosz's poems "A Poor Christian Looks at the Ghetto," "A
Song on the End of the World," and "Dedication." This last poem was
addressed to "You whom I could not save," and dated Warsaw, 1945. Its
key stanza has thereafter set a standard of moral seriousness in
poetry:
What is poetry which does not save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats will be cut
in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without knowing it,
That I discovered, late, its salutary aim,
In this and only this I find salvation.
Milosz's early poems are all haunted by survivor's
guilt, the poignancy of living after what was,
for so many, the world's end. Poetry here becomes an
offering to the dead, a form of expiation, a hope for
redemption.
Reading the work of Zbigniew
Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa
Szymborska-the half-generation after Milosz-I soon
discovered that all of postwar Polish poetry was similarly
haunted by guilt, initiated in the apocalyptic fires
of history. These writers shared an important collective
experience, and the formative nature of that experience
helped shape the spirit of their work. Born in the
early 1920s, they grew up during one of the few periods
of independence in Polish history, but they came of age
during the terrible years of World War II. Poland lost six
million people during the war, nearly one-fifth of its population,
and the young writers felt the almost crushing burden
of speaking for those who did not survive the German occupation.
"I am twenty-four / led to slaughter / I survived," Rozewicz
wrote in "The Survivor." It was no boast. No wonder, then, that
at the conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead to free him:
They used to pour millet on graves or poppy seeds
To feed the dead who would come disguised as
birds.
I put this book here for you, who once lived
So that you should visit us no more.
Edward Hirsch: How to Read a
Poem and Fall in Love with Poetry
Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết
định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là
khi loanh quanh ở cái khu Ghetto. Phố
phường bận rộn, nhưng hình như càng làm
nặng thêm sự vắng mặt u uẩn của những người
đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò Thiêu
làm khỉ gì, chỉ ở đây thôi
mà đã cảm thấy cái sự trống vắng
tội lỗi, mân mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi đi 1 đường
đọc thơ Milosz. Ui chao, những bài thơ
đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm
sao, là cái mặc cảm sống sót, cái
nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”,
cái tận cùng thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng tặng cho
người chết, một hình thức cứu chuộc.
Đọc
Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa
Szymborska- nửa thế hệ sau Milosz – tôi liền khám
phá ra là, tất cả thơ ca hậu chiến Ba Lan
thì đúng là bị ám ảnh bởi tội
lỗi, bật ra từ những ngọn lửa tận thế của lịch sử....
[việc
Steiner thiếu vắng trong sự dịch thuật ở Việt Nam càng
cho thấy thêm trí thức Việt Nam không
đủ sức bao quát các giá trị của tư tưởng
thế giới - bởi vì, một phần lớn, họ chỉ chăm chăm thể
hiện mình rất giỏi, mình công chính,
đồng thời chăm chăm nói xấu người khác, và
trong tập đoàn ấy có vô số giáo sư]
Blog
NL
Theo
GCC, không hẳn như thế.
Steiner,
ít được cả thế giới quan tâm, không
chỉ riêng với Việt Nam, sở dĩ như thế, là
do ông ta quá quan tâm tới, chỉ 1 vấn
đề, Lò Thiêu, và chính vì
quan tâm đến Lò Thiêu, cho nên, quan
tâm độc nhất của ông ta, là về Thượng Đế, như
chính ông ta thú nhận, khi trả lời tờ The
Paris Review:
http://www.tanvien.net/pv/pv06_george_steiner.html
Những
người buộc tội tôi "tản mạn" (scattering), là
họ phỉnh nịnh tôi đấy. Thị kiến của riêng tôi,
hầu như chỉ xoáy về một điểm. Khi còn là
một gã quá trẻ, tôi cho xuất bản cuốn
Tolstoy hay là Dostoevsky, trong đó, tôi
nhắc đi nhắc lại mãi, rằng điều phân biệt hai nhà
văn này với một Flaubert hay một Balzac, đó cũng
là điều làm họ giống Melville, và đó
là chiều thần học (theological dimension), tức là câu
hỏi về sự hiện hữu của Thượng Đế. Cuốn sách nói về điều
mà Những Hiện Diện Thực mở rộng ba mươi lăm năm sau đó.
Tôi tin tưởng rằng có một số chiều nào đó,
trong văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, và cả trong
triết học: chúng sẽ không thể nắm bắt được, nếu câu
hỏi, có hay không một đấng Thượng Đế, bị coi là
vô nghĩa.
Steiner
là Thầy của GCC, có thể nói như
thế. Kỷ niệm gặp Thầy của GCC, y chang lần gặp TTT, khi được
bạn Chất, đưa đến nhà bạn, và thấy TTT ngồi ở
cái bàn ở góc nhà, hai chân
cho cả lên ghế, theo cái kiểu ngồi chổm hỗm, viết,
chẳng để ý gì đến gì khác. Với TTT, Gấu
ngộ ra cuộc đời của Gấu, sau đó, cái hình ảnh
của ông đó, sẽ là của Gấu sau này.
Với Steiner, có thể nói,
ông trao cho Gấu gánh nặng Lò Thiêu,
và, 1 phần nào đó, Gấu đã
giải ra được, cũng, “một phần nào” đó.
Sở dĩ
những nhà thơ Mẽo, như Robert Hass, hay như Auden,
Anh, không đọc được những nhà thơ như Osip
Mandelstam, là do họ không làm sao chọc
thủng được Cái Độc, Cái Ác Á Châu.
Đây là cái
ý mà Gấu ngộ ra, khi đọc Tolstaya, như
đã từng lèm bèm nhiều lần.
Trong
bài Tựa cho cuốn thơ của Osip Mandelstam, mà
GCC mới bê về, dịch giả phán, y chang:
Sở dĩ thơ Osip Mandelstam không
đọc được, vì nó quá phi nhân,
quá lạnh lùng, theo cái nghĩa, thánh
nhân bất nhân, coi thiên hạ như… kít
(sô cẩu):
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1467671643474397&id=1444490525792509
Thiên
địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu ﹔thánh
nhân bất nhân, dĩ bách tính
vi sô cẩu. Thiên địa chi gian, kì do
thác thược hồ ? Hư nhi bất khuất, động nhi dũ xuất.
Đa ngôn sác (sổ) cùng, bất như thủ trung.
DỊCH NGHĨA
Trời đất bất nhân, coi vạn
vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân,
coi trăm họ như chó rơm.
Khoảng giữa trời đất như ống bễ,
hư không mà không kiệt, càng
chuyển động, hơi lại càng ra. Càng nói
nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự
hư tĩnh.
http://tanvien.net/Tribute_1/PD_1.html
V/v Đừng thành công.
Trong Những bài
học của Sư Phụ, của Steiner, theo GCC, bài "Đừng thành
công" là tuyệt vời nhất!
Alain dậy học trò Simone
Weil, đừng thành công. Weil, trong đời rất quan
tâm đến xứ Đông Dương, và đến cuộc Cách
Mạng Yên Bái của Nguyễn Thái Học.
Nguyễn Thái Học, khi thất bại, bị
Tây giết, phán, không thành công
thì thành nhân!
Chúng ta cảm thấy, có
1 sợi dây “tâm linh”, liên quan tới
"ne pas réussir", nối kết Alain, Weil, Nguyễn Thái
Học.
Trong Những bài học của
những vị Thầy, Lessons of the Masters, chương
4, Steiner để nguyên tiếng Tẩy, “Maitres à penser”,
những ông thầy tư tưởng, và giải thích, cụm
từ này không làm sao dịch qua tiếng Anh được:
Cái cụm từ cực cụm từ,
the very phase, "Maitres à penser” nhốt [confine]
chúng ta vào trong cái mà Henry
James gọi là “cái lồng vàng của sự không
thể dịch được, “the golden cage of the untranslatable”. Trong
tiếng Anh, “Master of thought” nghe "quê 1 cục" [pompous
and vacuous]. Ngay cả từ “thinker”, cũng đáng ngờ, suspect.
Dịch qua tiếng Mít, Sư Phụ, nghe thật sướng lỗ tai, đúng
ý Tẩy: Thầy là số 1, ở đâu cũng có, ngành
nào cũng có, Maitre is ubiquitous. Cái sự thịnh
hành nhiều nếp, the manifold currency, của từ “Sư Phụ” còn
vươn tới những liên hệ giữa “những vì bác sĩ
của niềm tin”, "doctors of faith", y chang Mít: Sư phụ mà
phán, là hết xẩy con cào cào!
Trong chương này, Steiner
viết về “Maitre” Alain, và pupil, học trò Simone
Weil: Khi trò sắn tay áo lo cho những người thất
nghiệp, thầy gật gù hài lòng [When Simone Weil undertook
the direct actions on behalf of the unemployed, her Master noted
his pleasure]. Và dạy, đối với Alain, có nghĩa là
nhắm mức quá tầm với của học trò, khiến học trò
phải cố mà làm cho được [Teaching should focus
just above the pupil's reach, rousing in him or her effort and
will]. Mô phỏng Descartes, Thầy phán, "I want, therefore,
I am", “Tôi muốn, là tôi hiện hữu, có
tôi]. Ở đây "to want" tiếng Anh, có cả hai nghĩa
“to desire” [ao ước] và “to lack” [thiếu], thực hơn, truer,
theo Alain, so với tiếng Tẩy, “Je veux". Và với Alain, luật
đạo đức tối thuợng, the supreme moral rule, là, "đừng thành
công", "ne pas réussir": Cố nín, cố kiêng
khem thành công trong 1 thế giới mà thành
công có nghĩa là phải "compromise", thỏa hiệp.
Cũng trong chương này,
Steiner kể 1 số giai thoại trong khi dạy học của Alain, thật
tuyệt. Thí dụ, vào năm 1928, chừng 90 học trò
và thính giả trong 1 lớp học, nín lặng,
fell silent, khi Thầy bước vô lớp, và tiến tới bảng
đen, đi 1 dòng: "Hạnh Phúc là Bổn Phận", "Happiness
is a duty". Hay:
Luật đẹp nhất của giống người
là cái gì không được chiêm
ngưỡng thì mai một:
"It is the most beautiful
law of our species that that which is not admired is forgotten"
[To U, Sad Seagull]
Thánh Simone – Simone Weil
“We must prefer real hell to
an imaginary paradise”
Simone Weil
(Phải chọn địa ngục thực, thay vì
một thiên đường dởm).
“Không thành công
cũng thành nhân”
Nguyễn Thái Học
Câu của Simone Weil, áp
dụng 1 cách thông minh và thiên
tài vô xứ Mít, đúng cả đôi
đường. Địa ngục thực cũng Mít, mà thiên đường
dởm cũng Mít.
Khỏi cần chọn!
Tribute to Phạm Duy
PD & VC
Hai kỷ niệm tuyệt vời nhất của
Gấu, về nghe nhạc Phạm Duy khi ở tù VC, là
lần một bạn tù chơi đàn Tây Ban Cầm bản
Thuyền Viễn Xứ, và lần
1 anh bạn tù khác, hát lên bản
Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng.
Đó cũng là lần thứ nhất GCC
được nghe bản nhạc.
Nhưng để mà được nghe
như thế, thì phải được Ông Trời “chi ly đến
tận chi tiết”, để “hoàn thiện” hai cái buổi nghe
nhạc đó. Bởi vì thiếu, chỉ 1 chi tiết, là
“ọc dzơ”!
Có lần GCC có kể
1 giai thoại về Leibnitz, khi ông giải được 1 bài toán,
tất cả là ảo số, nhưng đáp số thì lại
là 1 số thực [thứ này, sau chúng ta gặp
đầy, trong toán về suite,
về série, nhưng đó
là thời kỳ hậu-Leibnitz. Bản thân Gấu cũng đã
từng giải 1 bài toán như thế, về chuỗi số ảo, như khi
nó đến ‘limite’, thì lại là 1 số thực. Áp
dụng vào lý thuyết Mác Xịt, vào cái
cú 30 Tháng Tư 1975, thì nó như vầy: Trước
1975, là ảo số, là lý tưởng, là ảo tưởng,
là không tưởng - chủ nghĩa Mác và căn nhà
thống nhất Mít -, nhưng 30 Tháng Tư, là số thực,
là cái thực, là địa ngục Mít, là
anus mundi…].
Lần đó, Leibnitz ngửa
mặt trên Trời la lên, không có Ông
là không thể có cái đẹp như thế
này!
Với GCC lần đó, thì
cũng vậy, phải có Ông Trời, thì mới có
cái đẹp tuyệt vời như thế: được nghe hai bản nhạc của
PD, như là số thực - hạnh phúc- limite, của cả một
chuỗi đau khổ [ảo số].
Sướng đến nỗi GCC phải la lên
Ngài Phạm Duy đã sáng tác hai
bản nhạc, chỉ để cho Gấu, nghe, trong 1 dịp trọng đại như thế.
Thiên hạ, người khác, nhân
loại, thì chỉ nghe… ké, hưởng ké!
Note: Bài viết này,
GCC viết, khi “hero” của GCC và của cả xứ Mít,
còn lang thang ở hải ngoại, và còn nghĩ
là ông sẽ được an táng ở Bắc Cực.
[Văn Cao có cái vinh cái
nhục của Văn Cao. Tôi cũng thế. Văn Cao được chết ở
đất quê. Chứ còn tôi, nay mai chết sẽ được
chôn ở Bắc cực chăng? (cười)...]
Nhưng hóa ra rằng thì là,
ngay từ khi đó, vào lúc GCC hớn hở vì
chạy thoát quê hương, 1997, [Gấu tái định
cử Canada 1994, sau 3- 4 năm ở Trại Tị Nạn], thì “hero” của
Gấu đã tính đường chuồn về, và đang tìm
cách thổi VC, nào là 10 năm “đoàn kết
tới chỉ” [chỉ có làm thịt sạch một dúm đảng phái
không phải VC].
Man is not merely one who lives,
taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông
thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là tỏ ra tự
hào, phán, 'nó còn là kẻ sống
sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
Phạm Duy, như "mọi" tên
Bắc Kít khác, đều thuộc týp đếch cần
tới cái tự hào “sống sót” đó!
Ông không những sống, mà
còn sống nhanh, sống hơn, sống quá... mọi tên
Bắc Kít khác
Chẳng thế mà trong clip video do
tờ Người Việt Cali thực
hiện (?), ông phán, trước khi dinh tê, tôi
thương hại những người chửi tôi, vì họ không
thành công như tôi!
Hà, hà!
Phản ứng của ông ra sao
về việc Grass thú nhận?
Tôi cảm thấy yên tâm.
Yên tâm khi một bậc Thánh
như thế thú nhận đã từng nhúng chàm?
Đúng thế. Điều đó làm
cho chúng ta yên tâm về cuộc đời khốn khổ
đáng thương của chúng ta. Và điều này
còn cho thấy, ngay trong văn chương, cũng đếch có
siêu nhân.
Ngoài Văn Cao ra, chưa
1 tên VC nào thú nhận đã từng
giết người.
*
Mấy kỷ niệm ở tù VC nghe
nhạc Phạm Duy, Gấu cứ nấn ná mãi, chưa chịu
viết ra. Bây giờ [Nghìn trùng xa cách],
"Người đã đi rồi", có lẽ đúng là
lúc để đi 1 đường tưởng niệm, bảnh nhất, không có
ai có thể có được đó.
Có lẽ, chỉ những dòng
sau đây, của Milosz, viết về Mandelstam, là
xứng với những kỷ niệm của Gấu, khi nghe nhạc PD ở nông
trường cải tạo Đỗ Hòa, Cần Giờ.
In one of his essays Brodsky
calls Mandelstam a poet of culture. Brodsky was himself a
poet of culture, and most likely that is why he created in harmony
with the deepest current of his century, in which man, threatened
with extinction, discovered his past as a never-ending labyrinth.
Penetrating into the bowels of the labyrinth, we discover that
whatever has survived from the past is the result of the principle
of differentiation based on hierarchy. Mandelstam in the Gulag,
insane and looking for food in a garbage pile, is the reality of
tyranny and degradation condemned to extinction. Mandelstam reciting
his poetry to a couple of his fellow prisoners is a lofty moment,
which endures. (1)
Mandelstam, khi ở trong Gulag,
điên khùng, và tìm kiếm đồ ăn trong
đống rác, là thực tại về bạo tàn, thoái
hoá đưa đến huỷ diệt.
Nhà thơ đọc thơ của
mình cho bạn tù, là một khoảnh khắc thăng
hoa hoài hoài.
Gấu Nhà Văn, vào 1 bữa
chủ nhật, đếch phải đi lao động cải tạo, nghe Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng,
nhạc PD, phổ thơ Lý Thị Ý, với 1 số bạn tù
ở nông trường cải tạo Đỗ Hòa, là cái
khoảnh khắc thăng hoa hoài hoài, và nó
sẽ theo bước chân người sáng tạo ra nó, qua
tới cả thế giới bên kia.
Thần sầu!
Hà, hà!
Cái khúc
này, “Mandelstam, khi ở trong Gulag, điên khùng,
và tìm kiếm đồ ăn trong đống rác, là
thực tại về bạo tàn, thoái hoá đưa đến huỷ
diệt”, cũng đúng với Gấu Nhà Văn.
Không có khúc này
thì không “hệ luận”, là khúc sau.
Tất cả liên quan tới lần Gấu Cái
đi thăm nuôi lần đầu, và, nếu không có
lần thăm nuôi này, thì kể như “hư vô”,
chẳng có khúc nào!
Đặng Lệ Khánh
Tribute to
Phạm Duy
Sống một đời rất đầy
Never explain —
your friends do not need it and your enemies
will not believe you anyway.
—Elbert Hubbard
Đừng bao giờ giải thích. Bạn chẳng
cần, kẻ thù chẳng tin.
Man is not merely one who lives,
taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
Con người đâu chỉ sống, ông
thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi, là tỏ ra
tự hào, phán, "nó còn là
kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.
Nhưng cũng vẫn Alain, đã
gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về Spinoza
[Thầy đọc Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này, về Cái
Thiện Cao Cả Nhất Của Con Người, [man's highest good]:
Kinh nghiệm niềm vui của tư
tưởng và tha thứ Lão Tặc Thiên.
[To experience the joy of thought and to
pardon God].
Trời kia mà còn
"tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ!
(1)
Với tôi,
Phạm Duy hay nhất vẫn là những bản nhạc tình.
Giống những cửa sổ, đối với K. trong Vụ Án.
Lần đó,
ở trong trại cải tạo, nằm kế một anh bạn. Chẳng bao giờ anh
hát. Một buổi tối, cả hai không ngủ được. Nói
chuyện lăng nhăng một hồi, và đột nhiên anh thủ
thỉ một mình. Những gì ..."đưa nhau tới bên
cầu", "giờ đây cơn mộng tan rồi"...
Sau này, mỗi lần nghe nhạc Trịnh
Công Sơn, tôi có cảm tưởng cuộc chiến còn
nguyên đó, đối với riêng tôi, những
ngày ở Trung Tâm Ba Quang Trung, lần đầu tiên
xa Sài-gòn, xa cô bạn. Nhưng, nếu không
có nhạc Phạm Duy, không hiểu những ngày ở
trong trại cải tạo còn thê thảm tới bực nào, đối
với hai bạn tù...
Mùa Thu, những di dân
How can I survive
without your mail?
Xạo!
PD cũng là 1 trong những
đấng cực kỳ tinh anh của xứ Bắc Kít. Vào lúc
ông đi xa, Gấu không dám chỉ ra cái
khúc bị thiến ở trong não của ông, nhưng
có lẽ, vị thân hữu K. của trang TV đã nói
giùm rồi: sống "đầy" quá!
Đây cũng là câu
bà cụ Gấu chửi thằng con của cụ những ngày
Gấu làm đệ tử Cô Ba, tội nghiệp mấy đứa nhỏ, sinh
ở đâu, sao nhằm cửa nhà này…. Mi sống lạm
sang đời của chúng nó rồi, cái thằng “chấm
chiếu” kia ơi!
*
-Nước mắt cũng có hạn. Nơi
này đổ ra nhiều thì nơi khác dè
xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm dụng cảm
xúc?
-Người ta chỉ đọc khi xúc động. Nhưng
chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của độc giả cũng như của
chính mình.
Bụi
Theo như “huyền thoại”, mỗi
lần Thái Thanh hát Bà
Mẹ Gio Linh, là 1 lần khóc!
Có thể vì lý
do đó mà Cao Hành Kiện rất tởm thứ văn
chương, âm nhạc, nghệ thuật “ăn mày” nước mắt của
đồng loại.
Ông đề nghị thay bằng “văn chương
lạnh”. TV tính giới thiệu bài phỏng vấn ông
trên tờ Văn Học Á Châu
v/v cú lạnh này, mà cứ quên hoài!
V/v vị thân hữu K.
Có lần Gấu đọc Vargas Llosa, gặp
1 bà y chang, bèn dịch bài viết, và
gửi. (1)
Hai bà, giả và thật này,
tính tình như thế, không hiểu được PD,
cũng 1 đấng cực độc Bắc Kít.
Đâu có thua gì
Vi Bức Vương, mỗi lần giở khinh công tuyệt đỉnh ra
là phải hút máu người.
Khác 1 tí, VBV không
hút máu sống, là lạnh cứng người mà
đi.
Còn PD, không chết, nhưng nhân
loại mất một tuyệt tác!
Cái câu bà
trích, tặng PD, theo Gấu, sai!
PD phán, tôi về
là tôi yêu nước. Ông lấy lòng
VC, và chửi bố đám hải ngoại:
Chúng mày không yêu
nước!
Có lần đám Hậu Vệ chửi ông,
trên chín bó mà còn đi khách,
là vậy.
Nhưng thôi bỏ, không
lại bị chửi, như lần HC vừa nằm xuống, hà, hà!
Nhưng rõ là PD
không hiểu nổi đám hải ngoại.
Không phải những người chửi ông,
mà là những người không thể về như ông.
Lần ông bỏ về, trả lời phỏng vấn của
tờ NV, ông phán, tôi thương hại những người
chửi tôi, vì họ không thành công
như tôi.
Cả cuộc đời của PD nằm ở trong
câu này.
Nói rõ hơn, ông không
được học những ông thầy như Alain, và dù
có học thì cũng không hiểu được điều Thầy
dạy.
Không hiểu sống sót nghĩa là
gì, vì có bao giờ lâm vào
tình trạng này?
Cũng Alain, dậy trò, là “Thánh”
Simone Weil, đừng thành công, ne pas réussir.
PD làm sao ngộ ra chân
lý này?
Sợ cả 1 giống dân có tên
là Bắc Kít cũng không làm sao hiểu
nổi!
Hà, hà!
Trường hợp PD bò về làm
Gấu nhớ tới Steiner. Trong bài viết Một kiểu sống
sót, A kind of Survivor (1965),
với lời đề tặng Elie Wiesel, một kẻ sống sót thứ thiệt
Lò Thiêu, ông không nghĩ, ông
thực sự là một kẻ sống sót, not literary. Nhờ
ông bố Do Thái, khôn như ma, nên gia đình
ông thoát Lò Thiêu vào giờ
chót. Trong bài trả lời phỏng vấn The Paris Review
(1) ông có nhắc tới cú
này, thật là ly kỳ, thú vị.
Nhưng thoát thì thoát,
suốt đời ông đau cái đau sống sót đó,
khi nghĩ ông đúng ra là phải chết ở Lò
Thiêu. Qua Mẽo, viết lách nổi tiếng, ông được
1 Đại Học cho 1 cái việc làm thật bảnh, cho nhà,
cho đủ thứ, và ông tính ở luôn, chết ở
Mẽo luôn. Và bèn đi gặp ông bố, thỉnh ý
kiến. Ông bố chửi, mày ở Mẽo, là thằng Hitler
nó có lý rồi.
Thế là ông con ngộ ra, bèn
khăn gói quả mướp về lại Âu Châu, quanh quẩn
bên mớ tro than Lò Thiêu.
Gấu Cà Chớn cũng đã kể nhiều
lần, về lần gặp cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng
của Steiner ở 1 thư viện
Toronto, vào những ngày mới qua được Xứ Lạnh, và
ngộ ra kiếp “cũng chưa hẳn là 1 kẻ sống sót” của mình.
Nhưng quả là 1 cú
thần sầu, hiểu theo Kafka về đọc sách:
Như bị 1 cái rìu phá
băng bổ trúng đầu!
A typist’s life
"Ai điếu" thư ký Trùm Nazi của tờ Người
Kinh Tế!
Đọc 1 phát, THNM, thì bèn nghĩ tới
"Thư Ký của Trùm VC", Bác H!
Bài ai điếu này, hết chôm được, đành
phải mua tờ báo, hà hà!
Bức hình độc nhất &
Di sản độc nhất ông cụ Gấu
Đọc Hà Sĩ Phu trả lời
Lý Kiến Trúc, báo Văn Hóa, Cali, trên blog
Sến Cô Nương, Gấu bỗng dưng nhớ tới ông cụ Gấu,
chán thế!
Ông bố của Gấu không
hề theo Việt Minh, vào cái giai đoạn cả nước
theo Vẹm. Mấy đứa con ở lại Miền Bắc - ông em trai út
& bà chị gái, nữ anh hùng thồ hàng
chiến dịch DBP của GCC - không
hề được VC công nhận là con liệt sĩ.
Gấu về lại đất Bắc, một phần là
cố tìm cho ra câu trả lời. Gặp cô con
gái của ông chú, Chú Cầm, vào
thời kỳ đó, là huyện uỷ Hạc Trì [Bạch Hạc và Việt
Trì] sau nghe nói, leo lên đến 1 chức vị
gì cao lắm, cũng bị VNQDD bắt, nhưng trốn thoát.
Bà cho biết, ông bố của bà, cho bà
biết, ông giáo Dương, tức Nguyễn Tái Dương,
bố của Gấu, chỉ được “tổ chức” coi là cảm tình viên
của Việt Minh.
Gấu cũng được biết, qua cô con
gái của Chú Cầm, ông bố của Gấu, bị tên
học trò giết, là do không chịu đại diện
cho VNQDD, ra tranh cử Quốc Hội Vẹm.
Ông qua sông đúng
30 Tết, dự tất niên với băng VNQDD chiếm giữ Việt Trì,
là vì vấn đề Quốc Hội Vẹm, hẳn thế, và khi
ông lắc đầu, đấng học trò bèn làm thịt
Thầy, trước khi bỏ chạy VC qua Tẫu.
Như thế, ông cũng là cảm
tình viên của VNQDD ?
Gấu tin là ông cụ Gấu, khi
phải chọn giữa Nguyễn Thái Học và Bác Hồ, đã chọn Nguyễn Thái
Học!
Trong bài viết về Koestler
[điểm cuốn tiểu sử của K, của Michael Scammell, The Literary and political Odyssey of a 20 Century Skeptic,
trong mục Di sản của chủ nghĩa toàn
trị, Athur Koestler: The Zealot [“cuồng
tín” – thay vì “bi quan”, skeptic], trong cuốn tiểu
luận của ông, Arguably,
Christopher Hitchens cho biết, Koestler bỏ đảng CS, liền sau khi thoát
ra khỏi Tây Ban Nha, vì quá tởm những vụ án
thanh trừng “mần tuồng”, the hysterical faking of the Moscow purge
trials, 1938 [ông, sau dùng làm đề tài
cho cuốn Đêm Giữa Ban Ngày].
Koestler diễn tả cái tởm
của mình, thật là tuyệt cú mèo, theo Christopher
Hitchens, đến nỗi ông phải bệ nguyên văn, vô
bài viết của mình:
It is a logical contradiction
when with uncanny regularity the leadership sees itself obliged
to undertake more and more bloody operations within the movement,
and in the same breath insists that the movement is healthy.
Such an accumulation of grave surgical interventions points with
much greater likelihood to the existence of a much more serious illness.
[Thật khốn kiếp khi, một mặt, cứ tiếp
tục thanh trừng nội bộ, cùng lúc phán,
Đảng ta đả biến thiên hạ vô địch thủ, mạnh khoẻ
lắm]
Trong cuốn tiểu luận, có bài
Hội Chứng Việt Nam,
The Vietnam Syndrome, viết về vấn đề chất độc màu
da cam, thú.
Thú hơn nữa, nó làm
Gấu nhận ra, trong cái gọi là “hội chứng Mít”,
có... “hội chứng Tẫu”!
Christopher Hitchens giải thích,
bằng tiếng La Tinh: Mutato nomine de te fabula narratur:
with the name changed, the story applies to you.
Cứ thay cái tên đi, là
nó áp dụng vô ngay tim, ngay hồn lũ
Mít. Đâu có phải là chúng
không biết thằng Tẫu khốn kiếp đâu. Suốt chiều
dài lịch sử, một mặt chống Tẫu, một mặt mở nước về phía
Nam, làm cỏ mọi giống dân yếu hơn, ít người
hơn, vậy mà đùng 1 phát, rước chúng
vô nhà, vô giường, để ăn cướp cho bằng được
Miền Nam.
Gấu thêm vô,
còn "hội chứng nhân quả" nữa, ở đây.
V/v "nước
Sài Gòn"
Trong Quần đảo Gulag, Solz dành một
chương viết về những quốc gia lưu vong, Tin Văn sẽ scan ấn bản rút gọn. So sánh với
Mít, quả là toàn thể một miền đất - Miền Nam – sau
1975, xứng đáng được gọi là "quốc gia lưu vong". Những cú
như 10 ngày cải tạo, kinh tế mới.. như được lấy ra từ sách
lược của Người [Stalin]
Với
mọi quốc gia toàn thể tự nguyện đi đầy như thế, một sử thi sẽ được
viết ra một ngày nào đó - về cái sự nó
bị xé ra khỏi đất mẹ của nó, và cái sự nó
bị huỷ diệt tại miền Siberia. Chỉ những quốc gia như thế, chính chúng,
mới có quyền cất lên tiếng nói của chúng, để
nói về tất cả những gì chúng trải qua: Chúng
ta không có những từ ngữ để nói giùm cho chúng.
Solz
Solzhenitsyn comes back to this theme
at several points. "The imagination of writers is poverty-stricken in regard
to the native life and customs of the Archipelago," he writes. How could
a Western writer, in particular, describe the perturbation of a human soul
placed in a cell filled to twenty times its capacity and with no latrine
bucket, where prisoners are taken out to the toilet only once a day! Of course,
much of the texture of this life is bound to be unknown to Western writers;
they wouldn't realize that in this situation one solution was to urinate in
your canvas hood, nor would they at all understand one prisoner's advice to
another to urinate in his boot!
It takes a writer such as Shalamov to convey something, a tiny human
fragment, of the reality of Kolyma. It takes Primo Levi to describe Auschwitz.
Applebaum: Gulag a history
Phải có nhà văn như Shalamov
để viết về tí người còn sót trong trại tù Kolyma.
Primo Levi để miêu tả Lò Thiêu.
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|