nqt






LE REGRET D'HÉRACLITE

I who have been so many men have never been the One in whose embrace Mathilde Urbach swooned.

-Gaspar Camerarius, in Deliciae poetarum Borussiae VII, 16
K.K.

J.L. Borges

LE REGRET D' HÉRACLITE (1)

Moi, qui ai été tant d'hommes, je n'ai jamais été
Celui dont l'étreinte faisait défaillir Mathilde Urbach.

GASPAR CAMERARIUS,
dans Deliciae Poetarum Borussiae, VII, 16.

Nỗi ân hận của Héraclite

Ta, ở trong ta, là rất nhiều người
Nhưng không là Cái Kẻ mà,

Ôm em 1 phát, làm Em ngất xỉu!

Ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới

[TTT]

Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!

[NTST]

Prologue

For anyone who has lived out seventy years, according to the Book of David, there is little to hope for except to go on plying familiar skills, with an occasional mild variation and with tedious repetitions. To escape, or possibly to extenuate, that monotony, I chose to admit, perhaps with rash hospitality, the miscellaneous interests that crossed my everyday writer's attention. Parable follows on the heels of confession, free or blank verse on the sonnet. In the earliest times, which were so susceptible to vague speculation and the inevitable ordering of the universe, there can have existed no division between the poetic and the prosaic. Everything must have been tinged with magic. Thor was not the god of thunder; he was the thunder and the god.
    For a true poet, every moment of existence, every act, ought to be poetic since, in essence, it is so. As far as I know, no one to this day has attained that high state of awareness. Browning and Blake got closer to it than anyone else. Whitman aimed in that direction, but his careful enumerations do not always rise above a kind of crude cataloguing.
    I distrust literary schools, which I judge to be didactic constructs designed to simplify what they preach; but if I were obliged to name the influence behind my poems, I would say they stemmed from modernismo-that enormous liberation that gave new life to the many literatures that use the Castilian language and that certainly carried as far as Spain. I have spoken more than once with Leopoldo Lugones-that solitary, proud man-and he would interrupt the flow of the conversation to mention "my friend and master, Ruben Dario." (I think, furthermore, that we ought to emphasize the affinities within our language, and not its regional differences.)
    My reader will notice, in some pages, a philosophical preoccupation. It has been with me since my childhood, when my father showed me, with the help of a chessboard (it was, I remember, a cedarwood board), the paradox of the race between Achilles and the tortoise.
    As for the influences that show up in this volume ... First, the writers I prefer-I have already mentioned Robert Browning; next, those I have read and whom I echo; then, those I have never read but who are in me. A language is a tradition, a way of grasping reality, not an arbitrary assemblage of symbols.

-J.L.B.
Buenos Aires, 1972
-A.R.

Với bất cứ ai trời cho quá bẩy bó, theo như Khổng Tử phán, đều thuộc loại cổ lai hi, thì, với cái lũ cổ lai hi này, chẳng mong thu hoạch thêm cái đọc, cái điệc chi nữa, ngoại trừ nhai lại, như trâu bò nhai cỏ.
Để tránh cái đơn điệu, nhai đi nhai lại, hoặc chôm chĩa đầu này đầu nọ, - lũ Mít mê thứ này lắm - tớ, Borges, bèn chọn, chấp nhận, có lẽ với sự hiếu khách vội vã, những thích thú, đến với một nhà văn như tớ, trong cuộc sống thường ngày của mình. Ngụ ngôn, hay ẩn dụ, theo gót chân của thú nhận, thơ tự do, hay thơ không vần, về sonnet. Vào cái thuở hồng hoang, chắc chẳng có chi phân biệt giữa poetic và prosaic. Mọi thứ phải nhuốm mùi thần kỳ. Thor đâu phải là Thần Sấm. Xừ luý là Sấm, là Thần.
Với nhà thơ, thứ thực, mọi khoành khắc, mọi hành động, đều "thơ", theo yếu tính của nó, và phải như thế đó, và, đúng là như thế đó.
Theo như tớ biết, đếch có ai vươn tới tình trạng khủng như thế.
May lắm, thì có Browning, hay Blake, xém tí thì đạt được. Whitman, cũng nhắm cú này, nhưng ông ta ưa đếm điếc này nọ, thành ra chưa vươn tới bảng phân loại, theo cái kiểu của 1 nhà khoa học Nga, đã làm đưọc, cái gì gì, bảng tuần hoàn!

SỰ NGHIỆP


Là hạt gạo thất thểu
Hồn u mê theo bầy gió u mê
Lưu vong mà nhỏ lệ
Đời như tan vỡ
Là câu thơ bị chôn sống dưới tầng đá, cỏ
Đá tảng đố kỵ
Cỏ độc vô sĩ  
Lá nỗi đợi phục sinh trên nắm xương khô
Đá sẽ nát rục dưới vết chân chạy lửa mù
Cỏ cháy bùng
Tro than sá kể .
2003

Note: Bài thơ này, có mấy từ khó hiểu. Có thể lỗi chính tả.
Là nỗi đợi phục sinh trên nắm xương khô?
Cỏ độc vô sỉ?



Chào bác, TN đã vào TV và đã thấy bài thơ có mấy chỗ bác cho là lỗi cần sửa. Câu "Là nỗi đợi phục sinh trên nắm xương khô." Câu này đúng. Nó liền ý với mấy câu trên: thơ bị chôn sống (dưới tầng đá,cỏ) thì cũng như tác giả bị chôn sống,đợi có biến cố để phục sinh thì thi thể tác giả đã thành nắm xương khô rồi. Biến cố được mong đợi chỉ có thể là lửa.
Lửa mới có thể nung được đá tảng và đốt được cỏ độc vô sỉ. Chỉ có chữ sĩ (vô sĩ) là sai. Dấu hỏi (vô sỉ) mới đúng. Cám ơn bác đã nhắc nhở. TN tui cũng rất cảm kích và vô cùng cảm ơn những lời khen tặng bác dành cho hai bài Cầm tay hôn biết địa chỉ, và bài Mười dấu chân qua. Lời khen của bác đầy chân tình và rực rỡ như bình minh. Có điều khó cho Tn là muốn gom các câu đó lai để làm thành một bài cám ơn nghiêm chỉnh ngắn gọn, dán lên trang chủ, mà chưa biết cách rút câu ra. Bác viết xen k
, đối chiếu với các tác giả bự khác trên thế giới làm tui tự thấy ngộp thở đó bác. Xin bác tha cho cái tội chưa viết được bài cám ơn như ý mun và cái tội chậm trễ nầy.

Tks
Tôi lộn từ "Lá".
Đúng phải là, "Là"

Bài thơ này là 1 "echo" của "Lửa", của Khoa Hữu, theo GCC
Tks again






Thơ của vị bằng hữu NTST có tới tam tuyệt, cực kỳ cao ngạo, cực kỳ cao sang, và cũng cực kỳ tâm sự, riêng tư - đúng như thế, GCC chưa từng khen ai theo cái kiểu đãi bôi, hay, phán loạn cào cào, không có chứng từ dẫn chứng, nhưng quả có 1 sự rắc rối, khó hiểu, ở đây.
Vị này, Nam Kít, và, dân Nam, họ rất ưa xuề xòa.
Tâm sự, riêng tư, OK, nhưng cao ngạo, cao sang, vô lý quá, hà, hà!
Đàn bà ba miền, theo GCC, cái gọi là cao sang, thường là thuộc dân Huế.
Tinh tế, tế nhị, Bắc Kít.
Nam Kít, kể như chẳng có gì hết.
Vậy mà bà này, ôm "tam tuyệt" vào thơ của bà, quái dị thực!

Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn tay


Ui chao, chỉ cần hai câu thơ thôi, là đã ôm hết cả cõi thơ, cả cõi đàn bà, vô mình rồi!
NQT

V/v
Đàn bà ba miền, theo GCC, cái gọi là cao sang, thường là thuộc dân Huế.

Về già, ngẫm nghĩ lại, ngẫm nghĩ mãi, và, bởi vì những vị bằng hữu cuối cùng còn lại của GCC, thì đều là dân Huế, cho nên Gấu ngộ ra, đây là đất của nhà vua.
Đâu có phải là tự nhiên mà nhà Nguyễn chọn Huế là kinh đô!
Chữ của vua, thường dân vô tình dùng, là chạm huý, là mất đầu!

Gấu biết tới cái sự cao ngạo của dân Huế, lần gặp Trịnh Công Sơn, ở Quán Chùa.
Về già, nghĩ lại, thì mới hiểu ra là, Lão Tặc Thiên chọc quê Gấu, trước khi ban cho Gấu ba người bạn cùng là dân Huế vào lúc sắp lên chuyến tầu suốt.

Những ngày TCS

Tôi biết Trịnh Công Sơn khi anh chưa nổi tiếng, và qua Nguyễn Đình Toàn, tại một bàn cà phê ở quán Cái Chùa, đường Tự Do, Sài Gòn. Nói chưa nổi tiếng, là đối với đa số công chúng thưởng ngoạn. Cùng với đà cuộc chiến leo thang, người dân miền nam ngày càng thấm nhạc của anh.
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng bắc.
Toàn lúc đó phụ trách chương trình nhạc chủ đề trên đài phát thanh Sài Gòn, và hai người hình như có hẹn gặp nhau tại quán, ấy là tôi suy đoán ra như vậy. Thời gian này, tôi chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn. Nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.
Phải tới khi đứa em trai mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc là quá nhớ bồ, cứ thế huýt sáo bài Tình Nhớ gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra… Lúc này, tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của cả miền nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói: hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ, và chẳng bao giờ miền nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với miền bắc, vì họ đều tin một điều, miền bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Như cả nhân loại tiến bộ, họ chỉ có thể tiên đoán đến đó. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó. Tính phản chiến của nhạc của anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất.
Và cũng như cả nhân loại tiến bộ, chỉ tới sau vòng tay lớn rã ra, Trịnh Công Sơn mới hiểu. Một bạn văn của người viết, còn ở lại Sài Gòn, nhân lần gặp gỡ tại xứ người, đã kể chuyện, sau "giải phóng", có thời gian Trịnh Công Sơn bị Cộng Sản địa phương làm khó dễ, anh phải vô Sài Gòn, và có than thở với anh bạn văn kể trên. Anh nói, thì cứ dzô đây, gì thì gì, chắc cũng dễ thở hơn.
Sài Gòn cưu mang Trịnh Công Sơn không phải chỉ lần đó. Theo như tôi được biết, những ngày cuộc chiến dữ dội, trong khi chúng tôi cứ thế theo nhau lên Trung Tâm Ba, Trịnh Công Sơn may mắn đã được đại tá không quân Lưu Kim Cương che chở. Trong số những quân cảnh tại thành phố, có người chỉ mong cơ hội "chộp" được Trịnh Công Sơn!
Đại tá Lưu Kim Cương tử trận trong biến cố Mậu Thân, khi bảo vệ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.
Riêng tôi, tôi mong được như anh: được chết tại Sài Gòn.
Xin vĩnh biệt.

Note: Bài ai điếu này, cũng “đầm đìa” những giai thoại, kỷ niệm.
TCS vừa nằm xuống bàn dân thiên hạ còn "chưa kịp bàng hoàng", có thể như vẫn cay đắng vì cái sự cao ngạo của 1 giọng Huế, Gấu ra đòn liền, và cũng liền lập tức, có hai ông vồ ngay lấy bài viết.
Lý Kiến Cắn, tức Lý Kiến Trúc, đưa ngay vào 1 số báo Văn Hóa còn nóng hổi của chàng, để tưởng niệm TCS
Và Đặng Tiến.
Rồi tới báo Văn của NXH
DT đi 1 đường thật là trang trọng/trân trọng
Thêm một liên văn bản khác: Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966 :

"Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi. Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài ỏTình Nhớ, gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói : hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều tin một điều : Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất".

Giữa một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình ... ngoài đề. Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến? Bài hát đại khái :

Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều ...

Nói về nhạc phản chiến , cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?

Nhân đây, GCC/NQT xin lỗi DT, vì đã đọc sai câu chót của bản văn trích dẫn, trong 1 bài viết đã cũ, không còn nhớ ở đâu nữa, trên Tin Văn.
Cái sự đọc sai, là do câu trên, DT viết:

Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến?


Nhạc tình của TCS quá can dự vào "phản chiến".
Đại Bác Ru Đêm làm sao so với nó được.
Đám Ngụy đi tù VC không bao giờ hát nhạc Trịnh, là vậy.

Cái sự kiện VC bây giờ mê nhạc sến, quả đúng là 1 cú trả thù ngọt ngào của 1 miền đất. Sau 30 Tháng Tư, chúng cướp sạch, trừ nhạc sến, mà chúng gọi là nhạc vàng, nhạc đồi trụy…  và đám Ngụy, khi đi tù, đâu có gì mang theo, ngoài 1 dúm nhạc sến.
Còn lý do nữa, Brodsky nói.
Với Brodsky thì là thơ, thứ thơ dưới hầm, thơ samizdat, không dám viết ra giấy, chỉ rỉ tai nhau, mà cũng phải lựa người.
Với Ngụy, đúng là nhạc sến.
Bởi thế mà GCC dám phán, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong 1 dúm nhạc sến.

The degree of compassion with which the various voices of this "Requiem" are rendered can be explained only by the author's Orthodox faith; the degree of understanding and forgiveness which accounts for this work's piercing, almost unbearable lyricism, only by the uniqueness of her heart, her self and this self's sense of Time. No creed would help to understand, much less forgive, let alone survive this double widowhood at the hands of the regime, this fate of her son, these forty years of being silenced and ostracized. No Anna Gorenko would be able to take it. Anna Akhmatova did, and it's as though she knew what there was in store when she took this pen name.

Mức độ cảm thông được ban cho một số giọng nói ở trong Kinh Cầu có thể giải thích bằng niềm tin Chính Thống Giáo của tác giả; mức độ hiểu biết và tha thứ ở trong Kinh Cầu, sự nhức nhối, giọng trữ tình không thể nào chịu đựng nổi của nó, có được, là do sự độc nhất vô nhị của trái tim của bà, của cái ngã của bà, và cảm quan về Thời Gian của cái ngã này. Chẳng có cái rùng mình nào có thể giúp hiểu biết, chưa nói đến tha thứ, đừng nói chuyện, sống sót tình trạng ở goá kép dưới bàn tay của chế độ, số phần của đứa con trai, bốn chục năm bị bịt miệng và phát vãng. Không một Anna Gorenko nào có thể chịu nổi. Nhưng Anna Akhmatova thì lại được.
Khi chọn lựa cái bút hiệu đó từ trong kho dự trữ, bà biết điều này.


At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained, severed. She showed these evolutions first through the prism of the individual heart, then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.

Ở vài giai đoạn nào đó của lịch sử, chỉ thơ mới có thể đương đầu với thực tại bằng cách nén nó lại, thành 1 cái gì có thể nắm bắt được, một điều gì mà cái đầu không thể làm khác, ngoài cách đó ra. Theo nghĩa đó, cả nước Nga cầm lên cái nick Akhmatova, điều này giải thích tính phổ thông của bà, và, quan trọng hơn, nó cho bà có thể nói, nhân danh đất nước, cũng như có thể nói với nó, điều nó không biết. Bà, như thế, yếu tính mà nói, là 1 nhà thơ của những gắn bó nhân bản: yêu thương, đằm thắm, kìm chế, dè dặt, nghiêm khắc, ác liệt. Bà trình ra những cung bực tiến hóa này, trước hết qua lăng kính của 1 trái tim cá nhân, và sau đó, qua lăng kính của lịch sử, chuyện là như thế đó. Thì đâu có khác gì cung cách của quang học.

Điều Brodsky nói về thơ, Gấu lại nhận ra, khi áp dụng nó vào nhạc sến, những ngày tù Phạm Văn Cội, [Củ Chi], Đỗ Hòa, [Nhà Bè], và phát giác ra một điều, cái hồn của văn chương Miền Nam là ở trong một vài câu, một vài hình ảnh của nhạc sến! 

Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!

Tuyệt, tuyệt! 

Khi Gấu viết được những dòng sau đây, nhờ những ngày Mậu Thân và những trái hoả tiễn của VC, đã nghĩ là "tuyệt bút", nhưng thua xa câu nhạc sến trên, vì cách viết của Gấu rõ ra là, "dụng công" quá, "cực" quá [tour de force], trong khi lời nhạc mới đơn giản làm sao.

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách thánh thiện, nghĩa là, một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...

I asked a nearby cuckoo to say
How many years I had left to live.
The tops of the pine trees started to sway,
Sunbeams poured down as if through a sieve,
But in the woods, not a sound was heard.
I'm walking homeward now,
And the cool wind, self-assured,
Soothes my fevered brow.
1919
Akhmatova 

Gấu hỏi chú cu cu gần đó, mấy năm nữa thì tớ ngỏm
Những ngọn thông bắt đầu lắc lư
Nắng đổ xuống như xuyên qua một cái xàng
Nhưng trong rừng đếch nghe một tiếng động
Gấu bi giờ đi về phía nhà Mít
Và ngọn gió mát, rất tự tin về chính nó,
Phán ngay bong về cái trán sốt hừng hực của Gấu

*

Khách sạn Hilton, Hà Nội

Chẳng có ai người cười nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết, sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi, 1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh Hỏa Lò
Hàng theo hàng, đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau, nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc, gọn
Tiếng còi tầu chở súc vật rú lên
Ngôi sao thần chết đứng sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít, ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy máu
Dưới bánh xe chở tù.

Không phải tôi. Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi chỗ khác
Đêm rồi!
Akhmatova: Kinh Cầu

NTST

Trời ở nơi nào ta ở đây…
Nguyễn Ngọc Tư 

"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann
Gấu ở đâu Mít ở đó!

[Trời ở đâu, nhan sắc ta ở đó]
Hồng nhan một nét ,- trời một cõi
NTST


And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.

But the hills are still the same
Grey-blue above Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.
Derek Mahon

Giận dữ lưu vong

Và tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích

Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!
Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành

Và biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì


Note: Có thể, cái tít bài viết Cô Tư được ‘gợi hứng’ từ Thomas Mann.
Và nếu như thế, Cô Tư thường ghé... TV?




Với nhóm Dân Saigon Xưa
Gần đây được đoc trang Dân Saigon Xưa, Do bác Quan Nguyen Thanh chủ biên, thích mê tơi, muốn bày tỏ tình yêu Saigon của TN (NTST) tui như quý ban trong nhóm,xin chép lại bài Mười Dấu Chân Qua (trong loạt bài Ngọc Đông Yêu Dấu) hầu quý bạn,

MƯỜI DẤU CHÂN QUA

... See More


MƯỜI DẤU CHÂN QUA


Sóng thức lung linh chiều ráng đỏ
Vươn tay nối ấm thôn vườn xanh
Sông thơ mộng uốn vòng lưng phố
tà áo Bạch Đằng quấn gót chân.

Nhớ xưa Tao Đàn vườn cổ tích
Cây thị già thương cô Tấm rơi
Đám trẻ thiên thần tranh nhau lượm
Hương thị lẽ nào giấu được ai.

Ngoắt taxi Passage Eden *
Nhìn ra thế giới cuối hành lang
Những Jim những B.B. đẹp lộng**
Tài hoa bùng vỡ thước phim vàng.

Sóng bước mơ hồ vào Xuân Thu***
Mỗi người một góc đọc cẩu âu
Ra cửa tay thơm tay quà sách
Thơ sầu trao khi chưa biết sầu.

Trốn nắng trưa vào thương xá Tax
Một mình vô định bước chân ngoan
Không mua ngắm nghía lòng dưng rỗng
Rộn chút vui đèn kính sáng choang.

Tà lụa bay tung rừng bướm trắng
Chấp chới sân trường vỗ sóng khơi
Tuổi ngọc Gia Long hồn nhiên gió
Trống vang giòn động thức tương lai.

Có cô thiếu nữ qua Givral
Hương vây tâm tưởng hồn lan man
Văn nhân ký giả trong ngoài nước
Sôi sục u trầm nỗi chiến tranh.

Quãng trời thênh Nhà thờ Đức Bà
Ngọn băng sơn hồng neo biển lửa
Hải lưu người về mơ đất hứa
Muôn trùng thiêng tắt ngọn phong ba.

Sài Gòn thương biếc những hàng me
Chim chuyền trong lá lá phiêu du
Thôi bay rớt đọng vàng hiên vắng
Tán xanh xòe thả bóng thiên thu.

Trăm năm chàng đến như mộng du
Vào ra trận mạc máu đổi thơ.
Ru đời nôi phố tương tư phố
Đời khép
Hồn trầm
Cỏ đã thu...

* Passage Eden : hàng lang Eden (Quận 1). Cuối hành lang là rạp chiếu phim Eden
** Jim/Jimmy : James Dean (1931-1955), sao điện ảnh Mỹ. B.B : Brigitte Bardot (1934- ) sao điện ảnh Pháp
*** Xuân Thu (Albert Portail), tên một nhà sách ngoại văn ở Sài Gòn

Nguyễn thùy song thanh
2012

Vào ra trận mạc, máu đổi thơ

Thơ sầu trao khi chưa biết sầu.

Tuyệt!

Khen hoài được hoài!
Hà, hà!
Tks
NQT

"cẩu âu"?
Chắc là "cầu âu", như, "đọc cầu âu"?

Note: Thấy đã sửa, cầu âu. 

Câu thơ "Có cô thiếu nữ qua Givral" thì lại làm nhớ, lần đưa "cô bạn" và mấy đứa em của cô vô đây.....  
TAX, thì cũng đầm đìa kỷ niệm.... 
Tks. Many Tks. NQT



NTST Poems

"And miles to go before I sleep/ And miles to go before I sleep.
"And miles to go before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the same words have two different meanings. In the first of the last two verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.

And that, I think, is the chief achievement of Frost. He could write poems that seem simple, but every time you read them you are delving deeper and finding many winding paths and many different senses. So Frost has given us a new idea of metaphor. He gives us metaphor in such a way that we take it as a simple, straightforward statement. And then you find that it is a metaphor. "And miles to go before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the same words have two different meanings. In the first of the last two verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.

Borges:

Và đó là thành tựu “lớn nhất, chủ, trùm...” [chief] của Frost. Ông có thể viết những bài thơ xem ra thì thật giản dị, nhưng mỗi lần chúng ta đọc, là mọi lần chúng ta đào bới sâu thêm, và tìm ra không biết bao nhiêu là lối đi, và nghĩa nghiếc khác nhau.
Và thế là thi sĩ đem tới cho chúng ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông cho chúng ta ẩn dụ, theo cái cách mà chúng ta coi nó như là 1 phát biểu tự nhiên, giản dị, thẳng 1 lèo. Và thế rồi, bạn ngộ ra, đây là 1 ẩn dụ:

Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!

Ông [Borges] đồng ý với…  Gấu, ẩn dụ không đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực sự, là đốn ngộ, là mặc khải.
Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè “Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung", nhìn sang nhà hàng xóm, thấy cái áo cánh trắng phất phơ bay trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, áo ai nhỉ, và nhớ ra là Loan, đi học Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ là bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "siêu hình mà nói", Dũng khám phá ra tình yêu của mình!

Đoạn văn dưới đây là phần chính bài nói chuyện của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong Đêm Thơ Vũ Hoàng Chương ngày 16-1-1975 tại phòng trà Khánh Ly, đường Tự Do, Sàigòn.
Thanh Tâm Tuyền 

Sự hiện diện của các bạn cùng chúng tôi hôm nay là một cuộc tôn vinh cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Chẳng những cho riêng thi sĩ, người suốt đời chỉ biết làm thơ - không biết, không thể làm gì khác - mà còn cho tất cả mọi thi sĩ và qua các thi sĩ là một cuộc tôn vinh cho Thơ.
Tôn vinh Thơ? Tại sao tôn vinh Thơ? Thơ quan hệ chi đến đời sống chúng ta? Sướng ích chi mà có những người để một đời như Vũ Hoàng Chương để theo đuổi thơ?
Thi sĩ có thể không biết - thật chăng? Có lẽ cũng chỉ là một cách nói riêng của thi sĩ. Riêng chúng ta có biết, chúng ta biết tận trong thâm tâm chúng ta, biết qua động cơ thúc đẩy cuộc hội họp tối nay được chính chúng ta dấu diếm bằng những lý lẽ rất tầm thường hằng ngày. Chúng ta biết rằng chúng ta muốn gặp mặt nhau, nhìn mặt nhau đêm nay: “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa - Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.” Chúng ta biết rằng khi mọi giá trị thiêng liêng đều chẳng còn đáng gì, đều bị liệng bỏ dần dọc theo đời người thì thơ vẫn còn lại. Phải thế chăng? Dù cho thơ có thể chẳng thay thế được các giá trị thiêng liêng. Không là giá trị thiêng liêng - có bao giờ thơ như thế? - thì nó vẫn ở cùng trong đời sống chúng ta - như lúc này, giây phút này đây - và nó đủ năng lực để cuốn đời sống chúng ta đến chân trời viễn vọng. Thơ nhắc rằng chúng ta đang sống, sống lạ lùng, sống với ta và sống với người.
Chúng ta còn có thể nói đến những điều ghê gớm hơn nữa về thơ nhưng rồi thơ lại còn có thể vượt ra ngoài mọi điều ghê gớm ấy. Tuy nhiên nói cho đến cùng (biết đâu là cùng?) Thơ vẫn chỉ là lẽ thường của đời người, là sự thường của kiếp sống - ngắn ngủi và vô hạn như một tiếng hát.

Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi. 

Và lẽ thường của đời người, sự thường của kiếp sống là Thơ trong nỗ lực sống với ta và sống với mọi người rốt cuộc - cho đến bao giờ? - vẫn là sống với một số người nào đó, một bộ lạc nào nhất định. Nói như Đinh Hùng Thơ là “tiếng ca bộ lạc.” Đêm nay chúng ta quây quần nơi đây nào khác, như giữa đám rừng dầy hung bạo có ngọn lửa kia đốt lên và tiếng trống kêu gọi ta đến. Ngọn lửa Thơ, lời gọi cùng thẳm của Thơ mời chúng ta đến tôn vinh cho Thơ. Thơ như nhịp trống bập bùng gọi ta về tụ hội, tiễn ta đi tản mạn, cầm chân ta ở lại vui chơi, giục ta đi săn đuổi mịt mùng.
Nhưng tôn vinh cho Thơ cũng là tôn vinh qua các thi sĩ - kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.
Làm thơ. Làm thơ hành động tối thậm phi lý, mở mọi ngõ ngách phi lý, đẩy đưa đời người vào cõi phi lý. Ngõ ngách phi lý ấy là chính chúng ta, cõi phi lý ấy chính là đời chúng ta. Như đêm nay không giống mọi đêm đã qua và sẽ chẳng bao giờ giống một đêm nào ở mai kia. Làm thơ như rong chơi, quên lãng, hay làm thơ như tận tụy với một mối duyên tình hay làm thơ như đốn ngộ hốt hoảng thì vẫn là cái “không thể làm” được ở đời người, ở kiếp sống. Tri kỷ khả nhi vi chi, biết không làm được mà lại cứ làm. Tại sao? Tại sao vậy?
Trầm trọng phải không? Tự nhiên cái sự thể nó như thế. Trầm trọng cũng là tự nhiên của thơ và của việc làm thơ.
Thi sĩ đêm nay của chúng ta Vũ Hoàng Chương - làm thơ suốt một đời. Một đời để ra làm thơ. Thơ Vũ Hoàng Chương đi từ “Đêm Hoa Đăng đèn xanh bóng trăng” từ “Phách ngọt đàn say đêm khói êm” từ “Áo vải mộng phong hầu” đến “Ngồi quán” đến Isabel Baes đến nhị thập bát tú và không gian “bốn bề vẫn chỉ một phương,” đến Ngày lớn. Chúng ta không thể nào hiểu Vũ Hoàng Chương còn đi đến đâu - hỏi thực cũng như chúng ta đây chúng ta trong giây phút này có biết chúng ta đi đến đâu - nhưng hiện thời chúng ta cũng đang biết - biết gì? - biết Vũ Hoàng Chương đang ăn nằm với Thơ như đang ăn nằm với cái chết. Chết cũng là một cách nói thôi. Như Trang nói chết là tỉnh giấc chiêm bao. Và có “tỉnh lớn” thì mới biết được “chiêm bao lớn.” Ta có một đời để sống, để chết hay có vô vàn đời? Ai biết? Mà nói chi những điều ấy. Nhưng người làm thơ cứ nói. Nói miết. Thay nhau nói. Tranh nhau nói. Để làm gì?
Thôi nói chi những chuyện ấy. Thơ là lời và hơn lời. Đã đến lúc chúng ta cần nghe thơ. Thơ đọc trong đêm nay dành cho Vũ Hoàng Chương. 

16-1-1975
(Văn, giai phẩm, 14-2-75)
AT 1:50 PM

Nguồn

Điều Borges phán, về ẩn dụ, cũng chính là điều TTT phán, về… thơ, khi ông vinh danh Vũ Hoàng Chương trước khi mất "nước Xề Gòn":

“Thơ là lời hơn lời”

Cái đấng thi sĩ dởm Nguyễn Đăng Thường, “khiêm tốn” nhận thơ của hắn ta là thơ đời thường, ngôn ngữ đời thường, suốt đời không làm nổi, chỉ 1 câu thơ, đọc không nổi bài thơ Dạ Khúc, của TTT, làm sao “ngộ” ra được chân lý giản dị trên, thơ là lời hơn lời. Vẫn là lời – ngôn ngữ đời thường như hắn nói – nhưng cũng chính ngôn ngữ đó, hơn lên 1 tí, là thành thơ:
In the first of the last two verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.
Câu thơ trước, cầm tay xin địa chỉ
Câu thơ sau, thì đã là ngàn thu sau!

http://www.tanvien.net/Viet/HNB_Case.html

Chiều ngồi quán Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT

Chúa ơi!


Rõ ràng là, bài Dạ Khúc của TTT, không đọc được, thì làm sao đọc... Beckett?

HNB Case

“The tears of the world are a constant quantity. For each one who begins to weep somewhere else another stops. The same is true of the laugh.”
― Samuel Beckett, Waiting for Godot

Trong những điều được nói về Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô điểm. Duy có điều này: Nó thực sự là một địa ngục.
-Nước mắt cũng có hạn. Nơi này đổ ra nhiều thì nơi khác dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm dụng cảm xúc?
-Người ta chỉ đọc khi xúc động. Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của độc giả cũng như của chính mình.
NQT: Bụi

Cái truyện ngắn Bụi, của GCC, được viết ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan. Đúng thời gian đó, Gấu vớ được "Trong khi chờ Godot", bản tiếng Anh.
Câu, “Nước mắt cũng có hạn… “, hóa ra chôm của Beckett, lúc nào không biết, nó ăn mẹ vô tiềm thức, rồi phọt ra.

Cũng thế với Beckett, hà, hà!

Một cách nào đó, ông viết, ở 1 Trại Cấm nào đó, những câu văn thần sầu của ông. Thua, thua nữa, thua cho bảnh, là từ Worstward Ho:
 “All of old. Nothing else ever. Ever tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail again. Fail better.”
― Samuel Beckett, Worstward Ho

Trong cuốn tiểu sử của ông, Trầm Luân vào Danh Vọng, “Damned to Fame”, chương dành cho Thua Cho Bảnh, "Fail Better", chứng minh điều GCC phán, Beckett viết văn từ 1 trại tị nạn. Đúng hơn, từ cái bóng của Lò Thiêu, đúng hơn nữa, ông viết cho nạn nhân Lò Thiêu.
Một số từ ngữ mà ông sử dụng trong "Tiến Lên Tàn Mạt, Già Hồ", là để mô tả tình trạng thiếu ăn của nạn nhân Lò Thiêu
Nếu Nazi có giải pháp chót, thì Beckett có “grand finale”, chữ của Beckett. Kịch “Catastrophe”, thảm họa, viết bằng tiếng Pháp – bà vợ của ông, Suzanne, dùng từ này, khi biết tin ông được Nobel văn chương - được Beckett đề tặng Vaclav Havel. Sau khi ra tù, Havel chơi 1 cái kịch đáp lễ, Lỗi Lầm, “The Mistake”. Hai kịch bổ túc cho nhau. Havel nói với một đấng Mẽo, một cách khiêm tốn, tôi không có ý đứng ngang hàng với ông ta, như là hai nhà soạn kịch - đừng bắt hai ông đứng kế nhau nhe, Thầy Phúc - "I am not suggesting that I am equal as a playwright to Samuel Beckett".

Beckett phải mất 7 tháng chỉ để viết bản nháp đầu tiên, the first draft, của Worstward Ho, [Hồ, Hồ, Tiến Lên Tàn Mạt. “Hồ, Hồ”, là từ tiếng reo hò, thời cả thế giới ủng hộ Bắc Kít]. Vào thời gian, trong mùa đông 1981-82, ông suy sụp, bịnh, Ông viết cho bạn, "Chiến đấu với văn xuôi bất khả. Tiếng Anh. Với tởm lợm”:

BACK IN PARIS for the summer, after meeting his German publisher, Dr. Siegfried Unseld, for coffee in the PLM hotel on Sunday morning, August 9, 1981,84 Beckett returned to his desk to write three brief paragraphs of a new piece of prose in English. After starting with his 1960s concern with imagining "a body" and "a place" where there was neither, he wrote: "All before. Nothing else ever. lwer tried. Ever failed. No matter. Try again. Fail again. Fail better." The will to "fail better" provided this text with its initial impetus. And, in order to fail better, the strategy Beckett adopted was to strive for the worst.
    He took his cue from Edgar's speech in King Lear. He copied out quotations from three different points in the speech into his little commonplace book:"The lamentable change is from the best, / The worst returns to laughter"; "Who is't can say, I am at the worst"; and "The worst is not so long as one can say, This is the worst." For some time, when he alluded to his new text in letters, he entitled it "Better worse." Later on, he called the book Worstward Ho, playing on the title of Webster and Dekker's play Westward Hoe (1607) and Charles Kingsley's better known novel Westward Ho! (1855). At one level, the text, like III Seen III Said, is concerned with the failure of language: when anything is said, it must inevitably be missaid. So language is deliberately pared down, reduced to a few lexical items assembled in a variety of combinations, so that it reaches out toward an "unworsenable worse." It is part of the strategy to be rid of Romantic accretions. So images evoking human memories or literary allusions are excised. That at least is how it first appears.

Bạn, đọc văn Mít Butor, cũng 1 thứ “Romantic” mà Beckett vứt vô sọt rác (to be rid of).
Vậy mà thất bại rực rỡ. Kiệt tác!
Chỉ nội mấy dòng GCC trích dẫn, là đủ chửi bố mấy đấng bịp bợm!

Và, quả đúng, hai đấng này, không đọc nổi Beckett!
Cái thất bại được thấy ra, chỉ ra, từ Beckett, một phần, là do/của ngôn ngữ: Khi cái gì được nói ra thì nó bắt buộc phải là nói trật, trìa: When anything is said, it must inevitable be missaid.
Thê thảm hơn thế nhiều, đây là hiện tượng đói ăn, thiếu dinh dưỡng, chết dần chết mòn, không phải chỉ của ngôn ngữ, mà là của nạn nhân Lò Thiêu.
“Every word is like an unnecessary stain on silence and nothingness.”
― Samuel Beckett
Mọi từ thì cũng như vết trầy không cần thiết lên im lặng và hư vô.

V/v Không đọc được.

GCC đã từng thú nhận, không đọc được Dickinson, và không chỉ Dickinson, mà còn nhiều nhà thơ khác, và trước đó, không đọc được thơ.
Tuy nhiên, chưa bao giờ không đọc được, mà chê 1 tác giả, như NDT và bà Huệ, chủ diễn đàn Gió O. Bà này chê thơ TTT, thua cả thơ Nguyễn Đăng Thường, và Nguyễn Đăng Thường cũng nhân đó, bèn chê TTT tơi bời hoa lá cành. Sa-đích. [Không phải từ của GCC]. Thua cả thơ Đỗ Quí Toàn! 
Ui chao đến thơ TTT mà còn không đọc được, thì làm sao đọc được Beckett?

Lê Thị Huệ: So sánh hai bài thơ "Tiễn Một Nguời Vào Dĩ Vãng Đậm Màu" với bài thơ "Phục Sinh" của Thanh Tâm Tuyền. Là một khoảng cách lớn lao. Bài Phục Sinh làm dáng và rỗng, chỉ được cái phá cách, self-esteem vào thời đó. Bài "Tiễn Một Người Vào Dĩ Vãng Đậm Màu", già dặn, trí tuệ cũng phá cách nhưng cái phá cách của một lõi trí. Anh có tự cảm thấy cái khoảng cách chữ nghĩa giữa anh và nhà thơ lãnh tụ thơ Tự Do thời 1960 ở Việt Nam.

 

Nguyễn Đăng Thường: Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền được công nhận là ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ thơ tôi là ngôn ngữ đời thường, có thể chưa được đóng mộc. Khi nhại, hay cập nhựt Bài Ngợi Ca Tình Yêu của Thanh Tâm Tuyền với tựa đề mới Bài Ngợi Ca Chó Đá, tôi nghĩ tới nội dung bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, và hiện tình đất nước ta hôm nay nhiều hơn ngôn ngữ, dù nội dung và hình thức như hình với bóng, không thể tách đôi. Tác phẩm bị giễu nhại vẫn còn y nguyên, nhưng đã có thêm những tác phẩm song đôi. Tác phẩm bị, được giễu nhại nhiều nhứt, là bức tranh La Joconda, cho ra đời vô số những tranh "nhại họa" vô cùng thú vị. Salvador Dalí cũng nhại tranh Andy Warhol với các tranh Marilyn Mao. Các lãnh tụ độc tài vì bất an nên rất sợ bị chế giễu. Cậu Ủn Bắc Hàn là một thí dụ. 
http://www.gio-o.com/NguyenDangThuong/NguyenDangThuongPhongVan4.htm

Thơ của vị bằng hữu NTST có tới tam tuyệt, cực kỳ cao ngạo, cực kỳ cao sang, và cũng cực kỳ tâm sự, riêng tư - đúng như thế, GCC chưa từng khen ai theo cái kiểu đãi bôi, hay, phán loạn cào cào, không có chứng từ dẫn chứng, nhưng quả có 1 sự rắc rối, khó hiểu, ở đây.
Vị này, Nam Kít, và, dân Nam, họ rất ưa xuề xòa.
Tâm sự, riêng tư, OK, nhưng cao ngạo, cao sang, vô lý quá, hà, hà!
Đàn bà ba miền, theo GCC, cái gọi là cao sang, thường là thuộc dân Huế.
Tinh tế, tế nhị, Bắc Kít.
Nam Kít, kể như chẳng có gì hết.
Vậy mà bà này, ôm "tam tuyệt" vào thơ của bà, quái dị thực!

Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn tay


Ui chao, chỉ cần hai câu thơ thôi, là đã ôm hết cả cõi thơ, cả cõi đàn bà, vô mình rồi!
NQT

Phục sinh
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quỳ thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không màu

tôi buồn chết như buồn ngủ
dù tôi đang đứng trên bờ sông
nước đen sâu thao thức
tôi hét tên tôi cho nguôi giận
thanh tâm tuyền
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
thứ chó sói lang thang

tôi thèm giết tôi
loài sát nhân muôn đời
tôi gào tên tôi thảm thiết
thanh tâm tuyền
bóp cổ tôi chết gục
để tôi được phục sinh

từng chuỗi cuộc đời tiếp nối
nhân loại không tha thứ tội giết người
bọn đao phủ quỳ gối
giờ phục sinh

tiếng kêu là kinh cầu
những thế kỷ chờ đợi

tôi thèm sống như thèm chết
giữa hơi thở giao thoa
ngực cháy lửa
tôi gọi khẽ
em
hãy mở cửa trái tim
tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ
trong sạch như một lần sự thật
TTT

Bài "Phục Sinh" làm dáng và rỗng, chỉ được cái phá cách, self-esteem vào thời đó.
LTH.
self-esteem? [tự sướng?].
Chắc cũng giống xeo phi?
Và chắc là do câu thơ “tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ"?

Nhớ, lần cả đám bạn ông em, Thất Hiền, xúm nhau lại "tra tấn" ông anh vì bài thơ này, vì cái từ "sao", trong "buổi chiều 'sao' vỡ vào chuông giáo đường"....

"Ðâu phải mưa ô buy vào thành phố"...

1954, vào Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên có những dòng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những dòng nhạc của một "Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội", hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ loáng thoáng, trong tập "Tôi không còn cô độc", đã một thời làm ngơ ngẩn cả đám bạn bè hồi cùng học trung học.
Ngớ ngẩn, đúng hơn.

Số là Phạm Năng Cẩn rất mê câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến Nguyễn Quốc Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là mưa gì? Tôi nhớ là, bạn Cẩn ngớ ra, và... cương đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến thành bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim cương trên những chiếc áo Mùa Thu, Hà Nội!

Sủng coi bộ không hài lòng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong lúc cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô buy là một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô buy là mưa đại bác, mưa trái phá!

Sau này tôi được biết, người miền nam gọi trái phá là trái ô buy. Họ gọi phạm nhe là người y tá, và hồi mới vào Sài Gòn, tôi đã từng khổ sở vì không hiểu nghĩa của nó, sau cùng truy ra, là do từ tiếng Pháp, infirmier. 

Nước Pháp, “hóa thân” vào miền nam, qua từ obus; rồi miền nam “hóa thân” vào từ ô buy, và được một nhà thơ miền bắc âu yếm sử dụng cho... Hà Nội, ôi chao số phận của “trái đại bác” Tây, nhờ một miền đất, rồi nhờ một nhà thơ, biến thành cơn mưa bụi ở một miền đất khác, trong cùng một quê nhà, sao mà may mắn hơn cái từ chiên hẩm hiu thế!

Bởi vì không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”: ông vẫn bị những cơn mưa từ cái thành phố mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên mà ông bạn ngày xưa của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh.... 

*

Patti Page

Patti Page, who has died aged 85, had a huge hit in the United States with How Much Is That Doggie In The Window? and became the biggest-selling female star of the 1950s.

Patti Page, nữ danh ca số 1 của 1 thời, đã mất, thọ 85 tuổi

Ui chao, Em này đúng là thần tượng của Anh Cu Gấu nhà quê Bắc Kít.
Và có thể - có thể gì nữa - của nhà thơ TTT, vì nhà thơ hẳn là cũng quá mê em, và Jazz.
O, Let me go, lover, Smoking my sad cigarette
Trong Tôi Không Còn Cô Độc, TTT cũng có vài bài vinh danh Jazz, hình như thế.

Trong Liên Đêm.
Thí dụ bài này, nền của nó chẳng là tiếng kèn của Jazz ư:

Dạ khúc 

Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa 

Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hà Nội
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng

Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy 

Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai (1) 

Bài thơ này có 1 giai thoại thú lắm, do chính thi sĩ kể và được 1 em ca sĩ xì ra. Bài thơ được phổ nhạc và mấy em cứ hát sai đi [chắc là cố tình] "đưa em vào quán trọ".

Nghe nói, thi sĩ bực lắm.
Nếu là Gấu, thì không bực!

Bài thơ thần sầu, 

Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới

Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng 

Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ

Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy

Chiều ngồi quán Chùa (La Pagode) Sài Gòn, nhưng làm thơ thì phải có "một chút Paris, hay nửa đêm Hanoi". Chúa ơi !
NDT

Chúa ơi!

Note: Tên này, bửn thực!
NQT

Hắn ta có thể chê thơ TTT, hơn thế nữa, khi ông còn sống, nhóm Sáng Tạo còn, vì hắn sống cùng thời với họ.
Bài viết của hắn, đúng là thứ “ai điếu” mà Brodsky chửi, 1 thứ thuốc thử đạo hạnh của những tên còn sống, khi viết về những người đã chết. Cũng thế, là những gì mà tên Lang Băm viết về Gấu, khi núp váy 1 người đàn bà, viết cực kỳ nhơ bửn về TTT, về NXH. Bởi thế mà GCC mới dám phán, lũ Mít viết văn làm thơ, cả từ Bắc cho tới Nam, thiếu hẳn “cái gọi là” đạo hạnh. Một tên thi sĩ như tên “TMBLCP”, thì chôm thơ Joseph trên trang Tin Văn, rồi phán, đọc đâu đó trên Thời Tập, trong khi hắn đã từng được TTT coi là bạn, và đã từng được ông làm thơ tặng nữa, tếu thế!

Đi tù VC, TTT mang theo Beckett. Viết về Beckett, là để tặng cô con gái.
Lạ, cực lạ.
Và Gấu giải thích, cô con gái của ông là hình ảnh của Hà Nội, thành phố “nền” của tập thơ đầu tay của ông, "Tôi không còn cô độc". Bài thơ “Dạ Khúc”, nền của nó, là Jazz,
với những hình ảnh Hà Nội, "nửa đêm Hà Nội", mà tên sĩ chuyên nghề nhạo nhại thơ người, không làm sao nhận ra, do đố kỵ.

Cái gì làm cho TTT nhắc tới Beckett?

Theo Gấu, có 1 cái gì đó liên hệ giữa ông và Beckett, nếu như chúng ta chấp nhận cái nick mà Steiner ban cho Beckett, trong 1 bài viết trên The New Yorker, “Master of nuance and scruple” [Sư phụ của sắc thái và ngần ngại”].
Không thể viết sau Trại Tù của TTT, tương tự sự câm lặng của Beckett.
   
Beckett's reductio of language-Echo's Bones, the title of his early book of verse, is a perfect designation-relates to much that is distinctive of modern feeling. "It was the same, the word is not too strong" exhibits the tense playfulness oflinguistic philosophy. There are passages in Beckett nearly interchangeable with the "language exercises" in Wittgenstein's Investigations; both stalk the vapid in- flations and imprecisions of our common speech. Act Without Words (1957) is to drama what "Black on Black" is to painting, a display of final logic. Beckett's silences, his wry assumption that a rose may indeed be a rose but that only a fool would take so scandalous a proposition for granted or feel confident of translating it into art, are akin to monochrome canvas, Warhol statics, and silent music. But with a difference. There is in Beckett a formidable inverse eloquence. Words, hoarded and threadbare as they are, dance for him as they do for all Irish bards. Partly this is a matter of repetition made musical; partly it springs from a cunning delicacy of to and fro, a rhythm of exchange closely modelled on slapstick. Beckett has links with Gertrude Stein and Kafka. But it is from the Marx Brothers that Vladimir and Estragon or Hamm and Clov have learned most. There are fugues of dialogue in Waiting for Godot-although "dialogue:' with its implication of efficient contact, is painfully the wrong word-that come nearest in current litera-
ture to pure rhetoric:

VLADIMIR: We have our reasons.
ESTRAGON: All the dead voices.
VLADIMIR: They make a noise like wings.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like sand:
ESTRAGON: Like leaves.
Silence
VLADIMIR: They all speak at once.
ESTRAGON: Each one to itself.
Silence
VLADIMIR: Rather they whisper.
ESTRAGON: They rustle.
VLADIMIR: they murmur.
ESTRAGON: They rustle.
Silence
VLADIMIR: What do they say?
ESTRAGON: They talk about their lives.
VLADIMIR: To have lived is not enough for them.
ESTRAGON: They have to talk about it.
VLADIMIR: To be dead is not enough for them.
ESTRAGON: It is not sufficient.
Silence
VLADIMIR: They make a noise like feathers.
ESTRAGON: Like leaves.
VLADIMIR: Like ashes.
ESTRAGON: Like leaves.

Long silence

STEINER: OF NUANCE AND SCRUPLE

Note: V/v cái từ, tiếng Tây, Beckett, dịch qua tiếng Anh, sau dịch trở lại tiếng Pháp, thì cái từ tiếng Pháp, không còn sử dụng được nữa, bữa nay kiếm ra rồi:

http://www.tanvien.net/Souvenir/Daily_Notes.html

Nói về đặt tít, thì, nếu Sến cực độc, cực ngắn, gọn, thí dụ, sửa giùm Gấu những cái tít như Dịch Là Cướp, Miếng Cơm Manh Chữ… khi Gấu còn cắp rổ theo hầu Sến, và Chợ Cá còn, thì Cô Tư, cực thần sầu trong cái gọi là “chiều sâu tâm linh” của từ, thí dụ "Xác Bụi", "Cúi Xuống Là Đất"... 

Gấu Cái lần đầu đọc, chỉ nội cái tít "Cúi Xuống Là Đất", là đã lắc đầu bái phục.

Nhưng, 1 cách nào đó, Gấu Cái bảnh hơn Cô Tư, ở cái phần “viết như không viết”, như em Sad Seagull của Gấu nhận ra, hà, hà!

Em phán, Miền Nam của Thảo Trần bảnh hơn Miền Nam của Cô Tư, vì chưa nhiễm độc Bắc Kít.  
Cô Tư, do gia đình hình như cũng có tí mắc mớ với Cách Mạng, nên khác Thảo Trần, có chồng là nhà văn Ngụy, đi tù VC nhiều lần!

*

Thua xa… Beckett.

Với ông này cái tít đúng là tử công phu. Gấu mới lôi cuốn về Beckett, trên, mua từ đời nào, ra đọc.
Hóa ra thì là Cioran cũng đã từng gọi Beckett là 1 vì phong nhã.

Trong bài viết ngắn của ông về bạn mình, Cioran viết về từ Lessness, của Beckett, dịch từ “Sans”, tên 1 tác phẩm tiếng Tẩy của Beckett. Cioran bị hớp hồn, ”envouté”, bởi từ này, và một bữa, un soir, ông biểu bạn, tôi không làm sao tìm ra 1 từ tiếng Tẩy nào tương đương với nó [tất nhiên, không phải từ “sans” mà nó được dịch từ đó ra].

“Tôi không thể nào ngủ được nếu không kiếm ra 1 từ ra hồn, honorable. Thế là cả hai bù đầu kiếm, bằng cách kết hợp những từ chung quanh hai từ sans, và moindre. Và khi từ giã, cả hai đều thất vọng.
Trở về nhà, Cioran vẫn khổ với nó, cho đến lúc ông bật ra ý nghĩ, hay là mò từ nguồn la tinh, và ngày hôm sau, ông viết cho Beckett, cái từ sinéité,  và tuyệt vời làm sao, cũng đúng lúc đó, Beckett kiếm ra từ này.
Đúng là 1 giai thoại thần sầu. TV post sau đây, để chứng minh, là không phịa ra.

Le texte francais Sans s'appelle en anglais Lessness, vocable forgé par Beckett, comme il a forgé l'équivalent allemand Losigkeit. Ce mot de Lessness (aussi insondable que l'Ungrund de Boehme) m'ayant envouté , je dis un soir à Beckett que je ne me coucherais pas avant d'en avoir trouvé en francais un équivalent honorable ... Nous avions envisagé ensemble toutes les formes possibles suggerées par sans et moindre. Aucune ne nous avait paru approcher de l'inépuisable Lessness, mélange de privation et d'infini, vacuité synonyme d'apothéose. Nous nous séparames plutôt décus. Rentré à la maison, je continuai à tourner et retourner dans mon esprit ce pauvre sans. Au moment ou j'allais capituler, l'idée me vint qu'il fallait chercher du côté du latin sine. J'écrivis le lendemain à Beckett que sineité me semblait le mot rêvé. II me repondit qu'il y avait pensé lui aussi, peut-être au même instant. Notre trouvaille cependant, il faut bien le reconnaitre, n'en était pas une . Nous tombâmes d'accord qu'on devait abandonner l'enquête, qu'il n'y avait pas de substantif francais capable d'exprimer l'absence en soi, l'absence à l'état pur, et qu'il fallait se résigner à la misère métaphysique d'une préposition.
E.M. Cioran: Quelques rencontres.

Về cái từ “người phong nhã”, "l’homme noble", thì Cioran viện tới hai đấng, Maitre Eckhart và Nietzsche, cũng đã từng viết về từ này, tức là về Beckett và với Gấu, thì thêm vô, ông bạn Bạn!

Re: TTT.

TTT ngay từ khi mới xuất hiện, là đã bị chửi tơi bời hoa lá cành rồi.
Đâu phải đợi đến khi ông nằm xuống, để được 1 tên cũng cùng thời với ông, là NDT lôi thơ ra chê đâu.
Nhưng thà là như thế.
Một khi 1 tác giả đã mất đi, viết về họ, là cả 1 "tử công phu" theo Gấu. Phải có 1 cái nhìn hết sức đứng đắn, và hơn thế, phải có những phát hiện mới về tác giả mà mình đề cập tới.
Bạn NL đọc TTT, coi Liên Điêm là bi khúc, tuyệt.
NQT

Mar 9, 2016

Thơ: bi ca và trí tuệ

Tập thơ này:


Cô bé của Vermeer
http://tanvien.net/Dayly_Poems/3.html

Cô bé của Vermeer, bây giờ nổi tiếng,
ngắm tôi. Viên ngọc trai ngắm tôi.
Ðôi môi của cô,
đỏ, mọng, long lanh

Ôi cô bé Vermeer, ôi viên ngọc trai,
cái khăn xếp: tất cả là ánh sáng
còn tôi thì làm bằng bóng tối.
Ánh sáng nhìn xuống bóng tối
với sự ẩn nhẫn, không, có lẽ, sự thương hại.

Adam Zagajewski: Mysticism for Beginners

Vermeer's Little Girl

Vermeer's little girl, now famous,
watches me. A pearl watches me.
The lips of Vermeer's little girl
are red, moist, and shining.

Oh Vermeer's little girl, oh pearl,
blue turban: you are all light
and I am made of shadow.
Light looks down on shadow
with forbearance, perhaps pity.

Image may contain: 1 person, closeup


http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/36.html

CELLO 

Those who don't like it say it's
just a mutant violin
that's been kicked out of the chorus.
Not so.
The cello has many secrets,
but it never sobs,
just sings in its low voice.
Not everything turns into song though.
Sometimes you catch a murmur or a whisper:
I'm lonely,
I can't sleep.

Adam Zagajewski

Hồ Cầm 

Kẻ không thích, thì phán,
Ui dào chỉ là cái vĩ cầm chưa thành vĩ cầm
Bị dàn nhạc đá văng ra khỏi bản đồng ca.
Không phải vậy.
Hồ cầm có nhiều bí ẩn,
nhưng không bao giờ sụt sùi,
chỉ hát trong giọng trầm của nó.
Ðâu có phải mọi chuyện thì đều biến thành một bài ca.
Ðôi khi bạn bắt được một tiếng thì thầm, hay thỏ thẻ:
Anh Gấu ơi,
Ðêm nay, em cô đơn,
Em không thể ngủ được.

Robert Frost

Stopping By Woods on a Snowy Evening 

Whose woods these are I think I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow. 

My little horse must think it queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year. 

He gives his harness bells a shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.

The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,

And miles to go before I sleep 

Tạm dịch:

Dừng ngựa bên rừng buổi chiều tuyết rụng

Rừng này của ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng. 

Ngựa của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm 

Nó bèn khẩy khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt tuyết rơi. 

Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ 

Đây là bài thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có cái tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.

As to the metaphor, I should add that I now see that metaphor is a far more complicated thing than I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying, "the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more subtle way.
Think of Robert Frost. You of course remember the lines: 

For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep

If we take the last two lines, the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the poet is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And miles to go before I sleep," the line becomes a  metaphor; for "miles," stands for "days," for "years," for a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death." Perhaps I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the pleasure lies not in our translating "miles" into "years" and "sleep" into" death," but rather in feeling the implication.
Borges: This craft of verse 

Borges lèm bèm:
Về ẩn dụ, tôi có lẽ nên nói thêm là, nó rất ư “cà chớn”, rất rắc rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó không giản dị chỉ là so sánh sự vật này với sự vật khác - thí dụ, "mặt trăng thì như là... " - Không, nó “tế vi” hơn nhiều. 

For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep

Nếu lấy hai dòng đầu, thì nó là 1 câu phán của thi sĩ, về những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập lại, thì dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến thành "ngày", thành "năm", và dài dài mãi ra, và "ngủ", có nghĩa là, ngỏm củ tỏi!

Về già, đọc lại bài thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách dạy tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái tít!
Những lời hứa phải giữ!

Bài tiểu luận lấy làm tít cho cả cuốn, Về Khổ Đau và Lý Trí, On Grief and Reason, của Brodsky, là viết về [vinh danh] Robert Frost.

Brodsky viết:
Vào năm 1959, trong 1 bữa tiệc mừng sinh nhật lần thứ 85 của Frost, tại New York, nhà phê bình sắc sảo nhất, nổi cộm nhất thời đó, the most prominent literary critic at the time, Lionel Trilling, đứng dậy, tay cầm ly rượu có cẳng, goblet, phán, Robert Frost là nhà thơ khủng khiếp, a terrifying poet. Lẽ dĩ nhiên, có những tiếng ồn ào tiếp theo sau, nhưng "khủng khiếp" đúng là từ dành cho Frost:

Now, I want you to make the distinction here between terrifying and tragic. Tragedy, as you know, is always a “fait accompli”, whereas terror always has to do with anticipation, with man's recognition of his own negative potential-with his sense of what he is capable of. And it is the latter that was Frost's forte, not the former. In other words, his posture is radically different from the Continental tradition of the poet as tragic hero. And that difference alone makes him- for want of a better term-America.

Ui chao, đọc 1 phát, Gấu nhớ tới cái từ “văn chương khủng khiếp” của Gấu, ban cho Hoàng Đông Phương!

Between Two Worlds

Brodsky ventures, "American poetry is essentially Virgilian, which is to say contemplative."

Trong bài diễn văn Nobel, Brodsky lập lại câu hỏi của Adorno, "Làm sao một người có thể làm thơ sau Lò Thiêu?", và viết tiếp:
Một người nào quen thuộc với lịch sử Nga, có thể lập lại câu hỏi trên, bằng cách thay tên Auschwitz bằng 1 cái tên khác, và sự chứng thực, justification, còn bảnh hơn, even greater, Auschwitz, bởi vì con số những người chết trong trại tù Stalin vượt quá hơn nhiều, so với Lò Thiêu, hay, như nhà thơ Mẽo, Mark Strand, đã từng chặn họng, retorted, Adorno: “Làm sao một người có thể ăn trưa [sau Lò Thiêu]?”

Trong bất cứ trường hợp, thế hệ tôi [Brodsky] thuộc về, thừa sức làm thứ thơ đó [that poetry].

Thơ ca Mít, nhất là đám Miền Nam sau 1975, đụng đúng cú này, và TTT trả lời, “đếch” làm được:
Làm sao làm thơ, coi như đếch có gì xẩy ra?

Note: Ph
ản ứng của Brodsky, trước câu phán của Adorno, đúng, nhưng sai, do ông không làm sao phân biệt được Cái Ác Nazi và Cái Ác Châu, y chang trường hợp Auden, hay Hass, không đọc được thơ Osip Mandelstam. Thuật ngữ thường được dùng cho Lò Thiêu, "không thể nói được", "unspeakble", đúng ra phải dùng cho Cái Ác Á Châu.
Nhờ "nói được", qua những kẻ sống sót, như Celan, Levi.... cho nên Âu Châu sống sót Cái Ác Nazi, và có thuốc chủng, như Todorov phán: Khử bằng hồi ức.

Cái Ác Á Châu, vô phương!
Chúng làm Ác, tạo Ác, và dửng dưng như không:
Thánh Nhân Bất Nhân, Coi Thiên Hạ Như Chó Rơm!

Bạn chỉ cho GCC thấy, 1 tên Bắc Kít, nh
ỏ 1 giọt nước mắt cá sấu, cho 1 tên Ngụy, đi tù 17 niên, như Thảo Trường, thí dụ?

*

 Memory as a Remedy for Evil

Todorov mở ra cuốn sách nhỏ xíu, mỏng dính của ông, Hồi nhớ như thuốc trị Cái Ác Bắc Kít, Memory as a Remedy for Evil, bằng nhận xét, câu cầu nguyện hay được cầu nguyện nhất, của dân Ky Tô, bắt đầu, là "Lạy Cha, Cha ở trên Trời", và chấm dứt bằng, Hãy đuổi Quỉ ra khỏi chúng con, "Deliver us from evil". Câu này ngụ ý, trong chúng ta có...  quỉ, và chỉ có Thượng Đế, Chúa mới khu trục Quỉ ra khỏi chúng con. Nhưng chúng con, tức loài người thì lúc nào cũng hăm hở với giấc mơ tự mình trục Quỉ, và chính tham vọng này đưa đến những chủ nghĩa toàn trị.

Cái giấc mơ thống nhất nước Mít sợ còn đẹp hơn tất cả những giấc mơ toàn trị!

Thế mới chết! (1)

Todorov

Re: Pourtant, il affirme qu'« on peut aimer passionnément la littérature, sans pour autant croire qu'hors des livres il n'y a point de salut ».

Today at 2:42 PM

“on peut aimer passionnément la littérature, sans pour autant croire qu'hors des livres il n'y a point de salut”
Bác Gúc dịch:

One can passionately love literature, without believing that outside of books there is no salvation

Nôm na, mình yêu sách nhưng đừng nghĩ chỉ có sách mới cứu!

Bac khoe khong?

I am OK. Tks


Osip Mandelstam

*

8

It's true, I lie in the earth, moving my lips,
But what I say will be learned in every school:

The round earth is rounder in Red Square,
And its slope asserts itself, willingly,

The round earth is rounder in Red Square,
And its slope is vast, unexpectedly

Sloping down-to fields of rice-
As long as one last slave is left alive.
                                           May 1935

Osip Mandelstam: Voronezh Notebooks

Đúng như thế đấy, tớ nằm trong lòng đất, mấp máy môi
Nhưng những gì tớ phán thì sẽ được học trong mọi ngôi trường

Trái đất tròn, tròn hơn, ở Công Trường Đỏ
Và đường cong của nó, khẳng định chính nó, rất ư là hài lòng

Trái đất tròn, tròn hơn ở Công Truờng Đỏ
Và đường cong của nó rộng rãi, thênh thang, rất ư là không ngờ

Đường cong trải dài mãi ra, tới đồng, tới ruộng
Trải dài mãi
Cho đến khi tên nô lệ cuối cùng, còn lại.
   
INTRODUCTION

W. H. AUDEN once complained to Joseph Brodsky: "I. don't see why Mandelstam is considered a great poet. The translations that I've seen don't convince me at all"*-a comment that indicates the conflict between Osip Mandelstam's reputation as one of the greatest poets of the twentieth century and his equally notorious impermeability to translation, if not to comprehension itself. Why is Mandelstam so hard to get at? There is, of course, the density of his language and imagery and the prominent role of rhyme and rhythm in his work. He was one of the great “orchestrators" of language, one of the great masters of sound and cadence, which has posed enormous-some would say insuperable-obstacles to translation. Related is the tantalizing, and perennial, question of the differences between Russian and English poetic practice, a question whose scope and complexity is beyond my capacity to deal with here. But underlying everything, I think, is the

* Joseph Brodsky, "The Child of Civilization," in Less Than One: Selected Essays (New York: Farrar, Straus and Giroux, 1987), 142.

unique, the radical demand that Mandelstam places on his readers. All of Mandelstam's poetry is excavated from the midden of his experience. This is its fundamental, invariable, characteristic, and essential principle. There was little of the theoretician and nothing of the mystic in him; he was the most earthly of men. One can see this clearly in the highly unusual way he treats three common poetic images, both in the Voronezh Notebooks and in his earlier poetry, images through which he expressed his horror at being separated from life. Not just by death-though death was a real threat when he was composing the Notebooks -by any-thing that prevented him from immersing himself in physical, palpable existence. For Mandelstam, the sky (nebo) most often suggested not some paradise or heaven but sexless, inhuman, asphyxiating emptiness. The appearance of stars in his poetry indicated, as his wife, Nadezhda, pointed out, not a movement toward the eternal but the shrinking away from the essentially human and, therefore, the coming to an end of the poetic impulse. And air (vozduhk)-or rather the lack of it, one of Mandelstam's greatest preoccupations in the Notebooks-stood in not as an animating principle, not as some cipher for the soul, but as an earthly element. It represented the most insistent of the triad of life's physical necessities-food, water, breath-and by extension the freedom to move in a physical world..

*

Looking on a Russian Photograph, 1928/1995

It's the classic picture of doom. Three great poets stand together in 1928, the Revolution just a decade old, their hearts and brains soon to be dashed out on the rocks of Russian fascism, the flower of their achievements destined to be crushed by the new czar, Stalin.
Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - each will die in his own tortured way. Mayakovski, rebuffed in love, imprisoned in Moscow, will kill himself in 1930, at the age of thirty-six. Eisenstein's broken heart will give out in 1948, cherished projects betrayed, the fifty-year-old filmmaker persecuted abroad and closely watched at home. Pasternak, long denied by his government, will finally survive Stalin - yet, when his magnum opus, Doctor Zhivago, earns him the Nobel Prize in 1958, he will not be permitted to accept, his book burned, his name excoriated in his homeland.
But there they stand in 1928, brave young hearts, frozen in triumph, the last symbols of a civilization about to go mad. Yet I find. myself thinking - how lucky they are, these three, able to experience lives of great crisis and choice. Were they not gifted with an energy that brought them each full-bore into what Justice Oliver Wendell Holmes called the "passion and peril of their times"?
We shall all lose, it is inevitable. The issue is how we lose, on what terms. These three men played out their lives across the dark landscape of a cursed country, each sought as a solace from a mad czar, who with quasi-Asiatic mind tortured them with the impossibility of reason.
I do not seek such death. I choose the milder climes of the USA circa the late twentieth century - although these times, less sinister certainly than Stalinist ones, may be equally dangerous-for what is in danger, in the largest sense, is the soul. And the soul that dies in its lifetime is the sterile, timid, cynical soul that is never tested by its time. Though tests too can be boredom. Luxury, television and the accelerating sameness of information can be far more ruthless than war or disease.
So I say-in death, rest. There is much time later to sleep.
Until then party - party hard, suffer hard. Live lives suffused with cycles of joy and sorrow. Participate above all in the travails of your time, as artists your shoulders equal to all working and struggling people, neither higher nor lower but equal to its spirit in its own time.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - I salute you.
- Oliver Stone

The Paris Review Winter 1995: Russian Portraits

Quái đản thật. Ở cái xứ VC Niên Xô này, ngay cả những tay theo Đảng, phò Đảng thì cũng bảnh, cực bảnh, như bộ ba trên đây.
Vladimir Mayakovski, Sergei Eisenstein, Boris Pasternak - Gấu Cà Chớn chào các bạn.

Ở cái xứ Bắc Kít, toàn Kít!

Một bức hình cổ điển về đọa đầy, trầm luân, bất hạnh…Ba nhà thơ lớn chụp chung với nhau vào năm 1928, Cách Mạng thì mới được 10 tuổi, tim và óc của họ sẽ nát bấy ra trên những hòn đá của phát xít Nga, bông hoa thành tựu sẽ bị nghiền nát dưới gót giầy của sa hoàng mới của Nga – Stalin. Eisenstein, Mayakovski, Pasternak - mỗi người một cái chết, mỗi người một cuộc tra tấn riêng. Mayakovski, bị cự tuyệt trong tình yêu, bị cầm tù tại Moscow, tự sát vào năm 1930, ở tuổi đời 36. Trái tim bể của Eisenstein ngưng đập vào năm 1948, những đồ án nâng niu bị phản bội, nhà làm phim 53 tuổi bị truy đuổi bách hại khi ở hải ngoại, bị canh trừng chặt chẽ khi ở nhà.

Pasternak, đã từ lâu bị nhà cầm quyền của ông chối từ, sau cùng sống sót chế độ Stalin – tuy nhiên khi tuyệt tác của ông Bác Sĩ Zhivago được trao Nobel, ông không được phép đi nhận giải, sách bị đốt, tên bị trà đạp bôi nhọ ở quê nhà.

Nhưng, như bức hình cho thấy, ba nhà thơ đứng hiên ngang, vào năm 1928, ba trái tim trẻ, can đảm, đông lạnh trong chiến thắng, những biểu tượng sau cùng của 1 nền văn minh trước khi khùng điên, ba trợn. Tuy nhiên, riêng tôi, thì lại nhận ra 1 điều, họ mới hạnh phúc, may mắn biết bao, khi cả ba có thể kinh nghiệm những cuộc khủng hoảng lớn, và chọn lựa lớn.


* *

Làm sao Ông đã làm sao...
Tố Hữu

Vào tháng 11 năm 1933, Osip Mandelstam sáng tác bài thơ trứ danh “Vịnh Stalin”, ‘người leo núi Cẩm Linh’, ‘kẻ sát nhân tên làm thịt dân quê’. Tháng Năm 1934, ông bị bắt vì tội 'phản cách mạng', bị tra hỏi trong 2 tuần, nhưng lạ lùng làm sao, do lệnh trên ban xuống, không bị làm thịt hay bỏ tù, mà chỉ bị ‘cách ly nhưng đừng để chết’. Hai vợ chồng trải qua 3 năm lưu vong ra khỏi những thành phố lớn; khi trở về, sống giữa đám bạn bè lòng vòng ở Moscow. Tháng Năm 1938, ông chồng bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù, và lần này bị đầy đi Vladivostok, chỉ kịp gửi một cái note, cho ông em/anh, gửi ‘quần áo sạch’; ông không thoát được mùa đông tại đó. Bà vợ sống dai hơn ông chồng 42 năm, nhẩn nha nhớ lại thơ chồng. Chúng ta được biết những chi tiết hiếm quí đó là qua hồi ký tuyệt vời của bà vợ, “Hy vọng chống lại hy vọng”
Là một độc giả mê cuốn hồi ý trên, Robert Litell gặp bà vợ nhà thơ vào năm 1979, cuộc gặp gỡ ông kể lại ở cuối cuốn tiểu thuyết của ông, một giả tưởng tái tạo dựng những sự kiện trong 4 năm, từ khi nhà thơ trước tác bài thơ vịnh Xì Ta lin, cho tới cái chết của ông, cộng thêm vào đó là những giọng nói của Osip, của bạn bè của ông, của thời của họ, cộng giọng nói giả tưởng hóa của tay trùm cận vệ Xì….

Tribute to Hoàng Cầm

Có 2 cách đọc Nguyễn Tuân?
Không chỉ NT, mà còn Hoàng Cầm, thí dụ.
Nhưng với HC có tí khác.
Nói rõ hơn, VC, sĩ phu Bắc Hà đúng hơn, đọc HC, khen thơ HC, là cũng để thông cảm với cái hèn của tất cả.
Của chung chúng ta! (1)

1. Tình cờ ghé Blog của me- xừ Đông B, ông ta gọi cái món này là 'mặc cảm dòng chính'!
Hình như tụi Mẽo cũng có thứ mặc cảm này, 'chỉ sợ mình Mẽo hơn tên hàng xóm'.
Anh VC thì cũng rứa! Nào là phục hồi nhân phẩm cho Ngụy, nào là em về đâu hỡi em khi đời không chút nắng, đời gọi em biết bao lần!
Khổ một nỗi, khi chúng mất nhân phẩm thì không thể nào phục hồi được!

"Tớ phục vụ một cái nghĩa cả cà chớn, và tớ nhận tiền từ nhân dân Bắc Kít mà tớ lừa bịp họ với những bài thơ 'lá liếc' nhảm nhí của tớ. Tớ là một tên bất lương. Nhưng mà này, bản thân tớ thì là cái thống chế gì ở đây? Tớ chỉ là một hạt cát trong Cái Ác Bắc Kít… Đây là lỗi lầm của cái thời mà có tớ sống ở trong đó”!
Hà, hà!

Hút vậy hại sức khoẻ lắm.

Câu ấy ai cũng nói. Nhưng nó theo cả đời rồi. Mình phải cầm đóm lấy mới ngon. Để người châm hộ không ngon.
Thật ra sống đủ rồi, không muốn sống đau ốm, thế nên cho trách giời một tí.

Khốn nạn thực. Từ hải ngoại tốn công tốn của, chịu nhục, bò về, để châm đóm cho nhà thơ, mà vưỡn bị chửi, xê ra cho người ta hút thuốc lào.
Để mi châm hộ, hút, mất cả ngon!


Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi

You invented me. No such person exists, that's for sure,
There's no such creature anywhere in sight.
No poet can quench my thirst, no physician has a cure,
The shadow of your ghost haunts me day and night.
We met in an unbelievable year,
The energies of the world were worn through,
The world was in mourning, everything sagged with
fear,
And only the graves were new.
In the absence of light, how black the Neva grew,
The deaf night surrounded us like a wall . . .
That's exactly when I called out to you!
What I was doing-I didn't yet understand at all.
And, as if led by a star you came to me,
As if walking on a carpet the tragic autumn had grown,
Into that house ravaged for the rest of eternity,
From whence a flock of burned verses has flown.
1956

Mi phịa ra ta. Làm gì có cô gái nào tên là BHD, chắc chắn như thế,
Làm gì có thứ bông hoa lạ như thế ở khắp mọi nơi, trong tầm nhìn
Chẳng tên thi sĩ nào có thể làm dịu cơn khát của ta, không tên y sĩ nào có thứ thần dược chữa trị,
Cái bóng của con ma tình, là mi, tên GCC, làm khổ ta ngày và
đêm
Hai đứa ta gặp nhau đúng trong cái năm không thể nào tin tưởng được đó
Nhiệt tình trọn thế gian đốt trọn cuốn lịch
Thế giới ư, tóc tang tang tóc, mọi chuyện chùng xuống vì sợ hãi
Chỉ những nấm mồ là mới.
Thiếu vắng ánh sáng, con sông Neva bèn càng đen thui
Đêm điếc đặc bao quanh đôi ta như bức tường
Đúng là vào lúc như thế ta gào tên mi, GCC!
Ta đang làm gì đây - Ta chẳng thể nào hiểu
Và, như thể được 1 vì sao dẫn dắt,
Mi bèn đến với ta
....

Selected and Translated by Lyn Coffin


OSIP MANDELSTAM
I
July 28, 1957

AND LOZINSKY'S DEATH SOMEHOW broke the thread of my reminiscences. I no longer dare to recall things that he cannot corroborate (about the Poets' Guild, Acmeism, the journal The Hyperborean, and so forth). In recent years we rarely saw each other because of his illness and I didn't get a chance to have a real talk with him about some important matters or to read him my poems from the 1930s (Requiem). Probably that accounts for the fact that he continued to think of me to some degree as the same poet he had known long ago in Tsarskoe Selo. This became clear when we were both reading the proofs of my collection From Six Books in 1940.

* * *

Something similar happened with Mandelstam, who of course knew all my poems, but in a different way. He did not know how to reminisce rather it was a different sort of process for him that I don't have a name for now, but something doubtless akin to creativity. (For example, Petersburg in The Noise of Time seen through the bright eyes of a five-year-old boy.) Mandelstam was one of the most brilliant conversationalists. He didn't just listen to himself and answer himself, which is what almost everyone does nowadays. In conversation he was polite, quick to react, and always original. I never heard him repeat himself or "play the same old record”. He learned foreign language with unusual ease

Poetry and History: Polish Poetry after the End of the World

In 1973, when I was twenty-three years old, I decided to stop in Warsaw during a year I was traveling in Europe. From that trip I remember one chilly gray dusk in particular when I walked through the neighborhood that had once been the Warsaw Ghetto. People were bustling home from work, but their activity only seemed to accentuate the eerie and even ghostly absence of all those missing persons, an annihilated people. One didn't need to travel to Auschwitz to feel guilty absence and palpable vacancy. That night I reread Czeslaw Milosz's poems "A Poor Christian Looks at the Ghetto," "A Song on the End of the World," and "Dedication." This last poem was addressed to "You whom I could not save," and dated Warsaw, 1945. Its key stanza has thereafter set a standard of moral seriousness in poetry:

What is poetry which does not save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without knowing it,
That I discovered, late, its salutary aim,
In this and only this I find salvation.

Milosz's early poems are all haunted by survivor's guilt, the poignancy of living after what was, for so many, the world's end. Poetry here becomes an offering to the dead, a form of expiation, a hope for redemption.
    Reading the work of Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa Szymborska-the half-generation after Milosz-I soon discovered that all of postwar Polish poetry was similarly haunted by guilt, initiated in the apocalyptic fires of history. These writers shared an important collective experience, and the formative nature of that experience helped shape the spirit of their work. Born in the early 1920s, they grew up during one of the few periods of independence in Polish history, but they came of age during the terrible years of World War II. Poland lost six million people during the war, nearly one-fifth of its population, and the young writers felt the almost crushing burden of speaking for those who did not survive the German occupation. "I am twenty-four / led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote in "The Survivor." It was no boast. No wonder, then, that at the conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead to free him:

They used to pour millet on graves or poppy seeds
To feed the dead who would come disguised as birds.
I put this book here for you, who once lived
So that you should visit us no more.

Edward Hirsch: How to Read a Poem and Fall in Love with Poetry


Năm 1973, 23 tuổi, tôi quyết định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến đi Âu Châu. Kỷ niệm xám xịt, nhất là khi loanh quanh ở cái khu Ghetto. Phố phường bận rộn, nhưng hình như càng làm nặng thêm sự vắng mặt u uẩn của những người đã mất. Bạn chẳng cần phải tới Lò Thiêu làm khỉ gì, chỉ ở đây thôi mà đã cảm thấy cái sự trống vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những bài thơ đầu đời thơ của ông, ám ảnh làm sao, là cái mặc cảm sống sót, cái nỗi thống khổ, “sống, sau những cái đó”, cái tận cùng thế giới đó.

Thơ như thế, là 1 dâng tặng cho người chết, một hình thức cứu chuộc.


Đọc Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz, and Wislawa Szymborska- nửa thế hệ sau Milosz – tôi liền khám phá ra là, tất cả thơ ca hậu chiến Ba Lan thì đúng là bị ám ảnh bởi tội lỗi, bật ra từ những ngọn lửa tận thế của lịch sử....

Đầu năm thấy mấy bài thơ dán trên Gio-O có vẻ đẹp ra,người mần ra nó cũng thấy đường mương ống cống trên mặt mình mờ lặn đi bớt.
Hổng biết nhà thơ họa Nguyễn Man Nhiên có thấy tranh mình vậy không.
Cám ơn Việt Văn Đà Lạt, chủ biên GIÓ-O.

LikeShow more reactions
Comment
Comments
Quoc Tru Nguyen Theo tôi bài số 1 hay nhất. Phải nói quá hay. Chúc mừng thơ & chúc mừng năm mới
Tuyet Nguyen Hiếm khi chủ nhân trang TIN VĂN khen ai, xin đa tạ như một sự khích lệ quý báu.
Chúc bác Quoc Tru Nguyen an lành, hạnh phúc, viết càng uyên bác nhân mừng năm mới.

http://www.gio-o.com/Chung2/NguyenThuySongThanhCamTayHon.htm


cầm tay hôn biết địa chỉ

Hôn tay xong ngàn thu sau
Chẳng bao giờ còn thấy nhau
Linh hồn em anh đã giữ
Đem đi đâu đi đâu
Đi đâu

Note: Bạn có thể sử dụng những gì mà Borges viết về Robert Frost, qua mấy bài thơ Tin Văn vừa giới thiệu, Làm quen với Đêm, Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ, Kinh Cầu..... cho bài thơ của vị nữ thi sĩ, phu nhân nhà thơ Khoa Hữu. Như cái tập sách Anh Văn vỡ lòng mà Gấu vớ được ở Trại Tị Nạn, lấy câu thơ của Frost làm nhan đề, Lời Hứa Để Giữ, Promises To Keep: GCC cũng lấy cụm từ đó
làm cái entry cho mẩu viết này.
Mít chúng ta quả là có những lời hứa phải giữ.
GCC, dịch bài thơ tiếng Anh đầu tiên trong đời, của Frost, là cũng có ý đó
.

"And miles to go before I sleep/ And miles to go before I sleep.

"And miles to go before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the same words have two different meanings. In the first of the last two verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.

And that, I think, is the chief achievement of Frost. He could write poems that seem simple, but every time you read them you are delving deeper and finding many winding paths and many different senses. So Frost has given us a new idea of metaphor. He gives us metaphor in such a way that we take it as a simple, straightforward statement. And then you find that it is a metaphor. "And miles to go before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the same words have two different meanings. In the first of the last two verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.

Và đó là thành tựu “lớn nhất, chủ, trùm...” [chief] của Frost. Ông có thể viết những bài thơ xem ra thì thật giản dị, nhưng mỗi lần chúng ta đọc, là mọi lần chúng ta đào bới sâu thê
m, và tìm ra không biết bao nhiêu là lối đi, và nghĩa nghiếc khác nhau.
Và thế là thi sĩ đem tới cho chúng ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông cho chúng ta ẩn dụ, theo cái cách mà chúng ta coi nó như là 1 phát biểu tự nhiên, giản dị, thẳng 1 lèo. Và thế rồi, bạn ngộ ra, đâ
y là 1 ẩn dụ:

Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!

Ô
ng [Borges] đồng ý với…  Gấu, ẩn dụ không đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực sự, là đốn ngộ, là mặc khải.

Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè “Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung", nhìn sang nhà hàng xóm, thấy cái áo cánh trắng phất phơ bay trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, áo ai nhỉ, và nhớ ra là Loan, đi học Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ là bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "si
êu hình mà nói",
Dũng khám phá ra tình yêu của mình!

ROBERT FROST

NEITHER OUT FAR NOR IN DEEP
The people along the sand
All turn and look one way
They turn their back on the land.
They look at the sea all day.

As long as it takes to pass
A ship keeps raising its hull;
The wetter ground like glass
Reflects a standing gull.

The land may vary more;
But wherever the truth may be-
The water comes ashore,
And the people look at the sea.

They cannot look out far.
They cannot look in deep.
But when was that ever a bar
To any watch they keep?

Không xa mà cũng chẳng sâu

Đám người dọc theo cát
Tất cả quay và nhìn một phía.
Lưng xoay vô đất
Mắt nhìn biển cả ngày.

Con tàu dâng thân lên
Chừng nào nó đi qua
Thân tầu, lóng lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.

Đất có thể tang thương như thế nào
Một khi sự thực thì như thế nào đó –
Nước vẫn tạt vô bờ
Và mọi người nhìn ra biển
Họ không thể nhìn xa
Họ không thể nhìn sâu
Nhưng liệu có 1 cái kè đá nào
Cho bất cứ 1 cái nhìn mà họ giữ?

Phản chiếu một hải âu đứng sững.

Tuyệt!
Tất nhiên, với riêng Gấu!

Đầu năm thấy mấy bài thơ dán trên Gio-O có vẻ đẹp ra,người mần ra nó cũng thấy đường mương ống cống trên mặt mình mờ lặn đi bớt.
Hổng biết nhà thơ họa Nguyễn Man Nhiên có thấy tranh mình vậy không.
Cám ơn Việt Văn Đà Lạt, chủ biên GIÓ-O.

LikeShow more reactions
Comment
Comments
Quoc Tru Nguyen Theo tôi bài số 1 hay nhất. Phải nói quá hay. Chúc mừng thơ & chúc mừng năm mới
Tuyet Nguyen Hiếm khi chủ nhân trang TIN VĂN khen ai, xin đa tạ như một
sự khích lệ quý báu.
Chúc bác Quoc Tru Nguyen an lành, hạnh phúc, viết càng uyên bác nhân mừng năm mới.
Nguyễn Man Nhiên tuyệt bút, chị Tuyet Nguyen: cầm tay hôn biết địa chỉ

Hôn tay xong ngàn thu sau
...See More


Valentine's Day 2017


ĐÊM LỄ TÌNH NHÂN NGỒI NƠI GÓC SÂN TRƯỜNG

Không ai - không có ai nơi nầy
Chỉ có vầng trăng trên ngọn cây
Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn tay

Trời chưa nguôi trút ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan

Hồng nhan một nét ,- trời một cõi
Nghiệm đời mình sao ngó gốc cây
Giữa bao la gió còn ai gọi
Nhà ở đâu, -ta ở nơi nầy

Mái trường, cơn-mê-đời trú ẩn,
Tình ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Thấy đời mình gan lì lặng lẽ
Bền bỉ xù xì đứng lớn lao

Lệ hạt tặng cây buồn gởi gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần

Những bước xuân xanh ngoài kia phố
Có buộc sợi tình quanh ngón chân .

nguyễn thùy song thanh


Note: Tình ta, hồn cổ thụ chiêm bao
Tuyệt!

Bất giác, nhớ thơ tù của ông anh, TTT, làm tặng bạn:

Mừng sinh nhật bạn
Th.T.

Chốc đã thấy mình sáu mươi bốn
Sống thế quả là có ghê gớm
Cớ sao hồn mộng vẫn chưa khuây?
Phải chăng giấc tình còn lẩm cẩm?
Một mai viễn khách ngó trời Tây
Lúc ấy tha hương ngộ bóng nhạn.
Tháng Chín gió thổi như chim như mây
Rong ruổi theo hương lạnh tản mạn
                                                  84.

Bài thơ của vị bằng hữu, còn nhiều câu quá đỗi thần sầu, Gấu lọc 1 câu, liền với mạch thơ TTT.

Mấy câu sau đây, quả đúng ý Borges, thơ là để trao cho thi sĩ.

Hồng nhan một nét ,- trời một cõi
Nhà ở đâu, ta ở nơi này

Quá bảnh! Quá hách xì xằng!

Lệ hạt tặng cây buồn gởi gió
Người-trăm-năm - bỗng nhớ bần thần

Có buộc sợi tình quanh ngón chân .
Có sợi tình buộc quanh ngón chân
theo GCC, cũng đặng!
Tks. Many Tks
NQT

Khi Thomas Mann từ Đức đến California, người ta hỏi ông về văn chương Đức, ông trả lời: "Văn chương Đức là nơi tôi đang ở (German literature is where I am).
Nếu một người Đức dám chấp nhận điều này, tôi cũng dám chấp nhận. Bây giờ tôi sửa soạn để chết tại đây. Cũng chẳng quan trọng chi chuyện đó. Vả chăng tôi cũng không biết chốn nào khá hơn. Mà nếu có biết, tôi cũng chưa kịp sửa soạn để đổi đời.
Brodsky:
Tôi hết còn tin vào nơi chốn ấy

Chỉ 1 câu thơ "hồng nhan 1 nét, trời 1 cõi", sợ còn bảnh hơn, cả Mann lẫn Brodsky!

German literature is where I am

Trời ở đâu, nhan sắc của ta ở đó!

Vị này, làm sao mà không đọc được, và làm sao mà không cảm được, những dòng thơ của Anna Akhmatova?
Bà cũng đã từng lặn lội trong bao nhiêu năm, thăm nuôi chồng, sĩ quan VNCH bị lũ Bắc Kít đem đi đầy tận mãi Cực Bắc Bắc Việt?
Chỉ mấy dòng thơ, đầy cao ngạo, cao sang, và rất ư là tâm sự, riêng tư:

Ngồi một lát cho ấm ghế đá
Một lát thôi lệ ấm bàn tay


Trời chưa nguôi trút ào cơn gió
Thổi muôn xưa về gặp lá vàng
Thổi rạp lá xanh - sừng sững cội
Thổi qua tóc rối chạm hồng nhan


Câu cuối, quá tuyệt!

Ui chao, khen quá, sợ, lại bị chửi, mi ít khen ai!


Nhưng hách nhất, phách lối nhất, thì phải là câu phán của chính Brodsky, về mình:

I was only too glad to be the handmaid of genius, and to be taken for granted.
Tớ thật khoái tỉ khi được coi là tên tà lọt của thiên tài, và được bảo đảm như vậy.


GCC sợ rằng, vị này cũng thừa sức để mà "khiêm tốn" về thơ của mình, như... Brodsky!

Đây cũng là ý của Anna Akhmatova, khi gặp nữ thần thi ca:

THE MUSE

When at night I await the beloved guest,
Life seems to hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room. "What is honor, freedom, the rest,
In the presence of her who holds the flute in her hand?"

But now she is here. Tossing aside her veil,
She considers me. "Are you the one who came
To Dante, who dictated the pages of Hell
To him?" I ask her. She replies, "I am." 

1924

Nữ Thần Thi Ca

Ðêm, ta đợi vị khách quí
Ðời như treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái còn lại,
Thì là cái gì, trước nàng, người cầm cây sáo ở trong tay? 

Nhưng bây giờ, nàng ở đây. Kéo cái mạng che mặt qua một bên,
nàng nhìn ta ra ý dò hỏi. “Bà có phải là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép, phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta, thì là ai?”

 
Requiem

I never sought asylum among aliens
Never cowled myself in a crow's wings.
I stood as my people stood, alone-
In my marrowbones, their sorrow.
    [
Translated by Vladimir Azarov & Barrry Callahan, in Strong Words]

REQUIEM

No, it wasn't under a foreign heaven,
It wasn't under the wing of a foreign power,-
I was there among my countrymen,
I was where my people, unfortunately, were.
1961
[Translated by Lyn Coffin]

Note: Những dòng thơ trên, của Akhmatova, thì cũng có thể áp dụng vô trường hợp NTST.

Kinh Cầu

Không, không phải dưới thiên đàng ngoại
Không phải dưới cánh quyền lực ngoại
Tôi ở giữa đồng bào tôi
Dân tộc tôi, bất hạnh
Ở.


Quoc Tru Nguyen shared a memory.

Thơ Tháng Tư
Live at Club Revolution

Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll...



Thơ Tháng Tư

Live at Club Revolution

Our nation's future's coming into view
With a muffled drumroll
In a slow, absentminded striptease.
Her shoulders are already undraped,
And so is one of her sagging breasts.
The kisses she blows to us
Are as cold as prison walls.

Once we were a large wedding party.
It was a sunny weekend in June.
Women wore flowers on their straw hats
And white gloves over their hands.
Now we run dodging cars on the highway.
The groom, someone points out, looks like
President Lincoln on a death notice.

It's time to burn witches again,
The minister shouts to the congregation
Tossing the Bible to the ceiling.
Are those Corinna Brown's red panties
We see flying through the dark winter trees,
Or merely a lone crow taking home
His portion of the day's roadkill?

Charles Simic

Nhạc sống tại Câu Lạc Bộ Cách Mạng Thành Hồ

Tương lai xứ Mít đi vô tầm nhìn
Với 1 hồi trống tắc nghẹn
Trong một xen thoát y chầm chậm, lơ đãng.
Vai em vũ nữ để trần
Cũng thế, là một bên vú, xệ xuống
Nụ hôn em ban cho chúng ta
Lạnh như tường nhà tù Phan Đăng Lưu

Một lần tụi này tham dự tiệc cưới của 1 đại gia
Một weekend có nắng vào Tháng Sáu
Đờn bà trang trí hoa trên nón rơm
Đeo găng trắng
Lúc này, tụi này đang chạy xe lắt léo trên xa lộ Biên Hòa
Chú rể, một tay nào chỉ ra,
Sao giống y chang Víp Va Ka,
aka Sáu Dân, aka Hồ Tôn Hiến,
trên một tờ giấy báo tử.

Đã đến giờ lại thiêu sống lũ phù thuỷ
Vị mục sư la lớn với giáo đoàn
Quăng cuốn Thánh Kinh lên trần nhà
Có phải mấy cái xịp đỏ lòm của kỳ nữ KC,
Chúng ta nhìn thấy bay trên nền trời tối thui mùa đông Thành Hồ?
Hay chỉ là 1 chú quạ
đem về nhà
phần chia những xác chết vì xe cán trong ngày?

Mother Tongue

That's the one the butcher
Wraps in a newspaper
And throws on the rusty scale
Before you take it home

Where a black cat will leap
Off the cold stove
Licking its whiskers
At the sound of her name

Charles Simic

Tôi êu tiếng nước tôi

Đó là thứ tiếng mà tay đồ tể
Gói trong tờ báo chợ Người Vịt,
Của băng Cờ Lăng,
Rồi thẩy lên cái bàn cân gỉ sét
Rồi bạn trả tiền
Và mang về

Nơi con mèo đen nhảy qua cái bếp lò lạnh tanh
Liếm liếm mấy sợi ria mép của nó
Khi nghe bạn kêu “Miu Miu”