Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ

Nhật Ký
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30
31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42  43 44 45 46 47 48 49  50 51 52 53 54
55 56 57 58 59 60 61 62

*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 




*

*


Thơ Mỗi Ngày

The Anger of Exile

By Colm Tóibín

The Hakawati
by Rabih Alameddine
Anchor, 513 pp., $16.00 (paper)
Cockroach
by Rawi Hage
Norton, 305 pp., $23.95

"Wherever I am, Germany is"
Thomas Mann

Gấu ở đâu Mít ở đó!

And I step ashore in a fine rain
To a city so changed
By five years of war
I scarcely recognize
The places I grew up in,
The faces that try to explain.

But the hills are still the same
Grey-blue above
Belfast.
Perhaps if I'd stayed behind
And lived it bomb by bomb
I might have grown up at last
And learnt what is meant by home.

Derek Mahon

Giận dữ lưu vong

Và tôi bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Tôi không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà tôi đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích

Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi tôi ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế!

Có lẽ nếu tôi đừng đi, và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng tôi sẽ trưởng thành
Và biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì


Among the Exiles

One met former cabinet ministers,
University professors, defrocked priests and officers,
Feeding pigeons from a park bench,
Squinting into foreign newspapers
And telling anyone who happened to ask
Not to bother their heads about the truth 

On the use of murder to improve the world
They had many vivid memories
As they huddled in their dim kitchens,
Clipping supermarket coupons,
Shifting the loose dentures in their mouths
While waiting for the teakettle to boil. 

They ate in restaurants with waiters older than themselves,
Musicians whose fingers bled
As they picked at their instruments
Making some tipsy widow burst into sobs
On hearing a tune her husband the general loved,
The one who sent thousands to their deaths. 

Giữa đám Lưu Vong

Người ta gặp những cựu bộ trưởng
Giáo sư đại học, tu sĩ mất áo tu, sĩ quan mất quân phục,
Cho bồ câu ăn ở băng ghế công viên,
Liếc tờ báo chợ
Và biểu người nào tính hỏi,
Này, đừng có bực mình, lúc lắc cái đầu, khi biết sự thực

Về cái việc sử dụng sát nhân để cải thiện thế giới
Họ có nhiều kỷ niệm sống động
Khi quay mòng mòng trong căn bếp tối thui
Cắt cắt mấy cái phiếu siêu thị
Xốc xốc bộ răng giả trong miệng
Trong khi chờ ấm nước pha trà sôi

Họ ăn trong những tiệm bồi bàn già hơn họ
Nhạc sĩ bấm đàn bằng những ngón tay rướm máu (1)
Làm một bà góa ngà ngà say, khóc nức nở
Khi chơi một điệu nhạc mà ông chồng đại tướng ngày nào của bà thích nghe
Ông tướng này đã từng ra lệnh làm thịt hàng ngàn người 

Charles Simic: Master of Disguises 

(1)
Charles Simic chắc là có đọc Kiều rồi, nên thuổng, như đám mũi lõ thuổng nhạc Trịnh, “nghi án” đang gây chấn động trong giới giang hồ Mít ở trong nước: "bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay" !!!
Ui chao, Gấu lại nhớ đến cảnh nàng Kiều họ Trịnh hầu đàn Sáu Dân, Hồ Tôn Hiến, những ngày sau 30 Tháng Tư 1975

PAINTINGS

FOR ZBYLUT GRZYWACZ

Countless paintings hung on the walls
of the apartment on Krakow Street. (Why
Krakow Street in Krakow? The city
didn't know how to get home?)

None of it matters now-
the names of streets, your patriotic passion
for Kazimierz, your loyal photos
of old houses, dilapidated gates.

Even that apartment is gone now.
On canvases: human faces, women's bodies,
gray and pink, the world's yellow stains.
Drawings and sketches of acts, studies of aging,

natures mortes, some dust-covered
and doubly dead, others fresh
as fruit at market stands, gleaming
in June's remembered light.

In summer light strikes objects
directly, while in winter it hides
lazily in wardrobes, sleeps on the stove,
like minerals on museum shelves.

A champion talker, a fan of Caravaggio
you vanished after a few months of illness
of suffering and strength in dying.
Paintings and friendship remain,

canvases, which don't understand
their loneliness, their dusk,
and friendship, which of course
lives on-but as a widow now.

Adam Zagajewski: Unseen Hand

Họa phẩm

Hằng hà trên tường trong căn phòng
Ở Phố Sài Gòn
[Tại sao Phố Sài Gòn trong Sài Gòn?
Thành phố quên mẹ nó tên, hay quên mẹ đường về nhà?]

Mà bây giờ để ý làm chó gì -
Những tên đường, lòng đam mê ái quốc của bạn dành cho
Kazimierz,
Những bức hình trung thành của bạn về những căn nhà cổ,
Những cái cổng xiêu vẹo.

Ngay cả căn phòng thì bây giờ cũng đâu còn
Trên những tấm vải bố: những mặt người, những cơ thể đàn bà,
Xám và hồng, những vết màu vàng của thế giới.
Những vạch, những phác của những hành động,
Những nghiên cứu về già lão,

Tĩnh vật, một số bụi phủ
Và chết hai lần, những bức khác tươi mát,
Như trái cây ở chợ, long lanh trong ánh sáng tưởng nhớ của Tháng Sáu.
Mùa hạ ánh sáng đập thẳng thừng lên những đồ vật,
Trong khi mùa đông, nó ẩn náu một cách lười biếng ở trong tủ áo,
Ngủ ở trong lò,
Như khoáng vật trên những giá ở viện bảo tàng 

Vua đấu láo, đệ tử của Caravaggio
Bạn biến mất sau vài tháng bịnh
Chiến đấu kiên cường trong khi chờ đi xa
Tranh và bạn bè thì còn ở lại

Những tấm vải bố, chúng không hiểu nỗi cô đơn của chúng,
Buổi chạng vạng của chúng
Và tình bạn, lẽ tất nhiên
Tiếp tục sống – nhưng như là một góa phụ.


*

Số báo cũng khá cũ [số 106, 2009] nhưng mua ở tiệm không phải bán sách báo cũ, nên giá chẳng cũ. Trong có 1 bài, ở lề của tờ báo, như bià sau ghi: Plus John Banville’s objet trouvé and poetry by Fanny Howe, [kèm bài viết vật kiếm thấy của Banville, và thơ của Howe].

*

Bài của JB ngắn, ở lề, nhưng tuyệt vời, viết về nghệ thuật mất, “the art of losing”.
TV sẽ dịch bài này, tặng độc giả TV, thứ nghệ thuật, không khó làm chủ, the art of losing is one that is not hard to master, và có rất nhiều điều hình như tắm đẫm cái ước mong được mất đi, nhờ vậy mà cái sự mất đi của chúng không là một thảm họa [“seem filled with the intent/to be lost that their loss is no disaster”], Banville mượn ý thơ của E. Bishop để giải thích.

Chúng ta chẳng bao giờ trưởng thành, nhưng cứ thêm tuổi mãi ra, già mãi ra, rồi già - và cái nhu cầu đồ chơi, và chơi đồ thì chẳng bao giờ yếu đi.

Tay Banville này, nhà văn, nhưng viết essay, viết review cũng thuộc bậc thầy.

Xứ Mít chưa đẻ ra được thứ nhà văn này. Toàn thứ viết làm xàm ba cái truyện ngắn, truyện dài, bằng 1 thứ văn phong “có sẵn trong trời đất”, trên báo chí, trong văn của người, nhiễm độc hồi nào không hay, bản thân, chưa từng có ai đẻ ra được 1 thứ văn phong của riêng mình...

*

John Banville còn thử thay nghề viết truyện trinh thám với cái nick Benjamin Black. TLS số April 13 2012 có nhắc tới ông, trong sổ tay văn học, với cái tít Who’s who, và tiện thể còn nhắc đến cả 1 lô những nhà văn viết bằng những cái nick khác nhau, như Romain Gary, người đợp hai lần Goncourt, dù giải này quy định, chỉ 1 lần là đủ, khác Booker Prize của Anh.
Tin Văn đã từng đi một đường tưởng niệm Mai Thảo, khi ông dùng cái nick Nhị, để mần thơ.
Nhưng TTT không có cái may này. Trước khi thành danh với cái nick TTT, thì ông có vài cái nick, nhưng sau khi “chết tên” rồi, là thôi.
Chứng cớ, trong thư gửi đảo xa, ông kể, ông làm thơ tặng đảo xa, đăng báo Văn, ký nick khác, MT & Ông Vượng, chủ báo lắc đầu, no!

GCC thì nhiều nick quá. Lần trốn cái tên NQT tên sa đích văn nghệ, mượn cái tên của đứa cháu gái, viết VHNT & Việt Báo online, "chấn động giang hồ", độc nhất có 1 tay phê bình gia BVP là nhận ra, vì quá rành những tác giả GCC đọc & trích dẫn [Steiner, Kafka, Bejamin… thí dụ]

Banville says that he started writing novels at the age of 12. His early attempts were "dreadful imitations" of Joyce's Dubliners; the opening line of one was, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the grave".

Banville cho biết ông khởi sự viết văn khi 12 tuổi, và những bản văn đầu tay “bắt chước thê thảm, chết người” Những người dân thành phố Dublin của Joyce, thí dụ dòng mở ra 1 bản văn, "The white May blossom swooned slowly into the open mouth of the grave"
[tạm dịch, “Bông Tháng Năm, trắng toát, xỉu dần đi trong miệng huyệt mở rộng”]  

The past beats inside me like a second heart
All works of art are scar tissue.

Tác phẩm 'nghệ thuật' nào [của Gấu]  thì cũng như vết sẹo [ở trên tay cô bạn],
và quá khứ những ngày ở Sài Gòn là trái tim thứ nhì [ở trong Gấu].
Nó đập còn dữ dằn hơn trái tim thứ nhất.
Càng đập càng nhớ... vết sẹo! (1)
John Banville


*

*

Note: Bài viết về Cesare Pavese mới thê lương làm sao, “viết ngoài đời”. Trong nhật ký, ông than thở, "chẳng em nào chơi với tôi, sẽ chẳng bao giờ chơi với tôi.”
Trách nào tự tử.

Nơi chốn không làm sao sống nổi, là nơi chốn mà con người cảm thấy hạnh phúc!
Một cái lý do tốt lành để mà tự tử, thì không hiếm hoi, ở bất cứ một con người!
Nỗi buồn lớn lao nhất, mà một con người cảm thấy, đó là khi những lý tưởng thất bại của người đó, biến thành hiện thực! (1)


30.4.2012

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius...".

William Childs Westmoreland (Xin coi Blog Tin Văn)


NQL: “Những bức ảnh dưới đây cho chúng ta nhìn lại Chiến tranh Việt nam từ lúc Mỹ leo thang can thiệp đầu những năm 1960 đến lúc chính quyền Sài Gòn cũ sụp đổ”. Denverpost chỉ giới thiệu một câu vậy thôi nhưng xem phóng sự ảnh dưới đây ta thấy cả cuộc chiến tranh Việt Nam đã được dựng lại rất sinh động và xác thực, thật tuyệt vời! Cảm ơn KTS Võ Thanh Lân đã gửi cho đường link và Bs Nguyễn Hải Phong đã dịch phóng sự ảnh này. (Đọc tiếp…)

Những bức hình dưới đây, thì cả thế giới đều biết từ khuya rồi, tính sinh động, xác thực thì cũng thế, nhưng cái xác thực, trước và sau những tấm hình, thì lại đếch có.

Xác thực thứ nhất, chính VC nhử Mẽo vô Nam Việt Nam, để có cớ xâm lăng, bằng cú ngụy tạo đầu độc tù Phú Lợi.
Xác thực thứ nhì, 3 triệu người xác thực chết, để tạo ra xác thực là 1 nước VC bây giờ, muốn bắt ai thì bắt.

Khoe khoang thành quả 30 Tháng Tư hoài, sao không khoe nhục nhã?
Có 1 cái blog mà phải khóa lại, sao không khoe?

Kít!

*

Người cha ôm xác con hỏi lính VNCH: Tại sao?

Từ "xác thực", đã nhảm, nhưng từ "tuyệt vời" đại khốn nạn.
Bạn nhìn cái hình người cha ôm xác đứa bé hỏi đám Ngụy, "Tại sao?", có cảm thấy “Tuyệt vời” không?
Nhìn nỗi đau của người khác mà cảm thấy tuyệt vời!

Kít thật!

NQT


*

Dirck Halstead, tác giả bức hình là sếp UPI của GCC
Blog TV

Ngày 28 hay 29 tháng 4 bố không còn nhớ rõ, thành phố đang trong cơn hỗn loạn, bố gặp lại người sếp cũ, lúc này làm cho tờ báo Time, tới Sài-gòn làm phóng sự về cuộc di tản. Lúc đó cơ quan DAO của Mỹ đã đóng cửa, không còn máy bay C.130, anh ta bảo chỉ có thể đi bằng trực thăng ra Đệ Thất Hạm Đội, và như vậy chỉ một mình bố đi được thôi. Bố không thể bỏ mẹ và các con trong lúc mấy chục binh đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang chờ sẵn ở ngoại ô thành phố và viễn tượng biển máu đang chờ đợi người dân Sài-gòn.


NNT chưa từng đọc Faulkner, nhưng có thể nói, toàn bộ tác phẩm của cô, bước ra từ khúc dạo đầu của Absalom, Absalom! của Faulkner
Absalom, Absalom! có thể sánh với Âm thanh và Cuồng nộ, và tôi không biết, có lời vinh danh nào cao hơn thế nữa, về nó!
Borges
Tuyệt!

Khen 1 tác phẩm của Faulkner, bằng 1 tác phẩm khác, cũng của Faulkner!
Đây cũng là đòn của Kim Dung, cho Vô Kỵ sử dụng, để đánh bại 1 nhà sư Thiếu Lâm, bằng chính võ công của Thiếu Lâm, và đúng cái môn võ công mà nhà sư nổi danh nhờ nó, trong 1 trận đánh kinh thiên động địa trên Quang Minh Đỉnh, để cứu cả một lũ Ngụy, tức Ma Giáo!
Đâu có thứ võ công nào khác, để mà đánh bại Ngài, ngoài võ công của chính Ngài!
Ẩn tàng trong giai thoại trên, là bí mật của sáng tạo: Mi muốn viết văn là phải kiếm ra vị Thầy của mi, và mi sẽ dùng chính môn võ công của Thầy mi dậy mi đó, để làm thịt Thầy!

Tôi cầu mong đám trẻ chôn tôi! Trần Dần phán.
*

Kiều, làm sao có, nếu không có Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng khi viết xong Kiều, thì Nguyễn Du cũng làm thịt xong anh Tẫu sư phụ của ông!
Thập thành con đĩ mắc mưu quan.
Chu Mạnh Trinh hình như đã từng chửi Kiều như vậy?

Khi còn học trung học với Thầy Vũ Hoàng Chương, thi sĩ đã giải thích cho thằng học trò sau này thành nhà văn nhớn Gấu Nhà Văn, Kiều mắc bẫy HTH là do cái policy của Trung Ương Đảng, của Bắc Bộ Phủ.
Mấy ông vua Tầu, khi gặp đám giặc cỏ ở ngoài biên cương như Từ Hải, dẹp không được, thì bèn chiêu hàng và thí cho một chức quan nào đó. Kiều bị lừa là vậy. Em cũng muốn bỏ chốn giang hồ, về đời, làm phu nhân một ông quan phủ họ Từ.

Cả Miền Nam bị lừa, cũng y chang!
Nước Mít phải là một! Miền Nam phải là một phần của nước Mít.
Miền Nam bị Hồ Tôn Hiến Sáu Dân và đám MTGP lừa, vì cái chân lý đó. (2)


Warning: e-mail TV [yahoo.com] bị virus, [nhiều người bị], tự động gửi/nhận e-mail loạn cào cào. Bạn đọc/bạn bè xin lưu ý.

Thống Kê

25 Apr 2012 424
26 Apr 2012 540

Không biết có phải vì ngày 30 Tháng Tư sắp tới, số khách viếng TV, bữa nay, giờ này, 6:18 PM, local time, là 540 visitors.
Như thế, tới nửa đêm về sáng, hẳn là còn bảnh hơn nữa.
Một con số kỷ lục!
Tks.  TV/NQT

Tổng cộng: 627 visitors/26.4.2012.
Tks again. NQT


Tribute to Khoa Hữu

*

"Tay này không học bơi, theo chiều, hay nguợc chiều dòng nước"
Hannah Arendt

Trong bài viết về ông, trên tờ Le Magazine Littéraire, số Tháng Chín, 2009, có một chi tiết sai: ông mất ở Port-Bou, thuộc Tây Ban Nha, không phải Pháp.

Những Kỳ Tích về Walter Benjamin

Từ một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư vào trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin, là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.

"To great writers, finished works weigh lighter than those fragments on which they work throughout their lives."
("Với những nhà văn lớn, những tác phẩm hoàn tất nhẹ ký hơn, so với những mẩu đoạn mà họ miệt mài suốt đời.")
Walter Benjamin (1892-1940)

Ui chao, câu trên mà đề tặng Gấu Nhà Văn thì thật là tuyệt:
Bài viết nào cũng nhếch nhác, chẳng bài nào hoàn tất, chẳng biết khúc nào Gấu viết, khúc nào Gấu chôm chĩa!
Vẫn thua giấc đại mộng của Benjamin: Viết một đại tác phẩm, toàn trích đoạn, chôm của kẻ khác!

*

My hero: Walter Benjamin

by Elif Shafak

'One doesn't read him to feel better – one reads him to feel'

Walter Benjamin, trong bài viết về Kafka (16), nhận xét: "điều lạ là, đàn bà nòi đĩ ở trong truyện Kafka không hề tỏ ra đẹp (these whorelike women never seem to be beautiful)... Hơn thế nữa, cái đẹp ở trong thế giới Kafka thường chỉ xuất hiện tại những nơi u tối nhất - ở giữa đám "tề nguỵ" (cho phép tôi liều lĩnh dịch chữ "accused persons" như vầy, cho đúng với "tinh thần bài viết"!)... "Vụ Án cho thấy những thủ tục là vô hy vọng đối với tội nhân, vô hy vọng ngay cả khi họ có hy vọng để trắng án. Có thể chính cái gọi là vô hy vọng đã làm lộ ra cái đẹp ở nơi họ; chỉ có họ là được ông ưu ái" (17). Benjamin nhớ lại một cuộc trò chuyện giữa Max Brod (18) và Kafka. "Tôi nhớ lại", Brod viết, "một lần trò chuyện với Kafka, bắt đầu bằng Âu-châu ngày-này và sự suy tàn của nhân loại. 'Chúng ta là những tư tưởng hư vô, những tư tưởng tự sát vốn đến từ cái đầu của Thượng Đế', Kafka nói. Điều này thoạt đầu làm tôi (Brod) nhớ tới ý niệm Gnostic (19), về cuộc đời: Thượng Đế chỉ là một ác thần. Thế giới: Sự Sa Ngã của Người. 'Ô, không phải đâu,' Kafka nói, 'thế giới chúng ta chỉ là một cơn xấu tính, bad mood, của Thượng Đế, một ngày xấu của người.' 'Vậy thì có hy vọng ở bên ngoài cái thế giới mà chúng ta biết'. Ông mỉm cười. 'Ôi, nhiều hy vọng, hằng hà sa số hy vọng - nhưng không cho chúng ta, dù chỉ một'. Những lời nói này đã tạo cây cầu tới những nhân vật thực là kỳ quái của Kafka: những kẻ độc nhất đã thoát ra ngoài cái vòng tròn gia đình, chỉ với họ may ra có thể có hy vọng. Những kẻ không phải là loài vật; ngay cả giống lai hoang (hybrids), hay nhân vật giả tưởng như Cat Lamb hay Odradek cũng không luôn; họ vẫn còn ở trong cái vòng tròn gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà Gregor Samsa thức giấc như là một con bọ ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác, và cái con vật khác thường nửa mèo nửa cừu đó, là thừa hưởng từ người cha. (Một nhân vật) Odradek như thế là mối quan tâm của người cha trong gia đình. "Những kẻ trợ giúp", tuy nhiên, là ở bên ngoài vòng tròn này. (The "assistants", however, are outside this circle).

Một chuyến đi

Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật Tâm, trong Bếp Lửa, khi đã bỏ chạy thoát cái nước Mít khốn nạn, viết về cho Thanh, cô bạn gái, người em họ, cô ca sĩ:

Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.

Thanh,

Không ngờ Thanh còn nhớ đến anh.

Anh cảm động khi đọc thư. Anh tưởng nơi quê hương không còn ai nhớ đến anh nữa. Đôi lúc anh vẫn ân hận rằng anh không buộc với xứ sở một dây liên lạc nào ngoài anh ra. Nguời ta gặp nhau ở ngoài phố rồi quên nhau ngay, thì ở quê hương hay một phương trời nào khác gì nhau.
Một hôm tình cờ anh nghe đài phát thanh và được gặp giọng hát Thanh.
Vẫn giọng ấy. Trở về mái nhà xưa. Anh định viết cho Thanh nhưng anh nghĩ biết đâu, Thanh chẳng đã quên anh rồi như mọi người. Được thư Thanh anh phải cám ơn Thanh nhiều.
Thanh lại sống một mình. Nga đã lấy chồng. Chắc Nga thôi viết văn rồi nhỉ? Bên này anh cũng có người bạn gái là văn sĩ nổi danh. Thanh hát lại là phải, anh đã chẳng nói thế sao? Vợ chồng Minh vẫn mạnh khỏe, được mấy cháu rồi? Hãy nói với Minh lấy tên anh đặt cho một đứa con của Minh để anh được đinh ninh anh còn nhiều liên lạc với quê hương.
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Chúng ta phải tự tạo lấy sự ràng buộc nhau để cùng bám chặt quê hương, nếu không chúng ta sẽ mất trong sự quên lãng.
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng.

Tâm
Viết xong tại Thủ Dầu Một
vào tháng 10-1956

Bếp Lửa
 
Tôi là sinh viên cao đẳng khi bắt đầu đọc WB. Nhà phê bình văn học, triết gia, tiểu luận gia, ông là 1 người của những con chữ. Là một người Đức Do Thái, sinh vào thời nhiễu nhương, vào cuối thế kỷ 19, và ở một nơi chốn nguy hiểm nhất, Berlin.
Khi còn sống, ông được chỉ một dúm người biết tới, và sau khi chết, danh tiếng của ông thì bắn đi như 1 trái hoả tiễn. Tôi còn nhớ, mình kiên nhẫn đợi khủng như thế nào, bản tiếng Thổ “Dự Án Vòm” của ông.
Cuốn sách du lịch mọi nơi cùng với chủ của nó, là tôi, tất nhiên, trang nhàu nát, góc xoắn tít, thời gian nhấm nháp, tàn thuốc ăn lủng, mặt đầy tàn nhang, là những giọt cà phê, và một lần, trong 1 buổi hòa nhạc rốc, chủ của nó bỏ mặc nó dưới mưa.
Trong tất cả những cuốn sách mà tôi đọc trong năm dó, giả tưởng hay không giả tưởng, không có cuốn nào được yêu thương bằng 1 cách thương đau, một cách rã rời, tả tơi như Dự Án Vòm!
Benjamin là một nhà luyện kim kiểu này hoặc kiểu nọ, một nhà trí thức Mác Xít quái đản nhất, con cừu đen ở mọi bày đàn. Ông quậy văn chương vô triết học, những câu hỏi được tôn giáo nêu ra với những câu trả lời từ thế tục, đối lập tả phái với chủ nghĩa thần bí, chủ nghĩa lý tưởng Đức với duy vật lịch sử, chán chường, tuyệt vọng với sáng tạo… Ông là một chuyên gia về Goethe, Proust, Kafka, va Baudelaire, nhưng cũng còn viết rộng rãi về những điều nhỏ bé, bình thường ở đời. Ông không phải thứ triết gia tháp ngà. Một khi bạn tiếp tục đọc ông thì hầu như bạn đang theo dõi ông lang thang trên đường phố, lắng nghe những con người, loay hoay ghi chép, làm những phác họa, hoài hoài thâu gom, nhặt nhạnh.
Người ta không đọc ông để cảm thấy khá hơn. Người ta đọc ông để “cảm thấy”. Trong vũ trụ của ông không điều gì xuất hiện như là nó xuất hiện, có đó, và có một sự cần thiết sống còn, cực kỳ quan trọng, là, vượt quá những bề mặt và móc nối với nhân loại. Sống là bước trên đống đổ nát, lắng nghe bất cứ dấu hiệu của đời sống từ bên dưới điêu tàn vọng ra. Buồn bã tạo nên phần nội của hiện hữu của ông. Một buổi chiều, một tên bạn trai tôn thờ hư vô chủ nghĩa, nhậu say, nhìn bức hình Benjamin trên tường la lớn: “Cười đi, me-xừ Mr. Walter!” Đâu cần ông vác thế giới trên đôi vai của ông. Ông chết rồi mà, hãy relax!” Anh ta sau đó ném ly rượu vang vào ông. Tôi nghi là anh ta tính quăng vào mặt tôi. Tôi lau dọn sạch sẽ bằng xà bông giặt đồ, một vệt dơ rượu vang nằm ỳ trên mắt kiếng, khiến như ông nhìn mọi vật qua cặp kiếng màu đỏ.

Elif Shafak 

Walter Benjamin là ‘hero’của Gấu Già, so với những Lukacs, Henri Lefebvre, Roland Barthes… của một Gấu Trẻ, thời mới lớn ở Sài Gòn.
Đám đệ tử của Thầy Cuốc thì cứ đổ diệt, thầy của mi là TTT, là Camus…, và về già, do mi muốn hồi đầu VC, thì là “hitman” HPNT, thí dụ.
Hay thằng nhóc VC, CVD!
Chả là Gấu đã từng viết bài Mùa Xuân nói chuyện Mậu Thân, trong có khen văn tài của đao phủ thủ HPNT.
Chúng cứ thấy khen VC là chịu không nổi!

Hà, hà!

Cái từ “vòm” này, chỉ dân “ken” mới hiểu được.
GCC đọc bài viết của cái em Thổ xưng tụng hero của mình, bèn nhớ ra,WB còn là bạn của GCC, bạn hút, và cùng lúc, nhớ ra cuốn sách trên của ông, viết về thú đi mây về gió.
Trong văn chương, nó đã từng được Nguyên Hồng sử dụng, trong Bỉ Vỏ, “cái gì gì”, "anh đây công tử không vòm", câu hát một tay anh chị ngân nga khi bị bắt vô tù.... Nhờ câu hát, bà vợ hoàn lương, lấy anh cai tù, bèn bỏ chồng mới, cứu chồng cũ, và cùng nhau trở lại cõi giang hồ.

GCC đã từng đòi phen toan tính sử dụng “kỹ thuật viết “của Walter Benjamin, hay đúng hơn, tham vọng, hay, giấc đại mộng của ông, làm sao viết 1 cuốn sách chỉ gồm toàn trích dẫn.

Lần bạn quí nhờ đỡ cho 1 tay, do đang đau ốm gì đó, đi 1 đường trên mục anh phụ trách, trên Blog VOA.

Bèn, 1 công đôi ba việc:

Viết về nhạc vàng, nhạc lính, nhạc sến, làm sao làm bật ra chân lý: cái hồn của văn học Miền Nam nằm trong những câu hát của nhạc sến.

Và bị độc giả & bạn quí [LTL, anh của KT] & đệ tử Thầy Cuốc chửi tơi bời hoa lá [thí dụ, thường, đọc nhiều, hiểu nhiều, phải tiêu hóa của hay vật lạ thành cái của riêng mình. Chứ bạ đâu cũng mượn tên ông Nga này, bà Tây nọ nhét vào bài viết, tựa như gái quê khoe của..]

Bài viết ngắn của Gấu về “nhịp thời gian”, khi nhắc tới câu của Brodsky vinh danh Mandelstam, khi nhắc tới Kinh Cầu của Akhmatova, là để đặt chúng vào hai đỉnh của một tam giác, đỉnh thứ ba là bài Rừng Lá Thấp.

Chẳng có vấn đề tiêu hóa, ăn thức ăn mũi lõ rồi ị ra cứt Mít ở đây.

Cấu trúc bài viết, mô phỏng Walter Benjamin, khi ông mơ, viết được một tác phẩm, gồm toàn trích dẫn, và nếu có gì của ông ở trong đó, thì chúng giống như dàn giáo.
Nhà dựng xong, là tháo gỡ bỏ.
Nói rõ hơn, chẳng có cái chó gì của Gấu ở trong đó!
Nếu có thì đều là những 'câu bất thành cú', toàn là đồ vứt đi, sau khi dựng xong căn nhà!
*

Ở Việt Nam, có một điều rất chi thú vị: tôi nhận ra là tuyệt đại đa số người ta rất hãi, rất dị ứng, rất nổi da gà da vịt trước những gì không hiểu được ngay sau một lần đọc. Mọi thứ phải thật là uốn éo dễ hiểu sáng quắc cơ. Thói này tôi gọi thẳng luôn tên là chứng bạo dâm bệnh lý: một người đọc "trí thức" ở Việt Nam luôn luôn có xu hướng đè bẹp tác giả, muốn đọc ai đó viết hay nhưng phải thấp thấp một tí, ẻo ẻo một tí, để mình được ở hơn, ở trên. Thế cho nên ngày nay chính là mảnh đất màu mỡ cho những người như Lê Hoàng hay Nguyễn Quang Lập :d Cách thức này không giúp gì cho việc tiếp cận, đọc thực sự những người như Coetzee. Hic, giải thích khó nhỉ, các bác cứ thử bỏ khoảng mấy tháng để lần mò theo một cuốn sách nào đó của Benjamin thì có thể lờ mờ hiểu tôi muốn nói gì.
Blog NL

Cuốn Thương Xá [tức Dự Án Vòm] của Walter Benjamin, khổng lồ, gồm toàn trích dẫn.
Độc giả Mít, đọc, chắc là phát điên lên được.
Tây mũi lõ cũng phát điên chứ đừng nói Mít.

Đọc bài biết của Coetzee về cuốn này, khi đăng trên NYRB, "Điểm sách New York", số đề ngày 11.1.2001, là Gấu bèn dịch liền tù tì, vốn liếng tiếng Anh ăn đong, phải viện tới NTV.
Gấu đã kể kỷ niệm tuyệt vời này rồi, hai thằng ngồi quán cá phê Tầu, Coffee Time, ở Phố Tầu Đông, cãi nhau ỏm tỏi, chủ quán bèn đuổi cổ ra công viên gần đó…
Bài này sau in trong Inner Workings, cuốn sách bạn NL đang giới thiệu




TTT 2012


Ghi chú trong ngày

*

Nhà văn Tạ Duy Anh: Ngửi là biết đàn bà hư, ngoan

Tụi mũi lõ có câu Gái hư bóp nát t[r]im bạn: Bad girls break hearts
TDA chắc chưa đọc Đời Mưa Gió của Khái Hưng, càng chưa đọc The Bad Girl của Vargas Llosa.

GCC mê gái hư, không mê gái ngoan!

Hà, hà!

Mario Vargas Llosa's engaging novel The Bad Girl is not only a story of thwarted love, it reveals a haunted swath of the third world diaspora. Its characters are cast about the globe like seeds in the wind. Homeless in their adopted countries, the host of nationalities that populate the novel become the sum and subject of their ambitions and desires. Sound familiar? It should. Llosa has snatched the art of self-invention away from the earnest and mopey Great American Novel and fashioned it, with glorious effect, to suit his cast of exiles.

Đọc 1 phát là bạn bèn nhớ tới những cô gái xứ Mit, nhờ thành quả cách mạng 30 Tháng Tư 1975, làm dâu xứ Hàn, làm gái hư ở nước người... a haunted swath of the third world diaspora. Its characters are cast about the globe like seeds in the wind.


Lolita vs BHD


Cali Tháng Tám 2011