Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám,
1937
Kinh
Môn,
Hải
Dương
[Bắc
Việt]
Quê
Sơn
Tây
[Bắc
Việt]
Vào
Nam
1954
Học
Nguyễn
Trãi
[Hà-nội]
Chu Văn An,
Văn
Khoa
[Sài-gòn]
Trước
1975
công
chức
Bưu
Điện
[Sài-gòn]
Tái
định
cư năm
1994
Canada
Đã
xuất
bản
Những
ngày
ở Sài-gòn
Tập
Truyện
[1970,
Sài
Gòn,
nhà
xb
Đêm
Trắng
Huỳnh
Phan Anh
chủ
trương]
Lần
cuối,
Sài-gòn
Thơ,
Truyện,
Tạp luận
[Văn
Mới,
Cali.
1998]
Nơi
Người
Chết
Mỉm Cười
Tạp
Ghi
[Văn
Mới,
1999]
Nơi
dòng
sông
chảy
về phiá
Nam
[Sài
Gòn
Nhỏ, Cali,
2004]
Viết
chung
với
Thảo
Trần
Chân
Dung
Văn Học
[Văn
Mới,
2005]
Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy,
được
chuyển
qua Nhật
Ký
Tin Văn,
và
chuyển
về
những
bài
viết
liên
quan.
*
Một
khi
kiếm,
không
thấy
trên
Nhật
Ký,
index:
Kiếm
theo
trang
có
đánh
số.
Theo
bài
viết.
Theo
từng
mục, ở đầu
trang
Tin Văn.
Email
Nhìn
lại
những
trang
Tin
Văn
cũ
1
2
3
4
5
Bản quyền Tin Văn
*
Tất
cả bài
vở
trên
Tin Văn,
ngoại
trừ
những
bài
có
tính
giới thiệu,
chỉ để sử
dụng cho
cá
nhân
[for
personal
use],
xài
thoải
mái
[free]
Liu
Xiaobo
Elegies
Nobel
văn
chương
2012
Anh
Môn
Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz
IN MEMORIAM
W. G. SEBALD
http://tapchivanhoc.org
|
Gấu trong lễ tuyên thệ trở thành công dân Canada
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/01/van-chuong-mien-nam-giua-chung.html
Còn lại một việc nữa: văn chương
miền Nam đâu có dừng lại ở năm 1975. Đây mới là
điều huyền bí nhất. Tất nhiên là không thể như
vậy được. Giờ, ta cần xác định, đâu là những cột trụ
quan trọng nhất để nói đến một sự bảo toàn cho di sản văn
chương miền Nam. Với tôi, hiển nhiên không thể là
Võ Phiến, nhưng hiển nhiên phải là các nhân
vật từng hết sức quan trọng ở giai đoạn văn chương miền Nam trước 1975.
Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh chính yếu của họ lại nằm ở
đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó hiểu và khó
nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người ra đi ngay từ đầu,
ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người đã, ngược hẳn
lại với Viên Linh, không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra đi vào khoảng
giữa. Đó chính là Nguyễn Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi đến cái ngày,
ngoài việc được viết về một số người khác, được nói
đến đối thủ lâu năm của tôi, Mr Tin Văn Nguyễn Quốc Trụ.
Happy Birthday to U, me-xừ Gấu!
Tks All
Cái ký họa của NTK, là từ cái hình
gửi cho anh, để làm bìa
Nơi người chết mỉm cười 1998
Album
2004
Thơ
Mỗi Ngày
Note:
Tháng Ba, mỗi bài thơ, trong
"thơ mỗi ngày", sẽ được coi như một, cái gì
gì, bi khúc, mộ đài, theo cái nghĩa mà
NL sử dụng, khi viết về thơ TTT!
MILONGA OF THE DEAD MAN
I dreamed it inside this house
in between walls and doors.
God allows man to dream
things that are surely true.
I dreamed it out at sea
among floating islands of ice.
May we be told the rest
by hospitals and tombs.
One of so many provinces
of the interior was his land.
(It is not worth our knowing
that people die in war.)
They took him out of the barracks,
put weapons in his hands
and then gave him the order
to die among his brothers.
He acted with great discretion,
he talked to himself at length.
At one and the same time
they gave him a gun and a cross.
He heard the vain harangues
of the vain generals.
He saw what he'd never seen,
blood on the sandy ground.
He heard the people shouting
Long live! and Let them die!
All he wanted to know
was whether or not he was brave.
He knew it the very instant
the bullet entered his body.
He said I wasn't afraid
as life abandoned him.
His death was a secret victory.
No one should be surprised
that I feel envy and sorrow
for that man's destiny.
-S.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
The milonga is a forerunner of the tango, dating
from the 1870's. According to one authority, Ventura R. Lynch,
it was invented by Buenos Aires hoodlums ( compadritos) as
a parody of Negro dances; Vicente Rossi, in his book Cosas de
negros, claims the milonga originated out
on the edges of Montevideo. The first milongas were danced.
[in Jorges Luis Borges Selected Poems 1923-1967]
[Milonga là 1 điệu nhảy đàn anh của
tango]
Milonga của người đàn ông
đã chết
Tớ mơ nó ở bên trong căn nhà này
Giữa tường, giữa cửa
Chúa cho phép con người mơ
Những điều có thực
Tớ mơ nó ở ngoài biển
Giữa băng giữa đảo
Cầu cho cái còn lại
Thì được kể
Ở nơi nhà thương
Hoặc bên những nấm mồ
Một trong rất nhiều tỉnh lỵ
Là đất cát của hắn ta
(Rằng, cái sự hiểu biết của chúng ta,
Làm người thì phải chết ở nơi trận tiền
Đường ra trận mùa này đẹp lắm cái
con mẹ gì đó,
Cái đó chẳng đáng kể)
Chúng tóm hắn ta ra khỏi Trung Tâm
Ba Quang Trung
Nhét khí giới vào tay
Ra lệnh mi phải chết
Cùng những kẻ đồng hội đồng thuyền
Tức lũ Ngụy
Hắn hành động 1 cách rất ư là
nghiêm túc
Hắn lèm bèm với chính hắn
Cùng lúc đó
Chúng trao cho hắn 1 khẩu súng và
1 cây thánh giá
Hắn nghe lũ tướng tá Ngụy la lối om xòm
Lũ vô ích, vô tích sự
Hắn nhìn những gì chưa từng nhìn
Máu chảy dài trên cát
Hắn nghe người ta hô, muôn năm, muôn
năm, muốn nằm!
Và, hãy để cho chúng chết!
Tất cả những gì hắn muốn biết
Là,
Mình can đảm
Hay là hèn nhát
Hà, hà!
Thế rồi vào đúng lúc, đúng
lúc, đúng lúc đó
Viên đạn đợp hắn 1 phát
Hắn phán, nè, tao đéo có
sợ, nghe chưa!
Và đời bèn rời bỏ hắn ta.
Cái chết của hắn là một niềm vinh quang
bí mật
Đừng đứa nào làm ra vẻ ngạc nhiên
Rằng Gấu Cà Chớn
Thèm được như hắn ta
Thèm cái số phận được chết kịp
Ở trong cuộc chiến chó đẻ đó!
Về sau này, gần đây, Đặng Tiến
rất tích cực quảng bá bài viết của mình
về Thanh Tâm Tuyền. Nhưng, Đặng Tiến, đã chối bỏ tư
cách nhà phê bình của mình, đâu
có đủ tư cách để bàn về thơ Thanh Tâm
Tuyền?
Blog NL
Bó thân về với triều đình
Bài của Thảo Trường về TTT
có chi tiết sai: "Quán cháo lú" là
truyện của Lê Văn Siêu in trên ST số 1, chứ không
phải của Vũ Khắc Khoan.
NL .
Tks.
TT/NQT
*
Ngoài ông Đặng Tiến, có chị Thụy Khuê
đã viết về "Cấu trúc thơ Thanh Tâm Tuyền", nhưng
những ý tưởng cuả GNV thì khác hai người trên,
ông nói về chất "nam tính", những "dự cảm" tai
ương hay "báo bão" cho một sự sụp đổ... rất hay và
rất đúng (theo cách nhìn của … [tôi]. Cũng
như có độc giả đã cho rằng họ cảm ra được cái dự
cảm, báo bão cho một toàn cầu hoá trong "Amers"
của St. John Perse. Đó không chỉ
là tài hoa văn chương, mà còn là
cái tầm nhìn, cái mũi của loài... "cô
độc" (chẳng biết dùng từ gì, nên tôi phang đại
vậy), như Xuân Diệu "nghếch mũi lên trên trăm triệu
năm / thở lại những mùa xuân cũ" chơi, những khi ông
ta quá oải (tôi đoán mò vậy)…
[...]
Sau
này, khi có ai học thơ TTT, muốn trích dẫn ông,
họ không có nguồn để dẫn. Sách là nguồn
dẫn, không ai lại nói "theo ông GNV ở trang web
Tin Văn (nay đã không còn), Thanh Tâm Tuyền
là một cánh chim báo bão", ví dụ.
Tks. NQT
TTT thực sự không có bạn. Trong đám
ST, ông chỉ thân với Ngọc Dũng, nhưng ND không phải
là nhà văn.
Sau này, ông thân với Đinh Cường, cũng
họa sĩ, tuy viết lách làm thơ lai rai.
Khi DC nằm xuống, Gấu tính đi 1 đường thật dài
về ông, cùng lúc đọc Walser, cuốn Nhìn
Tranh, trên.
GCC cũng không có bạn.
Nhưng lại có những vị bằng hữu hiểu Gấu hơn cả Gấu
hiểu Gấu, và đều là những vì nữ lưu, và
đều dân Huế cả.
Chưa kể vị Dã Viên, đực rựa, Huế.
Vị này hiểu Gấu, khác hai vị kia.
Hai vị Huế hiểu Gấu, có gì tương tự với Bà
Trẻ của Gấu.
Bà Trẻ của Gấu có lần nhận xét, mi
tu được đấy, thực phẩm trần gian không màng, nhưng lại
lụy vì tình!
Note: Nói tới Huế, tình cờ đọc mấy câu thơ
của CTC
của những ngày mưa mọc lên từ đất
có ai buồn bỏ Huế ra đi
nghe dòng sông thở giữa đêm hè
nghe đá nổi rùa kêu trong từng khúc
ruột.
Thương cả hai người, em với bóng
chiều vàng nghiêng nón lá qua sông
để giọng hò em mát mái xuôi dòng
người ta đã xây bến đò Thừa Phủ.
người ta đã xây bến đò
Thừa Phủ.
Đây là câu thơ 'hiện thực', nhưng "không
có không được", nó "đảm bảo" cho những hình
ảnh ở trên.
Theo nghĩa của Lukacs, khi viết về "ý thức tiểu thuyết
gia vượt ý thức nhân vật", để tìm lại đời sống
thực, đời sống mất đi tìm lại được.
Đám "tiểu thuyết mới", theo đó, định nghĩa: Đọc,
là treo lửng thời gian. Là "tạm ngưng" sống.
Cũng theo nghĩa đó, Nabokov gọi, mỗi cuốn tiểu thuyết,
là một câu chuyện thần tiên.
Đọc, là lạc vào thế giới đó.
Đọc đến câu chót, là lúc Lưu Nguyễn
về trần!
Câu thơ cuối, người ta đã xây bến đò
Thừa Phủ, đẩy những hình ảnh, cảm xúc, "thương cả
hai người", "chiều vàng nghiêng nón".... lên
đến đỉnh cao của chúng.
*
Trong bài thơ Dạ Vũ Ký Bắc, chẳng hạn,
ước muốn - gặp lại bạn, kể cho bạn nghe, về cái đêm mưa
- đảm bảo bài thơ:
Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì
Dạ Vũ Ký Bắc
Theo nghĩa đó, câu kết thúc Bếp Lửa,
nghe rất cải lương, nhưng lại rất ư thực, rất ư cảm động, ấy là
vì, không gian, khí hậu, nội dung câu chuyện
- 'miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi
và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc
cái chết': Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù - đảm
bảo nó:
Anh yêu quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Đây là phần đảo của "định lý" Lukacs.
Thuận: Nếu cả cuốn sách là ảo, thì câu
cuối phải là thực.
Đảo: Câu chót ảo, cải luơng, thì cả cuốn
sách phải thực.
Cái cải lương mùi mẫn này là 'evidence',
chứng cớ, đảm bảo, những suy nghĩ, hành động, nỗi đau, cái
ý thức khốn khổ... của những nhân vật trong Bếp
Lửa, là có thực.
Bài viết Bếp Lửa trong văn chương, trong số Văn
đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền [1973], là dựa trên
"định lý" Lukacs, trong Lý Thuyết về Tiểu thuyết, La
Théorie du Roman, như được tóm tắt ở trên. (1)
Vào thời điểm đó, người viết không thể nào
cảm nhận ra được, câu văn chót kết thúc Bếp
Lửa, lại là tiếng nói của những người Việt lưu vong,
vọng về trong nước:
Anh yêu quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Câu nói đó, là của bao nhiêu
năm sau này, của bao nhiêu con người đã sống sốt
cuộc chiến, sống sót cuộc bỏ chạy, sống sót biển cả, sống
sót cuộc hội nhập nơi xứ người - như tiếng chuông xe đạp
leng keng - vọng về Quê Nhà.
-Nghe thấy rồi!
P.V. DỞM
(1) "Định lý" Lukacs: "Con đường tận cùng, cuộc
hành trình bắt đầu" (Le chemin est fini, le voyage est
commencé).
Lưu vong và Tiểu thuyết
SN_GCC_2017
https://www.facebook.com/quoc.t.nguyen.1/posts/10203076695274741
5.3.2017 by Richie
Ở cái tuổi 71 G. Steiner tỏ
ra khinh bạc hơn bao giờ hết.
Tớ chỉ là con bọ chét trong bộ lông sư
tử của ông thầy của tớ mà thôi.
GCC
Borges cho rằng, thầy với trò,
"nói 1 cách nào đó", là 1 người.
Gấu cũng tin như vậy.
Đây là ý niệm về Kẻ Kép, được
phóng chiếu, theo 1 đường hướng, hay tình trạng, hay
thời điểm nào đó.
Nhân đang nói chuyện
tình oan nghiệt, nửa kia, nửa khác, tình cờ
đọc bài sau đây, của Borges, thật tuyệt: The Double,
trong "Cuốn sách của những sinh vật tưởng tượng", The Book of
Imaginary Beings.
The Double
Suggested or stimulated by reflections
in mirrors and in water and by twins, the idea of the Double is common
to many countries. It is likely that sentences such as A friend is
another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means "double
walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man
to bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for
an apparition thought to be seen by a person in his exact image just
before death. To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad
"Ticonderoga" by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this theme.
There is also the strange picture by Rossetti ("How They Met Themselves")
in which two lovers come upon themselves in the dusky gloom of a woods.
We may also cite examples from Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky,
Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The
Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
The ancient Egyptians believed
that the Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his
same walk and his same dress. Not only men, but gods and beasts, stones
and trees, chairs and knives had their ka, which was invisible except
to certain priests who could see the Doubles of the gods and were granted
by them a knowledge of things past and things to come.
To the Jews the appearance of
one's Double was not an omen of imminent death. On the contrary,
it was proof of having attained prophetic powers. This is how it is
explained by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells
the story of a man who, in search of God, met himself.
In
the story "William Wilson" by Poe, the Double is the hero's conscience.
He kills it and dies. In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel
stabs his portrait and meets his death. In Yeats’s poems the Double is
our other side, our opposite, the one who complements us, the one we
are not nor will ever become.
Plutarch
writes that the Greeks gave the name other self to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất, dẫn dụ, huých
huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp
song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc
trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí
là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư
tưởng Hãy Biết Mình của trường phái Platonic được
gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là
Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”.
Trong tiếng Scotland thì là từ fetch, cũng có nghĩa
là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này
đem cái chết đến cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng
Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn
chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô
hô ai tai!
Thành ra cái chuyện
“Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu
thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua,
quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát”
bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về
đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp
chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], hai
kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc
chạng vạng. Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's
Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"),
Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng,
Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích
thị của 1 con người, kẻ đối tác có cùng bước
đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người
mà thần thánh, thú vật, đá, cây,
ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình,
trừ một vài ông thầy tu là có thể nhìn
thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả
năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự
xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới
giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi
không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của
Gấu, như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi, là đã thấy
3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng,
thì đi thế đéo nào được?]. Ngược lại, họ tin đó
là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được
những quyền năng tiên tri. Ðó là cách
giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại
trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe,
Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong
truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo.
Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết
của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn
gặp gỡ Thần Chết. Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép
là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc,
hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không,
và sẽ chẳng bao giờ trở thành.
Plutarch viết, người Hy Lạp
gọi, “cái ngã khác”, bằng cái tên, viên
“đại sứ của hoàng đế”.
J.L. Borges
Ông bạn NTV, khi thấy GCC mê
Steiner, phán, mày phải có 1 cái gì
đó của Steiner, nên thầy trò nhận ra nhau liền,
trong khi tao đọc ông ta, từ thập niên 1960 khi còn
Sài Gòn của lũ Ngụy, khi cuốn Ngôn Ngữ và
Câm Lặng vừa ra lò, mà chẳng thấy ghê gớm
1 tí chó nào cả!
Thầy trò nhận ra nhau, là nhờ Cái Ác
Lò Thiêu & Cái Ác Bắc Kít.
Varga Llosa cũng khen cuốn Ngôn Ngữ và Câm
Lặng, nhưng sau cuốn đó, hết đọc được Steiner, mà ông
gọi là 1 thứ "enfant terrible".
Valentine's
Day
Anticipation of love
Neither the intimacy of your
look, your brow fair as
a feast day,
nor the favor of your body, still mysterious, reserved,
and childlike,
nor what comes to me of your life, settling in words
or silence,
will be so mysterious a gift
as the sight of your sleep, enfolded
in the vigil of my arms.
Virgin again, miraculously, by the absolving power of
sleep,
quiet and luminous like some happy thing recovered
by memory,
you will give me that shore of your life that you
yourself do not own.
Cast up into silence
I shall discern that ultimate beach of your being
and see you for the first time, perhaps,
as God must see you-
the fiction of Time destroyed,
free from love, from me.
[Robert Fitzgerald]
J.L. Borges: Selected Poems 1923-1967
A Bilingual ed by Norman Thomas Di Giovanni
Đường vào tình yêu
Không phải vẻ thân
mật, riêng tư của cái nhìn, cặp lông mi
ngày hội của em
Không phải mùi cơ thể của em, tuy vưỡn bí
hiểm, vưỡn dành riêng cho anh, và vưỡn muôn
đời trẻ thơ
Không phải điều đến với anh, từ em, bằng lời, hay
bằng im lặng
Sẽ cực kỳ bí ẩn, như một món quà
Khi nhìn thấy em ngủ,
Cuộn tròn, thánh thiện, như thiên thần,
như thánh nữ - của bạn Cà - trong tay anh
Thánh nữ, again, như lời
kinh, bằng cái quyền uy thấm nhập của giấc ngủ
lặng lẽ, long lanh, như một điều “gọi là” hạnh phúc,
được tìm thấy lại, từ hồi nhớ
Em sẽ cho anh bến bờ đó của đời em, mà em,
chính em, không sở hữu.
Nhập vào im lặng
Anh sẽ nhận ra bãi biển tối hậu của sự hiện hữu
là em
Và sẽ nhìn thấy em lần đầu, có lẽ,
Như Ông Giời phải, bắt buộc phải, chiêm ngưỡng
em, như thế -
Giả tưởng của Thời Gian bị hủy diệt
Vô tư thoát ra khỏi tình yêu
Thoát ra khỏi anh.
Thơ Mỗi Ngày
MY WHOLE LIFE
Here once again the memorable
lips, unique and like yours.
I am this groping intensity that is a soul.
I have got near to happiness and have stood in the shadow
of suffering.
I have crossed the sea.
I have known many lands; I have seen one woman and two
or three men.
I have loved a girl who was fair and proud, with a Spanish
quietness.
I have seen the city's edge, an endless sprawl where the
sun
goes down tirelessly,
over and over.
I have relished many words.
I believe deeply that this is all and that I will neither
see
nor accomplish new
things,
I believe that my days and my nights, in their poverty
and
their riches, are
the equal of God's and of all men's.
[W. S. Merwin]
MA VIE ENTIÈRE
Me voici encore, les lèvres
mémorables, unique et semblable à vous.
J'ai persévéré dans l'à-peu-près
du bonheur et dans l'intimité de la peine.
J'ai traversé la mer.
J'ai connu bien des pays; j'ai vu une femme et deux ou
trois hommes.
J'ai aimé une enfant altière et blanche et
d'une hispanique
quiétude.
J'ai vu d'infinies banlieues ou s'accomplit sans s'assouvir
une immortalité de couchants.
J'ai gouté à de nombreux mots.
Je crois profondément que c'est tout et que je ne
verrai ni
ne ferai de nouvelles choses.
Je crois que mes journées et mes nuits
égalent en pauvreté comme en richesse celles
de Dieu et
celles de tous les hommes.
[Ibarra]
Trọn đời Gấu
Lại là tôi, ở
đây, đôi môi gợi nhớ, độc nhất và như của em
Đắm đuối nơi “xém một tí” hạnh phúc,
và, trong bóng của sự đau khổ
Tôi đi hết biển [đếch thấy xứ Mít]
Tôi biết nhiều xứ sở;
tôi nhìn thấy 1 người đàn bà, và hai
hoặc ba người đàn ông
Tôi yêu một cô gái kiêu
sa, trầm lắng Tây Ban Nha
Tôi đã nhìn thấy mép bờ thành
phố,
một cõi bao la trải dài, nơi mặt trời lặn,
lặn hoài,
không mệt mỏi.
Tôi nếm đi nếm lại rất nhiều từ
Tôi nghĩ như vậy là quá đủ, chẳng cần
thêm gì nữa.
Tôi tin tưởng, những ngày, những đêm
của tôi, trong cái sự khốn cùng cũng như giầu sang
của chúng,
thì chẳng thua gì, của Thượng Đế, và
của tất cả mọi người.
Osip
Mandelstam
The Voronezh Notebooks survived
by a miracle, or rather through the extraordinary
determination of Nadezhda Mandelstam. In exile and
poverty, under persecution and in isolation, his manuscripts
hidden in teapots, shared out with friends, nightly renewed
in the fragile casket of her human, fallible recall, she
made it her life's work to preserve her husband's poetry.
Intro
Steiner
L’Express:
Nền đạo hạnh nào, cho dù phiến diện,
theo ông, chúng ta có thể tái xây
dựng nó, cho thế kỷ mới mẻ này?
Steiner:
Thần học xưa kia là chỗ dựa của nền văn
hoá cao của chúng ta. Sau cùng, như chúng
ta thấy đấy, chính thần học, hay giả thuyết về một Thượng
Đế, đã củng cố những giá trị, kể cả những giá
trị thẩm mỹ. Nhưng, nếu con người ngày một bớt tin tưởng thì
càng cần phải tìm một nền đạo đức của con người, một nền
đạo đức không có Thượng Đế, không có Mười
Điều Răn, để giúp chúng ta. Phải tự nhủ với nhau, như
thế này: "Con người đơn độc trên trái đất, cùng
với loài vật, đó là tất cả những gì còn
lại với con người." Nếu không có kiếp sau, có thể
con người nên sáng tạo ra một nền đạo hạnh thế tục? Lại cũng
vẫn những nhà văn lớn chỉ cho chúng ta con đường. Ở cuối tác
phẩm Phận Người của André Malraux,
một trong hai tay Cộng sản, sắp sửa chết bằng một cái chết cực
kỳ ghê rợn, đã nhường viên thuốc độc (cyanure) cho
người kia, để giúp cho anh ta không phải chịu đau đớn. Anh
đã hành động bằng một đạo đức, theo đó, chính
con người phải trách nhiệm về cái phẩm giá tối hậu
của con người. Chúng ta có những cái nền, những nhà
tư tưởng về nỗi cô đơn trơ trọi của con người không Thượng
Đế, lẽ dĩ nhiên, trong đó có những triết gia vô
thần cổ điển lớn. (1)
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2017/02/hien-tuong-luan-ve-moi-quan-he-thay-tro.html#more
Ta là bọ chét trong
lông sư tử mà thôi
http://www.tanvien.net/cn/Steiner_PTH_dich.html
Trong Khi Chờ Tầu!
(không phải Tẫu)
Nhân đọc mẩu viết về “tầu
hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn nhớ tới số báo
này.
Bài "édito" thật tuyệt.
Cái tít làm nhớ đến Beckett, Trong Khi Chờ Godot, và đây
là dụng ý của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT LE TRAIN
MÉDITANT SUR TOLSTOI
ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner ouvre une
brève parenthèse pour souligner le role stratégique
des quais de gare chez ces deux auteurs. Leurs trajectoires, si souvent opposées
et dont Steiner s'applique à minorer les divergences, se trouvent
ainsi réunies, en attendant le train. II ne faudrait pas toutefois
en conclure que le roman russe s'apparente à l'indicateur Chaix
et encore moins à une littérature de gare, encore que lire
Guerre et Paix dans le Transsibérien
demeure un projet séduisant. Et cohérent. Les héros
de Tolstoi comme ceux de Dostoievski aiment voyager par le train, Que
l'on songe à l'ouverture de L'ldiot, quand le
prince Muichkine et Rogojine approchent de Saint-Pétersbourg par
le train de Varsovie. Ou encore à la tragédie d'Anna Karénine
qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on le sait, part pour la guerre.
II existe d'autres destinations plus enviables. D'autant que le roman
russe profite de l'immensité de l'espace pour pousser ses héros
vers de lointaines et mythiques frontières, là où
campent les Cosaques, les tribus du Caucase, les vieux-croyants du Don
et de la Volga. Le héros tolstoien s'évade volontiers à
la campagne, et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection
de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa part, cherche son
salut dans le royaume de Dieu, improbable destination que l'auteur des
Possédés conseillait ironiquement
de choisir plutôt en juin.
Quand, rompus de fatigue, les héros
restent à quai, c'est l'auteur qui part. Ainsi Tolstoi, abandonnant
au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver les lieux de sa
jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il voulait semer la mort qui
est à ses trousses. « Je m'en vais dans la solitude»,
écrit-il dans ses Carnets. Pour terminus, une
petite gare, à Astapovo, où il mourra en laissant sur
sa table de chevet deux livres, ultimes compagnons de voyage: Les Frères Karamazov et les Essais de Montaigne.
La Russie et l'Europe sont les deux patries
des auteurs russes. Tolstoi admirait Stendhal. De son coté, Dostoievski
avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac, Sue, Restif... Reconnaissant
sa dette envers la culture européenne, il faisait dire à
Ivan Karamazov: « Je veux voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir
d'ici. Et pourtant, je sais que je ne trouverai qu'un cimetière
un très précieux cimetière, voilà ce que c'est!
» Quant à Gogol, il trouva sa Russie alors qu'il pérégrinait
à Paris, Rome ou Vevey.
Indifférente à tant de transports,
l'Europe à longtemps consideré avec froideur et réticence
les auteurs russes, On leur reprocha une débauche de pathos,
l'absence de contraintes esthétiques, trop de vie, trop de pages.
Comment faire face aces « grands monstres informes », selon
la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a écrit pas moins
de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal d'inspiration, il se risqua
à bâtir une pièce de théatre en six actes.
Voulant rivaliser avec l'infinité, il faisait en sorte que le
dernier chapitre de chaque roman ménage un prélude à
l'oeuvre prochaine. II refusait de mettre un point final, et en mit même
trois pour éviter de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature russe : les trains qui la traversent ne s'arrêtent
jamais.+
(1) George Steiner, Tolstoi ou Dostoievski, traduit de l'anglais par Rose Celli,
réed, 10/18, 2004.
Suy tư về Tols và
Dos, trong 1 essay thần sầu, Steiner đi 1 đường mở ngoặc, ngắn, để
nhấn mạnh vai trò chiến thuật của những ga xe lửa ở hai tác
giả này.
Họ thường đi ngược nhau, nhưng quái lại sao, lại gặp nhau,
trong khi chờ tầu....
Theo ông, Lò Thiêu
bắt nghĩ “bi quan, tiêu cực” về con người?
Imre Kertész. L'Holocauste
est différent des autres génocides. Parce qu'il a
eu lieu au sein de la civilisation chrétienne. Ce qui est
arrivé a ruiné de manière spectaculaire toutes
les valeurs qui avaient cours jusqu'alors. C'est rare d'assister
à un traumatisme humain universel de cette nature.
Lò
Thiêu khác những cú diệt chủng khác,
bởi là vì nó là “con cưng” của tinh
thần, văn minh Ky Tô, nó huỷ diệt thật cụp lạc “gia
tài của mẹ”, có được từ trước cho tới bây giờ.
Le titre
de votre ouvrage, «l'Holocauste comme culture», n'est-il
pas provocateur?
Cái tít của
cuốn sách của ông, cực khiêu khích,
“Lò Thiêu như Văn Hoá”?
I. Kertész. En
1992, j'ai reçu une invitation de l'université
de Vienne pour un colloque sur Jean Améry [opposant au régime
nazi et rescapé d'Auschwitz qui s'est suicidé
en 1978]. Je n'avais jamais entendu son nom. Je me suis donc empressé
de lire plusieurs livres, que j'ai trouvés fantastiques.
J'ai pris le risque de dire qu'Auschwitz et l'Holocauste faisaient
totalement partie de notre culture, au même titre que notre
langue, notre musique, notre littérature. A ma grande surprise,
cet essai n'a pas été mal interprété,
ni mal accepté.
Quả
thế, nhưng thiên hạ coi bộ lại khoái, cái
ý tưởng, không phải nền văn minh sông Hồng
đưa đến Tận Thế là đây, với Mít, mà chính
là Cái Ác Bắc Kít.
Rõ ràng
là không có 1 tên Bắc Kít
nào tỏ ra bực bội về Tù Cải Tạo, thì Tù
Cải Tạo phải thuộc về văn hoá, văn minh sông
Hồng!
RAYMOND
CARVER
RC đọc Anton Chekhov. Và
ở Chekhov, ông tìm ra vị thầy. Vị thầy này đã
từng viết cho 1 người quen, "Bạn biết không, đâu có
bắt buộc phải viết về những con người khác thường". RC xoáy
vào cái việc kể cuộc sống [sự hiện hữu] của những con
người chẳng đòi hỏi điều gì lớn lao, vậy mà cũng
đếch có được [1 điều gì bé tí!]. Vào
thế kỷ 19, Thoreau viết, đa số sống những cuộc sống thất vọng trong thầm
lặng, « La plupart des
hommes vivent des vies de désespoir tranquille. » RC viết
về sự thất vọng thầm lặng của những nhân vật mong một điều gì
đó xẩy ra trong đời họ, nhưng biết tỏng ra rằng sẽ đếch có
gì xẩy ra!
Có Hemingway trong RC, điều cũng chẳng có gì
là ngạc nhiên, bởi vì ngoài cái
chuyện tiểu sử có tí giông giống giữa hai người,
RC đã đọc Ngư
Ông và Biển Cả, như tất cả những người cùng
thế hệ của ông. Và Hemingway đã từng viết 1 truyện
ngắn tuyệt cú mèo, thứ thật “pur” [ròng], Con sông có trái tim
kép, La Rivière au coeur double,
kể, một người đàn ông
đi câu. Độc giả chúng ta bèn nghĩ tới cái
truyện ngắn, có cái tít nổ như.... văn của Sến,
[ngửi khói hàng xóm đủ no, dù có rũ
bụi tôi cũng đéo làm quen, tôi không thể
gỡ cái hình tên Ngụy bắn Cách Mạng ra khỏi não..
]: Chẳng ai nói cái đéo gì hết,
Personne ne disait rien.
Cái truyện
ngắn thần sầu của RC, Béo
[Mập], được Enright khen hết lời, cũng được hai tác giả
Thư Mẽo nhắc tới.
Truyện ngắn thôi, TV post ở đây, sẽ dịch sau, cũng 1 cách
khuyến mãi "giùm" 1 vị BVVC!
Enright viết:
Như tất cả những truyện ngắn
của RC, Fat có vẻ đơn giản. Một cô bồi bàn không
được nêu tên, kể với cô bạn, Rita, về chuyện phục
vụ 1 ông khách mập. Cô thích thằng chả, dù
phì lũ. Cô thích phục vụ ông ta. Cuộc quen
của họ mặc dù bình thường, ngắn ngủi, và chỉ có
tính giao tiếp, hình thức, nhưng thật là dịu dàng
- và, như một truyện tình, nó xuất hiện là
để chửi bố cái thế giới loài người còn lại vây
quanh nó!
Ui chao, đọc 1 phát, là Gấu nghĩ ngay đến truyện ngắn của... Gấu Cái!
Cái thứ truyện ngắn “viết như không viết”, về
cái mảnh đất thần tiên Tara không còn nữa,
hóa ra y hệt thứ truyện ngắn của RC: đầu vào thì nhỏ
xíu như vết muỗi chích, như cái xước da, nhưng đầu
ra, là hậu quả của cả 1 cuộc chiến tàn nhẫn, dã man...
Thảo nào H/A phán, hay hơn cả Cô Tư, vì
nó rất tự nhiên.
Cái gọi là tự nhiên, là cái
viết mà như không viết, nhưng, để có được như vậy,
là nhờ cái nền của nó, là cái xã
hội Ngụy, bị VC kết án tử.
Một tí tỉ tì ti tình mà cô
bồi bàn cảm thấy – cái khoảnh khắc mà cô
gật gù, thằng chả mập này cũng đường được - mới nhức nhối
làm sao, khi, sau đó, vào buổi tối, khi cô ở
trên giường với Rudy, bạn trai của cô: Đúng là
cái cảm tưởng, lén chồng, lên sân thượng “ngắm
trăng sao", của người đàn bà ngoại tình của Camus:
giá mà có tí ti thay đổi, nhỉ?
Raymond Carver's 'Fat' is simple
but deadly, says Anne Enright
Giản dị, nhưng chết người, đó
là truyện ngắn Fat, của RC
“Fat" is a great example of
how little a short story has to do in order to work – the entry wound is
so small, you could say, and the result so deadly. Like many of Raymond Carver's
stories, this one seems very simple. An unnamed waitress tells her friend,
Rita, about serving a very fat customer. She likes the guy, despite his girth.
She likes serving him. Their relationship, though ordinary, and brief, and
formal, is quite tender – and, like a love story, it happens in the face
of opposition from the rest of the world. The small love the waitress feels
– this moment of empathy she has for the fat man – becomes briefly amazing
later that evening, when she is in bed with her boyfriend, Rudy, and the
waitress is left with an uneasy, hopeful intimation of change.
I ask often ask students to read "Fat" because it also seems
to talk about what a story is. A story is something told – as the waitress
tells her friend Rita about the fat man – it is something that really
needs to be said. But though we feel its force and resonance, it is
often hard to say what a story means. The most we can say, perhaps,
is that a short story is about a moment in life; and that, after this
moment, we realize something has changed.
Carver coi câu của Pound
như là 1 thứ kinh nhật tụng:
“Thơ, ít ra thì cũng phải cố viết cho thật bảnh
như là văn xuôi”!
(1)
Carver's Poems
THE OTHER LIFE
Now for the other life. The one
without mistakes.
-LOU LIPSITZ
My wife is in the other half
of this mobile home
making a case against me.
I can hear her pen scratch scratch.
Now and then she stops to weep,
then-scratch scratch.
The frost is going out of the
ground.
The man who owns this unit tells me,
Don't leave your car here.
My wife goes on writing and weeping,
weeping and writing in our new kitchen.
RC
L'AUTRE VIE
Et maintenant l'autre vie.
Celle où on ne fera pas d'erreurs.
Lou LIPSITZ.
Ma femme est dans l'autre moitié
de ce mobile home
dressant un acte d'accusation contre moi.
J'entends son stylo crisser.
De temps à autre elle s'arrête pour pleurer,
ensuite le crissement reprend.
Le sol est en train de dégeler.
Le proprietaire du camping me dit :
Ne laissez pas votre voiture ici.
Ma femme continue d'écrire en pleurant,
de pleurer en écrivant dans notre nouvelle cuisine.
Cõi Khác
Nào, bây giờ là cõi
khác
Cõi đếch có lầm lẫn
Vợ tớ ở một nửa căn mobile home
Đang gây gổ với tớ
Tớ nghe ngòi viết cào
cào, cào cào
Thỉnh thoảng nàng ngưng, để khóc
Rồi lại, cào cào,
cào cào
Mặt đất đang tan băng
Người chủ khu nhà biểu tớ:
Đừng để xe ở đây.
Vợ tớ tiếp tục viết và khóc
Khóc và viết trong căn bếp mới của chúng
tớ
*
INTERVIEWER [The
Paris Review]
Is it true-a friend of yours told me this-that you celebrated
your first publication by taking the magazine to bed with you?
CARVER
That's partly true. Actually, it was a book, The
Best American Short Stories annual. My story "Will You Please Be
Quiet, Please?" had just appeared in the collection. That was back in
the late sixties when it was edited every year by Martha Foley and people
used to call it that - "The Foley Collection." The story had been published
in an obscure little magazine out of Chicago called December. The day
the anthology came in the mail I took it to bed to read and just to look
at, you know, and hold it, but I did more looking and holding than actual
reading. I fell
asleep and woke up the next morning with the book there in bed beside
me, along with my wife.
Đọc 1 phát là
nhớ ngay ra cái cảnh GCC đọc Những Ngày Ở Sài
Gòn, khi nó được đăng trên tờ Nghệ Thuật.
GCC, do làm part time
cho UPI, nên phải dưỡng thương, sau cú ăn hai trái
mìn VC, ở ngay tại Đài Liên Lạc.VTD thoại số 5 Phan
Đình Phùng.
Bữa đó đó, đọc bài thơ của CTC trên
tờ NT, thế là bèn nổi hứng lên, bèn lôi
mớ bản thảo truyện Những Ngày
Ở Sài Gòn, thai nghén từ những ngày
nằm Grall [tôi đứng ở cổng nhà thương Grall nhìn
ra ngoài đời, và chiến tranh bèn bỏ đi từ hồi nào
hồi nào, là có thiệt, và đúng là
giấc mơ của Gấu những ngày nằm Grall], đánh bóng
nó, nhờ Trần Công Quốc, một trong Thất Hiền, khi đưa vợ đi
làm [bà vợ là nữ điện thoại viên, nhân viên
Đài], đưa cho ông anh nhà thơ TTT.
Khi báo ra, Gấu, đúng như Carver, ôm tờ
báo ngủ, cùng với, không phải vợ, mà là
cái áo giáp, tức lớp platre bao quanh người, và
cái tay ăn mìn VC, khi ngủ phải nằm sát bên
tường, dựa cánh tay lên đó!
|
Trang NQT
art2all.net
Lô
cốt
trên
đê
làng
Thanh Trì,
Sơn Tây
|
|