|
L’Express:
Nền đạo hạnh nào, cho dù phiến diện,
theo ông, chúng ta có thể tái xây
dựng nó, cho thế kỷ mới mẻ này?
Steiner:
Thần học xưa kia là chỗ dựa của nền văn
hoá cao của chúng ta. Sau cùng, như chúng
ta thấy đấy, chính thần học, hay giả thuyết về một Thượng
Đế, đã củng cố những giá trị, kể cả những giá
trị thẩm mỹ. Nhưng, nếu con người ngày một bớt tin tưởng thì
càng cần phải tìm một nền đạo đức của con người, một nền
đạo đức không có Thượng Đế, không có Mười
Điều Răn, để giúp chúng ta. Phải tự nhủ với nhau, như
thế này: "Con người đơn độc trên trái đất, cùng
với loài vật, đó là tất cả những gì còn
lại với con người." Nếu không có kiếp sau, có thể
con người nên sáng tạo ra một nền đạo hạnh thế tục? Lại cũng
vẫn những nhà văn lớn chỉ cho chúng ta con đường. Ở cuối tác
phẩm Phận Người của André Malraux,
một trong hai tay Cộng sản, sắp sửa chết bằng một cái chết cực
kỳ ghê rợn, đã nhường viên thuốc độc (cyanure) cho
người kia, để giúp cho anh ta không phải chịu đau đớn. Anh
đã hành động bằng một đạo đức, theo đó, chính
con người phải trách nhiệm về cái phẩm giá tối hậu
của con người. Chúng ta có những cái nền, những nhà
tư tưởng về nỗi cô đơn trơ trọi của con người không Thượng
Đế, lẽ dĩ nhiên, trong đó có những triết gia vô
thần cổ điển lớn. (1)
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2017/02/hien-tuong-luan-ve-moi-quan-he-thay-tro.html#more
Ta là bọ chét
trong lông sư tử mà thôi
http://www.tanvien.net/cn/Steiner_PTH_dich.html
Trong Khi Chờ Tầu!
(không phải Tẫu)
Nhân đọc mẩu viết về “tầu
hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo
này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong Khi Chờ Godot, và đây
là dụng ý của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT LE TRAIN
MÉDITANT SUR TOLSTOI
ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner ouvre une
brève parenthèse pour souligner le role stratégique
des quais de gare chez ces deux auteurs. Leurs trajectoires, si souvent opposées
et dont Steiner s'applique à minorer les divergences, se trouvent
ainsi réunies, en attendant le train. II ne faudrait pas toutefois
en conclure que le roman russe s'apparente à l'indicateur Chaix
et encore moins à une littérature de gare, encore que lire
Guerre et Paix dans le Transsibérien
demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros
de Tolstoi comme ceux de Dostoievski aiment voyager par le train, Que
l'on songe à l'ouverture de L'ldiot, quand le
prince Muichkine et Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par
le train de Varsovie. Ou encore à la tragédie d'Anna Karénine
qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on le sait, part pour la guerre.
II existe d'autres destinations plus enviables. D'autant que le roman
russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses héros
vers de lointaines et mythiques frontières, là où
campent les Cosaques, les tribus du Caucase, les vieux-croyants du Don
et de la Volga. Le héros tolstoien s'évade volontiers à
la campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection
de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son
salut dans le royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des
Possédés conseillait ironiquement
de choisir plutôt en juin.
Quand, rompus de fatigue, les héros
restent à quai, c'est l'auteur qui part. Ainsi Tolstoi, abandonnant
au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les lieux de sa
jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui
est à ses trousses. « Je m'en vais dans la solitude»,
écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une
petite gare, à Astapovo, où il mourra en laissant sur
sa table de chevet deux livres, ultimes compagnons de voyage: Les Frères Karamazov et les Essais de Montaigne.
La Russie et l'Europe sont les deux patries
des auteurs russes. Tolstoi admirait Stendhal. De son coté, Dostoievski
avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif... Reconnaissant
sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à
Ivan Karamazov: « Je veux voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir
d'ici. Et pourtant, je sais que je ne trouverai qu'un cimetière
un très précieux cimetière, voilà ce que c'est!
» Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait
à Paris, Rome ou Vevey.
Indifférente à tant de transports,
l'Europe à longtemps consideré avec froideur et réticence
les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos,
l'absence de contraintes esthétiques, trop de vie, trop de pages.
Comment faire face aces « grands monstres informes », selon
la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a écrit pas moins
de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il se risqua
à bâtir une pièce de théatre en six actes.
Voulant rivaliser avec l'infinité, il faisait en sorte que le
dernier chapitre de chaque roman ménage un prélude à
l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit même
trois pour éviter de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent
jamais.+
(1) George Steiner, Tolstoi ou Dostoievski, traduit de l'anglais par Rose Celli,
réed, 10/18, 2004.
Suy tư về Tols và
Dos, trong 1 essay thần sầu, Steiner đi 1 đường mở ngoặc, ngắn, để
nhấn mạnh vai trò chiến thuật của những ga xe lửa ở hai tác
giả này.
Họ thường đi ngược nhau, nhưng quái lại sao, lại gặp nhau,
trong khi chờ tầu....
Theo ông, Lò Thiêu
bắt nghĩ “bi quan, tiêu cực” về con người?
Imre Kertész. L'Holocauste
est différent des autres génocides. Parce qu'il a
eu lieu au sein de la civilisation chrétienne. Ce qui est
arrivé a ruiné de manière spectaculaire toutes
les valeurs qui avaient cours jusqu'alors. C'est rare d'assister
à un traumatisme humain universel de cette nature.
Lò
Thiêu khác những cú diệt chủng khác,
bởi là vì nó là “con cưng” của tinh
thần, văn minh Ky Tô, nó huỷ diệt thật cụp lạc “gia
tài của mẹ”, có được từ trước cho tới bây giờ.
Le titre
de votre ouvrage, «l'Holocauste comme culture», n'est-il
pas provocateur?
Cái tít của
cuốn sách của ông, cực khiêu khích,
“Lò Thiêu như Văn Hoá”?
I. Kertész. En
1992, j'ai reçu une invitation de l'université
de Vienne pour un colloque sur Jean Améry [opposant au régime
nazi et rescapé d'Auschwitz qui s'est suicidé
en 1978]. Je n'avais jamais entendu son nom. Je me suis donc empressé
de lire plusieurs livres, que j'ai trouvés fantastiques.
J'ai pris le risque de dire qu'Auschwitz et l'Holocauste faisaient
totalement partie de notre culture, au même titre que notre
langue, notre musique, notre littérature. A ma grande surprise,
cet essai n'a pas été mal interprété,
ni mal accepté.
Quả
thế, nhưng thiên hạ coi bộ lại khoái, cái
ý tưởng, không phải nền văn minh sông Hồng
đưa đến Tận Thế là đây, với Mít, mà chính
là Cái Ác Bắc Kít.
Rõ ràng
là không có 1 tên Bắc Kít
nào tỏ ra bực bội về Tù Cải Tạo, thì Tù
Cải Tạo phải thuộc về văn hoá, văn minh sông
Hồng!
5.3.2017 by Richie
Ở cái tuổi 71 G. Steiner tỏ ra khinh
bạc hơn bao giờ hết.
Tớ chỉ là con bọ chét trong bộ lông sư
tử của ông thầy của tớ mà thôi.
GCC
Borges cho rằng, thầy với trò,
"nói 1 cách nào đó", là 1 người.
Gấu cũng tin như vậy.
Đây là ý niệm về Kẻ Kép, được
phóng chiếu, theo 1 đường hướng, hay tình trạng, hay
thời điểm nào đó.
Nhân đang nói chuyện
tình oan nghiệt, nửa kia, nửa khác, tình cờ
đọc bài sau đây, của Borges, thật tuyệt: The Double,
trong "Cuốn sách của những sinh vật tưởng tượng", The Book of
Imaginary Beings.
The Double
Suggested or stimulated by reflections
in mirrors and in water and by twins, the idea of the Double is common
to many countries. It is likely that sentences such as A friend is
another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means "double
walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man
to bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for
an apparition thought to be seen by a person in his exact image just
before death. To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad
"Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this theme.
There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met Themselves")
in which two lovers come upon themselves in the dusky gloom of a woods.
We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky,
Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The
Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
The ancient Egyptians believed
that the Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his
same walk and his same dress. Not only men, but gods and beasts, stones
and trees, chairs and knives had their ka, which was invisible except
to certain priests who could see the Doubles of the gods and were granted
by them a knowledge of things past and things to come.
To the Jews the appearance of
one's Double was not an omen of imminent death. On the contrary,
it was proof of having attained prophetic powers. This is how it is
explained by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells
the story of a man who, in search of God, met himself.
In
the story "William Wilson" by Poe, the Double is the hero's conscience.
He kills it and dies. In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel
stabs his portrait and meets his death. In Yeats’s poems the Double is
our other side, our opposite, the one who complements us, the one we
are not nor will ever become.
Plutarch
writes that the Greeks gave the name other self to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất, dẫn dụ, huých
huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp
song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc
trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí
là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư
tưởng Hãy Biết Mình của trường phái Platonic được
gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là
Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”.
Trong tiếng Scotland thì là từ fetch, cũng có nghĩa
là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này
đem cái chết đến cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng
Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn
chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô
hô ai tai!
Thành ra cái chuyện
“Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu
thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua,
quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát”
bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về
đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp
chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], hai
kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc
chạng vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"),
Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng,
Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích
thị của 1 con người, kẻ đối tác có cùng bước
đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người
mà thần thánh, thú vật, đá, cây,
ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình,
trừ một vài ông thầy tu là có thể nhìn
thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả
năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự
xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới
giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi
không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của
Gấu, như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi, là đã thấy
3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng,
thì đi thế đéo nào được?]. Ngược lại, họ tin đó
là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được
những quyền năng tiên tri. Ðó là cách
giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại
trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe,
Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong
truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo.
Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết
của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn
gặp gỡ Thần Chết. Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép
là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc,
hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không,
và sẽ chẳng bao giờ trở thành.
Plutarch viết, người Hy Lạp
gọi, “cái ngã khác”, bằng cái tên, viên
“đại sứ của hoàng đế”.
J.L. Borges
Ông bạn NTV, khi thấy GCC mê
Steiner, phán, mày phải có 1 cái gì
đó của Steiner, nên thầy trò nhận ra nhau liền,
trong khi tao đọc ông ta, từ thập niên 1960 khi còn
Sài Gòn của lũ Ngụy, khi cuốn Ngôn Ngữ và
Câm Lặng vừa ra lò, mà chẳng thấy ghê gớm
1 tí chó nào cả!
Thầy trò nhận ra nhau, là nhờ Cái Ác
Lò Thiêu & Cái Ác Bắc Kít.
Varga Llosa cũng khen cuốn Ngôn Ngữ và Câm
Lặng, nhưng sau cuốn đó, hết đọc được Steiner, mà ông
gọi là 1 thứ "enfant terrible".
UNDER EASTERN EYES
Dưới con
mắt Đông phương
Có một cái gì
đó mang tính quốc hồn quốc tuý,
đặc Nga ở trong đó, và nhất quyết không
chịu bỏ nước ra đi.
Khi dịch câu trên,
Gấu nghĩ đến Nguyễn Huy Thiệp, Văn Cao.
Nhất là NHT, và
câu chuyện do anh kể, “tớ” đã từng đi vượt
biên, nửa đường bỏ về, bị tay dẫn đường “xém”
làm thịt!
Nhớ luôn cả cái
tay phỏng vấn Gấu, và câu mở đầu cuộc
phỏng vấn, “off-record”, lần Gầu trở lại đất Bắc sau hơn nửa
thế kỷ xa cách:
Tôi cũng đi vượt biên,
mấy lần, mà không thoát.
Nhưng, nhớ, nhất, là,
Quê Người của Tô Hoài.
Bài viết này thật
là thần sầu.
Một cách nào đó,
Gấu bị lừa, vì một “thiên sứ” dởm, bởi
vậy, khi Chợ Cá vừa xuất hiện là Anh Cu
Gấu bèn cắp rổ theo hầu SCN liền tù tì.
Gấu đọc NHT là cũng
theo dòng “chuyện tình không suy
tư” như vậy: “chấp nhận” Tướng Về Hưu, "thông cảm" với
ông ta, sau khi góp phần xây dựng xong xuôi
Ðịa Ngục Ðỏ của xứ Mít, bèn về hưu, sống
nhờ đàn heo, đuợc vỗ béo bằng những thai nhi, của
cô con dâu Bắc Kít...
Lịch sử Nga là một lịch
sử của đau khổ và nhục nhã gần như không
làm sao hiểu được, hay, chấp nhận được. Nhưng cả
hai - quằn quại vì đau khổ, và ô nhục
vì hèn hạ - nuôi dưỡng những cội rễ một
viễn ảnh thiên sứ, một cảm quan về một cái gì
độc nhất vô nhị, hay là sự phán quyết sáng
ngời. Cảm quan này có thể chuyển dịch vào
một thành ngữ của “the Orthodox Slavophile”, với niềm tin
của nó, là, Nga là một xứ sở thiêng
liêng theo một nghĩa thật là cụ thể, chỉ có
nó, không thể có 1 xứ nào khác,
sẽ nhận được những bước chân đầu tiên của Chúa
Ky Tô, khi Người trở lại với trần gian. Hay, nó cũng
có thể được hoá thân vào trong chủ nghĩa
thế tục thiên sứ [chúng ông đều là Phù
Ðổng Thiên Vương cả đấy nhé, như anh VC Trần Bạch
Ðằng đã từng thổi mấy đấng Bộ Ðội Cụ Hồ], với niềm
tin, đòi hỏi sắt đá của CS về một xã hội tuyệt
hảo, về một rạng đông thiên niên kỷ của một công
lý tuyệt đối cho con người, và tất nhiên, tất
cả đều bình đẳng, hết còn giai cấp. Một cảm quan chọn lựa
thông qua khổ đau, vì khổ đau, là nét chung
của cảm tính Nga, với thiên hình vạn trạng dạng
thức của nó. Và điều đó còn có nghĩa,
có một liên hệ tam giác [không phải ‘ba ngôi’
nhe], giữa nhà văn Nga, độc giả của người đó, và
sự hiện diện đâu đâu cũng có của nhà nước,
cả ba quyện vào nhau, trong một sự đồng lõa quyết định.
Lần đầu tiên tôi mơ hồ nhận ra mùi đồng lõa
bộ ba này, lần viếng thăm Liên Xô, đâu đó
sau khi Stalin chết. Những người mà tôi, hay một ai
đó gặp, nói về cái sự sống sót của họ,
với một sự ngỡ ngàng chết lặng, không một khách
tham quan nào thực sự có thể chia sẻ, [trường hợp
sống sót nào cũng thuộc loại độc nhất vô nhị,
đại khái thế], nhưng cũng cùng lúc đó,
cùng trong giọng ngỡ ngàng câm nín đó,
lại ló ra một hoài niệm, tiếc nuối rất ư là kỳ
quái, rất ư là tế vi. Dùng cái từ “hoài
niệm” này thì quả là quá lầm lẫn! Nhưng quả
là như thế, tếu thế!
Họ không quên những
điều ghê rợn mà họ đã từng trải
qua, nhưng họ lại hàm ý rằng, ui chao, may
quá, những điều ghê rợn đó, chúng
tôi được Ðại Ác Nhân ban cho, được
một Hùm Xám thứ thiệt ban cho, chứ không
phải đồ gà chết!
Chúng tôi đã
được Bác H., một Ðại Ma Ðầu, trị vì,
chứ không phải thằng Thiệu, đồ Việt gian, đồ
Ngụy, đồ bán nước!
Văn Hóa vs Cái
Ác Bắc Kít
“Je suis une sorte de survivant,
tôi chỉ tạm coi mình cũng 1 thứ sống sót.
Steiner viết như vậy về ông,
là cũng từ cái ý thế kỷ bửn mà
không có tí cứt trên người, là
đếch có được!
Nhờ ông già khôn
như… Bắc Kít,
gia đình ông chạy kịp trên chuyến tầu chót
rời cựu lục địa qua Mẽo. Ông già của ông
sau đó, chắc cũng đau vì sống sót nhờ khôn
quá, khi ông con tính định cư luôn
ở Mẽo, bèn chửi, mi mà ở Mẽo thì thằng Hít
Le quá đúng rồi, quá có lý,
còn cái mẹ gì để mà nói nữa,
và ông con bèn ngộ ra liền, bèn về lại
Âu Châu, quanh quẩn bên mớ tro than Lò
Thiêu.
Cái cú gia đình
Steiner thoát Lò Thiêu vào
phút chót, gần như 1 phép lạ, như ông
kể với tờ The Paris Review, (1) làm Gấu nhớ đến “phép
lạ Mỹ Cảnh”: Giả như Gấu, vào phút chót
không bật ra cái ý nghĩ, nhường cho
hai ông bạn người Phi hai ghế trong, quay lưng vào
bờ, nhìn ra sông Sài Gòn về đêm
với ánh đèn chói lòa tung tăng
trên sóng nước, thì đâu còn
anh cu Gấu ở trên đời nữa?
Và nếu không được
VC thưởng cho hai trái mìn, thì
Gấu dính cú Tổng Động Viên, và có
thể cũng mất xác rồi cũng nên, hà hà!
Y chang chuyện tái ông
thất mã!
Ly kỳ nhất, là cái
lần đầu đi trình diện, gặp tay y bác sĩ
quân y, ông ta coi cái hình cánh
tay bị thương của Gấu, phán, đi.
Gấu cũng nghĩ thế, đi thì
đi, sợ gì, nhưng Tết đến đít rồi, thế là
Gấu bèn trả lời, OK, đi, nhưng ông cho tôi
ăn Tết với gia đình 1 phát, rồi ra Giêng
ngày rộng tháng dài, tha hồ mà đi.
Ông ta bật cười, gật đầu,
và cho Gấu hoãn dịch 3 tháng.
Thế là những lần sau,
mấy ông y sĩ khác bắt chước ông thứ
nhất, cho mày 3 tháng!
|
|