*

























 

  Mùa hè còn mãi

Nguyễn Chí Kham

 Shall I compare you to a Summer's day

 William Shakespeare               

                                               

 

                                                     Phần Thứ Nhất

 

                                                                 I     

            Chỉ còn ít hôm nữa là Thụy hết thời gian nghỉ phép. Sáng nay, lúc sắp xếp quần áo và các thứ quà bánh vào túi vải nhà binh, chặt gọn, căng đầy, bỗng dưng lòng anh thấy nôn nao, lạ thường,  tưởng như đang mang mang một nỗi nhớ về người mình yêu. Thực sự, Thụy đang yêu và ước mơ về Thúy Hà. Nàng đã lấy chồng, nhưng trong tình yêu vẫn còn để lại cho anh với rất nhiều lá thư.

            Huế, thành phố và con người có chung một dòng sông. Mới cách đây một tuần , không khí của mùa thi rộn rã , hoa phượng đỏ rực trời, trên đường Lê Lợi bao nhiêu tà áo trắng làm sáng đẹp một ngày mai như đó là sự xuất hiện những đàn chim thiên thần. Nhưng rồi, vang âm ấy chợt bơ vơ sau hồi trống im bặt, vắng lặng, có chút gì tựa áng mây phiêu bạt bên trời  làm bạn cảm thấy nó muộn màng, chẳng còn nữa sự đợi mong.

-Anh không đi đâu chơi ?

            Phương xuất hiện ở thềm cửa, trên bàn tay nắm đầy một chùm quả mận vừa mới hái ngoài vườn. Thụy nhìn cô em gái và thấy cả một nụ cười dịu sáng nơi cặp mắt vui của thiếu nữ.

-Anh còn bao nhiêu ngày phép nữa ?

-Sắp hết rồi.

            Phương để những quả mận vào dĩa, xong kéo chiếc ghế ngồi xuống. Một cơn gió vừa làm dịu đi sức nóng, trong tiếng lào  xào bên ngoài vườn Thụy ngửi được cả mùi vị thơm của lá và trái cây.

            Phương ăn ngon làm Thụy thèm, anh lấy một quả nhỏ, vừa cắn đã thấy có vị chát.

-Anh Nguyên lúc này, sao ?

-Anh ít khi về nhà.

            Rồi một giọng thân tình, Phương nói:

-Anh ấy đã có chị Thiên Nga.

-Bạn gái của anh ?

            Cô em gật đầu, mắt nhìn Thụy như thể dò ý. Thụy hỏi:

-Hai anh chị quen nhau lâu chưa ?

-Em không rõ, chắc là mới đây thôi.

-Em  đã gặp chưa ?

-Có chứ. Anh Nguyên đưa chị Nga về nhà chơi mấy lần.

-Thiên Nga cũng người Huế.

-Không, ở Đà Nẵng.

-Lạ nhỉ, sao anh Nguyên không nói gì hết.

-Anh về phép sớm hơn là gặp chị rồi.

-Anh đâu hay biết gì mà có ý định về thời gian nghỉ phép.

            Sau câu nói, bỗng dưng Thụy băn khoăn. Gia đình ở Đà Nẵng, cô gái ra Huế học trường Mỹ Thuật năm tới là năm thứ hai. Từ  ít nét qua trí tưởng, hình ảnh Thiên Nga tỏa rộng trên khung vải bức tranh thiếu nữ có một gương mặt đẹp, phảng phất nỗi buồn. Và chiếc áo dài tím, cô gái cũng cho anh lắng nghe ra tiếng nói, hình dung từng dáng bước đi thật dịu dàng trên những bông hoa vừa mới nở.

            Thụy hỏi Phương:

-Mẹ có hay biết gì không ?

-Có.

-Mẹ nói sao ?

-Mẹ rất vui. Cả nhà, ai cũng mến chị.

-Ờ nhỉ, anh đã hình dung thấy rồi. Mong là, hình ảnh chị ấy như anh đang nghĩ tới.

            Một giọng vui, Phương nói:

-Chị Nga có đọc truyện anh  viết.

-Vậy à. Anh Nguyên đưa cho chị.

-Không phải, em đưa.

-Chị có nhận xét gì không ?

-Chị nói, anh thật lãng mạn.

            Lòng vui Thụy mơ nghĩ đến người con gái, và nàng còn đây, đang hiện diện trong tâm trí anh.

            Ngày hôm sau, buổi sáng trời mưa Thụy đi Phú Bài để ghi chuyến bay. Viên Trung úy nhận giấy phép xong, quay lại xem bảng phi trình, nói:

-Ngày mai có hai chuyến Sài Gòn. Anh muốn đi sáng hay trưa ?

-Tôi muốn đi chuyến sáng.

-OK. 8 giờ có mặt.

            Xong việc, Thụy ra về. Trời đã tạnh. Thật may, Thụy xin quá giang được chuyến xe nhà binh về phố. Xe chạy không nhanh, trên đường, Thụy nhìn ngắm quang cảnh đồng quê hiện ra trong vẻ ẩm ướt sau cơn mưa. Lạ nhỉ, một niềm bâng khuâng trong anh như thể cơn gió lạnh trở mùa. Thụy đang nghĩ đến câu chuyện của Phương nói về một cô gái mà anh chưa được gặp. Cô đến Huế, rồi xa nơi này đã lâu chưa thấy trở lại.

            Thụy cứ lan man mơ mộng bóng dáng cô gái, rồi sực tỉnh khi xe về tới thành phố. Huế vẫn đông vui, rộn ràng. Xe ngừng lại phía bên đây cầu Trường Tiền. Thụy nhảy xuống xe, đưa cao tay vẫy chào tạm biệt anh tài xế và hai người lính ngồi phía trước. Họ gửi lại anh một nụ cười. Từ dốc cầu, Thụy thong thả đi bộ đến sạp báo nằm ngoài khuôn viên Đài Phát Thanh. Hiếu nhận ra Thụy, vội la lớn tiếng làm nhiều người nhìn anh chú ý. Ngày trước, Thụy khá thân với Hiếu. Nhớ một thời đi học, những buổi chiều hè Thụy thường có mặt  ở đây say mê đọc báo và hết sức vui được nghe những lời bàn luận thể thao của các cổ động viên cùng tâm ý như mình. Thế nhưng, nay thời gian đã đổi khác Thụy rất nhiều, anh  không còn say mê môn bóng tròn như trước nữa, mà từ ngày đi lính, trong lòng anh mang nặng nhiều ý nghĩ  về chiến tranh, về cuộc đời, vừa hoài nghi từ những mối mặc cảm.

            Vừa chuyện trò với bạn , Hiếu vẫn tiếp khách mua báo. Một lúc sau, câu chuyện ngừng hẳn vì khách đến khá đông.

            Thụy mua tờ báo Nghệ Thuật số cũ. Từ ngày sáng tác được vài truyện ngắn đăng báo, Thụy bắt đầu chú tâm đến các sinh hoạt văn nghệ, và ngày càng trở nên yêu thích việc đọc sách, kể cả cái thú đến phòng triển lãm xem tranh.

            Thụy không đứng lâu, trả tiền báo xong anh và Hiếu bắt tay. Hiếu hỏi:

-Hôm nào đi ?

-Ngày mai, Thụy đáp.

            Đứng ở trong quầy, cái dáng người cao, hơi gầy của Hiếu vẫn như ngày nào. Có chuyến xe buýt vừa đến, đang ngừng,  Thụy vội chạy nhanh. Lên xe, Thụy ngồi cạnh một cô gái. Tờ báo cầm trên tay, Thụy mở ra đọc lướt. Cô gái cũng ghé mắt nhìn vào trang báo của anh. Hai người không hỏi nhau một câu. Những hàng cây lùi rất xa trên đường xe đang chạy. Bên kia công viên, dòng sông đang chảy vào thành phố, Thụy chợt nghĩ đến ngày mai lên đường.

            Xe ngừng ở nhà ga, Thụy và cô gái cùng bước xuống. Mỗi người đi một ngả. Thụy hẳn sẽ còn nhớ được cô gái có cặp mắt nâu , chiếc áo dài trắng. Cô bước đi một mình. Thụy dõi mắt trông bóng dáng cô mỗi lúc xa dần, khuất biệt, khi cô đi qua lối cửa phụ bên cạnh nhà ga vào phía bên trong. Thụy chợt nghĩ  một đôi điều như mới có trong đôi mắt, anh nghe ra tiếng nói, biết tên cô gái, và căn nhà phía bên kia cánh đồng trơ trọi, nơi ấy rất dễ cho bạn tìm thấy những dấu vết chiến tranh còn đó ở hai bên hàng rào kẽm gai, ở chỗ hồ nước đầy rêu có một cây khế trái chín rụng từng ngày vương vãi trên mặt đất. Rồi, ngày nào đó cô gái đi đến một nơi xa, không hề trông mong gặp lại bạn lần nữa.

            Thụy trở gót, bước nhẹ nhàng. Về đến nhà, Thụy vui lây trong tiếng mấy đứa em reo mừng. Anh Nguyên cũng có về nhưng đã vào lại đơn vị.

            Sau bữa ăn, Thụy mở ví lấy tiền đưa cho mẹ một ít , còn lại cho mấy em. Thụy đi lính, đồng lương không nhiều, nhưng anh vẫn luôn cố gắng dành dụm cho những kỳ được về phép thăm gia đình. Một thoáng yên lặng, Thụy lại nhớ anh Nguyên  , và nhớ rất nhiều trong sự hình dung qua từng nét về một cô gái.

-Sang năm anh về phép nữa không ?

-Chưa biết. Nếu xin được kỳ nghỉ, anh về thăm.

            Có tiền của Thụy cho, em anh, đứa nào cũng cất dành. Những ngày qua anh sống thật nhẹ nhàng yên vui với mỗi bữa ăn, mỗi câu chuyện của người mẹ và các đứa em, trong tâm tình đó,  những dòng thơ Huy Cận anh yêu thích bỗng dội lên những cơn sóng nước giạt dào, tỏa ánh một miền quê , miền ấy, là quê ngoại mà trong tâm tư anh thường hay nhớ tưởng.

            Thụy trải chiếu lên tấm phản, đặt chiếc gối xong , lăn người nằm. Anh ngủ ngon giấc, lúc thức dậy, đã nửa buổi chiều. Rửa mặt xong, anh rời nhà đi bộ qua thăm dì Quyên. Nhà dì anh ở gần, đầu ngã ba trông xuống bến sông. Trời vẫn còn hanh nóng, chưa dịu hẳn.

            Vừa thấy Thụy trước cửa, Loan lên tiếng, cô gái nhìn người anh họ qua ánh mắt vui. Rồi một cô gái mặc áo trắng chợt quay đầu nhìn làm Thụy ngạc nhiên, liền nhớ ra ngay là mới gặp cô lúc trưa trên chuyến xe ngừng đỗ ở trạm nhà ga.

            Bà dì ở nhà sau đi lên, với nụ cười thật điềm đạm.

-Ngày nào con đi ?

-Dạ,  ngày mai.

            Nhìn gương mặt dì Quyên, Thụy cố gắng tìm một lời để nói. Và, lúc đó Loan giới thiệu anh  với  cô bạn học. Thụy và cô gái nhìn nhau hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi, lướt qua bằng giọng tự nhiên , thật vui Thụy nói:

-Anh có linh cảm là tới đây để tìm em.

-Thực không ?

-Cô hỏi bạn của cô đi.

            Loan nhìn hai người, tỏ ra ngạc nhiên. Chỉ qua ít giây bối rối thôi, câu chuyện trở nên rõ ràng, nhưng Thụy cũng hơi dài dòng khi thuật lại sự tình cờ gặp cô bạn của Loan trên chuyến xe buýt đi từ dưới phố lên ga.

            Thụy kéo ghế ngồi. Vừa lúc ấy, có tiếng rao quà của người bán hàng rong. Dì Quyên vội đứng lên đi ra cửa, rồi cất tiếng gọi. Một lúc sau, chị bán quà xuất hiện đặt chiếc gánh xuống thềm hiên.

            Cả ba người ngừng chuyện để chờ bữa quà chiều. Rất nhanh gọn, mỗi người một dĩa bánh với nước mắm dằm ớt cay.

            Ngồi bên ngoài, chị bán hàng cầm chiếc nón đưa lên quạt. Trên vầng trán của chị ít giọt mồ hôi còn đọng. Người nào ăn cũng thấy ngon. Cô gái hay ngừng đũa nhìn qua Thụy. Cô gái có nước da ngăm, cặp mắt nâu, và trên áo trắng thêu tên của cô. Một giọng nhỏ nhẹ, cô hỏi:

-Anh làm việc ở Sài Gòn ?

-Anh đi lính, đóng ở căn cứ Tân Sơn Nhất.   

            Chỉ có mình Thụy ăn thêm. Bà dì, Loan và cô bạn ăn xong một dĩa lớn là quá no. Nhìn ra ngoài hiên, Thụy thấy chị bán hàng đang rửa chén bát ở cái thau nhôm. Vội vàng anh ăn nhanh, xong đứng lên mang dĩa ra trả cho người bán. Bà dì và chị bán hàng cùng tính tiền, sau đó, dì vào nhà lấy một cái dĩa ra mua thêm, dĩa này để phần cho Linh, em kế Lăng và cũng là chị của Loan.

            Bóng nắng theo chị bán hàng đi khuất ra cổng. Thụy hỏi Loan:

-Lúc nào em tựu trường ?

-Đầu tháng chín.

-Cũng gần đến rồi, hai tuần lễ nữa thôi.

-Mỗi năm anh đều về nghỉ phép.

            Cô gái nhìn Thụy khi hỏi. Lòng Thụy cảm thấy có được sự an ủi trên cặp mắt cô và còn nghe rõ một giọng nói thân tình. Vậy mà, anh cứ băn khoăn tìm lời giải thích cho cô hiểu về tình cảnh người lính không dễ sống yên bình, phẳng lặng như cuộc đời người công chức.

-Anh về phép lần này là lần đầu kể từ khi vào lính, Thụy nói.

            Cô gái tên  Liên An. Thụy nhìn tên cô thêu trên áo, và đọc trong cặp mắt cô một điều thầm lặng.

            Loan  quay lưng rút một cuốn sách ở kệ. Cô đem cuốn sách để lên bàn và mở ra trang đầu. Bỗng nhiên cô ngừng đọc hỏi:

-Anh Nguyên đi đâu không thấy ghé.

-Anh còn ở đơn vị.

            Loan ngả người dựa lưng ghế, cười nói:

-Không chắc đâu. Anh đi Đà Nẵng thăm chị Nga rồi.

-Sao Loan biết ?

-Cả nhà, đều biết.

-Loan  gặp chị ấy rồi.

-Chị Nga  thân với em lắm.

            Thụy ngẩn người, lạ lùng. Liên An nhìn qua anh. Buổi chiều, có chuyến xe lửa về đến ga.

-Ngày mai anh đi buổi sáng, hay chiều ?

-Buổi sáng. Sài Gòn lúc này đang bắt đầu mùa mưa.

            Sau điều vừa nghĩ, bỗng dưng Thụy có cảm giác bàn tay cô gái đặt lên vai mình. Hai người nhìn nhau, đôi mắt cô gái hết sức ngại ngùng.

            Và rồi, buổi chiều xuống nhanh. Cô gái đứng lên kiếu từ, trên tay cầm hai cuốn vở và một tập giấy. Thụy cũng muốn về nhà, rồi cùng cô gái đi ra phía cổng.

            Giọng thân tình, cô gái nói:

-Em mong sang năm anh về phép.

-Anh cũng mong như em.

            Hai người đi bộ trên con đường ven sông. Dừng bước lại, Thụy hỏi:

-Nhà Liên An gần đây không ?

-Dạ gần.

-Bên kia cầu ?

-Em ở phía trên nhà ga .

-Em thích về một mình hay muốn có anh theo.

-Anh tiễn em một đoạn qua cầu thôi.

-Anh cùng đi với em.

            Trong câu chuyện, cô gái cho Thụy biết qua về gia đình cô. Và, cùng với sự thân tình ấy, cô nói về mẹ anh, các em của anh, và rất là thích thú khi cô tả qua cho anh nghe về nàng Thiên Nga. Thụy hỏi:

-Em thấy anh Nguyên ra sao ?

-Anh ấy rất đẹp .

-Còn nàng Thiên Nga?

-Em chưa tìm ra được ai để so sánh với nàng.

-Phương đã vẽ hình ảnh  Thiên Nga và kể hết chuyện cho anh nghe. Ở thành phố này, vẻ đẹp của áo trắng rất là thuần khiết.

-Anh thích em mặc áo trắng không ?

-Anh rất mong, mỗi cô thiếu nữ, ai cũng đều có riêng cho mình một màu áo yêu thương.

-Anh thật có tâm hồn đa cảm.

-Anh rất vui được nghe tiếng nói của em.

-Anh có mong gặp lại em không ?

-Anh đang đi bên em. Những ngày tới đây, anh xa khỏi thành phố này. Áo trắng, tên Liên An của em, tên Thiên Nga người con gái xứ Quảng chúng ta vừa nhắc đến là kỷ niệm thật đẹp mà Huế đã cho anh một sự rung động đầy mối hoài cảm trong ngày về.

-Em có cảm tưởng, anh luôn đi xa, nhưng lúc nào cũng mãi nhớ thương ngày tháng cũ.

-Em nói được những ý tưởng của anh. Những ý tưởng ấy nhắc anh nhớ đến một bài hát rất quen thuộc.

-Anh hát đi.

-Anh không biết hát.

            Sau vài giây, Thụy bỗng nói:

-Anh nhớ được một đôi câu ... nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em vắng tôi một chiều...

            Bóng nắng chiếu nghiêng nghiêng, dòng sông không lớn nhưng nó tạo ra được cái dáng vẻ đẹp riêng cho thành phố. Hình ảnh chiếc cầu sáng trắng màu vôi, theo ánh nắng, bóng hai người đi qua con sông , bỗng nhiên nghe tiếng động cơ nổ dội lên vang thật xa. Và lúc đó, một chiếc thuyền máy xuất hiện lênh đênh trên sóng nước, khi ra khỏi dòng sông nhỏ này chiếc thuyền sẽ gặp dòng sông lớn.

            Nơi đây, trở lại sự  yên bình. Nhà ở hai bên nằm ven theo bờ sông, mỗi căn nhà đều  có khoảnh sân ở phía trước và căn vườn nhỏ sau lưng.

            Bỗng nhiên Liên An dừng bước lại, cô nói với Thụy:

-Đã đi qua hết cây cầu, anh có nhớ lời em nói không ?

-Nhớ chứ. Nhưng sao em không nghĩ anh muốn tiễn em lên nhà ga để đợi một chuyến tàu.

-Anh muốn em làm kẻ lữ hành đơn độc.

-Hãy cùng anh đến đó.

            Thụy nói với cô gái vừa  hình dung về khung cảnh nhà ga, trong buổi chiều muộn màng biết bao nhiêu hành khách mong đợi có chuyến tàu đến, riêng một mình cô gái đứng lẻ loi bên cạnh tháp nước, đôi mắt đăm đăm nhìn về ngôi nhà trống bỏ hoang. Hình ảnh Liên An áo trắng, tấm lòng buổi chiều nhớ hương gió mà nỗi buồn dờn dợn một màu quê.

-Anh có ra thăm Quảng Trị không ?

-Có, anh về được ít ngày. Thời trước, nhà anh ở ngay ga Quảng trị. Nhà ở, nhìn sang bên kia con đường ray thấy bóng cái tháp nước.

-Em có linh cảm, anh hay đi xa nhà, nhưng luôn ước mong có được ngày trở về.

-Có được ngày trở về là cả sự bao dung.

            Nhà ga yên lặng, trống vắng. Hai người đã dừng bước, họ đứng bên nhau nhìn qua bãi đất trống. Bên cạnh hàng rào kẽm gai có một hồ nước. Căn nhà lợp mái tôn, sân trước rộng, ở đằng sau, có một con đường nhỏ dẫn ra tới bến đò.

-Em ở căn nhà đó đã mười năm.

-Ngày anh mong gặp lại em, thời gian có đổi khác đi nhiều không ?

-Không, em không biết.

            Thụy cầm bàn tay Liên An, rồi nói:

-Ngày mai anh không chỉ xa thành phố này thôi, mà còn xa thêm em nữa.

-Em cám ơn anh.

-Anh cám ơn em cho anh ngày gặp gỡ.

-Em về một mình, nghe.

-Em về một mình.

            Liên An bước đi không ngoái đầu nhìn lại. Thụy bỗng nghĩ, mình mới là người lữ khách đang trông đợi một chuyến tàu .

           

 

 

 

                                                                 II

 

 

 

            Lúc nghe tiếng động rất khẽ của chiếc ghế, người mẹ thức giấc. Giọng bình thường, bà hỏi:

-Đi sớm vậy con ?

            Thụy không đáp lời, anh chợt ngửi mùi vị sương muối từ ngoài vườn tan vào, rồi lặng yên ngồi xuống bên giường mẹ. Trên chiếc gối, mái tóc đã bạc của mẹ anh xõa rộng, lúc này, anh vẫn không biết mình muốn nói điều gì.

-Sang năm, con về thăm nhà ?

-Dạ, chưa biết.

-Sao con không xin về ngoài này cho gần nhà ?

            Thụy nắm lấy bàn tay của mẹ. Vừa đủ để cho mẹ nghe tiếng, Thụy nói:

-Ở trong đó con có điều kiện tìm kiếm thêm việc làm.

-Con ở nhà thuê ?

-Không, ở trại lính.    

-Thằng Nguyên có đem cô bạn gái về.

-Con biết.

-Con đã gặp chưa ?

-Dạ chưa.

-Cô Nga dễ thương lắm, ở Đà Nẵng.

-Dạ.

-Với con, thì sao . Đã quen ai chưa ?

-Chưa.

-Ba mẹ rất mong các con có gia đình.

-Nhưng vẫn còn lâu, mẹ ạ.

            Trong bóng tối, tiếng chuyện trò vẫn gây một cảm giác xa vắng lẫn vào trong  sương muối.  Thụy chợt nghĩ đến người cha. Hình như trong đời mình, ba anh luôn sống xa gia đình nhưng mỗi khi có được dịp trở về, lòng ông thấy rất vui, rồi bao nhiêu hạnh phúc của mình lại chỉ muốn được để dành hết cho người vợ.

-Thôi, mẹ nằm nghỉ đi.

            Thụy nhấc bổng chiếc ghế đem cất. Với túi xách nhỏ trên tay cùng vai đeo ba lô, anh bước ra ngoài rồi cẩn thận đóng cánh cửa.

            Có tiếng Phương cất lên gọi. Vừa mới dời bước, Thụy ngoái đầu nhìn  lại rồi vẫy tay tạm biệt cô em gái.

            Nhà gia đình Thụy thuê ở nằm khuất sau lưng vườn, có lối đi riêng bằng đường nhỏ, và trong lúc trời hẳn còn tối Thụy đi bộ ra phía cổng để gặp con đường chính. Thụy dừng bước ít giây vì  mắt anh bị chói lóa bởi ánh đèn điện hắt xuống. Từ con đường ngang trước mặt, anh lại đi bộ lên phía nhà ga nơi có trạm ngừng xe buýt. Một mình, khí lạnh ban mai làm anh cảm thấy thật dễ chịu. Mùa hè như đã xa, và mùa thu là một nơi nào đó.

            Bên ngoài sân ga, đèn mở sáng suốt đêm. Chỉ có một chiếc xe buýt đậu chờ khách. Khi vượt qua khỏi cây cầu Thụy trông thấy hai quán hàng mở cửa bán cà phê. Đèn trong quán hắt ra một vũng nhỏ, và anh đến vừa  kịp lúc xe sắp chạy.

            Người tài xế dụi tắt điếu thuốc, tiếng máy xe nổ khô khan, rồi nặng nề lăn bánh. Ra khỏi ga, chiếc xe vượt cây cầu nằm trên con đường về trung tâm thành phố. Những hàng cây phượng đẫm ướt  qua sương sớm,  ánh đèn điện cứ lùi dần khi xe đang chạy. Thụy nhìn qua công viên thấy sương mù trên sông, thấy những chấm đèn sáng của mấy con thuyền neo đậu, còn bên xa kia kinh thành vẫn đang mờ tối, chập chùng những cái bóng di chuyển trên bức tường gạch.

            Chỉ hơn mười phút từ nhà ga đến cầu Mới , rồi xe qua phố Trần Hưng Đạo để vào bến chính nằm bên trái khu chợ.

            Xe ngừng, hành khách xuống. Không khí buổi sáng sớm ở bến xe yên lặng, ấm áp. Những người đạp xích lô đang chuyện trò, mấy người buôn bán còn đứng bên cạnh những gánh hàng để chờ xe đổi chuyến. Quán cà phê mở cửa sớm, trong quán, đông khách ngồi. Thụy ghé vào quán, ngồi bàn trống ở ngoài gọi một ly cà phê và thêm chiếc  bánh pâté chaud. Cà phê đã pha sẵn, rất nóng, Thụy uống một hớp nhỏ rồi đốt điếu thuốc. Thụy sẽ ăn chiếc bánh, và uống cà phê sau khi hút xong điếu thuốc. Buổi sáng sớm, trời thấm lạnh, lúc này sắp sang thu. Mùa hè mong muốn đi xa, còn lại thành phố này, bóng dáng con tàu, những chiếc ghế trống và người lính đang ngồi đây với bao nỗi niềm riêng của mình, Thụy chợt nghĩ đến hai hình ảnh thiếu nữ, một cô gái nhỏ bé áo trắng, và một cô mang hình bóng áo tím như đang lớn dậy giữa cuộc đời, hai hình ảnh đó anh có thể mang theo với sự trìu mến ân cần, hay tốt hơn, hãy nên cứ gởi lại cho thành phố để nhớ ngày về.

-Con đã quen ai chưa ?

-Dạ chưa.

            Ly cà phê đậm bỗng làm Thụy nhớ đến  Huê. Chiều hôm ấy trời đổ xuống trận mưa lớn. Căn phòng ở tầng lầu hai bật đèn sáng. Trên chiếu bạc, mọi người hồi hộp theo dõi cô Huệ làm cái đang bắt bài. Rút cây thứ tư, cô nhẩm  cộng số nút trên từng lá, ra vẻ ngập ngừng, suy nghĩ. Lành cười nói:

-Còn bài non đó cô Thi.

              Cô Huệ không đáp lời mà chỉ nhìn qua mỗi tụ bài của các nhà con đang để úp. Trong lúc chờ , Thụy đếm tiền sắp lại ngay ngắn. Trời mưa lớn, anh nghe tiếng mưa và cứ tưởng mình đang ngóng đợi, trông chờ ai.

-Nhà nào bù, bỏ ra.

               Cô Huệ đã rút thêm cây bài nữa mà Thụy chẳng hay. Huê reo lên:

-Em hên quá.

                Rồi tiếp theo là Lành nở nụ cười mãn nguyện. Cô Huệ bắt lá 6 chót, dư một nút, nếu là 5 hay 4 là cô ngũ linh, ăn toàn làng. Từ trái sang phải, theo thứ tự, cô Huệ lật bài xem xét lại và chung tiền. Bài của Thụy hai con tây, quá chắc ăn. Từ trưa đến giờ anh thật đỏ, trúng luôn nhưng vì không đặt lớn  nên ăn không nhiều lắm.

                 Hết cái, cô Huệ đưa bộ bài qua cho anh Thái. Với bàn tay mau lẹ anh Thái xóc bài, rồi chẻ bài, trước khi mở hội đã lên tiếng :

-Cho đặt líp.

                 Thụy nghỉ chơi, đứng dậy nhường cho Phụng vào chiếu. Ra lối cầu thang, Thụy bước nhanh chân xuống nhà. Nhà dưới vắng lặng, mọi người đang ở trên lầu chơi bài thành hai hội, một hội xì dách, một hội tứ sắc. Ở hội tứ sắc , người lớn chơi và luôn có tay dì Hồng mẹ của Thúy. Thúy cũng đang ngồi bên chiếu bạc, say mê.

                 Thụy đi xuống bếp, mở chạn tủ lấy gói cà phê và chiếc phin ra. Thụy cho cà phê vào phin vừa đúng hai muỗng đầy. Xong, Thụy để phin lên  cái ly nhỏ rồi xách chiếc ấm ra bể lấy nước. Thụy đổ nước đầy ấm, đem vào đặt lên lò , tay sắp  những thanh củi gác chồng lên nhau xong bật diêm mồi que đóm cho lèn vào dưới lớp củi. Đóm bằng gỗ thông có chất dầu nên mau bắt lửa, cháy bùng thật nhanh.

                 Gian bếp nằm riêng biệt, không rộng nhưng ngăn nắp. Trên cái bàn gỗ cũ kỹ, phía đầu để một rổ chén bát, và ngay bên trên là ống tròn bằng nhôm móc vào sợi thép cứng để bỏ đũa. Chiếc bàn dựa sát tường phên với nhà bên cạnh, có ô cửa lưới ăn thông. Vào giờ đứng bếp, hai nhà cùng nấu nướng, vừa chuyện trò với nhau. Nhà dì  Hồng và cô Tư rất thân thiện. Bên cô Tư đông con cái đến mười người. Cô chỉ có hai cậu con trai, còn tất cả là gái, từ mấy chị lớn đến các cô nhỏ người nào cũng thùy mị, dễ mến trong cách trò chuyện hay vui đùa. Cô Tư ở nhà nội trợ, còn thầy đang làm Hiệu trưởng trường tiểu học Cầu Kho.

            Thụy đứng cạnh bếp lò nhìn những ngọn lửa cháy sáng đều. Trời mưa lớn, bỗng anh thích thú với ý nghĩ mình sẽ được thưởng thức một ly cà phê thơm, vừa đậm ngon. Mọi thứ, đều đã có sẵn.  Thụy để tay lên túi áo sờ nhẹ gói thuốc, thấy nó còn đầy. Chút nữa, pha xong cà phê, anh uống một ngụm cho ngon miệng rồi sẽ đốt điếu thuốc.

            Bất giác Thụy mỉm cười một mình, liền ngay đó  Huê xuất hiện. Thụy hỏi:

-Sao em nghỉ, không chơi nữa ?

-Em thua, hết tiền rồi.

-Có cần, anh cho mượn.

-Không, em cũng không thích ngồi lâu.

            Thụy ngước mắt nhìn khuôn mặt Huê. Thụy thấy cái dáng vẻ Huê đúng là một thiếu nữ đẹp. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ, khuôn mặt trái soan rất hợp với mái tóc cắt ngắn. Và nét đẹp của Huê rất là Tây phương. Thúy, con dì  Hồng  cũng dịu dàng nhưng không đẹp bằng Huê. Trong ngõ hẻm từ dãy nhà đầu đến cuối rất đông các cô gái còn đi học, nhưng không một cô nào đẹp sánh bằng Huê   cả. Ba mẹ cô gái người Bắc, nhưng mấy anh em đều nói theo tiếng Nam. Huê có hai anh chị học Đại Học. Vào ngày thường, Huê hay mang gạo qua gởi nhà dì Hồng quen gọi là cô Ba để nhờ nấu cơm. Thụy đã để ý đến Huê, và bắt chuyện làm quen sớm hơn ai hết, ngay sau tuần lễ đầu anh đến ở nhà dì Hồng. Huê cũng mến anh, cô rất thường hay qua nhà Thúy và lúc gặp Thụy cô gái chuyện trò rất tự nhiên. Huê học trường Gia Long, cô học khá, là một thiếu nữ rất ghiền xem phim. Thụy cũng mê phim ảnh, các nam nữ tài tử anh đều nhớ hết tên, và những phim kể chuyện tình, lúc xem, anh còn nhớ rõ từng chi tiết. Thế nhưng, Thụy không có được sự kiên nhẫn, chăm chỉ với sách đèn. Thụy đã bỏ học, và rồi đây anh sẽ  xa cách với bao nhiêu kỷ niệm buồn câm nín trong lòng mình.

-Anh đun nước pha cà phê ?

             Chỉ trong ít giây, hình ảnh Huê kéo Thụy  trở về gần gũi bên nàng. Thụy mỉm cười, nói giọng tự  nhiên:

-Trời lạnh, không có gì thú bằng uống cà phê.

-Anh có tâm hồn nghệ sĩ.

-Một chút thôi. Em uống cà phê nghe, uống với anh cho vui.

-Không, em không uống được cà phê.

              Thụy nấu một ấm đầy cho cả nhà dùng luôn nên đứng chờ lâu. Giờ thì nước sôi đã reo, vừa bốc hơi. Cả hai người cùng lặng im để nghe tiếng nước reo, bên ngoài mưa càng lớn.

               Thụy nhấc ấm nước, lửa trong bếp dần tàn ngọn. Huê  bước tới gần nhìn anh pha cà phê. Sau khi rưới cho thấm ướt cà phê một chút, Thụy đổ nước sôi đầy phin, xong đậy nắp. Cà phê rớt xuống chiếc ly trong từng giọt đậm, thật đẹp mắt làm Huê thích thú. Huê đứng ngắm những giọt cà phê chảy, cô chợt nghĩ, nước mưa thì vui như tiếng nói hay tiếng cười, còn từng giọt cà phê là màu đen đậm đặc, nó luôn mang mang  nỗi buồn.

-Em lên chơi bài tiếp đi.

-Bộ anh đãng trí rồi sao ?

-Không. Anh sẽ đưa tiền cho em lên chơi tiếp. Ăn thì mình cưa đôi.

-Còn thua, sao ?

-Thì thôi.

-Thôi, hôm nay em đen lắm. Anh ăn nhiều phải không ?

-Anh được hơn sáu trăm.

-Anh ăn non rồi đứng dậy.

-Anh chơi cho vui thôi. Ít ngày nữa, anh xa Sài Gòn .

-Anh đi đâu vậy ?

               Thụy và Huê bỗng đưa mắt nhìn nhau. Thụy nói, giọng nhỏ đi:

-Ngày mai anh xa em đó, biết không ?

               Huê hỏi:

-Nhưng mà anh đi đâu ?

-Anh đi Nha Trang. Anh vào lính rồi.

-Anh không học nữa sao ?

-Không.

                Thụy đáp, giọng nói khô vừa tan trong tiếng hạt mưa lớn rớt xuống mái tôn. Rồi phút giây ấy lặng im, vừa dửng dưng, mỗi người chợt theo đuổi một ý nghĩ. Thụy vừa thoáng thấy vẻ buồn trên cặp mắt của Huê. Giữa anh và cô gái, không phải hai người có đã có nỗi rung động vì yêu nhau, mà đúng ra, rất mến nhau một cách thân tình như anh em. Lúc nãy chơi bài ở trên lầu Huê ngồi cạnh Thụy , có lúc nàng hơi nghiêng đầu dựa vai Thụy, mắt chăm chú xem những cây bài Thụy bắt lên. Và lúc ấy, Thụy nhìn thấy người em dễ thương lạ.

                 Cà phê ngừng chảy. Thụy nhấc chiếc phin ra khỏi ly, múc mấy muỗng nhỏ đường cho vào cà phê khuấy nhẹ. Cà phê pha xong dậy lên mùi thơm làm Huê thấy thèm, và nàng cũng thấy cái dáng vẻ nghệ sĩ của người con trai qua mái tóc quăn dợn sóng, thật tự nhiên.

                   Thụy cầm ly cà phê đưa mời :

-Em uống thử đi.

                    Rất chậm từng tiếng, Huê đáp:

-Đã bảo, em không uống được mà.

-Em nói giọng Bắc hay lắm.

-Vâng, anh.

                     Hai người nhìn nhau cười. Trời vẫn mưa, mù mịt. Tiếng mưa lớn, nước dội ào ào xuống mái tôn. Thụy bỗng nhớ đến một câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.

                     Trong gian bếp, có mấy chiếc ghế con. Thụy để cà phê lại trên bàn, lấy một chiếc ghế nhỏ đưa cho Huê  cầm rồi hai người dời ra gần chỗ sáng.

-Mưa lớn quá.

-Có mưa, mới giữ được em ngồi đây, Thụy nói.

                      Thụy  uống vài hớp nhỏ, xong châm điếu thuốc. Huê cười trong mắt, nàng nhìn Thụy uống cà phê, hút thuốc tỏ ra thích thú. Thụy  nhắc lại câu nói lúc nãy:

-Có mưa, mới giữ  được em ngồi đây với anh.

-Tại sao anh bỏ học đi lính ?

                      Đôi mắt Thụy bỗng trở nên trơ trọi sau câu nói của Huê. Và, anh bỗng nhớ đến Thúy Hà , người bạn gái ở nơi một thành phố xa xôi.                       

-Tuần rồi, em có đi xem phim không ?

-Có. Phim Les jeunes loups, anh coi chưa ?

-Có, phim hay lắm.

-Em lặng người đi lúc nghe tiếng kèn thật não nuột.

-Em thật giàu cảm xúc.

-Còn anh, lúc nào cũng ra vẻ nghệ sĩ.

-Anh cũng có một vài điểm giống em.

                       Thụy nói xong, Huê không giãi bày gì cả. Cơn mưa bị chiều gió thổi tạt, một giọt mưa lớn rớt xuống vai áo của Huê. Thụy bỗng cầm lấy tay Huê lúc cô gái đứng dậy dịch chỗ ngồi tránh mưa. Rồi Thụy buông tay  ra lúc Huê ngồi xuống. Nhìn gương mặt đẹp của cô gái, Thụy nói:

-Anh có một người bạn gái rất thân.

                          Huê hỏi:

-Anh sẽ đi xa bao lâu ?

-Chừng ba tháng.

-Rồi anh trở về lại đây.

-Chưa biết nữa, nhưng anh rất mong về. Anh rất nhớ Sài Gòn, anh nghĩ đây là thành phố tuổi trẻ của mình.

- Anh sẽ làm phi công ?

-Không, anh đi chuyên viên. Có thể sau này anh trở thành thợ máy.

-Làm thợ máy cho phi cơ ?

-Khi nào phi cơ hư hỏng, trở ngại đem vào ụ thì chuyên viên coi sóc sửa chữa. Giống như xe hư, mình sửa vậy.

               Thụy  giải thích cho Huê bằng những điều nghe được trong những ngày qua khi anh làm đơn tình nguyện vào Không quân, và những ngày đi khám sức khoẻ anh hay chuyện trò với những người lính cũ, họ đã cho anh biết một số ngành nghề trong binh chủng này.

                Huê hẳn còn là một cô gái học sinh. Nàng chưa quen ai cả, và nàng cũng đã biết anh để ý tới nàng ngay từ những ngày đầu mới gặp.

-Anh học ở quân trường nào ?

-Nha Trang .  Em đến thành phố đó chưa ?

-Chưa.

-Em có thích những thành phố ở miền biển ?

-Rất thích. Nhưng tại sao anh không làm phi công ?

                 Thụy bỗng nhìn lâu vào mắt Huê. Anh thấy Huê đúng là hình ảnh của cô Phượng trong tiểu thuyết Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong. Thụy đã đọc cuốn đó một đôi lần, anh thật mến yêu cô Phượng là hình ảnh đẹp trong văn chương đem ra giới thiệu với người đời. Và rồi, anh  cũng nghĩ mình chọn binh chủng Không Quân vì yêu cuốn sách, vì bóng hình cô gái đó. Giờ đây, Huê chính là cô Phượng đang ngồi trước mặt anh. Nàng thật là giống, giống lắm, với mái tóc cắt ngắn bao quanh gương mặt đầy đặn, với nỗi buồn quá nhẹ chỉ để làm đẹp cặp mắt khi nàng cảm thấy vui, hạnh phúc. Nhưng thật buồn thay, anh không phải là phi công. Thụy nói thầm với  Huê , anh không phải là thế, nhưng anh yêu em.

            Những ngày cuối sắp rời Sài Gòn, giây phút nào nỗi buồn cũng cứ buông trôi , chấp chới trong cõi lòng khiến Thụy có cảm giác miệng lưỡi cứ đầy ứ những vị chua, vừa đắng. Mỗi ngày, Thụy hầu như ngồi trên các chuyến xe buýt.  Một hôm ấy, Thụy tìm đến Lăng. Vừa thấy bóng Thụy xuất hiện lối hiên ngoài, Lăng vội ngừng viết, gấp sách. Thụy bước vào, với vẻ mặt ủ rũ . Lăng nhìn Thụy lo ngại, định lên tiếng hỏi nhưng  vừa ngồi xuống ghế, Thụy nói ngay.

-Tôi sắp đi Nha Trang.

-Anh đi có việc gì ?

-Tôi nhập ngũ, vào binh chủng Không Quân.

                 Lăng hơi ngạc nhiên, và những ý tưởng Lăng muốn nói bỗng nằm lại trong cặp mắt mình với một nỗi xốn xang, tuy nhiên, nếu có nói ra cũng sẽ không phù hợp với những điều Thụy đang nghĩ. Thụy tiếp lời:

-Tôi đi chuyên viên, lính thường thôi.

-Chừng nào anh đi ?

-Hai ngày nữa.

                 Hai người im lặng. Thụy nhìn vào chồng sách, cầm một cuốn sách Luật xem qua rồi gấp lại. Lăng hỏi:

-Anh không đợi đến hè, thi cử xong đã.

-Thôi, tự nhiên tôi chán chuyện học hành.

-Anh đi, có bạn nào quen không ?

-Có, bạn học ở Đà Nẵng. Bạn thân, nó muốn tôi đi cùng.

                   Lăng không nói gì, nhưng rất hiểu tâm trạng của Thụy. Từ ngày vào Sài Gòn, Thụy sống như một kẻ lạc lõng, chênh vênh không có điểm tựa. Những ngày đầu háo hức trước một thành phố có đời sống xô bồ, sôi nổi, giờ đây đã lắng dịu , buồn bã trong lòng anh. Vào đây, Thụy cố gắng tìm kiếm việc làm, nhưng nó không ổn định.

-Anh đợi thi xong đã.

-Thôi, tôi không thích học nữa.

                  Thụy vẫn muốn giấu, không cho Lăng biết đơn xin hoãn dịch của anh  đã bị từ chối. Buổi chiều thật yên tĩnh. Lăng xếp sách vở cho vào kệ xong thay quần áo, mở hòm rương lấy ít tiền bỏ túi rủ Thụy đi chơi.

                     Hai người rời nhà đi ra trạm xe buýt. Vừa đi, Thụy bắt đầu câu chuyện nói với Lăng. Bằng một giọng cố gắng giữ niềm tự tin, Thụy nói cho Lăng biết anh đã làm đơn xin nhập Không Quân từ một tháng nay.  Mỗi ngày, Thụy đều có mặt ở Bộ Tư Lệnh Không Quân để bổ túc hồ sơ và khám sức khoẻ. Kết quả, anh đủ điều kiện để theo học khoá chuyên viên. Bên Không Quân khác với Bộ Binh, nói là đi lính, nhưng sau mấy tháng học căn bản quân sự không phải ra ngoài chiến trận mà sau đó, được theo học ngành nghề, những ngành như không lưu, kiểm báo, hoặc cơ khí , rất dễ có cơ hội được gởi đi nước ngoài học thêm về chuyên môn.

                Lúc Thụy ngừng nói, Lăng hỏi:

-Anh đi học chừng bao lâu ?

-Ba tháng.

-Rồi trở về Sài Gòn.

-Không biết nữa, ra khỏi quân trường là đi đơn vị.

-Mình có chắc được đi học ngành không ?

-Ở đơn vị một thời gian, sau đó họ sẽ cho đi học.

                 Hai người đứng chờ bên trạm xe buýt. Không biết nói với nhau gì thêm, Thụy nhìn ra con đường, lúc này trên gương mặt anh không giấu được cái vẻ còn ngơ ngác của mình. Chuyến xe buýt tới trạm ngừng.  Xe đông khách, Thụy và Lăng  đứng ở cạnh lối cửa lên xuống. Và, chuyến xe chạy đi ngay sau ít phút ngừng, rồi cứ ghé vào mỗi trạm là thả khách xuống rồi đón khách lên.

                 Xe vào bến chính ở trước chợ Bến Thành trong cảnh tượng buổi chiều thật huyên náo giữa đô thị. Xuống xe, Thụy hỏi Lăng:

-Mình đi đâu ?

-Đi lòng vòng chơi phố một lúc.

                 Thụy bước theo Lăng, trong đầu óc đôi lúc còn nghĩ vẩn vơ. Ngang qua những tiệm tạp hoá, hiệu sách và các quán dọc vỉa hè, Thụy và Lăng chỉ đưa mắt nhìn thoáng. Bất chợt Lăng hỏi:

-Anh cần mua gì không ?

-Không.

-Anh cứ mua đi, có tiền đây .

-Thôi, chẳng có gì cần mang theo.

                 Thụy và Lăng cứ đi dọc theo vỉa hè phố Lê Lợi mắt lướt nhìn, và trong ý nghĩ như cố gắng gợi nhớ ra một chuyện gì quan trọng. Thụy tự dưng thấy mình xúc động trước hình ảnh một ngày cuối ở Sài Gòn. Thụy nhìn quang cảnh phố có cảm giác xa lạ hơn bao giờ cả, và dù cho anh đã vào đây ở được sáu tháng, nhưng anh vẫn không thể coi đây là thành phố thân thuộc với mình.

                 Không mua sắm gì, hai người ghé vào quán Mai Hương ngồi nghỉ chân uống nước, sau đó, sẽ đến rạp hát Lê Lợi xem nếu có phim hay thì vào coi, không cả hai xuống nhà dì Hồng.

                 Rạp Lê Lợi luôn chiếu thường trực, có nhiều phim hay và giá vé rất rẻ. Thụy thường xem phim ở rạp Lê Lợi. Chỉ cần có 10 đồng trong túi là mua được một ly trái cây xay, một lát bánh mì nướng và một vé xem phim thường trực.

                  Rạp đang chiếu phim The Sun Also Rises. Trong lúc Lăng đến quầy mua vé, Thụy ghé vào quán nước mua bánh mì và nước giải khát mang vào rạp để vừa xem vừa ăn.

                  Xuất hát trước vãn, giờ đang đón khách cho xuất hát mới. Dòng người theo nhau tiến vào cửa. Anh đèn và hơi mát của máy lạnh làm cho Thụy cảm thấy dễ chịu khi bước vào trong rạp. Hai người ngồi ở bên bìa hàng ghế giữa. Lúc này, đang giờ nghỉ, phim chưa chiếu nhưng có phần nhạc đệm cho khán giả vừa nghe vừa giải lao.

-Đến hè, Lăng có về Huế không ?

-Về, nhưng cũng đợi kết quả thi xong mới về.

            Bỗng dưng trong lòng Thụy khơi dậy một niềm bâng khuâng. Và anh đã nhớ ra từ ngày ấy, về lại hôm nay, vào những phút giây sắp lên đường Thụy có cảm tưởng đời anh luôn là một kẻ cứ trông ngóng, đợi chờ .

            Trên con sông, những lớp sương mù mỏng tan dần. Thụy chỉ ngồi ở quán cà phê chừng hai mươi  phút. Khi đứng dậy, anh đeo vai ba lô, tay cầm túi xách đến quầy trả tiền và mua thêm một gói thuốc bọc đi đường. Hàng xe buýt đậu gần nhau đối diện với quán nước. Một khoảng sân rộng giữa  bến dùng để cho xe ra vào hay trở đầu. Xe đi Phú Bài nằm cuối hết, gần bờ sông. Khi thằng lơ xe dắt Thụy  đến, có thêm vài người khách nữa cùng lên. Xe vẫn đợi khách, chưa tới giờ chạy. Thụy không ngồi dãy ghế trước mà chọn ở đằng sau, gần lối cửa lên xuống. Ở phía sau, cảnh vật cho bạn nhìn thấy rõ và lâu hơn. Khi đặt chiếc ba lô xuống cạnh chân , Thụy cảm thấy dễ chịu. Thụy lấy làm vui khi nghĩ đến trưa nay được có mặt ở Sài Gòn. Sài Gòn, thành phố của mùa mưa. Rất có thể buổi chiều khi cơn mưa tới, anh đang ngồi trong rạp hát. Thụy nhớ lại cuốn phim The sun also rises, bóng dáng Thúy Hà , hình ảnh nữ tài tử  Ava Gadner. Và, đến tối, anh tìm đến quán cà phê quen thuộc, nơi ấy, có bóng dáng người thiếu phụ trẻ đẹp với vẻ nghiêm trang,  và trên gương mặt nàng luôn phác họa những nét buồn rất dịu dàng, ngây thơ. Nhưng nếu trời không mưa, bạn sẽ làm gì ?  Thụy đặt cho mình một câu hỏi, rồi tự nghĩ nếu Sài Gòn không mưa, thì lúc anh về tới, trời đã quá trưa, hoặc bắt đầu vào buổi chiều với không khí dịu mát, tươi vui, nhiều sắc màu của nắng và của những tà áo tung bay trên đường phố, chừng đó, cũng đủ gây cho anh niềm vui ngày trở lại Sài Gòn, với  buổi chiều lang thang trên vỉa hè dọc theo các dãy phố buôn bán sách báo cũ. Anh cũng cầu mong gặp Huê , giữa anh và nàng luôn hòa hợp nhau trong một tâm hồn rất mến yêu văn nghệ và cuộc sống.

             Từ  băng ghế sau nhìn qua con sông, Thụy trông thấy cây cầu và dãy phố bên kia với những mái nhà im vắng và những hàng cây cao, rất thẳng đều. Thụy nhận ra Huế trong lúc này, nó không thay đổi gì nhiều đối với người lính từ nơi xa mới trở về.  Nhưng có Huế ,  thì anh  có thể nói ra được với bạn bè  về những ngày khó khăn đầu tiên của tuổi trẻ. Từ ngày đó, anh  luôn cảm thấy mình đơn độc, sự dừng bước một nơi chốn chẳng bao giờ lâu.

-Ủa, đi đâu đây ?

            Thụy giật mình, nhận ra Hạnh. Ánh lửa que diêm sáng lên khi Thụy đang đốt điếu thuốc.

-Tao mới về nghỉ phép.

            Thụy đưa gói thuốc cho Hạnh.

-Mầy còn nhớ tao không ?

-Nhớ chứ. Hạnh, B1.

-Đúng rồi.

            Hạnh mặc đồ lính mới toanh, cũng mang ba lô túi xách như Thụy. Hạnh ngồi xuống bên cạnh , châm xong điếu thuốc Thụy mời,  hắn hỏi:

-Mày đi đâu ?

-Về lại Sài Gòn .

-Đơn vị ở trong đó ?

-Ờ, Thụy đáp.

            Hạnh nhìn qua Thụy trong vài giây.  

-Sao không đeo lon lá gì cả ?

-Lính thường thôi, không được Sĩ quan như bạn đâu.

            Hạnh chỉ cười, và Thụy thấy cặp lon Hạnh đeo sáng lên.

-Mầy làm việc ở Tổng Tham Mưu ?

-Không, ở căn cứ Tân Sơn Nhất.

-Không quân.

-Đúng.

-Mẹ, anh chọn đi lính cậu để phè phỡn.

-Vậy thôi, còn bạn chừng nào lên Thiếu úy.

-Sáu tháng nữa.

-Đơn vị đóng ở đâu ?

-Pleiku.

-Quân đoàn II.

-Đúng.

-Piston của bạn cũng mạnh lắm.

-Ông anh tao làm Phòng 4 Quân đoàn.

-Băng của tướng Toàn.

-Sao mày hay vậy ?

-Tao là lính, nhưng dân nhà báo.

            Hạnh cười lớn, bàn tay nắm vai Thụy.

            Xe rời bến lúc nào không hay. Hai đứa cùng ngừng câu chuyện trông ra đường. Trên phố chính Trần Hưng Đạo xe còn chạy chậm, để rồi trong ý nghĩ riêng mình, mỗi hình ảnh người lính trở về phép là để ấp ủ lấy một vài bóng dáng người thân, sau đó là tâm trạng sắp sửa rời thành phố đi đến nơi xa. Nơi nào xa, người lính cũng nghĩ mình sẽ đối diện với chiến tranh.

            Xe chạy nhanh khi ra khỏi thành phố. Thụy và Hạnh trở lại câu chuyện, và cũng có lúc ngừng, như thể phút giây ấy là sự ràng buộc, mơ hồ vừa thân thiết. Trên quốc lộ, gió thổi lướt qua cánh đồng tìm đến các ngôi làng, cảnh ruộng vườn, nhà ở, ánh đèn trong sự chuyển động xôn xao và sẽ trở nên bình yên khi trời sáng. Có tiếng súng nổ lẻ tẻ, và Thụy chợt trông thấy vài bóng dáng người băng qua núi.

            Thụy hỏi Hạnh:

-Về nghỉ phép được bao lâu ?

-Mười ngày.

            Thụy nhớ lại rõ những tháng năm của thời niên thiếu, trong số bạn học, có Hạnh. Hạnh cũng đã đi lính, nhưng không thay đổi nhiều, vóc dáng vẫn nhỏ bé, giọng nói chậm rãi, thân tình.

            Trời rạng sáng và có mưa. Xe buýt không vào phi trường, đậu ngoài đường lộ và chỉ có mình Thụy và Hạnh xuống xe. Khi hai người lính đã xuống, xe chạy tiếp. Trời mưa nhẹ hạt. Từ đường ngoài vào trạm tiếp liên gần 200 mét, hai người lính bước đi nhanh. Vừa lo mưa nặng hạt, nhưng trong mắt, trong lòng anh nào cũng thấy vui, vừa thích làm dáng.

-Ở Không quân, mầy cấp bậc gì ?

-Lính trơn.

-Vậy thôi .

-Ờ, yên thân ở thành phố. Nhưng rồi cũng đi học chuyên môn.

-Mầy cũng phải xin học khóa chuyên môn.

-Đang chờ.

            Hai người dừng lại ngoài mái hiên lấy khăn lau mặt. Bên trong, đã có một số hành khách chờ chuyến bay. Kim đồng hồ trên tường mới 7 giờ kém 10. Sau khi coi lại bảng phi trình, Thụy hỏi Hạnh:

-Mầy ăn uống gì chưa ?

-Chưa.

-Còn sớm, qua quán cà phê ngồi.

            Tự nhiên, Thụy  cảm thấy mình lớn hơn Hạnh, và trong tình bạn hai đứa rất muốn nói với nhau một đôi điều để có sự che chở. Thụy và Hạnh cùng ngồi xuống chiếc bàn ngoài. Quán cũng đông khách, có tiếng trò chuyện của lính tráng , nhưng không ai làm ồn. Cà phê, khói thuốc lan tỏa.

            Hạnh kêu hủ tiếu và cà phê sữa. Thụy không ăn sáng, chỉ uống cà phê, và anh vẫn thích cà phê đen bỏ chút bơ hơn là dùng với sữa.

            Năm học đó, hai bạn cùng đậu vào Đệ Thất trường Nguyễn Hoàng. Mấy tháng đầu còn học ở trường nhà tranh gần bến Hộ, đến trước Tết Nguyên Đán chừng một tuần học sinh dọn về trường mới nằm ở sân vận động. Nơi đây, trường ốc, sân chơi rộng rãi, và học sinh có một ngày vui liên hoan tại lớp với các thầy cô trước khi được nghỉ mười ngày về ăn Tết với gia đình.

            Đứa bé gái bưng chiếc khay ra đặt xuống bàn thấp. Tô hủ tiếu và ly cà phê sữa cho Hạnh. Ly cà phê của Thụy đen đậm, anh cầm thìa nhỏ  lấy đường trong hủ cho thêm vào xong khuấy nhẹ.

            Thụy uống cà phê, nhìn Hạnh đang ăn. Ở ngoài sân, những đám bụi mưa bay trong gió sớm, mang cái vẻ buồn vắng rất nhẹ nhàng. Bỗng Hạnh hỏi:

-Mầy lên Pleiku bao giờ chưa ?

-Chưa.

-Đó là thành phố của lính.

-Đất của Pleiku màu đỏ.

            Thụy thấy người bạn ăn ngon.  Trên gương mặt còn thư sinh, hắn cũng là thứ lính cậu, an nhàn như Thụy, hai đứa chẳng có gì hơn nhau ngoài cái lon đeo trên ve áo, nhưng với Hạnh  tương lai có được sự đợi chờ. Ngày ra quân trường đi đơn vị, Thụy may mắn được ở Sài Gòn, đây là thành phố anh dễ tìm kiếm thêm việc làm bằng nghề viết báo, vừa được vui thích, tự do.

            Thụy cười nhìn bạn cũ, hỏi:

-Sao ?, vợ con hay có bồ em nào chưa ?

-Chưa, nhưng mầy yên chí.

-Em, Pleiku.

-Ờ, một em làm cô giáo.

            Hạnh tiếp tục ăn. Một lúc hắn hỏi:

-Có coi phim The quiet American không ?

-Có.

            Thụy được coi phim này ở rạp Châu Tinh ngay trong tuần nghỉ phép đầu tiên.        Hạnh lấy trong túi ba lô cuốn truyện bản tiếng Anh. Thụy cầm cuốn sách lật xem qua vài trang, nói:

-Tao có đọc rồi, đọc qua bản dịch.

-Còn phim, mấy thấy sao ?

-Xem cũng được, không hay bằng truyện.

            Trong lúc Hạnh còn ăn, Thụy nhớ nghĩ đến Phượng. Phượng rất là thân thiết với tác giả, với Sài Gòn và có anh nữa. Anh yêu thích nhân vật Phượng. Anh thấy nàng đẹp khi xõa rộng mái tóc xuống vai áo. Và thuở ấy, thành phố này được gói ghém sự yêu thương trong lời đề tặng ở trang đầu của tác giả. Graham Green là một nhà văn người Anh, ông đã có thời gian sống lâu ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Nhà văn Jules Roy viết cuốn trận Điện Biên Phủ có nhắc đến tên ông. Và, trong cuốn sách ấy, hai người được nói đến nhiều nhất là tướng Navarre và tướng Võ nguyên Giáp.

            Ăn xong, Hạnh cầm ly cà phê sữa đưa lên miệng uống. Hắn uống nhanh, cảm thấy thỏa mãn sau bữa ăn sáng no bụng. Tô hủ tiếu hắn gọi là tô lớn. Thụy hẳn còn ít cà phê chưa uống hết. Thụy uống chậm và đã đốt liền mấy điếu thuốc trong lúc Hạnh ăn , vừa chuyện trò. Hạnh nghe Thụy nói:

-Tao có nhiều truyện dịch hay.

-Mầy nên tìm nguyên tác mà đọc.

-Ngoại ngữ tao không khá.

-Mầy cứ đọc bừa, tự nó vỡ ra.

-Đọc truyện Anh, Pháp phải có nhiều ngữ vựng.

-Nhưng chịu khó đọc, cứ đọc đi, rồi nghĩa các câu chữ sẽ bật ra.

-Mầy xong trên Đại học chưa ?

-Chưa, mới được hai chứng chỉ.

-Bên nào.

-Văn khoa. Tao cũng có được một chứng chỉ bên Luật.

-Có tính học tiếp không ?

-Có chứ. Phải cố cho xong.

            Chỉ hai mươi phút ngồi ở quán mà thời gian tưởng như lâu. Khi cả hai đứng lên, vừa lúc có một xe ca chở khách tới và ở văn phòng trạm tiếp liên thông báo giờ các chuyến bay cho hành khách. Hầu hết là lính tráng đi phép, đi công tác, có một số ít thường dân xin quá giang. Tự dưng, Thụy và Hạnh có cảm giác lạc lõng, vì sắp sửa chia tay. Có hai tuần phép, và đây là kỳ nghỉ phép đầu tiên từ ngày Thụy đi lính. Liên An nhỏ bé thân thương, nhìn đôi mắt An, anh nói với cô gái được một đôi điều về đời lính và hình ảnh người lính trong đời anh. Về Huế, thành phố này thật đầy ắp những kỷ niệm. Thụy có hai ngày ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội. Thụy gặp vài người bạn cũ, các bạn anh không bị đi lính, đang dạy học. Khu Morin là khu Đại học, ở khu này có nhiều quán cà phê đông nam nữ sinh viên tụ tập tạo nên không khí văn nghệ thật đặc biệt dành cho lớp trí thức trẻ. Và, mỗi buổi chiều cũng có khá đông lính tráng  đến, họ là lính thành phố và một thời là sinh viên. Thực ra, Thụy rất muốn vào Đà Nẵng để thăm gia đình Thúy Hà nhưng chẳng hiểu sao anh lại không mong mỏi chuyến đi. Và rồi anh nghĩ, khi trở lại Sài Gòn anh sẽ nhận được một hai lá thư của nàng. Hay là, anh đã cảm thấy vương vấn hình ảnh của Thiên Nga vì trong  chuyện về cô gái và anh Nguyên nghe Phương kể thật là vui, rất chân tình .

            Bên kia con đường, người lính trông thấy cánh đồng, phía xa là ngôi làng và bóng núi. Sương mù làm mờ khuất, trời đang mưa nên cảnh vật trở nên hiu quạnh vắng vẻ, nhưng nó cũng đã tạo cho bạn có một vẻ đẹp xa vắng của thời gian. Bỗng nghe có tiếng còi tàu vọng, một lúc sau, đoàn tàu tới gần và chạy ngang qua với tốc độ bình thường. Thụy nhìn đoàn tàu, chỉ thấy có hai toa hành khách. Những toa xe khác nối nhau nhưng cửa đóng kín.   

            Hai người lính chia nhau điếu thuốc, đốt que diêm châm lửa, và bắt tay nhau. Thụy đứng vào hàng đợi nhân viên của trạm hướng dẫn ra cổng. Có bốn chuyến bay sáng nay, mỗi chuyến cách nhau một giờ. Sau chuyến đầu Thụy đi Sài Gòn là tới chuyến  Pleiku của Hạnh.

-Đi nghe Hạnh.

-Ờ, mong gặp lại.

            Hành khách di chuyển. Khi ra ngoài sân bay, họ cùng nhìn thấy một quang cảnh trống trải, hai chiếc phi cơ đậu hai nơi xa cách nhau, và cả đoàn đi theo viên Trung úy hướng dẫn đến chiếc C130 đang chuyển hàng.

            Hành khách dừng lại khi tới gần. Viên Trung úy gặp trưởng phi cơ trình danh sách, một nhóm trong phi hành đoàn đứng dưới cánh bay lớn đang hút thuốc trò chuyện. Viên Đại úy Trưởng phi cơ người tầm thước, mặc đồ bay lam, đội nón lưỡi trai có gắn phù hiệu phi đoàn và ba bông mai.

            Sự tình cờ làm  Thụy chú ý nhìn lên phía trước khi thấy bóng một cô gái xuất hiện với chiếc áo dài trắng. Anh thấy mái tóc dài của cô phủ trên lưng áo. Cô có mái tóc đẹp, nhưng anh chưa trông thấy rõ khuôn mặt cô. Huế-Sàigòn xa cách gần hai giờ bay, và anh nghĩ, cô gái đang học ở Sài Gòn, những ngày tháng qua của mùa hè cô về thăm gia đình. Ngày về phép của những người lính như anh thì ngắn, còn cô gái, những ngày nghỉ được sống với gia đình lâu hơn, luôn luôn được nghe tiếng nói là nguồn vui của hạnh phúc. Nhưng chắc gì sang năm, khi mùa hè tới, cô sẽ rời xa Sài Gòn để về Huế. Thụy chợt vui, nghĩ rằng, mỗi cô gái thường chọn các thành phố thích hợp với thời tiết trong tâm hồn mình. Và riêng anh, cũng có lúc thầm nghĩ cuộc đời như một bài hát.

            Hành khách bước lên phi cơ sau khi hàng hóa quân nhu chuyển xong hết. Không đợi lâu, đèn trong phi cơ bật sáng và rồi tiếng động cơ nổ. Thụy bắt đầu đếm từng khoảnh khắc thời gian khi phi cơ lăn bánh.  Tới đầu phi đạo định hướng, phi cơ dừng, trong một phút chờ đợi , phi công liên lạc với đài kiểm soát không lưu. Khi động cơ rùng lên, thân phi cơ rung chuyển , rồi với vận tốc cất cánh phi cơ lao đi bay lên bầu trời.

            Sau hơn một tiếng mười lăm phút vượt không gian, chuyến bay đưa hành khách tới Sài Gòn. Ngồi bên cửa nhìn xuống  lúc phi cơ hạ thấp cao độ chuẩn bị đáp, dần dần qua bóng những đám mây tản mác, Thụy nhớ lại những bóng hình ngọn núi, sương mù, biển và con đèo Hải Vân bên dưới đôi cánh phi cơ. Và, đó cũng là lúc, anh chợt nghĩ đến Thiên Nga, ước mong gặp nàng. Anh cũng không hiểu sao, với kỳ phép rộng thời gian mà anh không có được ít ngày vào Đà Nẵng thăm gia đình Thúy Hà, để lúc ấy, được gần gũi và nói với nàng những lời yêu thương.

 

 

                                                           III

 

 

            Trung úy Nguyên cùng đội dân sự vụ  và y tế đi Phò Trạch. Ở đó một tuần, đoàn làm công tác khám bệnh, đào giếng, gặt lúa và lợp nhà cho dân. Khi trở lại đơn vị Trung đoàn, cả toán được nghỉ xả hơi ít ngày. Nguyên về thăm nhà , tắm rửa xong anh vội vàng thay quần áo đón xe đò vào Đà Nẵng.

            Tới thành phố giữa buổi chiều, nắng hè đã dịu bớt. Thiên Nga có mặt ở nhà lúc Nguyên tới,  nàng hết sức ngạc nhiên nhưng lòng cũng thấy vui khi gặp chàng. Hai người nhìn nhau có chút ngại ngùng, vừa cảm thông.

            Căn nhà Thiên Nga nằm ở khu phố chính trông ra hai con đường Hùng Vương và Triệu Nữ Vương. Những lần trước, Nguyên được cô gái cho phép chàng theo chuyến xe khách từ Huế vào Đà Nẵng khi cô về thăm nhà, và họ ngồi chuyện trò ở quán nước một giờ khá lâu trước khi chia tay. Có một đôi lần, qua nhắn tin, hai người gặp nhau ở nhà người bạn thân. Luôn luôn, cô gái rất giữ gìn ý tứ.

            Và, đây là lần đầu tiên vì quá nhớ nhung, Nguyên liều lĩnh tìm đến nhà Nga. Với tình yêu, cô gái rất hiểu. Hai người ngồi ở bàn khách nhà dưới chuyện trò, giọng nhỏ nhẹ, thân tình. Nguyên nhìn mái tóc, gương mặt, và nghe tiếng Thiên Nga nói, anh có cảm giác như thời gian là cánh cửa thấp thoáng những hình bóng của anh.

            Sau những phút giây băn khoăn, Nguyên mời Nga đi chơi phố. Không chỉ tiếng nói nhỏ, mà trên gương mặt Nguyên lộ ra hết vẻ bỡ ngỡ khiến Nga không giấu được nụ cười trong cặp mắt nhìn lại anh. Một lúc sau cô đứng dậy, để Nguyên lại một mình. Nguyên thật lo lắng khi nghe tiếng Nga nói chuyện với bà mẹ. Cũng khá lâu, Nga mới trở  ra ngoài và bảo Nguyên ngồi chờ.

            Chỉ nửa tiếng, Nga thay quần áo xong . Phố đông vui ngày cuối tuần, ra khỏi nhà một quãng xa nàng mới để cho Nguyên nắm tay mình. Bên nhau, hai người dạo bước, giọng nói của Thiên Nga rất hồn nhiên và tự tin. Trên đường đi, Nguyên kể cho người yêu về mấy ngày đi công tác vừa qua, và anh tả lại ngôi làng Phượng Liễu  bằng những nét phác họa sống động như làm một bài luận văn.

            Bên kia đồi cát là ranh giới hai tỉnh. Hải Lăng là một quận lỵ ở gần ngay đó, từ quận về quê nội của Nguyên khoảng mười cây số. Quê nội anh ở gần biển và trước khi đến biển con đường xuyên qua một khu nghĩa địa là những đồi cát trắng trải dài trông hình dáng như đàn voi. Biển rất vắng,  rất xanh,  tràn ngập bầy chim bay rộng cả một vùng trời.

            Tiệm giải khát đối diện với rạp hát. Hai người ngồi dưới chiếc dù lớn đặt gần mái hiên. Bên ngoài rạp hát, lảng vảng một hai bóng người còn đứng xem những tấm biển quảng cáo chiếu phim kỳ tới. Lúc này, trong rạp phim đang chiếu, chừng bốn lăm phút nữa mới vãn xuất.

            Nguyên ngoắc tay gọi đứa gái nhỏ đến gần.

-Cà phê đá.

-Nước cam tươi.

            Đứa bé gái bỏ đi ngay vào quầy. Nguyên lặng nhìn Nga với một nụ cười trong đôi mắt. Nàng cũng rất yêu đôi mắt đẹp của Nguyên. Nàng rất thích cái dáng trẻ thơ của anh, và những câu chuyện anh kể về đời lính. Những cô gái trước đây Nguyên quen, anh cũng kể ra cho nàng biết, có những chuyện vui ngộ nghĩnh làm nàng bật cười. Và, sau này, anh tỏ lòng tha thiết nói lời tâm sự, giờ đây chỉ có nàng là hơn hết.

            Nguyên uống cà phê, nhưng không hút thuốc. Anh không biết hút thuốc lá, nhưng cà phê thì phải có. Những năm ở Sài Gòn làm báo, mỗi buổi sáng, Nguyên thường viết bài ở quán cà phê ngay trước mặt tòa soạn. Anh viết nhanh, và cà phê là chất xúc tác gợi nhiều cảm hứng cho anh viết.

            Thỉnh thoảng mắt Nguyên lơ đãng nhìn ra đường ngắm phố và chú ý những người đi qua lại.

            Thiên Nga uống từng ngụm nước, cặp môi mỏng ướt của nàng đẹp như cánh hoa. Nàng rất vui tính, những ngày qua về nghỉ hè nàng cũng biết mình nhớ Nguyên rất nhiều. Nhưng với tâm hồn thiếu nữ, nàng có sự ấp ủ, vừa e thẹn để giữ gìn nỗi nhớ nhung luôn thật dịu mềm như là một thứ tơ lụa.

-Nga định hôm nào ra Huế ?

-Ngày mốt.

-Anh ở đây chờ Nga ra luôn.

-Anh không sợ bị phạt à ?

            Nguyên cười bảo:

-Có Nga , anh chẳng sợ ai cả.

            Nàng cười. Anh tiếp lời:

-Anh được nghỉ phép ít ngày sau chuyến công tác.

-Tối nay, anh ở đâu ?

-Ở nhà người bạn.

            Ánh mắt nàng nhìn qua người yêu có vẻ bối rối, vừa ngại ngùng. Nhưng rồi, lấy một giọng bình thản, Nga nói.     

-Về nhà em mà nghỉ.

-Má có la không ?

-Em sẽ xin phép cho anh.

-Cám ơn em.

-Cám ơn suông thôi sao ?

-Anh bao em một vé ciné được không ?

-Quá đúng ý em.

            Nguyên nắm tay người yêu. Bàn tay cô gái rất mềm mại,  nhan sắc nàng cũng tỏa ra hương thơm làm anh thật sung sướng với tình yêu mình đang có.

-Em có vẽ tranh không ?

-Có, em vẽ được khá nhiều.

            Trong khoảnh khắc này đã làm Nguyên nghĩ nhiều đến cô gái. Anh nghĩ về cô trong năm học tới. Anh nghĩ tới những màu sắc cô yêu thích, những khung vải hình thành bức tranh cô đã vẽ. Cô gái yêu thích hội họa và tài năng của cô sẽ phát triển. Cô là một họa sĩ lãng mạn có tâm hồn thật phong phú, rồi đây những bức tranh sáng tác sẽ làm cô nổi tiếng.

            Hai người nhìn nhau trong sự   yên lặng của niềm cảm thông. Trên bàn, ly nước cam và ly cà phê đã vơi một nửa. Trong màu vàng của ly nước cam, ánh lên âm thanh hay đó là bao nhiêu tiếng nói cô gái đã ghi nhận được từ những tấm ảnh của cô sắp xếp trong cuốn album. Cô gái có một cuốn album nhỏ, trong cuốn này, những tấm ảnh của cô được sắp xếp theo thứ tự thời gian.

            Mỗi lúc, trên đường phố ngang qua rạp hát người đi và xe cộ qua lại rất đông. Mùa hạ sắp hết nhưng trời còn nóng. Và khi nghe gió rung động những cây lá, bạn sẽ có cảm giác ánh nắng cũng bị gió cuốn trôi, bập bềnh, lan rộng ra tới bờ sông. Thành phố nằm bên con sông. Con sông chảy qua bến Cảng rồi theo dòng chính trôi giạt tới biển. Miền Trung đất hẹp rất dài dựa lưng núi Trường Sơn và hướng ra biển Đông. Thành phố này cách xa biển 6 cây số. Có nhiều bãi biển rất đẹp. Ở thành phố này có phi trường lớn, ngoài quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn có những đơn vị Đồng Minh Mỹ, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc. Và, về đêm trong thành phố không khí chiến tranh vẫn có lúc đe dọa.

            Hai người chuyện trò với nhau cho đến lúc bên kia rạp hát đèn sáng lên ở ngoài và xuất hát vừa vãn. Từ cửa chính, khán giả ra đông còn vọng tiếng ồn ào từ những câu chuyện về cuốn phim.

            Nàng cười nhìn chàng, nói:

-Anh phải giữ lời hứa với em.

            Chàng gật đầu, lúc ấy mắt nàng nhìn chàng một cách trìu mến. Chàng còn dáng vẻ thanh tú của một sinh viên. Chàng có đôi mắt đẹp. Nàng cũng rất thích cái dáng điệu ngập ngừng của chàng khi nhìn nàng và muốn nói một câu tỏ tình. Từ  buổi đầu gặp, hai người rất ăn ý với nhau.

            Năm ngoái, nàng trông thấy chàng ở một quán cà phê. Tối hôm đó có buổi trình diễn nhạc của một nhóm sinh viên. Trong đám đông người trẻ  nổi bật một chàng trai mặc đồ lính, dáng vẻ linh động, anh ta đang chuyện trò với các sinh viên thuộc thế hệ cùng lứa ngày xưa. Anh chàng này ham vui chuyện mà không trông thấy cô gái để ý đến mình. Buổi ca nhạc nhiều tiết mục thật sôi động, vui nhộn, hào hứng với nhiều người thay nhau lên bục sân khấu. Có những bản nhạc, mọi người cùng vỗ tay và hát. Trong một lúc bất chợt quay hướng nhìn, chàng trông thấy nàng. Thực sự đó lá phút kỳ diệu, nhớ đời. Chàng đã cảm ngay hình ảnh cô gái ngồi ở phía bên kia với gương mặt dịu hiền và mái tóc xõa rộng thật là quyến rũ. Nhưng chàng không dám nhìn lâu, sau ít giây trầm lắng, thiết tha với nàng, chàng quay trở lại nói chuyện với người bạn bên cạnh.

            Mười hai giờ đêm chương trình nhạc kết thúc, quán cà phê đóng cửa. Khi về đến nhà, cả hai người bỗng hết sức ngạc nhiên gặp nhau ở lối cổng vào. Và, người nào cũng thấy vui, có sự thân tình ngay lúc đó như  thể đã quen từ trước.

-Cô ở đây mà tôi không hề hay.

-Em mới dọn đến tuần trước.

-Vậy à. Nhưng trước đây, thì  ở đâu ?

-Em ở trong thành nội.

-Tôi ở đơn vị ít khi về nhà .

-Em cũng không thấy anh từ hôm dọn đến bây giờ.

            Nguyên nhìn cô gái với đôi mắt thiện cảm, nghĩ cô như là em gái của mình. Cô gái nói:

-Lúc nãy trong buổi nghe nhạc, chỉ có mình anh mặc đồ lính.

-Lạ quá phải không ?

-Ờ, cũng thấy lạ.

            Hai người chợt dừng bước, nửa muốn chia tay, nửa trong ngập ngừng vẫn còn muốn nói thêm một vài chuyện. Trăng sáng bất ngờ. Bên lối cổng vào là con đường đi ra bờ sông. Khi trăng dậy sáng, quang cảnh khu phố ánh lên một màu vàng tuyệt đẹp. Từ chỗ hai người đứng, họ trông thấy chiếc cầu, và cũng trông thấy mặt nước trên dòng sông, tự dưng mỗi người nghe lòng mình có một cảm giác nôn nao kỳ lạ. Nguyên nhìn thấy cô gái đẹp lạ lùng. Và, lúc ấy, cô gái cũng thật là bối rối, vì quá lo sợ lời tỏ tình của chàng sẽ nói với mình. Thế nhưng, nàng cứ chôn chân một chỗ, không thể dời bước nổi.

-Em cho anh biết tên được không ?

            Nàng đáp:

-Em tên Nga.

-Anh tên là Nguyên.

            Họ vẫn còn bên nhau, và lúc này, cùng nghe thấy rõ tiếng nước dòng sông chảy.

-Trăng sáng đẹp quá, phải không Nga?

            Một giọng vui, Nga nói đùa:

-Vâng, nó cũng đẹp như anh đang mơ mộng.

-Tên em cũng có vầng trăng.

-Có phải anh liên tưởng đến một câu trong Kiều.

-Em nói đúng.

            Với nụ cười vừa dịu sáng trên đôi mắt đẹp, bao nhiêu ý tưởng trong đầu chàng, nàng biết hết.

            Rồi một giọng thân tình, nàng hỏi:

-Anh ít khi về nhà lắm phải không ?

-Anh thường ở trên đơn vị.

-Sao anh ít về nhà ?

-Anh sẽ về, để luôn được gặp em. Em đang học ngành nào ?

-Em học trường Mỹ Thuật.

-Hay quá. Hôm nào cho anh xem những bức tranh em vẽ.

-Em mới học năm thứ nhất.

-Anh có nhiều người bạn dạy bên đó.

-Chắc là thân với anh.

-Những năm anh chưa đi lính, những bạn ấy học chung với anh ở trường Văn Khoa.

-Anh học xong rồi.

-Chưa. Anh học dang dở, rồi đi lính.

            Giọng Nguyên nói nghe khô khan. Cô gái nhìn anh, nàng hiểu được lời thành thực của anh khi nói ra điều ấy với nàng. Với sự cảm thông ấy, cả hai người dời gót lúc nào không hay. Bên nhau, cùng đôi mắt và ý nghĩ về cuộc đời, họ theo con đường hướng đến bờ sông.

            Trên chiếc cầu, độc nhất có một bóng người đi xe đạp.        

-Em không có gia đình ngoài này ?

-Gia đình em ở Đà nẵng.

            Trên bờ sông đầy cỏ , những hàng cây trồng rất đều ở bên này cũng như bên kia. Ở cạnh lối đi xuống bến nước có băng ghế đá, hai người ngồi xuống. Đêm bắt đầu trôi giạt khi sương mù giăng trên sông.

-Em thấy lạnh không ?

-Lạnh.

-Ngồi đây một chút rồi mình về.

-Tùy anh.

            Khi Nguyên rời ghế đứng dậy đi tới quầy trả tiền nước, Nga ngồi một mình, nàng vừa nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai người cách đây hơn một năm.

            Trên bàn, chàng để lại tiền lẻ cho người phục vụ nước uống. Hai người đi bộ tới ngã tư, họ dừng chờ đèn dành cho bộ hành. Rồi tay nắm tay, cả hai băng qua đường cùng với nhiều người khác. Từ ngã tư, họ đi ngược trở lại đến rạp hát đối diện với quán nước. Bỗng dưng cô gái hỏi:

-Người em của anh đang ở đâu ?

-Ở Sài Gòn. Nó vừa trở về phép thăm nhà, giờ đi lại rồi.

-Em anh cũng đi lính.

-Ờ, nó đi lính thường thôi, không phải Sĩ quan.

-Sao không phải là Sĩ quan ?

-Nó học hành dang dở, không được hoãn dịch đành đi lính. Tuy nhiên, hắn có được bằng Tú Tài bán, hai năm nay, hắn thi toàn phần, keo nào cũng trượt.

-Người nào học hành dang dở cũng đều thất bại.

-Trên nguyên tắc là như vậy.

-Người em đi lính gì ?

-Không quân.

-Chà, đó là lính hào hoa.

-Văn vẻ vậy thôi, nó cũng rách lắm.

-Ít có tiền tiêu xài.

-Đúng vậy.

-Có viết văn nữa, phải không ?

-Ờ, nó đang tập tễnh viết văn. Cũng có năng khiếu, triển vọng.

-Em có đọc một truyện ngắn.

-Em thấy nó viết được không ?

-Cũng được. Lãng mạn, có triển vọng như anh nhận xét. Lấy bút hiệu Thiên Lan là sao?  Chắc là quen cô nào đó.

-Ờ, nó được quen cô nào là đưa người đó vào truyện.

-Bao nhiêu phần sự thực ?

-Anh chịu.

-Còn anh, đến bao giờ sẽ viết về em ?

-Đã hẳn rồi, một ngày sắp tới.

-Anh phải nhớ đưa em đọc.

            Với sự dừng bước nhẹ nhàng, chàng gởi vào đôi mắt nàng cái nhìn thật trìu mến. Chàng yêu nàng, hạnh phúc trong tình yêu dành hết cho người em gái .

            Rồi, nàng đi theo chàng. Nàng có ý tưởng, từ nay, chàng là điểm tựa của nàng. Tới rạp hát đông người, nàng đợi chàng mua vé. Nàng nhìn lên đồng hồ trước rạp ước tính thời gian cho buổi đi chơi bên nhau. Khi thấy chàng từ  quầy vé trở ra, nàng rất vui với nụ cười trên đôi mắt.

            Khán giả đi vào cửa chính. Đây là rạp hát lớn nhất của thành phố rất lịch sự, sạch sẽ. Những hàng ghế trống trước mặt lần lần có khán giả vào lấp chỗ, hai người ngồi ở hàng ghế xa bên dưới mái hiên của tầng lầu trên.

            Đèn trong rạp hát sáng, một bản nhạc dạo nghe êm ái, thân tình. Bàn tay nàng trong tay chàng, những ngón tay đan vào nhau, ấm áp như bao giờ cũng có mùa đông và những sợi len đan cho cuộc đời.

-Anh ở đơn vị lúc này ra sao ?

-Anh đi công tác luôn. Đôi khi, sau chuyến công tác phải viết bài phóng sự gởi báo Tiền Tuyến ở Sài Gòn.

-Ở đây, mình cũng làm việc cho báo Sài Gòn.

-Việc này anh làm thêm, khi đăng bài, tòa báo trả tiền nhuận bút.

-Em rất hãnh diện về anh.

-Còn em của anh là một cô họa sĩ trẻ đẹp.

-Em sẽ vẽ bức chân dung tặng anh.

            Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng, rạp hát lắng im vừa đúng lúc đèn tắt. Trong bóng tối, chàng thấy từ gương mặt nàng ánh sáng tỏa rất dịu hiền. Nhìn gương mặt nàng, một giọng thầm, chàng nói:

-Em đẹp quá.  

            Chàng nghiêng mình qua,  trải rộng cánh tay lên thành ghế và chàng thấy hạnh phúc vô cùng khi nàng ngả xuống cả mái tóc mềm dịu rồi tựa đầu lên cánh tay chàng. Chàng hôn xuống vầng trán, xuống bên đôi má hồng của nàng, rồi hai người im hơi, dấu yêu với từng nụ hôn ngọt ngào trên cặp môi mềm ướt, thơm tho. Khi chàng hôn, đôi mắt nàng khép lại, run rẩy, và nàng thấy lại hình ảnh nhỏ bé thời thơ ấu, nàng cũng nhớ đến cô em gái có gương mặt thiên thần, và luôn luôn những bóng dáng ấy hiện về trong trí tưởng khi nàng nghĩ đến ngày mai đây của đời mình.

-Em và anh, chúng ta có nhau.

-Em yêu anh, nàng nói.

-Cám ơn em.

            Hai cánh tay nhẹ nhàng buông. Hai người đã qua phút mê đắm, giờ họ trở lại với cuốn phim dạo đang chiếu trên màn ảnh. Một lúc khá lâu, phim chính bắt đầu.

            Khi trên màn bạc hiện ra một quang cảnh những đoàn quân đang di chuyển Nguyên bỗng nhớ ngay đến những giòng đầu tiên ở cuốn tiểu thuyết mình đã đọc và liên tưởng đến một miền đất nước Ý trong thời kỳ chiến tranh. Đây là cuốn phim dựa vào tác phẩm cùng tên L'adieu aux armes của nhà văn nổi tiếng Mỹ đoạt giải văn chương Nobel, Ernest Hemingway.

            Bỗng nghe tiếng khán giả, và tiếng cô gái nữa cũng  kêu lên:

-Trời , cô ta dữ không.

            Rồi cô gái nắm giữ chặt cánh tay chàng. Cảnh trên phim vừa diễn ra là cái tát mạnh của cô gái vào mặt chàng trai khi anh chàng cố ý liều lĩnh ôm hôn cô. Rồi cô ta xin lỗi, và hai người trở lại với câu chuyện lòng của mình. Sau đó, cô để cho chàng ôm siết lấy và hôn mình.

            Khi xem phim, Nguyên luôn gợi nhớ từng đoạn văn mình đã đọc, và khung cảnh chiến tranh đã cho anh nghĩ nhiều đến số phận những người lính. Bên cạnh anh , người yêu cũng cuốn hút say mê xem phim. Jennifer Jones nữ tài tử nổi tiếng trong vai cô y tá Cathérine , Rock Hudson nam diễn viên, đóng vai chàng Trung úy Henry. Henry là người Mỹ phuc vụ trong đội cứu thương bên quân Ý.

            Một ngày hôm đó, đơn vị anh đóng quân bị địch tấn công bằng trọng pháo, và anh bị thương. Từ mặt trận, Henry được đưa về bệnh viện, ở đây anh gặp lại người mình yêu . Và, từ  đó mối tình nẩy nở.

..Nghe mưa kìa.

-Mưa đang nặng hạt.

-Và anh sẽ luôn yêu em phải không ?

-Sẽ luôn luôn yêu.

-Và mưa cũng sẽ chẳng gây nên điều gì khác biệt ?

-Chẳng làm khác biệt.

-Dễ chịu quá. Bởi em sợ mưa.

-Sao vậy ?.....

-Em không biết, anh yêu. Nhưng em luôn sợ mưa.

-Anh thích mưa.

-Em thích đi dầm mưa. Nhưng chẳng thể nào yêu được.

-Còn anh thì luôn yêu em.

-Em sẽ yêu anh trong mưa, trong tuyết, trong cả mưa đá và.. có còn loại gì khác nữa ?

-Anh không biết. Anh thấy buồn ngủ quá.

-Ngủ đi, anh yêu và dẫu thế nào đi nữa thì em cũng mãi yêu anh.

-Em chẳng sợ mưa lắm phải không ?

-Chỉ trừ lúc được ở bên anh.

-Sao em lại sợ mưa ?

-Em không biết.

-Nói đi.

-Đừng buộc em.

-Nói cho anh biết đi.

-Không mà.

-Hãy nói đi.

-Thôi được. Em sợ mưa bởi đôi lúc em thấy mình chết trong mưa.

-Em chẳng chết đâu.

-Và thỉnh thoảng, em cũng thấy anh chết trong mưa.

            Thiên Nga bỗng thốt lên sung sướng, cảm kích với đoạn đối thoại rất hay sau khi lắng nghe, vừa đọc hết dòng phụ đề Việt ngữ. Và cũng mang tâm trạng lo âu như cô gái trong cuốn phim, nàng nắm giữ chặt lấy cánh tay của chàng.

            Sau thời gian dưỡng bệnh, Henry trở lại chiến trường. Anh trở lại vào mùa thu năm sau đó. Trên đường đi, anh nhìn thấy quang cảnh những hàng cây trơ trụi lá và đường sá đầy bùn lầy. Từ  Udine, anh đến Gorizia trên một chiếc xe nhà binh, xuống đây, anh tìm đến chỗ đóng quân của đơn vị cũ. Không khí chiến tranh nay hoàn toàn thay đổi. Vào giai đoạn này, quân đội Ý bị nguy khốn và quân Áo đang thắng thế đã chiếm được nhiều ngọn đồi, nhiều ngọn núi và một số điểm chiến lược trọng yếu trên toàn mặt trận. Người ta bắt đầu thấy chán ghét chiến tranh. Rồi đến lúc, nhiều đơn vị của quân Ý phải di tản. Một cuộc rút quân diễn ra dưới cảnh trời mưa tầm tã. Henry cũng có mặt cùng với đồng đội là những người lính cứu thương trong đoàn quân triệt thoái. Nhưng khi vượt vòng kiểm soát của địch quân Áo đến vùng do quân Ý canh gác, Henry lại bị bắt giữ cùng với nhiều Sĩ quan khác. Những viên Sĩ quan này bị kết tội đầu hàng làm nhục nước Ý. Rất nhanh trí, thừa cơ lúc lộn xộn với  quân số đông, Henry đào thoát lao ra bờ sông, sau đó, anh leo lên trốn ở mái toa của đoàn xe lửa, và nhảy xuống trước khi tàu tiến vào ga Milan.

            Đối với Henry, anh đào thoát và coi như cuộc chiến tranh không còn nghĩa lý gì nữa với anh. Sau những gian nan, bất ngờ, Henry tìm gặp lại được yêu của mình. Do có lệnh truy nã vì tội đào ngũ, một lần nữa Henry phải trốn khỏi đất Ý.  Lần này, anh cùng với người yêu ra đi, trong đêm tối  trên một chiếc thuyền hai người cố sức chèo vượt sóng nước trên hồ, mưa tầm tã suốt đêm, nhưng rồi họ cũng đến được đất Thụy Sĩ. Nơi mảnh đất này là chốn yên bình, họ được sống bên nhau những tháng ngày rất hạnh phúc.

            Rồi Cathérine báo tin cho Henry biết, nàng có thai. Nhưng đến ngày hạnh phúc ấy, trong khi sinh nở khó, Cathérine kiệt sức do bị băng huyết, và cái chết của nàng như đã có trước sự ám ảnh: nàng chết dưới cơn mưa.

            Cuốn phim dài đúng hai tiếng đồng hồ, rất hay và xúc động. Khi đèn sáng, khán giả trong rạp cùng đứng lên và nối theo hàng trên các lối đi ra cửa chính.

            Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống phủ dài trên đường phố nhộn nhịp. Rạp hát vẫn còn chiếu  một xuất cuối nữa.

            Nguyên hỏi cô gái:

-Em nghĩ là mình nên ăn ở đâu ?

-Về nhà em.

            Anh chiều ý nàng, tay nắm tay, hai người đi bộ và rất thú vị khi trở lại với cuốn phim vừa xem. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng được dựng thành phim Nguyên đã đọc, lúc này, anh phân tích cho cô gái nghe những nét, những chi tiết gây được ấn tượng trong tác phẩm. Và, qua đề tài mưa, mưa trong tình yêu, mưa trong một cuộc chiến, mưa trong hạnh phúc tìm đến một nơi chốn riêng biệt thanh bình, với giọng nói của một tâm hồn trung thực, anh làm cho cô gái lắng im trong dòng tư tưởng.

            Rồi anh hỏi nàng:

-Em thích mưa không ?

-Rất thích, nhưng em cũng sợ mình chết trong mưa.

-Không đâu, chúng mình sẽ được yêu nhau trong mưa.

-Đó là tiểu thuyết mà anh.

-Không hẳn đâu. Ngoài đời, biết bao nhiêu đôi tình nhân đi dưới mưa. Mưa cũng là cảnh của nghệ thuật, mưa với dòng nhạc, với tiếng đàn, và mưa trong tiếng nói nữa.

-Em rất muốn vẽ một bức tranh mưa .

-Hay lắm. Em nên vẽ, hãy nói cho anh biết ý nghĩa.

            Thiên Nga nhớ lại buổi sáng ấy của ngày nhập học trời mưa lớn, vừa lúc cô đến cửa lớp thì chiếc guốc cô mang bị đứt. Và, lúc cô cầm chiếc guốc trên tay, nửa muốn cười, nửa như đang khóc, cảnh tượng lạ lùng đó đã làm cô ghi nhớ một hình ảnh thiếu nữ, và luôn luôn cô tự nhủ hãy đợi một ngày hoàn thành nên bức tranh.

-Hãy vẽ bức tranh quí giá đó. Em sẽ thấy mình đẹp, vẻ đẹp chính là cái bóng của em trong cuộc đời.

            Cô gái chợt hỏi:

-Anh có ý tưởng trời đang mưa không ?

-Em thật lãng mạn. Em đang nghĩ đến mưa, phải không ?

-Hãy cùng em nhớ cảnh mưa trong phim.

            Và rồi, chắp nối từng lời, hai người cùng ghi lại đoạn đối thoại rất hay, rất đầy ý nghĩa.

            Thiên Nga bỗng nói:

-Em phải tìm đọc cuốn này.   

-Anh sẽ tìm cho em.

-Nhưng có bản dịch tiếng Việt không ?

-Có.

-Em đọc được tiếng Việt thôi, tiếng Pháp, tiếng Anh em còn yếu.

-Em nên học thêm.

-Anh dạy em đi.

-Em sẽ học với anh lúc anh có thì giờ rảnh.

-Trước khi đi lính, anh có dạy học không ?

-Thời sinh viên, anh có dạy lớp đêm trong tổ chức của Tổng hội.

            Về đến nhà, thay áo quần áo nhẹ xong Nga đi đến phòng người mẹ. Bà mẹ hiểu được lòng cô con gái, và bảo cô chu đáo dọn chỗ nghỉ cho Nguyên ở căn phòng dành cho khách. Nga thấy trong lòng vui, nàng xuống bếp làm bữa ăn tối. Bữa ăn chỉ cho hai người thôi. Rất đơn giản, mỗi người một tô mì lớn đặt trên chiếc khay. Vừa ăn, chuyện trò, lúc này cô gái kể cho Nguyên  chuyện về gia đình, về người cha, người mẹ, và các cô em gái. Cô không có anh hay em trai, và cô tâm sự, đó là một tình cảm dường như làm cô thấy thiếu vắng.

            Nguyên nói:

-Hãy nghĩ là có anh trong đó.

            Cô gái gật đầu, và nói:

-Em cũng rất mong, đôi khi, em tìm được anh qua những ý nghĩ về gia đình. Em rất cần có một người anh.

-Còn một người em thì sao ?

-Cũng được, nhưng em thích có anh hơn.

            Một lúc ngập ngừng, Nguyên nói:

-Năm sau, nó được về phép, anh sẽ đưa nó tới thăm em.

-Người em có giống anh không ?

-Nó giống mẹ anh nhiều hơn. Bề ngoài với khuôn mặt khô, cứng cỏi, nhưng đời sống nội tâm của nó rất là sâu lắng, đam mê. Nó thích viết văn, đang muốn mình có sự nghiệp.

-Anh thì sao ?

-Anh chỉ theo nghề báo, về sau này, hết chiến tranh anh cũng sẽ làm báo.

-Anh không thích dạy học.

-Không. Những năm ở Sài Gòn, anh sống bằng nghề viết báo.

-Từ  Huế ra quê anh xa không  ?

-Bằng nửa đường Huế- Đà Nẵng.

            Bữa ăn xong. Vừa đứng lên dọn dep, cô gái nói.

-Lúc nào có dịp, anh đưa em ra ngoài đó thăm.

-Cám ơn em.

 

 

                                                          IV

 

             

            Bên cạnh lối cầu thang có một căn phòng dành cho khách. Khi mở cánh cửa đi vào, Nga bật sáng thêm một ngọn đèn nữa, xong nàng sửa soạn chăn màn cho Nguyên nằm nghỉ. Rồi trước khi rời phòng, nàng đứng lại giây lát để cho Nguyên đặt môi hôn lên trán nàng.

-Chúc em ngủ ngon.

-Anh ngủ ngon.

            Nguyên nghe bước chân của Nga đi trở xuống cầu thang, rồi xa dần. Nguyên có cảm giác thật dễ chịu, êm ái khi lên giường nằm, và trong cảm giác ấy anh nhận ra Nga còn bên anh.

            Bỗng nhiên Mỵ Châu ngước mắt khi nhìn thấy người chị xuất hiện.

-Em chưa ngủ ?

            Cô bé mỉm cười. Cô bé có gương mặt của thiên thần, đôi mắt đen mở to đẹp lạ thường.

            Nga kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh em. Và nàng cầm lấy cuốn sách, lật xem qua vài trang.

            Giọng cô em gái hỏi:

-Nhà mình có khách ?

-Anh Nguyên, bạn của chị.

-Học cùng trường ?

-Không, anh ở trong quân đội. Trước đây là sinh viên.

            Hai chị em lặng yên nhìn nhau. Không nói gì thêm cho đến lúc nghe chuông đồng hồ thong thả đánh lên từng tiếng nhạc trước khi báo giờ.

-Em nghỉ đi.

-Dạ.

            Chỉ để lại ánh sáng ngọn đèn nhỏ trong phòng, hai ngọn đèn lớn đều tắt. Khi trở ra, Nga cũng tắt đèn cầu thang rồi lặng bước về phòng mình nằm nghỉ.

            Nắng sớm dâng lên lan tỏa rất nhanh và tràn vào hết các căn phòng. Nguyên đã thức dậy, mặc xong quần áo, ngồi một mình anh mở tờ báo ra đọc. Nga xuất hiện với một gương mặt sáng đẹp, dịu hiền:

-Anh ngủ ngon không ?

            Nguyên ngước mắt với nụ cười nhìn người yêu. Nga đến gần, ngồi xuống cạnh anh và mở rộng bàn tay.

            Một chốc lát sau, nàng đứng lên nói:

-Em làm cà phê và dọn bữa ăn sáng cho anh.

            Nguyên lại ngồi đọc báo và chờ nàng trở lại. Sau khi dọn bữa ăn sáng xong, nàng trở lại tìm Nguyên. Hai người ngồi xuống ở bàn ăn tối hôm qua. Bữa ăn sáng có trứng ớp la, bánh mì cắt từng lát, và còn có bơ, pâté, cà phê sữa.

-Sáng nay mình đi biển chơi.

-Anh thích ra biển hay là chơi phố.

-Thôi, chơi phố, để nhớ phố trong những ngày hè. Ngày mai, em trở ra Huế và bắt đầu năm học mới.

-Anh nghĩ, em nên chọn ngành gì ?

-Em phải chọn ngành trong năm nay ?

            Thiên Nga gật đầu. Nguyên uống cà phê sữa, khen ngon. Cũng đã lâu, Nguyên mới có được ít ngày nghỉ thoải mái bên cạnh người mình yêu. Rồi những ngày tới đây, đời lính của anh, không chỉ có trách nhiệm cá nhân, còn là của cả đơn vị.

            Nhìn đôi mắt Nga, anh nói:

-Em ra ngoài đó học, có gì cần cho anh biết.

-Em muốn anh gìn giữ sức khỏe, luôn về với gia đình.

            Nguyên đột nhiên đứng dậy, lên tiếng chào , Nga vừa quay đầu thấy bà mẹ xuất hiện. Nàng hỏi:

-Má đã ăn sáng chưa ?

-Chưa, má chưa ăn.

            Một giọng tự nhiên, cô gái nói:

-Anh Nguyên mới ở Huế vào hôm qua. Có má đây anh được gặp, chút nữa con đưa anh đi thăm cả nhà luôn.

            Bà mẹ nhìn Nguyên và cô con gái. Bà hỏi Nguyên:

-Cậu quen Nga đã lâu chưa ?

-Dạ, cháu biết Nga từ năm ngoái.

-Cậu ở Huế một mình, hay có gia đình nữa.

-Dạ, gia đình cháu ở Huế đã lâu.

            Xong bữa ăn, cô gái không phải dọn dẹp mà nhân thể gặp bà mẹ, cô đưa Nguyên đi thăm và giới thiệu cả gia đình bên mình. Nguyên chỉ đáp lời khi nghe câu hỏi từng người.

            Và sau cùng, Nga đưa Nguyên vào một căn phòng riêng để thăm cô gái út trong gia đình.

            Nguyên rất ngạc nhiên trước vẻ sáng đẹp như thiên thần của Mỵ Châu và anh cũng  rất là ái ngại,  cảm thấy chạnh lòng. Mỵ Châu nhìn anh với cặp mắt thơ ngây. Nguyên chưa tìm được lời nói, bà mẹ ngồi đó lên tiếng giải thích.

            Có được không khí thân thiện trong gia đình, Nguyên hỏi:

-Em thích đọc truyện không ?

            Cô gái chỉ cười. Nguyên tiếp lời:

-Anh sẽ tìm những truyện hay cho em đọc.

            Một cuốn sách cô gái đang đọc dở, Nguyên mượn xem. Đó là cuốn truyện dịch: Con Chim Trốn Tuyết (Snow goose) của nhà văn Mỹ Paul Gallico.

-Những tiểu thuyết tiền chiến em thích đọc không ?

            Bà mẹ cười nói:

-Ngày nào, em nó cũng đọc sách.

            Nguyên gây được sự thiện cảm với người mẹ của hai cô gái, không bằng những câu khách sáo, mà sự chân thực biểu lộ rõ nét trên vẻ mặt của mình. Khi có được một con người thân tình như thế, bà mẹ hài lòng. Ngồi với con gái không lâu, bà đứng lên. Nga hỏi:

-Má thích ăn gì con đi mua.

-Khỏi, chút nữa má đi với ba.

            Nga cười, giọng dí dỏm nói với Nguyên:

-Má không lúc nào để riêng ba một mình.

            Người mẹ đáp ngay:

-Không, ba một mình không được đâu.

            Căn phòng tuy hơi tối nhưng ấm cúng nhờ ánh sáng những ngọn đèn néon. Nguyên ngồi xuống bên cạnh Mỵ Châu, nắm giữ bàn tay nhỏ bé của cô em gái. Anh nói:

-Em sẽ có nhiều sách hay đọc. Và, rồi đây, em sẽ làm một công việc viết văn để đi tìm ánh sáng đẹp cuộc đời.

-Anh nghĩ, là em có thể viết văn không ?

            Một giọng nhấn mạnh rất thân tình, Nguyên nói:

-Em sẽ phải có một cuốn sách của mình.

-Em viết nhật ký.

-Đã có ai đọc nhật ký của em chưa ?

-Chị Thiên Nga.

            Nga đưa mắt nhìn hai người, gật đầu nhẹ. Nguyên và Mỵ Châu ngồi bên nhau chuyện trò, và lần đầu tiên cô bé rất cảm kích về người anh của mình.

            Nga rời ghế đứng lên, sau vài bước đi, nàng kéo nhẹ bức màn làm cho ánh nắng tràn vào khung cửa sổ rực sáng lên. Bên kia bức màn là phòng vẽ tranh của Nga. Bên ngoài khung cửa, một cây bàng có những chiếc lá khô nhẹ nhàng rung động. Gió đang bay, qua cửa sổ nhìn xa hơn bạn có thể trông thấy một dãy phố bên kia. Ở phía đó, có một con đường đất dẫn tới một khu nghĩa địa bên ngã ba, từ đó, lại trông thấy một con đường nhựa khá rộng, rất dài ra đến vùng biển.

            Trong khi Nga đứng ngắm những bức tranh trên giá vẽ của mình, Nguyên nhìn Mỵ Châu với tình thương vô bờ đối với cô em gái. Anh nắm bàn tay Mỵ Châu, dìu bước cô em qua phòng tranh.

            Nga nói:

-Đây là những bức em đã vẽ xong.

            Nguyên ở bên cạnh Mỵ Châu, hai anh em nhìn tranh vẽ của Nga.

            Nga lên tiếng hỏi:

-Anh thấy em vẽ được không ?

-Anh muốn chọn một bức, em nghĩ thế nào ?

-Được chứ. Anh chọn hay là em ?

-Để cho em Mỵ Châu chọn, phải không nào ?

            Cô bé nở nụ cười, gương mặt hiện lên cái bóng của thiên thần. Lúc này, không khí trong phòng tranh thật là ấm cúng, trong đó, bạn chợt hiểu ra ý nghĩa về sự đi tìm tha nhân của mùa hè.

            Mỵ Châu nói:

-Chị Thiên Nga là nguồn ánh sáng của em.

            Nga đưa mắt nhìn Nguyên. Nàng nói:

-Khi em ngồi vẽ tranh, luôn có Mỵ Châu bên em.

            Nói xong một câu ngắn, Thiên Nga dừng để tìm ý tiếp cho lời. Nguyên bỗng nhắc:

-Và cây bàng ngoài kia, những chiếc lá khi còn xanh.

-Em cũng nghĩ như thế. Anh đã tìm được ý đó cho em.

            Tiếng Mỵ Châu nói:

-Về cây bàng, em có được đọc truyện Chiếc lá cuối cùng.

            Bỗng dưng, cả ba người ngơ ngẩn khi nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng.

-Anh Nguyên và chị Nga dạo phố đi.

            Nga đi lên phòng riêng của mình thay quần áo. Nguyên đưa Mỵ Châu về lại chỗ nằm. Bức màn khi kéo ra, đã làm cho cả căn phòng rộng rãi , ánh sáng đầy ắp, và có chút hương vị thơm.

            Nga xuất hiện với chiếc áo dài tím, mái tóc xõa vai. Nguyên nói với Mỵ Châu:

-Anh sẽ tìm một cuốn truyện hay cho em đọc.

-Cám ơn anh.

            Rồi trước mắt hai người, khu phố mở ra một ngày sinh hoạt náo nhiệt như thường lệ. Nguyên đã cho nổ máy, nhưng xe chưa lăn bánh. Nga ngồi sau, cẩn thận kéo vạt áo và xê dịch một chút vị thế chỗ ngồi.

            Ông bà Tri đứng ở trên balcon nhìn xuống, cả Nguyên và Nga không trông thấy. Khi ra đầu đường, Nguyên cho xe rẽ phải lên phố Độc Lập. Rồi từ ngã tư đầu phố này, anh chạy xe hướng về phía bến Cảng. Trên đường Độc Lập, hai bên lối đi là vỉa hè lát đá ca rô nhỏ, những hàng cây vươn cao, thẳng đều. Thành phố Đà Nẵng, thời Pháp có tên là Tourane, nay vẫn còn quen dùng ở những người thuộc thế hệ yêu thích nói tiếng Pháp. Nơi thành phố này cũng ghi nhận hai sự kiện lịch sử, ngày 1-9-1858 Hải quân Pháp đánh chiếm hải cảng này mở đầu cuộc xâm lăng thuộc địa, ngày 8 tháng 3 năm 1965, có hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ một dấu hiệu cho thấy cuộc chiến tranh Việt Nam bắt đầu leo thang.

            Thiên Nga, nàng là một thiếu nữ có vẻ đẹp tựa như mặt trời và mặt trăng trên trái đất. Nguyên thật sung sướng, anh sẽ giữ mãi trong tim anh một lời cám ơn nàng. Và, nàng đang nói với anh những lời của ánh nắng mùa hè, rồi lời của gió, cơn gió nghe rung động bỗng ùa tràn tới thổi tung bay, rào rạt qua mái tóc của nàng.

-Em phải trả lại căn nhà ngoài đó ?

-Sao vậy ?

-Nhà người anh họ của em, anh ấy học ở Sài Gòn nay trở về.

-Rồi em định sẽ ở đâu ?

-Ở nhà người bạn trên đường Huyền Trân, cũng không xa nhà anh lắm.

-Anh sẽ về nhà luôn như lời em dặn.

-Nhớ đó, lời nói của em tuy nhẹ, nhưng cũng cứng như thép.

-Ngày mai, em tính đi bằng cách nào ?

-Thì ra bằng xe đò.

-Anh nghĩ, đi xe lửa ngắm cảnh vui hơn.

-Cũng được. Đi xe lửa cũng thích.

            Ngôi trường Sao Mai ló dạng phía trước. Khi đi ngang qua một cửa hiệu nước hoa, vừa trông thấy tên bảng hiệu, Nguyên nói:

-Cô gái ngồi trong cửa hiệu là bạn học của Thụy đó.

-Anh cũng biết.

-Anh biết. Thụy đã dẫn cô ấy lên quân trường Thủ Đức thăm chồng, anh ta học sau anh một khóa.

-Cô Thúy Hà phải không ?

-Hình như vậy.

-Cậu Duy có bà con bên gia đình mẹ em.

-Thụy  cũng học ở trường Sao Mai.

            Ngôi trường đối diện với bến Cảng. Thiên Nga nói:

-Mới đó mà đã hai năm em xa trường cũ.

-Em cũng nên dành thì giờ học thi ?

-Chương trình Tú Tài nhiều môn quá, em học không hết.

-Em gắng học ngoại ngữ để thi ban văn chương .

-Em chỉ biết tạm tiếng Anh, tiếng Pháp quá yếu.

-Anh sẽ giúp em.

-Hoàn tất nhiệm vụ không ?

-Có em, anh rất hết lòng.

-Người con trai nào khi được yêu, lời nói nghe thật dịu dàng.

-Nước trái cây là chất xúc tác của tiếng nói, em đồng ý không ?

-Anh nhớ hoa hồng nào cũng có gai, nhé.

-Tên em là tên của loài chim, không phải của những bông hoa.

-Vậy mà, em rất thích hoa, vẽ tranh về hoa.

-Em là đôi cánh của thiên thần. Một ngày nào đó, anh nhìn thấy em trên bầu trời, và cũng có thể trên mặt biển.

-Em rất thương Mỵ Châu ?

-Anh biết. Nhưng tại sao em Mỵ Châu chịu cảnh tật nguyền.

            Với giọng xúc động của người chị yêu thương em, Thiên Nga kể câu chuyện cô bé em mình cho Nguyên nghe.

-Con bé giúp việc ham chơi quá.

            Nguyên cố nói ra giọng hờ hững để che dấu xúc động. Nga đang khóc, nàng nói thêm:

-Nếu em Châu chịu khó, có thể thương tích sẽ lành lặn.

            Vào năm đó, Mỵ Châu được đưa lên Đà Lạt để trị bệnh và điều dưỡng. Nhưng ở một nơi cao nguyên lạnh lẽo, vắng lặng, cô bé rất buồn vì xa gia đình, vậy đó mà đành chịu không chữa được nữa.

            Từ bến Cảng, Nguyên phóng  xe chạy trên con đường hướng ra biển. Hai người nghĩ đến nhau qua câu chuyện về gia đình, về cuộc sống đã có trong quá khứ.

            Khi đến biển, Nguyên gởi xe và cùng với Nga đến chỗ nhà nghỉ ngồi uống nước nhìn ngắm cảnh biển. Ngoài biển, nhiều người đang tắm. Trên bãi, đông người đi dạo, chơi bóng tròn, bóng chuyền. Nhìn lên phía xa một chút, có một nhóm du khách phụ nữ nước ngoài, họ ngồi trên ghế  vải dưới mái những chiếc dù màu hồng, màu xanh dương, và hướng tầm mắt nhìn tới một nơi xa đang có sương mù bao phủ bóng núi.

            Nguyên nói:

-Năm đầu tiên lên trung học, anh và Thụy được đi dự trại hè ở Cửa Đại.

-Em có ý tưởng, anh và người em rất giống nhau.

-Khi được hay biết em học về ngành mỹ thuật, nó sẽ hỏi em nhiều lắm.

-Thụy cũng biết vẽ chứ ?

-Không. Nhưng nó rất thích về họa. Tâm hồn của hắn là ly cà phê, chiếc áo mặc màu thuốc lá, và những bức tranh vẽ ngựa uống nước bên dòng suối. Bên dòng suối, không chỉ có khung cảnh thanh bình của bầy ngựa, mà còn có những cô gái nữa.

-Chắc là người em, chưa biết gì về chuyện quen nhau của anh và em.

-Chưa đâu.

-Anh không hề nói.

-Không. Năm tới, em nán ở lại ở Huế những ngày hè, rất có thể nó được một kỳ nghỉ phép trở về thăm.

            Nga cười nhìn sang Nguyên đang nói. Trên tay, nàng luôn trở nhẹ hai thanh gọng chiếc kính mát .

-Anh nghĩ, em có nên chuẩn bị một câu chuyện hay về hội họa để nói với Thụy khi gặp nhau không ?

-Không nên, em cứ nói ra bằng cảm xúc trong sự sáng tạo của mình.

            Nguyên gọi người hầu bàn đến trả tiền. Hai người rời nhà nghỉ đến chỗ gửi xe, và từ phía biển cách xa thành phố Nguyên chạy xe nhanh trở về, lúc tới bến Cảng anh men theo con đường bờ sông. Một giọng vui, anh nói:

-Trên sông đang đầy nắng, đợi có gió lớn em nhớ  thả cho mái tóc bay qua sông.

-Em không lãng mạn như anh nghĩ đâu .

-Nhưng em cũng đừng để cho sợi tóc nào cứa đứt môi.

-Sao vậy ?

-Linh hồn của tình yêu nằm trong sợi tóc. Khi một sợi tóc cứa đứt môi, đó là dấu hiệu của sự chết chóc.

-Nhưng đó  cảnh bi thảm về chiến tranh.

-Em có nhớ không ?, Cathérine ám ảnh cái chết của mình trong cơn mưa.

-Vâng, em hiểu.

-Mưa, tác giả nói về chiến tranh, nói về tình yêu chỉ tìm thấy ở một nơi riêng biệt thanh bình.

-Em có cảm giác mình run sợ.

-Không đâu em, anh chỉ nói về lãng mạn của tình yêu đấy thôi. Em đang còn một thời thiếu nữ đỏ rực như hoa phương nở trong mùa hè.

-Anh thích màu tím không ?

-Anh thấy đó là màu buồn. Còn hoa hồng, em thích chứ.

-Đôi lúc, anh hãy gọi tên em là Rose.

-Anh nhớ.

            Dòng sông trải dài với nhiều đợt sóng nước lớn và nắng tỏa rộng hết quang cảnh hai bên bờ.

            Tới một ngả ba, có lối rẽ lên phố chính Nguyên theo con đường này  trở lại khu trung tâm của thành phố. Nguyên cho xe chạy quanh một vòng ngắm phố rồi đến ngừng trước hiệu sách Lam Sơn.

            Xe dừng bên lề đường. Nga bước xuống, nàng sửa lại thân áo và mái tóc hơi bị xổ rối bởi gió ngoài sông.

            Buổi trưa, cửa hiệu đông khách ra vào, và giờ này cũng là giờ cao điểm phát hành các nhật báo Sài Gòn.

            Hai người đi sâu vào bên trong, dừng lại trước dãy kệ dành cho sách truyện. Nguyên lướt nhanh mắt nhìn qua mỗi tầng kệ để tìm mấy cuốn sách, trước hết cho Mỵ Châu, sau đó là củaThiên Nga. Nguyên thực vui, hài lòng khi tìm thấy. Rồi đến lượt, Nga dắt Nguyên qua chỗ trưng bày sách về họa và nhạc. Nga chọn được mấy tập nhạc tiền chiến, và tập nàng thích nhất là Những Tình Khúc Bất Tử, nhạc ngoại quốc, Phạm Duy soạn lời Việt.

            Khi ra quầy trả tiền, cô bán hàng cho tất cả sách hai người mua vào cái túi nylon nhiều màu có tên của hiệu sách in ở ngoài trông rất đẹp. Nga cầm túi xách theo Nguyên ra đường, rồi hai người lên xe về nhà không đi đâu nữa.

            Buổi chiều ấy, Nguyên ở nhà với Thiên Nga và trò chuyện với mọi người trong nhà. Ông bà Tri có bốn cô con gái, sự hiện diện của Nguyên mang một tình cảm đặc biệt với gia đình Nga.

            Suốt buổi chiều, đôi tình nhân không rời nhau. Nguyên cũng biết đánh đàn, anh đánh một số ca khúc, còn Nga rất thích những bài hát trong tuyển tập Những tình khúc bất tử. Nàng đã hát theo nhịp đàn lúc Nguyên phụ họa. Ở tập này, có cả lời tiếng Pháp nữa, những bài nào Nga thích, Nguyên vừa đọc lời tiếng Pháp và giảng nghĩa cho Nga hiểu.

            Tối hôm ấy, cũng là tối đầu tiên Nguyên hướng dẫn cho Nga học môn tiếng Pháp.

            Ngày hôm sau, hai người đi chuyến tàu sớm. Nguyên tới quầy mua hai vé ở toa đặc biệt. Khi ra khỏi cửa ga, hai người đi về phía toa cuối hết. Nguyên xách chiếc vali của Nga, còn Nga đeo túi xách, và một tập giấy vẽ cùng cọ, bút màu. Nàng mặc quần jean,  áo sơ mi kẽ sọc tím, dáng bước thật nhanh nhẹn. Khung cảnh nhà ga có những nét lạ làm Nguyên chú ý, sinh hoạt buổi sáng ở đây rất ồn ào nhưng không diễn ra cảnh hỗn độn, chen lấn.

            Cửa sổ toa xe mở cả hai phía. Nguyên sắp xếp hành lý lên giá xong xuống ngồi cạnh Nga. Tàu chạy đúng giờ đã ghi trên bảng thông báo hành khách, những vòng bánh lăn chậm lướt qua, bên dưới một vài người đưa tay vẫy chào, rồi con tàu cứ thế dần xa, khuất dạng thành phố.

            Bữa ăn sáng trên toa đặc biệt có nhiều món , hai người gọi hủ tiếu và cà phê sữa.

-Khi nào có Thụy về phép, chúng mình ra thăm quê ngoại một chuyến.

-Xa không anh ?

-Xa hơn quê nội chừng ba mươi cây số.

-Em thấy bác trai hay đi nhiều, ít khi ở nhà.

-Ba anh làm việc ở ngành xã hội nên đi công tác luôn.

-Anh và Dung có nét mặt giống bác trai.

-Ba anh tuy nhỏ người nhưng cũng hay. Ông có má lúm đồng tiền đó.

            Nga cười:

-Anh cũng có nữa.

            Nguyên ăn xong, cầm ly cà phê sữa uống. Trong lúc Nga còn ăn, anh cầm thìa khuấy sữa cho ly cà phê của Nga. Nàng nhìn anh, luôn cảm thấy hạnh phúc từ cặp mắt anh gửi lại, trẻ thơ, đằm thắm. Hai người, anh cũng như cô gái luôn có một ý nghĩ giống nhau từ những nụ cười tỏa sáng ra nơi cặp mắt.

            Hai bên đường, ánh sáng rõ dần lan rộng trên từng cảnh vật. Và rồi, chỉ ra khỏi thành phố nửa giờ đường, đoàn tàu đã dừng lại một nhà ga nằm gần quốc lộ, nơi đây bạn sẽ nhìn thấy biển và con đèo bên dưới núi.

-Em chọn học về lụa, anh nghĩ sao ?

-Anh không mấy rành về hội họa, nhưng chọn học vẽ lụa, thích hợp với em hơn.

-Em chọn con đường nào anh cũng thấy đúng phải không ?

            Nguyên gật đầu. Nga ngả người trong vòng tay ôm ấp của anh. Nguyên vẫn lặng im như thể tìm một câu chuyện, một khoảng thời gian nào đó đã xa, trước khi anh có cơ duyên được gặp cô gái đang hạnh phúc trong vòng tay của anh. Tàu chuyển bánh rời ga, từ cửa toa tàu, hai người nhìn thấy một không gian rộng sáng đẹp, hài hòa những màu sắc êm dịu và nổi vật như là cảnh trong bức tranh.

-Cô họa sĩ của anh !

-Anh nhớ cô nào đó mà gọi tên đấy.

-Anh không nhớ ai hết, nhưng anh biết em yêu anh ?

-Thực không ?

-Đó là tình yêu của thiên nhiên.

-Em rất là vui khi được anh dạy em học.

-Anh mong mỗi ngày đều có em.

            Đoàn tàu vừa đến bên dưới chân đèo, rồi dừng lại. Không gian đã phối hợp và sắp đặt từng vị trí cảnh vật hai bên đường trước khi con tàu chuyển bánh. Biển lòa sáng dưới nắng. Những cánh rừng bên triền núi xanh thẳm và có những khe suối khi ẩn, khi hiện. Nước suối chảy gập ghềnh qua những mô đá. Và, chim rừng cất tiếng ca hát, vừa gọi nhau.

            Bây giờ con tàu chuyển bánh trở lại. Trong tình yêu dấu, Nguyên ôm giữ lấy Nga và cả hai cùng yên lặng ngồi trên chiếc ghế sát cửa sổ toa xe, vừa nhìn và cố ghi nhận từng nét cảnh vật. Đoàn tàu trườn lên vượt qua từng đoạn dốc với hai đầu máy, trước kéo, đằng sau đẩy. Sau cái nhìn luyến nhớ từ đôi mắt, Nga hé môi để cho Nguyên đặt môi hôn.

            Chẳng bao lâu, đoàn tàu qua khỏi Hải Vân bên con đường đèo dài đến 12 cây số. Phía dưới đèo là vùng đồng bằng, cảnh trí là ruộng đồng, làng mạc, những con sông, những cây cầu. Khi Thiên Nga nhìn cảnh vừa vẽ tranh, Nguyên lục tìm trong túi xách tờ báo, hoặc cuốn sách để đọc. Buổi chiều qua, ở hiệu sách, Nguyên mua được mấy cuốn để dành cô em gái Mỵ Châu và người yêu của mình.

            Khi lấy cuốn sách, Nguyên chưa mở ra đọc ngay, anh nhìn ngắm Thiên Nga đang buông thả tâm hồn với cảnh vật và qua những nét trên bức vẽ. Nắng sáng, in dấu trên mái tóc nàng. Và, cả trên thân áo của nàng nữa cũng điểm lấm tấm những bông hoa của ánh nắng. Rồi, cùng với bút vẽ những nét tài hoa của nàng bay lượn trên giấy , mỗi nét tạo được ngay ấn tượng không cho bạn nhận ra từ cảnh ở ngoài mà chỉ thấy trên tranh nàng đang vẽ. Bên dòng suối chảy có bóng cây, trên mái nhà có ánh nắng, một dòng sông bên dưới cây cầu, rất xa khung cảnh đó là một làng quê vắng lặng yên bình.

            Nguyên mở sách đọc: Thung lũng  Salinas ở về phía Bắc tiểu bang California là một dãy đất dài và hẹp nằm giữa hai dãy núi và con sông Salinas ngoằn ngoèo uốn khúc ở chính giữa cho đến khi đổ thẳng ra vịnh Monterey.

            Nguyên đọc nhanh và từng trang dịch của câu chuyện rất cuốn hút anh. Cuốn sách anh đang cầm đọc là cuốn Phía đông vườn địa đàng (East of Eden), tác giả là nhà văn Mỹ John Steinbeck.

            Lúc này, đoàn tàu đang chạy chậm sắp sửa đến ga xép. Qua bóng im của lá rừng, Nguyên trông thấy người bẻ ghi cầm cờ đứng đợi đoàn tàu tới.

-Em vẽ xong chưa ?

-Chưa đâu.

-Anh muốn ngưng đọc sách để ở bên em.

-Khoan đã. Anh cứ đọc sách đi. Em đang sửa lại bức vẽ.

-Em là một cô họa sĩ rất dễ thương.

-Anh khen em nhiều lắm rồi, từ hôm qua đến hôm nay.

-Không có ai thật lãng mạn như em cả. Vừa là hành khách trên tàu, vừa là họa sĩ vẽ tranh.

-Em cảm thấy thật dễ chịu.

-Anh đọc sách tiếp đây.

-Anh đọc đi. Rồi kể cho em nghe.

            Khi đoàn tàu dừng, những người bán hàng rong cất tiếng rao. Và, có một đứa nhỏ đứng bên dưới nhìn cô họa sĩ vẽ tranh. Bất chợt gặp nó, cô gái mỉm cười rất là thú vị.

            Sau mười phút ngừng, đoàn tàu chuyển bánh. Cô gái đã vẽ xong bức tranh. Người yêu của cô ngừng đọc sách, rất hài lòng với bức tranh cô vẽ. Trên quãng đường đi, đoàn tàu lúc nhanh, lúc chậm và đến mỗi ga xép lại ngừng khoảng chừng trong năm, hoặc mười phút.

 

 

                                                              V

 

           

            Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa. Thụy mới viết thư về thăm gia đình. Trong lá thư này, anh nhắc đến Thiên Nga với cô em gái và nhắn gửi một đôi lời hỏi thăm nàng. Trong sự thầm kín không phải vì đã yêu, nhưng thực lòng rất mong nhớ, anh rất muốn viết lá thư gởi nàng, những dòng thư của anh sẽ trang trải hết mọi niềm hân hoan từ buổi chiều nghe câu chuyện em gái anh nói về nàng, thế là anh có gặp nàng trong trí tưởng, hay là trong giấc mộng.

            Sau thư gia đình, cùng hôm đó Thụy viết thư gởi Thúy Hà. Vừa áy náy, cân nhắc, rốt cùng anh phải bỏ qua không nói với nàng về kỳ nghỉ phép về Huế mới đây. Nhưng  ích gì không, người bạn gái dường như vẫn còn ở trong tim anh một sự chờ đợi, vẫn có một mối tình mà dù ở hoàn cảnh nào cũng không ngăn cách nổi. Đã có lúc, anh tự nhủ mình quên, nhưng rồi, bóng dáng nàng từ đâu trở lại đứng bên anh rất lâu trong thời gian của giấc mơ.

            Thụy rất thường hay đến nhà dì Hồng, có bữa ở lại chơi ăn cơm và đánh bài xì dách. Thụy thường được bạc nhờ đỏ, nhưng không nhiều lắm.

            Suốt cả tuần nay bên nhà Huê đóng cửa. Thụy  không hỏi Thúy, nhưng mỗi lần đi ngang không thấy bóng nàng, anh băn khoăn.

            Rồi cũng không vắng lâu, nàng đã trở lại. Vừa trông thấy nhau, cả hai cùng vui mừng. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ đứng ở hiên ngoài. Gió thổi nhẹ mát, lay động những ngọn lá trên chậu hoa nơi Huê đang đứng. Thụy tới gần, dừng lại trên bậc thềm.

-Anh mới đi đâu về ?

-Đi chơi với người bạn.

            Huê mời Thụy vào nhà chơi. Đèn căn phòng trước sáng, thật dễ chịu trong không gian rộng vì chỉ bày biện đơn giản. Cô gái lên tiếng:

-Em ở Long Xuyên mới về.

-Vậy à.

-Em về thăm ba mẹ.

            Huê bỏ đi ngay sau đó, cô vào nhà trong, chốc lát sau trở ra với chiếc khay rộng có trái cây và nước uống. Thụy đang ngắm nhìn bức ảnh của Huê đóng khung treo trên tường. Bức ảnh đen trắng, càng nhìn anh thấy rõ hơn những nét đẹp duyên dáng, ở đôi mắt lồng kính một nụ cười đang tỏa sáng trên một gương mặt thật tươi trẻ. 

-Trái cây đầu mùa phải không em ?

-Vâng.

-Em thi cử ra sao ?

-Trượt rồi.

-Em không nói đùa.

-Không.

-Em không thể nào rớt được.

-Anh không tin à ?

-Hoàn toàn không .

-Tùy ý anh.

            Hai người ngồi xuống gần nhau.

-Trông anh khỏe mạnh.

-Anh trông tin em. Đi ngang qua nhà mấy lần vẫn thấy đóng cửa.

-Thúy không nói gì với anh ?

-Anh không hỏi.

-Em mới về chiều nay.

            Mỗi thứ trái cây có vị ngọt, hương thơm riêng. Hạnh phúc đến với Thụy hơn hết là lúc này được ngồi bên Huê trong nhà nàng. Nhà vắng, Thụy hơi bâng khuâng và có chút do dự, ngỡ ngàng.

            Huê nói:

-Em sắp đi ở nơi khác.

            Thụy bỗng ngồi im, bất động. Một lát sau, anh hỏi nàng:

-Sao em muốn đi khỏi đây?

-Nhà này gia đình muốn cho thuê.

-Cho thuê hả.

-Ờ. Huê cười tiếp lời, anh muốn thuê không ?

            Thụy bỗng có ý tưởng như đây là căn nhà của anh. Cô gái để nguyên vẹn khuôn mặt cho anh ngắm nàng. Thụy nhớ lại buổi chiều hôm ấy trời mưa, canh bạc nhỏ trên căn gác, tiếng nói của Huê , rồi ly cà phê mang ý nghĩa cuộc đời của kẻ thất chí, nỗi buồn nhớ anh vẫn còn ray rứt trong ngày ra đi. Rồi một buổi sáng ấy trên bến Cảng có hình ảnh một thiếu nữ mặc áo trắng. Con tàu cất tiếng còi nghe vắng xa. Tàu vừa tách bến, Huê ở trong lòng anh, nàng theo anh qua một quãng đời.

-Anh về nghỉ phép vui không ?

-Không vui, buồn.

-Sao vậy ? Chắc cô bồ ngoài đó quên anh.

-Không, anh không có bồ.

-Thực vậy sao ?

-Về Sài Gòn, gặp lại em anh vui.

-Thực hả.

            Rồi một giọng điềm nhiên , Huê nói:

-Hết tháng này người thuê nhà dọn đến ở.

- Nhưng em đi đâu, xa hay gần Sài Gòn.

- Có nhà bên khu Bàn Cờ, em về ở với gia đình chị Yến.

-Còn anh Chương ?

-Anh đi du học, qua Mỹ rồi.  

-Ở nơi này sẽ vắng bóng em. 

-Em nghĩ là không sao cả. Thực tình, chỉ thi lại loạt hai nên em dễ đậu.

-Mừng cho em.

            Huê không nói gì, nhưng đôi mắt nàng muốn gợi nhớ ra nhiều kỷ niệm cũ. Từ ngày ấy không xa lắm khi người lính trở về.

            Ngày nhập ngũ, Thụy lên đường ra Nha Trang bằng tàu thủy. Lênh đênh giữa sóng biển một ngày đêm, sáng hôm sau tàu ra tới thành phố Nha Trang, và đây là một thành phố biển đẹp nhất miền Trung.

            Rồi sau ba tháng học căn bản quân sự, lễ mãn khóa Thụy được cấp bằng hẳn hoi. Thụy rời quân trường trễ hơn các bạn một tuần, vì ở lại dự kỳ thi Tú Tài I. Thực may mắn, mấy hôm thi anh làm bài được, nhưng cũng có nhờ hai thí sinh ngồi gần bàn nữa. Buổi chiều ngày chủ nhật, Thụy đi ra phố chơi, ghé quán nước giải khát rồi vào rạp hát xem phim Le temps d'aimer et le temps de mourrir. Cuốn phim dựa theo tiểu thuyết của nhà văn người Đức Erich Maria Remarque. Thụy  đã đọc cuốn truyện dịch, nên lúc coi phim, có nhiều câu đối thoại bằng tiếng Pháp anh hiểu được, không cần nhìn xuống dòng phụ đề.

            Khi đèn rạp hát sáng lên, anh vẫn ngồi trên ghế. Ý nghĩa về cái chết của người lính trong chiến tranh thật là buồn. Tình yêu của nàng và người lính, nương tựa vào lá thư, vậy mà lá thư anh ta cầm trên tay chỉ đọc được ít giòng, rồi anh ngã gục, lá thư buông trôi trên dòng nước.

            Phố chính đường Độc Lập bừng dậy trong không khí nhộn nhịp, rất đông người ngày cuối tuần. Hai bên, những cửa hiệu buôn bán nối nhau, nhiều quán hàng ăn, quán giải khát chỗ nào cũng đông khách ra vào, và ồn lên tiếng nhạc kích động.

            Thụy ghé tiệm phở, lúc bước vào thấy đông khách , nhưng anh không đợi lâu. Tiệm ăn sạch sẽ, mùi phở thơm ngào ngạt làm anh cảm thấy đói. Thụy gọi tô lớn, lúc người chạy bàn mang ra, có bao nhiêu thứ gia vị để sẵn trên bàn, anh cho mỗi thứ một chút, và rồi một mình thưởng thức bữa ăn ngoại lệ của mình. Trong lúc ăn, anh muốn quên đi cảnh đời khó khăn của gia đình, ba mẹ, các em anh đang ở Huế, và quên đi số phận mình là người lính dù không bị súng đạn đe dọa, nhưng cuộc sống không cách nào nhìn thấy ngày mai đây sẽ trở nên tốt đẹp.

            Thụy ăn hết tô phở, vừa đủ no và ngon. Bên kia đường là một hiệu sách có bày nhiều tranh ảnh đẹp treo ra phía ngoài. Trên phố nãy giờ luôn nhộn nhịp, đông vui, và những gương mặt người tân binh hay SVSQ các quân trường trông rất tươi trẻ. Hạnh phúc cho các thiếu nữ và các chàng trai người đang có người yêu đi bên cạnh mình. Thụy dừng lại giây lát trên bờ đường nhìn ngắm mái tóc, những tà áo duyên dáng, mơ mộng của các cô gái trong thành phố này. Và, mai đây như thế nào thì đó là chuyện của thời gian trả lời.

            Ở trên chiếc bàn dài thấp gần quầy tính tiền là nơi đặt  báo. Tất cả đều mới, tạp chí, tuần báo đến nhật báo. Báo Văn, số này là tuyển tập thơ văn. Lúc báo này ra mắt số đầu tiên, Thụy rất thích, khi mượn được của người bạn trong tuần đầu anh đã đọc hết. Và, báo này đã gợi lên trong anh niềm ước ao sự có mặt tên tuổi của mình. Thời gian qua, anh không dám gởi bài vì lượng sức mình chưa đủ. Những truyện ngắn anh sáng tác, chỉ vừa trong trình độ của nhật báo, tuần báo thôi. Nhìn báo Văn, truyện muốn được đăng bạn cần có một cách viết lạ trong ngôn ngữ  và ý tưởng mới. Một lần thất bại của Thụy là truyện ngắn viết về Thúy Hà, người bạn gái anh vô cùng yêu thương. Khi nhận được thư  tòa soạn, anh hiểu ra cái non nớt, yếu kém của mình không là nội dung câu chuyện, mà ở cách viết. Tuy nhiên, anh rất hài lòng với chi tiết tả buổi sáng ở lớp học cùng với nàng đánh cờ ca rô , bất giác, trong phút giây xúc động của tình yêu, nàng để cho anh mở rộng bàn tay nâng mái tóc nàng lên nhìn gương mặt nàng qua một vẻ đẹp tỏa sáng.

            Buổi chiều đang xuống, nắng dần trôi xa. Khi ra khỏi hiệu sách, bên tay Thụy là một cái túi nylon đựng một cuốn truyện dịch và mấy tờ báo.

            Trên đường về nhớ đầy

            Chiều chậm đưa chân ngày

            Thụy bước đi thanh thản, vừa sống với những giờ khắc hạnh phúc. Mỗi nơi chốn mang đến, từng thứ một thật là nhẹ nhàng.

            Buổi chiều thân tình như người bạn. Thụy  chưa muốn trở về trại, vì hôm nay là ngày cuối ở Nha Trang, và sáng mai chiếc  túi sac marin, chiếc ba lô đeo vai, Thụy sẽ giã từ quân trường.

            Bỗng nhiên, Thụy dừng bước đưa tay dụi mắt. Một bóng người đàn bà áo trắng vụt hiện, đứng ngay trước mặt anh thật lạ lùng. Thụy hết sức bối rối, ít giây sau mới nhận ra. Và, anh thấy nàng thay đổi rất nhiều. Nàng đứng yên đó, cặp mắt bất động nhìn anh.

            Anh thấy nàng (có hơi mờ đi), và hơi e thẹn, ngập ngừng.

-Ông Thụy, nàng khẽ nói.

            Người lính mỉm cười, vẻ mặt bỡ ngỡ.

-Ông không nhận ra tôi ?

            Một vài giây sau.

-Có, Thụy đáp nhỏ tiếng.

-Ông biết tên tôi không ?

-Cô Thùy.

            Nàng cười, đưa tay cho Thụy  bắt. Nhìn quanh, anh nhận ra đây là khu Phước Hải ngày xưa, không thay đổi nhiều. Phía bên đường là nhà thờ Chánh tòa xây bằng đá. Thụy nhớ lại những buổi tối anh và Nhị ra nhà thờ ngồi chơi, hóng mát, gió nhẹ rung lên khi buổi chiều vừa tới giờ chuông đổ, sau một lúc, có tiếng còi tàu từ nhà ga vọng tới.

-Cô Thùy vẫn còn ở Đà Lạt ?

            Nàng cười bảo:

-Tôi đâu còn là học sinh nữa.

-Tôi cũng vậy, mới đi lính mấy tháng.

-Ông có nhà ở đây ?

-Không, tôi đang ở quân trường.

            Quán nước mía bên đường có căng tấm bạt rộng. Thụy và nàng đến đó, ngồi xuống ghế nhỏ bên chiếc bàn vuông thấp. Nước mía mang ra, mỗi ly có ống hút.

-Cô Thùy được mấy cháu rồi ?

-Chưa.

-Sao vậy ?

-Đừng hỏi lôi thôi, ông bạn.

-Không lẽ, cuộc sống gia đình không có gì vui ?

-Bộ ông muốn nhảy vô hả.

-Không dám.

            Nàng cười nhìn lại người bạn cũ.

-Anh Thụy vẫn trẻ con như ngày đó.

-Tôi vẫn nhớ buổi đầu tiên gặp Thùy . Những kỷ niệm về Đà Lạt của tôi nằm trong ngày đó.

            Nàng chỉ mỉm cười không nói.

-Nước mía uống thật ngon.

-Anh có viết thư thăm thầy Phiên không ?

-Có. Cậu tôi đã được giải ngũ.

-Rồi đến lúc nào anh ra trường ?

-Tôi vừa mãn khóa học. Ngày mai, tôi trở về Sài Gòn.

            Ly nước mía bên nàng đã vơi một nửa. Nàng nói:

-Gia đình Thùy vẫn ở Đà Lạt.

-Đường Phan Bội Châu ?

-Sao mà nhớ ghê vậy ?

-Có cây si trồng ở đó, chặt đứt không ?

            Nàng cười, ánh mắt dịu lên một vùng sáng. Bên cạnh người lính, còn một chiếc ghế trống. Và, nàng vừa mở rộng bàn tay cho chàng được nắm lấy.

-Đà Lạt, kỷ niệm đẹp trong thời đi học.

-Rồi sương mù, rồi cỏ, những đồi thông, rồi.. nhiều nữa.

-Thùy  sinh ở Đà Lạt hay ngoài miền Bắc.

-Ở đường Phan Bội Châu.

-Con đường có đồi khế, màu đất đỏ.

-Cám ơn anh Thụy đã nhớ.

-Tại sao Thùy không mặc áo tím ?

            Thời gian đã làm cho kỷ niệm lắng xuống rất sâu. Và, nếu Thụy nhớ lại rõ nét, nói ra tên con đường, vẽ lại từng màu sắc chiếc áo, vẽ lại được cả từng hạt mưa, thì những hình bóng cũ ấy cũng đã là một sự mất mát, muộn màng thật cảm động. Vì thế, anh đã ngăn được ý nghĩ của mình khi muốn gợi ra một câu hỏi về những lá thư anh trao tận tay nàng, về những điều nàng đã biết tại sao anh yêu nàng, và trong đó nữa có một tấm lòng của nàng đối với ba mẹ anh ở xa, khi đã có những lần nàng ghé qua trạm bưu điện bỏ giúp những lá thư anh gởi về nhà.

            Ngồi chuyện trò cũng khá lâu, trời đã tối, đường phố sáng đèn. Thụy cùng đi bên cạnh nàng một đoạn đường, tới ngã tư gần đó hai người dừng bước.

            Thùy ngước mắt, nàng nói:

-Bao giờ cũng vậy, gặp lại nhau là biết kỷ niệm vẫn còn nhớ.

            Và lúc này đây, Huê còn nhắc Thụy nhớ đến khuôn mặt viên Trung úy trưởng trại và chữ ký của ông nằm trong khuôn dấu đỏ. Thụy vẫn nhớ cái bắt tay rất chân tình cùng lời từ giã ông nói, trong đó, ngày mai anh sẽ đi xa không hy vọng gặp lại ông nữa. Ông rất quí mến Thụy, và riêng anh đã có sự đóng góp làm tờ Đặc San cho một khóa học, tuy gấp gáp vì  thời gian quá ngắn nhưng thể hiện được điều ông mong muốn.           

-Anh có món quà dành cho em.

-Đâu nào ?

-Anh để bên nhà.

-Anh cho em món quà gì ?

-Một tờ Đặc San anh và các bạn làm ở quân trường.

-Hay qúa, chịu khó về mang qua cho em.

-Sáng mai, anh đem qua cho.

-Không. Về lấy đi anh.

            Thụy biến mất như cái bóng. Thúy ra mở cửa khi nghe có tiếng chuông.

-Anh đi đâu về ?

-Đi với người bạn.

            Thụy đi nhanh lên gác, vội vàng mở túi xách lấy tờ báo. Rồi anh vụt chạy xuống cầu thang lúc ấy,  trong nhà cũng đang vui tiếng chuyện trò của mấy người bạn dì Hồng ngồi ở nhà sau.

            Huê vẫn một mình trong phòng khách trống vắng. Khi thấy Thụy trở lại, nhìn vẻ mặt anh nàng không thể nhịn cười. Thụy đặt tay lên vai nàng, giữ  lâu trong chốc lát.

            Hai người ngồi xuống bên nhau trên chiếc ghế xô pha rộng. Thụy cầm chén nước trà đưa lên miệng uống từng hớp. Ý nghĩ về ly cà phê dậy chút men, anh ngồi im mắt không rời khỏi những ngón tay Huê đang giữ lấy từng trang báo. Khi thấy bài Thụy ký tên, nàng ngừng lâu. Nàng chợt mỉm cười, Thụy nói:

-Có em trong đó.

            Huê đọc thêm một đoạn, rồi lật trang. Tờ giấy vàng đục, chữ đánh máy đen đậm trong đó mang dấu vết ngày tháng in sâu nỗi buồn nhân thế. Thụy chẳng hề tâm sự với ai, nhưng anh đã viết. Anh viết về Huê, trong bóng dáng và tên gọi của nàng anh đã lẫn lộn biết bao nhiêu điều chỉ muốn nói về một người bạn gái của mình. Và, ngồi đây bên cạnh một cô gái không phải là người yêu, Thụy nghĩ rằng mình đang trốn khỏi một cuộc chiến. Thụy rất ngạc nhiên, vì nó đã vây hãm cuộc sống của anh những ngày trước đây đến đỗi sống ở Sài Gòn anh vẫn lo sợ, nhất là, nhận diện rõ ràng qua quần áo mặc của mình.

            Huê gấp tờ báo lại, cô nói:

-Hay quá, anh đã thực hiện được tờ báo này.

-Chỉ trong vòng mười ngày.

-Anh kể chuyện mấy tháng ở quân trường cho em nghe.

-Ngày nào anh cũng tắm nắng và đổ mồ hôi.

-Anh quá lãng mạn.

            Thụy rót thêm đầy tách nước, rồi đưa qua cho Huê.

-Cám ơn anh.

            Thụy cầm tờ báo lên xem qua. Đồng hồ trên tường đổ chuông. Rồi sau đó, anh và Huê hai người giúp nhau chuẩn bị bữa ăn tối. Khi ở trong căn nhà trống vắng, ánh đèn điện sáng lên đó là sự ấm cúng, điềm đạm, vừa chừng mực, đó cũng là một dấu hiệu về lương tri. Chàng và nàng như là hai anh em ruột thịt sống bên nhau trong những ngày ở xa gia đình. Cách đây hơn một giờ, Thụy ngồi với Minh ở quán ăn bên khu chợ Thái Bình. Thụy và Minh, hai người gặp lại nhau sau một năm. Ở Đà Nẵng Minh vào Sài Gòn, không phải mong học tiếp mà tìm kiếm việc làm. Rồi hắn đổi ý, và hắn còn đợi chờ mười ngày nữa đi chuyến bay quân sự lên Đà Lạt đặt chân vào trường Võ Bị.

            Dứt một giây hồi tưởng, Thụy hỏi Huê:

-Em có nghĩ tới hạnh phúc cho mình trong tương lai.

-Em vẫn sống bình thường, tự nhiên.

-Anh luôn luôn nghĩ đến hạnh phúc của em.

-Bây giờ không có gì cả là hay nhất.

-Thật vậy sao ?

-Anh có chọn nghiệp văn cho đời mình không ?

-Em hãy chọn cho anh.

-Em không biết .

-Anh cảm thấy vui khi em còn ở Sài Gòn.

            Có bóng người đi qua bên ngoài. Thụy cảm thấy nôn nao muốn nói với Huê:

-Không, sự ràng buộc đời tôi là Thúy Hà. Tôi yêu nàng, vì tôi nghĩ nàng đã sống với tôi trong bao nhiêu tình cảnh người vợ qua những kiếp luân hồi. Trên miệng lưỡi, hễ gọi tên nàng là tôi nhận ra dư vị cay đắng lẫn ngọt ngào.

            Thụy để lộ ra một bộ mặt si dại, ngớ ngẩn. Huê buông đũa, cười lớn tiếng, tiếng cười dồn đổ nghe như là một trận mưa. Trong người Thụy nóng ran lên như cơn sốt, ngay lúc đó, anh để ngửa lòng bàn tay.

            Vậy rồi, buổi tối đó qua đi mà chàng cũng đã che giấu hết sức vội vàng. Chàng được ở bên cô gái đến nửa đêm. Hai người chơi đánh bài. Chàng luôn chú ý những con bài cơ hồng đỏ hình trái tim, nó rạo rực trên mấy ngón tay của Huê.

            Bỗng tiếng cô gái nói:

-Thôi, anh về đi. Đã khuya rồi.

            Chàng không muốn nghe giọng ái ngại ấy làm gì. Rồi không thể nào cô tránh kịp, chàng đã ôm gọn lấy thân cô gái, rồi thật yên lặng  cô để cho chàng đặt môi hôn, nhưng một lúc sau chàng nghe tiếng cô khóc. Cô gái khóc,  chàng nói những lời dỗ dành, vừa nghe tiếng hạt mưa và tiếng mình nói xúc động hòa tan vào hương vị thơm của mùi tóc.

            Về nhà, Thụy thao thức không ngủ được. Anh cảm thấy mình hối hận và nghĩ đến Thúy Hà. Sau đó, anh gặp nàng trong giấc mơ. Bên cánh cửa, nàng bồng đứa con trai nhỏ. Anh đứng yên lặng sau lưng nàng một lúc rất lâu, bỗng nhiên, trên tường vôi trắng anh  trông thấy nàng ngồi một mình xõa tóc. Không biết nàng tìm thấy ai đó trong dĩ vãng.

            Sáng hôm sau thức dậy, Thụy vẫn còn nuối tiếc giấc mơ. Anh không lo âu, sợ hãi, nhưng nghĩ rằng Huê vẫn còn khóc. Nàng khóc vì ức chế, chứ không có gì giận dỗi ai cả. Thụy lại rời nhà, cùng đi với Lăng suốt ngày. Hai đứa đi xe đạp, đến thăm gia đình họ hàng. Ai cũng thấy anh thay đổi, trông vẻ mặt đầy nghị lực, tin tưởng vào cuộc sống. Và, những lời khuyên chân tình của bà con làm anh xúc động, tự hứa với mình cố gắng trở lại với sách đèn.

            Qua tuần lễ sau, Thụy trở lại nhà dì Hồng và đi qua nhà Huê. Anh mạnh dạn bước lên bậc thềm, vừa gọi tên, vừa bấm chuông.

            Huê ra mở cửa, thấy anh nàng hỏi:

-Đi  đâu cả ngày nay ?

            Thụy  nhìn đồ đạc đang bỏ lung tung trên bàn ghế.

-Em đang làm gì ?

-Ngày mai em dọn nhà.

            Thụy cầm lấy tay Huê.

-Anh còn muốn gì nữa ?

-Anh rất nhớ em.

-Bày vẽ ra.

-Em cần  anh giúp em một tay không ?

-Thích làm giúp thì nhảy vô.

            Thụy để  Huê sắp xếp quần áo, còn sách vở, mấy thứ linh tinh anh dọn giúp nàng. Cô gái nói:

-Em cũng thật bê bối với những thứ đồ đạc của mình.

-Ngày mai thì sao ?

-Giúp cho tôi một tay.

-Em không dịu ngọt chút nào cả ?

-Người em hay nổi nóng, lên cơn lắm.

-Còn anh lúc nào cũng thèm đi xa. Có em, anh thấy lòng mình vui.

-Anh liều với em, không chỉ một lần đâu.

            Giọng Huê rất giản dị, lắng sâu. Thụy  không đáp lời, chỉ thu xếp những thứ còn lại vào túi xách.

            Trước khi rời nhà, buổi sáng Huê mời Thụy uống cà phê. Khi Huê hỏi chuyện về sự liên hệ của anh với dì Hồng, anh nói rõ hơn.

-Em là bạn thân của Thúy.

-Anh biết.

            Một giờ sau, Huê và Thụy cùng đi chuyến xe lam đến nhà người chị. Người mẹ đi vắng, hai đứa nhỏ vòng tay chào đón khách. Huê có căn phòng riêng ở nhà dưới. Thụy giúp nàng dọn dẹp căn phòng.

-Công việc này làm anh luôn nhớ đến em.

            Thụy vừa nói, vừa đặt khung ảnh của nàng treo ngay ngắn trên tường chỗ có đặt bàn học. Khi đã có được chút nồng nàn với cô gái, lúc nào trong lòng bạn cũng đầy ắp hương vị của tình yêu. Treo bức ảnh xong, Thụy lùi lại một bước nhìn đăm đăm bóng dáng người đẹp. Trong lòng anh ,  nắng ấm chan hòa, ánh sáng của ngày vừa đổi mới.

            Xong việc dọn nhà, Huê mời Thụy đi ăn cơm trưa. Thụy không đói lắm, nhưng từng giây phút được ở bên cạnh nàng là một dịp anh sống với cuộc đời hạnh phúc khi có được tình yêu. Yêu một người con gái, và được gần gũi nàng vui tiếng chuyện trò, dù cho chưa gì với nhau cả, mình cũng cảm thấy được tình yêu. Huống gì, vào buổi tối ấy, sự đâm liều của anh nó may mắn như một người trúng vé số.

            Nhà Huê ở trong khu bàn cờ, gần đấy là khu chợ, và đi ra đầu đường là gặp phố chính. Dọc con phố, nhà nào cũng là cửa hiệu buôn bán, quán ăn, quán giải khát. Quán ăn của người Hoa luôn đông khách. Hai người ngồi phía dãy ngoài mái hiên, Huê cầm menu gọi món ăn, và anh có hơi ngạc nhiên khi cô gọi cả bia nữa.

            Thụy lên tiếng:

-Ông cho một chai bia lớn, hai ly.

            Không đợi lâu, bữa ăn dọn ra ngay sau đó ít phút. Cả cơm và thức ăn nóng tràn hơi khói. Thụy cầm chai bia rót vào ly Huê   trước xong đến mình.

            Thụy bảo Huê cầm ly lên, cụng một cái trước khi uống. Và, anh nói:

-Rượu bia này uống chơi.

            Nàng nhìn lại anh hỏi:

-Khi nào mới uống thiệt ?

-Đâu biết. Chuyện của em mà.

            Huê nói:

-Em không cám dỗ anh đâu.

-Không , thì thôi.

            Bữa ăn trong sự yên lặng. Nhưng không có gì đáng tiếc xảy ra cho hai người. Sau bữa ăn, Thụy đưa Huê  về nhà rồi chia tay.

            Không biết đi đâu, và cũng chưa muốn về nhà, ra tới trạm xe buýt gặp xe anh bước lên và theo chuyến xe về tới bến.

            Sài Gòn luôn đông vui. Một mình lang thang trên phố, hai mắt người lính trẻ luôn nhìn xa gần, chung quanh, và trong ý nghĩ luôn ước mong gặp một ai quen để nói ra những lời tâm sự.

            Trên vỉa hè Lê Lợi có rất nhiều bán sách báo cũ. Qua mỗi sạp, Thụy dừng lại trong chốc lát. Anh mua được mấy cuốn sách , và một số tạp chí Sáng Tạo cũ. Thụy cứ đi hết con đường lên tới nhà hát thành phố. Và rồi, anh vòng qua bên đường đi ngược trở lại dọc theo hè phố, đến quán Mai Hương ghé vào gọi một ly cà phê đá

Người ngồi trong quán hút thuốc nhiều làm anh bị sặc khói. Nhưng, anh vẫn đốt thuốc để uống cà phê. Ngồi trong quán ai cũng nhìn ra con đường rất đông người đi dạo trên phố chính. Những tà áo dài của các cô gái đi ngang qua làm dịu mát buổi chiều. Những tà áo thật đẹp, đem cho mỗi người một niềm vui, và có cả sự buồn nhớ nữa. Trời sắp tối, Thụy ra về. Quán vẫn đông khách, và bắt đầu ồn lên cùng với tiếng nhạc, lời ca, vọng từ  dĩa hát.

            Về nhà dì Hồng, Thụy gặp Lăng. Hôm nay là ngày giỗ của mẹ dì Hồng. Thụy nói lời xin lỗi dì rồi đi dốt hương. Khi anh trở vào, cô Thúy nhìn anh với cặp mắt dò xét. Ngồi quanh chiếc bàn tròn có Lăng, dì Hồng, và Thúy, Thụy nói chuyện về những ngày nghỉ phép đã qua.

            Sau đó, bữa cỗ dọn lên. Chuyện trò vui, anh hăng hái nói chuyện về đời lính, về tương lai của một chuyên viên Không Quân mà anh tin tưởng là sẽ đem lại nguồn vui cho cuộc sống của mình.

            Thúy nói:

-Anh đi lính rồi trông trẻ hẳn ra.

            Thụy cảm thấy nhẹ nhõm vì có được sự dịu nhẹ mối nghi ngờ trong mắt Thúy.

-Anh khỏi lo chuyện quân dịch nữa.

-Rồi anh có đi học lại không ?

-Thong thả, qua năm tới.        

            Thụy hỏi qua Lăng:

-Có định về thăm dì không ?

-Không. Tuần đến tôi đi Đà Lạt.

-Đi chơi.

-Không. Tôi đi dạy

            Không hiểu sao, Thụy chợt có cảm giác mình đang bị thành phố bỏ rơi.

-Lên trên đó ở luôn.

-Không, sang năm tôi về.

 

 

                                                     VI

 

 

            Trước khi bắt đầu vào năm học, Thiên Nga dành hai ngày đi theo Nguyên ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội và bên ngoại của chàng. Hai người chỉ đem chung cái túi xách với vài bộ quần áo để thay, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một ít thức ăn khô và trái cây trong hộp, đây là phần lương khô hàng tháng của Nguyên. Nga cũng đem theo cọ, mực màu, giấy vẽ, đặc biệt là chiếc máy ảnh hiệu Canon. Nguyên vẫn thích mặc đồ lính cho tiện. Nga không mặc áo dài, nàng chọn chiếc sơ mi sọc xanh, quần jean, đội nón vải và đeo kính mát. Nàng thật đẹp trong dáng dấp áo dài tím thướt tha, và cũng thật trẻ trung, nhanh nhẹn trong lối mặc áo quần của lớp thanh niên.

            Xe lửa rời ga lúc 8 giờ sáng. Trời dịu mát với quang cảnh đầu thu lãng đãng những bóng cây, ánh sáng buồn dịu dàng, và trên bầu trời có những cánh chim một mình bay xa.

            Với tốc độ rất đều, đoàn tàu chạy qua cầu, qua sông, rồi những cánh đồng ven miền quê. Nga rất thích thú nhìn quang cảnh, nàng đang ở trong vòng tay ôm ấp của người yêu. Nguyên thích trò chuyện, anh có nhiều câu chuyện kể thật là thú vị.

            Nga chợt hỏi:

-Tại sao anh bỏ Sài Gòn về ngoài này ?

-Anh ở trong đó lâu năm rồi.

-Thì ở Huế, không là nơi anh ở lâu à.

-Ở thành phố này rất là dễ chịu. Hơn nữa, giờ đây anh có em.

-Hôm chúng mình gặp nhau ở quán cà phê, tình tứ quá phải không.

            Nguyên hỏi:

-Trong hai người, theo em, ai biết mình được để ý trước.

            Nga đáp lời ngay không suy nghĩ:

-Anh.

-Thật vậy sao ?

-Anh không tin.

-Ờ.

-Anh không tin em yêu anh sao ?

-Tin chứ. Nhưng em nói thật không ?

-Vậy chứ theo anh ai được chú ý trước ?

-Em.

-Thật là cảm động.

-Anh ghi lại được ngay phút giây đó gương mặt em dịu hiền, mái tóc đẹp, và nụ cười thật dễ thương.

-Chết em mất.

            Nguyên tìm lời chỉ trong vài giây, anh lên tiếng:

-Bây giờ em cho anh nói thật không ?

-Anh nói đi.

-Anh cám ơn em, nhiều vô kể.

-Ít thôi, nhiều quá cất không hết.

-Để anh nói rõ thêm.

-Anh cứ nói.

-Vừa tan buổi văn nghệ, anh mong gặp em nhưng vì gặp người bạn có chuyện trao đổi lâu, lúc ra đến ngoài, anh tìm không thấy em đâu cả.

-Cuối cùng, ai cũng ngạc nhiên.

-Đêm hôm đó, trăng sáng lạ lùng.

-Đến khuya, trên con đường vắng chỉ có tiếng bước chân chúng mình.

-Anh nhớ mãi tên em, và mong được gọi đó là tên của thành phố.

-Lớn quá, gọi bằng tên của dòng sông nghe gần gũi hơn.

-Em đã bảo anh, em có tên Rose nữa, đúng không ?

-Em rất thích hoa hồng. Khi hoa tàn, em không nở vứt đi mà hái cánh hoa ngâm vào trong chậu nước.

-Em thực là con người nhân hậu.

-Anh nói sai rồi, phụ nữ có lúc rất cần phải dữ, rất cần la lối om sòm để cho kẻ khác sợ.

-Em nghĩ, nếu anh có làm điều gì lỗi với em, thì làm sao ?

-Anh đứng trước mặt em, vòng hai tay xin lỗi.

            Nguyên chợt dụi mắt vì bụi than. Những đám khói tàu ngược chiều gió cuồn cuộn bắn bụi than tung tóe bay vào các toa xe. Lúc ấy, Nga rút chiếc khăn trong ví ra và Nguyên nhắm lại để nàng lau bụi bên khóe mắt.

            Sau ít giây, Nguyên mở mắt hơi khó chịu một chút. Bụi tan, Nga lấy chai nước lọc rót vào cái ly nhựa đưa cho Nguyên uống. Nguyên uống thong thả từng ngụm đầy.

            Phía ngoài cánh đồng, một đàn bò đi dưới nắng. Nga hỏi:

-Hồi xưa, ông ngoại anh làm quan lớn không ?

-Ông ngoại làm tri phủ. Anh là con trai đầu của mẹ, và cũng là đứa cháu được ông ngoại thương nhất.

-Thực không ?

-Ông ngoại làm tri huyện Nga Sơn.

-Hay nhỉ. Nghe như có tên em trong đó nữa.

            Nguyên bắt đầu kể rành mạch chuyện được theo mẹ lên tàu từ Đông Hà ra Thanh Hóa, được ở chơi cả tháng trời.

-Ngày anh về, ông ngoại nhớ lắm.

-Ông ngoại có đến hai bà vợ phải không anh ?

-Ai kể cho em nghe, chắc là mẹ.

            Nga gật đầu. Nguyên nói:

-Bà ngoại đầu, tên Nga.

- Tên nghe hay. Hai bà của ông ngoại thương nhau không ?

-Hai chị em ruột.

-Lạ không .

-Ngày xưa, có chị thì phải có em. Ở đời ông cố anh cũng vậy.

-Vậy nữa sao .

-Anh rất thích cái tích xưa trong chuyện Trầu Cau.

-Em rất thích bài hát đó.

            Ngày xưa có hai anh em nhà kia cùng yêu thương một người.  Nga cất tiếng hát, nàng vừa hát, đầu vừa ngả xuống cánh tay Nguyên với cả mái tóc mềm mại. Nguyên lắng nghe những câu cô gái đang hát.

            Khi cô ngưng lời ca, Nguyên hỏi:

-Bên trường Mỹ Thuật cũng phải học năm dự bị.

-Có chứ anh. Sinh viên phải học đủ bốn năm mới tốt nghiệp.

-Em có mơ cuộc triển lãm về những tác phẩm của mình.

-Đó là giấc mơ của em.

-Anh cũng có giấc mơ giống em.

-Không giống đâu.

            Nàng mỉm cười, và khi Nguyên có ý định cúi xuống hôn, nàng hé môi. Nguyên hôn xuống khuôn mặt, và trên cặp môi mọng ướt của nàng thật lâu. Một giọng đậm đà, còn thơm ướt nụ hôn, Nguyên nói:

-Hôm nay là một ngày vui. Ngày vui này còn mãi.

-Mùa hè đã qua nhanh, Thiên Nga nói.

            Tàu vừa ngừng. Nguyên không nhớ đây là ga nào. Nhà ga nằm bên kia đường, phía dưới cây cầu. Ngước mắt nhìn lên, hai người cùng trông thấy vài ngôi làng và con sông. Bên ngoài trời nắng đầy, nhưng ở phía ngôi làng hiện ra vẻ êm ả của những hàng tre xanh.

            Làng tôi xanh bóng tre, có tiếng chuông nhà thờ rung, Thiên Nga hát lên một câu rồi hỏi Nguyên:

-Anh nhớ tên bài hát không ?

-Không nhớ, nhưng đó là dòng nhạc của Văn Cao.

-Anh nói đúng.

            Chỉ ngừng năm phút, tàu chuyển bánh. Khi trông thấy bảng tên nhà ga, Nguyên nói:

-Còn một ga nữa thôi, mình xuống.

            Tàu bắt đầu chạy nhanh. Cánh đồng vẫn trống trải, như đang cố vươn mình theo. Luôn luôn, những cảnh vật không muốn dừng. Ở cảnh vật, người ta thích quan sát để nghe riêng niềm tâm sự. Đó là một thoáng buồn Nga chợt nghĩ tới.

            Nga vẫn ở trong vòng cánh tay êm ái của Nguyên. Nàng có cảm giác tiếng Nguyên nói, ý tưởng trong đầu Nguyên, mỗi thứ ấy là những nét mới mẻ của mùa màng, thời tiết. Và, trong trí tưởng nàng, cả một bức tranh có thể vẽ ra được đang hình thành.

            Tàu chạy nhanh, nhưng không đến mười lăm phút, lại  trở về tốc độ chậm rồi từ từ tiến vào ga.

-Mình xuống ở đây.

            Hai người cùng đứng lên và lấy hành lý để trên giá. Không có gì để quên sau khi kiểm soát, hai người rời khỏi toa.

            Hành khách xuống không đông. Nhưng ở ga này, tàu ngừng lâu đến mười lăm phút.

            Bóng nắng vạch một đường rất thẳng dọc theo lối đi bên đoàn tàu. Hành khách còn phải đi bộ một quãng xa mới đến cổng kiểm vé.

            Khi ra bên ngoài, hai người dừng bước nghỉ dưới mái hiên. Thiên Nga điều chỉnh máy ảnh xong, bảo Nguyên:

-Anh đứng bên này đi, em chụp cho anh một tấm ảnh.

            Nguyên đứng gần cửa sổ. Bên trong cánh cửa là căn phòng làm việc của trưởng ga.

-Nhìn đây, cười lên nhé.

            Hết phiên mình, Nguyên bảo Nga chọn chỗ đứng để anh chụp ảnh cho nàng. Nga rất là vui, luôn luôn cười. Nguyên chụp cho nàng ba tấm ảnh.

            Đoàn tàu đã rời ga. Hồi còi vang vọng, tiếng bánh sắt nặng nề , gió cuộn vòng những đám khói dâng lên cao.

-Mình phải kiếm một quán nào nghỉ chân.

            Nguyên nhìn tới phía xa, anh tiếp lời:

-Em nhìn phía đó thấy gì không ?

            Ít giây, rồi Nga mới nói:

-Thì cũng là nhà ở, đường sá, có gì lạ đâu.

-Chỗ ngã ba, bên trong là chợ.

            Hai người xuống khỏi thêm tam cấp, vội băng nhanh qua bên kia đường. Phía bên trên, nhiều con đường đất mở các lối tắt băng qua đồng ruộng. Ở một khu đất vắng, mọc lên một ngôi trường tiểu học. Ngôi trường, phía đầu hồi là lợp ngói, tiếp nối theo là những dãy phòng lợp tôn.

            Nguyên bỗng nói:

-Con bé Phương rất là nhiều chuyện, nghe em.

-Con bé vui tính.

-Thụy  viết thư về có hỏi thăm em.

-Thụy  viết thư cho anh.

-Không, nó viết về cho mẹ và con Phương.

-Không chừng, Phương đã kể chuyện về em.

-Con bé nó thích ai rồi, tha hồ thêu dệt. Bây giờ cả nhà ai cũng mến em.

-Riêng anh, hơn hết phải không ?

-Vẫn nhiều lúc, anh băn khoăn.

            Sau một lúc suy nghĩ, giọng ngập ngừng Nga nói:

-Má cứ lo cho em.

-Anh hiểu. Anh cũng chưa dám nghĩ quá xa. Nhưng mà thôi, thấy em vui là anh vui.

-Cứ nghĩ đến má, em thấy lo.

-Anh biết má rất là quan trọng.

-Ba em có vẻ thích anh.

-Anh cũng rất quí mến ba. Con người ba rất vô tư.

-Nói vậy là làm rể được rồi, phải không ?

-Hy vọng thôi. Với ba, anh chỉ thi viết, còn má là phải vào vấn đáp.

-Có một thời má đi dạy, nhưng rồi ít năm sau, xin nghỉ.

-Em thích dạy học không ?

-Thích lắm chứ.

-Tốt nghiệp xong, em xin đi dạy.

-Em cũng có ý nghĩ đó.

-Em dạy ở Đà Nẵng thì gần nhà, nhưng nếu ra ngoài đất Quảng trị này thì cả thành phố là dành hết cho em.

-Hân hạnh.

            Hai người vui chuyện và cùng tâm ý. Tới ngã ba, đường rẽ vào khu chợ chừng khoảng trăm mét. Không khí xôn xao, tiếng ồn trỗi dậy từ phía chợ và ngang qua các dãy quán hàng, cùng lúc, mùi vị thức ăn pha trộn bay ra từ các quán, nhưng cũng dễ phân biệt. Cô gái bắt đầu nhận ra tiếng nói nghe rất là nặng của người vùng quê. Giọng họ khác đôi chút với giọng của Nguyên. Nguyên sinh trưởng ở đây, nhưng anh đã theo gia đình ra thành phố, rồi đi vào Nam, rồi trở về Huế, bao nhiêu cuộc sống trong nhiều năm tháng ấy đã thay đổi tiếng nói và cả con người anh nữa.

            Giữa chợ cảnh buôn bán đang nhộn nhịp. Lối đi trở nên hẹp vì người đông và các quán hàng không chỉ cố định bên trong mà còn tràn lấn cả ra ngoài. Thế nhưng, bạn vẫn thấy có cảm giác dễ chịu đối với sinh hoạt chợ vùng quê. Thực ra, đây hẳn còn là quận lỵ số dân đông, có trường học, chùa chiền, nhà thờ, và đời sống rất gần với một thị trấn.

            Quán hàng ăn khá nhiều, hai người cùng cảm thấy đói. Nguyên đưa mắt tìm, chỗ nào cũng đông chật, sau cùng hai người đi tới cuối chợ, ở đó có một quán ăn rộng rãi. Bên kia quán, một căn nhà mở rộng mái hiên để hai bàn bi da cho thuê. Có cả bàn bóng bàn, đang trống, chưa có người chơi. Có một đám thanh niên đang chơi bi da. Không khí lặng im, hồi hộp.

            Vừa thấy khách vào , chị bán quán cất tiếng mời chào. Hai người ngồi xuống ghế thấp trước cái bàn dài bày chén, tô và đũa muỗng, bên cạnh hai nồi cháo và bún đang nóng lên khói.

-Có gì ăn đây ?

-Dạ thưa nhiều thứ, cháo bánh canh, bún rêu, bánh lá, bánh ướt.

-Em ăn gì ?

-Ăn bánh trước đi.

-Rồi ăn thêm cháo hoặc bún nữa..

            Nga gật đầu. Ơ phía trên có một quán cà phê mở nhạc, giọng ca sĩ Hoàng Oanh đang hát.

            Chị bán quán làm hai dĩa bánh đầy vun, trông ngon mắt. Bánh ướt vùng quê với nước mắm ớt, với chả, và có thịt heo xắt lát mỏng. Vị cay rất dịu làm cho nước mắm pha thật ngon. Nga rất vui ngay lúc  cầm đũa gắp miếng bánh đầu tiên. Bánh ướt ở vùng quê ngoài này hơi dày, nhưng thật dẽo. Loại bánh này có thể dùng làm bánh phở, hoặc pha màu thành mì Quảng. Có chả và thịt ăn ghém, mỗi thứ, Nga gắp một ít. Hai người vui với bữa ăn, không nói chuyện nhiều, nhưng rất hiểu ý khi đưa mắt nhìn nhau. Nguyên và cô gái, ai cũng có nét đẹp riêng trên cặp mắt. Ở Nguyên, đôi mắt đẹp của anh gợi cho các thiếu nữ  nghe ra được tiếng hát của chim, và những tiếng nói trong tình bạn. Ở đôi mắt cô gái, nụ cười là ánh sáng tỏa niềm vui, và khi cô có một nỗi buồn xa xôi, bạn sẽ thấy một màu nhung xanh của chiếc áo hiện về trên cặp mắt của cô. Và đôi mắt ấy, mang mang hoài nỗi nhớ của thời gian.

            Hai người ăn hết dĩa bánh, đã thấy no. Nhưng rồi, thấy chị bán hàng mời mọc món cháo bánh canh cá, mỗi người ăn thêm tô nhỏ. Nguyên nhìn sang quán bên cạnh gọi nước giải khát.

            Bên ngoài, buổi họp chợ vẫn đông. Tiếng nói của người vùng quê, Nga chỉ nghe lõm bõm, cô không hiểu được hết ý nghĩa của tiếng nói.

            Ngồi trong quán đã lâu, nhưng hai người chưa đứng dậy. Nga nhìn đồng hồ đeo tay mới biết là lúc này trời đã trưa.

            Bến xe lam nằm phía đầu ngã ba, có sáu chiếc ở đó đậu dưới bóng im đang chờ khách.

            Nga mở ngăn ví lấy tiền trả. Khi hai người dời bước đi, có mấy người trong quán đưa mắt nhìn theo, ai cũng khen đôi lứa tình nhân xứng hợp.

            Vừa tới bến xe, Nguyên bỗng nghe có tiếng gọi:

-Chú Nguyên.

            Ngay lúc đó Nguyên nhận ra anh Quang, con người o ruột ở dưới làng. Nguyên giới thiệu Nga với người anh. Anh Quang lấy làm vui, cười nói hả hê với mấy người bạn tài xế. Đột nhiên anh quay lại hỏi Nguyên:

-Chú và cô đi đâu đây ?

-Về thăm làng.

-Xe tôi sắp chạy.

            Anh Quang nhìn đồng hồ tay, xong ra phía sau đếm hành khách. Có một người nửa tới với hàng hóa, anh vội leo lên trần xe để chất hàng. Nga chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của anh, chiếc quần tây đen, áo kaki nhà binh có cầu vai và hai túi, đầu đội nón lưỡi trai.

            Anh Quang cột hàng xong, từ trần xe bước xuống và dành hai ghế trước cho Nguyên và cô gái ngồi.

            Khi xe mới nổ máy, Nguyên hỏi:

-Mỗi ngày anh chạy mấy chuyến ?

-Bốn.

-Cũng được chứ anh.

-Ờ, tàm tạm thôi. Thường chuyến lên chợ buổi sớm, và chuyến cuối buổi chiều về đông khách hơn.

            Ngồi bên Nguyên, Nga  vừa cảm thấy xa lạ, vừa thân quen với nơi mình đến. Từ lâu nay, nàng với cuộc sống ở thành phố, và đây là lần đầu tiên nàng đi về làng quê của chàng. Tự dưng cô yêu mến, không hề có ý do dự, đòi hỏi.

            Xe lăn bánh bánh chạy một vòng cua quanh bến, ra đầu ngã ba, rẽ trái chạy trên con đường trồng cây thông , vượt lên dốc cầu, đổ xuống quận lỵ sau đó bắt đầu là con đường làng đất cứng, nhưng bằng phẳng, rộng rãi.

            Khung cảnh làng quê hiện ra thật yên bình, nắng mênh mông trải rộng qua những đồng lúa, bờ đê, và một con kinh đào rất sâu, rất dài, dẫn nước từ phía dòng sông đưa vào ruộng. Những nguồn nước dẫn ở sông vào chảy mạnh, dào dạt như dòng suối, và hình ảnh làm cô gái thấy lạ lùng, quan sát là những chiếc xe đạp nước.  Lúc này là giờ nghỉ trưa, nhiều chiếc ngừng hoạt động nhưng vẫn còn một vài chiếc có người đang đạp.

-Chú Nguyên còn viết báo không ?

-Cũng còn, nhưng không chuyên lắm. Tôi ra ngoài này rồi, không ở Sài Gòn nữa.

-Chú có gặp chị Số không ?

-Chị ở Biên Hòa. Tôi có đi thăm, lúc sau này, chị buôn bán cũng khá.

-Ở làng mình, người ta lần đi vào Nam hết.

-Đã lâu quá, nay tôi mới về.

-Bà vẫn còn mạnh.

-Tôi đưa cô bạn về thăm bà, thăm quê, ở một hôm nay ngày mai đi ra  Đông Hà về quê ngoại.

-Sao chú đi ít ngày vậy ?

-Không được nhiều ngày, cô còn trở vào đi học nữa.

-Cô người ở đâu ?

-Người Đà Nẵng.

-Hồi đi lính, tôi ở đơn vị tiếp vận trong đó.

-Anh được giải ngũ.

-Ờ, giải ngũ loại hai.

            Ruộng lúa hai bên nối nhau trải dài. Nhà ở các ngôi làng nằm sâu bên trong, có ít nhà ngói, nhiều nhà tranh, nhà nào cũng có sân phơi lúa, có vườn, và dọc con đường làng nơi nào cũng có trồng cây lấy bóng mát. Những ngôi làng kế cận nhau, nhưng cách vài cây số là có tên khác. Và mỗi nơi, cảnh vật cũng có chút đổi thay.

            Từ quận, con đường quan rộng chạy thẳng ra tới vùng biển Mỹ Thủy xa12 cây số. Nãy giờ, Nga chẳng lên tiếng chuyện trò với Nguyên và ông anh họ tài xế, nhưng nàng rất vui thích được nhìn cảnh đồng quê. Hàng cau, bụi chuối, giếng nước, những lớp màu ngói đỏ, ngói nâu, những ngôi nhà tranh, từng sự vật tưởng như đang sắp xếp thật  gọn một chuyến đi đường dù là ngắn, nhưng nàng  sẽ nhớ mãi về sau này.

            Hai chặng anh Quang ngừng xe cho khách hàng xuống. Con đường xe chạy cũng qua ba khúc quanh, hai đoạn dốc và bốn cây cầu gỗ.

            Xe dừng đầu chợ, Nguyên và cô gái xuống. Anh Quang xua tay khi Nguyên trả tiền nhưng Nguyên bắt anh lấy và tiền Nguyên đưa cũng rộng rãi.

            Anh Quang cám ơn và cho xe trở đầu. Thực sự, lộ trình xe chỉ dừng khách đầu ngã tư, nhưng vì là người trong gia đình anh đưa người em đến chợ để đi con đường vào làng cho gần.

            Nguyên nói với người yêu:

-Làng  anh ở đây.

-Mới là con đường thôi.

-Em nói đúng. Nhưng về tới làng, chỉ còn xa chừng vài trăm mét.

            Ngồi trong quán, một chị bán quán nhìn ra. Chị ta lên tiếng:

-Mua quà bánh đi anh.

            Nguyên liền đi vào quán mua hai ốp hương. Khi trở ra ngoài, vừa đi ít bước Nguyên nói:

-Làng quê anh rất nghèo.

-Anh làm em cảm động.

-Có em về thăm, bà nội chắc mừng lắm.

-Không phải đâu, anh đừng tưởng em không hiểu ý anh.

            Một giọng vui, Nguyên nói:

-Nhưng cảnh làng quê nghèo, nó được thi vị hóa cái đẹp, phải không Nga?

-Vậy nên, đám nghệ sĩ, anh nào cũng nghèo.

-Họ là những người rất có tâm hồn.

-Bài hát nào về làng quê anh thích nhất ?

-Bài Quê nghèo.

-Cảnh quê giống như làng anh, đúng không ?

-Không, mà giống miền quê ngoại.

-Quê ngoại nghèo lắm sao ?

-Không, nhưng hồn bài nhạc làm anh nhớ đến quê ngoại nhiều hơn.

-Anh nhớ bài nhạc không ?

-Anh không nhớ hết.

            Con đường nhỏ hẹp, có bóng im, cát thật mịn màng dưới bước chân. Nga có ngay được cảm giác này khi cô tháo đôi dép xách tay để được bàn chân êm đi trên cát. Bên cạnh đường, dưới hàng nứa thấp là con mương nhỏ, nước rất trong.

-Thiên Nga  ơi, tiếng Nguyên nghe lạ tai.

-Trời đất,  em đây mà, anh sợ em đi mất sao ?

-Không, anh muốn nói với em. Ngày Tết, ở miền quê ngoại rất vui.

-Ngày Tết, đâu mà không vui .

-Nhưng quê ngoại mới là niềm vui cho em. Anh vừa nhớ ra câu hát trong bài nhạc: Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời áo dài đùa trong tiếng cười.

            Nga reo lên:

-Em hiểu ý anh. Đó là câu hát ca ngợi cảnh ngày xuân,  không ở nơi đâu hay bằng.

            Rồi một giọng xa vắng, nàng tiếp lời:

-Hồn quê như nắng mùa xuân. Hồn quê cũng đẹp như  một tấm áo dài.

 

 

 

                                                           VII

 

 

 

            Với túi xách nhẹ đeo vai và chiếc va li nhỏ đựng áo quần sách vở, Lăng từ giã Sài Gòn. Khi xe buýt ghé trạm ngừng ở lề đường bên ngoài bến xe Pétrus Ký, chỉ có mình Thụy và Lăng xuống.

            Thời gian còn sớm, hai bạn ghé vào quán ăn sáng nằm trong khu vực bến xe. Trời đã sang thu, buổi sáng dịu mát.

            Hai tô hủ tiếu lớn, ăn no. Rồi gọi tiếp hai ly cà phê sữa nóng. Đốt xong điếu thuốc, Thụy nói:

-Tôi sắp đi Nha Trang.

-Anh đổi ra làm việc ngoài đó ?

-Không, tôi đi học khóa chuyên môn.

-Lâu không ?

-Ba tháng. Tôi lại được về Sài Gòn .

            Nhìn lại Thụy qua một nụ cười, Lăng nói:

-Anh đi lính mà sướng hơn làm quan.

-Tôi học chuyên môn để lấy bằng ăn phụ cấp, xong tôi cũng không đi ngành này mà sẽ biệt phái trở lại làm cho báo Lý tưởng.

            Cà phê nóng ấm, ngon miệng. Nghĩ về chuyến đi, Thụy thấy Lăng không vui. Một giọng dè dặt, Thụy hỏi:

-Năm sau thi lại, chỉ vấn đáp thôi hay cả viết nữa.

-Tôi thi vấn đáp hai thôi.

-Rồi cũng nhanh, năm sau về lại Sài Gòn.

            Ngồi không lâu, xong bữa ăn sáng Thụy trả tiền và đi cùng Lăng tới chỗ xe đậu. Trên đường đi, Thụy nhắc tới anh Nguyên, và cũng tiện cho Lăng biết về cô bạn gái của anh Nguyên tên  là Thiên Nga ở Đà Nẵng.

-Anh đã có gặp rồi ?

-Chưa. Nhân kỳ nghỉ phép tôi nghe Phương nói.

-Anh và cô Huê, hai người tới đâu rồi ?

-Không có gì cả.

            Nói xong, Thụy lại tiếp lời giải thích là Huê chưa thực sự có người yêu như nàng muốn. Thế nhưng, anh được ở bên nàng như một người bạn hiểu nàng, và nghe nàng nói những lời tâm sự. Vừa rồi, Huê thi đậu khóa hai, ý định sẽ ghi danh học ở Văn Khoa. Từ hôm Huê dọn nhà đến nay, thỉnh thoảng anh tới thăm, lúc trò chuyện ở nhà, lúc ra quán cà phê ngồi. Kể ra, vì chưa có gì với nhau cả, nên hai người rất thân mật một cách tự nhiên.

            Dừng lại bên dưới xe, Lăng lên trước xong nhận chiếc va li Thụy chuyền qua ô cửa. Sắp xếp chỗ để hành lý trên ngăn giá xong, Lăng ngồi xuống ghế ngoài, trong lúc chờ xe khởi hành hai bạn tiếp nối câu chuyện cho qua giờ.

-Chừng nào anh ra Nha Trang ?

-Cuối tháng này.

-Lâu nay, anh có truyện nào đăng báo không ?

-Có. Tôi hay gởi truyện đăng ở báo ngày và tuần báo.

-Nhuận bút khá không ?

-Ít thôi, nhưng đăng ở mấy báo đó dễ dàng.

            Không đợi đến mười phút xe chạy. Thụy đọc thấy một nỗi buồn trên cặp mắt của Lăng, bỗng dưng cảm thấy đó là người bạn thân thiết nhất của mình.

            Nắng đã lên cao, và trải rộng dần trên khắp các khu phố.

            Hôm nay là thứ bảy. Sài Gòn cách Đà Lạt 300 cây số, xe đò hay rước khách dọc đường, thời gian cũng phải chạy mất hơn bảy tiếng đồng hồ mới đến nơi. Và dù vậy, Lăng cũng có được một tuần lễ nghỉ trước khi vào năm học mới.

            Xe buýt đỗ khách tại bến chính ở khu chợ Bến Thành. Giữa cảnh tượng ồn ào, huyên náo trên các ngả đường, Thụy chẳng biết mình đi đâu, và làm gì đây cho qua hết một ngày.

            Những quầy sách cũ, rạp hát, quán cà phê đã vội vàng biến mất khi Thụy vừa nghĩ đến sự tìm kiếm.  Nơi thành phố cũ ấy, áo trắng là hương thơm tinh khiết của mùa hoa lan. Vừa bước đi, Thụy muốn vẽ lại trong trí nhớ mình thành phố đó. Với những dòng sông, bao nhiêu cây cầu, và mùa thu đã trở lại. Thụy nghĩ đến giọng nói, đôi mắt của Liên An. Bây giờ đây, anh thật hết sức cố gắng tìm sao cho thấy được một bóng dáng Thiên Nga nguyên mẫu ngoài đời. Ký ức về nàng, dù là qua sự mường tượng nhưng vẫn có thể xây dựng nên một câu chuyện tình. Trong năm học ấy, Thúy Hà mới 17 tuổi. Trước khi đến thành phố nàng ở và gặp nàng, Thụy đã trải qua một mùa thi đầy ân hận, cay đắng. Về thời gian sau này, anh học hành có tiến bộ, trở thành học sinh khá trong lớp, vậy mà anh không được cái vận may trong mấy ngày thi cử nên bị rớt hai khóa liền. Thật chết người ở lần thi khóa nhì, anh qua được loạt I, nhưng rớt loạt II, vì thiếu một điểm. Chiều hôm ấy, trời xứ Huế buồn dưới cơn mưa nặng hạt. Dưới mái hiên văn phòng trường Quốc Học, có hai cha con đứng đợi thầy giám thị xem điểm giúp. Một lúc khá lâu, thầy trở ra, và khi nhìn dáng thầy đi chậm bước mắt nhìn xuống tờ giấy, Thụy linh cảm chuyện không may cho mình. Quả thực, anh hỏng thi. Trên vuông giấy xanh, những môn thi của anh được ghi điểm, rồi một giọng bình thản người thầy hỏi Thụy có được điểm thể dục không ?, anh đáp không, lặng người đứng chôn chân một chỗ. Sự hối tiếc và ân hận, đã muộn rồi. Tại sao mình không nghĩ rằng, ở môn nhiệm ý này chỉ cần có dự thi, dù không đạt tiêu chuẩn về nhảy rào, nhảy cao, nhảy dài, leo dây các huấn luyện viên cũng châm chước cho các thí sinh một vài điểm dư để cộng thêm vào kỳ thi. Hôm đó, thực sự Thụy có đi theo các bạn cùng lớp từ trường Bình Linh xuống sân vận động trường Quốc Học, nhưng lúc sắp vào cuộc thi, anh chợt nghĩ lại một lần chơi đá bóng bị té ngã gãy xương vai, nếu lần này, thi nhảy qua rào, nhảy cao và nhảy dài, lỡ té ngã, xương cũ của anh sẽ bị nứt khó chữa lành. Thụy mang nỗi lo sợ ấy, do dự một lúc, và rồi không biết chuyện gì đã xui khiến anh rời khỏi sân vận động ra về. Trên đường đi, Thụy cố tự nhủ, tuy không có điểm thêm của môn thể dục mình vẫn thừa khả năng thi đậu.

            Nhưng sự coi thường này, Thụy đã trả một giá đắt, nặng nề, không chỉ mất một năm học lại mà còn nhìn thấy tương lai bấp bênh, còn nữa, một chuyện phải lo thêm giấy tờ xin hoãn dịch. Và, có một lối thoát dạo đó Thụy không nghĩ ra, đó là việc đổi tên và làm giấy khai sinh sụt tuổi. Chuyện này không khó, vì ba anh chỉ việc ra ngoài quê nói bác anh là thôn trưởng làm cho một giấy khai sinh mới, rồi đem trình tòa án tỉnh xác nhận là xong, và qua được chuyện này, anh sẽ cảm thấy yên tâm học hành.

            Thật tình Thụy không nghĩ ra được cách giải quyết này là vấn đề quan trọng cho đời mình. Nhưng rồi, Thụy lại vẫn tiếc rẻ cho cái bằng Thành Chung mình thi đậu, nhờ nó, anh mới lên tinh thần và thấy ham học. Thụy còn  nghĩ thêm, với bằng Thành Chung anh có thể thi Sư phạm cấp tốc, sau một năm ra làm giáo viên tiểu học, đồng lương cũng không đến nổi quá kém, thiếu hụt. Rồi, nương cái nghề giáo làm chỗ dựa, lần hồi, anh học thêm, trễ tràng lắm từ một đến ba năm anh cũng lấy xong được bằng Tú Tài.

            Mùa thi ấy đã qua. Những cây phượng trên các ngả đường trong thành phố, hoa vẫn còn đỏ. Những ngày đợi mùa thu sắp về, tâm trạng những người học sinh rộn rã lắm, nhưng Thụy cảm thấy mình chán nản gần như tuyệt vọng. Thụy muốn rời xa Huế, đi Sài Gòn. Thụy thèm trở lại thành phố này, và nếu được, anh sẽ tìm kiếm một công việc làm có đồng lương rồi đi học lớp buổi tối. Thụy ngỏ lời tâm sự với ba anh, nhưng ông im lặng, không quyết đoán. Rồi hôm ấy, dì Bích Vân ở Đà Nẵng ra làng quê nhân tiện ghé thăm, nhân lúc đó mẹ anh hỏi xin ý kiến dì, được dì bằng lòng chấp thuận.

            Dì Bích Vân về thăm quê một tuần mới trở lại. Rồi, Thụy đi theo dì vào Đà Nẵng, đến nhà dì ở đường Trưng Nữ Vương. Một tuần lễ sau, Thụy mới làm đơn xin nhập học trường Sao Mai.

            Trường Sao Mai là trường tư thục công giáo lớn nhất thành phố. Ngôi trường tọa lạc trên một diện tích đất khá lớn, các phòng học đều rộng, thoáng đãng, phần đằng sau gồm nhiều dãy nhà dành cho các lớp tiểu học và đệ nhất cấp. Nơi phần sau này, còn có sân chơi bóng chuyền , vũ cầu, và một trạm phát thanh. Ở phần trước, một tòa nhà lầu ba tầng, có hội trường, sân thượng, nơi này, cổng chính nhìn ra công viên của bến Cảng. Và toàn thể của tòa nhà được dành cho các lớp đệ nhị cấp.

            Trường Sao Mai bậc đệ nhị cấp có đủ các lớp Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất. Thụy nhập học trễ, thầy giám thị ghi tên anh vào lớp Đệ Nhị B1, đây là lớp vào giờ ngoại ngữ được tách ra, nhập chung với lớp của ban A.

            Thụy không hay biết , đến buổi sáng thứ sáu sau hai giờ đầu, vừa nghe chuông báo giờ chơi hơn một nửa lớp bên anh đã vội ôm tập rời phòng. Thụy hỏi ra, mới hiểu, và anh đã ngồi lại yên chỗ để chờ giờ học môn tiếng Pháp.

            Giờ chơi mới bắt đầu. Sự đổi lớp ồn ào, lộn xộn nhưng Thụy không bị chia trí. Thụy lấy tờ báo Tiếng Chuông mở ra đọc. Thụy đọc một truyện ngắn dự thi đăng ở trang tư. Bỗng dưng có sự linh cảm, anh ngẩng đầu nhìn ra cửa thấy một cô gái xuất hiện. Hai người cùng ngạc nhiên, nhìn thấy anh chú ý, cô gái liền dừng bước. Thụy có ngay một hình ảnh toàn diện về cô, trước tiên là dáng người thanh nhã qua chiếc áo dài nâu, mái tóc xõa xuống kín vai, sau đó, là vẻ đẹp của một đôi mắt nhỏ như hai vị sao dừng rất lâu trên một gương mặt tỏa ra ánh sáng. Lúc ấy, cô gái tỏ ra nghiêm trang, nhưng mắt cô vẫn nhìn anh. Thụy thầm nói với cô về sự bối rối, nỗi ngại ngùng của mình. Ít giây thôi mà tưởng thật lâu, cô gái dời bước rẽ lối trái, đến dãy bàn thứ nhì, xong cô đặt chiếc cặp xuống. Sau đó, Thụy không còn nghe rõ gì nữa tiếng cô nói với một người bạn ngồi cạnh bên cô.

            Thụy đang bâng khuâng, cố gắng trở lại sự bình thường. Thụy lại cúi xuống đọc báo, đến đoạn gần cuối truyện lúc đoàn tàu vừa chuyển bánh rời ga thì hồi chuông báo hết giờ ra chơi vang lên.

            Thầy giáo vào lớp, đặt chiếc cặp da lên bàn. Thụy nhìn người thầy, hỏi nhỏ anh bạn, được biết là thầy Huynh. Vị thầy có mái tóc muối tiêu, chải rẽ gọn gàng. Trên gương mặt sạm đen, hằn đọng nhiều dấu vết suy tư, và cặp mắt nhỏ của thầy ẩn bên trong chiếc kính trắng lớn.

            Hôm nay, chúng ta học bài mới. Thầy Huynh nói xong, mở rộng cuốn sách bìa xanh của tác giả Mauger, giới thiệu một đoạn trích giảng văn rút từ trong tiểu thuyết Courrier Sud của nhà văn Pháp, Antoine de Saint Exupéry.

            Phòng học của lớp khá rộng, có một bức tranh và chiếc đồng hồ treo tường. Từ phía những cửa sổ bên trái, không cần phải đứng lên, ngồi ở bàn phía ngoài có thể trông thấy rõ hết quang cảnh đường phố, khu công viên và mọi sinh hoạt trên bến Cảng.

            Thầy Huynh đứng trên bục giảng đọc đoạn văn, tiếng đọc chậm, lời nghe du dương, cảm khái. Vừa đọc, thầy vừa dùng động tác bằng tay lúc đưa ra, lúc kéo vào để biểu thị những sắc nét hùng hồn hay êm ái của đoạn văn. Và chừng sau mười lăm phút, thầy đọc xong.

            Trước khi giảng, thầy nói qua về tiểu sử tác giả. Saint Exupéry là một nhà văn phi công. Bước vào nghiệp bay, ông làm phi công chở thư cho những chuyến bay đường dài, tới các xứ vùng Nam Mỹ. Có chiến tranh, ông nhập ngũ, là Đại úy phục vụ ở một phi đoàn tác chiến. Trong thế chiến thứ nhì, ông bay loại  phi cơ thám thính, trước năm cuộc đại chiến kết thúc, ông bị mất tích trong một phi vụ tình báo trên vùng lãnh thổ nước Đức chiếm đóng. Có tin là ông bị địch bắn hạ, nhưng cũng có tin máy bay của ông bị hỏng máy rơi xuống biển. Người ta chỉ ghi nhận là ông bị mất tích, do máy bay lâm nạn.

            Ngoài nghiệp bay mà ông gắn bó, ông còn là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Những tác phẩm quan trọng của ông gồm có: Bay đêm (Vol de nuit), Chuyến thư miền Nam (Courrier Sud), Terre des homes (Cõi người ta) Pilote de guerre (Phi công thời chiến) Citadelle (Thành Trì) Le petit prince (Cậu hoàng con)

            Người thầy đã nói về cuộc đời một nhà văn phi công bằng một giọng thật cảm khái, hùng hồn. Riêng Thụy, anh cũng đã có một lần ước nguyện được trở thành phi công. Năm học vừa qua, nếu Thụy lấy được bằng Tú Tài I, anh cũng rất muốn tính chuyện gia nhập vào Không quân đi theo ngành phi hành.  Nhưng, ước mơ này đã vuột khỏi tầm tay, rồi nó cũng không còn làm anh mong đợi nữa. Nhà văn Saint Exupéry cũng làm anh nhớ đến một tác giả khác nữa, nhà văn Toàn Phong với cuốn truyện Đời Phi Công. Đây là một  tập tiểu thuyết gói ghém những lá thư bốn phương trời của một chàng  sinh viên nước Việt gởi về cho một cô em gái nơi quê nhà. Cô gái, tên Phượng, tên của một loài chim hiếm quý. Thụy đã đọc xong cuốn sách này trong một ngày chủ nhật trên căn gác. Đọc xong, anh thật mến yêu và cảm động về tình đất nước của chàng trai. Còn với cô Phượng, không chỉ bao nhiêu hương sắc và nét đẹp của cô dành cho chàng trai thôi, mà có cả mình trong đó nữa. Rồi như đâu, một lần ấy tương tư, cô hỏi Thụy, bạn đã tìm thấy được ai là Phượng ngoài đời chưa. Thụy khẽ lắc đầu, chợt mỉm cười nghĩ đến một lứa đôi hạnh phúc đó là chàng trai của tác giả và cô gái đây thôi. Từ dạo đó, Thụy thích đọc nhiều tiểu thuyết. Khi một nhân vật nữ xuất hiện cho mình một tình cảm rung động, anh thường hay đem hình ảnh đó trong tiểu thuyết ra hiện diện trước cuộc đời. Nhà văn Nhất Linh viết cuốn Đôi Bạn thật là hay. Những chiếc lá bàng lay động, phất phơ trong ký ức của một người Hà Nội đang nhớ nghĩ về thành phố xưa của mình. Thụy rất thật lòng đối với cô Loan. Thụy cũng đã biết Dũng Nhất Linh rất yêu cô. Khi xa cô, Dũng chỉ gói ghém một mình cô trong tấm lòng áo trắng. Nhà văn Nhất Linh luôn gắn bó cuộc đời mình với những nhân vật ông đã sáng tạo ra tiểu thuyết. Thụy còn thích một cuốn truyện khác nữa của ông, đó là Bướm trắng. Khi đọc xong cuốn truyện, không một chút ngại ngần Thụy nói ngay với tác giả rằng, anh đã yêu cô Thu. Nhất Linh suy nghĩ, đôi mắt đen sâu, ông ngồi im như pho tượng. Ôi, cô ấy thật tuyệt vời. Nhìn cô trong dáng vẻ một thiếu nữ mặc áo xô tang, thật là đẹp buồn rất não nùng. Rồi lúc được gần bên nhau, cô để cho Thụy say đắm nhìn cô, và rất tự nhiên cô ngồi nghe anh nói những lời tỏ tình.

            Tiếng giảng bài của thầy Huynh chậm đều, rất rõ, và lôi cuốn từ mỗi tác động hai bàn tay và trên đôi mắt. Tiếng Pháp thầy đọc, vang âm như nước dòng suối. Thụy vừa lắng nghe những lời giảng bài của thầy, nhưng vẫn chưa muốn rời khỏi tên các cô gái Geneviève, Phượng, Loan, Thu, là những bóng hình rất đáng yêu trong tâm tưởng.

            Trên tấm bảng sơn xanh, người thầy khởi sự viết những dòng đầu tiên của đoạn văn trích giảng. Cả lớp yên lặng, ghi chép. Đoạn văn khá dài, dòng cuối kết thúc là lúc phi cơ cất cánh rời khỏi phi trường.

            Với dáng người cao, bước đi trầm lặng, cái bóng áo trắng của người thầy qua lại trong lúc học sinh chép bài.

            Không đợi lâu, người thầy khởi sự ngay bài giảng, lúc này, phần chính yếu về văn phạm, rồi nghĩa chữ khó và các thành ngữ. Hết giờ đầu, có tiếng chuông ngắn đổi giờ, nhưng lớp học vẫn tiếp tục buổi học. Khi kết thúc xong bài giảng, thầy cho cả lớp mười phút chuẩn bị phần bài dịch. Rồi, lần lượt thầy gọi một vài học sinh đứng lên dịch từng đoạn ngắn. Mỗi khi thầy gọi người nào, Thụy đều chú ý, lắng nghe tên. Bỗng nhiên, Thụy thấy tim mình đập mạnh lúc thầy gọi tên cô gái. Hướng mắt nhìn về cô, anh chờ đợi trong cảm giác nôn nao. Cô cất tiếng đọc đoạn văn, rồi bắt đầu dịch. Thụy nghe được tiếng cô rất trong trẻo, và đoạn dịch văn thật suông sẻ. Thụy cũng thấy thầy Huynh lắng tai chú ý nghe những lời dịch của cô. Thầy gật đầu nhẹ, lúc cô vừa dịch xong, thầy quay về phía bảng gạch bên dưới những thành ngữ và giải thích thêm một số nghĩa mới.

            Từ bên này, mắt Thụy không rời bóng dáng cô. Thụy tự nhiên cảm thấy vui trong lòng. Và thực sự, anh yêu mến cô gái rất nhiều với những hình ảnh đầu tiên của cô mà anh đang cố tìm cách lưu giữ. Vì rằng, cô đã xâm chiếm hồn anh bằng màu nâu nhạt của chiếc áo dài,  bằng đôi mắt nhỏ bé, bằng tất cả sự duyên dáng của bước đi qua mái tóc mượt mà kín xõa hết xuống hai vai. Bao nhiêu nét ấy, còn gợi ra cho anh mường tưởng một bức tranh vẽ chân dung rộng lớn, nó mang ấn tượng về cuộc đời bằng một sự trầm lặng, xưa cũ. Nhìn thật lâu, bạn sẽ còn thấy ở cô thêm nhiều nét lạ lùng , nổi bật là một khuôn mặt dịu dàng tỏa sáng, rồi trong cặp mắt nhỏ đẹp như hai vị sao những nụ cười xanh lấm tấm tưởng đấy là tiếng chân chim vui đang nhảy nhót . Sự yêu thương  dành cho cô gái biết bao nhiêu mới đủ, khi mà cô thực sự mong rằng, luôn luôn cô là nỗi nhớ trong lòng của bạn và tôi. Nỗi nhớ , không chỉ thoáng trong một phút, một giây, hoặc một ngày giờ gần như đáng kể, mà đấy là cả tháng năm ưu phiền, mỏi mệt, suốt đời như con nước trầm lặng chảy theo dòng sông.

            Thời gian còn chừng mười lăm phút nữa, tan buổi học. Thầy Huynh có một vài câu chuyện nói với cả lớp. Thụy nghe, nhưng không thể rời mắt khỏi cô gái, và rồi cô bắt gặp cái nhìn của anh. Hiểu được lòng anh nên cô đã nguyên vẹn cả một gương mặt cho anh  có được một sự yêu thương hết đời mình.

            Bất chợt, thầy Huynh gọi Thụy đứng dậy. Cả lớp nhìn anh, và có đôi mắt cô gái nữa.

-Em là học sinh mới ?

-Dạ.

-Em tên gì ?

-Em tên Thụy.

-Trước đây, em học ở đâu ?

-Dạ, ở Quảng Trị.

-Gia đình em từ ngoài đó, vào trong này ?

-Dạ, không. Em vào đây một mình.

            Thụy bắt đầu ái ngại, không dám nhìn đâu cả. Thầy Huynh nói:

-Tôi có một thời gian dạy học ngoài đó.

            Thụy đứng im. Lúc này, lòng anh dịu lại và được đón nhận từ đôi mắt cô gái nhìn sang , vừa giữ ý. Một giọng thân tình, thầy Huynh nói với lớp học về những kỷ niệm trong năm đất nước mới chia đôi, và ngôi trường đầu tiên thầy dạy học ở tỉnh Quảng Trị.

            Hồi chuông reo lên, kéo dài đã cắt  đứt hết câu chuyện và những kỷ niệm thân thiết của thầy đối với tỉnh Quảng Trị, nơi ấy là quê hương của Thụy. Sau này, anh ít khi trở về thăm lại chốn cũ.

            Thầy Huynh vừa khuất dạng, cả lớp ồn dậy lên tiếng cười nói, đùa nghịch vang vọng ra bên ngoài. Nhưng một mình Thụy vẫn yên lặng, anh bước nhanh xuống cầu thang, đến hội trường rẽ trái, rồi đi ra cổng chính. Và, chỉ dừng trên vỉa hè một phút rồi băng qua đường, anh đứng lại dưới bóng cây im nắng trong khu công viên rộng rãi, mát mẻ, rải rác trên các ghế đá có người ngồi nghỉ chân, chuyện trò. Phía ngoài con sông mặt nước mênh mông, tràn ngập nắng, và đây là bến cảng trong thành phố. Có nhiều tàu lớn nhỏ đang neo đậu và rất đông thủy thủ đứng trên boong tàu.

            Trưa, nắng bắt đầu gắt. Từ nơi này, Thụy  có được cái nhìn bao quát các con đường mà học sinh đi ra phía cổng sau hay cổng trước đều trông thấy. Thụy mong tìm được cảm giác nhẹ nhõm, buông thả hết những mơ mộng về tình yêu gởi nàng. Thụy đã có hai năm học ở Đà Lạt, thành phố ấy là ánh nắng hồng của mùa hoa anh đào. Cũng ở đó, những ngày mưa, buồn rất da diết. Thụy đến nơi thành phố ấy để đi học, rồi có cơ duyên, anh khởi sự viết câu chuyện tình của mình và một cô bạn gái cùng trường. Nhưng mà thôi, đừng có chia trí, lan man, hãy ngóng đợi một hạnh phúc đẹp sắp mang đến cho đời anh.

            Bây giờ học sinh đang dồn ra đông. Trên cặp mắt, Thụy chỉ ngóng tìm một bóng dáng áo nâu. Buổi học chung hai giờ cuối để lại trong lòng anh hình ảnh cô gái, vừa xa lạ, nhưng cũng thân thiết vô cùng. Bỗng nhiên, anh chợt buồn khi nghĩ đến số phận mình. Nhưng thôi, nàng cũng đã biết tên anh, vậy anh hãy cố thu hết sự can đảm nghĩ về một tình yêu có nàng, rồi một ngày của bao nhiêu năm sau, hai người trở thành bạn đời.                                     

            Cơn gió hất nhẹ thân chiếc áo dài nâu bay lên. Từ cổng trước đi ra, bên cạnh nàng  có ba cô bạn nữa, hai cô mặc áo trắng, một cô mặc áo màu lam. Bốn thiếu nữ thong thả bước. Nàng đi phía ngoài, lúc này, Thụy để mắt theo dõi bóng nàng, lòng vừa nôn nao sợ, vừa thầm mong nàng bắt gặp mình đang đứng đợi chờ. Tới ngã ba bốn cô  cùng dừng bước, rồi ít phút sau chia tay. Lòng Thụy thực sự vui khi thấy bóng chiếc áo nâu về một mình. Thụy bỗng muốn cất tiếng gọi Thúy Hà hoặc liều lĩnh chạy về phía nàng trong cảm tưởng như mình là một cậu bé đang xúc động được gặp lại người chị đã xa cách lâu ngày.

            Bên đây con đường, yên lặng Thụy bước theo. Thụy nghĩ nàng đi bộ chắc nhà ở gần trường. Thụy hẳn còn ghi nhớ đôi mắt ngạc nhiên của nàng khi nhìn thấy anh là học sinh mới, hôm nay mới là buổi đầu tiên biết nàng. Ở đây cũng như nhiều tỉnh khác, các trường học  khai giảng đã qua hai, hoặc ba tuần nay. Thụy xin nhập trường cũng như vào lớp muộn, vì nỗi buồn hỏng thi của anh trong mùa hè qua vẫn chưa khỏa lấp nổi. Thụy đành học lại một năm để thi, và thay vì, chọn trường ngoài Huế anh lẩn vào đây và được ở trọ nhà dì Vân , chị em họ với mẹ anh.

            Khi tới căn nhà sơn cửa xanh, đây vừa là cửa hiệu bán nước hoa nàng đi vào. Thụy chợt dừng bước, không đi nữa. Qua khỏi bức màn sáo, nàng khuất dạng. Nỗi buồn làm nóng ấm trên cặp mắt, Thụy nhìn con đường Độc Lập trải dài qua những hàng cây bên đường. Thụy vẫn đứng yên chỗ, nhìn lại căn nhà của nàng bên kia có những cánh cửa sơn xanh, bức màn sáo nhiều màu, trong tủ kính những chai nước hoa lớn nhỏ sắp thành hàng, sau đó khi thấy một bóng người đi lên căn gác làm anh mường tưởng không biết bao nhiêu kỷ niệm quyến luyến về sau này, nếu rồi đây anh sẽ được quen biết nàng.

            Sau một hồi còi ngắn, con tàu tách bến. Gió ngoài sông lùa qua mặt nước,  tràn vào những con đường trên khu phố một thứ hương vị muối ngây ngất, mát mẻ.

            Khi buổi trưa đã bắt đầu xuống thật yên tĩnh, Thụy mới  theo cái bóng đơn độc của mình về nhà. Sự cô đơn khiến anh  nghĩ ngợi nhiều. Thụy chợt cảm thấy  nỗi đau nhức chuyện hỏng thi chỉ vì thiếu một điểm. Thụy đâm ra giận mình, sao mà buổi sáng đó không chịu khó ở lại thi thể dục, nếu mà anh có thi thì một điểm thiếu của anh sẽ được đền bù thật may mắn. Nhưng không, số phận xui khiến anh không dự thi thể dục buổi sáng đó. Hôm ấy vì lo ngại cánh tay trái đã một lần nhảy cao bị té gãy nên anh bỏ cuộc thi trở về nhà, nhưng rồi chẳng biết đi đâu, sau đó nghĩ lại anh đâm ra hối tiếc, lo lắng.

            Hình như, Thụy vừa linh cảm  bóng dáng chiếc áo nâu chợt thoáng hiện. Anh lại nhớ, vừa cố gợi ra sự dịu dàng, bao dung đầy thương yêu trên cặp mắt nhỏ bé của nàng. Ngày xưa ấy, nơi tận chân trời quê cũ  anh đã trông thấy buổi chiều in bóng áo  nâu của mẹ anh trên con đường đê khi về tới đầu làng. Anh đứng trước cổng nhà bà ngoại chăm chú nhìn cái bóng dáng xa gần lay động  hình ảnh mẹ anh. Và, lòng thương dào dạt xiết  bao nhiêu khi nhìn thấy chiếc đòn gánh trên vai người mẹ trĩu nặng xuống, anh muốn mình chạy, muốn mình bay tới phía con đê để được đón mẹ về, và lúc gặp mẹ câu hỏi trước tiên là quà bánh mẹ mua có nhiều không ?...như thế đó, giấc mơ nghĩ đến mẹ trên cánh đồng ruộng ở vùng quê  giờ đây đã cho anh được nhớ thương một cô gái, được trông thấy cô mà liên tưởng đến hình ảnh một người mẹ lúc còn trẻ. Chiếc đòn gánh nặng trĩu xuống vai, vì mẹ anh mua nhiều hàng trên chợ tỉnh. Gió chiều thổi qua đồng ruộng, qua con sông, thời xưa ấy thật là yên bình. Bỗng dưng, Thụy nghe ra một giọng nhỏ nhẻ với tiếng mừng vui, cô gái bảo anh cứ rán chút nữa, đã sắp về gần tới nhà rồi.

            Mùa hè năm ấy, lần đầu tiên Thụy đi xa khỏi tỉnh Quảng Trị. Thụy đi  với Huân, bạn thân học cùng lớp và ở cùng xóm quanh khu vực nhà ga. Nhà gần  ngay ga, nhưng đôi bạn thiếu niên thích đi bằng xe đò khởi hành lúc trưa,  tới Huế đầu buổi chiều. Tại bến ở đây, hai đứa mới mua vé xe suốt . Thụy vào tới Nha Trang, còn Huân sẽ xuống quận Ninh Hòa.

             Sau hai giờ đợi, lúc số ghế bán hết xe ca mới khởi hành. Huế-Đà Nẵng cách nhau khoảng 100 cây số, xe chạy nhanh, nhưng lên tới đỉnh đèo Hải Vân phải ngừng chờ nửa giờ để chuẩn bị đổ đèo. Tới Đà Nẵng, xe vào đậu bến chính và lúc đó trời đã bắt đầu tối. Xe vừa ngừng, trước khi hành khách xuống tìm quán ăn, quán giải khát,  cả người chủ xe và tài xế cùng loan báo cho mọi người biết là vì đường mất an ninh nên ở lại  tối, sáng mai xe sẽ rời bến sớm. Nhân dịp này, Thụy và Huân rủ nhau dạo phố.

             Từ bến xe đi bộ, mỗi quãng lại hỏi đường vào phố chính. Rồi hai đứa dừng bước  bên một ngã tư , mắt  vui lên vì được  nhìn thấy dãy phố nào cũng trưng đèn sáng, các cửa hiệu buôn và tiệm ăn đều mở cửa đông người ra vào. Trên vỉa hè, tiếng giày, tiếng guốc khua dậy, và tiếng nói những người đi qua lại nghe cũng hơi lạ lùng.

             Thụy và Huân rảo loanh quanh một vòng xong ghé vào tiệm cơm, mỗi đứa gọi một dĩa cơm gà, một chai bia 33 khổ lớn rót đầy hai ly. Ở trong một thành phố lạ, cùng với chuyến đi xa lần đầu  hai bạn nhỏ trò chuyện với nhau một cách thích thú như người lớn. Quảng Trị, tỉnh nhỏ bé thân thương giờ đây hãy để quên, hãy cho mỗi đứa trẻ một chút ước ao về chuyến ra đi, về một ngày mai đẹp của thời niên thiếu ắp  đầy cả giấc mộng phiêu lưu.

            Sau bữa ăn hai đứa  góp chung tiền trả, rồi tiếp tục dạo phố và lúc trông thấy có tiệm bi da vắng khách, cả hai vào đánh chơi ba cơ vừa đúng một giờ. Thụy đánh thắng Huân  cơ chung kết, hơn cách biệt bốn điểm, tuy vậy lúc trả tiền lại cùng góp chung.

            Trời đêm  mát dịu nên đôi bạn còn đi chơi. Khi qua rạp hát Tân Tân , Thụy rủ Huân ghé vào xem biển quảng cáo, xong mua vé để coi cuốn phim Le bal des maudits . Rạp hát rộng rãi, đông khán giả. Hai bạn ngồi dãy ghế giữa hạng nhì, vừa tầm mắt. Niềm vui dậy dàng lên từ lúc buổi sáng sớm với chuyến đi xa, giờ được nghe vang âm qua giọng nói của mình. Cả Huân nữa, nó cũng mang niềm hãnh diện như Thụy. Ngày nào đó trở về, mỗi đứa sẽ kể lại bao nhiêu kỷ niệm vui thích trong chuyến đi này cho bạn bè nghe.

            Ánh đèn chìm tắt, một điệu nhạc trỗi lên dìu dặt và khi nghe âm điệu vang ngân, trải dài Thụy chợt thoáng nghĩ đến một dòng sông đang trôi chảy miên man.

Le bal des maudits, tên cuốn  phim chạy hàng chữ lớn rồi dừng lại  ít giây trên màn ảnh rộng. Sau đó, lúc tiếng nhạc nhỏ dần, mắt Thụy chú ý đọc tên các tài tử đóng phim.

            Vào phim, nhạc đệm cùng những tiếng động nghe dồn dập. Khi đoàn  xe quân đội Đức Quốc Xã dừng lại giữa con đường đèo bên trên là cánh  rừng, một viên Sĩ quan rời ghế bước xuống, gương mặt trẻ trung của tài tử Marlon Brando gây cho Thụy một ấn tượng khó quên. Nơi ánh mắt, gương mặt và những nếp nhăn trên vầng trán anh ta như muốn biểu lộ một sự phi lý về chiến tranh. Ngay sau đó, có tiếng súng đạn nổ, những tốp lính  Đức cao lớn, nhanh nhẹn nhảy ào ra khỏi xe chạy  băng vào khu rừng thực hiện cuộc truy lùng, càn quét địch quân. Bỗng dưng, trong rạp hát mọi người cùng lo sợ, nín lặng theo dõi từng bước chân rình rập, từng gót giày đe dọa của chiến tranh.

            Khoảng nửa giờ sau, Thụy mới nhận ra một cách lờ mờ về ý nghĩa cuộc chiến, nhưng có rất nhiều cảnh tượng mang những suy tưởng triết lý anh đã không hiểu mấy. Chỉ còn hình ảnh Hope Lange, nữ tài tử trẻ đẹp là muốn dành riêng cho anh một kỷ niệm thân thiết, hay đó là nỗi nhớ tưởng , tựa giấc mơ. Thụy  bị rung động bởi tiếng nói của nàng với người yêu, và trong lặng yên cùng với bóng đêm trên đường phố mắt anh cứ nhìn theo  đôi tình nhân đang chậm bước bên nhau lúc đến quảng trường có xe buýt đậu, họ mới rời nhau.

             Sau cùng, mọi người chợt nghe hai tiếng súng nổ, Marlon Brando, viên Sĩ quan kiêu dũng xuất hiện khi cuốn phim vừa mới bắt đầu, giờ anh ta bị trúng đạn do hai người lính Mỹ nhắm bắn, cái chết của anh trong tuyệt vọng, nhưng mà đẹp, vì khi ngã gục anh được ôm ấp lấy bờ đất, lấy cát và sỏi đá bên dòng suối. Thế rồi, chiến tranh kết thúc với tiếng chim hót ca bên rừng. Và, người lính Mỹ đi chinh chiến được trở về, nguyên vẹn trở về hạnh phúc bên người yêu.

            Cuốn phim dài đến  hai tiếng đồng hồ . Khi ra khỏi rạp hát, đường phố về đêm khuya vắng vẻ, Thụy và người bạn có vẻ lạc lõng, ngơ ngác. Thụy còn cảm thấy nỗi buồn vẫn đọng lại, không muốn loãng tan. Và, anh cũng đang  gom góp  những hình ảnh còn nhớ trong vài đoạn phim, đó là gương mặt của cô gái, đó là vẻ cuồng si của người  thiếu phụ khi yêu người bạn của chồng mình. Hai bạn lẳng lặng đi bên nhau với bóng đêm của mình tợ như trong cảnh phim. Vào lúc này, thành phố lạ bỗng làm Thụy nghĩ rằng cũng sẽ có một cuộc chiến tranh  đe dọa tuổi trẻ , thảng hoặc sẽ báo trước một điều gì đó về sau này, nhưng rồi, anh chỉ đơn giản nghĩ rằng cuốn phim đã xem là sự ghi nhớ một kỷ niệm cho buổi đầu của thời niên thiếu. Không biết, bạn anh  nghĩ gì ?, một chuyến xe sẽ khởi hành sáng sớm mai, hay niềm ước ao nơi Huân chỉ mong gặp lại chị Duyên là người thân duy nhất kể từ ngày hai chị em rời bỏ miền Bắc di cư vào Nam.

            Ba giờ sáng, xe lên đường. Hành khách còn dật dờ, thấp thỏm nhưng rồi khi xe chạy họ lại ngủ tiếp. Trong lúc Huân ngủ say, Thụy ngồi ghế ngoài mắt chăm chú soi rọi qua bóng đêm để nhìn quang cảnh dọc quốc lộ I . Từng đoạn đường xe lướt qua, cảnh vật đều cho anh một cảm giác mới lạ, nao nức với chuyến  đi của mình, và đến mỗi nơi xe ngừng anh cũng có ý nghĩ đây cũng là một chốn quê hương thân thiết giữa cuộc đời.

             Xe đò chạy rất mau trên đường còn vắng, chốc chốc ánh đèn lóa sáng mở một tầm nhìn xa, rồi thu ngắn lại, và lúc này ngoài tài xế cùng lơ xe ra, có thêm Thụy nữa là không ngủ. Mỗi thứ sắc màu nổi chìm nơi những chớp sáng, Thụy đều thu nhận hết. Xe qua thị xã Tam Kỳ trời còn mờ,  đến Quãng Ngãi  mới sáng hẳn. Tới đây, tài xế dừng xe ở trạm xăng đầu thị xã cho hành khách nghỉ mệt để rửa mặt, ăn điểm tâm. Thụy và Huân lúc xuống đi đến ngay chỗ xe bán  bánh mì mua mỗi đứa một ổ. Ăn xong còn thèm, hai đứa mua thêm một ổ cưa đôi, ăn vừa no bụng.

            Xe ngừng trong nửa tiếng. Sau khi hành khách lên đủ, tài xế cho xe lăn bánh và lúc ra khỏi thị xã là phóng nhanh tốc độ, vun vút lao đi  đến Qui Nhơn gần trưa. Không vào thành phố, xe ngừng trước một quán ăn bên ngã ba Diêu Trì. Hành khách lục tục xuống xe tìm chỗ tiểu tiện, rửa mặt, rồi cũng lo chuyện ăn uống cho xong bữa để tiếp tục lên đường. Thụy và Huân không thấy đói nên hai đứa chỉ mua nước uống, ngồi chơi dưới bóng cây trò chuyện với nhau.

             Bỗng dưng, từ nơi xa này Thụy đâm ra nhớ nhà, hình ảnh ba mẹ và các em cùng hiện lên một lúc trước mắt  khiến cho lòng anh chợt vui lên nhưng rồi sau đó cảm thấy buồn trở lại.

            Đầu năm 48, khi trở về vùng quốc gia ba anh lên dạy ở Cam Lộ. Một năm sau, ông được thuyên chuyển về thị xã Đông Hà. Đông Hà nằm bên cạnh ngã ba đường số 1 và số 9. Ở đây, thị xã vừa mới xây dựng, không khí nhộn nhịp trong công việc làm ăn, buôn bán.

            Nhà ga xe lửa và phi trường quân sự nằm về phía Tây, còn phía Đông là sông Hiếu Giang. Quê làng mẹ Thụy ở Xuân Thành, ngôi làng này nằm giữa đoạn sông Hiếu Giang. Từ quê mẹ anh đến biển Cửa Việt xa chừng ba cây số đường sông.

            Khi gia đình anh rời khỏi Cam Lộ dọn về Đông Hà, cuộc sống ổn định và  trở nên khá giả nhờ vào công việc buôn bán hàng vải của mẹ . Nhưng rồi, hình ảnh thị xã mới xây dựng xong, thời gian giúp cho công việc làm ăn của người dân cũng chỉ đến trong vài năm sung túc. Giữa mùa hè 1953, một trận lửa cháy kinh hoàng đã thiêu rụi  thị xã Đông Hà đốt tất cả nhà cửa hàng trăm gia đình thành tro than. Trước cảnh tượng này, người dân trong thị xã cũng như gia đình anh   thực sự sống trong cơn ác mộng .Về sau, lớn lên cùng với sự hiểu biết,  hình ảnh trận cháy ở Moscou trong tiểu thuyết lịch sử Chiến Tranh và Hòa Bình và trận cháy lửa rực trời ở Rome trong cuốn phim Quo Vadis làm Thụy  nhớ lại hết tuổi thơ của mình và hình ảnh những người thân thuộc  trong gia đình đứng chết lặng  trên  bờ sông, những cặp mắt đau đớn của biết bao nhiêu người dân  nhìn vào khu  trung tâm thị xã đang ngùn ngụt cháy trong biển lửa.

            Vậy mà chưa hết, trận hỏa họan chưa hoàn hồn thì ba anh lại có giấy thuyên chuyển đến nhiệm sở khác trong tỉnh Quảng Trị. Một lần nữa, gia đình anh lại dọn đi.

            Thụy đã được 9 tuổi, mới học xong lớp Nhì. Buổi sáng ấy, có một chiếc xe hàng ngừng đậu trước mặt nhà Thụy. Từ mái hiên, anh em Thụy đứng nhìn chiếc xe sơn màu xanh biển lấy làm vui vì sắp được lên xe đi. Người tài xế xuống xe đi vào nhà anh qua lối cửa hông. Trong nhà, có ba mẹ , cậu mợ Tuyên và người phụ giúp khuân vác đang uống trà nói chuyện.

            Một lúc sau, người tài xế trở ra xe. Ông ta nhanh nhẹn nhảy lên trần , đứng trên đó tay mở các cuộn dây thừng để cột đồ đạc và hành lý. Từ trong nhà, đồ đạc di chuyển chuẩn bị xong tối qua, lúc này lần lượt đưa lên xe.

            Buổi sáng sinh họat trong khu phố và khu chợ trước nhà anh đã bắt đầu ồn ào như mọi ngày. Khi thấy gia đình Thụy dọn đi, bên kia đường có nhiều người đứng  trông sang, chăm chú với vẻ mặt yên lặng. Ở đây, rất nhiều người kính mến ba anh, vì ông là thầy giáo dạy học, và cả thị xã chỉ có mỗi một trường tiểu học duy nhất ở gần nhà ga.

            Người tài xế bước lui tới trên trần xe với cuộn dây thừng to dùng cột hàng hóa. Ông ta sắp xếp gọn gàng, sau khi chất đồ đạc xong, ông phủ trùm một tấm bạt rồi kéo hai vòng dây ở hai đầu móc trần xe.

            Nắng sáng lên làm rạng rỡ cả khu phố. Tiếng chuyện trò, cảnh tiễn đưa bỗng rơi vào yên lặng. Thụy nghe  tiếng nói thật trầm của cậu Tuyên với ba anh, còn mợ Tuyên nắm tay mẹ anh.

            Anh em Thụy bước lên xe với mấy cái túi  nhỏ. Mẹ , chị Lài ngồi sau với anh và mấy em , còn ba anh lên ghế trước với tài xế.

            Khi xe lăn bánh, anh em Thụy cười nhìn nhau. Chỉ có hai người trong lòng đang buồn bã đó là chị Lài và mẹ . Nhưng rồi bỗng chốc, Thụy có cảm giác mình sắp sửa khóc. Về sau này, hình ảnh thị xã Đông Hà anh giữ lại trong ký ức như là một cuộn phim.

            Quảng Trị nằm về phía Nam, cách Đông Hà bằng đọan đường mười hai cây số từ tỉnh lỵ đến quê nội của Thụy.Thành phố này đẹp hơn, có nhiều nhà ở, nhiều con đường im bóng mát, thơ mộng nhất là con đường ven theo dòng sông hai bên có trồng  những hàng cây phượng, cây bồ đề, cây sao nối nhau đến khu Cổ Thành Đinh Công Tráng. 

            Nhà Thụy ở nằm bên dưới ga đối diện với tháp nước, nơi chỗ đó những chuyến tàu đi hay về cũng đều ngừng lại trong mười phút để lấy nước trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Vì quanh chốn này còn là vùng đất hoang , tràn đầy cỏ mọc nên nhà ở của gia đình anh mới có được một diện tích đất khá rộng rãi, phía trước nhìn ra con đường từ cổng ga đổ về phố Trần Hưng Đạo, phía sau là vườn trồng cải, trồng hoa, cây lưu niên và đào hồ nuôi cá. Bên dãy nhà phụ, một mái hiên lợp tôn rộng mẹ anh mở quán hàng hàng ăn, buổi sáng bán bún, cháo, trưa chiều là cơm.

             Nhà ga gần trại lính, mỗi ngày có đến bốn chuyến tàu ghé dừng nên quán hàng mẹ anh mở luôn có khách vào ăn uống. Năm 1954, đồng bào miền Bắc di cư vào Nam khi hiệp định Genève ký kết. Khởi sự từ năm này, dân số trong tỉnh tăng lên và kế hoạch định cư được mở rộng ra các vùng ngọai ô. Với đồng lương giáo viên tiểu học của ba anh, công việc bán quán của mẹ anh, lợi tức hàng tháng góp lại cũng ổn định, bình yên cho cuộc sống gia đình. Ngoài những buổi học ở trường, Thụy còn phụ giúp mẹ trong việc chạy bàn mang bữa ăn, thức uống phục vụ cho khách.

            Vì học kém và chậm, đến năm 1956, Thụy mới vô được trường công lập trung học.  Nhưng Thụy chỉ lên lớp sau năm đầu Đệ Thất, đến hết năm Đệ Lục anh không đủ điểm trong hai kỳ thi lục cá nguyệt phải ở lại, và trong năm học mới này anh và Huân quen nhau, trở thành bạn thân và cả hai mới cùng đi xa trong mùa hè này.

            Bỗng Thụy lên tiếng hỏi Huân:

-Mày ở với bà chị bao lâu ?

            Huân chợt cười bảo Thụy:

-Sao mày hỏi ngớ ngẩn. Tao đi với mày, đến hết kỳ nghỉ hè thì về.

            Thụy ngập ngừng một chút, rồi nói:

-Tao nghĩ mày ở không lâu, ra lại sớm nên mới hỏi.

            Hiểu được ý Thụy, Huân nói:

-Bác có nhờ tao khi nào về, thì đón mày.

-Nhớ nghe, không có mày tao phải đi một mình không có ai quen.

            Hết giờ nghỉ, tài xế gọi hành khách lên xe đi.  Từ đây, tài xế bắt đầu mở radio có chương trình nhạc vui cho hành khách nghe. Hai bạn nhỏ vẫn luôn cảm thấy nao nức với chuyến đi đường trường. Trong phút im lặng, hẳn Huân sẽ nghĩ đến căn nhà của chị Duyên nó cũng có đứa cháu nay lên bốn tuổi rồi, còn Thụy thành phố biển Nha Trang đẹp như thế nào, lớn như thế nào, anh đang hình dung vừa tưởng tượng nhìn thấy từng khung cảnh hiện ra trước mắt.

            Bất chợt, tiếng thằng lơ xe ở đằng sau hỏi vọng hành khách.

-Ninh Hòa đây, có ai xuống không ?

            Huân giật mình, tôi liền hỏi:

-Có xuống đây không ?

            Huân ngần ngừ, rồi đáp nhanh:

-Thôi, tao đi Nha Trang với mày. Bác đã nhờ, tao đưa mày đến nơi đến chốn.

            Thụy cảm thấy tin tưởng khi có người bạn bên mình. Xe tới Nha Trang đầu buổi chiều. Bến xe nằm trong thành phố. Những con đường rộng mở, vui trong ánh nắng hè và cảnh sinh hoạt thành phố thật là nhộn nhịp. Xuống bến, cùng với hành lý, Huân và Thụy đón xích lô  đến nhà bác Định. Bác Định là bạn thân với ba anh. Năm 1954, gia đình bác di cư vào Nam ở lại tỉnh Quảng Trị, bốn  năm sau mới vào Nha Trang. Ở xa, ba anh và bác thư từ nhau luôn.Với tình thân còn gắn bó, nên ba anh cho anh đi nghỉ hè Nha Trang đến ở với gia đình bác. Chừng độ một tháng rưởi thôi, Thụy lại trở về Quảng Trị, bắt đầu bước vào năm học mới cũng là năm chuẩn bị thi cử.

            Nhà bác Định ở khu Phước Hải, đầu đường Huỳnh Thúc Kháng. Ngoài phía ngã ba là đường Nguyễn Hoàng, dọc con đường dài này có nhiều dãy phố buôn bán, ngôi nhà thờ lớn ở trung tâm, từ nhà ga những chuyến tàu đi cũng như đến đều cũng phải chạy theo đường ray nằm sau lưng nhà thờ. Về tới nơi,  thực may hai đứa gặp cả gia đình bác Định và được đón tiếp niềm nở. Thụy giới thiệu Huân với hai bác, còn Nhị con  bác là bạn học cùng lớp với Thụy và Huân. Nhị gặp lại hai bạn thực vui, nhưng chỉ chuyện trò hơn nửa tiếng Huân vội xin kiếu từ để ra Ninh Hòa. Thụy cùng với Nhị tiễn Huân ra bến xe, vì còn ham vui, cả ba đứa vào quán chơi bi da hết một tiếng đồng hồ mới chia tay.

            Những ngày tháng hè đó thật là hạnh phúc. Tuần lễ đầu, Thụy chưa vội ghi tên lớp hè để học mà cứ hưởng cái thú đi chơi. Hai chiếc xe đạp không rời Thụy và Nhị Buổi sáng sớm, hai đứa đạp xe ra biển, tới bãi gởi xe xong là ào xuống tắm. Mùa hè, từ sáng sớm đến chiều tối, bãi biển lúc nào cũng đông vui, ấm áp với ánh nắng và mặc sức vẫy vùng, vượt sóng. Biển Nha Trang thật đẹp, bãi cát trắng, màu nước biển xanh vời vợi tạo một niềm hưng phấn làm hai bạn càng muốn bơi ra xa. Sau hơn một giờ tắm  biển , hai bạn lại đạp xe đi nơi khác. Thụy được Nhị dẫn đi thăm các thắng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng, Hòn Vợ, Xóm Bóng, và còn ra tới những vùng ngoại ô xa đến lúc mặt trời lặn mới trở về nhà.

             Nhị sành sỏi chơi đàn, Thụy cũng học đàn với Nhị. Khi đánh đàn, hai bạn cùng hát những bản nhạc vui học ở trường, những bài hát về sinh hoạt hướng đạo hay trong những kỳ cắm trại. Nhưng mỗi tối, bác Định luôn bảo Thụy và Nhị vào bàn học lo luyện hai môn Toán, Lý Hóa. Sau tuần lễ đầu vui chơi thoải mái, cả Thụy và Nhị mới cùng ghi tên lớp hè ở trường Tương Lai. Hai bạn trình độ học ngang nhau, về môn Toán Thụy trội hơn Luân nhưng Lý Hóa, Nhị lại khá hơn, vào giờ học hai bạn giúp nhau nên tiến bộ khá nhanh.

            Ra Ninh Hòa ở với bà chị được hai tuần, nhớ bạn, Huân lại vào từ sáng thứ sáu đến chiều chủ nhật mới trở ra lại. Hội ngộ, ba đứa kéo nhau đi phố, vào rạp hát coi phim cao bồi, sau khi vãn hát, lại đi lòng vòng quanh các phố, hay vào Câu lạc bộ thể thao chơi bóng bàn, bi da. Ba đứa thi đấu đều ngang ngửa, luôn tạo nhiều pha bóng tấn công gay cấn hay những đường cơ bi da so kè, suýt soát từng điểm.

            Những ngày hè của Thụy thật là hạnh phúc và quí giá như mỗi điểm có được ở bài thi. Căn nhà bác Định, ngoài nơi chốn ở bình thường nó còn cho anh hiểu cái đức hạnh chân chính về giá trị con người. Bác Định trai thương anh là đứa học trò cũ của bác. Bác gái, luôn gọi Thụy là thằng cu như  Nhị và các anh con trai lớn của bác.

            Khi đã quen thuộc với một thành phố mình đến, với một gia đình người thân mình được ở, đó cũng là lúc (mùa hè sắp hết rồi) mình lại hồi nhớ về chính mình. Ngoài Nhị và Huân ra,  Thụy cũng còn có những gương mặt bạn bè ở quê nhà nữa. Ngày mai đây, hẳn rằng, anh sẽ biết trân quí,  biết cất giấu  và sống hạnh phúc với kỷ niệm như tưởng mình đã có người yêu.

            Nha Trang cũng là thành phố lớn. Ga chính ở đây,  mỗi ngày có đến sáu chuyến tàu chạy đường ngắn, đường suốt. Những chuyến tàu đến hay đi, ngồi ở nhà vào lúc  chiều hay tối, Thụy đều nghe rõ tiếng còi tàu. Và, nghe qua từng hồi còi dài ngắn, anh biết chuyến tàu nào về, chuyến tàu nào sắp sửa ra đi. Tối hôm ấy, những ngọn đèn sáng, những tiếng bước chân người xa lạ và vui, rạp hát chiếu cuốn phim chiến tranh, hình ảnh một cô gái và chàng trai đi bên cạnh nhau nói những lời tâm tình, những lời từ biệt, thành phố Đà Nẵng bỗng dưng làm Thụy xao động, dấu yêu một nỗi niềm. Và rồi, anh mường tượng nhớ đến một buổi trưa hè khác có một người đàn ông và một cô bé trạc tuổi bằng em gái anh vào quán hàng cơm của mẹ anh. Anh biết hai người này là khách đi tàu ở xa về, vì chuyến tàu về đến vừa mới đi, và lúc này ngoài con đường có nhiều chiếc xích lô đang chở khách xuống phố.

            Cô bé khuôn mặt dễ thương, nước da trắng, còn người đàn ông chắc là ba của cô có mái tóc chải tóc bóng láng, mắt đeo cặp kính trắng. Lúc ấy đã quá trưa, khách ăn giờ đầu xong đi gần hết nên ghế bàn còn lại để trống nhiều.

            Khi Thụy mang cơm ra, đặt cái khay nhôm xuống bàn anh thấy mắt cô bé nhìn anh, nụ cười trên cặp mắt.

            Thụy trở vào đứng ở cửa bên quán, cầm ly nước trà đá uống. Tiếng còi ngắn cất lên, chiếc máng xối hứng nước được kéo ra sau đầu máy, rồi con tàu lăn bánh. Thụy hướng mắt nhìn con tàu với nhiều toa xe lần lượt chạy qua. Bỗng Thụy chú ý lắng nghe  giọng nói của cô bé và người đàn ông. Khi nghe được, anh biết là  cả hai không phải là người Quảng Trị ở đây mà là người miền Bắc. Thời kỳ đó, thời hạn cuộc di cư trong 300 ngày chưa chấm dứt. Ngang qua nhà ga nhỏ này, trước đây chỉ có hai chuyến tàu đi,  về giờ mỗi ngày có đến sáu chuyến, chưa kể là có tăng cường thêm xe nhà binh, xe chở hàng nhận công tác cứu trợ đi ra phía Bắc đến tỉnh Thanh Hóa chở đồng bào di cư vào miền Nam.

            Thụy bỗng có cảm tình với cô bé nên đưa mắt nhìn chú ý. Cô bé mặc chiếc quần tây xanh, áo sơ mi hồng, và có cặp mắt nhỏ thật đẹp. Hai người khách ăn cơm xong gọi tính tiền, Thụy nghe vậy vội bước chân đến. Vì phải thối lại nên anh trở vào quán lấy tiền lẻ nơi ngăn hộc , xong trở ra.

             Người khách cầm lấy tiền thối,  nói với Thụy:

-Cám ơn cháu.

            Thụy cũng đáp lời cám ơn với ông khách.

            Cô gái nghe được tiếng anh nói, ngước cặp mắt vui lên nhìn.

             Hai cha con  đứng dậy rời quán, trở ra đường chờ xe.

             Người đàn ông xách cái túi lớn, da nâu,  còn cô bé  quàng dây đeo chiếc túi nhỏ màu vàng bên vai.

 

 

 

 

 

                                                   VIII

 

 

 

            Thụy nhận được thư của Phương. Có một đoạn trong thư Phương nhắc đến Thiên Nga làm Thụy cảm thấy vui, tưởng đang ngồi bên nàng trò chuyện. Những ghi chú rất nhỏ về nàng, thư của Phương làm anh cảm động, thật rất trân quí tên nàng. Bây giờ đây, bóng dáng Thiên Nga đã tạo ra trong trí Thụy một sự liên tưởng phối hợp, và Thụy nghiệm thấy, nàng như là một cô giáo đang dẫn đường, vừa dìu bước anh, dù rằng, đã có lúc nỗi tuyệt vọng khiến anh phải vươn dài cánh tay níu giữ nàng lại. Nàng chỉ mỉm cười, cho anh chút hạnh phúc thật êm ái, tâm hồn mát dịu như bóng cây, đó là thời gian của nàng qua dáng áo tím, đôi mắt dịu hiền và một bàn tay êm mát , thế rồi, nàng nắm lấy tay anh bảo anh hãy gắng bước theo nàng. Anh cũng đã trở nên một cậu bé ngoan ngoãn, cảm thấy có nàng là sự an ủi, và lúc này, hơn ai hết nàng không hề có chút chi phiền muộn khi lắng nghe anh nói về tuổi trẻ bất hạnh của mình.

            Buổi sáng hôm ấy, ngồi trên chiếc xe khách đang chạy mà đầu óc  Thụy như là kẻ vô hồn, không có một ý tưởng nào khác ngòai sự bơ vơ đối với con đường học vấn đã chấm dứt. Làm gì cho tương lai, điều này, anh không dám có một chút tự tin nơi sức mình mà chỉ còn một nguyện cầu khao khát là mong ông Trời bù lại cho anh một chút may cuộc đời trong ánh sáng thế gian.          

            Khi xe hàng đỗ bến, xuống xe Thụy đi bộ về nhà. Trên đường nhìn hoa phượng nở đỏ, nhìn những dòng xe đạp của nam nữ học sinh dạo chơi cười nói rất vui, tự dưng anh cảm thấy mình lạc lõng như thể là kẻ lạ đâu từ miền xa nơi một vùng biệt xứ nào về đây mà không thể có ai quen nhận ra mình. Hoa phượng đối với anh trong phút giây này là nỗi buồn chảy  nước mắt. Huế, tuổi trẻ vẫn cứ luôn ôm ấp cả một bầu trời thân thương có dòng sông xanh và những hàng cây phượng mỗi mùa hè sẽ mang đến nét thắm tươi, rực rỡ cho thành phố này.

            Về đến nhà, Thụy dừng bước trên bực cửa. Nhìn vẻ mặt buồn bã của anh, ba mẹ không hỏi han gì nữa. Các em anh cũng vậy. Rồi Thụy bước vào nhà, lặng yên ngồi xuống như một người vừa mới ngã bệnh.

            Tiếng mẹ anh nói rất nhỏ:

-Con cái mình không có được chút ân huệ khoa bảng.

            Thụy nhìn ra cửa, buổi chiều đang xuống bên ngoài . Trên đường, một chiếc xe búyt đi lên Long Thọ vừa chạy ngang qua. Thụy trông thấy con sông, ngôi trường Bình Linh bên kia nơi anh vào học ở đó năm trước nữa, và sự yên lặng buổi chiều như muốn nói cho anh biết rõ về chuyện gia đình của mình.

            Sau hai tuần lễ về nằm nhà với bao nhiêu nỗi buồn chán không nguôi được, vào một buổi tối trong bữa cơm gia đình, Thụy nói với ba cho anh vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm.

-Con làm được công việc gì ?, ba anh hỏi.

-Con chưa biết. Nhưng vào trong đó, tìm kiếm công việc làm cũng dễ hơn.

-Con có bạn bè thân trong đó không ?

-Có.

-Con viết thư cho bạn con đi.

            Sau ít giây suy ngẫm, ba anh tiếp lời:

-Ba biết con nản chí chuyện học hành. Thôi, thì cũng là cái số phận của mỗi người. Con kiếm việc làm để ra đời sớm. Rồi về sau, nếu được trời giúp cho con chút cơ may.

            Các em rưng rưng khóc đưa mắt nhìn Thụy. Thụy đọc được trên từng giọt nước nóng ấm của em mình hình ảnh sự đơn độc, khó khăn trước  cuộc đời khi anh phải giã biệt gia đình ra đi. Vào Sài Gòn, đó là nơi đến dứt khóat rồi. Nhưng anh sẽ làm công việc gì và sẽ nương tựa nơi đâu. Khi nghĩ đến chỗ nương tựa, Thụy không dám tìm gia đình các cậu và các dì em ruột của mẹ anh. Chẳng như, anh thi cử đỗ đạt , chuyện nương nhờ còn may, chứ một thân xơ xác vào Sài Gòn mà tìm đến người thân thực là một nỗi khó.

            Sau cùng, đến lượt anh Nguyên cùng ra đi. Anh Nguyên cũng vừa mới rớt vấn đáp năm Dự bị Văn Khoa, thực là cái số của gia đình Thụy mạt phúc đến như vậy . Nhưng anh Nguyên còn may là có được bằng Tú Tài II, và thêm khả năng viết báo. Từ quyết định của anh Nguyên, ba Thụy cho hai anh em đi Sài Gòn.

            Một lời dứt khóat, Thụy nói:

-Ba mẹ đừng lo. Con còn độc thân, kiếm được đồng lương con giúp ba mẹ và các em đi học.

            Chỉ còn một tuần nữa là bắt đầu niên học mới. Nhưng từ nay, gia đình Thụy lại một cảnh hai quê. Thụy và anh Nguyên đi xa mưu tìm cuộc sống. Từ nay, cả hai anh em  không còn có mộng ước ở ngưỡng cửa Đại Học như bao nhiêu bạn bè khác nữa. Từ nay, hai anh em cùng dấn bước vào đời với chuyến đi xa khởi sự vào những ngày sắp tới.

            Trước quyết định ra đi, Thụy trở vào lại Đà Nẵng. Thụy đi nội trong ba ngày. Thụy vào để thăm dì Bích Vân, sau đó sẽ đến với gia đình Thúy Hà. Chuyến xe hàng không đông khách nhưng ngừng nhiều trạm, mỗi nơi có khách xuống và khách lên, tới đỉnh đèo đã gần trưa. Xe nghỉ thường lệ nửa tiếng để chờ xuống đèo hai phía Nam Bắc, nhưng hôm nay, phía Nam, một quãng đường gần cây số đang được Công binh sửa chữa. Thụy thèm ly cà phê nên đi tìm quán. Đang đi, bỗng nghe có tiếng gọi Thụy giật mình và thật bất ngờ khi trông thấy chú Hoàng. Ông chú đang ngồi ở bàn phía ngòai hiên, uống bia một mình.

-Cháu uống gì ?

-Thưa chú, cà phê.

-Gọi đi.

            Thụy gọi một ly cà phê đá. Trong lúc chờ, tiếng chú Hoàng hỏi:

-Đi Đà Nẵng có việc gì vậy ?

-Cháu vào thăm dì Vân. Chú còn nhớ dì Vân con ông bác Huyện không ?

-Có. Bên ngoại con, chú biết hết.

            Nhìn lại người chú, Thụy nói:

-Con sắp đi Sài Gòn.

-Học trong đó ?

-Dạ không. Con đi tìm kiếm việc làm.

            Cô gái mang ly cà phê ra. Thụy mở hủ đường cho thêm vài muỗng rồi khuấy uống. Cà phê không được ngon. Thụy cầm gói thuốc của chú Hoàng rút một điếu và xin phép hút. Một giọng khàn đục, Thụy nói:

-Số phận con đen đủi quá.

-Nhưng sao mà cháu bỏ học ?

-Không thi đậu, làm sao học tiếp được nữa chú. Cái số của cháu không sáng dạ trong sách đèn, thôi cháu vào đời kiếm lấy cuộc sống mà lo cho bản thân.

-Vào trong đó cháu làm công việc gì ?

-Cháu chưa biết. Nhưng ở đô thành việc làm công nhân cũng dễ kiếm.

-Cháu đi một mình.

-Có anh Nguyên đi nữa chú. Anh theo nghề viết báo.

-Được lắm. Thằng Nguyên theo nghề báo là hay, chọn đúng đường đi.

            Thụy uống cà phê chậm từng hớp như cố lấy bình tĩnh. Một dòng đời trôi nhẹ qua tâm hồn anh. Tưởng rằng bao nhiêu kỷ niệm cũ ở miền quê thời ấy, anh đem ra bộc bạch với người chú, nhưng mà không, một giọng buồn anh đã nói:

-Gia đình con không có nếp khoa cử, buồn quá chú.

-Chú rất hiểu.

            Chú Hoàng đặt ly bia xuống bàn. Như thể cố nén giọng buồn bực và chia xẻ với người khác, chú nói:

-Chú hiểu từ lâu rồi.

-Cháu biết, ba mẹ cháu buồn lắm nhưng số phận từng đứa con và cả gia đình luôn lận đận.

-Cháu đến tuổi quân dịch chưa ?

-Dạ rồi.

            Đã mười một giờ trưa, xe vẫn còn đợi sửa đường. Nắng lan rộng trên đỉnh đèo, sương mù đã tan hết nhưng khí lạnh từ núi, vang âm dòng suối tuôn chảy và sóng vỗ trên mặt biển dần dần tràn ra xa. Bỗng nhiên, lúc trông thấy bóng dáng con tàu Thụy chợt nhớ một buổi sáng mùa đông trên bến Cảng, vào giờ đó, trước khi vào lớp học cả đám bạn anh đứng ở công viên vẫy tay chào một đòan thủy thủ mặc áo trắng đứng trên boong, họ cũng cười vui la hét vẫy vẫy những cánh tay khi con tàu từ từ tách bến.

            Hai người trở lại chuyện cũ về gia đình. Thụy bỗng hỏi:

-Ngày trước, chú đã ở Hội An?

-Chú làm việc ở đó ba năm mới ra ngòai này.

-Chú có mặt ngay lúc đầu Đại Học Huế mở.

            Chú Hoàng gật đầu. Thụy đốt thêm điếu thuốc. Những sợi khói mỏng trườn lên làm Thụy nhớ đến Lăng. Lăng đang học Luật ở Sài Gòn, ở nhà cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy Thụy đã đến thăm, đi chơi cùng với mấy người bạn. Nơi thành phố ấy, Thụy nhớ biển Cửa Đại, nhớ một mùa hè thanh bình, và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị  Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình người chú. Lăng với Thụy là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi. Dì Quyên mẹ Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ . Mẹ Thụy, dì Quyên, cậu Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngọai anh có sáu người con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy lọan những gia đình người thân trôi giạt về tạm trú ở quê ngọai rồi tản mát. Hình ảnh chú Vinh ba của Lăng và chú  Hoàng đây tìm lại trong trí nhớ thuở đó, Thụy chỉ nhớ ra được dáng người. Rồi Thụy gặp lại chú Hoàng sau này khi đã lớn, đó lần đầu tiên anh đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm ở khi anh rời Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thỏang Lăng có viết thư cho Thụy. Dịp Tết, có một năm Lăng gởi cho anh  ít sách truyện và báo Xuân để đọc. Luôn luôn hai bạn sống có tình nghĩa với nhau. Trong các đứa cháu, Lăng được các cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngọai nữa biểu lộ nhiều tình cảm vừa hãnh diện về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em bên nhà Thụy. Người ở bên ngòai nhìn thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự thuở bé nên được nhiều tình thương của người thân. Có đúng một phần, nhưng không phải vậy đâu. Bên ngọai rất bề thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và khoa bảng, nhưng riêng mẹ anh rất ít học, và ba anh  được làm rể gia đình ông ngoại chỉ là giáo viên với mảnh bằng Tiểu học.  Vào thời gian gia đình gặp họan nạn, sống nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi yên lặng Thụy không dám chuyện trò, anh luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng khi cố gắng ăn thật chậm rãi, khẽ khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi ở đây, chốn này, đem những lời tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai mươi tuổi đầu, Thụy biết mình nên đi tìm đến một vùng đất hứa. Và, anh rất tin cậy ánh sáng, con người, cùng thiên nhiên ở miền Nam.

-Cháu có muốn xin việc làm ở Huế không ?

-Dạ không. Cháu không thể ở ngòai này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính là xong chuyện.

-Cháu đi học Sĩ quan được không ?

-Không được, vì cháu không có bằng Tú Tài.

-Nếu cháu ở lại Huế, chú sẽ xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.

-Cháu không nghĩ tới trường học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.

            Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong chai vào ly. Thụy thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi những điều thất vọng của đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.

            Một giọng thản nhiên, chú nói:

-Con cháu, đứa nào chú cũng thương.

-Dạ, cháu biết.

            Nắng ấm áp, sáng sủa, tự dưng lòng Thụy  cởi mở.

-Bây giờ, chị Hiền sao rồi chú?

-Nó thi đậu vào trường Sư phạm Qui Nhơn.

-Chị Hiền đi dạy, cũng hay đó.

-Nó thi rớt lọat nhì, hai kỳ luôn.

-Cháu cũng bị hỏng lọat nhì.

            Có tiếng kẻng của người lính canh đánh vang lên nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở lại những xe khách trong vội vàng.

            Chú Hoàng đi traction An Lợi, Thụy lên xe Tiến Lực. Những tiếng còi hiệu vang xa, thực rộn ràng. Rồi từng chiếc một nối nhau thành một đoàn chuyển bánh rời trạm nghỉ trên đèo. Lúc này, lòng Thụy tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn. Thụy thoáng nghĩ đến Dạ Hân trong mối tình thơ dại của cô em gái dịu hiền như hương gió thỏang qua. Ngày rời xa Đà Lạt, lòng Thụy rất buồn. Anh đi một mình, không có ai đưa tiễn cả. Hành lý của anh có chiếc va li và túi xách đeo vai. Bến xe lam nằm ở chợ, đến nơi, Thụy vừa kịp chuyến xe chạy đưa khách lên nhà ga.

             Thụy mua được giá vé học sinh. Thời gian còn sớm, anh vào quán  ở phòng đợi ăn tô mì nóng và uống ly cà phê. Thụy hút thuốc lúc nhấm nháp ly cà phê. Trời lạnh, mưa nhỏ hạt, tuy trong lòng buồn nhưng qua làn khói anh vẫn cảm thấy vui thích với sự cô đơn.

            Hai toa xe hạng ba nằm phía gần đầu máy. Hành khách đi tàu không mấy đông nên không có sự chen lấn. Dưới sân ga trở nên vắng, và lúc này sắp đến giờ khởi hành. Thụy không cảm thấy nôn nao, vì hiểu được rằng chuyến đi này của anh không còn mong ngày trở lại nữa. Trong một thoáng  nhớ đậm màu khói thuốc, Thụy chợt nghĩ, những kỷ niệm về tuổi niên thiếu đời anh xin gởi lại thành phố này.

            Tàu chuyển bánh, rời ga. Những vòng bánh vừa mới lăn trên đường sắt thật nhẹ nhàng như giấc mơ. Tàu xuống ga Phan Rang gần nửa đêm. Tại đây, Thụy chuyển sang tàu đi ra Huế.

            Trưa hôm đó, Thụy đạp xe tìm đến nhà Lăng. Từ ngày vào Huế học, Lăng ở nhà ông Hoàng người chú ruột.

             Thụy gặp một cô gái từ trong vườn bước ra,  vội cất tiếng chào hỏi. Cô Dạ Hiền chỉ cho anh lối rẽ xuống bến sông. Thụy chưa hề gặp chú Hoàng của Lăng, nên để xe đạp ở sân vào nhà trước để chào. Vừa thấy anh xuất hiện, hai ông bà nhận ra ngay, vui vẻ hỏi chuyện. Thụy ngồi xa một chút, ở chiếc ghế bên góc cột vừa nhìn hai người, vừa đáp lời. Mới lần đầu gặp, Thụy cảm thấy thực sự gần gũi với mọi người trong gia đình.

            Một lúc sau, Thụy đứng dậy đi cùng với  một em gái nhỏ xuống bến sông. Vừa bước qua vòm cổng, anh đã nghe tiếng chuyện trò và trông thấy bọn trẻ nhỏ đang tắm la hét, đuổi bơi xa ngoài sông. Anh Nguyên, Lăng, và người bạn ngồi trên chiếc giường tre dưới bóng cây nhãn cùng reo lên khi thấy Thụy. Đi xa, nay trở về gặp được người thân anh biết mình xúc động. Anh Nguyên và Lăng, vừa mới thi xong cách đây hai ngày nên Thụy không hỏi kết quả. Người bạn tên là Đông, dạy học các em nhỏ trong nhà. Đông biết tên Thụy, dù mới lần đầu gặp. Và một niềm vui tự nhiên  mang đến là Đông và Thụy cùng tuổi, cùng   học cùng một lớp. Vừa chuyện trò với anh em, Thụy để mắt chú ý một cô bé đang ngồi giặt quần áo  trên bậc đá. Một lúc sau, anh bỗng lên tiếng hỏi:

-Em học lớp mấy rồi ?

-Dạ Đệ Lục.

-Em học trường nào ?

-Dạ, Đồng Khánh.

            Cô bé ngừng giặt, ngước mắt nhìn Thụy. Sau đó, anh đứng lên rời khỏi chỗ mình bước qua thềm đá, ngồi xuống bên cô.

-Em tên là An, phải không ?

            Cô gái cười, nhìn Thụy nói:

-Anh đoán tên không đúng.

-Vậy em cho anh biết tên đi.

-Không.

            Cô gái mím chặt môi, mắt cười nhìn Thụy. Rồi cô hỏi:

-Sao anh gọi tên em là An.

-Hình ảnh nhỏ bé của em khiến anh nghĩ đến cái tên mình yêu thích.

-Hay là, một người bạn gái anh tên An.

-Không, không phải vậy.

-Nói cho em nghe chuyện đi.

-Không có ai hết. Chỉ có em cho anh tên  An, thôi.

-Anh đặt tên cũng hay, cô gái nói.

            Thụy  tự nhiên thấy vui trong lòng. Giặt hai  áo cánh xong, cô lấy cái thau nhựa múc nước để xả. Thụy nhìn dáng điệu của cô qua bóng nắng. Hai lần cô thay nước trong thau, đến lần thứ ba xả xong nước chót rồi vắt khô áo. Bên cô, Thụy có được ngày trở về sau nhiều năm đi xa. An, cái tên anh hình dung qua cô gái nhắc tôi nhớ một lọai thảo mộc, và nhớ đến Cybèle cô bé trong phim Les dimanches de ville d'Avray.

            Giặt xong, An còn ngồi lại chuyện trò với Thụy. Thụy nhận ra niềm vui của An trong ánh mắt nhìn qua anh, mỉm cười với cái tên  anh gọi cô.  Tuy nhiên, biết thế Thụy không tin chắc rằng cô sẽ tự hỏi, tại sao trong gia đình ba mẹ không đặt cho cô tên đó.

            Vừa mới biết nhau, nhưng Thụy và An nói chuyện rất là tự nhiên, thân mật. Hình ảnh Đà Lạt còn nguyên vẹn trong trí nhớ nên Thụy chỉ cần nhắc lại một đôi chút là đủ để  cho An  tưởng tượng, hình dung ra một thành phố có hoa anh đào, những con đường dốc,  những ngôi nhà ngói đỏ, các  tu viện,  những khu rừng, những đồi thông bị sương mù bao phủ khi nắng buổi sáng chưa lên cao hay trong buổi chiều khi trở về cùng với mưa. Một đôi câu hỏi, hay là những chuyện kể về Huế trước khi mùa hè tới, bằng giọng nói thật dễ thương của An trong vẻ ngập ngừng, tự dưng, Thụy có ý nghĩ  nay mình  đã trở nên khác hẳn.

            Khi rời đèo Hải Vân để về thành phố, các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy nhiên, các xe lớn cũng về đến nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.

            Vừa ra khỏi xe, Thụy bỗng thấy chú Hoàng còn đứng chờ ai ở bến chưa vội đi. Thấy vậy anh bước nhanh đến chào và hỏi:

-Chú đợi xe cơ quan ?

-À. Chú đợi cháu.

-Dạ.

            Thụy theo chú Hoàng vào quán ăn trưa ở bến xe. Thụy không biết người chú định nói gì , nhưng anh cứ đi theo. Ngồi trong quán nắng trưa hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Thụy uống nước đá chanh, còn chú uống bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Thụy và chú đốt điếu thuốc trong lúc chờ bữa ăn.

-Chừng nào cháu đi ?

-Dạ tuần tới.

            Chú nhìn lại vẻ mặt Thụy và anh ước tưởng, trên gương mặt mình đã lộ thấy cả một đọan trường đầy chông gai, trắc trở.

            Khi bữa ăn mang ra, Thụy cảm thấy đói vì cơm và thức ăn nóng hổi, lên khói.

- Ăn đi cháu.

-Dạ, mời chú.

            Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc đã nghĩ kỹ , rồi hỏi:

-Cháu muốn nghe lời chú không ?

            Thụy đáp:

-Dạ. Lúc nào cháu cũng coi chú như ruột thịt.

-Cháu ở lại Huế đi. Chú sẽ xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường tiểu học ngọai ô. Đi dạy còn có thì giờ để cháu học thi lấy bằng Tú Tài.

            Thụy đang nuốt miếng cơm, bỗng dưng có cảm giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết anh sẽ nói ra sao để chú hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, Thụy mới mở lời:

-Gia đình cháu không có ai sáng dạ học hành. Anh Nguyên là người khai khoa cho cả họ hàng bên nội cháu với mảnh bằng Tú Tài. Về phía ngoại , anh em của cháu chẳng dám tơ tưởng để thừa một chút danh thơm. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ đến chuyện học làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận ra nghề bạc  bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi xa, vào miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ đi tìm cuộc mưu sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn mình hơn là an phận cuộc đời như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của chú việc gì chú giúp cũng thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.

            Bữa cơm dọn ra nhiều món và Thụy ăn thực tình. Khi đã hiểu tấm lòng anh trống trải, chú Hoàng lặng im , suy  nghĩ về hòan cảnh của anh như là con của chú phải đi xa vậy.

            Xong bữa ăn, chú Hoàng và Thụy tiếp tục câu chuyện đời. Sau đó, rời quán Thụy nói lời chào chú rồi từ bến xe đi bộ về nhà người dì .

            Một câu chân tình, dì Vân hỏi:

-Vào Sài Gòn, cháu vẫn tiếp tục học ?

-Dạ không, cháu tìm việc làm.

            Trên gương mặt người dì lộ vẻ buồn lo lắng. Thụy nói chuyện với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng khách lớn lúc anh nghe có tiếng dạo đàn. Chị Bích Ái đang chơi dương cầm, Thụy có nhớ một vài bản cổ điển và yêu cầu chị đánh cho nghe. Tiếng đàn ngân vang, trong sáng, anh nghe mà như ôm giữ  cả dòng nhạc trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ lạ lùng.

-Ít ngày nữa, con đi.

            Thụy đáp lời lúc chào từ biệt. Và từ nhà người dì, Thụy ra đường đón xe lam xuống  phố, ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Thúy Hà.

            Vừa thấy Thụy xuất hiện, Thúy Hà rời ghế đứng dậy tay cầm một tập giấy. Nàng nói:

-Rất tiếc truyện không được đăng.

            Thụy chợt nghĩ đến một hạnh phúc. Nàng đã đem lại cho anh hạnh phúc về một lá thư  của anh mà chính tay nàng đã mở ra xem. Thụy rất vui với sự chân tình của nàng.

-Cả nhà đi vắng ?

-Cả nhà qua thăm bác Phúc.

            Thụy và Hà cùng ngồi xuống chỗ bàn khách.

-Tiếc quá, Thụy nói.

-Sao mà tiếc ?

            Nàng hỏi Thụy, không đưa mắt nhìn. Thụy nói:

-Nếu truyện được đăng là cả một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để làm món quà tặng Thúy Hà.

-Bày vẽ ra.

-Thực lòng đó.

-Không được đăng thì mình viết truyện người khác.

            Nàng đáp lời anh, rồi cúi mắt chăm chú đọc. Thụy hỏi:

-Mà truyện viết được không ?

-Không được. Bịa đặt và tưởng tượng nhiều quá.

-Thì truyện viết phải tưởng tượng.

-Đồng ý, nhưng phải tôn trọng sự thật.

-Có nhiều sự thật trong đó, biết không ?

-Đâu, sự thật nào đâu ?

- Hà  đã đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.

-Có thấy, nhưng hôm đó chỉ chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín gương mặt rồi để chàng vén mái tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.

            Thúy Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại một buổi trưa hôm đó trong giấc ngủ Thụy thấy cảnh anh và nàng chơi cờ ca rô trong lớp học. Người ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực ra, hình ảnh nào đã gặp thì được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, Thụy có  thêm thắt đôi chút để hai người hiểu nhau. Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân mật của hai người.

            Truyện ngắn Thụy viết 10 trang , Thúy Hà đọc hết không bỏ sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho Thụy. Thụy cầm lấy, hơi bối rối không biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng được nữa.

            Lặng lẽ, Thúy Hà rót trà vào tách cho Thụy.

-Anh uống nước đi.

-Còn hai tuần nữa thôi, Thúy Hà đi học lại rồi.

-Em chưa  chuẩn bị gì cả.

-Năm cuối, các môn học đều khó. Mong làm sao, năm tới em vào Đại Học.

            Nàng mỉm cười nhìn lại Thụy. Hai người cùng vui chuyện, nhờ vậy, Thụy quên được nỗi buồn về sự hỏng thi. Rồi, có những câu nói gần như vô nghĩa. Với nàng, cuộc sống rất là vô tư. Còn anh, anh cứ nhìn ngắm mãi vẻ đẹp trên gương mặt nàng. Trên ánh mắt nàng, anh nhận ra tình yêu của thời gian có nhiều màu sắc ánh sáng. Và, anh lại tự nhủ hạnh phúc cho Duy đã có được nàng. Thụy luôn nhận ra vẻ đẹp của nàng qua gương mặt và mái tóc. Nàng để lộ ánh sáng trắng sữa trên làn da và gương mặt, ở hai cánh tay và hình dáng cân đối của nàng.

            Đâu đó, mùa thu đang trở về. Và, thành phố này cây lá sẽ xanh tươi. Thụy biết lòng nàng không buồn nhưng cũng không vui.

-Ngày mai, anh  trở ra lại Huế.

-Anh đi Sài Gòn không ?

-Có. Đi, nhưng không bao giờ quên Thúy Hà đâu.

            Giọng Thụy nói thật chân tình, cảm động. Thúy Hà ngước mắt nhìn anh. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho Thụy là nụ cười trong cặp mắt sáng của nàng.

            Buổi trưa qua mau. Cả nhà về tới. Ông  Kha thấy Thụy vào lại hỏi thăm sức khỏe ba mẹ anh ngoài nhà và ông bắt tay anh thật là nồng ấm.

-Cháu đã nhận được thư của một người bạn ở Sài Gòn.

-Chừng nào cậu đi ?

-Dạ, đầu tuần tới. Cháu vào đây thăm hai bác, ngày mai cháu trở ra Huế.

-Không ở chơi thêm ít ngày.

-Cháu ra, chuẩn bị chuyến đi để sớm gặp người bạn.

            Lúc nói chuyện với gia đình, Thụy quên mất sự vắng mặt của Hà. Một lúc sau, nàng xuất hiện ở lối cầu thang đi xuống. Lúc Thụy ngước mắt nhìn thấy, nàng mỉm cười. Nàng có một vẻ đẹp khiến cho anh cứ nhiều lần bối rối, bỡ ngỡ. Hơn một giờ qua, trong lúc nhà vắng vẻ chỉ có hai người chuyện trò với nhau mà những ý tưởng thực sự muốn bày tỏ còn ngập ngừng, lơ lửng, dù trong thâm tâm là có sự thương cảm của tình yêu mà với hai người, ai nói ra trước cũng được. Thụy cảm thấy sự thua kém này vì bản tính rụt rè, cộng sự không may mắn của anh sau một năm học. Nhưng nàng chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện đó. Nàng rất tự nhiên, vẫn nghĩ về anh là một người bạn thân, vẫn biết rõ hơn ai hết trong gia đình là anh yêu nàng, dù một chút mong manh trong hy vọng nhưng nàng vẫn chấp nhận, và tự nói với chính mình là nàng cũng yêu anh.

            Đến trưa, trong bữa ăn Thụy có mặt với gia đình nàng.  Thụy dè dặt, nhưng với vẻ mặt thân thiện của các em nàng làm anh hài lòng. Sau bữa ăn, ông bà Kha nghỉ trưa còn Thụy cùng mấy đứa em và Hà lên gác chơi bài. Vừa chơi bài, vừa trò chuyện. Vân nói:

-Rạp Lido có chiếu phim hay lắm.

            Thụy  đưa mắt nhìn qua Hà . Trong cái nhìn của Thụy, Vân bắt gặp là hiểu. Cô nói:

-Chị Hà bao ciné nghe ?

            Hà nhìn qua Thụy, gật đầu. Rồi mấy anh em chơi bài tiếp. Lúc này, Hà là người chủ động dẫn dắt câu chuyện từ phim ảnh, đến bạn bè, và nói đến ngày hội Festival có tổ chức cuộc thi nữ sinh duyên dáng.

            Rất vui, Thụy lên tiếng:

-Thúy Vân  nên dự thi.

-Em cũng đồng ý như vậy, Hà tiếp lời.

-Không, em không đi đâu.

-Anh nghĩ là em  sẽ đoạt giải.

            Hà nói:

-Xong chưa, khui bài nhé.

            Tất cả chờ đợi. Khi Hà lật hai cây bài Thụy lên, nàng cười nói:

-Cái tội dằn non.

            Lòng anh  quá vui trong giọng nói của nàng. Từ dạo anh biết nàng cho tới nay, mỗi cử chỉ nhỏ nhặt trong ánh mắt, nụ cười của nàng đều có liên hệ đến tình yêu.

            Buổi chiều, họ cùng xuống phố chơi và coi chiếu phim. Sau khi vãn hát, Thúy Vân bước tới gần Thụy, nói:

-Em có việc phải đi.

-Em đi đâu ?

-Em để anh lại một mình. Một mình để cho anh nói lời từ giã với chị Hà.

            Sáng hôm sau, Thụy thức dậy sớm vì thường ngủ ít. Khoảng mười giờ, nhà dọn bữa ăn sáng, cà phê, nói chuyện với gia đình một lúc lâu anh đứng lên xin kiếu từ. Giọng anh hơi run khi nói lời từ giã. Ông bà Kha và các em chúc anh đi đường bình an. Riêng Hà, nàng tặng cho anh gói quà nhỏ bọc trong giấy hoa. Anh nói rất nhiều lời từ biệt với nàng bằng đôi mắt của của mình.

-Anh nhớ viết thư cho em.

            Nói xong, nàng đưa tay cho Thụy bắt. Đêm qua, nàng thức khuya. Anh biết nàng thức khuya, vì thấy trên căn gác còn để sáng đèn đến một giờ khuya. Khi thấy anh bối rối, nàng mỉm cười, như thế, hai người sẽ còn nhớ đến nhau khi ở xa nhau. Thế rồi, một mình anh ra đi. Thụy tới bến xe vừa kịp chuyến sắp khởi hành. Xe chạy nhanh, sau hai giờ đường là đến Huế. Về đến nhà đã quá trưa, anh mệt đi nằm nghỉ. Trong giấc ngủ, hình bóng người yêu đến, và rồi, một áng mây trắng bồng bềnh biến thành chiếc áo trắng nàng mặc. Nàng cũng đã theo anh về Huế với áo trắng, như thể cho anh nghe được tiếng nàng gợi nhắc đến một tấm lòng quê hương cũ.

            Khi anh thức dậy, nhà vắng vẻ. Anh thở nhẹ cho nỗi buồn tan đi, rồi mở túi xách lấy ra gói quà Thúy Hà tặng cho anh. Một cuốn sách truyện bọc ngòai, ghép ở trong là một phong bì dày với lá thư, mấy tấm ảnh của nàng và có cả một món tiền.

            Lá thư, nàng viết:

Anh ra đi bình yên. Em rất thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi anh làm kỷ niệm. Em không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hòan cảnh anh, đi xa như vậy sẽ thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh để anh dùng đến lúc cần.

Em,

Thúy Hà

 

 

                                                             IX

 

           

            Thiên Nga đã dọn đến chỗ mới ở khu phố nhà ga. Một dãy nhà ngang gồm bốn căn có diện tích bằng nhau, căn đầu tiên gần lối cổng vào là của gia chủ, một cặp vợ chồng đã hưu trí, hai căn kế bên cửa đóng kín, bên trong là nơi thờ tự có chưng các món đồ cổ và đồ gia bảo, căn cuối hết vừa mới được mở cửa cho người thuê.

            Nga thuê nơi chỗ ở này giá rẻ, nhà rộng rãi, thoáng mát, có vườn sau, sân trước nhìn ra thấy con đường lên vùng ngoại ô, thấy con sông nhỏ hẹp nước trong xanh, và bên kia sông là ngôi trường nhà dòng cổ giống như một tu viện.

            Nga đã có năng khiếu vẽ trước khi thi đậu vào trường Mỹ Thuật. Những năm học ở trường Sao Mai, mỗi kỳ triển lãm Nga luôn nhận được phần thưởng qua mấy bức tranh vẽ rất đẹp, sắc nét, giàu nghệ thuật sáng tạo. Với căn nhà thuê thật vừa ý, Nga đã trang trí từ  phòng sinh hoạt ra phòng khách bằng các thứ  lọ hoa, tranh vẽ, tượng điêu khắc bằng gỗ,  thạch cao, trông giản dị, nhưng đầy ấn tượng.

            Bên trong phòng sinh hoạt, lớn nhất là chiếc giường ngủ trải nệm. Ở cạnh bàn học trông ra cửa sổ có một chiếc kệ ba ngăn, ngăn trên là sách hội họa, ngăn giữa để các loại thuyết, và ngăn dưới là sách giáo khoa chương trình thi Tú Tài phần hai. Nếu năm tới thi đậu, nàng sẽ theo học Luật, còn ở trường Mỹ Thuật là năm thi tốt nghiệp ra trường.

            Trường Mỹ Thuật nằm trong khu Đại Nội, nơi đó, trước đây là khuê phòng cung nữ  của nhiều đời vua triều nhà Nguyễn.

            Năm học mới đã bắt đầu được ba tuần lễ. Lớp của Nga chỉ có hai nữ sinh viên, còn lại là nam, khoảng mười người. Chương trình học năm thứ hai khá nặng, rất nhiều môn về văn hóa, lịch sử , kịch liên quan đến hội họa và thẩm mỹ , những môn này được các giáo sư  ở bên Viện Hán Học và trường Văn Khoa, trường Kiến Trúc qua dạy.

            Thiên nhiên là người thầy nghệ thuật. Vì vậy, các sinh viên bạn nào cũng tìm kiếm những cảnh trí độc đáo ở bên ngoài để làm đề tài cho tranh vẽ. Vào những ngày đi dã ngoại, sinh viên lớp của Nga theo các thầy hướng dẫn đi tới những nơi tụ hội nhiều thắng cảnh đẹp, trữ tình của sông nước, núi rừng. Vào những buổi học bình thường, khi tan lớp, Nga đạp xe về nhà. Trên đường về, bóng dáng nàng qua phố lúc với hình ảnh áo dài trắng, lúc là áo dài tím, vàng hoặc màu thiên thanh. Thiên Nga là một thiếu nữ đẹp dịu dàng và đức hạnh. Nàng dành cho cuộc đời một khuôn mặt rất hạnh phúc, một đôi mắt mãi mãi sáng với nụ cười, một giọng nói rất hồn nhiên và đầy tự tin. Khi cơn gió vô tình làm rớt xuống trên vai áo nàng những bông hoa đỏ thắm của phượng, lúc ấy, hình ảnh nàng là cả một bức tranh. Nga, tên nàng còn là tên thành phố của con tim. Nga, tên ấy của nàng cũng dễ gây cho bạn sự liên tưởng về các thứ bông hoa và  màu sắc mỗi bông hoa ấy luôn được nhìn như là biểu tượng. Và một ngày kia, thành phố sẽ mang nhiều bông hoa khác nữa từ  cái tên và tâm hồn của cô gái để xây dựng nên thành một khu vườn, một công viên.

            Tối qua, gần tới giờ Nga đi nghỉ thì Nguyên đến, trông anh có vẻ mỏi mệt vì làm việc căng thẳng. Nhưng, anh cảm thấy rất là vui khi được về bên người yêu. Nga hỏi:

-Sao anh tới trễ vậy ?

            Nguyên chưa đáp lời, anh cầm bàn tay Nga rồi hai người ngồi xuống ở bàn học.

-Em làm anh ly trà đá nghe ?

            Nguyên gật đầu. Nga đứng lên, nàng đi xuống nhà dưới. Nguyên lật cuốn vở học của Nga ghi chép những bài luận mẫu Pháp Văn nàng chọn trong sách viết ra, đây có thể là những đề thi. Khi Nguyên cầm cây bút sửa lại mấy lỗi viết sai, Nga lên tới. Nàng đặt ly nước mát xuống bàn, xong ngồi bên cạnh Nguyên.

-Anh ăn uống gì chưa ?

-Có, anh ăn ở trại rồi.

-Anh ghé bên nhà chưa ?

-Anh về thẳng đây luôn, một tiếng nữa anh vào trại.

            Nguyên uống một hớp đầy xong đưa qua cho Nga.

-Tuần tới, em vào nhà không ?

-Không, đến cuối tháng.

-Năm nay bài vở nhiều không ?

-Chắc chắn là nhiều hơn năm ngoái. Năm nay, học thêm môn họa hình và cơ thể học.

-Ngày mốt anh lên căn cứ hành quân.

-Đi lâu không ?

-Chừng một tuần, có thể hơn.

-Lâu nhỉ.

-Em biết chuyến đi lần này như thế nào không ?

-Thì vẫn là công tác dân sự vụ.

-Không, em đoán sai rồi.

            Thiên Nga ngước mắt nhìn qua Nguyên, và lúc nào cũng vậy, nụ cười trong mắt nàng thật sáng dịu. Nguyên nói:

-Có đoàn văn nghệ Sài gòn ra hát cho lính ở tiền đồn. Anh phải hướng dẫn đi, buổi đầu tiên diễn ở trung đoàn sau đó đến các tiểu đoàn.

-Có diễn cho dân chúng coi không ?

-Tùy ý trưởng đoàn. Nhưng anh sẽ cố sắp xếp một đêm cho dân làng được xem.

-Anh cần để cho dân chúng được xem. Ở những vùng xa hẻo lánh, ít khi họ có được dịp như vậy.

-Em của anh lúc nào cũng đầy lòng nhân hậu.

-Những  người khác, em rất là dễ dãi, nhưng với anh phải khó và nghiêm khắc như cô giáo.

-Sao vậy ?

-Anh không hiểu ra tính tình của anh à.

-Anh vui tính, luôn biết chìu em.

-Không đúng. Anh rất là lông bông, liệu hồn đấy.

            Nguyên cầm bình trà rót thêm vào ly còn nước đá. Anh uống và cảm thấy đã khát.

-Anh ăn gì đi, không thì đói.

-Có gì ăn ?

-Mì gói.

-Chút nữa, ngồi bên em anh cảm thấy rất dễ chịu.

-Dễ chịu thực không ?

            Im lặng, Nga hé môi để cho Nguyên hôn. Nguyên hôn thật lâu làm thân người nàng run  rẫy.

            Bên ngoài trăng sáng. Hai người đứng dậy đi lên nhà trên mở cửa trước ngồi xuống thềm hiên. Ở thành phố Huế, bạn luôn có cảm giác yên lặng và xa xôi. Về đêm, vào mùa trăng sáng, cảnh vật trở nên huyền nhiệm, mỗi cảnh lồng vào trong ánh trăng một thứ tiếng nói, rồi tất cả hòa vang thành nhạc khúc trên dòng sông đang chảy.

            Nga khoác ngoài chiếc áo len hồng, nàng dựa đầu lên vai chiếc áo jacket dày của Nguyên. Bàn tay nàng trong tay người yêu.

-Đúng là cảnh trăng mùa thu.

            Nga mỉm cười sau câu nói của Nguyên. Rồi nàng bảo:

-Anh có tâm hồn thi sĩ.

-Mỗi bài thơ anh sáng tác, luôn mang bóng hình em.

-Nhưng anh đâu có làm thơ nhiều.

-Anh sẽ viết riêng một tập thơ đề tên em.

-Ông Nguyên Sa, với tên người yêu ông chỉ làm thơ một chữ thôi.

-Em là hình ảnh Lara, anh sẽ viết riêng một tập thơ mang tên em.

-Có một tập thơ của anh, em sẽ vẽ bìa.

            Ngoài con đường, có bóng một người đàn ông đạp xe đi ngang qua. Ông ta đội chiếc mũ nỉ, vừa đạp chậm rãi, vừa đưa mắt nhìn xuống dòng sông.

            Những cánh cửa sổ trên tầng ba của ngôi trường dòng bên kia đang mở. Ánh đèn từ căn phòng đó hắt ra yếu ớt,  buông rơi xuống dòng sông. Và, nhờ ánh trăng sáng, hai người nhìn thấy rõ nước dòng sông và cả hai phía bờ.

            Nguyên chợt hỏi:

-Em còn nhớ những ngày về thăm quê không ?

-Nhớ chứ.

-Mỗi nơi, cho em một tình cảm riêng phải không ?

-Quê nội nghèo, như anh nói.

-Ở đó thật hoang sơ, chỉ có biển và cát.

-Còn dòng sông thì về miền quê ngoại.

-Mẹ rất thương em.

-Em hiểu ý anh muốn nói.

            Rồi nàng tiếp lời:

-Quảng Trị, thành phố tuy nhỏ nhưng đẹp. Về các làng quê, nơi nào cũng có dòng sông chảy qua.

-Anh rất nhớ quê ngoại, qua ngôi nhà thờ, cảnh đồng ruộng và con đường đê.

-Ngày đó, mẹ anh đi chợ phiên cũng xa nhỉ.

-Con đường đê rất dài đó, buổi chiều là hình ảnh của mẹ.

-Chắc lúc nào anh cũng gần bên mẹ.

-Và, bên em nữa.

            Nguyên đặt bàn tay xuống mái tóc người yêu. Trăng thu sáng, sương đêm xuống lặng lẽ in bóng dáng những đám mây mỏng manh, lơ lửng bên kia bờ. Nga ngước mắt nhìn lên trăng, hai tay để ra đằng sau vuốt sửa lại mái tóc. Bỗng nhiên, nàng có cảm giác như  một ai đó gọi tên nàng.

            Nga chợt mỉm cười qua giấc mơ. Nguyên nhìn đồng hồ, anh hỏi:

-Em buồn ngủ chưa ?

-Chưa.

-Anh vào trại bây giờ .

-Anh lái xe một mình ?

-Không sao, đêm có trăng.

            Nga đi bên Nguyên, bàn tay nhỏ bé của nàng trong tay anh. Xe đậu bên lề đường gần bờ sông ngoài cổng. Dừng bước bên xe, Nga nói:

-Anh lái xe cẩn thận.

            Nguyên không đáp lời, anh nhìn đồng hồ tay, bỗng nói:

-Anh đưa em đi ăn.

-Khuya rồi.

-Em vào nhà đóng cửa, xong đi ăn với anh.

            Nga quay trở vào. Không lâu lắm nàng trở ra và Nguyên đã cho xe nổ máy. Khi Nga lên ghế ngồi, Nguyên cho xe chạy một đoạn tới bến cát rồi trở đầu đi về phía nhà ga. Anh chạy vòng quanh nhà ga tìm quán ăn, xong đổ về khu phố Morin và rẽ đường tới nhà Bưu Điện. Một quán ăn khuya vẫn còn mở và có khách ăn.

            Xe dừng ở bờ đường gần quán. Đêm thành phố lặng yên với bóng sáng của ánh trăng thật dịu dàng. Nguyên nhìn qua mái tóc Thiên Nga, anh nói:

-Khi nào Mỵ Châu cần sách đọc, nhớ cho anh biết.

-Sách còn nhiều, Mỵ Châu chưa đọc hết.

-Anh bỗng nghĩ, có một tu viện, Mỵ Châu ở đó với các xơ, vừa làm việc vừa đọc sách.

            Nga cười lớn tiếng. Nàng hơi dừng bước hỏi Nguyên:

-Anh nghe em kể về Mỵ Châu lần nào chưa ?

            Nguyên nhắc lại một vài chuyện, nhưng Nga cho là chưa đúng.

-Khi về nhà, em sẽ kể cho anh nghe.

            Hai người vào quán, ngồi bàn thấp ở phía ngoài. Có bún, cháo và cà phê.

-Ăn bún nghe.

            Nga gật đầu. Khi đứa nhỏ chạy bàn đi vào, Nguyên nói với Nga:

-Thụy mới viết thư về nhà, có gởi lời thăm em.

-Anh gởi thư, em có lời thăm.

-Thụy rất mong được gặp em. Nó bảo, anh gởi cho nó xem ảnh của em.

-Anh đừng gởi.

-Không gởi nó cứ nôn nao mong có kỳ nghỉ phép.

-Đến lúc về, sẽ gặp. Nếu em không ở đây, anh đưa Thụy vào Đà Nẵng chơi.

            Hai tô bún nóng để trên chiếc khay, đứa nhỏ mang ra cẩn thận đặt xuống bàn. Có chả nóng, Nga lấy hai lọn bóc lá xong bỏ vào mỗi tô. Còn nữa, mấy lát, rắc tiêu và vắt chanh.

            Hai người mời nhau ăn. Nguyên cảm thấy vị cay của ớt xông lên nóng mũi. Nga quen với vị cay, trơng nàng ăn ngon miệng.

-Tối mai anh về nhà không ?

-Chắc là không ?

-Được dẫn các cô ca sĩ đi hát tiền đồn, chắc là anh vui, trông đợi nữa phải không ?

-Những ca sĩ Sài Gòn anh quen hết ?

-Có cô nào anh bắt bồ không ?

-Không.

-Em không tin.

            Nguyên ăn chậm, thong thả. Anh nói:

-Trước khi đi lính, anh làm nghề báo. Không chỉ viết tin, làm phóng sự, anh còn phụ trách trang tân nhạc hàng tuần. Có trang này, anh dễ làm quen với các cô ca sĩ, và cô nào cũng muốn nhờ anh viết giới thiệu để có cơ hội nổi tiếng. Khi làm trang này, anh cũng đã thực hiện một thiên phóng sự  Sài Gòn về đêm qua các phòng trà.

-Các nữ ca sĩ, cô nào cũng đẹp ?

-Không hẳn.

-Anh tình nguyện đi lính hay bị động viên.

            Nguyên kể chuyện về một vị Thiếu Tá anh quen làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến. Và đúng như lời hứa hẹn của ông, Nguyên vào Thủ Đức khóa 21, mãn khóa học xong anh được về làm việc tại phòng truyền hình ở Cục Tâm Lý Chiến. Năm 1965, truyền hình bắt đầu có và rất mới mẻ. Nhiệm vụ của Nguyên là hướng dẫn người quay phim quay những cảnh thực ngoài chiến trường, phần anh, dựa vào mỗi cảnh phim quay viết lời bình và dẫn giải. Với công việc này, Nguyên còn tạo được tên tuổi cho mình qua những cuộc phỏng vấn trực tiếp với các vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn, các vị Tỉnh trưởng, và anh cũng hay có mặt trong những cuộc họp báo đặc biệt của các giới chức cao cấp cả về dân sự và quân sự.

-Nhưng sao anh bỏ Sài Gòn ra ngoài này ?

            Nhìn Nga, Nguyên nói:

-Để được gặp em.

-Không đúng. Gặp nhau là sự tình cờ, không nói là chủ đích được.

            Quán ăn tới giờ đóng cửa. Khách ăn đứng dậy ra về. Nguyên vào quán trả tiền, bất ngờ gặp Lập là bạn trong nhóm sinh viên tranh đấu ngày xưa. Khi Nguyên làm Ủy viên báo chí Tổng hội anh kiêm luôn chủ bút tờ Sinh Viên Huế, còn Lập là Tổng Thư Ký. Tờ  báo khởi đầu từ sau biến cố đảo chánh 1/11/63 và kết thúc khi sứ mạng của Sinh viên đối với hiến chương Vũng Tàu hoàn thành. Thời sinh viên, Nguyên có được những tháng ngày hào hùng, lãng mạn. Nga rất thích một bức ảnh anh mặc áo sơ mi màu rêu,  hai túi xẻ, đứng trên bậc thêm ở trường Đại Học Văn Khoa. Bức ảnh, rất ăn từng nét đẹp của Nguyên qua dáng người và cặp mắt.

            Khi Lập theo Nguyên ra ngoài, gặp Nga anh bạn chào hỏi rất thân thiện. Và, khi được biết Nga học ở trường Mỹ Thuật, anh ta rất mong được xem những tranh vẽ của nàng. Hai tuần lễ tới, Huế sẽ có một cuộc triễn lãm dành cho các họa sĩ trẻ.

            Nguyên lái xe chậm tốc độ trên đường. Nga vào câu chuyện kể về Mỵ Châu, nàng nói ra cái ý tưởng ngộ nghỉnh muốn bỏ nhà đi tu, ở chùa, hay nhà thờ  cũng được, miễn là được sống xa lánh cuộc đời. Ở cái tuổi còn nhỏ, nhưng được chọn đi tu cũng là niềm vui. Nguyên cười lớn tiếng hòa nhịp cùng tiếng cười của Nga, anh ngả người dựa lưng ghế buông tay lái, sau đó, anh cầm bàn tay Nga đưa qua bên  mình và đặt lên phía trái tim.

            Nguyên thật sung sướng, rồi anh nói với Thiên Nga rằng, sự rời bỏ đô thành Sài Gòn để ra ngoài này đó là sự lựa chọn của một người lính, nhưng cũng nhờ vào đó, tạo ra cơ duyên cho anh được gặp một người mình yêu thật sự trong ước mong.

            Sương mù trôi đang bao kín dòng sông. Ánh trăng thu lan tỏa ra hơi lạnh trong đêm vắng. Về đến nhà, Nguyên dừng xe lại trước cổng, anh nói:

-Chúc em ngủ ngon.

            Xuống xe, nàng vẫn chưa vào nhà.

-Anh lái xe can than.

-Em ngủ ngon.

            Nàng mỉm cười nhìn Nguyên.

-Chắc tối nay, em không ngủ được.

 

 

 

                                                              X

 

 

 

            Trước ngày đi ra Nha Trang để dự khóa học chuyên môn ba tháng, buổi chiều Thụy đến nhà dì Hồng nhận được cùng lúc ba lá thư. Đó là thư anh Nguyên, thư  Thúy Hà , và thư  chót là của người bạn hiện nay đang dạy học dưới Vĩnh Long.

            Thư  anh Nguyên nhờ Thụy mua giúp anh cuốn Tìm Hiểu Hội Họa của tác giả Đoàn Thêm,  nếu có sách thì gởi về địa chỉ ở bên nhà hoặc cho cô Thiên Nga bạn anh. Thư Thúy Hà có hai tấm ảnh kèm theo thư, đó là ảnh nàng và ảnh đứa con trai. Ảnh đứa con trai mới sáu tháng tuổi có ghi lời tặng, còn của nàng, thì không. Từ ngày xa cách, Thụy có nhiều tấm ảnh của nàng mang theo, nhưng không một tấm nào có đôi dòng chữ  nàng ghi lời tặng.

            Sau khi đọc thư xong, Thụy đón xe buýt lên chợ Bến Thành. Sài Gòn, ngày nào cũng huyên náo, xô bồ, nhưng thật là dễ sống. Xuống bến xe, Thụy đi qua khu bùng binh Quách Thị Trang đến nhà sách Khai Trí, và đi sâu vào phía bên trong cùng để tìm kiếm các loại sách chuyên môn. Thật may mắn, Thụy tìm ra cuốn sách anh Nguyên nhờ, chỉ  còn một bản duy nhất bày trên kệ. Thụy vói người lấy cuốn sách xuống, giũ bụi, xong xem lại cẩn thận những trang in có bị sót không. Thụy không thể đọc được nhiều, nhưng với tác giả anh đã có biết, và nhìn qua cách viết anh thấy người biên soạn rất là cẩn trọng,  công phu. Trong sách còn có một số phụ bản tranh in màu của các họa sĩ danh tiếng Picasso, Gaughin, Renoir, Van Gogh, Claude Monet . Bức tranh Người gieo hạt của Van Gogh rất là ấn tượng, sống động, nhưng lúc này, Thụy cảm thấy dễ chịu, yêu thích hơn hết là được xem bức tranh của người họa sĩ Pháp gốc Hòa Lan, Claude Monet. Bức tranh vẽ ở một công viên trông ra biển. Trên công viên bày ra những bàn ghế mây, có một người đàn ông đội chiếc nón phớt mắt nhìn ra biển xa, ngoài mặt biển xanh đẹp những làn sóng nước, có rất nhiều tàu và thuyền bè đang di chuyển. Bên lối hàng rào, có người phụ nữ trông dáng vẻ quí phái đang chuyện trò với một người đàn ông đứng tuổi thật lịch lãm. Người phụ nữ dáng mảnh mai, che đầu chiếc dù trắng, còn người đàn ông mặc áo veste, một tay cầm cây can. Thụy cảm thấy ngay sức tưởng tưởng tượng của mình trong khi họa sĩ  phối hợp các màu tươi sáng trên bức tranh, đáng yêu nhất là màu của các bông hoa thắm nở bao quanh công viên.

            Khi đến quầy tính tiền, Thụy đưa cuốn sách cho cô bán hàng, cô coi giá bìa xong bớt giá 15%. Cô bỏ sách vào túi nylon đưa cho anh rồi thối tiền lẻ.

             Ra khỏi hiệu sách, Thụy đến quán Mai Hương ngồi uống một ly cà phê đá. Không phải là ngày cuối tuần, nhưng Sài Gòn vẫn nhộn nhịp, huyên náo. Những dãy phố chính nằm giữa trung tâm thành phố thật tưng bừng, ồn ào với mỗi cảnh sinh hoạt. Những chuyến xe buýt rời bến,  những dòng xe du lịch, xe taxi nối đuôi nhau trên các ngả đường, người đi qua lại trên vỉa hè tấp nập, và thật sáng dịu khi bóng dáng các cô gái xuất hiện thướt tha trong những chiếc áo dài, rồi âm thanh buổi chiều nổi dậy với những tiếng nhạc mở lớn vọng ra từ các rạp hát, từng cảnh đó đã làm Thụy cảm thấy vui, tin tưởng vào cuộc sống mới mà từ những tỉnh lỵ, thành phố nhỏ bé ở ngoài miền Trung anh đã quyết chí vào đây.        

            Bây giờ, Thụy chẳng có ai quen ngoài Huê ra. Buổi chiều đang xuống, Thụy nhấp từng hớp cà phê, và đốt từng điếu thuốc, vừa cảm thấy dễ chịu. Anh yêu mến Sài Gòn, yêu thành phố như một mối tình dễ thương với Huê, và lúc này, anh nhận ra, hình ảnh của Huê cũng thật là đẹp như một bài thơ thi sĩ Nguyên Sa đã viết về thành phố này:

 

            Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều

            Cánh tay tà áo sát vòng eo

            Có nghe đôi mắt vòng quanh áo

            Đôi ngón thơ buồn đứng ngó theo   

 

            Sài Gòn cười đôi mắt rất tròn

            Vòng cung mầu đỏ nét thu cong

            Cầu vồng bắc giữa mưa và nắng

            Hay đã đưa dần sang nhớ mong

 

            Ngồi một mình nhớ đến Huê, rồi Thụy đứng lên đến quầy trả tiền. Anh mua thêm gói thuốc, ra đường,  đi bộ tới trạm xe buýt.

            Về nhà, Thụy viết một lá thư ngắn gởi cho cô Thiên Nga nói chuyện về cuốn sách anh Nguyên gởi nhờ mua. Và, để có sự tin cậy, Thụy còn nói thêm một đôi điều để cô yên tâm khi cần đến những sách học ở trường Mỹ Thuật.

            Thụy hài lòng với lá thư mình viết ngắn gọn, suôn sẻ.

            Ngày hôm sau, Thụy lên đường đi học. Từ trạm tiếp liên ra phi cơ, thật bất ngờ Thụy gặp anh  Khanh. Anh đang trò chuyện với một người bạn cũng là phi công, thấy Thụy, anh vội ngừng chuyện tới gần bắt tay. Trong một nụ cười, anh nói:

-Anh mới đọc truyện ngắn em viết trên báo Lý Tưởng.

-Anh thấy được không ?

-Được lắm. Nhưng ai kể chuyện này cho em.

-Nhân vật trong truyện là Trung úy N. ở bên phi đoàn 217.

-Đúng rồi, N. là bạn anh. N. bay rực thăng bị trúng đạn, máy bay cháy và anh ấy bị thương tích rất nặng. Nhưng, dù cho anh bị thương tích, cô  bạn gái anh ấy vẫn giữ đẹp mối tình, và hai người đã lấy nhau.

-Em biết câu chuyện thật hay, cảm động nên viết ra.

-Hôm nay em đi đâu ?

-Em ra Nha Trang học khóa chuyên môn.

-Về ngành gì ?

-Ngành điều không.

-Không phải em làm ở báo Lý Tưởng đi công tác.

-Không, em có chỉ số ngành điều không. Báo Lý tưởng kéo em về vì thấy em có khả năng viết báo.

-Rồi học xong, thì sao ?

-Chắc là về lại Lý Tưởng.  Đại úy Hùng sẽ kéo em về, vì tờ  báo cũng cần người. Em đi học chuyên môn là để lấy bằng hưởng lương phụ cấp.

            Anh Khanh gật đầu nghe Thụy giải thích. Khi đến giờ lên máy bay, Thụy cùng hành khách vào chiếc C47, chiếc này anh Khanh là trưởng phi cơ.

            Sau hơn một giờ bay, phi cơ ra tới Nha Trang. Từ trạm tiếp liên Thụy đi bộ tới khu huấn luyện và sau khi làm xong thủ tục, anh về phòng khóa sinh sắp xếp  đồ đạc và dọn chỗ nằm.

            Ngày hôm sau, Thụy ra phố tới nhà Bưu điện gởi thư về Huế, địa chỉ nhà cô Thiên Nga ở. Khi mua sách ở Sài gòn, anh không gởi ngay, mà muốn lấy địa chỉ KBC ngoài quân trường để trường hợp thất lạc, sách sẽ trả lại cho địa chỉ người gởi. Từ câu chuyện của Phương kể về nàng, thật lạ lùng, trong trí tưởng anh luôn hình dung về nàng có khuôn mặt hiền hậu, đôi mắt đẹp, và qua dáng bước đi trong chiếc áo dài tím, thật nhẹ nhàng như  sự rung động  của cánh bướm. Thụy thật hạnh phúc khi biết anh Nguyên của mình có người yêu là nàng.

            Buổi chiều ấy, với sự mộng mơ, với lòng tơ tưởng, Thụy đi lang thang qua các phố , sau đó thả bộ  dọc con đường ven biển trở về trường. Tối đến, nằm trong phòng Thụy đọc truyện, vẫn cuốn truyện cũ Người Mỹ trầm lặng. Khi đọc cuốn này, Thụy bỗng nhớ đến Hạnh.

            Thụy  đã ra dự khóa học đúng ngày, nhưng anh em khóa sinh cùng chỉ số là bốn mươi người chưa tới đủ, mới trình diện  được mười lăm người. Còn thiếu khá nhiều, nhưng thực sự, có đủ quân số, khóa học cũng chưa bắt đầu vì còn thiếu giảng viên.

            Tới kỳ lương lãnh tiền xong, Thụy liền chuồn đi Đà Lạt. Thụy phải đi hai chuyến xe lam mới đến bến xe. Hầu hết xe đi các tỉnh xa là của hãng Trung Việt. Có hai loại, xe dài, và xe cỡ trung. Xe dài được 80 chỗ ngồi, còn cỡ trung chỉ bốn mươi chỗ.

            Khi lên xe, Thụy thấy bên chỗ cô gái đang ngồi còn ghế trống. Thụy xin phép lấy chỗ ngồi, cô gái không nói gì. Đợi hai mươi phút nữa, xe mới khởi hành. Thụy đưa mắt nhìn ra ngoài vừa thoáng ngắm vẻ mặt cô gái. Tối hôm qua, trong ảo mộng cuộc đời Thụy nghe ra tiếng nói và thấy hình ảnh người yêu của anh đi lấy chồng. Ngày hôm ấy nàng đi, hiển hiện trong giấc mơ của anh cả một cuốn phim đen trắng, và có vẻ như anh nối kết lại những bông hoa ấy thành một bó hoa trông đợi nàng. Giờ đây, một ngày đã khác.

-Cô học ở Đà Lạt ?

            Cô gái mỉm cười lắc đầu.

-Không.

            Thụy nhìn giờ qua chiếc đồng hồ đeo ở tay cô. Bỗng Thụy hỏi ý cô gái muốn được đổi chỗ ngồi phía ngoài cho thuận tiện. Không đáp lời, cô gái đứng lên và hai người đổi chỗ. Thụy nhận ra một cảm giác êm ái khi chiếc áo dài của cô chạm nhẹ tay anh.

            Với một giọng thân tình, Thụy nói:

-Ngày trước, tôi học ở Đà Lạt.

            Cô gái mỉm cười biết chàng gợi chuyện làm quen. Bỗng cô lên tiếng:

-Tôi không phải là Sinh viên.

            Thụy đáp lời:

-Bây giờ đợi xe đi lên thành phố đó, tôi cảm thấy nhớ thời đi học của mình.

-Gia đình ông ở trên đó ?

-Không.

            Tới phiên xe rời bến, người tài xế cất tiếng gọi hành khách còn đứng dưới, vừa mở cửa ghế phòng lái bước lên. Trong xe, ở hàng ghế sau có hai người đàn bà hơi lớn tiếng cãi vã nhau. Thằng lơ xe liền lên tiếng giải hòa, vừa vui với giọng đùa nghịch. Có người cười, bảo thằng nhỏ lém lỉnh. Khói thuốc lan tỏa trong xe. Người tài xế ngồi trước tay lái vẫn còn chờ ai đó, và rồi, có một người mang đến cho ông ta giấy tờ để xuất bến. Xe nổ máy, tự dưng lòng Thụy nôn nao. Nha Trang- Đà Lạt quãng đường dài hơn 200 cây số.

            Xe lăn bánh. Khi ra khỏi bến, xe còn chạy trên con phố chính đang ồn ào trong cảnh sinh hoạt đầu ngày.

-Gia đình cô ở Đà Lạt ?

-Không, ở đây. Tôi làm việc ở Ty Bưu Điện.

-Tôi có đến đó hai lần nhưng không gặp cô.

-Tôi làm hành chánh bên trong, không ngồi ở guichet.

            Không hỏi gì thêm, Thụy nhìn gương mặt cô gái. Cô không đẹp, nhưng nhìn kỹ thấy rất có duyên. Có vẻ cái nhìn trong mắt Thụy làm cô sợ, vội lên tiếng:

-Tôi có gia đình rồi.

-Tôi vẫn còn độc thân.

            Cô gái im lặng. Nắng lên cao, xe đã ra vùng ngoại ô thành phố. Ngồi ở bên ngoài Thụy đưa mắt nhìn đồng ruộng, quang cảnh vùng quê, tự dưng anh ước ao có một ngày đất nước thanh bình.

            Xe tới một trạm kiểm soát ngừng lại. Người Cảnh Sát đi dọc theo thành xe, mắt nhìn lên. Trên xe, ngoài Thụy ra có một vài thanh niên khác nữa. Viên Cảnh sát hỏi giấy tờ một vài người, lập tức họ trình ra ngay những giấy tờ tùy thân. Người Cảnh Sát coi xong trả lại rồi cho xe đi. Đây là chuyến xe khách bình thường không có người đi buôn vì trên trần không có hàng hóa.

            Có những lúc trên đoạn đường xấu xe tránh ổ ga, nhồi xóc,  lắc lư, vai Thụy và cô gái chạm nhau.

-Ông học ở Đà Lạt bao nhiêu năm ?

-Hai năm. Tôi không sinh trưởng ở đó.

-Nghe giọng nói của ông là biết ?

-Cô nói tôi người ở đâu ?

-Huế.

-Không phải. Tôi ở ngoài Quảng Trị, cách Huế gần 60 cây số.

-Ba tôi là người Huế.

-Mẹ cô người Bắc.

-Ông thật tài.

            Hai người chuyện trò, và trong lúc xe chạy, những hành khách quen hay lạ nhau cũng có chuyện nói với nhau cho đỡ buồn.

            Xe tới Phan Rang gần trưa, ghé vào bến cho khách nghỉ uống nước nửa tiếng. Nhiều người xuống, và cũng có người ngồi một chỗ. Thụy và cô gái vẫn ngồi lại trên xe. Cô gái hỏi:

-Ông làm việc ở đâu ?

-Tôi đang ở trong quân đội.

-Tôi cũng nghĩ như thế.

-Tôi ở binh chủng Không Quân, ra ngoài này học khóa chuyên môn. Ít tháng nữa, hết khóa học tôi về Sài Gòn.

-Ồ, ông ở Sài Gòn.

-Vâng.

            Hai đứa nhỏ bán quà rong mời mua nước và trái cây. Thụy  hỏi ý cô gái, xong mua hai  ly nước mía.

            Giọng thân tình, Thụy hỏi:

-Cô được mấy cháu nhỏ rồi ?

            Cô gái cười, hai tay vội vàng đưa lên che miệng để dằn lại sợ cất lớn tiếng.

-Sao ?

-Lúc nãy, tôi nói đùa với ông.

-Tôi ngắm nét duyên của cô mà cô cũng sợ.

-Ông đừng tưởng các cô gái đi một mình là dễ dãi.

            Một cách thân mật tự nhiên Thụy nắm tay nàng rồi buông ra ngay.

-Cô có mang áo ấm theo không ?

-Không.

-Lên đèo trời lạnh lắm.

-Mùa này Đà Lạt mưa.

            Thụy bật que diêm đốt điếu thuốc. Tới giờ xe chạy, hành khách trở lại chỗ ngồi. Tỉnh lỵ Phan rang nằm sát ngay bên quốc lộ. Chừng năm cây số nữa là tới đường rẽ đi Đà Lạt. Lúc này, hành khách trong xe ít còn trao đổi tiếng trò chuyện. Thụy cố gắng hồi tưởng lại những ngày tháng cũ của thời niên thiếu, trong sự gợi nhớ này, anh nhắc thầm tên và tìm đến những hình ảnh thân thương của các cô gái anh đã gặp, và tưởng như lúc này, người nào cũng thật hiền dịu mở rộng hai cánh tay đón chào anh.

            Thụy vẫn chưa nhìn thấy cuộc chiến tranh. Tin tức trên báo chí qua những bài phóng sự, tường thuật, những sự kiện đó chỉ làm nóng lên trong con người anh sự bồng bột của trí tưởng tượng, xong rồi dịu hẳn. Bây giờ đây, trên đường trở lại Đà Lạt, anh mong được thấy thành phố cao nguyên với hoa đào, đồi thông, sương mù, trước khi  đến một ngày tận mắt anh nhìn ra thấy cuộc chiến.

            Xe đang hướng con đướng đi lên Đà Lạt. Ngồi ở ngoài với từng đợt gió thổi qua, lúc mát, lúc lạnh, bỗng dưng cơn buồn ngủ tới làm mắt Thụy nặng trĩu. Thụy thiếp ngủ, thân người như có ai nhấc bổng.

            Một lúc, tiếng cô gái làm anh choàng tỉnh.

-Ông đừng có cố ý lợi dụng, giả vờ ngủ say.

            Thụy kịp đưa tay che miệng ngáp và quay mặt thở nhẹ ra ngoài.

-Xin lỗi.

-Ông ngồi thẳng người lại đi.

            Giọng mệt mỏi, Thụy nói :

-Hôm qua, tôi mất ngủ.

            Nói xong, Thụy tựa đầu lên ghế tìm lại giấc ngủ. Thụy ngủ ngon giấc không mộng mị. Và rồi, một cảm giác mềm mại, dịu êm thấm vào tâm hồn anh. Khi anh thức giấc, cô gái nhìn anh mỉm cười, và nụ cười cô gái khiến anh thèm tựa đầu mình lên  chiếc vai nhỏ bé của cô lâu hơn nữa.

-Tới đâu rồi cô ?

-Một cây số nữa, xe lên đèo.

            Thụy ngẩng đầu dậy. Để rửa mặt, anh thò đầu ra ngoài hứng gió. Gió mát đến lạnh và Thụy tỉnh người hoàn toàn.

-Cô đi Đà Lạt mấy ngày ?

-Tôi nghỉ phép hai tuần .

-Nhà cô ở ngay phố.

-Nhà tôi ở gần Bưu Điện.

-Tôi cũng đi phép, lên Đà Lạt thăm lại trường cũ.

-Ông cũng lãng mạn nhỉ.

-Tôi cảm thấy nhẹ nhõm sau giấc ngủ ngon.

-Ông tựa đầu lên vai tôi nặng quá.

-Nhưng tôi chẳng cố ý, phải không ?

-Sao, không.

            Thụy nhìn nàng thật đằm thắm, và mắt anh  đọc được một hàng chữ nhỏ trên cặp mắt của nàng. Cô gái thật có chút từ tâm, dễ mến. Và, Thụy vừa qua một giấc ngủ mềm mại trên vai cô.

            Xe đang chạy trên từng khúc quanh qua đèo Ngoạn Mục. Bên dưới đèo là nhà ga Dran. Sương mù buông trôi, tiếng dòng suối chảy như xa vắng. Từ mỗi quãng dốc, Thụy trông thấy những đám khói từ ống khói ở nhà ga dâng lên. Vừa đón cái lạnh, vừa ngửi hương thơm từ những bông hoa, từ những cây lá quanh núi rừng, Thụy có cảm tưởng mình như là người lữ khách.

            Rồi ánh nắng bừng lên trải rộng một màu vàng lụa bên dưới lưng đèo. Lúc này, xe gần tới Đà Lạt, đang chạy qua đèo Prenn.  Bên đây, đường đèo chạy men theo vách tường núi, bên dưới kia dòng suối là rừng thông. Ai cũng lắng im nghe tiếng hòa nhạc của thiên nhiên qua khung cảnh nắng chiều. Sương mù giăng mắc, và bạn nghe ra được hơi thở của những người từ đâu xa đến đây, hay là kẻ trở về lại nơi miền cao nguyên vẫn là một chốn cũ.

            Bỗng dưng, trong mắt Thụy hiện lên hình bóng Thiên Nga. Nàng thầm hẹn với anh, một ngày đó anh sẽ gặp nàng như ước nguyện.

 

 

 

                                                         XI

 

 

            Thụy ở chơi Đà Lạt đúng một tuần lễ. Khi trở lại thành phố này, trong niềm nhớ và sự xúc động anh tìm thấy lại bóng dáng mình và những kỷ niệm cũ thật là đẹp, dễ thương. Thùy đưa anh trở lại khu phố cũ có căn nhà của nàng. Rồi hôm ấy, một buổi chiều thứ năm học sinh chia nhau đi bán vé coi cuốn phim Toute la ville dance để gây quĩ cho trường. Trên đường Hai Bà Trưng dài và xa lên tới tu viện  Domaine de Marie, từng nhóm học sinh mỗi lớp cùng đi con đường này, vừa chuyện trò, đùa giỡn rất là ồn vui. Bỗng nhiên, nhìn tới phía trước có đám đông nữ sinh, Thụy bỗng nhận ra Thùy qua chiếc áo dài tím. Nàng đi giữa, và cùng các cô bạn của nàng nắm tay dang rộng choán hết cả mặt đường. Trời mưa bụi, áo tím của Thùy trong mưa mỗi lúc nhòa mờ đi, nhưng đó cũng là một nỗi nhớ ngây dại như tiếng  khóc thầm, lúc ấy, Thụy nhận ra dáng đẹp của Thùy. Về đây, Thụy cũng tìm trở lại căn gác học sinh nằm ở tầng gác ba, nơi này, anh ở cùng với nhiều bạn lưu học sinh từ  các nơi xa đến. Mỗi một thứ có trong kỷ niệm thuở ấy, giờ gợi nhắc, bỗng dưng Thụy có chút se lòng, bao dung lấy một niềm an ủi.

             Lăng và Thụy vượt ra mối liên hệ anh em bạn dì, còn là đôi bạn thân. Anh Nguyên, Lăng và Thụy ba anh em chỉ chênh lệch nhau một tuổi. Nhưng vì đã sống cùng chung những ngày thơ ấu ở quê ngoại nên ba người có sự gắn bó rất lâu dài. Lăng chăm học, trầm lặng, ít biểu lộ  tình cảm, nhưng sẽ có một ngày, Lăng nói ra hết những chuyện riêng tư của mình. Về phần Thụy đôi lúc có sự bồng bột, vụng về, nhưng bản tính chân thật, nên anh luôn có sự tự tin về con người của mình. Thụy  đã kể nhiều chuyện cho Lăng nghe, và Lăng rất hiểu bạn qua mỗi câu chuyện riêng của người đó kể.

            Trên đường Duy Tân, hai người bạn đi phía bên trái vỉa hè  đang vượt quãng dốc. Và, con đường này lại nhắc nhở Thụy nhớ đến Thùy. Buổi sáng, vào những giờ học muộn từ trường Thụy đi bộ lên tới khu thương xá chợ Hòa Bình, đứng đó đợi không lâu thấy Thùy xuất hiện, rồi cùng nhau đến trường. Thật là ân tình trong nắng ấm, trong màu cây lá xanh tươi, ảnh hình đó đã giúp cho đôi lứa tìm ra được những câu chuyện vui, những lời tỏ tình thật ý nhị, dễ thương.

-Ở xứ người có trồng cây phượng tím, Thùy biết không ?

-Không.

-Ngày nào đó, ở một nơi xa của xứ người, nhìn thấy cây này Thùy sẽ nhớ đến người bạn cũ.

-Không chắc đâu, nàng cười nhẹ và đôi mắt nhìn xa hơn.

            Mỗi ngày luôn có hai buổi học, và trước khi đến giờ học chiều một tiếng, từ trường Thụy lại đi bộ lên chỗ hẹn đón Thùy, rồi đôi bạn vẫn bên nhau, cho đến khi cảm thấy sự yêu thương và thân thiết đã thấm vào lòng , thì giọng nói bỗng nghe như đang bước chập chững, ngập ngừng, còn trong âm thầm là tiếng đập của từng nhịp tim nghe qua hơi thở thật nặng nề .

            Bên dưới con dốc, Thụy ngoái nhìn lại ngôi trường vẫn còn thấy một dãy nhà dài và sân chơi rất rộng. Xa hơn nữa, bên kia chiếc cầu là sân vận động của trường, khu sân này nằm bên cạnh đường Hai Bà Trưng vừa  trông ra con đường Calmette đi lên khu đồi bệnh viện, nơi ấy, nổi bật sáng lên một tòa nhà màu ngói đỏ.

            Thụy vui chuyện kể lại cho Lăng nghe, người bạn cười hiền hậu. Một lúc sau, với những suy nghĩ về cuộc đời, Thụy nói:

-Tôi chưa viết ra được những kinh nghiệm của con người về cuộc đời. Tôi chỉ mới viết những rung động của mình trong cuộc sống từ thời niên thiếu đến lúc này, nhưng đây là sự rung động chân thật, với những mầm hạt này một ngày kia tôi tin rằng nó sẽ mau lớn. Đường đời hay dòng đời tự nó sẽ chuyển biến, thay đổi cuộc sống ngay từ khi mình khởi sự cất bước. Qua ý nghĩ đó, tôi nhận ra sự hiện hữu về đời lính của mình.

            Rồi, anh lại tiếp lời:

-Ít ra, tôi cũng ở trong quân đội đến mười năm.

-Anh không xin đi học Sĩ quan.

-Cũng có ý định đó. Tôi vẫn mong đậu được bằng toàn phần rồi xin đi học ngành kỹ thuật.

-Năm tới, anh có thi không ?

-Có. Thời gian học của tôi ít quá, và không ổn định.

            Bến xe nằm bên trên thương xá Hòa Bình, từ chỗ này, nhìn bao quát thấy cảnh sinh hoạt chợ, các khu phố xa gần, và nhìn về phía cánh rừng trông thấy mặt hồ nước và những hàng cây trồng quanh hồ. Mỗi đầu năm, có những ngày lễ hội và tổ chức cuộc đua xe đạp.

            Bến xe còn vắng, chưa mấy khách tới bến.    Quán ăn bình dân bày những bàn ghế thấp. Ngồi ở chiếc bàn ngoài gần lối đường đi, trong một vài giây im lặng, Thụy cảm thấy một nỗi buồn vô cớ cho mình. Với nỗi buồn ấy, Thụy  chợt nghĩ đến một bóng hình thiếu nữ.

            Người chạy bàn mang bánh cuốn và cà phê ra cùng một lúc đặt trên chiếc khay và bỏ xuống bàn.

            Khi cầm đũa ăn, Thụy hỏi:

-Lăng dạy bao nhiêu giờ một tuần ?

-Mười sáu giờ ?

-Mấy môn.

-Hai môn. Việt Văn và Công dân.

-Năm tới, xong Cử nhân có đi học tiếp không ?

-Tôi chưa biết. Có thể tôi qua thi bên hành chánh.

-Chọn ngành này là đúng. Làm luật sư, có tiếng nhưng cũng khó khăn.

-Tôi không ra Luật sư. Tập sư ba năm, lâu dài lắm.

            Bữa ăn sáng ngon miệng, một dĩa bánh vừa đủ no. Thụy  ăn nhanh, cầm thìa khuấy sữa trong cà phê và uống một hớp trước khi đốt điếu thuốc. Một giọng vui, Thụy  nói:

-Hồi đi học, tôi bị một trận đòn vì hút thuốc.

-Ở trường, bây giờ trường vẫn cấm học sinh hút thuốc.

-Tại sao Lăng không tập hút thuốc.

-Tôi có thử một lần, bị sặc khói, sợ quá nên thôi. Với lại, tôi yếu phổi.

            Khói thuốc nhẹ nhàng tan. Nhìn Lăng, Thụy có một ý tưởng thầm kín. Giọng thân tình, anh hỏi:

-Cô Mai Lê tặng sách là bạn học cũ ?

            Lăng nhìn lại Thụy dò xét, rồi nói:

-Mai Lê  dạy học ở đây, trường Bùi Thị Xuân.

-Tôi có đọc cuốn thơ Tâm Tình Hiến Dâng.

-Cô tặng cho tôi.

            Vừa gợi nhớ, Lăng vừa kể cho Thụy nghe lần đầu tiên gặp Mai Lê ở thành phố này.

-Quà kỷ niệm của tuổi trẻ, lúc nào cũng là những cuốn sách, tập nhạc.

-Mai Lê hát rất hay, giọng hát ngọt như Hà Thanh.

-Cô cũng người Huế.

            Lăng gật đầu. Ít nhiều trong câu chuyện Lăng kể, Thụy hiểu. Ngồi không lâu, hai bạn rời quán, đi xuống bậc cấp con đường dốc tới bến xe. Bến xe đông người, và có nhiều tuyến đường. Khi Thụy lên xe, Lăng còn đứng ở dưới nói chuyện với anh. Bỗng nhiên, cả hai cùng hẹn một kỳ nghỉ hè về thăm gia đình. Và, qua ý tưởng đó, Thụy nhớ nghĩ nhiều đến anh Nguyên, và cũng vừa cách đây chừng tuần lễ anh đã gởi một lá thư cùng cuốn sách cho Thiên Nga.

            Với những giây phút còn lại dành cho mình hạnh phúc về thành phố có một thời mình đã sống, Thụy bỗng nhận ra rằng, mỗi thành phố là một câu chuyện tình . Thế nhưng, anh không hề mang tâm trạng của một nhân vật tiểu thuyết.

            Có tiếng còi xe của người tài xế và thằng lơ xe vừa cất tiếng báo cho hành khách.

-Anh Thụy đi nghe.

-Ờ, đến hè gặp lại ở Sài Gòn.

            Xe vừa lăn bánh. Sau cái bắt tay, hai bạn còn đưa tay vẫy chào tạm biệt. Từ bến, xe chạy xuống phía bờ hồ rồi đổi đường chính đi ra ngoại ô.

            Đến quá trưa, xe về tới Nha Trang. Thụy  ghé quán ở trong khu chợ  Đầm ăn cơm trưa,  xong đi bộ về quân trường.

            Khi Thụy trở lại , số khóa sinh đến học đã khá đông nhưng chưa đủ. Vừa gặp lại các bạn tân binh cũ, lòng Thụy rất vui, anh em ngồi tụm năm tụm ba chuyện trò, kể lại những ngày những tháng đi ra đơn vị làm việc. Mỗi đứa mỗi chuyện, chuyện nào cũng thú vị. Và, nếu như đem góp lại những chuyện này mà viết nên hồi ký, bạn đọc sẽ nhận ra đó là cuộc sống thật tầm thường, nhưng vui và chân thực của những người lính trong thời kỳ chiến tranh.

            Thượng sĩ Trạch là người phụ trách nội vụ khóa sinh. Mỗi ngày, ông đều đến để điểm danh và kiểm tra vệ sinh doanh trại. Ông rất hài lòng vì anh em giữ gìn sạch sẽ trong và ngoài. Tối đến, có thể bừa bộn chỗ ăn ở, nhưng buổi sáng và trưa, nơi mỗi giường các chăn màn đều gấp nếp để ngay hàng thẳng lối.  Thường khi đến, viên Thượng sĩ trò chuyện với anh em, cho họ biết về lịch sử của quân trường, của binh chủng Không quân qua mỗi đời Tư lệnh, và những ngành nghề kỹ thuật ở Không quân. Một vài anh em hỏi về chỉ số ngành trong khóa học của mình, ông trả lời vắn tắt đây là ngành điều không ngoài mặt trận, và cho biết thêm, học xong ở đây, anh em sẽ về hết Sài Gòn và học thêm một khóa hai tuần nữa về các loại máy truyền tin. Như vậy, thời gian hoàn tất khóa học chuyên môn sẽ là bốn tháng.

-Bằng chuyên môn, phụ cấp được bao nhiêu Thượng Sĩ ?

-Bằng các anh, phụ cấp 400.

-Sure không Thượng Sĩ.

-Tôi nói mà các anh không tin à?

-Hoàn toàn tin tưởng.

-Chúng mày có biết lính không quân còn sướng hơn là quan nữa. Chữ thọ 100%.

-Nhưng mà nghèo, chẳng khá gì.

-Đừng có ham nghe các con.

            Với cái tuổi đi lính còn non choẹt, đám trẻ ăn nói văng mạng, nhưng vẫn còn là hình ảnh của những ngày tháng thơ ngây. Thượng Sĩ Trạch cũng đã có con trai lớn học ở trường trung học , nên chi trò chuyện với lính ông hay gọi thân mật là mày tao, có khi gọi chúng là các con của bố, và những lúc vui chuyện hả hê ông cười hết sức thoải mái. Ngày nào ông cũng đến, nên tình thân anh em khóa sinh với ông, bao gồm nhiều ý nghĩa. Khi ông đến, tụi trẻ mời thuốc ông hút, có lúc ông mời lại anh em, và khi có báo Lý tưởng về, ông mang tới chừng chục cuốn tha hồ chia nhau đọc.

            Một hôm, đem báo đến, ông Trạch tìm Thụy hỏi:

-Truyện ngắn đăng trong này có phải là mày không ?

-Đúng, thượng sĩ.

-Mày  có viết văn ?

            Thụy  kể lược qua thời gian được cộng tác và làm việc ở báo Lý tưởng. Thụy nhắc đến anh em trong tòa soạn, và cho ông Thượng sĩ hay, hết khóa học ở đây, rất có thể Tòa Soạn kéo anh về làm việc như cũ.

            Nhìn Thụy, ông nói:

-Hôm nào, tao  kể chuyện về đời quân ngũ của tao  rồi mày viết lại nghe.

-Vâng. Có dịp, Thượng sĩ kề chuyện cho nghe.

-Hay hơn hết là một buổi chiều vắng vẻ ngồi trong quán cà phê.

-Bên ngoài trời có mưa không ?

-Có mưa, chuyện càng hay.

-Vậy thì đợi một ngày mưa, buổi chiều bắt đầu với vẻ buồn nhớ và đẹp.

-Mày thật có tâm hồn nghệ sĩ .

            Một giọng vui, Thụy hỏi:

-Thượng sĩ có con gái không ?

-Có, nhưng còn nhỏ.

-Cô bé học lớp mấy ?

-Đệ Thất .

-Xinh không ?

-Mày thấy tao được trai không ?

-Rất là phong độ.

-Mày không biết, tao có dính một em đầm bên tây.

-Thượng sĩ đã qua Pháp học ?

-Mày tưởng tao là ổ mì hả. Bố đi qua Tây hồi năm 51, con ạ.

-Bố học ngành gì ?

-Cơ khí.

-Ở trường nào ?

-Trường Rochefort.

-Tôi nghe tiếng trường Salon.

-Trường đó là của Sĩ quan.

-Ờ, ờ của Sĩ quan. Nhưng đã nhảy chuyện hơi lung tung, hỏi thăm cô bé .

-Sao, mày muốn sao ?

-Ra nhà Thượng sĩ thăm.

-Dễ dàng con ơi. Nhưng mày cũng nên gắng lấy cái bằng Tú tài.

-Em có Tú Tài I rồi, được không ?

-Cố lên.

-Vậy là chờ cô bé lớn là được phải không ?

-Ông già mày đây.

            Thụy cất tiếng cười thật lớn. Ngày hôm sau, có niềm vui khôn tả đến với anh, đó là lá thư của nàng Thiên Nga gởi đến

            Huế , những ngày thu

            Thụy thân mến,

            Có ngạc nhiên lắm không khi nhận được thư này?  Chắc là không, vì khi Thụy đã gởi cuốn sách Tìm Hiểu Hội Họa đến cho tôi, thì hẳn nghĩ rằng, thế nào tôi cũng phúc đáp thư của Thụy .

            Cám ơn Thụy đã tìm ra được cuốn sách mà mình vẫn mong. Theo gói bưu kiện sách tới tuần trước, nhưng bận chuyện học nên đến hôm nay mới có được buổi rảnh viết thư này để cám ơn người bạn rất dễ mến ở xa.

            Anh Nguyên nhắc đến Thụy luôn. Anh ấy thật là yêu thương, nồng ấm khi nói cho mình nghe về người em trai của anh. Anh tả Thụy qua hình dáng và nói đến tính tình, nói về tâm hồn  làm mình cảm thấy mến, có thể hình dung ra Thụy , một người lính Không quân hào hoa, luôn có được nhiều thì giờ nhàn rỗi để đi dạo phố buổi chiều sau giờ làm việc, và một người cũng đào hoa, quen rất nhiều cô gái. Và, hễ quen được cô nào, thì cô ấy trở thành nhận vật trong truyện của Thụy. Anh Nguyên có vẻ rất hãnh diện về Thụy.

            Ngày đó Thụy về phép hai tuần lễ, thật là tiếc mình không ở Huế vào thời gian đó để được anh Nguyên giới thiệu cho gặp một văn sĩ trẻ, bút hiệu TL.

            Dù chưa gặp Thụy, nhưng một số truyện ngắn Thụy viết ra, mình có đọc. Truyện Thụy viết thật nhẹ nhàng mình rất thích, và qua lối kết cấu cùng văn phong mình nhận thấy truyện Thụy viết có sức truyền cảm người đọc. Lời khen thực tình đó nghe, không phải vì bạn tặng cho cuốn sách mà mình đáp lễ bằng lá thư hân hoan này để làm quà đâu.

            Hẳn chẳng cần nên  phải giải thích nhiều, nhưng chắc Thụy cũng biết mình và anh Nguyên quen nhau và hai người đã  có một thứ tình cảm đặc biệt trong sự cho và nhận một cách rất chân thành.

            Hôm ấy mình trở ra Huế, nghe anh Nguyên cho hay Thụy có về thăm nhà. Kỳ nghỉ phép vừa qua chắc vui lắm phải  không Thụy, rất tiếc mình và bạn không gặp nhau, nhưng ở phong cách người lính hào hoa trong binh chủng Không quân thì thế nào Thụy cũng gặp các cô gái Huế, mà chỉ cần gặp bằng mắt, nói bằng mắt thôi là nhà văn yêu mến của tôi dựng nên thành truyện rồi. Đó chính là cuộc sống lãng mạn của người nghệ sĩ.

            Mùa thu đang làm cho cảnh vật trở nên buồn, nhưng rất đẹp. Huế trong mùa thu, những buổi sáng sớm trời lành lạnh và có sương mù bao phủ trên sông. Với địa chỉ anh Nguyên cho mà Thụy gởi sách, đó là căn nhà mình mới thuê ở trong năm nay, năm trước chỗ ở  của mình rất gần nhà của gia đìnhThụy . Tình cờ, một buổi tối đi xem văn nghệ sinh viên, trong buổi hát ai cũng mặc đồ dân sự chỉ có anh Nguyên mặc đồ lính, trông là lạ, hay hay. Vậy rồi, tan buổi diễn về đến nhà, thì không ngờ nhà của anh Nguyên lại cạnh ngay bên nhà mình và cùng một lối cổng vào nữa mới chết chứ. Vậy rồi, ngay tối đó chàng và nàng quen nhau, hợp ý nhau, gắn bó với nhau. Và, nói cho Thụy biết, nhờ có mình nên anh Nguyên hay về nhà, chứ không ở lì trong trại lính như thể là lúc nào cũng nghe anh nói chuyện cắm trại 100% cả. Kể  ra, mình là một người bạn gái được anh nghe theo những lời khuyên nhủ và những lời tâm sự.

            Trong  lá thư  của Thụy, nơi gởi là một địa chỉ KBC ở thành phố Nha Trang. Như vậy, Thụy không ở Sài Gòn mà đổi ra ngoài đó hay là sao ? Anh Nguyên cũng ngạc nhiên, và ở nhà ngoài này, chưa có ai nhận thư Thụy cả. Nên viết thư nói rõ cuộc sống hiện tại của Thụy để gia đình yên tâm.

            Lúc này, Thụy có viết thêm được nhiều truyện không ? Ở ngoài này, các tuần báo chỉ có ít không nhiều. Hàng tuần, mình có mua báo Kịch Ảnh để xem những bài điểm phim, vì mình rất là ghiền nghe nhạc và xem phim. Sở thích của mình, đã lôi cuốn anh Nguyên theo luôn.

            Nói qua cho Thụy biết một chút về mình nghe. Tên mình thì Thụy đã biết rồi khỏi giới thiệu, gia đình mình ở Đà Nẵng, trên khu phố chính đường Hùng Vương, nhà ở gần chợ Cồn trông qua bên kia là rạp hát Thanh Hoa. Rạp hát này, một nửa cổ phần trong đó là của gia đình.

            Những năm ở Đà Nẵng mình học ờ trường Sao Mai, rồi hết trung học mình ra Huế vào trường Mỹ Thuật, năm nay là năm thứ hai. Vậy là mình đã có hai năm học ở Huế, năm đầu lớp dự bị, năm kế năm thứ nhất và giờ là năm thứ hai.

            Huế, thành phố thật dễ thương và hiếu khách. Những năm học ở Huế của Thụy chắc cũng thấy là Huế đẹp, thơ mộng, và biết bao nhiêu tà áo trắng thành phố này hẳn cũng làm Thụy ghi nhớ nhiều.

            Thời gian Thụy về thăm nhà, lúc ấy, mình cũng vào Đà  Nẵng sống với gia đình vui mấy tháng hè. Những ngày hè thật rộng rãi nên mình để nhiều thời gian vẽ tranh sáng tác. Kể ra mình chưa phải là họa sĩ, nhưng mình rất đam mê hội họa, cũng như Thụy yêu thích thú viết văn vậy mà.

            Một hôm đó, nhân được nghỉ ít ngày sau chuyến công tác dân sự vụ, anh Nguyên vào Đà Nẵng tìm đến nhà mình. Anh vào đúng lúc mình chuẩn bị ra Huế học, nên anh ở lại chơi và đợi mình cùng đi luôn. Ngày đi, thay vì bằng phương tiện xe đò cho nhanh, anh Nguyên lại đề nghị với mình là đi xe lửa để thong thả ngắm quang cảnh, và những cảnh vật gợi cảm hứng, ngồi trên con tàu đang chạy mình đã vẽ tranh. Thật là lý thú quá Thụy ạ.

            Ra Huế được ít hôm, vì trường chưa khai giảng nên anh Nguyên và mình hai người đi ra thăm làng quê bên nội cùng bên ngoại của Thụy. Quê nội của Thụy tuy nghèo nhưng có cảnh đẹp của biển vắng, của những đồi cát mênh mông trải dài, xa, rất xa về phía biển.

            Ở quê nội một ngày, mình lại theo anh Nguyên thăm quê ngoại. Quê ngoại xa hơn, từ Diên Sanh lên xe lửa ra Đông Hà, lúc xuống ga đón xe lam về thị xã xa chừng hai cây số.  Đông Hà là nơi anh Nguyên và Thụy trải qua nhiều năm thời thơ ấu. Anh Nguyên dẫn mình đến thăm lại căn nhà cũ của gia đình, ở căn nhà này, trong một truyện ngắn Thụy đã nói đến và mình có đọc. Nhà cũ vẫn còn, người thuê nhà là người cậu bà con bên ngoại của Thụy . Anh Nguyên vào thăm cậu mợ Tuyên giới thiệu mình với hai ông bà, rồi anh xin phép người cậu cho anh đưa mình đi thăm lại ở bên trong và ngoài căn nhà cũ.

            Khi hai người trên con đường ra bến đò dọc, anh Nguyên kể cho mình nghe về  trận cháy kinh hoàng thiêu đốt hết cả thị xã vào năm 1953, trước một năm đất nước bị chia cắt. Giọng nói xúc động làm anh khóc khiến mình thấy chạnh lòng. Anh nói căn nhà khi chưa bị cháy đẹp lắm, ngói  mới đỏ rực, và trong nhà có nhiều phòng, có căn gác phía trước và ở đằng sau nữa. Thời kỳ đó, mẹ anh buôn bán hàng vải, gia đình thực sự có  cuộc sống sung túc hơn gấp mấy lần bây giờ.

            Từ nhà ra bến đò không xa lắm.. Vừa đúng lúc tan phiên chợ, đò dọc nhổ sào rời bến. Đây là lần đầu tiên mình đi đường sông và đi đò. Thật là vui Thụy ạ. Đúng, mình cô tiểu thư thành thị về thăm quê nên nhìn quang cảnh những làng quê qua dáng màu khói lam, và ẩn đằng sau lũy tre xanh,  thật là êm đềm như bài hát. Ngồi bên anh Nguyên trên mạn thuyền, tay đặt lên vai anh làm điểm t?a, bên dưới dòng nước con đò lướt trôi, sao mình có cảm giác cuộc đời quá nhẹ nhàng. Và trong cảm giác ấy, khiến mình b?ng nhớ đến những câu thơ hay của nhà thơ Huy Cận. Nơi đây, cảnh làng quê hai bên sông, có những bãi cát, những cánh chim trời, không khí ồn ào buổi họp  chợ, rất là tương hợp với từng câu trong bài thơ Tràng giang của thi sĩ.

            Thỉnh thoảng, sóng nước vỗ mạnh làm con đò chòng chành, nhưng mình không sợ đâu, vì mình bơi rất giỏi, những ngày hè đi tắm biển mình bơi rất xa, không chắc bạn bơi đuổi kịp đâu.

            Cũng hơn một giờ đồng hồ thì đò cập đến bến làng quê. Khi theo hành khách xuống đò, chỉ có mình và anh Nguyên là dân ở tỉnh còn những khách khác là người trong các làng quê lân cận. Từ bến, những người khách kia vượt qua bãi dứa lên làng trên,  còn mình và anh Nguyên theo con đường mòn đi qua đình làng, qua cánh đồng ruộng, và khi thấy ngôi nhà ngói đầu tiên xuất hiện, anh nói đó là căn nhà của ông bà ngoại. Tự dưng, mình thấy nôn nao lạ thường. Tới gần cổng nhà, bàn tay mình ở trong tay anh Nguyên. Rồi bất ngờ quay đầu lại, đứng trước cổng hai người hướng mắt nhìn qua những đồng ruộng và nhìn về phía con đê, trên con đê ấy, anh Nguyên nhớ tới những ngày xưa của người mẹ,  những ngày ấy vào mỗi buổi chiều anh trông thấy mẹ xuất hiện trên đường đê với gánh hàng nặng trĩu trên vai đang trở về nhà. Về quê nội, cũng như là quê ngooại, mình thấy trong truyện Thụy viết luôn  có nhắc đến , giờ đã tìm đến nơi đây, lòng thật quá đỗi yêu thương.

            Xuân Thành là tên làng ngoại. Quê ngoại của Thụy thực sự giàu có, không chỉ nhà ông bà ngoại thôi mà ở các nhà bà con và nhà dân cư trong làng nữa. Cậu Bính  là con nuôi của ông ngoại. Khi anh Nguyên giới thiệu mình, cậu khen quá làm mình cũng thẹn thùng, thế nhưng mình nhận ra đó tình thân quí mến rất thực.

            Nhà ông ngoại quá lớn và còn để lại nhiều thứ quí giá, trong đó, có bàn ghế xưa, tủ chè đựng chén bát, trướng liễn và những kỷ niệm, bút tích của ông ngoại thời đi làm quan. Có một tấm ảnh nhỏ chụp mấy anh em có anh Nguyên, Thụy, Lăng và các con cô Quyên.

            Bữa ăn với gia đình cậu Bính  làm mình cảm động. Sau bữa ăn, anh Nguyên đưa mình ra giếng nước rửa mặt, rồi đi thăm vườn, anh đã hái cho mình đủ thứ trái cây thơm ngọt, đầy cả một túi.

            Ngồi nghỉ ở nhà ông bà ngoại cũng đến hai tiếng , sau đó, anh Nguyên dẫn mình đi thăm những người bà con trong làng.

            Khi mắt trời sắp lặn, anh Nguyên và mình về lại nhà chào gia đình cậu Bính xong đi bộ qua làng Giáo Liêm, ở đó có bến xe lam rước khách, và đưa thẳng vào đến tỉnh Quảng Trị. Vì quãng đường không xa, nên từ ngoài đó vào tới Huế chỉ mất gần hai giờ đường.

            Tối hôm đó, anh Nguyên và mình không ăn cơm nhà, tìm đến tiệm phở ăn một bữa rối rất ngon.

            Thư viết cho Thụy đọc, mình kể nhiều chuyện linh tinh quá phải không ? Với tình thân, mình viết dài để Thụy đọc cho vui. Chưa gặp gỡ, nhưng có thấy trong ảnh chụp gia đình, mình đã hình dung được và hiểu rằng Thụy là một con người thật dễ mến. Hơn vậy nữa, bạn là một nhà văn, trong đó truyện bạn viết mình rất thích.

            Khi nào đến kỳ nghỉ phép về thăm nhà, tin cho mình hay.

Thân mến,

Thiên Nga

 

                                                           XII

                                                                  

 

 

            Những ngày vắng Nguyên, buổi tối Nga chăm chỉ học bài thi với hai môn quan trọng là Pháp Văn và Triết. Ở môn tiếng Pháp, nàng học các bài luận mẫu trong sách, và cứ mỗi tuần, lấy theo đề hướng dẫn nàng làm riêng một bài luận theo cách viết của mình. Mỗi câu, nàng sử dụng văn phạm bằng các thì thông thường để diễn đạt ý tưởng rõ ràng, không sợ nhầm lẫn. Về Triết, nàng học rất kỹ phần giáo khoa môn Tâm lý để  làm bài luận văn.

            Tuy sống một mình trong căn nhà thuê rộng rãi, nhưng Nga luôn cảm thấy thật dễ chịu. Sau hai giờ học thường lệ như là ở lớp, Nga để sách lại trên bàn lặng lẽ đứng lên đến mở chiếc tủ lạnh nhỏ tìm một quả chuối và lấy ra chai nước uống.

            Nàng ngồi ăn, trong tâm trí cũng nghĩ ngợi nhiều. Khi nhớ về cô em gái, nàng có cảm giác hai bàn tay mở rộng như một chiếc khăn lớn, và lúc đó, nàng tìm thấy từng món đồ chơi bày biện đấy là những kỷ niệm quí giá trong thời bé dại của  Mỵ Châu. Ngồi bên cạnh cô em gái trong hồi tưởng, hai chị em chuyện trò, và thời gian bên nhau này, hai người cùng nghe tiếng quả lắc đồng hồ treo tường đếm nhịp.

            Rồi, từ hơn một năm qua, hình ảnh của Nguyên tràn ngập tâm hồn nàng. Khi nào có gặp nhau, bên nhau, là hai người cùng mừng vui. Tình yêu làm cho những tiếng nói và niềm vui sáng lên trong những nụ cười. Có Nguyên, Nga được thêm một người anh giúp sức che chở Mỵ Châu. Có Nga, Nguyên tìm ra được ý tưởng thành phố này là nơi chốn riêng biệt của hai người. Tình yêu, mình đem ra cho và rồi nhận lấy là hạnh phúc thật tốt đẹp của thời gian. Nguyên luôn nhận ra mình đến với Nga bằng ánh mắt của nàng. Nga có đôi mắt rất đẹp, rất buồn, như là màu ánh sáng êm dịu nhất trong buổi chiều. Và, sự xuất hiện của Nguyên, anh thường đến tìm người yêu với bóng dáng một người ở xa trở về dưới cơn mưa tầm tã. Về đêm, mối tình trở nên huyền nhiệm, bao la. Buổi đầu tiên gặp gỡ, hai người ngồi trên ghế đá nhìn ánh trăng đêm tỏa xuống dòng sông. Từ đó, mỗi mùa trăng, hai người luôn có một câu chuyện tình thật là thơ mộng. Và, từ hôm Nga dọn đến chỗ mới này, những đêm có trăng, Nguyên và người yêu thường đi bộ chuyện trò bằng những tiếng và những lời của ánh trăng sáng, đến tối khuya về nhà, họ ngồi bên nhau một lúc nơi bậc thềm tam cấp trước cửa nhà trước khi rời nhau.

            Ngày lễ trong tháng mười một này rơi vào thứ sáu, như vậy, cộng thêm hai ngày cuối tuần học sinh các trường có được ba ngày nghỉ thoải mái. Vào dịp này, học sinh, sinh viên ở các tỉnh xa thường về thăm nhà. Buổi sáng, Kim đến tìm Nga với tin buồn là cô sẽ từ giã Huế  theo gia đình vào Sài Gòn. Kim sẽ bắt đầu nghỉ học sau kỳ lễ này, cô hứa với Nga, sẽ có thư từ liên lạc với nhau.

            Nga mời bạn đi uống cà phê. Hai người lên xe buýt xuống phố. Có một quán cà phê nhạc gần bờ sông. Cà phê ở quán này rất ngon, không khí thân tình, và giá một ly rất vừa túi tiền cho học sinh, sinh viên.

            Bên dưới dòng sông, thuyền bè qua lại thong thả. Ở một góc bàn phía ngoài, chỉ có hai cô gái ngồi. Ly cà phê, dĩa bánh bày trên bàn. Nga lấy một chiếc bánh mời bạn, xong đến nàng. Nga ân cần hỏi cô bạn về chuyến đi, về nơi chốn ở sẽ đến. Kể ra, đôi bạn cũng khá thân khi gặp nhau từ năm đầu tiên ở trường Mỹ Thuật. Lớp học có hai mươi sinh viên, và chỉ có hai cô gái, nên chi, họ cần đến sự thân thiện để giúp đỡ nhau. Năm dự bị , môn học chính là vẽ tượng, giờ học môn này mỗi sinh viên lần lượt thay nhau lên đứng làm người mẫu trong nửa giờ để cho các bạn khác được nhìn, quan sát, và vẽ lên giấy. Ít ngày sau trong tuần lễ nhập học, Nga đã là tên gọi thân thương, và trở nên một bức tranh quí hiếm của trường Mỹ Thuật mà từ trước cũng như về sau này, nơi đây, vẫn chỉ có nàng thôi.

            Ngôi trường và kinh thành cũ quanh đây, khi nàng xuất hiện đã làm thay đổi hẳn. Nàng in dấu lên từng viên gạch những bước chân của nàng. Và, bạn cũng thấy, nàng cho bạn những ý tưởng mới mẻ về sự hòa hợp giữa quá khứ và cuộc sống hiện tại. Những buổi ở lớp học, dáng bước đi của nàng luôn tạo nên một sự yên bình. Vẫn gương mặt đẹp ấy, nhưng mỗi mùa bạn sẽ nhìn thấy khác đi. Trên đôi mắt nhung lụa của nàng, bạn nhớ ra từng chiếc áo dài nàng đã mặc, màu hoa cúc mùa xuân, lan trắng mùa hạ, mây tím mùa thu, và xanh rêu là vào lúc mùa đông về.

            Kim cũng có một đôi nhận xét làm Nga hài lòng. Kim cho rằng, đối với Nga tình yêu nàng tìm kiếm phải đẹp hoàn hảo như nghệ thuật trong hội họa. Thiên Nga cũng hay nói với cô bạn thân về Nguyên, những đặc điểm ở chàng mà nàng yêu thích.

            Ngồi chuyện trò một lúc, hai người rời quán dạo phố. Thành phố thật vui vào ngày lễ, trên đường Trần Hưng Đạo, đông người đi bộ và người ta dựng xe đạp, xe gắn máy sát bên bờ đường. Dọc theo đường này những cửa hiệu buôn bán nằm sát liền nhau. Kim đề nghị Nga tới tiệm ảnh để chụp vài tấm hình làm kỷ niệm. Nga đồng ý, hai người đến cửa hiệu Kinh Đô,  vào bên trong sudio, đứng chụp chung bốn kiểu ảnh.

            Khoảng gần trưa, Nga và Kim chia tay. Về nhà, sau bữa ăn qua loa với gói mì nấu Nga lên giường nằm nghỉ đọc tờ báo Kịch Ảnh. Trên tờ báo này, có rất nhiều bài điểm phim, và phim ảnh là một món giải trí của nghệ thuật Nga yêu thích nhất. Năm đầu tiên ra Huế, hai cuốn phim để lại cho nàng một nỗi nhớ khó quên, đó là phim Valse dans  l'ombre và Autant en emporte le vent, cả hai phim cùng một nữ tài tử nổi tiếng người Anh Vivian Leidge đóng. Và, bạn biết không nàng tiểu thư Thiên Nga không chỉ có năng khiếu về họa mà còn ở môn Kịch. Nàng diễn rất thành công vai Tây Thi, trong vở kịch Cô gái nước Việt.

            Tờ báo buông rơi, nàng thiếp ngủ lúc nào không hay. Khi thức dậy, đã hơn một giờ trưa, Nga thong thả rời giường đi ra nhà sau ngồi xuống bể nước rửa mặt, xong trở lên nhà thu xếp quần áo bỏ vào túi xách. Đi xa, Nga rất ít mặc áo dài, nàng thường mặc áo sơ mi, quần tây cho tiện việc di chuyển trên xe tàu.         

            Mới đó, đã hai tháng Nga vắng nhà. Huế -Đà Nẵng, xa cách hơn một trăm cây số, chỉ mất ba giờ xe nên đi về trong ngày rất dễ dàng. Nhưng bạn sẽ luôn có cảm tưởng là hai nơi thật xa nhau, khác biệt nhau khi nhìn thấy biển và những con đèo xuôi về phía Nam.

            Nga đến Huế một mình. Và, dù biết nàng không sinh trưởng ở đây, nhưng thành phố này đã là người bạn rất thân thương của nàng. Huế, dành cho Nga mỗi ngày một phong cảnh. Ở từng phong cảnh đó, bạn luôn tìm thấy nàng nổi bật qua bóng dáng chiếc áo dài. Với nàng qua áo tím, mái tóc mượt mà yêu thương ôm ấp trên lưng áo là hình ảnh của những đám mây trở về trong mùa gió. Khi hình ảnh nàng hiện lên trong chiếc áo trắng, bạn như trông thấy rõ trên  con đường nàng đi một mình lung linh bông hoa phượng nở đỏ rợp khung trời. Thiên Nga là tình khúc Hạ trắng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn,  và nàng cũng là của mùa thu với hương thơm hoa lan ngào ngạt. Thiên Nga đã góp lại những hình ảnh đẹp của mình rất nhiều. Những hình ảnh này mãi mãi là thời thiếu nữ hạnh phúc của nàng. Bên cạnh mỗi tấm ảnh xếp trong cuốn album , nàng ép một cánh hoa pensée. Nàng mong đợi, tìm ai, yêu ai, bạn chưa hề rõ. Nhưng với Huế, bất cứ  là dòng sông, chiếc cầu, mái nhà, trường học, từng sự vật ấy luôn nhận ra có sự hiện nhữu của nàng.   

            Nga chỉnh lại sợi dây đồng hồ đeo tay rồi đứng lên. Nàng đóng cửa sau, một thoáng nhìn lướt qua phòng sinh hoạt của mình, nàng đến giường kéo sửa lại chiếc gối để ngay ngắn xong đi ra phòng khách. Vừa mở cánh cửa, nàng trông thấy cả dòng sông đang ngập nắng, phía bên kia ngôi trường, những cửa sổ các lớp đều mở, nhưng bên trên tầng lầu hai các phòng học đều trống vắng. Hôm nay là ngày nghỉ lễ của học sinh.

            Với cái túi nhỏ đeo vai, túi xách cầm bên tay trái, Nga chậm bước đi ra phía cổng. Nàng dừng lại dưới bóng cây chờ xe. Vừa lúc ấy, từ dưới bến sông có một người đàn bà trẻ ôm thau quần áo giặt đi lên. Nàng biết người đàn bà đó là ai, nhưng không quen thân nên không cất tiếng hỏi chào. Tuy vậy, trong một thoáng, mắt hai người nhìn nhau.

            Có một lần gặp người đàn bà này, Nguyên nói với Nga:

-Chị ấy là xướng ngôn viên.

-Giọng Bắc hay Huế.

-Giọng Bắc. Những bài anh viết hồi đó, đều là giọng đọc của chị ấy.

            Nga cười hỏi:

-Khi nghe giọng cô xướng ngôn viên này đọc, anh cảm động không ?

-Anh rất cảm động khi được nghe bài viết đầu tiên của mình.

-Thời anh làm việc cho Đài lâu không ?

-Năm anh còn học ở đây. Thời đó thi tuyển phóng viên, chỉ mình anh đậu.

-Giỏi quá hả.

            Nguyên kể lại hôm dự thi tuyển có mười bạn, đề thi là  tin thời sự về biến cố cuộc đảo chánh 1/11/63 được đọc trong 5 phút, anh  là người viết đầy đủ, vừa dành các sự kiện cho bản tin, vừa sống động như một bài phóng sự.

            Từ xa, người xích lô thấy một cô gái đứng dưới bóng cây, anh biết nàng đợi xe nên đã tắp vào bên đường khi tới gần. Anh ta hỏi ngay:

-Đi bến xe nào cô ?

-Bến Đông Ba.

            Khi yên chỗ ngồi, Nga để túi xách ngay dưới chân.

-Cô về thăm nhà ?

            Nga hỏi lại khi nghe giọng nói:

-Anh cũng người Quảng ?

-Dạ phải.

-Gia đình anh ở ngoài này ?

-Dạ phải.

            Lên phía cầu, xe rẽ trái và anh xích lô bắt đầu đạp nhanh. Nga vẫn thong thả để mắt nhìn quang cảnh hai bên đường, bên phải là các công sở, trường học, bên trái có công viên và dòng sông. Trên con đường, những hàng cây nối dài , thẳng tắp. Những lúc sau này, nghĩ nhiều đến Nguyên nên mỗi chuyến về thăm nhà rồi trở ra lại mùa học, Nga không còn có ý tưởng của một người biết mình sắp đi xa hay đang trở về nữa. Nguyên đang là một khung cảnh trong ký ức nàng.

            Vừa tới bến, Nga là hành khách chót lên xe. Và chỉ ít phút sau, xe rời bến. Ngồi bên cửa, Nga lại nhìn thành phố qua những con đường bên này và bên kia sông Hương. Với hai năm học vừa qua, Nga đã quen Huế và rất yêu Huế. Nhưng lúc này, Nga chợt mang nỗi buồn xa cách một người bạn. Lớp học năm thứ hai còn mười bốn người, Nga và Kim là con gái. Bây giờ Kim đi, đơn độc mình Nga, thiếu vắng cô bạn làm Nga lo ngại. Nàng luôn có cảm giác sợ, dù rằng, trong lớp anh em nam sinh viên tỏ ra rất thiện cảm với nàng. Người nào cũng nhìn nàng với cặp mắt trìu mến, và rất muốn được có sự săn sóc , giúp đỡ nàng. Những buổi học trong lớp, cũng như các buổi học vẽ ngoài trời, khi đi xa, đám coi trai hết sức là lăng xăng ai cũng thích xách giá vẽ và cầm hộ cho nàng các thứ dụng cụ khác để nàng được đi thảnh thơi, được chuyện trò một cách thoải mái. Cố nhiên, anh nào cũng mong có một chỗ ẩn núp trong cặp mắt, trong con tim của nàng. Và bạn đừng có tưởng cô Thiên Nga chỉ là một cô gái dịu dàng, e thẹn đâu, cô cũng có sự đùa giỡn , chuyện trò rất thông minh, và thật dí dỏm trong những câu trả lời với bọn con trai yêu thích, tán tỉnh mình. Đến các ông thầy trẻ, cũng yêu mến nàng, và khi vẽ tranh chân dung, các vị này luôn vay mượn người mẫu là nàng để vẽ. Nhưng ai cũng biết, người yêu của nàng là Nguyên. Những người thầy dạy vẽ ở trường Mỹ Thuật đều là những người bạn thân của Nguyên. Và, họ cũng nhận ra rằng, cặp tình nhân Nga và Nguyên rất đẹp đôi. Huế, thành phố của giới trí thức khoa bảng,  nhưng không hẳn rằng các cô gái của thế hệ mới ở đây, dễ bằng lòng đón nhận cuộc hôn nhân với những người có bằng cấp, hay giàu có của cải, vật chất. Nguyên không có bằng cấp Đại Học, nhưng trong quân đội anh là Sĩ quan trẻ rất xông xáo, nhanh nhẹn, trước khi nhập ngũ anh tạo được tên tuổi mình là một ký giả có tài năng và nhiều kinh nghiệm.

            Trên chuyến xe đang chạy, ngồi bên cửa nhìn ra hai bên đường, Nga cảm thấy như qua từng phút giây cuộc đời của nàng có những đổi thay lạ lùng, lúc nó đến như một phép thần tiên, lúc nó chợt hiện lên một bóng đen kỳ lạ gây cho nàng nỗi lo âu về ngày mai.

            Nga vẫn luôn lo âu khi nghĩ về Nguyên. Nỗi lo ấy, đầu tiên là mẹ nàng. Người mẹ nào cũng hết lòng lo lắng cho con, muốn rằng, con mình được chỗ nương nhờ tốt đẹp. Từ lâu nay, mẹ nàng  đã gặp nhiều người đến mai mối, dạm hỏi con gái của bà cho những người con hoặc bà con của họ. Những người trẻ này về học vấn và công danh thực sự thành đạt , đó là Bác sĩ, Kỹ sư, Dược sĩ, Giám đốc ngân hàng,  không có ai trong đó là quân nhân cả. Nhưng đấy  là về danh vọng và vật chất, về tình yêu, hẳn quan niệm của bà khác hẳn cô con gái. Nga biết mình có nhan sắc, nàng có thể lấy chồng giàu sang và được sống, được chiều chuộng  như bà hoàng, nhưng nàng không mong, cũng chẳng màng một hạnh phúc quá dễ dàng như vậy. Nàng và Nguyên quen nhau trong một sự tình cờ ngộ nghĩnh ở quán cà phê,  anh đã yêu nàng, bằng tình yêu thật đơn sơ , chân thật. Và, những ngày tháng đã qua rồi, Nguyên dành cho Nga được một tình cảm vừa là của một người tình, vừa là sự gói ghém một tấm lòng quê hương trong đó nữa.

            Một trạm gác bên ngoài ga Lăng Cô , những xe đến đây thường chạy chậm, có xe ngừng hẳn tài xế coi lại dầu nhớt, nước máy, trước khi lên đèo. Và, có khi, hành khách được nghỉ chừng năm, mười phút mua hàng quà. Những người đàn bà, những đứa nhỏ từ bên phía nhà ga đua nhau chạy băng qua đường để bán hàng quà mỗi khi thấy có xe ngừng. Đó là loại xe khách lớn, các xe nhỏ đi suốt, thường chạy luôn.

            Nga chợt có cảm giác không khí lạnh thấm đang thấm qua người. Hải Vân, tên con đèo huyết mạch rất thân thương với người  trong vùng đất của hai xứ Huế và Quảng. Hai mươi bốn cây số, chia đôi mỗi xứ một nửa chặng đèo, và giây phút luôn reo một niềm vui, đó là lúc tới giờ xuống đèo. Khi những tiếng còi xe vang lên mời gọi hành khách, khi một chiếc xe đầu rời đỉnh đèo, những xe khác nối theo, lúc ấy, hành khách bỗng cảm thấy lòng mình rộn rã. Quê nhà, gia đình, bạn bè, cảnh sinh hoạt quen thuộc đều cùng chung một sự đợi mong.  Phía Nam của Hải Vân là Đà Nẵng, thấp thoáng trong ánh nắng, trong cảnh trời may, thành phố nơi xa ấy dần hiện lên. Phía Bắc của Hải Vân là Huế, khi xe vừa xuống hết đèo, lòng mỗi người nhận ra ngay được tiếng nói thân thuộc của xứ mình.

            Những chiếc xe sau cùng vừa dừng ở đỉnh đèo, đúng lúc có hồi kẻng báo giờ đổ đèo. Ngồi ghế bên cửa, Nga thấy dễ chịu với cảm xúc của mình. Nàng đi loại xe nhỏ, nên qua từng đoạn dốc đèo, xe chạy thật êm, ngon trớn. Lúc này, trong xe hành khách quen lạ cùng lúc nổi lên tiếng chuyện trò râm ran. Và, ngước nhìn qua vùng sáng của mây và nắng giữa bầu trời, phía nơi đó, mọi người đều biết đó là thành phố Đà Nẵng. Rồi tiếng nhạc trong radio vang dậy nghe thúc dục, rộn rã niềm hân hoan.

            Hết con đèo, đoạn đường còn lại vào thành phố khoảng hơn mười cây số. Khi xe đưa khách về tới, rẽ vào bến đậu, trong quang cảnh buổi chiều, trời vẫn còn đầy nắng.

            Sự tình cờ Nga gặp anh Kiêm.  Anh lái xe nhà binh đưa một người bạn đi chuyến xe về Sài Gòn. Gặp Nga, anh rất ngạc nhiên, và rồi sau khi chia tay với người bạn, anh bảo  Nga lên xe đưa về nhà. Anh Kiêm là người con bà dì Thân , chị đầu của mẹ nàng.

            Từ bến xe về nhà Nga nằm trên phố Hùng Vương không đến mười phút. Khi xuống xe, Nga mời ông anh họ vào nhà chơi, nhưng anh Kiêm có việc phải trở lại đơn vị.

            Bên trong nhà, Mỵ Châu bỗng vui lên khi nghe tiếng chị Thiên Nga, cô biết ngay, người chị yêu dấu của cô đã về thăm nhà. Bà mẹ nói:

-Má tưởng mai con mới vào ?

-Hôm nay là ngày lễ nên con vào sớm.

            Thiên Nga đi với mẹ vào thăm Mỵ Châu. Vừa trông thấy chị và mẹ, đôi mắt Mỵ Châu mở tròn xoe. Mời bạn tới đây gặp Mỵ Châu, nhìn cô gái đôi mắt mở to, gương mặt dịu hiền, bạn cứ ngỡ cô bé là thiên thần.

            Vui và cảm động khi gặp lại cô em gái, Nga khóc. Mỵ Châu cười:

-Chị Thiên Nga về nhà là em vui. Chị đừng khóc.

            Với nụ cười còn thấm ướt nước mắt, Nga tới gần ngồi xuống bên Mỵ Châu.

-Em nghe nhạc ?

-Em mới nghe được bản Chiều tà thật hay.

-Chị rất thích bản này.

            Rồi Nga mở túi xách, lấy ra những thứ quà mua ở Huế.

-Ngày mai chị có đi đâu không ?

-Không, chị luôn ở bên em .

-Ngày mai em ngồi xem chị vẽ tranh.

            Nga  gật đầu, nàng vội đứng lên kéo bức màn nhìn qua phòng vẽ của nàng. Tất cả đều được giữ nguyên. Căn phòng này dành riêng cho Mỵ Châu và Thiên Nga . Hai chị em bên nhau để có những lời tâm tình. Và, mỗi ngày, Mỵ Châu đều có mẹ vào thăm.

            Ngồi với em một lúc, Nga lên nhà trên gặp ba nàng đang chơi cờ tướng với một người bạn. Nàng lên tiếng chào, sau đó đi về phòng mình.

            Bữa ăn tối, có Nga về cả nhà rất vui, trò chuyện râm ran. Rồi tiếng bà mẹ hỏi:

-Cậu Nguyên lúc này ra sao ?

-Dạ, anh đi công tác. Có đoàn văn nghệ ở Sài Gòn ra trình diễn cho lính tiền đồn.

-Cậu  có hay về thăm con không ?

-Dạ có, anh về luôn, đang giúp con học luyện thi.

-Học cả hai bên có thì giờ không ?

-Có. Những tối không trực, anh Nguyên về giúp con học bài.

            Ngừng một lát, Nga tiếp lời:

-Anh rất muốn con lên Đại Học để lấy chứng chỉ. Khi ra trường đi dạy, ngoài môn vẽ ra, con có thể dạy thêm những môn khác nữa.

            Bên kia bàn, hai cô em của Nga đang chuyện trò sôi nổi về một cuốn phim vừa xem ở rạp Thanh Hoa. Đó là phim chưởng Tiếu Ngạc Giang Hồ phỏng theo tiểu thuyết Kim Dung. Loại tiểu thuyết này, Nga và Nguyên đều không đọc. Vốn yêu thích tiểu thuyết nhẹ nhàng, Nga là độc giả trung thành của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Hai nhân vật Nga yêu thích là Loan ở cuốn Đôi Bạn và Thu trong BướmTrắng. Nhưng hay nhất, với Nga, vẫn là cuốn Hồn Mướm Mơ Tiên.

            Sau bữa ăn tối , trong nhà đi nghỉ, chỉ mình Nga ngồi nói chuyện riêng với bà mẹ. Một cách nhẹ nhàng, người mẹ thông báo :

-Ông bà Hiếu tới đây chiều hôm qua.

            Nga đáp lời ngay:

-Ông bà Hiếu đến thăm gia đình là hảo ý của họ. Nhưng chuyện của con, má đừng để họ bàn tới.

-Đó là gia đình bề thế mà con.

            Nga nói:

-Con biết. Anh Nghĩa con trai của ông bà Hiếu là Bác sĩ. Rồi bà Châu, lại cho người mai mối với mẹ xin con cho ông Dược Sĩ. Đâu phải có địa vị và bằng cấp đem lại hạnh phúc cho con.

-Nhưng cuộc sống con sẽ được đảm bảo, bà mẹ nói.

-Rồi đây, con cũng phải đi làm để sống chứ đâu nhờ vả ai được.

-Nga, má rất muốn con nghe lời má.

-Không bao giờ con dám cãi lời má. Nhưng cho cùng, con vẫn thấy anh Nguyên và con rất hợp tính tình với nhau. Với lại, con đang học, đến năm sau mới ra trường.

            Người mẹ nhìn con gái của mình. Hình ảnh cô con gái yêu đã làm bà nhớ lại nhiều, rất nhiều kỷ niệm giữa bà và người chồng bây giờ. Ngày xa ấy, ở một ngôi trường trung học thành phố Hội An, ông Tri, từ miền Nam ra đến trường bà đang dạy nhận nhiệm sở. Và, trong buổi đầu tiên gặp ở văn phòng giáo sư, ông Tri đã bị tiếng sét tình ái trước một vẻ đẹp duyên dáng của bà Thu. Ngồi ở bàn khách trò chuyện, ông Tri uống chén nước trà của bà Thu  mời. Cử chỉ lịch thiệp và vẻ đoan trang của bà làm ông Tri cảm mến. Ly nước trà, lúc đưa lên miệng uống mắt nhìn qua bà Thu, ông cảm thấy hương vị trà thật thơm.

            Đã khuya, hai mẹ con chia tay về phòng nghỉ. Nga còn đọc sách trong đêm khuya đến hai giờ sáng.

            Về với gia đình, không khí thật ấm cúng, nhất là những gì Nga làm em Mỵ Châu vui bên mình. Nhưng ngày nghỉ rồi cũng qua nhanh.

            Trưa chủ nhật, sau bữa ăn Quỳnh lấy xe gắn máy đưa chị Thiên Nga  ra bến xe đi Huế.

            Nàng trở lại căn nhà trọ của mình, xa lạ một chút, nhưng rồi trở nên quen như mọi ngày.

            Nguyên rất nhớ đến Nga, anh đang mong ngày về. Năm đêm trình diễn của đoàn hát Sài Gòn rất thành công, tạo được ấn tượng tốt. Mỗi Tiểu đoàn được xem một đêm trình diễn đủ các thể loại ca nhạc kịch, rất vui, sống động, và anh em văn nghệ rất sung sướng cảm động trước tình nghĩa của các vị Tiểu đoàn trưởng và binh lính. Những cái bắt tay ấm áp, những bức ảnh chụp với của một vài người lính với các ca sĩ mến mộ, những câu chuyện về chiến trường, những bài nhạc và tiếng đàn cùng hòa nhịp, bao nhiêu đó, đoàn hát chất đầy kỷ niệm tình yêu thương của những người lính ngoài chiến trường. Sau các buổi dành cho lính, đoàn cũng dành một buổi hát cho dân làng, và tập trung ở một địa điểm sân vận động nằm trung tâm các làng Hải Phượng, Phong Hoa, và Yên Hồ. Từ trẻ em đến các cô gái, những người mẹ, cả những người già đều cảm thấy vui, hạnh phúc được một đêm nghe hát. Mỗi bài hát kết thúc, tiếng vỗ tay vang dội cả góc trời, và rồi từ rừng núi bao quanh, gió thổi những âm vang ấy trôi giạt về gây một nỗi nhớ thật thương yêu, đậm đà. Và, đến những màn kịch vui, ai cũng cười chết bỏ.

            Nguyên luôn là người ra đứng trước máy vi âm nói lời giới thiệu trước khi đoàn hát khởi sự cho chương trình với đề tài Hát cho những người lính và những người dân vùng hỏa tuyến. Những lời mở và khép của Nguyên rất là cảm khái, tất cả  khán giả đều lắng nghe. Ở đêm chót hát cho dân làng nghe, đứng ở bên ngoài, nhìn bóng dáng, những khuôn mặt người dân hạnh phúc với đêm vui trong giá rét, Nguyên chợt nghĩ đến Thiên Nga và cảm thấy yêu nàng, nhớ nàng hơn lúc nào hết. Thiên Nga là hình ảnh của một tiểu thư, đã quen sống với thành phố, nhưng nàng là một cô gái có tấm lòng rất là nhân hậu. Nguyên không những yêu thích vẻ đẹp duyên dáng của Nga qua hình ảnh dịu dàng của một thiếu nữ, mà anh yêu thích hơn hết là cái vẻ buồn vui hòa dịu thật đẹp trên cặp mắt của Nga. Nga cũng có một giọng nói nhẹ, rất êm ái, và qua cách diễn tả một câu chuyện, giọng nói của nàng nghe như đó là sự dỗ dành, sự ràng buộc các mối liên hệ trong cuộc sống. Và rồi Nguyên tự nhủ, ngày về, Nguyên sẽ kể lại hết cho người yêu mình nghe về một chuyến đi theo đoàn hát.

            Từ tiền đồn, có bốn chuyến bay trực thăng đón phái đoàn nhưng hầu hết anh em nam nữ nghệ sĩ  muốn được đi bằng xe nhà binh trở về Huế theo đường bộ. Anh em cùng nói, họ muốn được nhìn thấy quang cảnh những đường đèo, những núi đồi nơi các đơn vị bộ binh đóng quân , và các làng mạc nằm ven những vùng chiến trận.

            Vì là đi xe, thời gian mất khá lâu kể cả có những lúc dừng lại cho đoàn ngắm cảnh và chụp hình lưu niệm. Về đến Huế đã chiều, Nguyên thay mặt đơn vị mời cả đoàn đi ăn cơm Huế, giải trí một đêm vui,  rốt cùng, thật nặng lòng với Huế , và nhớ Huế thật đau thương trong biến cố Mậu Thân, nên đoàn đồng ý ở lại thành phố lưu diễn một đêm ca kịch ở nhà hát Hưng Đạo, sau buổi diễn này, đoàn thực sự kết thúc chuyến đi.

            Khi nhận được hảo ý của đoàn, đài phát thanh Huế cho loan tin, rồi những biển  quảng cáo treo đầy trên các đường phố và giá vé vào cửa được bán chia làm ba hạng, hạng danh dự, hạng nhất, và hạng bình dân.

            Nguyên đã trở về nhà. Anh trích số tiền lương đưa cho mẹ, và cho mấy đứa em vé đi coi hát.       

            Tối hôm ấy, Nga trang điểm thật kỹ, trong lúc ngồi đợi, Nguyên mở những tập vở và sách học của Nga ra xem. Vừa trang điểm, vừa nhìn khuôn mặt mình hiện bên trong tấm gương Nga mỉm cười thích thú. Nàng biết mình đẹp, và nàng cũng đã có một người yêu xứng đôi với mình. Những bức ảnh chụp hai người bên nhau, bạn bè xem, ai cũng khen là rất hạnh phúc. Nguyên chợt lên tiếng:

-Anh có nhờ Thụy mua cho em cuốn Tìm hiểu hội họa.

-Em đã nhận được sách.

-Vậy à.

            Cuốn sách để trên kệ, Nguyên với tay lấy xem và anh thấy có lá thư của Thụy gởi cho Nga nữa.

-Để em gởi tiền lại cho Thụy .

-Em đừng gởi. Coi như  nó mua tặng cho em.

-Có thư  Thụy gởi đó, anh đọc đi.

            Thư viết ngắn, chỉ vài dòng. Nguyên đọc xong thư , nói:

-Em anh, bề ngoài tuy khô khan nhưng rất có tâm hồn.

            Nga quay lại nhìn Nguyên. Trong thoáng ấy, nàng mường tượng người em cũng giống Nguyên, cùng lúc, nàng đang muốn chọn lựa màu áo nào thích hợp với đêm nay đi dự buổi ca nhạc.

            Nga trang điểm xong rồi đi thay quần áo. Nàng mặc áo dài tím, khoác ngoài chiếc áo vareuse nhung màu hạt dẻ.

            Nguyên ngắm nhìn khuôn mặt kiều diễm của Nga, trong lặng yên, đôi mắt anh như là ánh sáng buổi chiều trên dòng sông.

 

 

                                                   XIII

 

           

           

            Vào hai giờ ăn trưa và chiều ở phạn xá, Thượng sĩ Trạch thường có mặt để xem cách nhà thầu cho ăn uống, và luôn ghi nhận những lời khiếu nại của anh em. Những lúc khóa sinh về trại, thỉnh thoảng vào buổi tối ông đến chuyện trò cùng anh em, có thuốc lá mời nhau hút, và những nhật báo cũ ông còn giữ cũng đem vào cho anh em mượn đọc. Những giờ nghỉ ở doanh trại, anh em thường tụ năm, tụ ba chuyện vãn, hoặc chơi domino, cờ tướng, cờ ca rô, và đến cả kể chuyện chưởng của Kim Dung rất lý thú. Thỉnh thoảng cũng có vài cá nhân xích mích, gây gổ, nhưng rồi anh em can gián, hòa nhau trở lại.

            Trong túi xách của Thụy có mang theo một ít cuốn tiểu thuyết và sách học. Mỗi tối, anh dành thì giờ học bài các môn Vạn Vật, Sử địa, và Triết là môn chính yếu vì anh chọn thi ban C. Vào hai ngày cuối tuần, lúc cảm thấy trống vắng, Thụy mới đi ra phố chơi. Thụy đi một mình, ra phố có phim hay thì mua vé vào xem, không có , đi qua các nhà sách đứng ở hiên ngoài đọc báo cọp, sau đó ghé quán cà phê làm một ly, hút ít điếu thuốc lẻ xong quay về trại. Trên đường về, Thụy hay đi dọc theo con đường bờ biển. Biển Nha Trang rất đẹp, ở đây, cảnh buổi sáng và cảnh buổi chiều trông rất là thơ mộng, trữ tình. Ngày chủ nhật biển đông vui, trên bờ cát có nhiều cặp tình nhân ngồi bên nhau chuyện trò. Những cô gái ở thành phố này cũng rất yêu thích các chàng SVSQ. Ở đây có ba quân trường, một quân trường Hạ sĩ quan Đồng Đề, hai quân trường đào tạo Sĩ quan là Không Quân và Hải Quân. Khóa sinh như anh là đám lính  trơn, ít khi được mấy cô em nữ sinh con nhà lành quan tâm. Thụy đang cố gắng học nốt cho xong cái nợ mảnh bằng Tú Tài II, để đi Sĩ quan Kỹ thuật, và chẳng hề mong là cầm mảnh bằng đó để đi cặp bồ với một em gái nào trong thành phố này cả.

            Lá thư cô Thiên Nga nhận đã lâu, Thụy đang cất giữ, đọc lại đã mấy lần, vậy mà, chưa biết cách làm sao để viết một lá thư thăm hỏi, vừa có ý bày tỏ những mối đồng cảm của mình. Và, cứ mỗi lần đọc thư, anh lại hình dung, nghĩ nhiều đến nàng, rồi ước mong một ngày được gặp. Ở Nha Trang, có một cửa hiệu chuyên bán những mặt hàng lưu niệm, nhưng Thụy  không tìm ra được một một món quà tặng vừa ý để gởi cho người bạn gái của anh mình. Và rồi, Thụy nghĩ thêm, hết khóa học về Sài Gòn, anh sẽ tìm những tranh vẽ , những thắng cảnh chụp in trong carte postale gởi làm quà, vừa có ý hay, vừa gây được tình thân cho nàng và anh trong mối liên hệ gia đình.

            Hôm nay nhà bếp cho ăn món thịt hem và món đậu hầm  rất ngon. Nhưng món canh cải quá nhạt thếch. Những đồ ăn dành cho lính ăn thường ít khi có đồ tươi mà toàn đồ hộp được lấy từ các khẩu phần dã chiến. Theo đúng quyền lợi, mỗi tháng binh lính đều có nhu yếu phẩm gồm gạo sấy, thuốc lá, đồ hộp. Những thứ này về tay ai, họ không biết nơi khiếu nại rõ ràng nên đành thua thiệt. Thụy đói nên ăn nhiều cơm. Ăn xong, anh còn dằn một cà mên đầy mang về phòng, trù bị cho buổi tối đói. Cơm này, anh ăn với nước tương.

            Khi Thụy về phòng nghỉ, giờ này lại có một số bạn ưa đi ra phố chơi đêm. Cũng gần thôi, xóm chị em ta ở đường Hàm Nghi cách cổng trại của căn cứ chừng non cây số. Khi anh em đi khỏi, căn phòng trở nên trống trải vì ít người.

            Thụy đem để cà mên cơm trên giá đựng đồ xong trở ra ngoài sân, tản bộ hóng mát. Từ hôm ra ngoài này, Thụy chưa đến thăm hai bà dì bên họ ngoại. Nhưng luôn luôn anh  nhớ nghĩ về người thân của mình. Ngày mãn khóa học tân binh về Sài Gòn, Thụy có viết thư thăm dì Kiều và Hường Chi. Hai tuần sau, anh nhận được thư dì Kiều. Dì Kiều còn trẻ chưa có gia đình. Một tối  hôm đó hai dì cháu chuyện trò như hai người bạn. Người đầu tiên được nói tới là ông ngoại bác. Sau đó, là chuyện những người trong gia đình dì vào khoảng thời gian bốn năm lưu lạc sống nhiều nơi. Thế rồi, bằng một sự sắp xếp chuyện của mình, dì Kiều kể cho Thụy nghe  những tháng năm dì ở nhà dòng, trong bóng tối trầm lặng, lòng thành kính, khuôn mặt các bà xơ còn trẻ là những người bạn quí của dì. Ai cũng nghĩ rằng, những cô gái bỏ đời vào nhà tu thường có những nguyên nhân thầm kín liên hệ đến bản thân trong đó hầu hết là tâm sự gia đình hay chuyện tình ái. Ở dì Kiều, không có nguyên cớ đó. Riêng tư của dì, đó là ý nghĩ cao đẹp muốn được dâng mình lên Đức Chúa Kito.

            Có một chiếc phi cơ vừa cất cánh, sau đó, bay vượt qua triền núi. Trời bắt đầu tối dần, Thụy đi bộ đã xa nên quay bước trở lại nhưng không về phòng. Có ánh đèn sáng trong hội quán,  Thụy đến đó, rồi đẩy cửa vào.

            Bốn bàn bi da đang có người chơi, những trái bi chạm nhau chạy trên bàn. Thụy vào bàn trong cùng coi hai người đang chơi. Đây là cơ chung kết. Người đánh bi trắng có chấm đang dẫn trước 5 điểm. Cách đánh anh ta nhẹ nhàng, điêu luyện. Trên tường chiếc đồng hồ quả lắc chao động nhẹ nhàng.

            Thụy đứng yên chỗ coi hai người chơi cho đến khi kết thúc. Có vẻ hai người là bạn thân với nhau. Sau khi để cơ lại trên bàn, người đánh thắng gọi chủ bàn tính tiền giờ và tiền nước. Rồi cả hai cùng ra về.

            Thấy Thụy một mình, anh chủ hỏi:

-Bạn  không có tay chơi ?

-Không.

-Chơi với tôi đi.

            Thụy ngần ngừ rồi hỏi:

-Nếu thua, ông cho ghi sổ không ?

            Với cái khoác tay bất cần, anh chủ bàn nói:

-Khỏi. Anh chơi với tôi cho đỡ buồn. Anh thức khuya được không ?

-Dễ dàng.

-Anh gọi nước uống đi.

-Cho tôi ly trà đá.

-Không làm ly cà phê.

-Không, đêm mất ngủ.

            Hai người chưa bắt đầu còn hỏi chuyện nhau. Anh chủ bàn người Qui Nhơn vào Nha Trang đã lâu, nhưng giọng nói vẫn nguyên âm sắc. Cô con gái mang khay nước ra, hai người cầm ly uống một hớp rồi bắt đầu.

-Anh đi trước, chủ bàn nói.

            Thụy chọn bi không có chấm. Cú départ của anh rất đẹp, ba trái bi chạy tán loạn trên mặt bàn xong nằm thế giò gà lúc đứng yên. Thụy tiếp tục đánh, anh gom ba bi về góc giậu. Khi Thụy đánh, anh chủ chú ý từng đường cơ của anh. Anh ta gật đầu, vừa cho rằng Thụy đánh hay. Và khi buông cơ, Thụy được 8 điểm. Đến lượt anh chủ đi, Thụy cũng nhận ra đường cơ của anh ta rất sắc nét.

            Hai người thay phiên nhau đánh. Số điểm mức là 50. Khi biết cách đánh của nhau, hai người không còn lấy điểm dễ dàng như trước nữa.

-Anh là khóa sinh phải không ?

-Đúng rồi anh .

-Học ngành gì ?

-ALO/FAC

            Anh chủ vừa đi một đường cơ rất đẹp, Thụy khen hay. Hai bên hơn kém nhau một điểm. Và rồi cú xổ gom bi lợi hại giúp Thụy dẫn điểm và tới đích. Qua cơ thứ nhì, Thụy rất muốn nhường anh chủ, nhưng anh ái ngại sợ thua cơ thứ ba khó mà từ chối chuyện trả tiền giờ, nên  Thụy đánh kỹ, tuy lấy được điểm cũng khó khăn, nhưng Thụy cũng thắng được ván nữa.

            Cuộc chơi ngừng vì đã khuya Hai người uống nước, chuyện trò mấy câu xong chia tay. Vừa về tới phòng, Thụy chợt dừng bước lại khi thấy anh em đang tụ tập chơi bài.

Một người bảo:

-Nhảy vào mầy.

-Thôi, không có tiền.

-Tao cho mượn.

-Khỏi.

            Thụy về chỗ mình, giăng màn xong lấy một cuốn truyện   ra đọc để dỗ giấc ngủ. Rồi anh buông màn, lặng im . Thụy bỗng cảm thấy bồn chồn một chuyện gì đó không rõ. Khoảnh khắc ấy rơi vào lãng quên, Thụy biết mình đang ngủ say và nằm mơ thấy lại thành phố thời thơ dại của mình.

            Nửa đêm, mưa rớt xuống mái tôn. Tiếng mưa làm Thụy thức giấc. Căn phòng tối hẳn, Thụy ngồi dậy chốc lát sau lại nằm. Tiếng mưa nghe rõ, tự dưng gây nỗi nhớ muộn màng. Thụy mở to cặp mắt tìm kiếm hình ảnh Thúy Hà. Một lúc rất lâu, nàng mới xuất hiện. Và từ lúc đó, anh nghe rõ hết rõ một câu chuyện kể của nàng.

            Ở tuổi hai mươi, dù thất bại một đôi lần trong thi cử nhưng nó chưa hẳn muốn bạn ngừng để sớm ra đời. Thụy cũng đã có viết thư khuyên nàng nên học lại, cố gắng hoàn tất năm cuối cùng để lên Đại Học.

            Thời gian nghỉ học, giúp việc trong nhà chỉ là tạm thời khuây khỏa, sự mong đợi của nàng ở nơi Duy vẫn là hơn hết. Thế nhưng, chuyện thi cử của Duy cũng hỏng. Hai năm liền, Duy vẫn không lấy nổi chứng chỉ dự bị khoa học. Mỗi tuần Duy lên nhà người yêu hai lần, còn nàng không mấy thích xuống nhà Duy, vì ở đó, không khí trong nhà ngột ngạt với tiếng cãi vã  ăn thua nhau trong bài bạc. Từ nhà ngoài vào đến nhà trong, ngày nào cũng có mở hội. Người trong nhà đánh ăn thua với nhau, và Duy cũng ngồi đánh bạc khi vắng Thúy Hà.

            Căn nhà Duy khá lớn, rộng rãi. Ở Đà Nẵng trước đây ba của chàng là một trong những doanh gia giàu có nhất thành phố. Một dãy nhà phố năm căn trên đường Hùng Vương cho thuê ba căn, còn hai căn làm đại lý xuất nhập cảng. Một rạp hát ở đường Hùng Vương, ông cũng có hùn vốn với người bạn. Gia đình Duy gốc gác người Triều châu. Nhưng bốn năm trở lại đây công việc làm ăn thất bại, và trong năm qua, ông lâm trọng bệnh. Ông vào bệnh viện rồi về nhà, rồi trở lại bệnh viện. Mọi việc, vợ và các con ông quản lý. Duy là con út trong nhà nên rất được nuông chiều. Chàng được gởi vào học ở Sài Gòn rồi trở ra lại ngoài này.

            Thực ra, Duy học hành không đến nổi tệ,  nhưng vì yêu sớm, từ khi quen Thúy Hà, anh chỉ ước mơ được lấy nàng làm vợ. Thúy Hà cũng yêu Duy, nhưng nàng chưa muốn lập gia đình. Nàng sống với tình yêu bằng sự cởi mở, không nhất thiết nàng chỉ có một mình Duy mà những năm qua, gặp lại bao nhiêu người xưa cũ nàng vẫn vui đón tiếp, chuyện trò, có lúc đi chơi phố. Đôi khi, giữa Duy và nàng có sự xích mích, nhưng Thúy Hà cho rằng đó là sự bồng bột của tuổi trẻ. Tuổi trẻ không thích ràng buộc. Nàng muốn mình sống theo ý muốn, dù biết rằng, trong các chàng trai thì Duy là người nàng vừa ý hơn hết. Luôn luôn nàng vui, thoải mái, vì thế Duy nghĩ rằng nàng là một cô gái sống cởi mở, không muốn khép kín, không bày vẽ sự thủy chung.

            Một ngày hôm đó nàng ra Huế thăm Nguyệt, người bạn thuở nhỏ. Nhà Nguyệt ở đầu vùng ngoại ô, quay mặt với con lộ chính.  Khi tới lối rẽ vào sân, con sông trước mặt nhà xuất hiện. Ở dưới, cạnh bến đá có trồng cây du thật cao phủ xanh bóng im xuống mặt nước. Và, từ  khoảng sân cũng nhìn thấy những bậc thềm tam cấp xây bằng gạch dưới một mái hiên ngói trải dài. Hôm ấy chủ nhật, Thúy Hà được cả gia đình Nguyệt  đón tiếp, coi cô như người con đi xa về. Tiếng trò chuyện thật vui, rất tự nhiên khiến cho Thúy Hà cứ tưởng như đây chính là nhà của mình. Một giờ sau, bữa ăn được dọn ra với tất cả các món Huế do mẹ của Nguyệt làm lấy. Món nào Thúy Hà ăn cũng ngon, cảm thấy mê người, nhất là vị ớt trong nước mắm dậy lên thứ chất cay khiến cô cảm giác như mình đã để lộ vẻ đẹp trên gương mặt quá rõ. Vừa ăn, các em Nguyệt luôn tươi cười nhìn ngắm Thúy Hà nghe giọng cô nói tiếng Bắc thật mềm ngọt, trong vui như tiếng mưa vào buổi sáng sớm.

              Đến tối, hai cậu con trai chơi cờ, còn mấy cô gái cùng ra vườn ngồi trên những chiếc ghế thấp trò chuyện, vừa ngắm trăng. Đêm, vùng ngoại ô thật thanh vắng. Mỗi lần nghe tiếng nói, hay tiếng động những chiếc xe đi qua ngoài con đường, bạn có cảm tưởng như bao nhiêu vang âm đều trở thành cơn gió làm lung lay ánh sáng những ngọn đèn đường. Câu chuyện thật gần gũi, giọng trầm ấm, vừa vui, Thúy Hà làm mấy chị em Nguyệt bị lôi cuốn, rất thích nghe. Ngày hôm sau, có Phương Mai lên nhà chơi. Tuy mới gặp lần đầu nhưng Phương Mai tỏ ra thân thiện, mến Thúy Hà ngay. Nàng khen Thúy Hà đẹp, duyên dáng nhất là cặp mắt nhỏ bé sáng như hai vị sao. Phương Mai  với dáng người cao lớn, mái tóc dài phủ kín vai. Hôm sau, buổi sáng Nguyệt, Phương Mai và Thúy Hà đi chơi phố, ghé tiệm phở ăn trưa, xong vào rạp hát Châu Tinh xem cuốn phim Mirage de la vie. Tan buổi hát, ba người tản bộ dạo chơi một quãng trên con đường dọc theo  bờ sông, sau đó đón xe buýt về nhà. Buổi chiều tới, nắng thật ấm, nồng dậy mùi thơm cây trái chín nơi khu vườn tỏa ra. Ba người nghỉ mệt chốc lát, rồi đi tắm. Con sông bắt đầu vui nhộn, tiếng bọn trẻ vừa bơi vừa la hét. Hai cô em của Nguyệt cùng ba chị bạn tắm ở quãng trên, nước trong, năm người cùng bơi ra xa một cách thư thả, tận hưởng tất cả hương vị nước mát trên dòng sông.

            Những ngày ấy rất vui, nên mùa hè còn mãi. Nhưng chỉ ở với bạn một tuần vừa đủ hạnh phúc của chuyến đi, Thúy Hà trở về nhà. Nàng đi chuyến xe lửa khởi hành vào lúc buổi trưa. Đoàn tàu chạy không nhanh, ngồi bên cửa toa tàu cô gái có sự an nhàn thưởng thức những cảnh trí, nhà ở, đồi núi, sông biển xuất hiện hai bên đường. Trong mỗi cảnh đó, có những cảnh gây nên sự liên tưởng về quá khứ, về những nơi chốn mà tưởng chừng nàng đã đến đó qua giấc mơ.

            Tàu ngừng lại khi tới ga Đà Nẵng. Tàu sẽ  đỗ lâu để thay đầu máy lớn, đồng thời  đón thêm khách đi vào những ga phía Nam. Những tiếng rao hàng quà, cảnh những người đi buôn đưa hàng hoá lên tàu gây sự  huyên náo trên sân ga ngay lúc tàu vừa mới ngừng , giờ đã lặng yên. Len lỏi trên lối đi, Thúy Hà đeo túi xách bên vai, cô mặc chiếc áo sơ mi trắng, quần tây xanh trông thật dễ thương. Vừa đi, cô đưa mắt nhìn con tàu đang đậu, ngửi mùi vị ẩm khô trong khung cảnh chật hẹp của nhà ga, và cô như vẫn còn lưu luyến, ước mong có ngày trở lại Huế.

           Bỗng nhiên cô gái giật mình dừng bước. Tiếng ai cất lên gọi cô, rồi mất hút. Sau đó, tiếng ấy lại cất lên, nghe quen thuộc. Cô gái đưa mắt nhìn quanh, nhưng cô chẳng nhận ra ai cả. Ngay phút đó, cái bóng người lính trẻ bước rất mau tiến lại gần làm cô gái chú ý. Và, lúc ngừng bước người lính  nhìn cô hỏi:

-Thúy Hà phải không ?

-Vâng.

           Người lính mỉm cười, nói:

-Anh Thụ đây, em nhớ không ?

           Cô gái nhìn lại người kia, ít giây sau mới  gật đầu, nói:

-Vâng, anh Thụ. Ngày trước anh ở Quảng Trị phải không ?

           Người lính xuất hiện trước mắt cô gái là SVSQ trường Võ Bị Đà Lạt. Thụ đi mười lăm ngày phép về thăm gia đình. Hôm nay, đã hết hạn phép, anh trở lại trường và không ngờ đi trên chuyến tàu này anh gặp lại người xưa.

          Thụ mời Thúy Hà vào quán nước ở trong ga. Cô gái không từ chối, và cô cũng rất muốn được nghe chuyện của chàng trai trước đây đã quen mình.

           Lúc kéo ghế ngồi, cả Thụ và cô gái đều rất tự nhiên. Người chạy bàn đến, Thụ hỏi:

-Em uống gì ?

-Cho em ly nước chanh.

-Còn tôi, một ly cà phê.

           Thụ đưa mắt nhìn Thúy Hà thật trầm lặng. Anh có ý muốn kể lại cuộc đời của anh nhưng chưa  biết mở lời bằng cách nào.

-Em rời xa Quảng Trị lâu chưa ?

            Cô gái đáp:

-Gia đình em vào đây đã bốn năm rồi.

            Người chạy bàn mang nước ra, đặt chiếc khay nhôm xuống bàn tròn.  Thụ đẩy nhẹ ly nước về phía cô gái. Còn cà phê, anh cho mấy muỗng đường vào xong khuấy nhẹ. Cô gái bỗng cười nói:

-Anh còn nhận ra được em hay thật.

            Không nhìn lại cô gái, vừa để chiếc muỗng xuống dĩa nhỏ, Thụ nói:

-Lúc thấy bóng em xuất hiện, ngồi trên toa anh nhận ra ngay.

            Cô gái uống hớp nước, hỏi:

-Lúc này anh ra sao ?

-Anh đã đi lính. Anh đang học ở Võ Bị Đà Lạt, năm tới đây ra trường.

             Cô gái cố giữ vẻ mặt nghiêm trang khi nhìn lại người quen ngày xưa. Lúc này, cả hai đều cùng hiểu buổi gặp nhau nó muốn cho mỗi người mong nói ra được những điều mình muốn nói.

-Gia đình anh vẫn ở Quảng Trị ?

            Thụ gật đầu, rồi nói thêm:

-Anh vừa đi phép về thăm nhà.

             Không cần hỏi ý cô gái, Thụ bật diêm đốt điếu thuốc. Những sợi khói dâng lên in ra hình bóng trước gương mặt người lính. Cô gái cũng đang chờ đợi điều anh ta sẽ nói. Và rồi, anh ta lên tiếng:

-Không ngờ, xa nhiều năm nay chúng ta gặp lại.

             Thúy Hà không đáp lời. Nàng vẫn đưa mắt nhìn anh một cách nghiêm trang, thẳng thắn. Và dù rằng, nàng đã thấy trên ve áo của anh có gắn alpha nhưng đối với nàng không quan trọng. Anh ta hỏi nàng:

-Em thấy, anh đã thay đổi nhiều phải không ?

-Vâng.

             Thúy Hà cảm thấy không tiện nói gì thêm, nên nàng im lặng. Từ trong nhà ga, tiếng người nữ nhân viên phát thanh báo hiệu giờ tàu khởi hành. Thụ có vẻ bối rối, không kịp uống nốt phần cà phê vội đứng dậy đi vào quầy trả tiền .

            Thúy Hà đứng yên chỗ chờ anh. Lúc trở ra, Thụ nhìn vào mắt cô gái rất lâu. Thế mà, anh chỉ nói:

-Cho anh gởi lời thăm gia đình em.

-Cám ơn anh. Chúc anh đi mạnh khoẻ.

            Thúy  Hà đưa tay cho anh bắt. Không vội, Thụ nói:

-Anh mong nhận được thư của em .

            Thúy Hà nhìn Thụ, lặng im. Rồi có tiếng còi tàu báo hiệu.

-Thôi. Anh đi mạnh khoẻ.

            Thụ quay gót chạy nhanh. Thúy Hà nhìn theo Thụ bước lên toa, và lúc tàu lăn bánh quay đầu nhìn lại, anh vẫn thấy Thúy Hà còn đứng đó. Anh vẫy tay chào, cô gái đáp lại.

            Nhà xa, Thúy Hà đón xích lô về. Người đạp xích lô còn trẻ, anh ta không hỏi han, chuyện trò với cô gái. Mới đi có mấy ngày, nhưng trở về, Thúy Hà tự dưng thấy lạ, trên đường xe chạy mắt nàng nhìn thấy phố xá với vẻ rụt rè, bỡ ngỡ.

            Vào lúc trưa, mẹ của Duy và cô Thi đến. Vừa bước chân vào nhà, hai người tỏ vẻ nôn nóng.  Không khí lặng đi trong giây lát. Trên chiếc bàn bốn cái tách đã bày sẵn, ông Kha ngồi yên, còn bà Uyên rót nước trà mời khách.

-Mời bà và cô xơi nước.

              Bà Uyên vừa ngồi xuống, mẹ Duy mở lời ngay:

-Ông nhà tôi mới ở bệnh viện về. Bác sĩ đã bó tay, cho biết nhà tôi chỉ còn sống ít ngày nữa thôi. Tôi và cháu Thi vội vàng lên đây để thưa với ông bà về chuyện hai cháu. Nhà tôi, rất ước mong được thấy ngày vui của hai cháu trước khi nhắm mắt.

               Bà mẹ Duy nói những câu sau cùng, nước mắt ứa ra. Bà lấy khăn mùi xoa trong ví ra lau. Cô Thi ngồi bất động. Cô để mắt chú ý đến màu nước đậm trong tách trà. Rồi cô cầm tách lên uống một hớp.

               Bà Uyên đã hiểu ý định của mẹ Duy, trong ít giây cố tìm một đôi lời an ủi, vừa có ý giải thích, nhưng rồi bà không thể nói ngay được. Bỗng bà cất tiếng gọi Vân. Nghe tiếng gọi, Vân đáp dạ và đi từ nhà dưới lên. Có mặt Vân , người mẹ hỏi:

-Chị Hà nói hôm nào vào con ?

-Hình như hôm nay chị vào, mợ.

                 Quay sang mẹ Duy và cô Thi, bà Uyên nói:

-Cháu Hà ra Huế thăm người bạn.

                 Mẹ Duy nói:

-Sự việc bất ngờ quá. Theo mong ước của chồng, tôi lên đây xin ý của ông bà chấp thuận cho hai cháu được phép làm đám cưới để chạy tang.

                  Lúc này, ông Kha  lên tiếng:

-Hai cháu mới làm lễ hỏi chưa đầy bốn tháng. Tôi nghĩ, nếu phải tổ chức đám cưới ngay thì hơi vội vàng, dù hiểu rằng, đó là ước mong của ông bà. Bên gia đình chúng tôi, các bác ở Sài Gòn vừa viết thư cho hay là khi nào có đám cưới của cháu Hà các bác sẽ ra dự, vì thế, xin bà và cô đây hiểu cho rằng chuyện một đời của hai cháu rất là quan trọng và ngày đó chính là ngày vui cho cả hai gia đình. Thế nên, chúng tôi rất sẵn lòng đợi sau một hay hai năm, mãn kỳ tang của ông, sẽ chọn ngày tháng tốt để làm hôn lễ cho hai cháu.

-Thưa ông bà, tôi rất hiểu chuyện một đời riêng của hai cháu hết sức quan trọng. Nhưng với cháu Hà nhà tôi rất thương quí, đặt niềm tin về cháu rất nhiều, vậy nên, ông rất ước ao được nhìn thấy cháu Hà là con dâu của gia đình mình để nhắm mắt cho toại nguyện.

               Mẹ của Duy lại khóc. Ông Kha và bà Uyên trước tình cảnh này không muốn làm cho không khí trong nhà trở nên ngột ngạt, nghĩ ngợi ít giây, hai ông bà cùng nói:

-Hôm nay cháu Hà đi Huế chưa vào.

               Rồi bà Uyên tiếp lời:

-Thôi. Có gì, tôi hỏi lại cháu rồi thưa chuyện với ông bà sau.

-Vâng, dù sao cũng có ý kiến của cháu. Được như thế nào, xin ông bà thông báo cho biết.

                Hai người khách đến gặp trong nửa giờ, vội ra về ngay. Xuống xe, trả tiền xong Hà bước nhanh băng qua đường, lúc vào nhà nàng chợt có cảm giác hụt hẫng vì một sự trống vắng lạ lùng. Ông bà Kha ngồi bên chiếc giường đang lặng im, suy nghĩ. Hai người đã ngừng nói chuyện khi thấy bóng cô con gái trở về.

-Có chuyện gì không mợ ?

                Người mẹ bảo:

-Con về mệt, nghỉ đi, đến tối mợ nói chuyện.

-Nhà có khách phải không mợ.

-Có.

-Các em đi đâu mợ ?

-Đi biển từ lúc sáng. Mình Vân ở nhà.

                Thúy Hà bước qua lối hẹp đi lên gác. Đây là căn gác dành riêng cho nàng. Trở về đây, không khí căn gác đã bao trùm lấy ngay gương mặt của nàng và cho nàng nhận ra cái tình cảm thân thiện của riêng mình. Nàng dừng chân ở chỗ bậc thang, đưa mắt ngắm khung ảnh. Bên cạnh tấm ảnh của nàng là ảnh của Duy. Duy đang là Sinh viên Đại Học Khoa Học Huế. Duy còn rất trẻ, gương mặt đẹp, dáng vẻ tao nhã, là con người mà Thúy Hà yêu nhất. Với nàng, nàng cũng biết mình đẹp, và trước khi Duy quen nàng, đính hôn với nàng, nàng đã gặp rất nhiều chàng trai say mê, ngưỡng mộ nàng, từ những năm nàng ở Nha Trang, rồi Quảng Trị, rồi Huế, và ở thành phố này nữa. Nàng đang ở tuổi mười chín, đẹp, nét quyến rũ của nàng có từ đôi mắt nhỏ, giọng nói thật dịu, vừa trong sáng.

                  Vân ngừng đọc sách, lên tiếng:

-Chị mới về.

                  Thúy Hà hỏi:

-Khách là ai vậy ?

-Bà Lương.

-Có chuyện gì không ?

-Em không rõ lắm.

                  Thúy Hà mở túi xách lấy ra một ít thứ quà để trên bàn. Vân mỉm cười rời khỏi giường, đứng dậy đi tới bàn cầm gói mè xửng mở ra lấy một miếng.

-Đi vui không chị ?

-Vui.

-Bao giờ chị Nguyệt xuất ngoại ?

-Tháng tới.

                    Thúy Hà đi vào bên trong bức màn kéo kín lại. Nàng thay quần áo, mặc vào người bộ đồ thường ở nhà. Trên cổ áo vuông rộng để hở, khuôn ngực nàng trắng nõn. Nàng trở ra ngồi xuống giường trò chuyện với Vân. Vân nói những chuyện vui trong mấy ngày nàng đi vắng, và ăn kẹo, cô cảm thấy rất ngon.

                  Ba anh em Vũ, Hằng và Phi đi biển về.  Trong lúc ba anh em lên tiếng ồn ào về buổi đi chơi biển, trên gác, hai chị em Hà vẫn thì thầm kể tiếp câu chuyện. Vân nghe chị Hà nói về anh Thụ, người con trai ngày xưa ở Quảng Trị đã hết sức yêu nàng. Khác với vẻ thư sinh của Duy, trên gương mặt Thụ khắc rõ những nét lạnh lùng, cương quyết. Lúc hai người gặp lại nhau, Thúy Hà nhận ra sự xúc động lẫn vẻ bối rối của Thụ trong giọng nói, nhưng không vì thế mà chàng tỏ ra yếu đuối vì tình yêu khi chàng đã trở thành một người lính. Cái bóng của Thụ chạy nhanh về phiá con tàu vụt qua trí nhớ Thúy Hà. Giây phút đó, nàng muốn cho anh ta biết, nàng và anh đã phải xa cách thêm một lần này nữa.

                    Bữa cơm tối, cả nhà ngồi ăn chung trên chiếc bàn khách dài dưới ánh sáng ngọn đèn néon. Bữa ăn vẫn mang không khí thân mật của gia đình như mọi ngày. Nhưng, trong bữa ăn, Thúy Hà đã không kể lại chuyến đi vui của mình, vì nàng nhận ra nó sẽ không xoá tan nỗi buồn lo của ba mẹ nàng.

                      Sau bữa ăn, vào lúc 9 giờ tối, ở bàn khách Thúy Hà ngồi hầu chuyện với ba mẹ. Nước trà tuy nguội, nhưng vẫn còn đậm. Thúy Hà cầm tách nước xoay nhẹ, dáng nghĩ ngợi. Người mẹ mở lời:

-Bà Lương và cô Thi đến đây lúc con chưa về.

-Có chuyện gì không mợ ?

-Ông Lương đang hấp hối, mới đưa từ bệnh viện về nhà lúc trưa. Bên đó, muốn xin làm đám cưới chạy tang.

-Ba mợ trả lời sao ?

                        Bằng một giọng thân thiết, ông Kha lên tiếng:

-Con và Duy đã yêu nhau, điều đó ba mợ rất bằng lòng. Nhưng chuyện cưới hỏi ngay lúc này không có sự chuẩn bị là không tốt cho con, cả gia đình nữa. Ở Sài Gòn, các bác rất mong ra dự đám cưới của con, còn ở đây, bà con cũng đông đều muốn được thấy ngày đám cưới của con là ngày vui thực sự, chứ không thể là một ngày vui, sau đó phải buồn vì chuyện tang chế trong gia đình. Ba nghĩ, dù ông Lương mất, đợi một hoặc hai năm mãn tang để tổ chức lễ cưới, cũng không mất lâu thời gian. Nhiều lứa đôi thương yêu nhau, đợi nhau đến năm sáu năm, mười năm  mới lấy nhau cũng là thường, và riêng con hẳn còn quá trẻ, còn đang tuổi đi học, chuyện này con nghĩ sao ?

                           Không do dự, Thúy Hà đáp:

-Con tuỳ theo ý của ba mợ.

-Không, ba mợ để tùy con. Nếu con nghĩ, khoảng thời gian hai năm đợi là lâu, thì con có quyết định của con. Ba mợ rất thương con, muốn theo ý mong muốn của con.

-Vâng, con hiểu lòng của ba mợ.

                       Nàng đáp, tự nhiên trong câu nói khiến nàng bật khóc.

 

 

 

                                                          XIV

 

 

            Thời còn là tân binh chỉ học về căn bản quân sự, bây giờ qua chuyên môn, các khóa sinh đều cùng thấy những môn mình học như Khí tượng, Không lưu, Truyền tin, Quân báo, Chiến tranh tâm lý đòi hỏi đến kiến thức ở bậc trung học đệ nhị cấp.

            Năm ngày trong tuần, hai buổi học mỗi ngày, mỗi buổi bốn tiếng. Trường hợp có giảng viên đau ốm, bận họp, hay công tác giờ học đó anh em được nghỉ tại lớp tự động chia các nhóm sinh hoạt học tập. Nhờ các buổi này, anh em cùng ôn bài, vừa thảo luận, trao đổi ý kiến đỡ thời gian trong buổi tối về phòng. Mỗi tuần, cũng có hai giờ học tiếng Anh. Nhưng môn này, không học theo cách nhà trường, mà chỉ cần biết những từ chuyên môn cộng với một số câu được diễn giải qua phương tiện truyền tin. Vì rồi đây, khi trở ra đơn vị, các khóa sinh trở thành hiệu thính viên, qua máy truyền tin không chỉ liên lạc với quân bạn  bằng tiếng Việt mà còn với quân Đồng minh bằng tiếng Anh. Riêng Thụy, học Anh ngữ anh có được thêm cái lợi dành cho môn thi tiếng Anh  ở kỳ thi Tú Tài. Viên Trung sĩ dạy môn tiếng Anh, anh ta cũng đã tốt nghiệp một khóa Anh ngữ ở trường Không quân Lackland bên tiểu bang Texas. Tới giờ học, Thụy có mang theo sách học cuốn Khảo sát Anh ngữ, lâu lâu, được anh giảng bài giúp, nhờ vậy, Thụy dần hiểu khá thêm về cách dùng văn phạm và các thành ngữ.

            Ngày hôm đó ở Đà Lạt, một buổi sáng đi ngang qua căn nhà cũ của Thùy ở trên đường đất đỏ Phan Bội Châu Thụy cố mong tìm gặp lại Thùy, nhưng không thấy. Sự tình cờ, buổi sáng chủ nhật tuần rồi đi phố chơi, anh lại gặp nàng. Và, khác hẳn lần trước, lần này nàng đưa anh về đến nhà, giữ lại ăn cơm, chuyện trò, và đặc biệt được xem cuốn album của nàng thời còn đi học. Có những tấm ảnh chụp ngày đi cắm trại ở Suối tiên, và trong số các bạn cùng chụp chung trước căn lều vải bên dòng suối, có Thụy nữa. Hai người bạn ngồi gần nhau ở phòng khách, và cùng phá lên cười khi xem chung mấy tấm ảnh thời đi học. Thụy mở lời xin tấm ảnh, nàng gật đầu lấy trong cuốn album ra và để vào phong bì thư.

            Nhà Thùy ở khu Phước Hải, trên đường Huỳnh Thúc Kháng, và chỉ cách căn nhà bác Định ngày xưa bốn căn. Nhà làm nền cao, có bốn bậc cấp đi lên, đằng sau có sân rộng và căn vườn trồng cây ăn trái. Với tình bạn cũ thân thiết, Thùy đưa Thụy đi xem bên trong và ngoài nhà. Thụy rất là muốn hỏi chuyện riêng của Thùy, nhưng rồi cứ ái ngại.

            Sau bữa ăn, không nghỉ trưa hai người vẫn ngồi ở phòng khách chuyện trò. Những cô bạn học của Thùy, có một số du học, và hầu hết đều đi lấy chồng. Những bạn của Thùy có Hoa là Thụy  biết rõ hơn cả, vì dạo đó, Thùy và Hoa rất thân nhau. Khác ngày xưa là học trò, giờ hai người đã lớn, và nàng đã có gia đình, dù rằng cuộc sống có lẽ không mấy vui. Thụy lặng im ngước mắt nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường. Lúc ấy, Thụy cũng bắt gặp cái nhìn của Thùy hướng về mình.

            Khi đã đến giờ , Thụy đứng dậy xin kiếu từ. Ngay lúc ấy, Thùy bảo anh  đợi, rồi nàng quay bước đi vào nhà trong. Cũng khá lâu, nàng trở ra và đưa cho Thụy một chiếc phong bì dày cộm màu vàng được dán kín.

            Nàng nói:

-Đây là kỷ niệm năm xưa của anh, em gởi lại để anh cất giữ.

            Thụy nhìn Thùy, cảm thấy bâng khuâng. Rồi, anh nói:

-Cám ơn Thùy.

            Trên tay Thụy, giờ là một kỷ niệm trở về, và anh biết mình đang nắm giữ một vật gì. Thụy chợt hỏi:

-Em vẫn còn buồn lắm ..., phải không ?

-Không, không có gì cả

-Tại sao ?, em nói cho anh hiểu đi.

-Không, không có gì cả.

-Em không hiểu anh sao ?

-Hiểu chứ. Không hiểu, sao mà em còn cất giữ được kỷ niệm của tập lưu bút này.

            Về trại, Thụy nôn nao mở chiếc phong bì và lật từng trang của xấp truyện ngắn cũ chăm chú đọc. Miền sương mù, trong từng giòng nắn nót Thụy đã viết, hình ảnh Thùy hiện ra và biết bao nhiêu kỷ niệm của nàng rất là thân thiết, cảm động. Anh chợt nhớ câu nàng nói, không, không có gì cả, em hiểu anh.

            Ít ngày sau, Thụy lấy truyện ngắn cũ, vẫn giữ cái tựa Miền sương mù và chép sang một bản mới, xong qua hộp thư  KBC 4721 của Trung tâm huấn luyện, anh gởi bài về cho Tòa Soạn Tiểu thuyết Thứ Năm.

            Đây cũng là tờ tuần báo đánh dấu kỷ niệm buổi ban đầu Thụy bước vào nghiệp văn của cuộc đời. Khi xa Huế vào Sài Gòn, lòng Thụy nặng trĩu biết bao nhiêu nỗi lo buồn, về nỗi khó khăn gia đình, về tình yêu đơn độc, về tuổi trẻ không tìm thấy tương lai vì học hành dang dở, và đến nơi thành phố này tìm kiếm việc làm cũng thật khó khăn. Sự thể chọn con đường nhập ngũ đi lính, nó như đã là một hồ sơ làm sẵn cả rồi tùy thuộc thời gian đến nhanh hay chậm mà thôi. Nỗi buồn thường hay khiến tuổi trẻ muốn nói ra lời tâm sự, viết mấy câu thơ, vài dòng nhật ký, hoặc viết nên được một câu chuyện bày tỏ nỗi lòng mình. Đó, hầu như là tâm trạng chung của những kẻ bất hạnh, thất  chí, và anh cũng là một trong bao nhiêu con người đó, nên chi,  nghĩ tới một lối thoát mặc cảm Thụy  bắt đầu bước chập chững, cố gắng theo con đường viết văn. Tối hôm ấy, Thụy thức khuya lấy tập giấy ra ngồi viết, và không ngờ anh viết xong được một truyện ngắn đầu tay.

            Sau bữa ăn sáng, Thụy rời khỏi nhà đi bộ trên đường Phạm Ngũ Lão. Ở khu chợ Thái Bình, bên này trông sang anh thấy tòa soạn báo Văn, nhưng không dám nghĩ đến. Nơi tờ báo này, nhắc Thụy nhớ đến một lá thư, nghĩ đến một món nợ với Thúy Hà mà chưa làm sao có được một món quà kỷ niệm quí giá dành cho nàng. Nhưng thế nào, anh cũng cố gắng một ngày kia sẽ có truyện ngắn đăng ở đây để tặng nàng. Và, bỏ lại đằng sau những mơ ước có vẻ lớn ấy, một mình, Thụy lại bước đi. Buổi sáng ở Sài Gòn, luôn luôn những tiếng động xe cộ vang lên khắp thành phố tạo sự  huyên náo, cảnh xô bồ, lúc làm bạn trở nên vui vẻ, phấn khích, lúc bỗng cảm thấy xa lạ, bâng khuâng. Ai đó, đã vén màn trong tâm tưởng, một mình đứng nhìn Thụy rất lâu.

            Cách đây hai ngày, Thụy  nhận được thư của Thúy Hà. Lá thư  nàng đọc thật cảm động, Thụy  hết sức vui sướng như có được những phút giây bên cạnh  nàng. Gói sách Thụy gởi đi qua Bưu điện nàng đã nhận được, và bây giờ trong những cuốn sách đó ắt cũng thấy bóng hình của anh in lên trang giấy vào mỗi đêm dưới ánh sáng ngọn đèn khi nàng ngồi học. Thụy muốn quên tất cả, trừ nàng ra. Sau đó, anh cũng hiểu dù rằng nàng đã có người yêu, nàng sẽ lấy Duy làm chồng, nhưng riêng một góc con tim, nàng cũng là người yêu của mình, để từ nay, anh luôn luôn nhận được thư nàng. Từ buổi xa cách, bao nhiêu lần Thụy thấu hiểu được lòng nàng thương mến anh qua những tấm ảnh nhỏ bé  mang theo bên mình. Trong gói sách gởi theo Bưu điện, Thụy có kèm lá thư. Những giòng thư đầu Thụy nói cho nàng biết về Sài Gòn, thành phố anh mới đến và một vài ý định của anh về cuộc sống. Sau đó, là những giòng tâm tình. Thụy nói cho nàng biết, lúc rời Đà Nẵng trở ra Huế để chuẩn bị chuyến đi, ngồi trên chuyến xe khách, lòng anh cứ mãi nghĩ đến nàng, nhớ khôn nguôi gương mặt của nàng, và khi cố gắng tìm lại những kỷ niệm trong một năm học qua, tự dưng anh khóc và nước mắt ấm hẳn lên như có được sự hòa lẫn giọng nói của nàng trong đó. Thụy khóc một mình, nhớ bóng nàng  yên lặng cúi đầu dưới mái tóc bao phủ, nàng cũng buồn khi xa anh, và cũng hiểu rằng mối tình của anh và nàng thật lẻ loi. Và, Thụy đã cứ ngồi im như vậy khi xe ra đến Huế, thành phố của nơi chốn mình trở về mới giải khuây.

            Buổi sáng hôm ấy, Thụy cũng có ý định đi Quang Trung thăm anh Quý, con trai thứ nhì của bác anh bị gọi quân dịch. Thụy mới nhận được thư của anh hôm thứ hai đầu tuần. Mới đó, anh vào Sài Gòn gần hai tháng, và những thư từ ở địa chỉ mới đều nhận được. Thường lệ, vào giờ trưa người phát thư đi ngang, và rất dễ biết ông đến bằng tiếng chuông xe đạp rung leng keng trước nhà.

            Hết đường Phạm Ngũ Lão, Thụy tới bến xe đi ngoại thành. Xe đi Quang Trung còn đậu ở bến, mới có vài người khách, nên Thụy chưa lên xe mà đứng chờ.

 Một lúc sau, Thụy  vào quán cà phê kế bên tòa soạn tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Trong quán chỉ vài người khách, bàn trống để nhiều, anh bỗng chú ý một người đàn ông đeo kính trắng, dáng vẻ hiền từ, đang chăm chú đọc bài báo, trên tay cầm bút nguyên tử đỏ. Khi bắt gặp anh nhìn ông, ông nở một nụ cười chào như thể muốn gặp. Thụy liền bạo dạn bước tới gần, lúc ấy, ông ngừng đọc,  vừa lấy tay kéo tập giấy và bỏ ly cà phê uống dở qua một bên.

-Em đi đâu đó ?

-Em chờ xe đi Quang Trung ?

-Thăm người bà con ?

-Dạ. Em có người anh đi quân dịch.

            Thụy gọi ly cà phê. Bây giờ, anh thấy rõ hơn tập giấy ông để trong kẹp và bài báo ông đang đọc. Thụy ngần ngại hỏi:

-Ông làm nhà báo ?

-Tôi là nhà văn, ông nói. Tôi làm Chủ bút tờ tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.

            Thụy nhìn ông với sự ngưỡng mộ muốn bày tỏ. Cà phê mang ra, anh cầm thià nhỏ khuấy nhẹ xong uống một hớp đầy.

-Em rất thích đọc tiểu thuyết.

-Em có viết văn không ?

            Thụy cười nhìn ông. Một chút sau, anh cảm nhận được tình thân giữa hai người nên nói:

-Em mới viết được một truyện ngắn.

-Vậy à.

-Em có mang theo đây.

-Đâu, cho tôi xem.

            Thụy mở túi  xách lấy tập giấy viết đêm qua đưa cho ông. Ông nhìn lướt, nói với tôi:

-Chà, viết chữ đẹp ghê.

            Thụy cảm thấy hồi hộp, bối rối. Rồi anh yên lặng nhìn ông bắt đầu đọc truyện anh viết. Khi ông đọc, Thụy  theo dõi dáng điệu, cử chỉ, nhất là đôi mắt dò xét suy nghĩ của ông. Rồi anh thấy, ông cầm bút sửa lỗi hỏi ngã anh viết sai, và bỏ bớt đi một đôi chữ thừa, hoặc thay bằng một từ khác. Truyện Thụy viết tối qua dài tám  trang, anh cứ nhìn ông đọc, lòng mừng thầm mỗi khi tay ông lật qua trang khác. Thụy vẫn lặng im không hỏi han gì,  ngồi bên ông cho đến khi ông đọc hết truyện.

-Em viết được lắm, ông nói.

-Em cám ơn ông, Thụy đáp lời.

-Tôi sẽ cho đăng truyện này vào số tới.

-Em mừng lắm, thưa ông.

-Tôi hiểu, em viết được lắm. Hãy viết thêm một vài truyện nữa đưa tôi.

            Tiếng nói của Thụy trong xúc động trở nên vấp váp. Nhưng, thực sự anh rất mừng buổi sáng nay được gặp một con  người tốt bụng, một nhà văn với cái dáng vẻ hiền từ, hồn hậu của một thầy giáo. Thụy cũng thấy từ trên vẻ mặt ông đến những lời nói đều điềm đạm, không kiểu cách.

            Thế là truyện ngắn đầu tay củaThụy sẽ được đăng. Kim đồng hồ treo tường đã chỉ mười giờ. Thụy nửa muốn đứng dậy, nửa muốn được ngồi lâu bên nhà văn để trò chuyện. Sau bản thảo của anh, ông Thanh Thủy lại đọc tiếp bản thảo đã đọc dở lúc nãy.

            Rồi Thụy đứng dậy, nói:

-Em xin phép ông đi thăm người anh.

            Và lúc anh gọi trả tiền cà phê, ông ngăn lại.

-Em để tôi trả cho.

            Thụy nhìn ông, nói nhỏ tiếng cám ơn. Ông bắt tay làm Thụy thêm vững tin.

-Lúc nào rảnh, em ghé Toà soạn chơi.

            Thụy đáp dạ, rồi rời bước. Bến xe nằm trước mặt, và chiếc xe đi Quang Trung vẫn còn đang chờ khách cho đủ chuyến. Thụy vào ngồi băng ghế ngoài chờ đợi, mắt nhìn lại quán cà phê nơi anh vừa ngồi với một nhà văn tên tuổi. Thụy cảm thấy mình có chút hãnh diện. Một lúc sau, có người khách bước vào quán và anh thấy ông nhà văn đứng dậy xong hai người rời bước. Thụy chú ý theo dõi thấy ông và người khách đi qua tòa nhà kế bên, đó là toà soạn báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.

            Tự dưng, anh có ý muốn mua tờ báo để đọc đi đường, rồi đến Quang Trung, anh sẽ đưa cho anh Qúy đọc. Lòng vui lên, Thụy xuống xe bước nhanh chân vào toà soạn. Vừa thấy Thụy, ông Thanh Thủy hỏi:

-Em chưa đi ?

-Em muốn mua tờ báo.

-Được, để tôi biếu em ít tờ.

            Ngay lúc đó, ông gọi qua cô thư ký bảo cô lấy cho Thụy vài số báo ra gần nhất. Không khí toà soạn đông vui làm Thụy thêm nôn nao. Nhận được ba số báo biếu, Thụy nói lời cám ơn cô thư ký, rồi vội vàng bước trở ra xe khi nghe có tiếng người tài xế nhấn còi báo giờ chạy.

            Hạnh phúc văn chương  cho Thụy trong một buổi sáng nay đã hoà nhịp cùng với không khí sinh hoạt của thành phố Sài Gòn. Xe lăn bánh, thong thả chạy qua từng dãy phố. Ngồi trong xe, Thụy để mắt đọc tên những con đường. Không lâu, xe bỏ thành phố đi ra vùng ngọai ô và tốc độ bắt đầu chạy nhanh. Thụy nghĩ nhiều đến anh Quý. Thụy còn nhớ rõ gương mặt người anh, trong hình ảnh đó, Thụy vẫn còn nhớ khung cảnh vùng quê nội của mình. Đó là một ngôi làng cát trắng, nằm ven biển, xa tỉnh lỵ Quảng Trị đến mười hai cây số. Những năm tháng ấy còn nhỏ, mùa hè trở về quê Thụy có được sống vui của thời bình yên. Đến lúc này, tuổi đã lớn, dù chưa đi lính nhưng đôi lúc, anh có cảm giác bị chiến tranh đe dọa, sẽ thay đổi cuộc đời mình.

            Ra ngọai ô là nhìn thấy nhiều khung cảnh giống vùng quê. Thụy chưa đi qua con đường này, chưa hề nhìn thấy mọi cảnh vật, sinh họat ở nơi đây, rồi tất cả lùi lại, xa dần để anh đừng bận tâm nghĩ nhiều nữa.

            Xe đang chạy vào bến, rồi ngừng. Thụy xuống xe, ngơ ngác nhìn khung cảnh thị trấn. Sau đó, anh hỏi mấy người quanh đó đường đi vào quân trường. Thụy  lên xe lam, ngồi đợi chừng mười lăm phút xe mới chạy.

Lúc xuống xe, người tài xế chỉ cho Thụy hướng đi tới cổng gác. Thụy cảm thấy yên tâm, và đến đó anh được gặp người hạ sĩ quan  trực liền đưa tờ giấy ghi địa chỉ anh Quý nhờ ông tìm . Trong lúc ông ta lật cuốn sổ , Thụy đọc bảng tên ông viết trên áo.

Liên lạc qua điện thọai xong, ông Thạnh bảo Thụy:

-Anh qua ngồi bên kia chờ.

            Thụy ngồi đợi ở lều tiếp tân. Anh bỗng có ý nghĩ, chắc rồi mình cũng phải vào đây, bắt đầu cuộc đời quân ngũ không một chút gì sáng sủa. Không đợi lâu lắm, Thụy chợt trông thấy một người lính đội nón lưỡi trai đang bước nhanh như chạy. Khi anh ta đến gần, Thụy nhận ra anh Quý và gọi tên anh. Anh cười, mừng vui vì có người thân đến thăm. Anh Quý đặt bàn tay nắm  vai Thụy thật chặt, Thụy rất mừng nhìn thấy người anh  khoẻ mạnh trong bộ quần áo lính. Rồi anh dẫn Thụy đi tới một quán ăn ở gần Câu lạc bộ.

            Thụy mở túi xách lấy gói quà và mấy tờ báo biếu đưa anh trước khi vào chuyện. Anh cầm lấy và nhìn Thụy. Thụy hỏi:

-Anh còn bao lâu nữa mới ra trường ?

-Chừng hai tháng nữa.

-Rồi anh có ra Nha Trang không ?

-Không. Anh ra đơn vị luôn.

-Anh đã viết thư về ngoài nhà chưa ?

-Có, anh viết rồi. Còn em vào đây học  à ?

-Không, em kiếm việc làm.

-Em làm ở đâu ?

-Em mới vào được mấy tháng, tìm việc chưa có.

-Sao em không học nữa ?

-Em thi rớt, chắc học không được nữa vì không có giấy hoãn dịch. Chẳng biết sao, chắc em cũng vào đây như anh hoặc ra Nha Trang.

            Anh Qúy đưa mắt nhìn Thụy, ái ngại. Có lẽ trong cái nhìn của anh, Thụy đọc được những ý tưởng về liên hệ đến gia đình, giòng họ, về một nỗi bất hạnh luôn đè nặng xuống những người thân họ hàng bên  nội anh. Thụy tự hỏi, trong khi bên ngoại anh là giòng khoa bảng, sao bên nội tôi từ đời ông cố, ông nội, đời cha và các chú các bác, đến anh em nhà mình không một ai học hành đỗ đạt. Có một nỗi oan khiên nào đó chăng ?

            Hai anh em uống nước, trò chuyện về người thân, và có lúc im lặng. Bất chợt nghe mùi thức ăn đang nấu dậy lên, anh Quý hỏi Thụy:

-Em ăn gì chưa ?

-Em có ăn rồi.

-Đây có món bò kho, anh gọi em ăn nghe.

            Thụy ngần ngại, cũng muốn ăn nhưng sợ anh Quý không đủ tiền.

-An nghe, anh gọi.

-Anh ăn đi, em không đói.

-An đi, anh gọi.

            Anh Quý cất tiếng gọi hai phần, nhưngThụy nhìn chị chủ quán ra dấu là một thôi. Người kia hỏi lại:

-Hai hay một.

-Chị cho một phần, hai bánh mì.

            Trong lúc này đợi, Thụy muốn nói cho người anh họ biết về tương lai của mình khi đặt chân về đến Sài Gòn. Trong những điều Thụy nói ra, nó vừa uất nghẹn, vừa cố ngoi lên một hy vọng. Anh Quý ngồi im, một lúc cũng với tiếng thở dài nhẹ, anh nói:

-Không biết con cháu mình ra sao ?

            Bữa ăn mang ra. Hai anh em ăn chung một phần và cảm thấy bao nhiêu năm vắng xa giờ gần gũi hơn lúc nào hết.

-Anh có được đi phép cuối tuần không ?

-Có.

            Thụy cầm viết ghi địa chỉ và mảnh giấy, đưa anh nói.

-Em vẫn đang ở trọ nhà dì em.

-Tuần tới đi phép, anh ghé thăm.

            Bữa ăn xong rất mau, anh Quý rót trà vào hai cái ly. Vẫn những chuyện người thân trong họ hàng hỏi đi, nói lại, mỗi lần vậy, hai anh em Thụy như cùng theo trí nhớ trở lại với quang cảnh đồng quê thật là tươi sáng, ấm áp. Nắng hè làm cho nỗi  bâng khuâng trong lòng Thụy trở thành một thứ màu sắc rất dịu dàng khi hòa vào cảnh vật. Anh có cảm giác ngửi được mùi đất, mùi gió, cặp mắt vui với đồng lúa trải dài hai bên, và cùng lúc nghe rào rạt  tiếng nước chảy dưới bờ kênh. Dọc bờ kênh, thỉnh thỏang anh gặp những chiếc xe đạp nước. Có xe còn trống không.  Có xe hai người đang đạp nước dẫn  vào ruộng.

             Bỗng nhiên, Thụy trông thấy cái bóng mình chạy xe trên con đường quan rộng, đến quê nội không xa lắm  nhưng mà  quê ngọai thì xa đến gấp ba lần. Ngày trước, lúc gia đình  còn ở Đông Hà anh thường về thăm quê ngọai trong mỗi kỳ hè. Người hay đem anh về là me của Lăng. Khi về ( thường vào lúc buổi chiều tan chợ ) Lăng, Thụy, anh Nguyên đi theo dì ra bến đò. Bến đò đông vui, với nhiều chuyến chở khách hàng buôn xuôi ngược. Khi đò tách bến ra giữa dòng, mái chèo bắt đầu nhẹ lướt và rồi, mỗi lúc con đò trôi nhanh hơn. Thị xã mờ dần,  khi quay nhìn trở lại chỉ thấy bóng chiếc cầu bắc qua con sông gần bến chợ đã khuất dạng, và khi đến ngã ba sông là thấp thóang hình ảnh quen thuộc làng quê của mình.

            Bãi Sa, quanh bến này có bãi đất trồng dưa nhưng thưa vắng nhà ở. Đò ghé bến nhưng không neo đậu, chỉ có mấy khách buôn và mấy dì cháu cùng xuống. Mặt trời chiều vừa lặn. Từ đầu bến, bốn người đi theo con đường đất rộng dẫn vào làng khỏang chừng gần hai cây số. Con đường đi qua một ngôi đình, khu nghĩa địa có cây ngô đồng, và khi đến gặp trạm thông tin là tới nhà. Ngôi nhà của ông bà ngọai nằm về phía đầu làng. Ngôi nhà lợp ngói xưa, xây trên một nền cao có nhiều bậc cấp bằng gạch, sân trước rộng có thể chơi đá bóng, nhìn ra con đường bên dưới là đồng ruộng, và xa chừng vài trăm thước là con sông nhỏ chảy qua làng, còn phía bên trái và đằng sau nhà là vườn tược rộng rãi trồng nhiều thư cây lưu niên, mỗi mùa, hoa trái sum suê. Bên trong nhà ở, những lọai bàn ghế, đồ vật xưa lưu giữ nay vẫn còn.

            Quê ngọai Thụy giàu  và có nhiều họ hàng đỗ đạt, làm quan. Ông cố ngọai đỗ Tiến Sĩ đời Thành Thái. Bà cố người làng An Cư, là  em gái  ông Nguyễn Văn Tường.  Sau đời ông cố đậu Tiến Sĩ, đến ông bác ngọai đậu Phó Bảng và ông ngọai đậu Cử Nhân, làm quan tri phủ Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông ngọai có hai bà vợ là hai chị em ruột và  sáu  người con. Các cậu, các dì em mẹ anh ai cũng học hành, đỗ đạt, chỉ trừ mẹ chỉ biết đọc, biết viết. Khi các cậu, các dì rời khỏi làng quê đi học xa, mẹ ở nhà trong coi công việc ruộng nương cho ông bà ngọai . Mẹ ít học, nhưng giỏi buôn bán. Buổi chiều,  là hình ảnh của người mẹ. Ngày xưa ấy, Thụy trông thấy hình bóng mẹ mình trong chiếc áo dài nâu đang gánh hàng buôn ở chợ phiên trở về trên con đường đê. Chỉ qua hình ảnh đó, về sau này  lớn lên, Thụy tin chắc rằng anh sẽ viết được cho mình những câu văn chân thật.

            Nhân duyên  ba mẹ Thụy được nghe dì Quyên kể lại. Vì còn nặng tình thương mẹ nên ba anh rời khỏi chùa Huyền Vân, sau ba năm tu học tại đó về  lại đời. Ba anh có được bằng Tiểu học, khi lớn tuổi xin đi dạy. Trường  ba anh dạy đầu tiên là Gia Độ. Đây là ngôi trường làng có đủ 5 lớp. Làng Gia Độ đông dân, rộng gần bằng một quận. Xuân Thành,  quê mẹ anh ở phía dưới cách xa đấy chừng bốn cây số. Từ vùng ngoài này đi vào quê nội anh rất xa, mỗi năm dịp Tết hay hè ba anh mới về thăm gia đình. Còn độc thân,  ba anh sống chung với các bạn đồng nghiệp ở một căn nhà thuê gần trường. Ngôi trường nằm ven sông, quanh đó có một đồn lính gác giữ an ninh.

            Bác Hai và ông Xuân người chú họ của mẹ anh là anh em cột chèo. Qua tình thông gia, ba anh thường ghé thăm ông Xuân, nhiều lúc ở lại chơi cờ tướng hoặc vui vài hội tài bàn. Ông Xuân thấy ba anh người lanh lợi, họat bát, nên giới thiệu với ông bà ngọai anh. Ngày trước cũng như sau này, nhân duyên vợ chồng thường là có mai mối, quen biết.

            Khi ba mẹ anh lấy nhau, ông bà ngọai anh cho một chút của cải và một khoảnh đất rộng bên vườn để làm nhà. Ông ngọai rất thương con gái đầu là mẹ anh. Ông ngọai cũng rất quí ba anh. Khi mẹ sinh anh Nguyên  đầu lòng, hết cả nhà cưng chiều. Lúc bấy giờ, đang làm tri phủ Nga Sơn được hay tin ông  gởi thư về bảo mẹ anh mang cháu ra thăm. Vậy là mẹ anh được đi một chuyến xe lửa từ Đông Hà ra Thanh Hóa ở chơi mấy tuần sau đó đi Hà Nội.

            Khi trở về tìm lại, nhớ lại những ngày tháng của tuổi thơ, Thụy nhớ đến mẹ và quê ngọai nhiều hơn hết. Thụy và anh Nguyên sinh ra ở nơi đó. Ngày xa xưa, anh có được tình cảm bao dung của mẹ và nỗi mừng vui hơn hết trong anh là mỗi buổi chiều ra đứng trước ngõ cổng nhìn về phía con đê trông đợi bóng dáng mẹ  về. Và, đúng vào lúc mặt trời sắp lặn là hình ảnh mẹ xuất hiện. Ngày nào cũng vậy, đi chợ buổi sáng sớm, buôn hàng rồi lên thị xã mua hàng đến chiều về, dưới rổ mẹ bao giờ cũng có hàng quà cho anh em Thụy và mấy cháu. Những xâu bánh vòng, bánh ram, kẹo đậu, kẹo gừng đó là những thứ quà dành cho mấy anh em, mấy đứa cháu được mẹ phân phát. Bây giờ đây với bóng dáng thân thuộc của làng quê, Thụy có cảm tưởng đang làm một bài luận văn với những kỷ niệm về gia đình anh đang chất đầy lên tâm trí.

            Chiếc xe đạp mang hình bóng của Thụy cứ chạy đều tốc độ. Rồi, quê nội dần dần hiện rõ. Anh sắp sửa về tới rồi, chỉ còn hơn một cây số  nữa thôi. Có tiếng động xa gần của những chiếc xe lam, xe gắn máy chạy. Những người đàn bà, những cô gái buôn hàng hay đi chợ mới về họ kéo nhau từng tốp,  và trên đường lúc gặp là vang tiếng ồn ào chào hỏi. Thụy nghe được những câu chuyện họ nói khi đạp xe  vượt qua. 

            Tới trạm cưa bên ngã tư, Thụy rẽ trái. Nếu đi thẳng, từ nơi này đến biển còn cách xa khỏang bảy cây số.

            Làng Đồng  Nghi nằm kế làng anh, chỉ cách nhau chiếc cầu bắc qua con suối cạn. Anh đi vào con đường có bóng im trải dài. Khu chợ  nằm đối diện với ngôi trường tiểu học. Anh ngửi được mùi vị cát quen thuộc của chính làng quê mình. Tới chiếc cầu nhỏ, nước dưới con mương chảy róc rách. Căn nhà bà nội lợp ngói, phía trước là sân gạch, gần lối cổng vào có giếng nước. Quê anh là vùng cát, giếng chỉ đào độ chừng hai thước là có nước dùng. Thụy bỗng cảm thấy trong sự mừng vui thầm lặng, có bóng dáng người yêu đang bước đi bên mình, hay ở một nơi xa nhớ đến mình.

             Nơi đây, xa rất xa. Nơi đây, Thụy thoáng nghĩ đến mình vào những ngày đầu tiên đặt chân đến Đà Lạt. Ngày đầu tiên ấy là một ngày mưa, một ngày buồn lặng khi anh đứng ở bến xe lam nhìn những cơn mưa chìm nổi trong bầu trời sương mù bao phủ kín hết các ngọn đồi.

            Thụy ngồi với anh Quý được hai tiếng đồng hồ thì đứng dậy từ  giã.  Năm ấy, Thụy chưa hề gặp Liên An. Năm ấy, nếu trong lòng Thụy có hình ảnh Liên An, thì bao nhiêu nhung nhớ  sẽ nhắc nhở anh luôn  viết thư cho nàng.

 

 

 

                                                        XV

 

 

            Một tuần lễ nữa là Tết. Sau mùa đông giá lạnh và mưa kéo dài suốt tháng, thời tiết đã trở lại với những ngày ráo khô và tràn ngập nắng. Trong lúc này, Nguyên rất là bận rộn. Buổi sáng, ngày nào anh cũng có hướng dẫn các đoàn thể trong tổ chức tôn giáo, từ thiện , sinh viên học sinh đi thăm binh lính ngoài tiền đồn, đến chiều lại đưa họ trở về thành phố và đến quân y viện thăm và ủy lạo các thương bệnh binh. Nơi tiền đồn hay hậu phương, lính tráng, thương binh đều được các đoàn thể tặng quà và tiền để trong phong bì thư.

            Khoảng tám giờ đêm từ đơn vị Nguyên lái xe về, ghé nhà hỏi thăm sức khỏe của mẹ, chuyện học hành mấy em, sau đó anh đi qua nhà người yêu. Khi thấy Nguyên về, mọi việc riêng tư, kể cả chuyện học Thiên Nga đều ngừng ngay lúc đó. Và, niềm vui cho thấy, trên đôi mắt hai người luôn sáng dịu một nụ cười như thể đó là mấy nét bút phác họa đầu tiên trên bức tranh vẽ.

            Dưới ánh đèn ấm cúng trong căn phòng riêng, hai người trò chuyện, nay thì đâu còn những phút ngập ngừng để nói ra ít lời tỏ tình thương yêu, cuộc sống tự nhiên hơn, và câu chuyện chỉ là những sinh hoạt thường ngày. Nguyên luôn thích kể chuyện về đơn vị, về những người lính, và thành tích của Trung đoàn vừa mới gặt hái được, trong đó bao giờ cũng có sự góp công của anh.  Thiên Nga rất là vui, nàng cũng thích những chuyện kể ấy, chân thực, sống động, đầy tình người.

            Ngồi không lâu, hai người rời nhà. Những ngày hè, những ngày thu , đôi tình nhân đi dạo chơi, trời có trăng, kỷ niệm lãng mạn để ghi nhớ là  một hình bóng chung đôi đang khua nhẹ tiếng bước chân trên những con đường của thành phố nằm ven theo dòng sông. Những ngày mùa đông, giá  lạnh như đêm nay, hai người đi bộ bên nhau, chuyện trò thích thú, hơi lửa ấm nằm trong tiếng nói, chiếu sáng từ nụ cười, họ tìm đến những quán cà phê ít khách, nhưng cũng hay có nhiều đêm bỏ trống cuộc tự tình lang thang giữa đường phố vắng, Nguyên lái xe đưa người yêu đi  ra các vùng ngoại ô hẻo lánh tìm một quán ăn khuya rất bình dân, nhưng thật ngon. Ăn xong, còn trò chuyện khá lâu mới lên xe trở về, đến nhà, hai người vẫn chưa thể rời nhau, và Nguyên luôn luôn dành cho người yêu những nụ hôn âu yếm trước khi nàng đi ngủ. Một mình trong đêm,  từ thành phố Nguyên lái xe vượt qua những con đường chạy dài theo cánh đồng, theo triền núi để trở lại đơn vị.

            Huế cũng đang tổ chức lễ hội chào đón mừng Xuân mới tại hai nơi, khu Morin và khu Đại Nội. Ở hai nơi này, ban văn hóa tỉnh sẽ có tổ chức nhiều đêm ca nhạc tân cổ và hai cuộc triễn lãm về nghệ thuật.  Khu Đại Nội, phòng triển lãm trưng bày những ấn tích cổ xưa của các đời chúa, đời vua  triều nhà Nguyễn. Khu Morin, dành cho hội họa, đó là những tranh sáng tác của nhiều họa sĩ  trong thành phố và sinh viên trường Mỹ Thuật.  Thiên Nga hoàn tất được bốn bức sơn dầu và lụa rất ấn tượng, nàng sẽ dành bốn bức này tham dự cuộc triển lãm. Khởi từ  đầu tháng chạp và chấm dứt tuần rồi, những tranh thiệp của Thiên Nga vẽ cho mùa Giáng Sinh và lễ Tết bán rất chạy ở các hiệu sách, và nàng đã thu được một số tiền rất khá. Đây, đúng  là món tiền đầu tiên tưởng thưởng cho công trình nghệ thuật của nàng. Ít ngày nữa, với số tiền này Thiên Nga sẽ đi mua sắm quà Tết, cho Nguyên, gia đình Nguyên và gia đình mình. Thiên Nga sẽ vào Đà Nẳng sáng ngày ba mươi. Trưa 28 , nàng buổi dự liên hoan ở lớp,  đến chiều Nguyên sẽ đón nàng đưa lên Trung đoàn tham dự một tiệc tất niên với các gia đình anh em binh sĩ. Sau Tết, Nguyên sẽ vào Đà Nẵng thăm Nga và chúc Tết ba mẹ nàng cùng mấy cô em trong gia đình. Chắc chắn, Nguyên ở lại bên Nga một ngày để chơi xuân và thăm bạn bè.

            Những ngày còn lại đến trường lớp, học sinh, sinh viên không học hành nhiều. Ai cũng vui, chờ Tết. Và, nắng xuân đã làm cho cuộc sống manh nha, nẩy mầm. Lớp của Nga hai giờ đầu có vẻ nghiêm túc, sau đó trở nên hoạt náo, cả đám đùa giỡn, phá phách, rồi kéo nhau ra quán cà phê Mai bên ngoài cổng Thọ Nhơn, vào đây, cả đám cũng quậy phá , làm ồn ào, nhưng thực sự vui.

            Nga ngồi bình thản với ly cà phê , nàng rất cảm thấy dễ chịu trước cảnh vui nhộn của các bạn cùng lớp.

            Có một người từ bàn bên kia, đứng dậy, giọng chững chạc nói:

-Chúng ta hãy đề nghị với các thầy cùng  ban Giám đốc trường xin dành riêng một cuộc triễn lãm cho Thiên Nga.

-Đồng ý.

            Nhiều bạn cùng đáp lời, vừa đứng dậy hoan hô, tay  anh nào cầm ly cà phê đưa lên cao, rồi cụng nhau. Một lát sau, một bạn ngồi chung bàn với Nga, nói:

-Năm tới tốt nghiệp, Nga ra trường rời xa Huế, ngôi trường này, thành phố này không còn bóng dáng của Nga nữa.

            Cô gái chỉ mím môi cười. Với một cử chỉ đó thôi mà nàng làm cả bọn ngẩn ngơ nhìn ngắm. Giọng người kia, lại tiếp:

-Rồi những năm sau, ngôi trường này, kỷ niệm đáng ghi nhớ là hình ảnh Thiên Nga thôi. Vâng,  không còn một bóng hồng nào thay thế nữa.

            Lập tức, Nga lên tiếng:

-Bộ sinh viên học vẽ không có con gái sao ?

            Câu chuyện ồn lên, người bàn bên kia nói:

-Đồng ý là sẽ có, nhưng chỉ một Dương Quý Phi là Thiên Nga của trường Mỹ Thuật thôi. Không, sẽ không còn một ai, mà nếu có, cũng không một ai thay thế được nàng tiên Thiên Nga hết. Thiên Nga xa Huế, rồi thành phố này cũng sẽ buồn vì thiếu vắng người đẹp, thiếu vắng bóng thiên thần.

-Thôi đi , đừng có ca cải lương nữa.

            Nga cố chống chế, nhưng nàng cười, lòng cũng rất vui. Cả bọn lại ồn lên, ngay lúc ấy, anh chàng vừa đưa ra những lời tán tụng, bỗng bắt chước giọng người miền Nam cất lên một bài hát cải lương . Dứt bài hát, Nga cùng các bạn vỗ tay tán thưởng thật giòn giã.  

            Trưa hôm nay, sau buổi học về  Nga ghé vào chợ Đông Ba mua thức ăn. Khi nàng đi ngang các gian hàng chợ, ai cũng chú ý, cười vui nói ra lời ngợi khen sắc đẹp của nàng. Họ không thể biết, nàng đã có người yêu. Nhưng với khuôn mặt trái soan, mái tóc trên vai áo như một khúc sông hiền hòa, nàng đã thể hiện những nét đặc sắc của một thiếu nữ, mà các cô gái ở thành phố này hầu như xa lạ hẳn. Thiên Nga không chỉ có năng khiếu về họa, mà đan áo, nấu ăn cũng là sở trường của nàng. Thiên Nga rất rành nấu món mì Quảng, và đó cũng là món Nguyên rất  thích. Nguyên thích ăn món này, không phải để chiều ý người yêu, nhưng đó là món bình dân anh ăn rất ngon, hơn cả phở Bắc và bún bò Huế nữa.

            Nga về tới nhà. Vừa lúc chạy xe qua cổng, nàng trông thấy người phát thư liền cất tiếng hỏi:

-Có thư không anh ?

            Người phát thư quay đầu lại, thấy nàng liền đáp lời:

-Dạ có.

            Anh ta cầm gói ấn phẩm và thư đưa cho Nga. Nhìn anh ta, nàng nói:

-Cám ơn anh nhiều.

-Dạ, không có chi.

            Nga nhìn xuống tên người gởi nơi gói ấn phẩm, bỗng ngạc nhiên, vừa cảm thấy vui.  Còn lá thư là của Kim.

-Cám ơn anh nhiều lắm.

-Không có gì đâu cô,  ngày nào cũng đi đưa thư mà.

            Người phát thư ra cổng rồi lên xe đạp đi về hướng cây cầu.

            Nga dựng xe đạp dưới bóng im cây trứng gà bên hông nhà, nàng quay trở bước, rồi đi lên bậc thềm, dừng lại một chút  tra chìa khóa mở cửa. Vào nhà trong, Nga để ấn phẩm và thư ở bàn khách còn túi thức ăn thì đem vào nhà trong đưa xuống bếp đặt lên mặt bàn có để rổ chén bát.

            Nga thay quần áo nhẹ màu cam xong trở lên nhà. Nàng ngồi xuống phòng khách, mở thư  cô bạn ra đọc trước. Kim và gia đình đang ở Sài Gòn. Sài Gòn quá ồn ào, Kim rất là nhớ Huế.  Rồi, qua những lời tâm sự, Kim nói tới người bạn trai là Trình một Sinh viên Luật đang theo đuổi nàng. Nàng chưa quyết định, nhưng đã có những lúc phân vân, bối rối. Thư  Kim viết hai trang giấy pelure, đọc xong Nga gấp lại. Thong thả, Nga cẩn thận mở gói ấn phẩm , nàng cũng đang nghĩ nhiều đến người em của Nguyên.

            Số tiền nhuận bút 700 đồng và thêm hai tờ báo Xuân Tòa soạn gởi Thụy đã nhận được qua thư bảo đảm. Thụy nghĩ ngay lúc ấy đến hai người mình sẽ tặng quà là Thúy Hà và Thiên Nga. Đây cũng là dịp, Thụy tìm ra được một số ý để viết vào lá thư gởi cho người bạn gái của anh mình.

            Còn đến ba tuần lễ nữa mới Tết Nguyên Đán. Năm nay, kẹt thời gian còn trong khóa học nên Thụy cùng các bạn đang học phải đón Tết ở quân trường. Nhưng dù vậy, việc tổ chức Tết dành cho tân binh, khóa sinh, SVSQ cũng sẽ được vị Chỉ huy trưởng lưu tâm. Vào tuần lễ rồi, bên đoàn SVSQ có hai mươi người được  gọi về Bộ Tư Lệnh để làm thủ tục xuất ngoại. Tối hôm ấy, ở hội quán Câu lạc bộ Sinh viên rất ồn ào, náo nhiệt. Thành, một bạn học cùng lớp với Thụy đang ở đây, chờ ngày đi Mỹ.

            Buổi chiều, đến năm giờ lớp học tan, Thụy ghé phạn xá ăn cơm xong liền  trở về phòng nghỉ. Ngày nào, Thụy cũng có lấy cơm không để ăn thêm buổi tối vì anh rất mau đói. Khi đến kỳ lãnh lương, anh hay mua một ít kẹo bánh, đồ khô, và cơ bản là một chai nước tương để ăn với cơm. Ở phạn xá, thức ăn ít, nhưng cơm nấu nhiều, dư dả, thường chỉ có Thụy và vài ba khóa sinh hay lấy thêm mang về ăn tối. Đây là cơm loại gạo hạt tròn  có bỏ thuốc vitamin nên ăn ngon, nhờ vậy, Thụy rất là khỏe.

            Sau khi cất sách vở, cà men cơm ở trên giá chỗ giường nằm,  Thụy trở ra ngoài sân, làm một vòng đi bộ cho dễ tiêu cơm, vừa  là cách vận động thể dục. Hôm nay là thứ sáu, ngày mai cuối tuần được phép ra phố. Đó là nguyên tắc, kỷ luật quân trường, chứ thực ra bọn anh coi như là lính cơ hữu, sau giờ làm việc ra vào cổng lúc nào cũng được. Ở trạm gác trong, SVSQ chỉ chú ý đến các khóa trong đoàn Sinh viên, không mấy ai quan tâm về khóa sinh và cũng chẳng khi nào gây khó dễ.  Ở cổng gác ngoài cũng vậy, lính gác đều biết rõ lớp của Thụy là khóa sinh. Tối nào, trong đám bọn anh cũng có người đi, nhất là vào mùa trăng, ra biển ngồi ngắm cảnh sóng nước, núi non cũng thích thú, lãng mạn. Nói chung, đám binh sĩ như anh, người nào cũng có bằng Thành Chung, cũng học đến chương trình Tú Tài, thi không đậu đạt thôi, chứ kiến thức so với SVSQ không quá chênh lệch.

            Khoảng tám giờ tối, Thụy lên phòng đọc sách báo ngồi viết thư. Đúng là với món quà tặng là tờ báo Xuân giúp anh  dễ dàng viết nên được lá thư tự nhiên để gởi cho chị Thiên Nga. Thụy nghe rõ trong lòng mình, gọi Thiên Nga bằng chị thật là chân tình, quyến luyến. Mới lúc đầu, Thụy có sự đắn đo, nhưng nghĩ nàng là bạn gái anh mình, anh xin gọi là chị, dễ có tình thân. Thụy viết khá nhanh, dồi dào ý, xong lá thư một cách thật nhẹ nhàng. Thụy muốn viết thư  cho Thúy Hà vào những ngày sau, có thể là gần Tết, lúc đó kể cho nàng nghe những vui buồn của anh trong thời gian ăn Tết ở một nơi xa. Thúy Hà , tên nàng có lúc nhớ, Thụy bỗng gọi tên Nha Trang là thành phố dấu yêu của anh và nàng. Còn Thiên Nga, trong cái tên ấy, Thụy đang mong tìm kiếm một xứ sở, một thành phố làm thủ đô, và thành phố ấy  nằm trong trái tim hồng đỏ của nước Nga, nơi đất nước này, anh mến yêu biết bao chừng khi nhớ nghĩ đến nhà văn Antoine Tchékhov, và ông, cũng như bây giờ có cả Thiên Nga nữa cho anh cả một giấc mơ trên những cánh đồng cỏ, những khu vườn anh đào, và những mùa chim hải âu thiên di.

             Xong một buổi tối, Thụy ôm tập giấy đứng lên, rời phòng đọc sách.

            Khi về đến phòng, có cuộc đấu cờ tướng của hai bạn cao thủ, cả hai đánh rất hay, đông anh em xúm xít đứng coi, Thụy cũng  ghé mắt vào, được thấy mỗi con cờ có những nước đi thật sắc sảo, thông minh.

            Về đêm, đến giờ kẻng báo ngủ Thụy lên giường nằm yên lặng. Một lúc, trời có mưa. Thụy kéo tấm chăn đắp lên ngực nằm nghe mưa. Trong cơn mưa, anh vừa hình dung và nghe ra được những tiếng nói thân thiết, cảm động. Ở Nha Trang, tuy cũng đang thời tiết của mùa đông nhưng không có những ngày lạnh giá, và trời mưa dai dẳng như là ở miền Trung phía Bắc, nhất là ở Huế và Quảng Trị quê của anh.

            Ngày hôm sau, Thụy chưng bộ quần áo vàng đi phố. Không có lon lá đeo lên cầu vai, nhưng bộ quần áo vải kaki trông đẹp, khỏe mạnh, và đội chiếc nón cát kết xanh dây viền đen, nhận thấy mình trẻ hẳn ra, nào thua kém ai. Rồi đây, Thụy lấy xong bằng Tú Tài đôi, đi SVSQ kỹ thuật, rồi  tìm ra một em xinh đẹp ở thành phố này, đấy là nguồn vui, phải không bạn.

            Trên đường phố chính hẳn còn vắng, một số cửa hiệu buôn bán chưa mở cửa. Thụy ghé vào tiệm ăn sáng làm một tô phở lớn, rồi ly cà phê sữa. Ngồi trong quán, sau bữa ăn, Thụy đốt thuốc hút, nhấm nháp từng hớp cà phê, mắt vừa nhìn ra đường, còn tâm trí cố thể hiện một nhận thức về cuộc sống, và Thụy thấy rằng, mình được như thế này là đủ. Anh sẽ ở lính Không quân đến khi đất nước thanh bình, thống nhất, rồi được giải ngũ. Anh sẽ viết văn, và tin rằng ngòi bút mình ngày càng vững vàng, và anh sẽ viết khá, sẽ trở thành nhà văn, và sẽ lần lượt cho in nhiều tác phẩm truyện dài, truyện ngắn, rồi sẽ nổi tiếng, độc giả hoan nghênh, rồi  sẽ hái được nhiều tiền nhờ vào những cuốn sách in ra bán được. Nhưng mà thôi, hãy để bao nhiêu giấc mộng ấy qua mau,  nãy giờ, cứ miên man vậy mà anh không ước mơ chuyện mình sẽ lấy vợ. Đó là vì, tuổi anh còn trẻ, anh vẫn phải sống thật lãng mạn để viết văn.

            Một giờ sau, khu phố chính thức dậy, ồn ào với người và xe cộ đi qua lại trên vỉa hè, trên mặt đường, rồi đâu vào đấy, mọi thứ sẽ bắt đầu theo sinh hoạt thường lệ rất sống động vào hai ngày cuối tuần. Các cửa hiệu buôn bán đã mở cửa. Rạp hát chính cũng khởi sự buổi chiếu phim đầu ngày.

            Thụy trả tiền tô phở, ly cà phê sữa, mua thêm gói thuốc xong rời quán. Từ quán ăn, anh đi bộ tới hiệu sách xa chừng lối trăm mét. Vào trong cửa hiệu, anh tìm mua ngay mấy tờ báo Xuân, ảnh chụp thắng cảnh, và một tờ giấy màu để gói, một bao thư lớn để gởi, xong trở ra quầy tính tiền.

            Hôm nay thứ bảy, nhà Bưu điện mở cửa đến ba giờ chiều. Khi tới đó, Thụy qua chỗ bục đá có sẵn bàn dành cho khách cần viết thư. Thụy chiếm lấy một ô, rồi bắt đầu gói quà tặng xong bỏ vào bao thư lớn màu vàng. Chỉ mất thời gian nửa tiếng là xong, sau đó, anh đứng sắp hàng chờ đến phiên.

            Từ nãy giờ, Thiên Nga im lặng với những cảm giác của nàng như hương sắc trong cây lá mùa xuân được chan hòa, cất giấu. Nàng coi đây là giây phút hạnh phúc quí giá, và để nhớ tới người em của Nguyên nàng muốn lúc này, từng thứ một trong gói quà sẽ biểu hiệu tiếng nói, khuôn mặt người đó đang ở bên nàng.

            Báo Xuân in rất đẹp, nhiều phụ bản. Mỗi tờ cầm trên tay, Nga lật nhẹ từng trang, đọc qua tựa bài, tên tác giả, và luôn luôn nàng gật đầu cho rằng em của Nguyên đã chọn mua những tờ báo có bài vở rất hay, gây thích thú người đọc. Tờ báo Xuân sau hết là Tiểu Thuyết Thứ Năm. Vừa mở ra, thấy có chữ Kính biếu son đỏ, Thiên Nga đoán biết ngay là có truyện của Thụy  viết đăng trong số báo này. Nàng vội lật qua trang, đọc phần mục lục, và khi tìm thấy có tên của Thụy lòng nàng hết sức vui. Lập tức, Nga tìm ngay đến trang có đăng truyện, thấy dòng chữ in, thấy tên tác giả và bên cạnh truyện có tranh vẽ, nàng thật hãnh diện muốn nhắn gởi niềm vui chia sẻ với em của Nguyên.

            Thật chăm chú, Nga đọc. Nàng không bỏ sót một câu, một dòng. Và sau khi đọc xong, lòng Nga cảm thấy rất vui.  Nàng vẫn ngồi đó xem những bức ảnh thắng cảnh ở Nha Trang, những bức ảnh màu có nền vàng và xanh biển rất là đẹp.

            Sau cùng, nàng mở lá thư  của Thụy.

 

            Chị Thiên Nga thân mến,

            Nhân dịp đón Xuân về, Thụy gởi tặng chị món quà Tết và cùng với lá thư này viết ít lời gởi thăm sức khỏe chị cùng gia đình hai bác.

            Thụy đang ở Nha Trang, học lớp chuyên môn ngành điều không, còn chừng hơn tháng nữa là mãn khóa học, sau đó về đơn vị ở Sài Gòn làm việc như trước kia.

            Như mấy năm trước, Thụy vẫn ăn Tết xa nhà, nhưng bao giờ mỗi cái Tết cũng làm mình nhớ đến những người thân rất nhiều, năm nay trong những người thân quen thuộc ấy, có thêm hình ảnh của chị nữa.

            Những tờ báo Xuân gởi chị làm quà Tết, trong đó có một truyện ngắn của Thụy được đăng ở tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Khi viết xong truyện gởi đi, Thụy cũng chỉ mong đăng số báo thường thôi là vui rồi, đâu ngờ được tòa soạn chọn vào số báo Xuân. Một mầm non văn nghệ mới tập tễnh viết, mà truyện được lên báo Xuân thì le lắm chị Thiên Nga ạ. Không chỉ cho đăng thôi, Tòa soạn còn gởi một mandat tiền nhuận bút thật hậu hĩnh, 700 đồng, bằng một phần ba tháng lương lính của Thụy đó.

            Rất hy vọng món quà Tết với ít tờ báo Xuân và ảnh thắng cảnh làm chị vui, và rồi thế nào cũng có một ngày về phép thăm nhà, Thụy sẽ được gặp chị. Vào ngày hôm đó, nhận được thư anh Nguyên, anh có nhờ Thụy mua cuốn sách Tìm hiểu hội họa của tác giả Đoàn Thêm gời cho chị, Thụy đã tìm mua được, nhưng không gởi ngay từ Sài gòn mà phải ra Nha Trang vì ngày đi học đã cận kề , với lại có địa chỉ Nha Trang, nếu chị đáp thư cho biết tin nhận được thấy an tâm hơn, phòng thêm nữa, bưu kiện có bị trả lại mình vẫn nhận được.

            Thật là rất vui, cảm động khi đọc thư của chị. Những chuyện nho nhỏ trong gia đình, trong cuộc sống,  chị kể lại cho nghe qua thư thật là thân tình, và rất ghi nhớ. Buổi tối ấy, anh Nguyên gặp chị ở quán cà phê, rồi quen nhau khi về đến nhà, đó là một mối tình thật dễ thương và đẹp. Rồi hai người hiểu nhau, anh Nguyên đã vào Đà Nẵng thăm chị và gia đình hai bác, rồi ít ngày sau, hai người cùng lên một chuyến tàu trở ra Huế cho kịp mùa học, rồi cũng có một hôm,  anh Nguyên và chị rất là vui vẻ với chuyến đi ra Quảng Trị, Đông Hà để thăm hai làng quê nội và ngoại của anh. Một chuyến đi như vậy thực là cả một tấm lòng, hạnh phúc dành cho chị , mang đến cho chị một nguồn cảm xúc về quê hương, và chị đã sáng tác được những bức tranh quí giá, còn về  Thụy thì  những hình ảnh làng quê cũ được sống lại trong một nỗi nhớ quá dịu dàng, thật thân thiết, qua những dòng thư  rất chân tình chị đã viết và gởi cho đọc.

            Rất mong đến kỳ hè năm tới đây, Thụy lại được hưởng kỳ nghỉ phép thường niên, lúc ấy, thu xếp một chuyến đi về Huế thăm nhà để  gặp chị ở thành phố này, và nếu chị về nghỉ hè ở Đà Nẵng, Thụy cũng sẽ đi theo anh Nguyên hoặc một mình vào đó thăm chị. Ở Đà Nẵng, mấy năm trước, Thụy có ở trọ nhà dì Vân và học ở trường Sao Mai. Năm học đó, Thụy cũng có quen một người bạn gái khá thân, giờ thì nàng vẫn ở nơi chốn cũ ấy, nhưng đã có chồng con rồi.

            Chắc chị Thiên Nga còn đợi thêm một năm cuối nữa sẽ ra trường, phải không. Sau này, tốt nghiệp chị sẽ chuyên sáng tác để triển lãm tranh, hay sẽ chọn làm cô giáo dạy môn Vẽ. Chà, cô giáo Thiên Nga với bóng dáng chiếc áo dài mà đứng trên bục gỗ ở lớp, thì đã là bức tranh thể hiện cuộc sống thực ngoài đời, đâu còn tưởng tượng ra gì thêm những nét vẽ khác nữa, phải không ?

            Rất là mến chị, dù chưa gặp. Và, một ngày nào đó qua hình ảnh cô giáo, bỗng dưng với cả tấm lòng mến yêu, anh Nguyên hay là Thụy sẽ đem được chị tới một nơi nghèo khó, và chị sẽ ờ  nơi chốn này với tất cả những tháng năm trong cuộc đời làm cô giáo của mình.

            Đó là một ngôi trường ở tỉnh  Quảng trị. Hình dung lại thành phố nhỏ ngày xưa, có một ngôi trường anh Nguyên, Lăng và Thụy đã học, và hình dung vào ngày đầu thu chị Thiên Nga xuất hiện làm cô giáo của trường, chừng bao nhiêu  sự cảm nhận ấy kết hợp lại, mãi mãi thành phố Quảng Trị sẽ là quê hương yêu dấu , và sẽ thuộc về tất cả chúng ta.

            Sự đi thăm một lần đầu của chị ra thành phố Quảng Trị, ra thị trấn Đông Hà, với anh Nguyên,  với khung cảng làng quê nội, quê ngoại  có phải  đó là một hạnh phúc được báo trước và chúng ta đang đợi chờ không nhỉ. Với Thụy, thì chị Thiên Nga người mẫu, là khung trời xanh, lúc nào cũng trải rộng cuộc sống của mình khắp nơi trong thiên nhiên, và rồi, đời của chị là ký ức một thành phố nằm bên những con sông êm đềm . Ở Quảng Trị có nhiều con sông và hai cửa biển. Rồi đây, có một ngày đưa chị đến dạy học ở nơi này, sông và biển, cả hai đều thủy chung một tấm lòng đối với chị.

            Cám ơn nhiều lắm lá thư của chị gởi cho Thụy đọc.  Không biết, thư và bưu kiện gởi quà cho chị sẽ đến với vào dịp trước Tết hay là sau đó.

            Trước hay sau, đối với Thụy, từ đây luôn giữ lâu  hình ảnh chị trong tâm trí để mong có một ngày về thăm gia đình và được gặp chị.

Nhớ đến anh chị rất nhiều khi ở xa,

Thụy.

            Mãi đến quá trưa, sau khi đọc xong lá thư ,  Thiên Nga vẫn ngồi một mình rất lâu ở phòng khách.

 

 

                                                 Phần Thứ  Hai

 

 

                                                             I

 

 

            Chuyến xe ca rời khỏi trạm hàng không. Một mình bơ vơ, lúc lâu sau Thụy mới đi ra lối cổng đón xe buýt về nhà. Buổi sáng nắng lên cao, và lúc nhìn cảnh sinh hoạt vào giờ này trong thành phố, bạn luôn có cảm tưởng như  mình từ đâu xa vừa mới trở về. Về lại Sài Gòn sau mấy tháng ra Nha Trang học,  nay Thụy mới thực sự ổn định về công việc,  về một đơn vị có tính cách lâu dài,  và anh cũng sẽ không còn vướng bận thêm chuyện gì nữa. Vào hôm thứ sáu  trình diện ở Bộ Tư Lệnh,  sau khi bốc thăm, Thụy trúng tỉnh Cần Thơ, nhưng ước muốn được gần Sài Gòn nên Thụy đổi chỗ  Biên Hòa với Sang, cả hai bạn cùng đồng ý không mặc cả hay bù trừ thêm một khoản nhỏ nào hết. Sang xuống Cần Thơ là được ở gần gia đình, còn Thụy, lên Biên Hòa, nơi này chỉ cách Sài Gòn 30 cây số, đi về trong ngày hay trong tuần thực dễ dàng.

            Kể từ nay, theo chỉ số chuyên môn Thụy sẽ làm công việc bên ban hành quân ngành điều không, và không thể trở lại với báo Lý tưởng như lúc đầu. 

            Lăng vừa thi đậu vào trường Hành chánh, ban Cao học. Trước kỳ nhập học, Lăng về Huế thăm gia đình, bà dì Quyên me Lăng vẫn ở căn nhà trên đường Phan đình Phùng trông xuống bờ sông. Căn nhà này có vẻ bình dị, nhưng mát mẻ, sân trước khá rộng để có thể đặt một bàn bóng bàn hoặc chơi vũ cầu. Cũng còn hai năm nữa, dì Quyên đến tuổi nghỉ hưu. Hồi nhớ lại bao nhiêu năm tháng cũ, hình ảnh dì một góa phụ còn trẻ đã để lại trong tâm trí những đứa cháu gần gũi như  Thụy và anh Nguyên cả một tấm lòng nhân hậu với nhiều kỷ niệm của tuổi thơ rất là nhớ, thương yêu. Một năm đó, về quê ngoại không đi đò dọc mà bằng đường bộ, dì Quyên dắt Lăng cùng  hai đứa cháu là anh Nguyên và Thụy đã vượt cạn qua một con sông khá rộng. Thụy cũng còn nhớ nữa, những năm đầu ở lớp tiểu học, anh lắng tai nghe tiếng dì đọc bài tập đọc để viết chính tả, và mỗi bài tập làm văn anh được dì hướng dẫn cho cách đặt câu. Mẹ anh và người dì, tính tình khác nhau, học vấn cách biệt nhau, nhưng hai chị em rất thương nhau và ngoài đó, lui tới cũng chỉ còn hai chị em. Ở xa, các cậu và các dì em do công việc làm, do sinh kế, đã lâu rồi chưa có dịp trở về Quảng Trị để thăm làng quê.

            Bây giờ đây, có thể nói dì Quyên đã nhẹ gánh. Linh tốt nghiệp Sư phạm Qui Nhơn ra trường, dạy học được hai năm. Loan mới  đậu Tú Tài II, còn Lăng cũng đã xong Cử nhân Luật. Hai năm sau tốt nghiệp Cao học hành chánh, Lăng sẽ có chức vụ từ Trưởng ty trở lên. Vài hôm trước khi về Huế, Lăng tâm tình với Thụy là ít năm nữa ổn định việc làm Lăng sẽ đưa cả gia đình vào Nam xuống miền Tây định cư. Thụy hết sức đồng ý với dự định của Lăng. Thụy cũng rất yêu thích miền Nam, anh cảm nhận nơi vùng đất này luôn có sự bao dung đối với những người tha phương, lưu lạc và ước mong họ lập nghiệp với cuộc sống yên bình.  Tuy nhiên, không chắc lắm dì Quyên muốn xa khung cảnh trầm lặng ở Huế, nhất là đi quá xa Quảng Trị, quê hương ruột thịt của đời mình.

            Mười giờ sáng phi cơ rời Sài Gòn, sau gần hai giờ bay là hạ cánh xuống Phú Bài. Từ phi trường, luôn có nhiều chuyến xe ca đưa khách về thành phố.

            Mùa hè đã tới, Huế lại rộn ràng trong không khí giữa mùa thi. Thụy chợt nhớ Liên An, nhớ một đôi nét tin yêu trên gương mặt của nàng. Trong buổi chiều ấy từ biệt, đứng ở bậc thềm sân nhà ga anh nhìn theo bóng dáng một cô gái áo trắng trên đường về nhà. Với ý tưởng ấy, từ một thành phố không cần đem cho tên gọi nhưng anh vẫn gói ghém được sự dịu dàng của tình yêu trong tiếng nói.

            Trưa, nắng gắt. Lăng xuống xe xách va li bước qua sân, cả nhà vừa trông thấy cùng ùa reo lên nỗi  mừng vui. Dì Quyên đứng một mình bên cửa, cặp mắt lặng nhìn  đứa con trai đã trở về với gia đình. Lăng mặc chiếc áo sơ mi kẽ sọc xanh, chiếc quần tergal, nơi cổ tay đeo chiếc đồng hồ Movado.

            Bên ngoài con đường vắng bóng người, nhưng gió từ dưới sông thổi dậy lùa bay bụi đường trông như đã thấy mái tóc quấn dày của một cô gái đang bị xổ tung.

            Loan hỏi:

-Anh về nghỉ được lâu không ?

-Một tháng.

            Một lát sau, vợ chồng Tri và Linh về tới nhà, bữa ăn được dọn lên. Rồi bỗng dưng vội vàng, Tri quay trở ra ngoài, ngồi lên xe Honda nổ máy xong vèo đi ngay , chừng mười lăm phút sau trở lại với một két bia Hòa Lan.

            Loan ngạc nhiên hỏi:

-Ở quán , có ai núp mưa không anh Tri ?

            Tri đáp lời ngay:

-Anh Lăng ở xa về, cả nhà phải chào mừng anh.

            Gia đình họp mặt đông đủ. Bữa ăn dọn lên nhiều món, bày biện đẹp mắt. Tri ngồi cạnh Lăng, vừa cười, vừa nói rằng món bánh tráng cuốn với các thứ rau, thịt heo, cá, tôm quá hấp dẫn, thiếu ly bia là không thể được.

            Hai anh em cụng ly,  rồi nốc cạn. Khi Tri rót thêm bia, Lăng hỏi:

-Tri có xin cải ngạch không ?

-Không, em dạy ở Tiểu học cho khỏe, ham chi chức giáo sư.

            Bữa ăn bắt đầu, cả nhà cùng vui tiếng chuyện trò. Nắng hè thoang thoảng dịu thơm thứ hương mùa của câu trái, và dòng sông thật êm ả.

            Tri có học thêm trên trường Văn Khoa, đã xong hai chứng chỉ. Tri không bị đi lính vì là con trai độc nhất  trong gia đình. Tri và Linh học cùng khóa Sư phạm Qui Nhơn, đôi bạn quen nhau ở trường ngay năm đầu mới nhập học. Ra trường, được ít tháng thì xin lễ hỏi, rồi một năm sau là đám cưới. Nhưng hai vợ chồng còn thư thả , vì chưa có nhóc tì nào cả.

            Bữa ăn rất ngon miệng. Có ly bia, Lăng uống từ từ , và trên mặt đã thấy hừng đỏ. Nãy giờ, dì Quyên rất vui trong lòng nhưng không nói gì cả, mỗi khi ngừng đũa, dì đưa mắt nhìn đứa con trai. Lòng dì dễ bị xúc động, trên ánh mắt thật muốn nói rất nhiều.

            Bỗng Lăng nghe tiếng của Loan:

-Em muốn vào Sài Gòn.

-Sao không học ở đây ?

            Loan cười:

-Em chán ở Huế rồi.

            Lăng hỏi:

-Nhưng vào Sài Gòn, Loan tính ở đâu ?

-Thì ở  nơi nhà cậu với anh .

            Một giọng dè dặt, cân nhắc, Lăng đáp lời:

-Anh nghĩ Loan nên học ở đây ít năm đầu. Anh ra trường rồi, sẽ cố gắng đưa me và các em vào miền Nam.

            Rồi với chút băn khoăn, Lăng nói thêm:

-Anh Thụy ở Sài  Gòn, mà cũng về trong trại lính.

            Tri khui một chai bia nữa, rót đầy thêm vào ly của Lăng.

            Dì Quyên nói:

-Thôi, uống chi nhiều vậy.

            Tri cười nói:

-Anh Lăng ở xa về, me cho anh say sưa một bữa.

            Với gương mặt dễ thương, nụ cười rất hảo cảm Tri muốn làm dịu đi sự lo lắng của người anh, và tuy là em rể, nhưng trong nhà, cảnh huống mỗi người Tri hiểu rõ hơn ai hết.

            Lăng nói:

-Anh Thụy đi lính rồi, cũng thấy khỏe.

            Linh hỏi:

-Anh Thụy được chức chi rồi ?

-Không chức chi hết. Lính trơn thôi, nhưng ông sống tà tà.

-Anh có bằng Tú Tài mà lính thôi sao ?

-Ờ, anh thích vậy. Ở lính nhàn hạ, có thì giờ học thêm.

-Em rất đồng ý với anh Thụy. Rồi đây, có lấy được bằng Đại học, em vẫn cứ dạy ở dưới này cho khỏe thân. Và, rảnh thì giờ, mình xin dạy trường tư.

            Linh hỏi:

-Bên hành chánh, anh học bao nhiêu năm mới xong ?

-Hai năm thôi. Ra trường, anh được bổ nhiệm ngay. Anh cũng rất muốn đưa cả gia đình vào miền Nam sinh sống.

            Bữa ăn trưa thư thả, kéo dài trong sự ấm áp của tiếng chuyện trò.  Khi mọi người ăn xong, cơm và thức ăn còn dư nhiều. Tri hỏi Lăng:

-Anh Lăng uống cà phê không ?

            Lăng gật đầu. Dì Quyên và Linh dọn dẹp gom thức ăn dư vào dĩa, xong đem chén bát xuống nhà. Tri đi đun nước sôi để pha cà phê. Loan và Lăng ngồi lại bàn.

            Loan hỏi:

-Anh ở nhà cậu mợ , khó khăn không ?

-Không, nhưng đến lúc mình phải tự lập.

-Me rất muốn anh đi làm việc sớm.

-Anh cần phải đi làm nên học ngành này. Anh đã tính rồi, có muốn ra Luật sư thời gian tập sự đã lâu mà tìm việc cũng khó. Với lại , anh không thích việc Tòa án.

-Em rất muốn vào Sài Gòn.

-Trường Đại học đây cũng tốt.

-Không, em chỉ muốn xa Huế.

-Anh muốn em hiểu về me và gia đình những người thân.

-Em hiểu chứ.

-Sao em không xin đi du học.

            Loan cười:

-Em hỏi rồi. Phải đậu hạng Bình trở lên.

            Tri đem nước đá và cà phê lên. Loan cười bảo:

-Hôm nay anh Tri quá giỏi.

-Đừng có khen anh.

            Cà phê được pha trong một cái phin lớn, sau đó sớt làm ba ly. Mỗi người nhận lấy phần mình, tùy theo lượng đường, nước đá tự động bỏ lấy.

-Chiều nay có tới trường không ?

-Không, em chỉ có mặt buổi sáng.

-Anh Tri đang làm Hiệu trưởng.

-Vậy à. Đã có giấy bổ nhiệm ?

-Em làm hai tháng nay rồi.

-Vậy là ngày nào em cũng phải đeo cà vạt, ngồi bureau ký giấy tờ.

            Tri cười đắc ý.

-Linh  dạy trường nào ?

-Vỹ Dạ.

-Me dạy gần hay xa ?

-Trên Nguyệt Biều.

            Ba anh em uống cà phê, chuyện trò thân mật. Chỉ có mình Tri hút thuốc. Tri hỏi:

-Anh Thụy còn viết văn không ?

-Còn. Ông là thứ lính hạng nhất.

-Anh có bồ bịch gì chưa ?

-Ông thì lung tung.

-Anh viết truyện tình ra rít lắm. Không biết ngoài đời ra sao ?

-Ông đâu có người thật. Nhân vật dành cho các cô gái là tưởng tượng thôi.

-Vậy mà có truyện anh viết tưởng như là thật.

            Buổi chiều, Tri chở Lăng xuống phố chơi. Xe đưa vào bãi gởi, sau đó, hai anh em lang thang trên phố Trần Hưng Đạo. Huế không thay đổi nhiều, nhưng mỗi lần trở lại, Lăng vẫn cảm thấy ngỡ ngàng. Lăng đã quen cuộc sống miền Nam, và Sài gòn là thành phố Lăng đã có sự gắn bó về cuộc sống, về tuổi trẻ của mình hơn đâu hết.

            Ngày hôm sau, giỗ chú Vinh chồng dì Quyên. Ông Hoàng em chú Vinh cùng vợ đến dự mang theo một mâm trái cây. Khách mời đông, cỗ dọn cả nhà trong và ở ngoài dưới mái hiên.

            Đến chiều vãn khách, giờ đó Nguyên mới đưa Thiên Nga tới. Cả nhà vui, hạnh phúc lúc thấy  lên khi đôi tình nhân xuất hiện, và ai cũng khen Thiên Nga quá đẹp. Đợi anh Nguyên giới thiệu xong, Nga mới hỏi chuyện Lăng. Giọng nói nhẹ nhàng của thiếu nữ đem lại ý nghĩa trong một sự giao tiếp thân tình, mà nàng thể hiện được bản tính của mình tươi sáng như bông hoa.

            Trong lúc chờ ăn cỗ, mấy anh em ngồi quanh chiếc bàn tròn với nước trà, bánh ngọt.

-Anh Lăng mới gặp chị Nga lần đầu phải không ?

            Loan hỏi, Lăng gật đầu. Với nụ cười luôn có trên đôi mắt, Thiên Nga nhìn qua Lăng và nàng cố gợi nhớ đến những chuyện Nguyên đã kể về giòng họ bên ngoại anh cho nàng nghe. Không cần hỏi nhiều thêm, Nga cũng đã biết Lăng là em bạn dì với 

Nguyên. Và, nàng lại rất thân với  Loan, lại còn được dì Quyên quí mến coi nàng như là cô cháu thân thương nhất trong nhà.

-Anh Lăng có hay gặp  Thụy không ?

            Loan bật cười, nhắc:

-Hai người sắp lễ hỏi rồi, đổi cách gọi trước đi.

            Thiên Nga chỉ mỉm cười nghe Lăng nói:

-Có gặp luôn, chị. Anh Thụy đi Nha Trang học xong nay về Sài Gòn.

-Hôm gần Tết, Thụy có gởi cho tôi mấy tờ báo Xuân.

-Lúc này, anh viết truyện cũng khá nhiều.

-Được nổi tiếng chưa ?

-Chưa. Nhưng cũng kiếm ra chút ít tiền.

            Bữa cỗ dọn lên. Ngồi quanh mâm cỗ là những người thân trong nên Thiên Nga rất tự nhiên, với lại, nàng sắp là cô dâu mới trong gia đình Nguyên. Nguyên ngồi bên cạnh dì Quyên, hai dì cháu vui chuyện về những tháng năm thanh bình cũng như chiến tranh ở làng quê.

            Mọi người đang cùng nghe tiếng Nguyên chuyện trò với bà dì, Linh  bỗng cắt lời:

-Anh Nguyên có trí nhớ hay thật.  Sau này, anh phải viết nên cuốn gia phả.

            Loan hỏi:

-Năm nay chị Nga ra trường phải không ?

-Không, năm tới.

-Không phải bên Mỹ Thuật học ba năm.

-Bốn năm chứ. Có năm dự bị nữa.

-Năm nay chị có thi không ?

-Có, nhưng rớt loạt nhì.

-Vậy thì coi như đậu khóa hai.

            Lăng ít nói, nhìn Thiên Nga với một cái nhìn thiện cảm, trong ý tưởng đó, sự hiện diện hôm nay của cô là hạnh phúc cho bao nhiêu người.

            Bỗng Nga hỏi:

-Liên An, bạn của Loan đâu ?

-Đi Sài Gòn rồi.

-Liên An đậu không ?

-Đậu cao nữa. Vào Sài Gòn nạp đơn xin du học.

-Liên An học giỏi nhỉ.

            Nguyên vẫn hứng thú trong câu chuyện nói về những người bà con, làng nước. Hai dì cháu thật tâm đắc. Với dì Quyên, không chỉ có Lăng thôi, mà đến cả hai thằng cháu trai cưng của dì nữa được coi như là con đẻ vậy. Nguyên có khoa ăn nói, kể chuyện về cuộc sống, tính cách từng người rất cụ thể. Ở trong quân đội, Nguyên làm việc xông xáo, đạt nhanh kết quả được Trung đoàn trưởng tin cậy, nhờ thế, anh rời đơn vị đi đâu cũng là một chuyến công tác. Những chuyến công tác từ đơn vị về thành phố, Nguyên dành được chút ít thì giờ rảnh để đến thăm Nga. Và, nếu Nguyên theo con đường viết văn, anh sẽ viết nên được nhiều tác phẩm hay, gây ấn tượng với độc giả.

            Chiều nay, buổi họp mặt anh em trong gia đình làm ai cũng vui và Lăng thực sự đã về nhà, quen lại không khí ở Huế như ngày nào. Lễ hỏi của Nguyên và Nga sẽ tổ chức vào ngày 24 tháng 10 âm lịch ở Đà Nẵng.  Tuần lễ trước sau khi thi xong, Nga đã về thăm nhà, bây giờ, nàng sẽ ở ngoài này học thi khóa hai. Trong khóa I, những buổi Nga thi Nguyên đều về nhà, xem bài vở của nàng làm qua giấy nháp. Anh ước tính điểm từng môn và anh tin nàng sẽ qua được loạt đầu. Trong bài thi loạt II chỉ có môn Vạn Vật Nga được điểm khá, Sử Địa trung bình, Anh văn, Toán và Lý Hóa còn yếu nên rớt. Từ đây đến ngày thi lại, còn hơn ba tuần, Nguyên sẽ kèm cho Nga hai môn Toán và Lý Hóa.

            Trời đêm có trăng. Sau bữa ăn, cả nhà đem bàn ghế ra sân ngồi hóng mát, chuyện trò vui vẻ. Rồi Nguyên khởi xướng chương trình ca nhạc sống, anh cầm đàn đánh nhạc đệm để  mọi người cùng vui hát những bài nhạc dân ca.

            Loan lên tiếng bảo Nguyên đệm bài Tà áo xanh của Đoàn Chuẩn cho Loan hát. Nguyên cố nhớ nhạc điệu, xong anh vào bài nhạc qua một nhịp đàn dạo, rồi Loan liền cất giọng. Tiếng hát ngân vang, nhẹ nhàng, lúc thật lắng đọng, lúc nghe mơ hồ tản mác bay nhẹ như  những làn sương mỏng. Loan hát xong, mọi người vỗ tay, cùng có sự hứng thú. Rồi Loan hát thêm bản Giọt mưa trên lá. Khi Loan hát lên bài này, Nga cũng hát theo.

            Sài Gòn đang trở lại mùa mưa. Thụy xuống ca lúc sáu giờ sáng, về đến nhà trọ ở Thị Nghè đánh một giấc xong xuống phố chơi. Thụy tìm đến nhà Huê, không gặp nàng. Nhưng lúc ra khỏi con ngõ, bất ngờ nghe tiếng ai gọi, quay đầu nhìn anh bỗng thấy nàng ngồi trong quán nước.

            Với bước đi nhanh, Thụy vào quán. Vừa kéo ghế ngồi, Thụy nói:

-Anh mới ở nhà em ra .

-Tìm em có chuyện chi không ?

-Không, ghé chơi thôi.

-Anh uống gì, gọi đi.

            Thụy gọi cà phê đá.

-Em ngồi một mình ?

-Không, với bạn trai.

-Anh ta đâu ?

-Đi học rồi.

-Bạn em bên Văn Khoa ?

-Không, anh ta học ngành Dược.

-Em có bạn mới mà anh không hay.

            Huê nhìn lại Thụy. Đứa nhỏ mang cà phê đá ra. Thụy uống một ngụm xong đốt điếu thuốc.

-Anh ta có trở lại không ?

-Không, đi học rồi.

-Em quen lâu chưa ?

-Mới ít tháng.

            Cà phê làm Thụy tỉnh táo. Thụy uống thêm hớp đầy và ngậm cục đá nhỏ cho mát cổ họng.

-Chiều nay em không có giờ học?

-Không. Công việc anh lúc này sao ?

-Bình thường. Anh làm ở Biên Hòa, làm ca, một ngày 24 tiếng, hai ngày sau nghỉ. Anh mới xuống ca sáng nay.

-Sao anh không ở dưới đó luôn ?

-Biên Hòa đâu xa Sài Gòn. Có xe đơn vị đưa đón.

-Em thấy anh thật là vô tư.

-Anh đang buồn đây em .

-Sao mà buồn ?

-Nghe em có bạn trai, anh buồn.

-Thì em cũng phải có bạn trai chứ.

-Đã hẳn, em cần có. Nhưng em có, thì anh và em không còn vui như xưa.

-Bình thường thôi anh ạ.

-Không bình thường đâu.

-Anh và em  là bạn, vui chuyện với nhau thôi.

-Không có vui chuyện nhẹ nhàng được.

-Anh hiểu lầm rồi. Em khác anh nhiều lắm.

            Thụy đốt thêm điếu thuốc.

-Anh Chương có gởi thư về không ?

-Có. Anh gởi cho chị Yến chứ không cho em.

-Tuần rồi em có coi phim không ?

-Không. Em đi chơi với bạn trai. Hôm chủ nhật, hai đứa đi ra ngoại thành ăn chim mía.

            Thụy mỉm cười.

-Anh cười gì ?

-Em lúc nào cũng làm anh cảm thấy vui.

-Em nói thực không xạo đâu. Ngày nghỉ đi chơi với bồ , em thấy thích thú.

-Bạn em sắp ra trường chưa ?

-Học tới năm thư tư rồi.

-Hai năm nữa thôi, phải không ?

-Anh có hay ghé nhà cô Hồng không ?

-Có.

-Lâu quá, em không gặp Thúy.

-Rồi lần hồi em quên hết, trừ bạn trai của em.

-Anh nói rất đúng. Người bạn vừa đi, ngồi đây em nhớ nên không về nhà.

-Và, anh xuất hiện thật đúng lúc em cần có một người để nói lời tâm sự.

-Em rất là ghét những lời tâm sự.

-Anh cũng như em. Với anh, tìm cảm cũng như cuộc sống, luôn nhanh gọn, điều ước mong là sự may mắn.

            Huê cầm gói thuốc lá Thụy để trên bàn đưa lên xem, nàng lật quanh và đọc những hàng chữ.

-Anh hút một ngày mấy gói ?

-Hai ngày, ba gói.

-Hút nhiều quá vậy. Ít thôi.

-Em muốn anh hút mỗi ngày bao nhiêu điếu.

-Năm điếu. Không nên hút nhiều, hút thuốc nhiều sẽ bị ung thư.

-Anh không sợ chết. Em biết không, thuốc Bastos xanh này nặng nhưng hút rất là ngon.

            Huê rút một điếu thuốc ra ngoài bao. Nàng nhìn lâu điếu thuốc rồi nói:

-Em mà hít một khói, chắc chết quá.

-Không. Em nhớ đàn bà tây phương, họ hút thuốc ghê lắm.

-Em là người Việt Nam.

-Người Việt, hay người gì, các cô, các bà đều hút thuốc được.

-Nhưng mà em, không.

-Má anh ngoài nhà, hút cẩm lệ, răng nhuộm đen.

-Ủa, má anh  có nhuộm răng đen hả.

-Má anh nhuộm răng thời con gái. Răng được nhuộm thuốc rồi, chắc lắm không sợ gì đến sâu ăn cả.

-Em mà nhuộm  răng chắc kỳ lắm hả.

-Em nhuộm răng, có cách đẹp khác.

-Rồi sao nữa ông ?

-Không nhuộm răng , em đẹp rất là dễ thương.

-Ngày mai anh đi làm ?

-Ngày mốt.

-Từ hôm đi lính đến giờ, anh chỉ ở trong thành phố thôi.

-Anh không ra ngoài tiền tuyến được.

-Sao vậy?

-Vì anh là lính thành phố.

-Anh đi làm, công việc bận rộn không ?

-Ghê gớm lắm.

-Vậy hả. Bộ lên ca là lu bu lắm hả.

            Huê giương tròn cặp mắt nhìn một người lính ngồi đối diện. Trông vẻ ngây thơ của cô thật dễ thương. Người lính vui chuyện, vừa mong trời có mưa buổi chiều, và bắt đầu kể cho Huê nghe việc anh đang làm ở Trung tâm không trợ đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn III. Thụy là hiệu thính viên, mỗi ngày ngồi ở cái bàn trong phòng làm việc với hai chiếc máy PRC 25 và PRC 47. Ở máy PRC 47, anh theo dõi những phi vụ  đánh bom của các phi công khu trục. Khi lên vùng, phi công khu trục và quan sát viên (ngồi trong chiếc L 19)   liên lạc hành quân với nhau để cùng vào mục tiêu. Khi đến mục tiêu, xác định lại đúng tọa độ, quan sát viên bắn khói màu, sau đó, các phi tuần khu trục bắt đầu đánh bom.  Với từng đợt đánh bom, quan sát viên sẽ điều chỉnh và cho biết kết quả. Khi ở trên vùng trời, khu trục theo hướng dẫn của quan sát viên để oanh kích, thì ở bên dưới, quân bạn đang hành quân cũng liên lạc và báo cáo thêm kết quả. Thời gian của trận chiến diễn ra trên vùng hành quân thật vừa hiểm nghèo, vừa lãng mạn, và bạn nghe những cuộc đối thoại của các phi công thật sôi nổi, hào hứng như  một trận túc cầu. Thông thường, các trận đánh bom diễn ra chớp nhoáng, thời gian chỉ trong vòng nửa giờ.  Ở máy PRC 25, hiệu thính viên thường xuyên liên lạc với phi cơ quan sát, theo dõi phi cơ này khi lên vùng và khi trở về, rồi ngoài cuộc hành quân với khu trục phi cơ quan sát còn hướng dẫn đoàn xe, bay bao vùng, và an ninh thiết lộ.

            Khi đến ngày làm, Thụy lên đổi ca lúc sáu giờ sáng. Nhận ca xong, anh đi kiếm bánh ngọt ăn sáng và   cà phê để uống. Quầy căng tin phục vụ là của đơn vị biệt phái Mỹ, nhưng phía lính VN được ăn theo thoải mái. Cũng nhờ làm việc ở đây, ngày nào Thụy cũng học nói tiếng Anh với các lính Mỹ. Tối đến, ít có phi vụ bay đêm anh đọc sách, viết truyện, học bài. Vậy mà, hai năm rồi, mỗi cái bằng Tú Tài đôi, anh thi không đậu nổi.

            Huê ngạc nhiên hỏi:

-Ủa,  anh chỉ làm dưới đất chứ không đi theo máy bay.

-Không. Nhưng công tác, hay hành quân với bộ binh thì mình đi máy bay lên tiền đồn.

-Tiền đồn xa thành phố không anh ?

-Xa lắm. Nằm trên rừng, trên núi.

-Anh thường đi công tác ngoài tiền đồn lâu không ?

-Cũng lâu, khi một tuần, khi nửa tháng.

-Anh đi một mình ?

-Không. Anh đi với ông Sĩ quan. Anh mang máy, còn ông đi tay không . À, có. Ông có đeo súng colt cho le.

            Huê nhìn Thụy. Thấy cô gái im lặng,  anh hỏi:

-Sao, em thấy công việc anh như vậy là phục vụ đất nước hẳn hoi, phải không ?

-Ờ anh làm được như thế là tốt. Em cứ tưởng lính thành phố chỉ đi dạo lòng vòng thôi.

-Trời, em nghĩ sao mà lãng mạn quá  vậy. Bộ quân đội phát lương mình chỉ dạo phố chơi thôi sao ?

-Em thấy anh quá lè phè.

-Nghĩ vậy là tội anh. Xếp anh mà biết là cho anh cả mười củ.

-Mười củ là sao ?

-Là mười ngày bị phạt đó.

-Vậy hả. Anh đã bị phạt bao giờ chưa ?

-Chưa, nhưng em nên dè dặt trong những nhận xét về người lính.

            Huê gật đầu. Và rồi, bây giờ người lính và cô gái có muốn rời quán để về nhà cũng chưa được, vì trời đang bắt đầu mưa.

 

                                          

                                                             II    

                                                      

                                                      

 

            Về đến nhà, bị ướt mưa nên Thụy vội lấy áo quần đi tắm. Tắm xong, anh giặt đồ luôn. Bà chủ thấy anh giặt đồ ngoài bể nước có vẻ chăm chú theo dõi làm anh khó chịu. Không thể nín nhịn, Thụy nói:

-Tháng tới, tôi không thuê ở nữa ?

-Sao vậy cậu ?

-Bà khó quá.

-Tôi khó gì đâu ?

-Tại sao mỗi lần tôi giặt quần áo bà cứ đứng canh bên bể nước.

-Tôi thấy cậu xài nhiều nước quá.

-Thật vậy sao ?

-Đúng là sự thật.

-Vậy thì báo với bà hết tháng này, tôi dọn đi.

-Ờ, cậu muốn đi thì đi.

-Tốt, bây giờ bà lên nhà đi. Để cho tôi giặt đồ.

            Bà chủ vẫn không dời bước. Thụy rất bực mình nhưng không muốn  gây gổ, đang cố giặt nhanh cho xong. Thực sự bà chủ quá keo kiệt về điện nước, chứ từ ngày đến đây thuê ở, Thụy dùng nước không nhiều. Mỗi tháng, anh đi làm ca trực tại đơn vị là mười hai ngày rồi. Đến hai ngày cuối tuần anh cũng ít khi về nhà. Tối đến, mười một giờ anh không đọc báo, đọc sách gì nữa mà lên giường, đi ngủ sớm. Cũng may, thói quen dễ ngủ nên anh ngủ rất mau.

            Buổi chiều qua thật lẹ. Khi Thụy  đem quần áo ra dây kẽm ở sân sau để phơi thì bà chủ bỏ lên nhà. Thụy nghĩ là bà thấy mình hơi vô lý nên có  suy đi nghĩ lại đôi chút.

            Thụy đi lên gác thay quần áo, rồi xuống nhà. Bà ta bảo anh dừng lại và nói đôi lời phân trần. Ngay lúc đó, Thụy giải thích cho bà ta biết, anh là người đàng hoàng, ở đây, anh cũng hay đi luôn, nơi làm việc ở đơn vị xa, rồi thường hay tìm đến nhà người quen, bạn bè.

            Bà chủ rót nước mời Thụy uống. Nước trà nóng, anh uống một ly cho ấm bụng rồi đi.

            Khu phố Thụy thuê ở nằm gần chợ Thị Nghè. Thụy kiểm lại tiền trong ví và túi trên. Tối hôm qua, chơi đánh phé Thụy ăn được hai ngàn. Về nhà, anh ngủ li bì, tới quán cà phê ngồi với Huê , khi đứng dậy nàng trả tiền.

            Đèn điện thắp sáng, cảnh sinh hoạt đêm ồn ào. Thụy đi bộ ra phía chợ và tìm một quán cơm bình dân để ăn. Vào quán, Thụy ngồi phía bàn ngoài nhưng từ đó trông rõ các thức ăn bày hàng. Thụy gọi cơm phần ba món và một chai bia cao.

            Sau khi tắm xong, Thụy cảm thấy nhẹ người. Bữa ăn mang ra, Thụy lau đũa muỗng,  chén rồi xới cơm ăn. Từ ngày rời xa gia đình, Thụy có cuộc sống bất thường. Thụy quen được với mùi vị mồ hôi và sự nghèo khó, hai năm qua anh đã thấm vào cổ họng mùi vị cơm thuốc ở quân trường , ở phạn xá của trại lính. Anh cũng thấm vị thuốc đó khi đến quán cơm xã hội ngồi ăn, tuy nhiên, anh chẳng hề muốn ray rứt nỗi buồn khổ của mình. Thụy luôn cảm thấy tự do, bao nhiêu cái tốt, cái xấu, sự may, điều rủi là lẽ thường giữa cuộc đời nên anh chẳng phiền muộn, hoặc mong được sung sướng. Nhưng Thụy cũng không an phận, làm người ấy là nhận lãnh trách nhiệm như câu nói của một nhà văn Pháp anh rất tâm ý. Tuy là lính, anh làm việc đúng đắn và thật đàng hoàng, tư cách. Thụy hưởng thời gian nghỉ và quyền lợi người lính một cách bình thường. Và, anh vẫn xây đắp ước vọng của người viết văn, sẽ đến một ngày, anh có được những tác phẩm xứng đáng để người đọc tin cậy. Thụy viết văn, không hề mong trở nên hoặc được làm nhà văn để hãnh tiến, khoa trương. Anh viết văn, nỗi đam mê viết như là máu và thức ăn nuôi dưỡng sự sống con người. Vào kỳ lãnh lương tháng, hoặc có chút tiền dư kiếm thêm được bằng tiền nhuận bút với những truyện ngắn đăng báo, hay canh bạc đỏ được ăn, thì anh cũng chè chén một đôi ngày cho đã bữa.

            Vào lúc chiều trời mưa, anh và Huê ngồi trong quán cũng khá lâu. Khi nàng hỏi một câu đùa, anh yêu em thực không, Thụy đáp tỉnh bơ là không. Nhưng anh đã không làm nàng ngạc nhiên. Rồi, nàng nói:

-Có anh, em vui. Vắng anh, em nhớ, thực sự là nhớ.

            Thụy nói:

-Em biết uống ly cà phê là anh vui rồi.

-Em bắt đầu ghiền rồi anh.

-Anh rất khô khan, nhưng lại vừa có trong người mùi vị của cà phê.

-Anh là người đem lại cho em cái thú uống cà phê.

-Còn em, đẹp, ửng đỏ như trái chín trên cây.

-Kể ra, những lời văn vẻ anh nói nghe cũng được.

            Thụy mỉm cười, nhìn thấy Huê để lộ ra cái nét duyên tuyệt vời.

            Lúc này, Thụy đang nhớ nghĩ đến Huê , anh ăn chậm, vừa cảm thấy đói và ngon. Thụy sẽ ăn hết cả cơm và thức ăn không để thừa. Rượu bia ngấm dần làm mặt anh  hừng đỏ. Nhưng đó là thói quen về máu, chứ anh không hề say. Phần cơm để trong tô khoảng ba chén, thức ăn không nhiều lắm bày trên dĩa nhỏ. Thụy ăn xong sạch, bắt đầu thấy no.

            Ly bia còn một nửa, anh uống chậm. Khu phố chợ càng đông, giờ này, thêm một vài gánh hàng quà dọn bán trên vỉa hè. Thụy uống bia, rồi đầu óc suy nghĩ. Anh đang muốn tìm một câu chuyện để gợi hứng tối nay về viết. Thụy viết đã quen, nhưng chưa thể là nhà văn. Những truyện ngắn của anh chẳng qua như chiếc cần câu hạng nhẹ giúp anh có tí tiền còm ghé vào các tiệm ăn bình dân. Anh biết có rất nhiều nhà văn, nhà báo ở Sài Gòn họ sống bằng ngòi bút. Vào buổi sáng sớm, lúc thợ sắp chữ  làm trang nhất, thì ở ngoài quán cà phê những nhà văn này uống cà phê, đốt thuốc hút, vừa viết feuilleton. Họ không chỉ viết cho một tờ, mà hai ba tờ, cứ mỗi kỳ chừng ba trang viết tay. Ngồi trong buổi sáng chừng vài tiếng đồng hồ họ viết xong mỗi đoạn truyện dài chạy trong ngày trên các báo. Xong việc, họ rời quán cà phê bình dân đến cà phê tiệm hoặc đi ăn sáng. Bây giờ anh Nguyên đã ra ngoài Huế, chứ thời Sài Gòn, một mình, anh cũng chạy show mấy tờ báo, cuộc sống tương đối thoải mái, lúc có tiền dư, anh cho Thụy một ít tiêu thêm. Nói vậy thôi, tiền anh cho, Thụy hay để dành gởi về cho mấy đứa em ngoài nhà.

            Bên kia đường, một dãy quầy bán vé số đối diện với khu chợ. Thụy cố nhớ mình còn tấm vé cũ nào chưa dò không. Thụy vẫn luôn mong chờ tới vận may. Vào kỳ lương hàng tháng, anh hay mua chừng năm đến mười tấm vé số. Thụy thường lựa hai con số cuối, tính  số nút, thấy số nào chẵn, vừa đẹp ý là mua. Thụy trúng được mấy lần, nhưng không nhiều. Số anh trúng chỉ bốn con. Thụy vẫn ước mơ trúng lớn để được thoải mái với đồng tiền, và bây giờ anh không mong chuyện gặp cuộc tình duyên vừa ý, mà làm sao có được một căn nhà để ở. Có nhà, anh sẽ đưa hết mẹ và các em vào đây sinh sống, xa lánh hẳn những khung cảnh quá quen thuộc với sự nghèo khó ở miền Trung. Về miền Trung, để yêu thương và cảm động như một khúc hát tình ca, thì hãy về với kỷ niệm và nỗi buồn nhớ cho đầy trọn tình cảm, nhưng sống ở ngoài đó, thực là khó khăn không dễ chịu như là đất miền Nam.

            Thụy uống hết ly bia, gọi người chạy bàn đến tính tiền. Rời quán, anh băng qua đường đến dãy quay bán vé số, qua mỗi nơi, anh chọn một hai tấm, mua xong hết mười tấm anh cẩn thận cho vào ví.

            Trước khi về nhà, Thụy còn ghé hiệu sách mua tờ báo mới hôm nay. Hồi ở trọ nhà dì Hồng, Thụy hay đọc báo thuê cả hàng ngày và hàng tuần.

            Thụy cảm thấy thật là dễ chịu trong ngày được nghỉ làm việc. Khi anh về đến nhà, bà chủ nhà đang nói chuyện với một bà khách trong xóm. Anh không để ý nghe chuyện và đi thẳng ra phía sau lên gác. Ngọn đèn dậy sáng khi Thụy bật núm công tắc, và mất ít giây anh mới nhìn lại căn phòng bình thường.

            Căn phòng này rộng rãi, vừa ý anh một phần nó khuất vắng, yên tĩnh dễ làm việc. Một hôm bạn Hoài cho Thụy quá giang từ phố về nhà bằng xe Honda, nhân tiện anh mời Hoài lên gác chơi, Hoài nhìn nơi Thụy ở  quá thích liền ngỏ ý muốn đến ở chung, sẽ chia đôi tiền thuê nhưng Thụy nói không, vì anh muốn sống một mình. Hoài nhìn lại Thụy dò xét, khiến Thụy phải giải thích với Hoài anh  không thích ở chung vì sợ dễ mất lòng nhau khi có chuyện không vừa ý, bạn bè lui tới thăm, có lỡ  qua đêm một vài hôm dễ dàng, chứ ở lâu, rất là bất tiện. Với lại Thụy đi làm ca, luôn phải dậy sớm trong những ngày đi làm.

            Thụy cầm chai nước lọc rót một ly đầy. Căn phòng bày biện ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng cũng mấy tuần qua rồi, Thụy chẳng hề cầm lấy một cuốn sách để đọc hay là học. Thật là quá sức mỏi mệt về chuyện thi cử, học hành, nhiều lần Thụy quyết định thôi hẳn, nhưng rồi cứ dây dưa, đến bây giờ là qua năm thi thứ ba rồi, mà anh vẫn còn lận đận.

            Lên giường, Thụy nằm đọc báo. Khi mở qua trang tin tức thể thao, anh đọc, rồi dừng lại nhẩm đếm xem vào ngày chủ nhật hai tuần tới nữa anh có được xuống ca nghỉ để coi trận đá bóng giữa đội tuyển Sài Gòn và đội Nam Hoa. Có thể đến hôm đó, Thụy có được ngày nghỉ.

            Tình hình chính trị miền Nam vẫn chưa ổn định. Sau cuộc cách mạng đảo chánh, không khí tự do đem lại cho người dân,  nhưng rồi, trong thành phần lãnh đạo luôn có nhiều sự đố kỵ, bè phái, và chỉ mới trong vòng ba năm mà liên tiếp với nhiều biến cố chỉnh lý, đảo chánh.

            Chỉ là anh lính trơn, nhưng Thụy  còn có nhận thức, suy xét về cảnh xáo trộn đất nước, nói gì đến, những cấp sĩ quan, những người trí thức, chính trị gia.

            Mưa đêm. Thụy nghe mưa bất thình lình đổ ào xuống mái tôn. Từ chỗ nằm nhìn qua cửa sổ anh thấy một vùng đèn sáng đang lênh đênh qua những vùng bóng tối trên các con đường dẫn ra ngoại ô. Trời mưa đều hạt . Thụy tắt đèn, đi ngủ. Thụy có cảm giác ngủ ngon, bên ngoài  lắng sâu, rồi trời tạnh mưa.

            Bỗng nhiên Thụy giật mình hoàn hồn với tiếng sấm sét, sau đó mưa lớn đổ ập xuống. Thụy vùng dậy bật đèn nhìn quanh phòng, nhìn lên trần và nhìn ra ngoài cửa thấy trời mưa mù mịt. Thụy chợt nghĩ, đã qua giấc ngủ rồi, không ngủ trở lại nữa nên vừa nằm nghe mưa, anh  cố gợi nhớ những ngày tháng đã qua về cuộc sống của chính mình.

            Hôm ấy, lúc xuống trạm xe buýt bên đường Cô Giang anh đi tìm nhà Khánh. Phượng đứng ở cửa, cô mặc bộ quần áo nhẹ có chấm bông màu đỏ đậm. Phượng nở nụ cười trên gương mặt trái soan đầy đặn.

-Anh vào nhà chơi.

            Phòng khách đặt ngay lối cửa vào, bày biện rất ngăn nắp dưới hai ngọn néon sáng dịu. Thụy ngồi xuống ghế, một mình với cảm giác nhẹ nhõm, vừa để mắt nhìn theo dáng bước của Phượng đi vào nhà trong. Không lâu, Phượng trở ra với một ly nước đầy để trên chiếc khay nhôm.

            Đốt xong điếu thuốc, Thụy hỏi:

-Em còn đi học không ?

-Không, anh. Em đã đi làm.

-Em làm cô giáo ?

-Anh đoán sai rồi.

            Thụy mỉm cười nhìn Phượng. Nụ cười trìu mến trên cặp mắt anh nói thêm sự chân thật của anh đối với cô em gái. Phượng nhắc:

-Anh uống nước đi.

            Thụy nghe lời Phượng cầm ly nước lên uống. Nước ngọt, thơm mát cổ họng. Thụy hỏi:

-Anh Khánh có nói chừng nào về không ?

-Không.

            Thụy nhìn lại Phượng. Thụy đang ngắm một cô gái Sài Gòn qua hình ảnh Phượng. Khi được ở bên cô, anh như thể có ý tưởng mình đang sống trong một thành phố tuổi trẻ. Thụy bắt đầu chú tâm nghe một giọng nói Sài Gòn, khuôn mặt đầy đặn của cô gái khiến anh cảm nhận được một thứ hạnh phúc cây trái trong cái hồn nhân hậu miền Nam.

-Trời, anh không biết sao, anh Khánh có nhiều cô bồ lắm.

-Còn em?

            Phượng nhún vai. Những cái nhỏ nhặt của Phượng qua dáng điệu làm Thụy nghĩ mình nên ngồi lâu thêm chút nữa.

-Anh Khánh về.

            Thụy vụt đứng lên, nhưng vẫn đợi. Một lúc sau Khánh mới vào nhà sau khi chia tay với ai đó ở bên ngoài.

-Ủa, mầy vào hồi nào ?

            Sau cái bắt tay, Khánh thả túi xách xuống cạnh chân. Phượng vẫn ngồi yên chỗ nghe hai người anh chuyện trò. Mới đầu, Khánh nghĩ là Thụy vào Sài Gòn học Đại Học. Nhưng rồi, với sự lặng yên, cảm thông, Khánh lắng nghe những lời Thụy tâm sự về duyên phận thi cử và cả nỗi khó khăn trong cuộc sống hiện tại của mình.

-Mầy đang ở đâu ?     

-Tao ở trọ nhà người dì.

            Một lúc lâu suy nghĩ, với giọng chân tình  Khánh hỏi:

-Tao có thằng em học Đệ Tứ. Mày dạy kèm nó được không ?

-Sẵn sàng.

-Ông già tao đã nghỉ hưu. Nhưng để coi, tao sẽ hỏi giúp công việc cho mầy.

            Tối hôm đó, Thụy ở lại nhà Khánh ăn cơm. Sau bữa ăn, Khánh đưa Thụy ra quán nước gần nhà. Không có Phượng, vui miệng Thụy khen cô em gái của bạn mình. Khánh bảo:

-Mầy thương nó thì cứ nhảy vô.

-Không dám.

            Trời đêm mơn man, có gió nhẹ. Ngồi trong quán nước, hai người nhắc tới những bạn lưu học sinh, gợi nhớ bao kỷ niệm thân thương của thời gian ba năm trước ở Đà Lạt. Và, trong số các bạn cũ, chỉ mình Thụy là mang số phận hẩm hiu.

            Hai người rời quán đi bộ rồi dừng bước dưới ánh đèn đường bên trạm ngừng xe buýt. Gió đêm chợt làm Thụy nhớ nghĩ đến sự đợi chờ và nghe những tiếng bước chân. Thụy lên xe sau cái bắt tay từ giã người bạn. Khánh chắc cũng nghĩ rằng, Thụy sẽ trở lại, nhưng không, ít ngày sau đọc thông báo tuyển mộ chuyên viên Không quân, Thụy nghĩ ngay, tốt hơn hết nên đăng lính như một cách tìm kiếm ra việc làm.

            Thụy lên cổng Phi Long, hỏi anh Hạ sĩ quân cảnh gác cổng, anh ta chỉ vào văn phòng có người đang phát đơn tuyển mộ, Thụy liền vào đó xin đơn làm ngay và cùng với giấy tờ mang theo sẵn, anh nạp luôn. Nhận đơn Thụy xong, anh lính phụ trách cho Thụy giấy biên nhận và chỉ sau có hai tuần lễ Thụy được giấy của Phòng tuyển mộ gọi đi khám sức khỏe liên tục trong ba ngày. Sức khỏe tốt, những thanh niên đăng lính được tuyển Ban Tuyển Mộ cấp cho giấy chứng nhận, vậy là Thụy cảm thấy yên lòng. Ngày lên đường không xa, thời gian còn lại, Thụy hì hục sáng tác truyện, mỗi truyện viết chừng năm sáu trang viết tay, viết xong, anh đến các tòa soạn nhật báo, tuần báo gởi bài và truyện nào được đăng là ngày hôm sau anh  có nhuận bút. Số tiền nhuận bút Thụy tiêu dè xẻn, cốt  giữ cất cho đến ngày đi.

            Ngày thứ bảy, Thụy ở nhà đợi Lăng. Vào lúc trưa, Thụy ngủ một giấc ngon. Khi thức dậy cảnh vắng im trong nhà làm anh nghĩ mọi người đã đi hết. Nhưng không, còn có dì Hồng đang ở dưới nhà.

            Lối cầu thang hẹp, xuống nhà rửa mặt xong Thụy qua chiếc bàn tròn ngồi nói chuyện với dì. Lâu lắm, hai dì cháu mới có được những lời tâm sự. Bây giờ, ngoài quê ở Quảng Trị, bên nội cũng như ngoại, người thân không còn mấy, ai cũng đi phương xa tìm cuộc mưu sinh. Dì Hồng và mẹ Thụy là chị em cô cậu ruột, hai người rất thân như Thụy và Lăng sau này. Hai người đàn bà lớn tuổi có cùng cảnh ngộ, rất hiểu nhau. Vào năm đó một chuyến đi Sài Gòn, mẹ Thụy và dì có dịp chuyện trò gợi lại bao nhiêu kỷ niệm đẹp của thời con gái. Ngày xa đó, ở tuổi mười ba, mười bốn, quê  ngoại là một khúc hát thanh bình.

            Năm 1945, VM cướp chính quyền. Qua năm sau, chiến tranh Pháp Việt bùng nổ, từ đó làng quê trở nên điêu tàn, vắng bóng, lần lượt những người thân trong gia đình cả hai bên nội ngoại của Thụy đều rời bỏ quê nhà ra đi. Nơi đến, Đông Hà, Quảng Trị, Huế, rồi lần lượt về phía Nam. Những người ra đi không còn ai ước mong trở về lại quê nhà nữa. Tất cả, như  nối gót theo tổ tiên của mình. Vào thời chúa Nguyễn có rất nhiều dòng họ ngoài miền Bắc theo Chúa vào Nam. Họ Lê, gốc Hải Dương, họ Đặng từ Thanh Hóa. Vào miền Nam, cuộc di dân theo đường biển, họ Đặng trôi giạt đến Mỹ Thủy, họ Lê đến Thuận An. Đời thứ nhất của họ Đặng giữ nguyên, qua đời nhì đổi là Nguyễn khi lập nghiệp, xây dựng ở làng Cổ Lũy, quận Hải Lăng. Phía họ Lê, từ đời thứ nhất đến thứ ba định cư tại Tiên Thành. Bà Trần Thị Khánh, vợ ngài Lê Hữu Thành của đời thứ ba, sau khi chồng mất, một mẹ, một con lênh đênh trên thuyền nhỏ làm nghề kéo ngao trôi nổi đến sông Việt Yên, quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Trên vùng đất Việt Yên, bà cụ Khánh chính là tổ mẫu gầy dựng họ Lê. Khi bà Khánh qua đời, con bà Lê Hữu Diệu lập gia thất, sinh hạ đông con, người con đầu tìm đến Xuân Thành, Triệu Phong lập nên phái nhất của đời thứ năm. Từ  đời thứ năm đến ngày nay, họ Lê chính thống là ở làng Xuân Thành. Ông nội của mẹ Thụy tên Lê Hữu Phát, đậu Tiến Sĩ khoa Ất Mùi, năm thứ bảy Thành Thái, ông có hai bà vợ sinh hạ bốn người con, ba trai một gái. Dì Hồng,  con bà cô út sớm mồ côi mẹ được mấy người cậu thương yêu, đùm bọc từ thuở bé.

            Bỗng dưng, một giây khắc vô cớ làm cho câu chuyện ngừng trong yên lặng. Thụy cảm thấy nước bọt đang ứa ra trong cổ họng. Thụy nhìn dì Hồng têm trầu, và đợi dì ăn xong miếng trầu ngon mới thốt lời:

-Chú dì đã cho cháu được sống nhờ trong thời gian qua. Cháu luôn nhớ ơn chú dì.

            Với nụ cười bao dung, dì Hồng nói:

-Ít ai hiểu được chú. Chú ít nói, nhưng rất là tốt bụng.

-Cháu biết.

-Ở xa, cháu nên viết thư gởi thăm chú.

-Dạ.

            Sự yên lặng đang ngừng như thể quả lắc chiếc đồng hồ sau một lúc đun đưa theo nhịp nhạc chuông đánh lên. Thụy bâng khuâng đưa mắt nhìn gương mặt dì Hồng. Dì lấy chiếc khăn tay thấm nước mắt.

            Có người bấm chuông ngoài cửa. Thụy vội đứng lên nhanh chân bước. Cô Năm bạn dì Hồng ở nhà kế bên qua chơi, Thụy đứng lên chào, giọng vui cô Năm hỏi:

-Cô nghe mầy đi lính phải không ?

-Dạ phải.

-Chừng nào mầy đi ?

-Ngày mai.

-Tốt đó mầy. Đi lính như mầy là sướng hơn người ta.

            Thụy hiểu lời cô Năm nói. Cô coi bói bài rất hay, cách đây ba tuần, cô coi cho Thụy một quẻ bài và nói anh sắp đi xa, nhưng mà tốt. Thú vị nhất là con đầm cơ, cô cho hay là có người ở xa đang nhớ nghĩ đến anh.

            Thụy đưa cô Năm vào gặp dì Hồng xong qua lối cầu thang đi lên gác. Những bước chân vang nhẹ trên bậc cầu thang nghe như là nỗi trăn trở về cuộc đời. Căn gác nhận ra Thụy qua ánh nắng buổi chiều còn chiếu dọi và những sự vật vẫn quen thuộc. Thụy có cảm giác như vừa mới bắt tay một người bạn và nói đến chuyện ra đi.

             Thụy ngồi xuống sàn cạnh chiếc kệ để sách. Những cuốn sách xếp hàng ngay ngắn trên hai tầng kệ. Lúc này, Thụy chuẩn bị một ít đồ cần thiết bỏ vào túi xách. Thụy soạn quần áo và đem theo sách học, nếu ra quân trường có thì giờ rảnh thì anh ôn bài. Có mấy cuốn truyện dịch anh cũng đem theo, nghĩ rằng, tiểu thuyết có thể đọc dễ dàng. Sự ra đi, có định hướng với cuộc đời hay không, lúc nào cũng là một cảm xúc thật phấn chấn, nhưng cũng có sự nuối tiếc cái gì đó làm cho bạn cảm nhận được qua nỗi buồn. Ai ?,  muốn nhắn gửi đến Thụy một lời. Thụy nghĩ ngay đến Thúy Hà, anh tìm cuốn album đặt ở một góc tầng kệ trên. Thụy mở cuốn album, tìm những tấm ảnh nàng gởi tặng. Thời gian làm rõ nét cho anh nhớ ra những kỷ niệm của mình, của người bạn gái.

-Em không xa anh đâu, nàng nói.

-Anh luôn mong có những ngày trở về. Tới một ngày đó , cũng sẽ cho anh hạnh phúc khi gặp lại em.

-Em không sao, chúng ta tuy không có được duyên nợ sống với nhau , nhưng vẫn luôn nhớ đến nhau.

-Em là một đối tượng, một hình ảnh.

-Hãy nhớ rằng, hình ảnh anh trong tim em.

-Anh đi đến nơi đâu cũng có em hết. Em là tên gọi của mỗi thành phố.

            Có tiếng chuông vang lên, tiếp đó là tiếng dì Hồng gọi Thụy. Vội vàng đứng lên, Thụy đi nhanh xuống nhà và ra mở cửa.

            Lăng tới, Thụy rất mừng. Lăng đưa cho Thụy cái túi quà nhỏ. Cài chốt cửa xong, hai người đi lên gác.

-Tháng sau, tôi ra Huế.

-Về nghỉ hè.

-Cũng dịp này, nhưng đi chừng một tháng.

            Vừa chuyện trò thêm mấy câu, Thụy để Lăng một mình đi xuống nhà để pha cà phê. Nước sôi luôn có sẵn trong bình thủy. Thụy cho đường vào hai cái ly nhỏ, xong đặt hai chiếc phin lên ly, mỗi phin đầy bốn muỗng cà phê nhỏ. Sau đó, Thụy đổ nước sôi đầy mỗi phin, xong đậy nắp. Không đứng chờ, Thụy đem hai ly cà phê đang pha lên gác. Nước sôi còn bốc hơi từ mỗi chiếc phin.

            Lên tới cửa, Thụy thấy Lăng đang coi ảnh trong cuốn album.

            Câu chuyện sẽ hứng thú khi có cà phê. Buổi chiều trên căn gác thật nhẹ nhàng. Nếu trời mưa, căn gác sẽ trở nên tối. Nhưng cách đây hai ngày, Thụy nhớ trời mưa lớn buổi chiều, có một canh bạc, có Huê ngồi nhìn mưa chuyện trò với anh về sự thú vị của cách uống cà phê và mùi cà phê.

            Bây giờ ngồi với Lăng, Thụy nghĩ thêm:

-Trong giọt cà phê luôn có sự thân tình dù là chỉ uống một mình. Vắng người bạn, nhưng nhờ có cà phê nên mình sẽ gợi nhớ.

            Lăng nói:

-Anh còn một lô ảnh ở ngoài nhà me tôi.

-Những tấm ảnh ở đây là thời ở Đà Lạt. Cũng có một ít chụp sau này.

            Cà phê đã đầy hai ly cùng một lúc. Thụy và Lăng cất chiếc phin qua một bên rồi cầm chiếc muỗng nhựa trắng khuấy đường.

-Ngày mai anh đi buổi sáng hay trưa?

-Sáng sớm. Tám giờ có mặt ở điểm tập trung.

-Đông không ?

-Đông. Có cả số SVSQ phi hành đi nữa.

            Cà phê uống ngon. Rồi, Thụy hút điếu thuốc. Bên ngoài, trời nắng ấm. Nếu trời mưa, căn gác sẽ tối, sẽ có những kỷ niệm muốn xuất hiện để chúng ta cùng nhau chuyện trò. Thụy đặt điếu thuốc xuống gạt tàn rồi cầm cuốn album. Thụy lật qua mấy trang nhìn lại những tấm ảnh của người yêu. Rồi , anh đưa qua cho Lăng.

            Sự yên lặng rất cần thiết giúp Thụy nghĩ đến nàng. Lăng nhìn từng bức ảnh, bỗng hỏi:

-Anh đã cho cô ta biết anh đi lính chưa ?

-Chưa. Ra ngoài đó, có địa chỉ tôi sẽ viết thư.

-Cô đang ở đâu ?

-Đà Nẵng.

            Thụy tiếp lời:

-Cô đã có người đi hỏi rồi. Nhưng với tôi, cô vẫn còn thương.

            Buổi chiều xuống vội vàng, nắng tắt nhanh ngoài cửa sổ. Mây trôi xa, ánh sáng cuối ngày chùng xuống, buông rủ. Vừa lúc đó, mấy đứa cháu và con của dì Hồng về tới nhà. Cửa được mở sẵn, Thụy nghe tiếng dì Hồng chào cô Năm khi tiễn ra cửa. Cùng lúc, tiếng ồn vui của đám nhỏ, chúng vẫn còn ồn ào sau buổi đi chơi trong ngày cuối tuần.

            Bữa ăn tối đông vui với mọi người trong nhà.  Sau bữa ăn, Thụy và Lăng chơi cờ tướng. Đám nhỏ chơi domino. Có chuyện gì đó cần bàn bạc, chú Minh, dì Hồng ở nhà trong.

            Khi nghe tiếng chuông, Thúy đứng dậy mở cửa. Thúy vừa lên tiếng chào, nhìn ra, vừa trông thấy cậu Nghiêm và bà ngoại , cả Thụy và Lăng cùng lên tiếng chào. Chỉ đáp ờ một tiếng, bà và cậu đi vào nhà trong.

            Một lúc sau, cậu Nghiêm gọi Thụy vào. Thụy và Lăng cùng bỏ dở ván cờ đứng dậy.

            Thụy  lên tiếng chào, ông cậu hỏi:

-Mầy đi học bao lâu ?

-Dạ ba tháng.

-Rồi có được đi học ngành nghề gì không ?

-Dạ có.

            Nhìn lại Thụy, vẻ mặt nghiêm ông cậu nói:

-Tụi bay không chịu học hành gì cả. Đứa nào cũng lông bông.

            Thụy hơi cúi đầu, vẻ mặt ủ dột. Ông hiểu, chẳng trách mắng gì thêm rồi tiếp lời.

-Ra ngoài đó, cần gì viết thư cho tao.

-Dạ.

            Bà ngoại nói điều gì với cậu Nghiêm, Thụy không nghe rõ. Ông cậu hơi lớn tiếng:

-Nó không chịu học hành, con làm sao bây giờ .

            Thụy định rút lui. Bà ngoại đã cầm sẵn tiền đưa cho Thụy. Thụy cầm lấy, nói nhỏ hai tiếng cám ơn. Một giọng dịu hiền, ông cậu nói:

-Rồi cố gắng chịu khó học, đi thi lại.

-Dạ.

            Chuông đổ mười giờ, cậu Nghiêm và bà ngoại ra về. Thụy đi theo hai người ra đến cửa. Thụy lên tiếng chào lần nữa rồi cài chốt. Mấy đứa nhỏ vẫn tiếp tục chơi domino, còn Thụy và Lăng trở lên gác.

            Đèn sáng, hai bạn trải chiếu. Chốc lát, hình như có âm thanh của cơn mưa nhỏ hạt. Rồi cơn mưa cũng đến. Hai bạn nằm nghe mưa, nói chuyện. Trong mưa, lòng Thụy rất buồn, mỗi một chút suy nghĩ đắn đo, dè dặt đều mang một cảm giác nặng nề như thể có lời ai ngăn cản anh đừng ra đi.

            Huế, với một lời từ biệt quá khô khan.

            Anh Nguyên đã vào Sài Gòn trước ba ngày. Vào buổi sáng thứ sáu là ngày Thụy đi. Anh chỉ có cái túi xách nhỏ và chiếc va li đựng quần áo, cùng một ít sách vở học đã cũ. Một đứa em trai em thứ năm theo Thụy xuống con đường trước mặt nhà đợi xe buýt. Hai anh em đứng ở trên bờ dốc. Đứa em quá nhỏ trong bộ quần áo kaki. Thụy rất thương em nhưng không biết nói thế nào. Sự ra đi của anh, đành phải vậy. Nếu vào trong đó, anh kiếm được việc làm, ba mẹ anh sẽ đỡ khổ hơn. Thụy biết gia đình mình rất khó khăn. Ba anh làm công chức, đồng lương eo hẹp mà phải nuôi đến bảy người con nhỏ đến lớn. Nếu như, hai anh em Thụy học hành đỗ đạt, thì đấy là nguồn vui gia đình, dù khó khăn mấy, ba mẹ anh cũng cố gắng. Đã mười năm rồi, từ trận cháy khủng khiếp ở thị xã Đông Hà, gia đình anh gặp quá nhiều rủi ro, không làm sao khá lên được.

Thụy vào Sài Gòn với một nỗi lo âu mà chỉ có ba mẹ anh hiểu. Ở Sài Gòn, có cậu Nghiêm và hai người dì. Thụy có thể ở nhờ được, nhưng anh vốn biết, bên gia đình anh không mấy được lòng  của các cậu, các dì  . Chỉ có me của Lăng ở gần, mới hiểu nhau thôi. Từ ngày trở thành con rể ông bà ngoại , ba anh đã hiểu sự thể của các cậu, các dì đối với ông như thế nào. Ngày trước khi mới hồi cư, lúc các cậu các dì chưa vào Sài Gòn thời gian ấy có sự gần gũi, nhưng về sau đi xa , ý nghĩa một cuộc đời đã khác đi nhiều.

            Chiếc xe buýt vừa ghé vào trạm, ngừng lại. Thụy đợi hai người khách xuống trước, xong nói với đứa em câu từ giã. Thụy hôn nhẹ bên má nó, nó mỉm cười vô tư làm anh khóc. Xe chỉ dừng trong ít phút, rồi chạy. Thụy  thấy đứa em còn đứng lại trên bờ dốc chưa trở lên nhà.

            Xe chạy chậm qua chiếc cầu nhỏ, sau đó, bắt đầu tăng tốc độ chạy nhanh hơn. Con đường Lê Lợi là con đường đẹp nhất bên khu hữu ngạn. Trên con đường này, những hàng cây phượng và cây sao trồng thẳng tắp, trên vỉa hè lát đá, hai bên là những nhà các công sở, trường học. Khi xe chạy ngang qua trường Quốc Học, Đồng Khánh, anh thấy bóng nhiều học sinh trước cổng trường. Mùa thi đã qua, nhưng bảng niêm yết kết quả còn treo trong khung lưới, và lúc này vẫn còn học sinh lảng vảng chờ đợi ngày tựu trường.

            Xe buýt qua chợ, vào bến chính. Thụy quàng túi xách nhỏ đeo vai và xách tay chiếc va li đi bộ tới trạm hàng không. Hành khách hầu như có đông đủ và đang chờ đợi xe ca lên phi trường. Thụy đi một mình, và anh cũng nghĩ rằng những hành khách cùng chuyến đi này không có ai quen anh. Vì dễ hiểu, họ toàn là người lớn cả.

            Không đợi lâu, chừng mười phút sau xe ca đến và lần lượt hành khách trật tự vào xe để lên phi trường. Nắng đã tràn ngập cả khu phố chính. Xe lăn bánh rời trạm, ngồi bên cửa, Thụy cảm thấy nôn nao nhìn lại thành phố Huế lần cuối cùng. Phố Trần Hưng Đạo nhộn nhịp trong sinh hoạt ngày thường đông đúc người qua lại, bóng dáng những chiếc xe đò chạy trên đường, những  chuyến xe buýt vào bến và cùng lúc rời bến, dọc hai bên đường những cửa hiệu buôn bán sát liền nhau. Chiếc cầu Trường Tiền, một biểu tượng văn hóa của thành phố Huế ánh lên một màu sáng bạc in dưới nắng. Xe đang chạy chậm trên đường nên Thụy để mắt nhìn thong thả. Thụy có ý nghĩ, mình đã ra đi lần này sẽ không bao giờ trở về lại thành phố này nữa. Anh có thể về đây để thăm gia đình, gặp lại bạn bè cũ, nhưng sau đó, anh lại ra đi. Hình như, anh chẳng bao giờ có sự hiện diện ở nơi đây, mà ở một phương trời khác. Huế, thành phố này không phải của anh, mà anh cũng không sinh trưởng ở nơi này. Anh có thể ở Huế một năm, hai năm, hay mười năm đi nữa, nhưng thành phố này không thể là của anh, vậy nên giữa anh và thành phố không một ai cho ai sự ràng buộc để luyến nhớ. Nhưng, trong giờ phút này đây ra đi, lòng anh bỗng ngậm ngùi.

            Khi xe chạy qua cầu, nhìn xuống con sông màu nước xanh dịu mát đột nhiên nó làm anh mơ nghĩ đến gương mặt các cô thiếu nữ trong thành phố này. Ngày hôm qua, Thụy ở nhà vui chơi trò chuyện với mấy em. Từng câu chuyện và nghe qua tiếng nói, hạnh phúc vô chừng. Đôi khi, nỗi bất hạnh, khổ đau làm cho bạn chợt cảm giác mình có được sự an ủi lẩn vào bên trong những giọt nước mắt chứa đầy vị ngọt. Thụy nói với các em , anh đi xa tìm kiếm việc làm, có tiền anh sẽ dành dụm gởi cho ba mẹ và các em. Anh và anh Nguyên rất nhớ các em, các em cố gắng học để khá lên sau này. Sau bữa ăn tối, Thụy lấy xe đạp thong thả dạo chơi. Trời có trăng, Thụy đi thăm những con đường quen thuộc trong thành phố. Mỗi con đường làm anh nhớ tới những người bạn gần cũng như xa. Anh đi ngang qua những căn nhà có ánh đèn sáng, với mỗi ánh đèn làm anh  suy nghĩ  cảm nhận đến cái vô thường, và bao nỗi băn khoăn từ hư vô.

            Con đường Nguyễn Hòang dẫn ra ngọai ô và xe ca bắt đầu chạy nhanh. Thụy mở túi xách lấy gói thuốc đốt một điếu. Khói thuốc loãng tan và lòng anh thực sự thanh thản. Sự ra đi của anh không có điều chi đáng trách cả. Ra đi, nỗi buồn lúc đầy quá, nó sẽ lại vơi cho lòng thấy nhẹ đi. Những đồng ruộng, nhà ở, cảnh làng quê, bóng dáng người trong nắng tất cả lùi lại rất nhanh, rồi hầu như biến mất.

            Khi xe ca đỗ hành khách xuống phi trường Phú Bài, tự dưng Thụy có chút bỡ ngỡ lạ lùng.

            Vì xe tới sớm, nên hành khách vào phòng đợi ngồi yên đó để chờ. Ở đây có cả quán ăn và giải khát. Thụy mua ly cà phê đá đem ra bàn ngồi uống và hút thuốc. Dần dần trong thóang nhìn bao quát, Thụy có cảm giác quen thuộc với mọi người. Ly cà phê làm anh tỉnh táo. Trong lúc chờ, Thụy lấy một cuốn truyện dịch mở ra đọc. Tuy chẳng thể nào bị lôi cuốn, nhưng mỗi trang sách vẫn hiện lên trong trí tưởng anh về những ý nghĩa của tiếng nói. Người ta có thể bắt đầu cuộc đời mình bằng một sự tình cờ trong lúc đang có mặt ở một nơi chốn nào đó. Về sau này, Thụy dấn mình vào công việc viết văn mỗi giai đọan anh đều có một nhận thức rằng con người phải hiểu thấu hòan cảnh của mình.

            Bỗng hồi chuông dài nghe lạ tai tưởng chừng như giờ ra chơi ở trường học. Sau đó, vừa nghe thông báo của nhân viên phi trường hành khách Thụy rời ghế đứng lên đi tới lối cửa ra phi cơ.

            Chiếc phi cơ đậu xa khoảng trăm mét. Trên chiếc cầu thang, bên cửa phi cơ có hai cô tiếp viên mặc áo dài thiên thanh. Thụy đã gởi hành lý túi xách lớn, còn túi nhỏ cầm tay. Vé máy bay còn kiểm sóat nên người nào cũng cầm sẵn vé trên tay.

            Thụy bước chậm lên thang máy bay theo những người đi trước. Hai cô tiếp viên người miền Nam đón hành khách với nụ cười và những lời chào niềm nở. Khi vào bên trong, Thụy nhờ một cô tiếp viên chỉ cho chỗ ghế ngồi. Thụy đi theo cô đến dãy ghế giữa và ngồi ở phía ô cửa kính tròn. Những tiếng chân bước hành khách đi vào các hàng ghế như được khép kín lại, điều chỉnh bằng sự yên lặng.

            Phi cơ sắp sửa khởi sự chuyến bay. Cánh cửa ở cầu thang đã đóng. Đèn trong phi cơ bật sáng. Một giọng nói thanh thóat vang lên từ trong phòng vi âm, Thụy lắng nghe, sau đó giọng nói trở nên nhanh khi chuyển ngữ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Chuyến đi này có bốn hành khách nước ngòai.

            Trên cặp mắt Thụy có sự máy động làm anh vui với niềm vui của mình. Và, hết sức chú ý đến chuyến đi , ngồi trên phi cơ anh nhìn qua cửa kính xuống sân bay ghi nhận từng sự vật, quang cảnh, và cố gắng hình dung nó như vẽ lên một tấm bản đồ.

            Tiếng động cở đã nổ, ít phút sau phi cơ từ từ lăn bánh di chuyển. Bên ngòai cảnh trí lướt qua như là một khái niệm về không gian. Rồi, trong chốc lát cảnh vật lùi lại đằng sau.

            Phi cơ vào phi đạo chính chạy một quãng rồi dừng lại. Nơi xa là ngôi làng trong bóng nắng. Nơi gần , chỉ thấy cánh đồng bỏ hoang. Sự chú ý của Thụy làm tăng mạnh thêm cảm giác khi thân phi cơ càng lúc càng rung mạnh. Rồi từ cuối đường băng, chiếc phi cơ lao đi cất cánh.

            Thụy đo được bằng mắt khi anh tìm thấy một vùng không gian bao quanh chiếc phi cơ như thể vừa vẽ xong một bài tóan hình học. Ngồi bên cửa nhìn ra, những giây phút đầu tiên này anh có sự thu nhận từ ý nghĩa bên ngòai không gian và dưới mặt đất. Khi mà sự vật bên dưới lại mất đi, thì vùng không gian bao quanh phi cơ trở nên rộng lớn, mênh mông. Mây trắng xóa, phi cơ đang bay bình yên.

            Sau ít phút bay, các cô tiếp viên phụ vụ bữa ăn nhẹ có thức uống, trái cây, bánh ngọt và cà phê. Thụy xin cô tiếp viên một ly cà phê sữa và chiếc bánh croissante.

            Huế-Sài Gòn xa cách khỏang trên ngàn cây số. Đi xe đò, xe lửa chạy suốt đêm cũng hơn một ngày, nhưng máy bay chỉ mất gần hai tiếng đồng hồ.

            Chừng độ qua nửa giờ bay, bữa ăn trưa dọn lên. Thụy  không cảm thấy đói, nhưng cố ăn xong bữa. Ăn xong, anh không dùng trái cây tráng miệng mà uống hết phần cà phê của mình, xong xin thêm một ly nữa.

            Cà phê thơm ngon. Thụy cảm thấy thỏai mái sau bữa ăn được ngồi dựa lưng ghế hút thuốc. Lúc này, anh không muốn mình lo lắng bi quan về chuyến đi. Tới Sài Gòn, mình sẽ có một cuộc đời khác, anh nghĩ vậy.

           

 

                                                           III

 

 

            Kim đồng hồ báo thức đã chỉ 5 giờ sáng. Vừa lúc tiếng chuông reo lên, Thụy vùng dậy bấm nút tắt, sau đó, chuẩn bị cho buổi đi làm. Thật nhanh gọn, Thụy gấp tấm chăn, sửa lại chiếc gối và tấm nệm giường nằm xong xuống nhà dưới ra ngồi chỗ bể nước đánh răng, rửa mặt. Chỗ này Thụy thuê ở là căn phòng của phía nhà sau, thuận tiện nhờ có lối đi riêng. Thường ngày, lúc về anh hay qua lối cửa trước nhà bà chủ, còn vào buổi sớm đi làm, anh dùng lối đi riêng để tránh gây tiếng  động.

            Trời vẫn còn tối , chưa sáng rõ. Nhìn qua vùng đất trống, Thụy  trông thấy xa lộ, và giờ này, đèn sáng khi có xe di chuyển trên đường. Thụy hơi cảm thấy mệt vì ít ngủ, nhưng lúc này cũng đã tỉnh táo hẳn.

            Mưa trở lại. Cái bóng Thụy  mất trong vùng tối, sau đó, từ lối cầu thang anh trở  lên phòng, rồi vội vàng thay quần áo đi làm.

            Lúc nào Thụy cũng khóa phòng cẩn thận trước khi đi. Con hẻm phía sau trơn ướt, Thụy đi nhanh ra đường cái, tới gặp ngã ba rẽ trái, anh theo con đường qua chợ Thị Nghè và tới đứng chờ ở trạm đón xe trước khu nhà thờ.

            Đường Hồng Thập Tự vắng vẻ. Thụy hướng mắt nhìn về phía cây cầu, lúc này, trời cứ mưa đều hạt. Một chập sau, có hai người lính nữa đến chờ, rồi thêm hai người nữa. Vừa lúc ấy, một chiếc xe GMC xuất hiện ở phía cầu, rồi đổ dốc với tốc độ chậm sau đó ghé vào trạm.

            Năm người lặng lẽ leo lên xe. Trên xe có khá đông người ngồi và xe  có bạt trùm kín nên không bị ướt. Trong khoang xe tối không nhìn rõ mặt nhau, nhưng nghe ra tiếng nói. Một bàn tay đập mạnh lên thành xe báo cho tài xế biết mọi người đã lên đủ.

            Xe lăn bánh. Trong xe, có ánh lửa điếu thuốc. Tới ngã tư xa lộ, xe rẽ phải, rồi phóng nhanh tốc độ. Thụy lặng im nghe những người lính nói chuyện. Và rồi, Thụy bỗng nhớ ra điều họ nói liên quan đến bản tin trên tờ báo Tiền Tuyến về việc cải tổ lương bổng cho quân nhân. Trên bản tin này, có hai điều Thụy nhớ rõ là tiền thâm niên công vụ sẽ tăng, và từ nay, tiền gạo và nhu yếu phẩm của quân nhân được tính luôn vào đồng lương thay vì cấp phát bằng hiện vật.

            Trời sáng hẳn khi xe lên tới thị trấn Tam Hiệp. Xe không còn chạy nhanh trên con đường vào thị trấn. Nhưng rồi không lâu, xe tới  Quân đoàn đi vào cổng và ngừng đỗ bên bãi đậu gần khu gia binh.

            Khi xe ngừng hẳn tài xế tắt máy, mọi người xuống. Từ bãi đậu, Thụy đi tới chỗ làm việc. Ngay lối vào hầm, Thụy gặp hai người lính Mỹ mang súng M16, họ cùng tốp làm với Thụy, hôm nay cũng lên đổi phiên.

            Vào bên trong, không khí ấm hẳn , đèn sáng trưng các phòng làm việc. Thụy  tới quầy phục vụ kiếm cái bánh ngọt xong lấy ly giấy rót cà phê. Thụy tập thói quen uống cà phê Mỹ với crème không bỏ đường, vì đã có cái bánh ngọt kèm theo. Thụy ăn và uống tại chỗ, xong một chiếc bánh, xong một ly cà phê Thụy lại rót đầy ly nữa để uống thêm. Từ quầy,  Thụy đến  phòng làm việc của ban ALO nằm ở cuối dãy.

            Phước đang trực nghe máy khi Thụy vào.

-Sao, có gì lạ không ?

-Vô sự.

-Hồi đêm không có phi vụ nào cả.

-Có một phi vụ tản thương.

            Ở phòng làm việc này, có hai máy truyền tin hiệu thính viên ngồi nghe và theo dõi hoạt động của các loại phi cơ, lúc có chuyện gì quan trọng mới tin báo đến Sĩ quan trực. 

-Thôi, chuẩn bị về đi.

-Ờ.

            Phước nhường ghế cho Thụy, đứng dậy đốt điếu thuốc. Thụy coi lại sổ trực ngày hôm trước để biết các sự kiện, sau đó, anh ghi ngày , tên Sĩ quan trực và hiệu thính viên nghe máy. Trên sổ trực này, khi có  sự kiện, hiệu thính viên phải ghi vào với ngày giờ bên lề. Cứ từng giờ, không có sự kiện nào, ghi là vô sự.

            Bỗng nhiên Phước hỏi Thụy:

-Sao, mày có tính đi Sĩ quan không ?

-Đi Thủ Đức hả.

-Không, bên Không quân.

-Đâu có đủ điều kiện đi Kỹ thuật.

-Đang tuyển ngành phi hành.

-Khó lắm. Tao không đủ sức khỏe.

-Bên văn thư mới có thông báo của Phòng tuyển mộ gởi.

-Ờ, để tao coi lại.

            Hút xong điếu thuốc, Phước chưa về còn chuyện vãn với Thụy.

-Mày đi đi. Có cơ hội nên đi.

-Tao muốn đi Kỹ thuật, dễ ra trường hơn.

-Đi Pilot qua Mỹ học mày.

            Thụy mỉm cười, một lúc sau nói:

-Mấy ông Sĩ quan ALO ở đây, ông nào cũng bị gãy cánh hết.

-Sao mày biết ?

-Mày có thấy ông nào có đeo cánh bay có ngôi sao ở giữa không ?

            Phước có vẻ trầm ngâm . Lúc này trong máy vô tuyến đang hoạt động giữa quân bạn và một phi cơ trực thăng có phi vụ tiếp tế đang trên  đường bay.

-Sao hôm nay có đi Mỹ Tho không ?

-Không, tuần tới.

-Mầy đi xe đò hay Honda.

-Honda.

-Sao mày không chịu học lại.

-Học không zô mầy ơi.

-Tao cũng vậy. Không có hứng thú gì chuyện học.

-Nhưng mày ngon rồi. Trong anh em, mầy có được bằng Tú Tài.

-Ở Không quân này, lính, Hạ Sĩ quan, bằng cấp Tú Tài, Đại Học thiếu gì người. Ở tòa soạn Lý tương, có đến ba ông Đại học mày biết không ?

            Trung úy Thái đến, ông luôn mặc đồ bay mặc dù không phải là phi công. Với Thụy, ông khá thân thiện, vì anh cũng có máu văn nghệ như ông.

            Khi Trung úy Thái đến, Phước mới ra về. Viên Trung úy kéo ghế lấy gói thuốc mời Thụy một điếu hút và trên tay ông cũng có ly cà phê.

-Sao mầy thi cử sao ?

-Thôi, em thi kỳ nhì.

-Kỳ đầu rớt.

-Không, em chưa thi. Mà, học không vô Trung úy ơi.

-Ráng đi chứ mày. Có được cái Tú Tài đôi, đi kỹ thuật.

-Em biết. Nhưng khó quá. Em thi hai năm năm rồi, không đậu nổi.

-Hay là mày đi phi hành.

-Khỏe như Trung úy mà không thành Pilot nổi, gì đến em.

-Mày phải tự tin. Biết đâu, rồi mày thành tài.

-Em thấy mình thiếu tự tin. Vậy nên, em chỉ thích cái nhàn hạ. Khi con người  mình thiếu ý chí, thiếu cương quyết thì tương lai sẽ không thành.

            Có chuông điện thoại reo, ông Thái cầm máy. Sau cuộc điện thoại, ông lên Phòng Hành Quân. Thụy vừa uống cà phê vừa nghe máy. Trên máy, chỉ là quân bạn và phi cơ trực thăng. Lúc này, phi cơ đã ở vùng hành quân:

            Trung úy Thái trở lại, ông nói với  Thụy:

-Có L19 hộ tống đoàn xe. Ông đưa manifeste cho Thụy ghi vào sổ và bắt đầu từ giờ này theo dõi đoàn xe.

            Thụy nhận giấy, ghi chép cẩn thận, và lúc này anh mới thực sự vào giờ làm việc. Nhỏm người đứng dậy, kéo sửa lại chiếc ghế xong Thụy ngồi xuống, thay đổi tần số trên máy PRC 25, rồi tai lắng nghe những thông tin liên lạc của phi cơ và đoàn xe.

            Đoàn xe đã chuyển bánh. Bên máy PRC 47, có một phi tuần A 37 vừa tới vùng hành quân. Thụy nghe các phi công nói chuyện qua máy. Thụy để tai lắng nghe, làm việc ở ban ALO, giờ phút sôi động hào hùng nhất là được nghe tiếng các phi công đang cho phi cơ nhào lộn với các trận đánh bom. Những trận  ném bom  trên mục tiêu ngoài chiến trường đã làm anh nghĩ đến một trận bóng tròn quốc tế đang diễn ra nhiều pha bóng tấn công hồi hộp, sôi nổi vào khung thành đối phương để ghi bàn thắng. 

            Thụy vừa ngồi nghe máy, ghi chép các sự kiện hành quân vào sổ, và bên cạnh có tờ báo, thỉnh thoảng anh cầm lên đọc. Tới trưa, Trung úy Thái đến ngồi trực máy thay cho Thụy đi ăn. Trước khi Thụy đi, ông móc ví lấy tiền nhờ Thụy mua gói thuốc Pall Mall. Đây là thuốc Mỹ loại nặng, Thụy rất thích, nhưng đến mỗi tháng có lương anh mới hào phóng mua một gói hút cho thơm râu.

            Ngoài cổng quân đoàn, dọc theo con đường của thị trấn có rất nhiều quán ăn, giải khát. Thụy  đến quán cơm chị Hòa, giờ này đã đông khách. Trong quán, lính có , Sĩ quan cũng có, họ ngồi riêng từng nhóm. Thụy  gọi một dĩa cơm trứng và ly trà đá. Đây là phần ăn rẻ tiền nhất. Thường ăn một dĩa là còn thiếu, Thụy phải gọi thêm cơm không, ăn dặm với nước tương.

            Nắng trưa, bụi, khói, tiếng xe cùng lúc nổi trôi trên con đường. Bên ngoài này là khung cảnh thị trấn,  từ đây vào thị xã Biên Hòa còn khoảng bốn cây số nữa. Và, phía bên trái hàng rào doanh trại của quân đoàn là phi trường. Tại phi trường này, có đơn vị Không đoàn 23 trú đóng.

            Dọc theo con đường chính của thị trấn, nhà ở hầu hết là của lính. Những quán ăn và giải khát hầu hết cũng là của gia đình họ nằm ngay bên đường, luôn nhộn nhịp từ sáng đến nhiều. Buổi chiều, sau giờ còi hụ  những quán nhậu mọc lên bằng những tấm bạt, tấm dù, quán nào cũng  có rượu đế, có bia, thịt rừng, và đồ biển.

            Hai quả trứng chiên, dĩa cơm nóng thật hấp dẫn. Khi ngồi vào bữa ăn, Thụy luôn cảm thấy đói nên ăn ngon. Thụy ăn nhiều cơm, nên vừa sắp hết một dĩa là gọi thêm chén cơm không mang ra ăn tiếp với nước mắm mỡ, hay xì dầu. Nhờ ăn nhiều nên Thụy lúc nào trông cũng khỏe mạnh, dềnh dàng. Thời đi hoc, sự thiếu thốn làm Thụy luôn khắc khổ, luôn ám ảnh sự không may gắn liền cùng số phận, đến giờ đi lính, dù tuổi mới hơn hai mươi, nhưng trông anh cũng đã gió sương, dạn dày. Thực sự, anh vẫn còn ngây ngô, non dạ, non tình, vụng về nhiều mặt. Nhưng đôi lúc, ngồi cười thú một mình anh hay có những ý nghĩ lẩm cẩm về chuyện vụn vặt riêng của mình, của người khác, rồi lan ra tới chuyện đời. Thụy  cho rằng cuộc đời là không thể nào đơn giản, bình thường. Người ta hay ví dòng sông như dòng đời nhưng bạn có bao giờ thấy một con sông phát xuất từ đầu nguồn chảy nguyên một dòng ra đến biển hay không. Ta đây cũng có sự phân biệt về cuộc đời và cuộc sống. Cuộc đời thì dài, liên tục, còn cuộc sống nó đặt ra sự hạn định con người trước thời gian. Có một phụ nữ trí thức người Mỹ nói, chúng ta sinh ra một mình, chết một mình, còn lại với cuộc đời chúng ta sống làm sao cho có được một ý nghĩa đích thực. Có một ông nhà văn người Pháp, thì bảo, cuộc đời này có đáng sống hay không đáng sống. Và, cụ Khổng Tử nhà hiền triết bậc nhất Trung hoa đã nói một câu thật ý nhị, nhưng buồn quá. Một hôm ấy, đứng trên bờ nhìn sông chảy, cụ than thở, sông ơi sao mà cứ chảy hoài không ngưng nghỉ.

            Giờ này đúng giờ ăn trưa nên các quán đều đông khách, đúng hơn là đông lính tráng, và cũng có Sĩ quan vào ăn. Thụy bỗng nhớ mình có một người chị con ông bác ở ngay trong thị trấn này, nhưng chỉ mới đến thăm nhà chị có một lần. Hôm ấy, dì Hồng hỏi Thụy:

-Lâu nay, thằng Nguyên đi đâu không ghé con ?      

-Chắc là anh đi công tác.

-Nó ở đâu, con biết không ?

-Anh không có nhà ở. Anh làm việc ở tòa báo, rồi ở luôn đó.

-Sao không về ở dưới này với dì.

            Có người bấm chuông ở ngoài, Thụy vội ngừng giặt đứng dậy đi nhanh bước. Anh Nguyên đến, thực là hay khi cả dì Hồng va anh  vừa mới nhắc tên. Khi thấy anh Nguyên xuất hiện, dì Hồng cười lên tiếng:

-Đã không ? Lâu nay đi đâu con ?

-Con mới đi công tác về.

-Công tác ở đâu con ?

-Dạ, xuống dưới miền Tây.

            Anh Nguyên để túi trái cây lên bàn, nói:

-Con mua trái cây biếu chú dì.

-Chà , thảo không ?

            Thụy tiếp tục giặt. Sau khi vò xong cái áo mai ô, Thụy bắt đầu xả. Quần áo Thụy mặc không dơ lắm, chỉ xả đến nước thứ ba là mặc được. Nơi chiếc bàn tròn, anh Nguyên và dì Hồng nói chuyện.

            Lòng dì  vui hẳn lên lúc nghe đứa cháu kể chuyện đi công tác về miền Tây,  bỗng nhiên dì cất tiếng cười sảng khoái khi nghe anh Nguyên nói, bây giờ anh là đệ tử cưng của Thầy Thích Tâm Châu.

            Tiếng chuông đồng hồ trưa đổ. Ngừng chuyện, anh Nguyên đứng dậy bảo Thụy:

-Đi với anh thăm chị Số một chút.

-Ua , chị Số ở đâu ?

-Chị ở Biên Hòa .

-Sao anh biết ?

-Anh gặp chị về Sài Gòn mua hàng.

            Thụy để anh Nguyên nói chuyện tiếp với dì Hồng rồi đi lên gác thay quần áo. Xuống nhà, hai anh em Thụy chào người dì để đi.

            Bến xe Nguyễn Cư Trinh gần nhà dì Hồng . Hai anh em Thụy vừa đi bộ, vừa nói chuyện nhà.

            Khi tới nơi, hai người hỏi xe đi Hố Nai. Chiếc xe búyt dài đang chờ khách nên hai anh em Thụy vào quán ăn cơm trưa cho chắc bụng . Trong lúc ăn, anh Nguyên nói:

-Ra Tết, anh em mình dọn tới khu Bàn Cờ ở.

-Anh thuê nhà ở đó.

-Nhớ anh Công học lớp anh không ?

-Nhớ.

-Hai anh em mình về ở chung nhà anh Công.

-Anh Công ở một mình.

-Anh Công ở nhà người anh rể.  Bây giờ, gia đình người anh xuống Mỹ Tho để lại nhà nhờ anh Công chăm sóc.

-Hay quá.

            Hai anh em Thụy ăn cơm xong, vừa lúc xe sắp chạy. Hai người lên ngồi băng ghế cuối. Ra khỏi bến, xe chạy trên đường Trần Hưng Đạo, rồi vào Hồng Thập Tự,  đến ngã tư Hàng Xanh xe rẽ phải vào xa lộ Biên Hòa. Từ  đấy, xe chạy nhanh và chỉ sau một tiếng đến Tam Hiệp ngừng đỗ khách .

-Hôm nay chị có biết anh xuống không ?

-Có.

            Từ bến đỗ, hai anh em Thụy đi bộ đến nhà chị Số xa chừng khỏang nửa cây số. Thụy hỏi anh Nguyên:

-Chị Số là con của bác gái hai hay ba.

-Bác hai.

-Bác lớn có mấy người ?

-Bốn người.

            Trên đường đi, Thụy hình dung lại bóng dáng của người chị thuở nào. Tuy ít học, nhưng chị có nhan sắc. Thụy còn nhớ hình ảnh chị lúc gia đình anh vào ở Quảng Trị. Và, Thụy nhớ rõ hơn hết là một buổi sáng sớm ba , anh Nguyên, Lăng và anh cùng đến nhà bác sau một đêm đi ngủ nhờ vì căn nhà ở trọ là nhà bác Biền bị cháy. Đêm ấy lạnh, ngủ ngoài hiên không có chăn đắp. Khi thức giấc, Thụy nghe tiếng ba anh khóc. Có lẽ ông nghĩ nhiều đến sự đời.

            Sáng sớm hôm ấy, bốn người vội đi lúc chủ nhà vừa thức giấc. Ba anh nói lời cám ơn, vừa trả lại tấm chiếu cho chủ nhà. Trên đường, một người cha dắt hai con và đứa cháu đi sâu vào ngôi làng qua một con đường dài , hai bên trải một hàng cây tre dày kín. Rất may, ba anh tìm ra được nhà bác Hai gái, rồi ở nhà bác ăn cơm, trò chuyện đến trưa đón xe ra Đông Hà, Hai tuần lễ sau, ba mẹ anh cũng mau thu xếp đem cả gia đình vào Quảng Trị ở.

            Hai anh em Thụy đi bộ trên con đường đất có bóng cây im mát. Cũng khá xa, từ bến xe đậu đi tìm nhà người chị. Khi tới cổng và thấy số nhà, hai người dừng bước, do dự. Căn nhà chính lợp ngói, nhà phụ lợp tranh, sân trước khá rộng, và Thụy trông thấy phía góc sân  một người đàn bà mặc áo trắng cũ đứng quay lưng đang phơi quần áo. Có tiếng chó sủa, người đàn bà quay lại nhìn về phía hai người lạ. Anh Nguyên nói:

-Chị Số đó.

            Chị Số nhận ra anh Nguyên liền chạy ào tới. Thụy cười hỏi chị:

-Chị nhớ ra em không ?

-Trời, cậu.

            Chị Số đã nhận ra Thụy, rồi vừa nắm tay, chị nghẹn ngào nói, vừa khóc.

            Năm đầu tiên Thụy lên trung học, chị Số đi lấy chồng vào Huế ở, sau hai năm thì rời xa miền Trung miền Nam. Ra đi xa, ít có dịp trở về thăm làng quê nhưng Thụy vẫn còn nhớ rõ hình ảnh chị thời con gái với nét mặt dịu hiền, cặp mắt to đen, và chị thật đảm đang việc nhà.

            Anh Nguyên và Thụy chỉ có em gái thôi, vì vậy, mỗi lần gặp chị, qua hình ảnh chị Thụy cứ nghĩ, ước gì mình có một người chị như thế để được gần gũi mỗi ngày trong cuộc sống bình thường, bằng tiếng nói, câu chuyện, bữa ăn, hay có một việc gì đó cần được giúp đỡ.

            Sự liên hệ gia đình thân thuộc, dòng dõi bên nội Thụy không có khoa bảng, nhưng anh chị em rất là thương kính nhau. Và, sau ngày chú Đặng mất, ba anh là người tương đối có chút học vấn, vừa làm nghề dạy học nên trở thành cái nôi cho cả gia đình, con cháu. Sớm hiểu về cuộc đời, nên ba anh đã cố gắng cho con cái đi học, đồng thời, cũng tìm cách giúp đỡ những đứa cháu ở làng quê cố ra tỉnh để theo học, may có tương lai về sau. Trong các bác, các chú, ba Thụy là người được các cháu kính trọng, nghe lời, trong đó riêng chị Số dành cho ba anh địa vị giống như một người cha. Thuở đó, ở làng quê ra, vì nghèo khó chị phải giúp mẹ buôn bán để nuôi em đi học. Bù lại sự thiếu thốn đó, trời cho chị chút nhan sắc để gặp người chồng tốt và sống cuộc đời hạnh phúc.

            Quảng Trị là một tỉnh tuy nhỏ, nhưng có nhiều tài nguyên ở trên rừng và dưới biển. Rừng núi ở phía Bắc, còn biển  trải rộng về phía Đông. Và, không chỉ có con sông Thạch Hãn chảy qua thành phố, mà ở mỗi quận, thị trấn, nơi nào cũng có sông, nơi nào cũng có những con đường đi ra biển, và làng Thụy ở gần biển nhất. Ngôi làng này nay vẫn còn nguyên vẹn sau chiến tranh. Ngôi làng dân cư thưa thớt, có khỏang chừng 100 nóc nhà ở trải rộng trên những con đường đất xa gần. Có những căn nhà đơn độc, hẻo lánh hướng về phía mặt biển trông qua những đồi cát. Những con đường nhỏ chính yếu của ngôi làng luôn mát dịu dưới bóng tre, và trên mấy con đường này nhà ở tụ tập gần nhau hơn những nơi khác. Quanh ngôi làng , xa cũng như gần ở đâu cũng nhìn thấy những đồi cát trắng trông tựa như những đàn voi. Vào mỗi buổi sáng, những đàn chim thiên di từ hướng núi bay ra biển. Vào buổi chiều, trước khi mặt trời lặn, sóng biển dội lúc nổi, lúc chìm, nghe rào rạt trôi xa, rồi mất hút. Và, đó là tiếng động báo hiệu trước mùa đang tới sẽ yên bình hay gặp cơn giông bão.

            Từ Sài Gòn lên Tam Hiệp thăm chị Số, hai anh em Thụy được một buổi chiều tối hưởng trọn hương vị đồng quê. Qua trưa hôm sau, hai anh em còn ăn bữa cơm với gia đình chị để sau  đó trở về lại Sài Gòn. Trong bữa ăn,  chỉ vắng anh Nghi chồng của chị, anh làm ngành kiểm lâm và đang công tác ở Di Linh. Từ hôm qua đến giờ , Thụy vẫn luôn trông trông theo bóng dáng chị như để tìm kiếm  bóng quê nhà xa lắc. Khi nghe giọng nói của chị, Thụy chợt nghĩ đến thời con gái của chị, rồi bỗng thấy vui được nhớ đầy đủ mái nhà chị ở trong khu làng Thạch Hãn thật mát rợi với cây cối trong một khu vườn xanh kín lá cây.

            Thụy đưa tay đỡ lấy chén cơm chị vừa xới, rồi nở một nụ cười sung sướng như  vừa bắt gặp, vừa mới nhận ra cái đời sống sung túc của chị, đến lúc này, gặp lại đứa em nhỏ ngày xưa chị có thừa cơm gạo, thức ăn, để em nó ăn no đủ.

            Thụy lên tiếng hỏi:

-Chị có được tin tức gì của chị Thú và anh Quân không ?

-Bác có được tin. Chị Thú ở Nghệ An, làm công nhân xưởng dệt. Còn anh Quân ở Hải Phòng.

            Hai anh chị con người bác mà Thụy vừa hỏi đến đều tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève năm 1954. Thụy chưa hề được gặp chị Thú, anh Quân nhưng được nghe nói nhiều qua lời ba anh kể lại. Trong giòng họ Nguyễn Đặng, ông bà nội rất đông con, 8 ông con trai hai bà con gái, và hiện tại ở ngòai làng quê chỉ có bác Hai, bác Oanh và hai người o.  Còn lại, đi ra tỉnh kiếm việc làm sinh sống, ba anh dạy học, bác Hoàn làm y tá, chú Luyện làm thợ nề. Và, có lẽ do gen chung trong giòng họ, từ bác Hai đến o Ut trong nhà, gia đình nào cũng đông con mà lại nghèo. Tuy nhiên, sự hòa thuận thương yêu từ ruột thịt đến bà con là đặc điểm mà Thụy biết được, không cần bộc lộ hay nói ra nhiều lời.

            Những năm tháng gia đình Thụy  còn ở Đông Hà, Quảng Trị, lúc đó hình ảnh cuộc chiến tranh đến với Thụy là nghe tiếng súng trên núi vọng về, cảnh hỏa họan do Việt Minh đốt trại lính lửa cháy tràn xuống vùng dân cư sinh sống tại thị xã, hay trong một lần anh được nhìn thấy những đòan xe chở lính tráng trên con đường qua vùng thị xã để đi lên mặt trận. Đó là những hình ảnh, ý niệm sơ sài về chiến tranh qua tuổi nhỏ, còn giờ đây lớn lên, Thụy ý thức được cuộc chiến tranh trước nhất là mình thấy sự đe dọa rồi sẽ phải đi lính, và dù chưa mặc áo nhà binh, nhưng mỗi ngày những biến động xáo trộn trong thành phố, những tin tức báo chí tường thuật các trận đánh của các đơn vị miền Nam với Việt Cộng, Thụy có nhiều nỗi băn khoăn, như thể chưa bao giờ mình gạt được những lo âu thường ngày.

            Hình ảnh làng quê nơi chốn xa vẫn đem cho anh sự dịu hiền, quyến luyến. Và mỗi lần được nhớ, nhiều hơn hết trong lòng anh là gương mặt những người thân và tiếng nói. Thụy bỗng nghĩ đến sự lìa bỏ quê nhà đi theo lý tưởng của hai anh chị con bác Hai , nhưng anh không cần phải đặt câu hỏi hai người có nhận ra sự phi lý đối với một dân tộc, anh chỉ tự hỏi mình trong lúc này, anh có mang tâm  trạng của anh Quân ra đi là từ bỏ chốn quê nhà và không mong nghĩ đến một ngày trở về .

 

           

                                                           IV

 

 

            Hai ngày xuống ca nghỉ luôn làm Thụy cảm thấy rất thoải mái. Khi về tới Sài Gòn, không khí sinh hoạt của thành phố làm anh phấn khích và nhận ra thành phố này đích thực là dành cho con người luôn thúc đẩy mình chuyển động trong sự hăng hái tham dự vào cuộc sống.

            Về nhà trọ, lên căn phòng vắng lặng, Thụy chỉ cởi đôi giày trận xong lăn lên giường đánh một giấc. Trên đường xe chạy Thụy đã ngủ, giờ vẫn thèm ngủ. Trong giấc ngủ, đôi lúc anh nằm mơ. Và, giấc mơ hạnh phúc nhất cho anh là được thấy bóng hình Thúy Hà. Khi nàng đến tìm anh trong giấc mơ, luôn luôn nàng mặc áo dài nâu. Đó là một chiếc áo, một bóng dáng riêng biệt của nàng. Cũng đã có một đôi lần, nghĩ về chiếc áo dài nâu nàng mặc, Thụy có nhiều ý tưởng so sánh, một cảm giác về thời tiết trong mùa, một bức tranh được treo trong góc căn phòng, thảng hoặc nơi xa đó là một thành phố mình hằng mong tìm đến. Những tháng năm của thời đi học, Huế quen thuộc với Thụy hơn hết. Và, thành phố này đã cho anh những hình ảnh áo trắng rất là quen thuộc. Áo trắng ở thành phố này là hương sắc của thời gian, ngày với hương vị của nắng ấm và gió của dòng sông, đêm là của loài thảo mộc. Nhưng lạ thay, xa Huế là Thụy không nhớ nghĩ đến thời gian và bao nhiêu khung cảnh quen thuộc ấy nữa. Và rồi, một buổi sáng ấy Thúy Hà đến lớp với chiếc áo dài trắng, hình ảnh đó mãi mãi với tâm hồn Thụy là một nơi chốn riêng biệt giữa bốn phương trời.

            Khoảng đầu giờ buổi chiều Thụy thức dậy. Sự thức giấc sau giấc ngủ ngon làm anh tỉnh táo và thèm một ly cà phê. Với cà phê, đã có một thời gian kéo dài đến mấy tháng, uống vào buổi chiều làm anh mất ngủ, nhưng giờ thì rất là quen. Và, đã một lần anh bỗng nhận ra, ly cà phê vào đầu buổi chiều là thời gian uống ngon nhất. Những buổi sáng thức dậy có bữa ăn sáng với ly cà phê, chẳng qua đó là thói quen, chứ uống cà phê vào không khí đầu buổi chiều bên goài trời mưa hay nắng, đều có một cảm giác rất ngon và rất thú vị. Huê bắt đầu ghiền cà phê, nàng nói, Thụy là người đem lại cho nàng thú uống cà phê. Không chỉ đôi ba lần mà nhiều lần, khi ngồi trong quán nước gọi cà phê uống, Thụy và Huê luôn cảm thấy lòng mình vui, yêu thích cuộc sống và trò chuyện rất ăn ý , vừa được cơ  duyên. Vậy là hai người trẻ , chàng và nàng đích thực có một mối tình cà phê. Khi Thụy nói ra ý nghĩ này, Huê gật đầu.

            Thụy xuống nhà rửa mặt, xong lên thay quần áo. Với dáng dấp thô cứng, vụng về, bộ quần áo xi vin Thụy đang mặc nó nhẹ hẫng phất phơ như là chiếc lá, nhưng sự quan tâm mỗi ngày của anh là coi tiền cất trong ví có được bao nhiêu. Nếu ít quá, anh phải đến quán cơm xã hội, hoặc mua bánh mì. Anh không thể mua bánh mì nhân thịt ổ lớn, mà chỉ vừa tiền cho ổ nhỏ, xong đệm thêm một chiếc mì không để chấm với nước tương. Còn lúc được tiền kha khá, thì đến quán cơm bình dân anh ăn no bữa. Vào mỗi kỳ đầu tháng, bữa cơm anh đi ăn khá là ngon và có thêm chai bia nhấm nháp nữa.  Kể từ ngày đi lính đến nay, Thụy luôn cố gắng sống với những sự khó khăn hàng ngày qua đồng lương. Thế nhưng, anh vẫn cố ngăn mình đừng quá mặc cảm và khổ sở vì sự thiếu thốn. Có thể nói, không khí thành phố Sài Gòn làm anh luôn cảm thấy dễ chịu và tự tin.

            Căn phòng Thụy đang thuê ở luôn bỏ trống trong thời gian còn lại của buổi chiều. Và cơn mưa có khi tới, thế nào căn phòng cũng có một đôi chỗ ướt dột. Nhưng sau đó, mùi vị của nó vẫn như là đã quen thường ngày.

            Khoản tiền nhà đầu tháng, Thụy đã trả tuần trước. Bà chủ nhà rất vui vẻ lúc lấy tiền và bà đã nhận ra rằng, bà quá cẩn thận về điện nước, thấy rằng Thụy đàng hoàng và từ nay bà rất muốn anh cứ tự nhiên, thoải mái.

            Vừa ra khỏi nhà, Thụy  chợt nghĩ đến Lăng. Từ Thị Nghè, Thụy đón xe buýt xuống Sài Gòn, rồi từ bến chính lại đi chuyến xe khác xuống chợ Thái Bình. Xuống đây Thụy  đi bộ đến nhà dì Hồng. Lối hẻm vào rộng rãi, nơi đây Thụy nhớ nhiều đến bóng dáng người thiếu phụ, và nơi đây vẫn nhắc Thụy nhớ đến Huê.

            Tiếng chuông cửa  dội lên, vang sâu vào bên trong. Một lúc sau, có người ra mở cửa.

-Ủa, hôm nay anh không đi làm ?

-Không, anh vừa xuống ca lúc sáng.

-Anh mới ngủ dậy phải không ?

-Ờ. Mấy hôm nay có thư từ gì không ?

-Anh có điện tín.

            Thụy bỗng cảm thấy bất an, lo nghĩ. Thụy cầm bức điện tín Thúy đưa, rồi theo cô em họ xuống nhà dưới ngồi ở chiếc bàn tròn, một mình dì Hồng đang têm trầu ăn.

-Công việc con lúc này sao ?

-Dạ bình thường, dì.

            Thúy mở tủ lạnh đem ra cho Thụy một ly chè đậu. Thụy đọc bức điện tín:

-Thứ sáu 24/10  em vào Sài Gòn. Thúy Hà.

            Nỗi mừng vui lộ ra mặt.

-Điện tín ai đó con ?

-Cô bạn học.

            Thúy ngồi xuống, cười nói:

-Em biết là ai rồi.

-Em đoán coi.

-Chị Thúy Hà phải không ? Từ ngày xa cách, anh chỉ nhớ nàng thôi.

-Si tình dữ không ? Rồi bây giờ , sao ?

-Dạ có gì đâu. Cô là bạn, có chồng rồi.

-Vậy à.

            Thụy cầm muỗng ăn ly chè.

-Anh Lăng vào chưa ?

-Em không biết. Chắc là chưa vào.

            Thụy đọc lại bức điện tín lần nữa, lòng tự dưng bâng khuâng. Ngồi đây, anh bỗng nhớ đến buổi sáng ấy thức dậy sớm cùng với Lăng đi ra bến tàu, nhớ đến khung cảnh rất đông người đưa tiễn. Nắng hừng lên, con tàu tách bến, dần xa Sài Gòn. Ở trên bong tàu khi tàu rời bến Cảng, Thụy đưa mắt nhìn lại thành phố , nhìn quang cảnh thiên nhiên và nhà ở ven dòng sông. Rồi, tàu ra đến cửa biển. Nắng, gió lộng, bờ cát, nỗi nhớ nhung, nỗi buồn sự xa cách và nghĩ đến số phận. Lênh đênh trên biển hết ngày, rồi đêm xuống, Trong đêm đèn sáng phía xa bờ, và trong đêm tối hình ảnh những người lính ngồi dưới ánh đèn pin ngồi đọc thư  và viết thư cho gia đình, cho người yêu trong đêm tối mịt mùng trên con tàu vẫn lênh đênh giữa biển.

            Khi nghe tiếng chuông ngoài cửa, Thụy giật mình. Và rồi hết sức ngạc nhiên, khi nghe tiếng cười của Thúy và giọng nói của Lăng.

            Dì Hồng lên tiếng:

-Chà, xa Sài Gòn lâu dữ. Về Huế , vui không con ?

-Dạ vui.

            Lăng đặt gói quà xuống bàn, nói:

-Me con gởi biếu dì.

-Dì cám ơn me con. Sao me ngoài nhà khỏe không ?

-Dạ khỏe.

-Me đã nghỉ hưu chưa ?

-Chưa, dì ạ.

            Thúy nói:

-Anh Lăng mới về một tháng, coi mập ra.

            Thụy vẫn còn để những giây phút riêng tư nhớ đến Thúy Hà. Còn mấy ngày nữa thôi, anh sẽ gặp lại nàng. Xa nhau đã hai năm, gặp lại nhau chắc trong mỗi tâm hồn đổi khác nhiều.

            Buổi chiều nghe vang lên hồi còi hụ báo giờ tan sở. Luôn luôn trong câu chuyện về người thân là gợi nhắc dì Hồng nhớ đến cảnh làng quê cũ. Và, thực sự dì ước mong có được dịp đi xa, về tận ngoài đó thăm quê. Người rời làng quê đi xa sớm nhất là dì, từ thuở mới lên mười.

            Khi nghe tiếng xe ở ngoài, Thúy biết ba mình đã về tới cô đi ra mở cửa.

-Chào chú.

-Ờ, chào hai cháu.

            Không vội thay quần áo, chú Minh ngồi vào bàn chuyện trò với cả gia đình.

-Trông cháu mập ra nghe Lăng.

            Thúy cười:

-Con mới khen anh.

-Ngoài nhà ra sao ?

-Dạ bình thường.

-Me cháu vẫn con dạy học.

-Dạ còn.

-Me con ở nhà, kém dì một tuổi.

            Chú Minh uống hớp trà nóng Thúy pha, vừa cầm một miếng mè xửng lên ăn.

-Ngon quá.

            Thúy lại đi ra ngoài khi nghe tiếng chuông gọi cửa. Chị Lành đi chợ về. Đi qua bàn khách, chị lên tiếng chào rồi thẳng xuống bếp.

            Thụy nói với Thúy:

-Huê  hỏi thăm em.

-Anh gặp chị ở đâu.

-Ở quán nước gần nhà.

-Lâu nay không thấy chị ghé.

            Thụy cười:

-Có bồ mới rồi. Vui vẻ lắm.

-Thật hả.

-Thật chứ. Huê khoe với anh.

-Anh gặp bồ chị chưa ?

-Có.

            Thụy và Lăng ngồi ở nhà dì Hồng chuyện trò đến giờ ăn. Trời âm u, gió nhẹ. Trong nhà đén sáng. Sau bữa ăn, khi cả nhà dùng trà, Lăng nói:

-Anh Nguyên sắp làm lễ hỏi.

-Chà, giỏi không, dì Hồng khen.

-Anh Nguyên và chị Thiên Nga rất là đẹp đôi.

-Tên hay quá, anh.

-Tên hay, người cũng đẹp.

            Thụy cảm thấy vui. Dì Hồng hỏi:

-Chừng nào đám hỏi con ?

-Hình như là cuối tháng mười một.

            Lăng đáp lời, xong quay sang Thụy:

-Anh có nhận được thư ngoài nhà không ?

-Không.

            Thụy rất muốn được nói chuyện riêng với Lăng về chị Thiên Nga nên mong một ngày khác. Bức điện tín Thúy Hà ở trên túi áo của Thụy. Nãy giờ, những ý tưởng về bức điện tín làm anh bâng khuâng. Anh vẫn chờ đợi, nhưng chẳng biết tự nguyên do nào.

            Khoảng chín giờ đêm, Thụy và Lăng cùng ra về. Hai người đi xe Honda. Đây là chiếc xe cũ  Lăng mới mua lại của người bạn, với giá thân hữu. Anh bạn cũng học trường Luật, thân nhất với Lăng, không chỉ bán thôi mà còn cho trả góp.

            Chiếc xe Honda nước sơn màu xanh lá cây. Tiếng máy nổ êm. Gió đêm thật mát rợi, trên đường xe chạy, Thụy kể lại cho Lăng nghe về công việc làm hiện giờ của mình, sôi nổi nhất là những ngày đi lên mặt trận vùng biên giới, sau hết, Thụy cho Lăng biết anh đang chuẩn  bị hồ sơ gởi Ban tuyển mộ để xin đi học khóa SVSQ hoa tiêu. Với quyết định này, ước mong chuyện học của Thụy tạm thời ngừng.

            Bến tàu đông vui. Lăng cho xe chạy dọc theo con đường bến cảng để nhớ những ngày trở lại Sài Gòn sau hơn một tháng đi vắng, để hóng mát gió đêm trong thành phố, rồi sau đó, dừng xe lại bên bờ đường cạnh một quán giài khát.

            Người chạy bàn ra ngay khi hai người vừa kéo ghế.

-Hai ly nước mía.

-Không bia bọt gì anh ?

-Không.

-Ngồi bến tàu hóng mát sao không bia bọt gì cả.

            Thụy cười, xong bảo:

-Rồi, khui hai chai.

-Có vậy, cho em út nhờ.

            Đứa con gái đi vào quán rồi đem bia và hai ly đá ra bàn.

            Thụy rót cho Lăng trước xong đến mình. Có tiếng hỏi vọng:

-Gọi thêm gì nữa không.

-Một gói đậu phộng.

            Thụy và Lăng cụng ly, xong uống cạn và rót tiếp.

-Chừng nào anh mới đi học ?

-Hy vọng tháng tới, nhưng còn phải khám sức khỏe. Đi  ngành hoa tiêu, sức khỏe khám rất kỹ.

-Cần nhất là mắt tốt.

-Mắt tôi, tốt độ 8/10 thôi.

            Lăng uống chậm rãi. Thụy nhìn Lăng, một lúc hỏi:

-Ngoài nhà ra sao ?

-Cũng thường.

-Vợ chồng Tri , Linh khá không ?

-Cũng khá hơn mấy năm trước. Tri đã lên chức Hiệu trưởng.

-Le vậy hả.

            Lăng cười vui.

-Anh Nguyên có về nhà thường xuyên không ?

-Có chị Nga , anh về luôn.

-Sao, Lăng thấy chị Thiên Nga sao?

-Rất là xinh đẹp. Hoa khôi Đồng Khánh cũng không sánh bằng.

-Chị Thiên Nga học bên Mỹ Thuật.

-Chị cũng đang thi Tú Tài khóa II.

-Có kết quả chưa ?

-Mới thi xong loạt II.

            Trong thoáng giây nghĩ ngợi, Thụy nói:

-Tôi có nhận được thư của chị.

-Chị có nói lễ hỏi không ?

-Không, thư này lâu rồi. Lá thư chị viết cám ơn về cuốn sách. Nhưng tôi cũng hay biết về hai anh chị từ hôm về phép cuối hè năm ngoái. Phương kể chuyện cho tôi nghe về chị, nói chị rất dễ mến.

-Anh Nguyên nhà mình là hay lắm.

            Rồi, Thụy hỏi Lăng về dự định học hành. Lăng nói với Thụy ở xã hội của mình, cần cuộc sống vững vàng. Học Luật, rất dễ dấn mình vào con đường chính trị và con đường này dẫn đến lợi danh, dễ hư hỏng, tôi không muốn. Với Lăng, làm sao đáp lại tấm lòng yêu thương của người mẹ.

            Hai người đứng dậy rời quán. Lăng đưa Thụy về nhà, lên xem căn gác Thụy ở còn ngồi chuyện trò một lúc lâu, mới ra về. Thụy  theo Lăng xuống nhà tiễn chân.

-Ngày mai anh đi làm không?

-Ngày mốt.

            Thụy trở lên nhà, tự nhiên lạ lùng với ánh đèn điện trong phòng. Ngồi xuống giường, anh mở bức điện tín ra đọc. Nội dung bức điện tín rất đơn giản, nhưng sao, anh  vẫn cứ mang trong mình nỗi bâng khuâng từ chiều đến giờ.

            Khi đi nằm, anh đọc tiếp mấy trang truyện dịch cuốn Kẻ Xa Lạ. Những ý nghĩ về hình ảnh một người mẹ lúc còn sống, lúc đã qua đời, làm anh nhận ra rằng, trong đôi mắt của chàng Meursault là mặt trời và biển cả. Và dù cho rằng, người mẹ đau yếu, nhỏ nhoi, nhưng tình của mẹ vẫn là biển.

            Khi Thụy thức dậy sáng hôm sau, trên mặt bàn còn nguyên bức điện tín của Thúy Hà. Và trong lúc đứng im, Thụy hình dung lại những ngày tháng của một thời đã qua tưởng chừng lâu lắm, trong ảnh tượng của nàng.

            Ngày trở lại ca làm việc, vào giờ ăn trưa Thụy gặp vị Giám đốc. Thụy xin được một tuần phép. Sự chấp thuận dễ dàng này của vị Trung Tá là anh có sự khéo léo và chân tình trình bày câu chuyện của mình và người bạn gái. Trung tá B. làm Giám đốc Không trợ III là người điềm đạm, mực thước, rất giỏi về chỉ huy tham mưu. Xuất thân Khóa I Thủ Đức, sau đó ông qua Pháp học ở trường Salon de Provence về ngành hàng không. Thụy tuy cấp nhỏ, nhưng được sự thương mến của ông, ngòai khả năng làm việc,  anh còn có chút năng khiếu văn nghệ, và những bài anh viết luôn được đăng trên báo Lý Tưởng. Chính ông là người khuyến khích anh theo con đường văn học. Đôi lúc có dịp chuyện trò trong giờ nghỉ, Thụy và ông nói chuyện văn chương. Văn học thế giới, ông hiểu rất sâu và rộng về văn chương Pháp và Mỹ. Thụy trò chuyện với ông qua những suy nghĩ độc lập của mình. Thời đi học, môn tiếng Pháp Sinh ngữ chính anh được học các tác giả cổ điển Racine, Corneille, Chateaubriand, còn những tác giả mới về sau này anh được đọc  qua các bản dịch, và tạp chí Văn giúp anh mở rộng kiến thức với những số báo giới thiệu các nhà văn quốc tế. Mỗi tháng, Thụy dành tiền mua hai số báo này và lưu giữ để học viết văn. Khi đọc xong, Thụy hay đưa cho ông đọc. Số đặc biệt về Saint Exuypéry có những bài nhận định, tiểu sử, và những đọan trích văn ông rất thích.

            Ngày thứ sáu Thúy Hà lên đường. Chuyến bay cất cánh rời Đà nẵng lúc 9 giờ sáng và tới Sài Gòn gần mười một giờ trưa.

            Ở phòng đợi, rất đông người chờ đón thân nhân. Giữa khung cảnh sang trọng, lịch sự, Thụy cảm thấy một niềm vui được dự phần cùng mọi người, và đây là lần đầu tiên anh đi đến phi trường để đón một người mà người này đặc biệt hơn hết trong cuộc đời mình. Giữa anh và nàng là bạn học. Giữa anh và nàng, hiểu rằng sự xa cách là tình yêu, sự gần gũi là tiếng nói. Sau một thời gian biết nhau, nàng coi Thụy như người anh và những lá thư hai người viết cho nhau đọc đều cất giấu một nỗi niềm trong sự rung động của ngôn ngữ. Hôm nay Thụy có thể nhận ra tuổi trẻ của mình trong ánh sáng với quần áo mặc sạch sẽ, tươm tất, tóc chải gọn và anh đến đây tâm hồn vẫn còn chút dư vị của ly cà phê sữa vừa mới uống trước lúc đi. Và, khi gặp Thúy Hà ,Thụy  có chuẩn bị mời nàng bữa ăn nhẹ, hoặc bữa ăn trưa nếu chuyến bay đến trễ.

            Hành khách của chuyến bay đang ra lối cửa chính. Người nào cũng mang va li, hành lý xách tay bên mình. Thúy Hà vừa xuất hiện, trông thấy Thụy cặp mắt nàng vui lên với nụ cười sáng lên giữa khuôn mặt rạng rỡ. Thụy bước nhanh tới, nhìn Thúy Hà đẹp lạ lùng. Nàng mặc chiếc áo dài xanh có những chấm bông trắng lấm tấm, tóc xõa xuống vai, trên gương mặt dịu dàng với ánh sáng.

            Nàng giữ lấy cái túi xách còn đưa chiếc va li cho Thụy. Tới giữa phòng đợi, hai người chợt ngừng với đôi mắt còn bỡ ngỡ. Bên ngòai cửa, chiếc xe ca đưa hành khách về trạm ở thành phố đang chờ. Thúy Hà nói với Thụy:

-Em muốn về nhà bằng taxi.

-Anh cũng nghĩ là nên vậy. Theo xe ca về tới trạm, mình lại còn đón xe về nhà bác T. nữa.

            Thì giờ còn rộng rãi. Thụy và Thúy Hà đi tới nhà hàng ăn ngay chỗ phòng đợi. Các dãy bàn ghế trong và ngòai có khách ngồi ăn uống chuyện trò. Thụy  và Thúy Hà ra ngồi bên ngòai hiên có đặt chiếc dù trên những bàn tròn. Nắng ấm áp, dễ chịu. Hai người cùng gọi một món ăn nhẹ và dùng cà phê sữa.

            Nỗi vui mừng được gặp lại nhau lộ hết ra trên gương mặt, Thụy cũng như  Thúy Hà đều sung sướng. Nụ cười thật sáng trên đôi mắt nàng. Thụy say sưa ngắm Thúy Hà, cặp mắt anh cứ tưởng như là cánh bướm màu xanh nhỏ nhởn nhơ quanh nàng. Sự duyên dáng của nàng thật tự nhiên, rất quyến rũ. Bên vai Thúy Hà , mái tóc thả dài xuống nằm yên như một đứa bé đang say ngủ.

            Cô gái mang bữa ăn ra đặt trên chiếc khay. Thúy Hà lặng im chờ cô dọn xuống bàn. Khi cô ta bỏ đi, Thụy  lấy ra bức điện tín, rồi một giọng vui anh nói:

-Anh thật là hồi hộp.

-Có ngạc nhiên không ?

-Anh thật mừng được gặp lại em. Em vào ở lâu không ?

-Chừng một hai tháng.

-Em có dự định gì không ?

-Không. Em vào thăm Duy . Duy đi Thủ Đức rồi, anh không biết sao ?

-Anh không hay.

-Vậy à. Em cứ nghĩ là em đã có viết thư cho anh.

-Không, anh không nhận được thư.

-Ba cũng không nói gì với anh sao ?

-Không

-Rất có thể là em quên không nói rõ trong thư cho anh.

            Thụy cười:

-Không sao. Gặp em ở đây là biết tin đầy đủ rồi.

            Tiếp lời, Thụy nói:

-Hôm nay là thứ sáu. Ngày mai em đi thăm hay là ngày mốt.

-Em chưa chuẩn bị gì cả.

-Anh nghĩ em nên thăm ngày chủ nhật. Ngày mai rảnh rỗi, em đi mua sắm quà cho Duy.

            Thúy Hà gật đầu đồng ý với Thụy. Bữa ăn bắt đầu, giờ này cũng đã gần trưa. Tiếng chuyện trò nho nhỏ, hai người hỏi thăm nhau về chuyện gia đình, công việc làm, và anh hết sức chú tâm khi nghe Thúy Hà nói về dự định của mình trong thời gian sắp tới. Hiện tại, nàng vẫn chưa có ý định đi làm, nhưng rồi cũng sẽ phải lo liệu cho cuộc sống. Duy đi quân trường, sau chín tháng là mãn khóa học ra đơn vị. Có thể, nàng đợi Duy ra trường sẽ đi đơn vị nào rồi mới quyết định nơi ăn chốn ở. Thụy lặng im, có những phút giây nghĩ ngợi lo lắng cho người bạn gái của mình. Mới xa Đà Nẵng, xa Huế, xa đất miền Trung chưa đến hai năm mà Thụy cứ ngỡ như là mình đã đi lâu, lâu lắm chưa về.

            Thúy Hà có giọng nói rất hay. Ngày trước, tới nhà nàng chơi trò chuyện Thụy chỉ muốn ngồi nghe tiếng nàng nói. Không chỉ nghe, mà anh còn say ngắm vẻ đẹp khi nàng ham vui chuyện để lộ ra những nét tự nhiên qua dáng điệu của nàng. Khi nghe tiếng nói, lúc ngồi cạnh nhau, trước mặt nhau, tiếng nói ấy như thể bày ra cho bạn thấy một cô gái vừa cầm con dao cắt trái táo dòn cứng thành những khoanh nhỏ. Và nếu như, sau khi từ giã cô nàng ra về, ngòai nỗi nhớ về một gương mặt xinh đẹp, về một thứ tiếng nói, chừng ấy nàng cũng đã gợi thèm cho bạn âm thanh của những giọt rượu, nước trái cây chảy xuống lòng một chiếc ly thủy tinh.

            Ngồi đây bên Thúy Hà, Thụy gói ghém lại từng chút một của bao nhiêu kỷ niệm ngày trước đến một ngày đầu hôm nay gặp lại để cất giữ, để một lúc nào đó được cùng nói với nhau, chúng mình suốt đời thương yêu nhau.

            Nhà bác T. ở gần chợ Bà Chiểu, đầu con đường Đỗ Thành Nhân. Lên taxi, Thụy ngồi bên cạnh Thúy Hà . Khi xe ra khỏi phi trường, qua cửa kính, Thúy Hà đưa mắt nhìn thành phố. Trong cái nhìn của nàng,  những cảnh vật hiện ra đều tươi sáng và có sự vui vẻ, thân thiện đón tiếp nàng. Thụy lặng yên, vì muốn để cho người bạn gái của mình bằng sự mới lạ trong cặp mắt nhìn thành phố mới đến, và dù là lần đầu, nhưng nàng sẽ không bỡ ngỡ, xa lạ. Bên cạnh nàng, có một người thân quen là anh đây. Thụy còn ý nghĩ, anh muốn nói với Thúy Hà nàng là người tình của thành phố vừa đi đâu xa nay trở lại.

            Chiếc taxi ngừng. Thúy Hà mở ví trả tiền, Thụy mở cửa ra trước đem hành lý xuống.

            Xe ngừng ngay trước cổng nhà. Căn nhà rộng lớn như một biệt thự. Hai người đứng trước cổng đợi, bên trong, một tiếng chuông vừa bấm dội lên, ngân vọng.

            Một lúc sau có người xuất hiện, mở cửa. Bác T. cười reo hết sức mừng vui đón cô cháu gái. Thúy Hà giới thiệu Thụy với bác. Nhìn bác T., Thụy nhận ra ngay, vì ngày trước ở Quảng Trị bác là một trọng tài quốc tế duy nhất về bộ môn bóng tròn.

            Bác T. đưa Thụy và Thúy Hà lên phòng khách. Căn nhà bác rộng, phòng khách có trưng nhiều bức tranh sơn mài rất đẹp. Bác T. tóc đã bạc, nhưng trông rất khỏe mạnh, và rất tự nhiên trong câu chuyện nói với Thụy . Ngày trước, bác làm việc ở tiệm thuốc Giơ Neo, tiệm thuốc lớn độc nhất của tỉnh. Bức ảnh chụp bác và ông Dược Sĩ Léon Volve, Thụy được trông thấy ở ngòai nhà Thúy Hà.

            Ngồi nói chuyện không lâu, Thụy đứng lên xin kiếu từ. Với cái bắt tay nồng ấm, bác T. cũng mong gặp lại anh.

            Thúy Hà tiễn Thụy ra cổng. Ngày chủ nhật,  Thụy  đến sớm. Trước khi đi, Thụy và Thúy Hà ghé quán uống cà phê. Sau đó, hai người đi tới bến xe gần chợ. Chiếc giỏ mây khá nặng, đầy thức ăn và quà mang cho Duy. Buổi sáng trời mát dịu. Lòng Thụy  hết sức vui đi bên cạnh Thúy Hà. Vì yêu thích giọng nói của nàng, nên mỗi lần nghe ra tiếng, Thụy có cảm giác nhận được từ mấy ngón tay của nàng những viên kẹo ngọt và thơm. Đôi lúc, Thụy chợt nghĩ trong tiếng nói, nàng  kéo anh trở lại tuổi thơ, về một nơi chốn thanh bình ở quê ngọai , mỗi buổi chiều có một đứa bé đứng trên con đường làng nhìn về phía bờ đê trông thấy rõ vạt áo nâu của người mẹ đang trở về nhà. Như vậy, ở bên Thúy Hà anh có hạnh phúc, hai người rất muốn chia xẻ một tình bạn để được sống mãi bên nhau với cuộc đời.

            Hôm nay, chắc chắn Duy đã sẵn sàng chờ nghe tên gọi. Sài Gòn đi Thủ Đức, xe chạy mất gần bốn chục phút. Vừa xuống bến đậu, cùng với Thụy và nàng có rất đông thân nhân đi thăm. Gia đình nào cũng mang quà cáp, tay ôm, tay xách. Từ bến, mọi người đi bộ chừng hai trăm mét hướng về phía cổng chính quân trường. Và trên con đường đất tới cổng, ai cũng đều  trông thấy các SVSQ trong bộ lễ phục màu vàng đeo giây biểu chương, nón béret đen. Bên trong khu tiếp tân, nhiều chiếc lều vải được dựng lên. Lòng nàng dịu hẳn, mắt nhìn về nơi ấy qua bóng cây, thấy màu cỏ còn xanh tốt.

            Hôm nay, Thúy Hà mặc lại chiếc áo dài xanh có những bông hoa trắng nhỏ lấm tấm như hôm mới xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Thụy nhìn nàng trong dáng vẻ của chiếc áo, thấy nàng thật quyến rũ, đẹp lạ lùng. Hai người bước đi bên nhau với tiếng nói chuyện gần gũi, ấm áp. Thỉnh thỏang, cặp mắt Thúy Hà sáng lên một nụ cười. Thụy đọc được qua nụ cười ấy một chút vui của hạnh phúc. Và, ý nghĩa đó như muốn nói cho Thụy hiểu rằng, Thúy Hà tuy đã đã đi lấy chồng, nhưng anh vẫn là một người bạn thủy chung, luôn luôn nàng nghĩ đến anh. Bất ngờ, cơn gió hất nhẹ thân trước chiếc áo dài bay lên, vội vàng, Thúy Hà đưa tay nắm giữ lấy. Và, thoáng trong giây phút đó, nàng có  một nụ cười mơ mộng, xa xôi.

            Khu tiếp tân ồn ào, náo nhiệt. Dọc con đường dốc từ quân trường ra khu tiếp tân, lần lượt từng nhóm tân khóa sinh đều bước đi ra. Ở quanh các lều, những anh em ra trước đang vui chuyện với thân nhân và đang ăn uống. Những SVSQ khóa đàn anh chia từng nhóm phụ trách liên lạc với các Đại đội để gọi tên tân khóa sinh ra gặp thân nhân. Quang cảnh buổi sáng chủ nhật thật vui, cảm động. Thụy và Thúy Hà đứng đợi dưới bóng cây. Khi lắng mình trong câu chuyện, tiếng nói của Thúy Hà làm Thụy nhớ da diết tuổi học trò, nhớ lại thời hoa mộng của tuổi trẻ, nhớ đến một buổi sáng, nhớ bâng quơ một mối tình thuở gặp nàng, và thành phố cũ ấy. Không lâu, Duy ra tới. Duy vừa xuất hiện trên đường dốc mắt đang tìm, cùng lúc, tất cả ba người mừng vui nhận ra nhau và cao tay vẫy chào.

            Không mất công tìm kiếm, đã định chỗ Thúy Hà đứng Duy nhanh chân bước tới. Gặp lại vợ sau mấy tháng xa cách, Duy mừng khôn tả.

            Chỗ ba người đang gặp nhau là bóng cây im mát tỏa rộng, nên không cần tìm ở nơi khác. Những tờ nhật báo trải rộng, và thức ăn, quà cáp từ trong cái giỏ mây được lấy ra hết bày thành một bữa tiệc vui. Hai chai bia lớn được rót đầy ba ly. Rót xong, ba người cùng nâng ly chúc mừng buổi gặp nhau. Những món ăn bày ra lúc này, tất cả, Thúy Hà tự làm lấy. Một con gà quay , bánh mì, cơm chiên, gõi tôm đu đủ, trái cây, và mỗi người tự lấy muỗng nĩa của mình bỏ thức ăn vào đĩa giấy làm phần ăn. Trong phút giây này, niềm vui ai cũng như ai cả. Thỉnh thỏang, Duy và Thụy nói chuyện với nhau về một vài tin tức thời sự và chiến tranh.

            Xong bữa ăn, Thụy đứng dậy đi ra chỗ căng tin mua cà phê về uống. Ba người tiếp tục câu chuyện, Thụy và Duy vừa uống cà phê, hút thuốc. Và đến lúc cần thời gian cho hai vợ chồng tâm sự, rất nhanh gọn, Thụy cuốn những tờ báo đứng lên mang đến thùng rác. Nhân lúc này, Thụy cũng nói cho hai vợ chồng Duy biết anh đi tìm mấy người bạn đồng hương ở Quảng Trị, đến chiều sẽ trở lại.

            Thụy  một mình đi nhởn nha quanh các lều trong khu tiếp tân đã dựng sẵn. Chỗ nào cũng đông, và đúng như anh nghĩ, anh được gặp lại khá nhiều bạn bè quen ở Quảng Trị bị gọi nhập ngũ. Gặp nhau, anh cùng họ mừng vui ngồi chuyện trò, tán dóc, nhắc nhở những ngày vui đã qua. Bây giờ, tuổi trẻ của chúng ta  đã gắn liền với cuộc chiến. Và những ước mong, những mơ mộng, rồi cũng sẽ theo con đường chinh chiến để thử thách sự đối diện của mình trước chiến tranh .

            Buổi chiều xuống, dần dần theo bóng nắng đi xa rời khỏi quân trường. Hết giờ tiếp tân, mọi người chia tay. Khi Thụy trở lại, bỗng dưng bàng hòang trước sự giận dữ của Thúy Hà. Duy đang bối rối, anh đưa mắt nhìn Thụy cầu cứu. Không rõ chuyện gì, nhưng Thụy cũng đóan chừng có thể là chuyện riêng tư bên gia đình Duy có liên quan đến nàng.

            Rồi một giọng nhỏ nhẹ, Duy nói với Thụy:

-Anh đưa giúp Hà về nghe.

            Thụy bắt tay Duy, nói:

-Giữ gìn sức khỏe. Gặp nhau sau.

            Từ lối cổng tiếp tân, Thụy và Thúy Hà cùng theo những thân nhân ra về, đi bộ đến bến đậu xe lam. Buổi chiều trở gió. Trên con đường đất, Thụy im lặng đi bên cạnh người bạn gái và đang nghe tiếng nàng khóc. Một đôi câu nói dỗ dành của anh tựa như một vệt khói tan rất nhanh giữa buổi chiều. Không nói gì với Thụy, nàng chỉ khóc.

            Tới bến xe, vừa gặp chuyến, hai người cùng lên ngồi cạnh nhau. Khách đông, vừa lên đủ là tài xế rồ máy chạy liền. Thụy ngồi im như là pho tượng. Tiếng Thúy Hà khóc, nước mắt nàng  đã làm ướt đẫm chiếc khăn tay.

            Sau gần một giờ chạy theo con đường trong của quận lỵ, xe về đến Sài Gòn, dừng ở bến chính. Hành khách lặng lẽ xuống. Thúy Hà và Thụy  xuống sau cùng. Buổi chiều tắt hết nắng. Nhìn quaThụy, Thúy Hà nói:

-Anh Thụy về nghe.

            Thụy  ngỡ ngàng nhìn lại Thúy Hà. Tiếp lời, nàng nói:

-Em về một mình được.

 

                                                                                                                                                                                                 

                                                               

                                                        V

 

                                                        

 

            Ngày thứ sáu, thi xong hai môn vấn đáp sinh ngữ  Anh, Pháp, lòng Nga cảm thấy nhẹ nhõm, nét hớn hở ửng hồng trên gương mặt, và niềm vui theo nhau dâng lên. Ở nhà một mình,  bây giờ sau bữa ăn nhẹ Nga bỏ giấc ngủ trưa vội thu xếp quần áo, ít sách vở và đồ dùng cho vào túi xách rồi rời khỏi nhà trọ, đón xích lô ra bến xe Huế đi Đà Nẵng. Nga sẽ ở chơi với ba má, các em cô trong hai ngày cuối tuần, đến sáng thứ hai sẽ trở ra lại ngoài này, và đến ngày thứ ba kết quả thiệt thọ chắc chắn là sẽ niêm yết.

            Khi nhìn đoàn xe nối nhau vượt đèo, Nga  vừa ngắm phong cảnh bên phía biển, rồi quay sang nhìn đồi núi chập chùng, lần đầu tiên Nga chợt mang cảm nghĩ về cuộc đời mình có dấu hiệu đổi khác, trong niềm tin thật mới. Bây giờ, hình ảnh Nguyên hiện ra càng rõ nét , nhớ anh, cô thật quá thương trong suốt tuần lễ cô chuẩn bị bài thi các môn loạt II, tối nào Nguyên cũng ở bên cô lúc giảng bài, lúc kiểm tra bài, và chú tâm hơn hết vào hai môn Toán, Lý Hóa. Vào những đêm ấy, hai người bên nhau sống trong tình anh em ruột thịt. Và, mối xúc động này trở nên có tác động hiệu lực, Nga lắng nghe giảng bài, và cô thực sự hiểu bài. Vậy nên, bài thi hai môn Toán, Lý Hóa, Nga làm đầy đủ hoàn tất, chắc chắn là có điểm dư phòng hờ bù cho môn yếu khác. Buổi chiều thứ tư vừa qua, kết quả loạt II niêm yết, Nga đậu, và nhờ coi điểm, tổng cộng 5 môn, cô dư được 8 điểm. Tới lúc này, cô đã tự tin , đầy hy vọng lấy được mảnh bằng Tú Tài II. Sáng nay vào vấn đáp, cô trả lời được, trong đó, phần đoạn dịch cô dịch suông sẻ, đúng nghĩa.

            Lòng Mỵ Châu reo vui lên mỗi lần nghe tiếng nói Thiên Nga về đến nhà. Như nắng ấm trong ngày cuối  thu, hay đầu hè, gương mặt Mỵ Châu sáng rở lên và đôi mắt to của cô bé như thể vừa đang nhìn một con chim nhảy nhót trên cành cây. Không thể nào quên được cô em yêu dấu của mình, nên mỗi lần gặp, lòng Thiên Nga rất vui, vừa tuôn tràn ra nước mắt, đó là hạnh phúc của bao nhiêu thương yêu nàng dành hết cho em gái của mình. Khi nhìn từng giọt nước ấm làm đỏ cặp mắt Thiên Nga , bạn như có cảm giác nàng muốn cất giấu những nét vẽ trên một bức tranh về cuộc đời chính mình.

            Hai ngày cuối tuần, thành phố Đà Nẵng đông vui. Bữa ăn sáng ở tiệm phở, cả nhà ngôi chung bàn đông vui. Bữa ăn trưa, ăn tối, trong nhà luôn nghe ồn vui tiếng cười nói, hòa nhịp sống với các gia đình quen biết lâu năm sống cùng chung khu phố. Về nhà, thời gian nghỉ Nga nghe nhạc, đọc sách, chuyện trò với Mỵ Châu, đôi khi nàng thay thế mẹ tiếp khách mấy người bà con hai bên nội ngoại tới nhà thăm. Và, dự tính về lễ hỏi cho Nguyên và Nga đang tới lúc, mỗi ngày một gần. Ngày tới ấy, bông hoa hồng xinh đẹp của cô bắt đầu nở.

            Rồi Nga lại trở ra Huế, sau hai ngày vui về thăm nhà, và về đến nơi, bỗng dưng sự yên lặng theo bước chân cô gái một mình từ nơi bến xe đỗ đi về căn nhà trọ. Nga cảm thấy buồn nhớ vì vắng Nguyên. Nguyên có chuyến đi công tác lên tiền đồn, thời gian cũng phải hơn tuần lễ.

            Buổi chiều, Nga đạp xe qua trường Mỹ Thuật, lúc này đang còn nghỉ hè, cô vào văn phòng nạp thêm số giấy tờ liên quan đến năm học tới, là năm cuối cùng thi tốt nghiệp. Khi xong việc ra về , vừa tới cổng Nga gặp thầy Văn, hai thầy trò đứng nói chuyện chốc lát, và nhân thể người thầy hỏi cô đôi chút chuyện riêng về Nguyên, là người bạn, và cô Nga học trò  là ý trung nhân yêu quí của chàng.

Chừng khoảng nửa tiếng, thầy trò chia tay. Thầy Văn vào trường, còn Nga , một mình thanh thản đạp xe vào khu Đại Nội. Qua khỏi vòm cổng, hai bên là vườn trồng đủ các thứ cây ăn trái, nhiều nhất là mận, mùa này mận đang sai quả. Lối vào Thái Miếu nhỏ hẹp lát gạch, rất nhiều cây phủ bóng mát, và nơi này là nơi đặt những hương án thờ từ vua Thế Tổ Gia Long đến Duy Tân. Không khí trong Thái Miếu mang vẻ âm u, nhưng có ánh đèn điện rọi sáng, và qua từng bước nhớ tưởng, Nga lặng lẽ vừa đi, vừa nhìn lại từng bức ảnh của từng vị vua qua mỗi thời đại  thăng trầm của lịch sử.

Triệu Miếu, gần cạnh đó, nơi đây có đủ án thờ của 9 vị Chúa, từ  Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đến Chúa Nguyễn Ánh . Chúa Tiên,  người có công trong cuộc di dân vào đằng trong, cuộc di dân trở thành cuộc Nam Tiến được các vị Chúa qua đời kế tiếp thực hiện và bình định lãnh thổ. Tới vị cuối cùng, chúa Nguyễn Ánh dẹp được triều đại Tây Sơn lập nên nhà Nguyễn, trở thành vua Thế Tổ Gia Long.

            Trong khung cảnh tĩnh lặng, Nga chợt có cảm giác mình đang ở vào một thời nào trong linh hồn lịch sử.

            Nơi đây, chỉ có một mình cô gái.

Nga dắt xe đạp qua vòm cổng, rồi theo một lối đi dẫn tới nơi trưng bày Cửu Đỉnh bằng đồng, ở chỗ này cũng là nơi sinh viên đến đây học vẽ theo lối rập (estampé) in bằng giấy dó những hình chạm trỗ trên mổi chiếc lư đồng lớn, rất là uy nghi, và ý nghĩa Cửu Đỉnh cũng là sức mạnh cầm quyền của các nhà vua.

Bên chiếc xe đạp vừa dừng, áo trắng cô gái in lên trong nắng. Không có ai trong các bạn chụp được một tấm ảnh cho nàng. Nga đưa tầm mắt nhìn rộng và xa, nàng thấy một con đường dài băng qua bãi đất trống, thấy một chiếc cầu hẹp, qua khỏi chiếc cầu này lại có con đường dẫn đến Tàng Kinh Các, một con đường khác nữa đi tới Điện Thái Hòa.

Nàng lên xe đạp, lại đi. Nắng chiếu in xuống bóng dáng nàng trong dáng chiếc xe đạp đang di chuyển. Gió thổi tung mái tóc sau lưng nàng bay lên. Nhưng cứ  mặc cho gió ùa ngập đến và bao quanh mình.

Tới sân ngoài Điện Thái Hòa, cô gái xuống. Tựa xe bên gốc cây sứ, Nga chậm bước, và luôn muốn dừng bước để chiêm ngưỡng quang cảnh. Bên ngoài Điện Thái Hòa, cảnh vật và quần thể của  kiến trúc thật là hài hòa, uy nghi, đúng là chốn cảnh cung đình  điện ngọc của thời các vua chúa ngày xưa.

Sân đình lát gạch thật rộng, đi lần ra phía ngoài tới  một chiếc cầu lát đá bắc qua hồ nước,  rồi đến cửa Ngọ môn. Phía trên mái cửa Ngọ Môn là Lầu Ngũ Phụng. Đứng trên dãy lầu này nhìn xuống, bên dưới là hồ sen xanh mướt những cánh lá và hoa của mùa sen cũng đang nở.

            Thiên Nga nhìn ngắm khung cảnh Đại Nội , từ mấy năm qua, cảnh đã rất quen thuộc với nàng, nhưng hôm nay lần đầu tiên nàng đối diện với cảnh bằng những cảm xúc thật đặc biệt như thể cô là một du khách đầu từ xa mới đến. Một lúc sau, cô gái bước từng bước lên chín bậc thềm cấp  rồi đi vào bên trong cung điện.

Nga cảm thấy nhỏ bé, trong cảm giác ngập ngừng như thể cô vừa nhận ra cái non nớt  về tài năng của mình trước một bức họa  lớn.

Hai bên cung điện, những hàng cột tròn bằng đá to lớn, chạm trổ ánh lên từng màu sáng của nghệ thuật, và chỉ cần chạm tay vào  mặt đá là nghe ra âm thanh huyền nhiệm một thời nào đó của lịch sử.

Ngay giữa chính điện, là ngai vàng của Vua. Nền điện lát bằng đá thanh mát lạnh, càng lúc, cô gái nhận ra hương sắc thơm mát của đá hoa bên dưới thấm lạnh lên chân cô, và đến cả thân người cô. Vâng, nơi cung điện này chính là sự nghiệp to tát và lâu dài, từ đới vua Thế Tổ Gia Long khai lập đến các đời vua khác.

            Viện Bảo tàng nằm gần cạnh trường Mỹ Thuật của Nga học, nhưng cô không có ý định thăm viếng nữa.

            Một mình với hạnh phúc đã làm nên vẻ đẹp yêu thương, giờ thì cô gái ra về.

            Nga không về nhà ngay sau khi ra khỏi Đại Nội, cô đạp xe xuống phố Trần Hưng Đạo ý định vào các nhà sách, rất có thể cô xem  ciné nếu có phim hay. Ngày hôm qua buổi sáng chủ nhật ở Đà Nẵng, cô đi phố chơi, và xem cuốn phim Vacance Romaine ở rạp hát Lido. Cuốn phim thật hay, hai tài từ nổi tiếng đóng là Audrey Hepburn và Gregory Peck.

            Huế, những buổi chiều dạo trên phố chính Trần Hưng Đạo, bạn luôn thấy cảnh sinh hoạt chuyển động rất nhịp nhàng.  Nắng cuối hè đang cho thành phố ít nhiều mùi vị thơm và ấm. Và trong nắng chiều, bóng dáng chiếc áo dài trắng của các cô gái Huế trông rất tha thướt. Nhưng mà, trong những dáng ấy, một mình Nga thật nổi bật.

            Nga dừng xe đạp trước cửa hiệu sách Gia Long. Đây là hiệu sách lớn nhất nằm trên dãy phố chính này. Những ai sách mua ở đây, thường được bớt  20% trên giá bìa. Khi thấy Nga xuất hiện, nhẹ bước đi vào cửa hiệu, một người khách trông thấy bỗng đưa mắt nhìn. Và, chiều nay, trong hiệu sách cũng có đông các chàng trai đang là học sinh và sinh viên .

            Nga chậm bước, mắt vừa ngước tìm kiếm sách qua từng dãy kệ. Nàng đọc từng tựa sách, và đang có ý chọn. Bên cạnh một cô gái, Nga đứng tìm sách ở hàng kệ dành cho tiểu thuyết.

            Nga với tay lấy cuốn truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc xuống, mới lật qua bỗng nghe tiếng cô gái đứng bên.

-ChịThiên Nga.

-Ủa,  Liên An.

-Hay thật, em và chị gặp nhau. Anh Nguyên đâu ?

-Anh đi công tác chưa về.

            Hai người nhìn nhau, đôi mắt chan chứa niềm vui. Về thành phố này,  sau này gợi nhớ đến ai cũng tin rằng, một ngày đó mình đã sống một nơi phương trời xa.

            Trên tay hai cô gái, cô nào cũng giữ lấy sách mình đã chọn Nga với cuốn Gìn Vàng Giữ Ngọc, Liên An là bộ Khu rừng lau. Những cuốn sách này trên tay hai cô gái, tác già là nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

            Nga nói:

-Loan  cho mình hay, Liên An đi Sài Gòn ?

-Em cũng vừa mới về.

-Đi Sài Gòn chơi vui không ?

-Cũng vui, chị Nga. Em vào đó nạp đơn xin du học.

-Liên An đi Pháp ?

-Không, em xin học bổng đi Mỹ.

-Chừng nào Liên An đi ?

-Em đang chờ, nhưng hy vọng.

-Loan  nói, Liên An đậu hạng Bình.

-Em cũng may mắn.

-Nhưng Liên An luôn là học sinh giỏi.

            Liên An ngước mắt, nhìnThiên Nga, cô nói:

-Chị Thiên Nga đẹp quá.

-Khen hoài.

-Thật đó.

-Vậy mình đãi bạn đi uống nước nghe.

            Liên An nói:

-Để em khao chị.

-Hay quá. Mình rất mừng vui Liên An được đi du học.

-Cám ơn chị Nga.

            Hai người dời kệ sách đi ra ngoài, tới dừng chờ ở quầy tính tiền. Bên nhau, tiếng trò chuyện nho nhỏ vừa đủ nghe.

            Khi ra đường, hai cô gái áo trắng đạp xe đi bên nhau hướng về phía cầu, vượt qua đó, đổ xuống con dốc rồi đến một quán nước nhìn ra bờ sông. Gởi xe ở bãi  đất trống phía trên, rồi hai người đi bộ trở lại quán. Khi hai cô gái đi qua, thanh niên trong quán đưa mắt nhìn. Nhưng cả hai cô rất tự nhiên, và chọn ngồi  một bàn ngoài cuối mái hiên.

            Đứa bé gái con chủ quán đến, Liên An hỏi ý Nga xong bảo:

-Hai ly chè đậu xanh.

            Khi đứa bé gái trở gót vào quán, Nga hỏi:

-Liên An đi Sài gòn lâu không ?

-Em đi đúng một tháng. Em có lên chơi Đà Lạt một tuần.

-Mùa hè, ở  Đà Lạt mưa phải không ?

-Có mưa, nhưng buổi chiều nhìn thành phố rất đẹp.

            Nga nói:

-Cảnh của Đà Lạt là cảnh của sương mù, rừng thông.

            Liên An hỏi:

-Chị Nga có ở Đà Lạt rồi.

-Không, mình có đi chơi. Nhưng cũng chỉ mới biết phố, một vài thắng cảnh về thác và vườn hoa.

            Đứa bé gái trở lại với khay chè, nó đặt ly bên Nga trước rồi đến Liên An. Trên bàn có một thau nhỏ vun đầy nước đá bào.

-Em mời chị, Liên An nói.

-Cám ơn Liên An.

            Vị chè ngọt thanh, đậu mềm nhuyễn , vừa dẻo thơm. Hai cô ăn thật chậm, thưởng thức món chè như thể là chính mình nghĩ ra được câu chuyện hay.

-Năm nay là năm cuối của chị ?

-Không, năm tới.

-Chị có dự tính triển lãm tranh không ?

-Cũng rất muốn, nhưng chưa chuẩn bị.

-Bức tranh lụa chị triển lãm dịp Tết, em rất thích.

-Hôm đó, lễ hội thật là vui.

-Những lễ hội làm thành phố này như có sự đổi mùa.

-Mình cũng có ý tường như Liên An vậy .

            Rồi ngừng ít giây, hai người đưa mắt nhìn nhau. Bỗng Liên An hỏi:

-Anh Thụy có biết chị không ?

-Mình chưa gặp , chỉ nghe anh Nguyên nhắc.

-Em có gặp anh ấy.

-Ở  Đà Lạt ?

-Không, ở Sài gòn. Anh ấy rất là vui tính. Gặp nhau trên phố Catinat, anh mời em vào quán cà phê Pagode. Ở quán này, có bà caissière rất đẹp. Anh ấy coi bộ si tình, nói chuyện về bà này cho em nghe như một nhân vật tiểu thuyết.

-Liên An có thấy bà không ?

-Em có thấy. Quả thực bà ấy đẹp, một vẻ đẹp buồn trên cặp mắt.

-Thụy,  rất có tâm hồn nghệ sĩ.

            Một giọng vui, Liên An kể lại buổi gặp Thụy ở nhà Loan, mà trước đó tình cờ đi chung một chuyến xe buýt và cùng xuống ở trạm nhà ga.

            Nga nói:

-Lần đó em anh Nguyên về phép, mình đang ở Đà Nẵng.

-Anh Thụy có hỏi thăm chị. Anh ấy nói, chưa hề gặp nhưng nghe qua tên chị, anh hình dung được một bóng dáng.

-Rồi anh thấy sao ?, em hỏi.

            Anh Thụy nói:

- Thiên Nga cho anh một gương mặt thiếu nữ  thân quen đã gặp đâu từ trước. Và, chỉ một lần, hình ảnh ấy là mãi mãi .

            Thiên Nga cười, nàng hỏi:

-Anh ấy có biết Liên An du học không ?

-Có, em có nói. Ít ngày sau đó, anh đến Nha du học tìm em.

-Mình chưa gặp, nhưng luôn nghĩ người em của Nguyên rất có tâm hồn.

            Ngồi trong quán khá lâu, Liên An gọi đứa bé đến trả tiền nước. Hai người rời quán đến bãi gởi xe đạp.

            Khi lấy xe ra đường, Liên An  nói:

-Em phải đến nhà bà cô ?

-Vậy hả.

            Nhưng hai cô gái vẫn còn chuyện trò, đạp xe đi bên nhau một quãng tới cây  cầu rồi mới chia tay.

            Về nhà, sự yên lặng làm Nga cảm thấy dễ chịu, nhưng nàng đâm ra nhớ Nguyên, rất mong đợi tối nay chàng về nhà.

            Nga kéo cửa màn khi thay quần áo. Bên ngoài trời đang gió. Nga thay  bộ quần áo nhẹ màu xanh hạt cải, tự dưng có cảm giác sao mình còn  nhỏ bé quá.

            Không cảm thấy đói, nên cô gái ra phòng ngoài mở cửa sổ nhìn ra buổi chiều trên dòng sông. Ở Huế, hình ảnh buổi chiều trên các dòng sông luôn luôn là một khúc nhạc êm dịu thật đẹp buồn. Ở mỗi cảnh của khúc nhạc, bạn như trông thấy hình bóng một cô gái, lúc với đôi mát, lúc với khuôn mặt, và hẳn rằng, chúng ta phải đợi chờ những buổi sáng thu, những chiều mùa đông dài , tất cả trong sương mù bao phủ kín , lúc ấy, bạn nghĩ nhiều đến một mái tóc tha hương.

            Nga đóng kín các cánh cửa khi trời tối. Dưới đèn sáng, nàng bắt đầu bữa ăn. Và rồi, tối nay nàng đi nghỉ sớm. Trong giấc ngủ, nàng nằm mơ thấy mình đi lên Đà Lạt bằng một chuyến xe lửa. Nàng có cảm giác như mình đi thực, và ngồi bên cửa cửa toa nàng trông thấy cảnh vật rừng núi, dòng suối của miền cao nguyên trong buổi chiều. Nàng thức dậy khi biết mình đến thành phố vào một ngày mưa nặng hạt, trong cảnh vật dày kín sương mù.

            Nga bỗng nói với Nguyên:

-Hạnh phúc của đôi ta là mưa.

            Nguyên nói:

-Những ngày mưa dài trên thành phố, anh và em đi bên nhau.

-Em rất thích trời mưa.

-Anh cũng như em. Vậy, nơi thành phố này, mình hãy đi bên nhau dưới trời mưa.

 

 

 

                                                           VI

 

 

             

            Nga đứng ở trước cổng trường Đồng Khánh rất lâu, và cô vẫn một mình vì không có gặp ai quen cả. Một lúc, Nga bỗng nghe tiếng gọi hối  hả. Nàng nhìn quanh, lòng vui hẳn lên khi  nhận ra Loan. Bên kia đường, Loan phóng xe nhanh qua. Chưa kịp  xuống, Nga đã cầm tay Loan , nói:

-Mình đậu rồi.

-Em biết. Đi tìm chị nãy giờ.

-Loan ở dưới phố lên, hay từ nhà tới.

-Em tới đây coi bảng có tên chị, về nhà chị thấy đóng cửa liền phóng xe xuống phố tìm chị.

-Đông quá, mình chen nãy giờ.

            Loan và Nga nhìn nhau cười. Một  giọng bình thường, Loan nói:

-Em biết thế nào chị cũng đậu.

-Mình rất mừng.

            Niềm vui còn bồng bột, náo nức, nhưng Nga cũng không còn ước muốn quay lại nhìn tên mình trên bảng vàng lần nữa.

-Về nhà chơi.

            Nga không đi xe đạp nên hai chị em đi bộ, từ  trường về đến nhà cũng gần. Nga mặc áo hồng, hôm nay trước khi đi coi bảng nàng cầu mong màu áo hồng là màu của duyên may. Với  áo tím, Nga rất yêu thích, đó  là một màu làm tôn vinh một vẻ đẹp buồn của Nga, chết được. Nhưng mà tôi chỉ nói thế với bạn thôi, với nàng, trong bóng dáng những chiếc áo dài, hương sắc chiếc áo nào cũng đều làm nàng đẹp. Nàng xinh đẹp như áo vàng của thơ Nguyên Sa khi về yêu hoa cúc, nàng thật duyên dáng với áo xanh, một dòng nhạc tuôn tràn như gió bay từ muôn phía tới đây ngập hồn anh , nhưng hôm nay, Nga chỉ thích mặc áo của hoa hồng.

            Loan nói lớn:

-Em thích đi Sài Gòn mà anh Lăng không muốn.

-Loan  không thích học ở Huế sao ?

-Không phải là nơi học. Nhưng ở Huế buồn lặng quá, nên em muốn đi Sài Gòn.

-Loan  vào trong đó một mình ?

-Em đi một mình.

-Loan vào đó, anh em bà con cũng đông.

-Em vẫn muốn độc lập.

            Nga định nói với Loan về người em của Nguyên, mà thực lòng, đã lâu nay nàng rất mong gặp. Nàng vẫn  có ý nghĩ, và sự qua hình dung, phần nào người em ấy cũng giống Nguyên. Liên An , anh Thụy hiền lành và trông vẻ bề ngoài khô khan, trầm lắng. Ấy thế, những câu chuyện anh ta viết là những chuyện tình lãng mạn, rất hiện sinh nữa.

            Khi những ngọn gió làm rung động những chiếc lá, thân áo của Nga bỗng bay lên như tiếng đập nhẹ nhàng của cánh chim.  Nàng đưa hai tay ra nắm giữ , miệng mỉm cười. Nắng cuối hè làm chói chang cả linh hồn phượng vĩ . Khi gió thổi từng cánh phượng đỏ rớt xuống, nhìn nàng qua mái tóc, và dáng bước đi, từ phía đằng sau đã có một đôi lúc tôi nói với bạn về nỗi ngẩn ngơ của lòng tôi nhớ tưởng đến nàng.

            Về tới nhà, Loan dựng chiếc xe đạp ở gốc cây trứng cá. Bước lên thềm, Nga lấy chìa khóa nhà mở cửa. Vừa mới bước , Loan đã dừng lại ngay trước một bức tranh vẽ .

            Đứng bên Nga, Loan nói:

-Em thích những tranh vẽ của chị. Trong tranh chi, màu xanh và vàng rất là tươi. Nhưng với máu tím chị dùng, không thể đem so sánh với nét đẹp của chị khi mặc áo dài.

            Thiên Nga nắm bàn tay Loan. Rồi nàng tiếp lời về bức tranh vẽ con dang dở của mình.

            Giọng thân tình của Loan:

-Đúng màu xanh của chị rất hợp với cảnh trên biển.

-Loan thực là hiểu mình.

-Em không vẽ được, nhưng hội họa là nguồn sáng tạo của em trong cuộc sống.

            Nga để lại Loan một mình trước những bức tranh bên phòng vẽ. Phòng này nhỏ, không rộng, nhưng vừa đủ chỗ ngồi tâm sự với tách trà hay  ly cà phê vào những ngày thời tiết lạnh lẽo, và xa vắng.

            Nga đem cà phê lên. Trên khay, một chiếc phin, hai tách không và một hủ nhỏ đường. Lúc Nga để khay xuống bàn, Loan hỏi:

-Tuần này chị có về trong nhà không ?

-Mình về rồi, mới ra chiều chủ nhật.

-Chị có điện tín cho bác hay không ?

-Mình viết thư, sẽ viết cho Mỵ Châu em gái mình.

-Trong nhà, chị còn mấy cô em nữa ?

-Ba. Mỵ Châu là út.

            Buổi chiều của một ngày cuối hè thật dễ chịu. Hai cô gái ngồi ở phòng khách trong nhà với cảm tưởng về một sự  tự do đến đúng lúc. Thời gian chợt dừng, không di chuyển. Loan hướng đôi mắt dịu hiền nhìn Nga. Trong cái nhìn, Loan có ý tưởng về một quang cảnh trên dòng sông yên bình.

            Khi cà phê trong chiếc phin ngừng chảy, Nga đứng lên vào nhà trong lấy chiếc bình thủy mang ra, hạ chiếc phin đặt xuống khay, nàng cho thêm nước ít nước sôi vào cà phê, xong cầm thìa khuấy đều. Nga đổ cà phê trong ly ra hai tách.

            Trên bàn chỉ còn để lại hai tách cà phê, hủ nhỏ đường, còn bao nhiêu thứ khác dẹp cất vào trong.

            Khi Nga trở ra, Loan hỏi:

-Anh Nguyên đi công tác chưa về ?

-Chưa.

            Không khí buổi chiều ở trong mùi vị cà phê.

-Ngon quá. Chị mua cà phê ở đâu ?

-Bên tiệm Đông Anh.

            Loan nhìn lên phía tường, nơi có treo một bức tranh chân dung.

-Em thấy màu sắc và các tranh vẽ rất thích hợp với chị.

            Nga vui giọng nói:

-Cũng hay, trời cho mình chút năng khiếu.

            Loan nói:

-Em không quá lời khen chị. Nhưng em nhận ra, đẹp như chị, hội họa là một tấm gương hoàn thiện cuộc sống của chị.

-Trong nghệ thuật, mình có biết thêm một vài thứ khác nữa, nhưng vẽ tranh, mình yêu thích nhất.

            Loan hỏi:

-Chị thích văn chương không ?

-Thích chứ. Nhưng mình chỉ đọc sách, không có khiếu viết văn hay làm thơ.

-Chị có suy nghĩ về người phụ nữ viết văn không ?

-Không. Đó là tài năng, nếu như họ thực hiện được.

            Loan cầm thìa, khuấy lại cà phê trước khi uống.

-Cà phê này uống được, phải không ?

-Cà phê ngon. Loan cười tiếp lời. Nhưng phải biết cách pha.

-Loan khen nhiều, có thấy mặt mình đỏ hồng chưa ?

            Loan cười ngắm khuôn mặt Nga.

-Chị thật hoàn hảo.

            Nga hỏi:

-Loan có viết văn, phải không ?

-Em có viết, nhưng không hẳn là thích.

-Loan có đọc truyện của Thụy viết không ?

-Em có đọc. Anh ấy thực tâm quyết theo đuổi nghề văn.

            Ngừng ít giây, Loan tiếp:

-Nhưng anh ấy, không muốn em viết văn.

            Nga thốt lên:

-Sao lạ vậy ?

            Một giọng thân tình, Loan nói:

-Trong gia đình, bên dì và me em rất gần gũi, thân thiết. Anh Thụy mến em, cả anh Lăng, chị Linh nữa, nhưng chuyện em viết văn, anh không bằng lòng.

-Tại sao vậy ?

-Anh chỉ nói đơn giản: phụ nữ không nên viết văn.

-Lạ nhỉ.

-Em có hỏi, vì sao anh nghĩ vậy.

            Anh suy nghĩ lâu lắm, rồi anh nói rất dịu dàng.

-Người phụ nữ luôn cho anh hình ảnh một người mẹ, người chị, cô em gái. Những hình ảnh đó là khuôn mặt đẹp của đức hạnh, hãy để cho bất cứ ai cũng nghĩ như thế, đừng đổi khác đi. Cuộc đời, ai cũng sống trong nghệ thuật, nhưng với phụ nữ.., anh nghĩ họ không nên viết văn.

-Những cô giáo dạy môn Văn thì sao ?

-Đó là công việc dạy học, và rất cần thiết cho học sinh.

-Viết văn là sáng tác, tạo một tác phẩm văn chương, nghệ thuật, sao anh lại có ý không thích.

            Anh Thụy giải thích:

-Với riêng anh, có thể suy nghĩ của mình có tính cách cảm nhận thôi. Nhưng trên ý nghĩa, anh có thể nói được, khi người phụ nữ viết văn, đôi mắt của họ không còn là cửa sổ của tâm hồn.

-Vậy, đôi mắt ấy là gì ?

-Là nỗi bất hạnh. Người phụ nữ, bất cứ là có học thức hay không, họ phải được cuộc đời dành cho hạnh phúc. Không nên để  cho người phụ nữ chịu đựng những bất hạnh.

            Loan hỏi:

-Nhưng anh thấy, các nhà văn bên nam khi viết về phụ nữ có trung thực không ?

-Theo anh nghĩ, với tuổi thơ hay người lớn, hình ảnh người phụ nữ luôn có trước mắt họ một sự thương yêu, kính trọng lớn vô cùng. Anh cho rằng, sự thật về các nhân vật nữ trong xã hội, họ có một cuộc đời rất thấm sâu. Tolstoi nhà văn Nga, ông ta viết về người phụ nữ  trong sự xấu tốt, thật kinh hoàng, khủng khiếp, ai cũng nghĩ ông ta nhìn người phụ nữ  đến tận đáy, nhưng đó là một nhà văn viết về phụ nữ hay nhất, không có ai so sánh được.

            Nga gật đầu nhẹ, nói:

-Mình hiểu ý của Thụy.

            Loan nói:

-Em biết anh không có mặc cảm với người phụ nữ viết văn, nhưng vì hình ảnh người phụ nữ trong anh là một hình ảnh mãi sáng đẹp, nên anh khước từ không muốn thấy họ làm công việc đó. Người phụ nữ khi viết văn, là lột xác mình, sống khác với cuộc đời bình thường.  Ở những nghệ thuật khác, bất cứ thể loại gì, họ vẫn sống nguyên vẹn.

            Những điều Loan vừa nói về Thụy, Nga hơi ngạc nhiên. Lúc này, Nga đã hình dung anh là một con người khác, xa lạ hẳn. Thế nhưng, qua ý Loan nói,  Thụy còn cho nàng một dấu ấn mạnh hơn.

            Loan uống hết phần cà phê của mình. Khi Loan đứng lên xin kiếu từ, không khách sáo, Nga nói lời cám ơn về sự quan tâm của Loan đến tin vui của nàng.

            Nga tiễn Loan một đoạn ra đến cổng, và nàng còn đứng ở đó nhìn theo Loan. Nàng thấy Loan không về nhà, chiếc xe đạp không rẽ trái qua lối cầu mà đi thẳng.

-Anh Nguyên và mình còn đợi một năm nữa.

            Nga nghe tiếng mình nói lúc trở gót vào nhà. Chiều tàn, một buổi chiều trong những ngày cuối hè thật là êm dịu.

            Nga không cảm thấy đói, khi trong nhà đèn bật sáng và ngoài đường trời đã tối hẳn.  Lúc vào bếp nhen lửa làm bữa ăn tối, Nga vẫn còn cảm thấy vui với niềm vui vưa mới thi đậu. Nhưng niềm vui này, không phải là niềm vui thuở học trò. Nàng đã lớn, đã là một người được sự yêu thương và che chở của Nguyên.                                   

            Bất thần, Nguyên về lúc Nga đang dọn cơm để ăn. Nàng mở to cặp mắt, hết sức ngạc nhiên như chưa bao giờ xảy ra như vậy cả. Hai cánh tay dang rộng nàng lao tới, Nguyên đón sẵn, hai người ôm nhau mừng vui, lẫn xúc động.

            Tiếng Nga nói:

-Em quá nhớ anh.

-Anh biết, và còn biết cả tin vui của em nữa.

-Ai cho anh hay vậy ?

-Không, không có ai cả. Nhưng từ hôm em thi đến lúc có kết quả, anh cảm thấy sao trong người mình thật là dễ chịu, yêu đời.

-Em cám ơn anh đã dạy cho em học.

-Còn anh, hạnh phúc được nhớ em.

            Hai người nhìn nhau, đôi mắt thật âu yếm. Nguyên nắm giữ tay Nga , giọng vui nói:

-Con mèo yêu quí của anh.

-Thôi, đi ăn cơm.

            Nguyên giữ tay Nga lại.

-Mình xuống phố ăn đi em.

-Cơm dọn sẵn rồi.

-Đi xuống phố ăn cho vui, để mừng em thi đậu mà.

-Ngày mai, hay mốt đi.

-Anh muốn anh là người mừng tin vui của em trước hết.

            Nga hơi  lưỡng lự. Nàng nhìn sang bàn ăn, hai chiếc ghế đối diện và thức ăn đã dọn sẵn. Nhưng bữa ăn cũng bình thường, chỉ hai món cá và canh rau.      

-Đi ăn đâu, anh.

-Đi Bao Vinh.

-Xa quá. Mấy giờ rồi ?

            Nguyên nhìn đồng hồ tay, nói:

-Còn sớm, chưa đến tám giờ.

            Nga nói:

-Anh ra phòng khách đi.

            Nguyên đi ra, vừa rút tờ báo nhét ở túi dết. Phòng khách tương đối rộng, thoáng đãng, ánh đèn néon chiếu xuống sáng dịu. Ở phòng khách này, Nga trang trí rất mỹ thuật, có bình hoa và con gấu bông đặt trên chiếc tủ kính, hai bên tường có mấy bức tranh họa đóng khung cỡ nhỏ.

            Nguyên ngồi xuống ghế đọc báo. Bên trong, Nga thay quần áo, nàng mặc áo sơ mi trắng, quần tây màu xám đậm. Khi trở ra, Nga lấy chiếc lồng bàn nhỏ đậy lại cơm và thức ăn, rồi nàng kéo chiếc ghế thấp ngồi xuống nhìn vào tấm gương soi trang điểm nhẹ trên cặp mắt.

            Kim đồng hồ tường chỉ đúng tám giờ. Nga đứng lên, vắt chiếc áo blouson bên cánh tay, rồi quay gót đi ra phòng khách.

-Trông em lạ quá.

-Lạ không ?

-Em có chiếc mũ nỉ hồi nào vậy?

-Có lâu rồi, tại em ít đội.

            Nguyên gấp tờ báo, xong để lại trên bàn. Nga mở cửa nhìn ra đường, gió đêm lạnh. Trên đường, có hai người đàn ông đang đạp xe nhanh, tiếng nói chuyện đứt quãng. Rồi con đường vắng trở lại. Bên kia ngôi trường, ở tầng lầu thứ ba, các dãy phòng đều mở đèn sáng, có bóng một vài chủng sinh đứng bên cửa nhìn xuống dòng sông và trông qua bên đây con đường.

            Gió đêm thổi mơn man, sương mù trải mỏng qua những hàng cây. Nguyên cười hỏi:

-Sao, em tìm ra ý thơ chưa ?

-Đừng có trêu em nghe.

            Nga khép cửa, xong mở túi  xách lấy chìa khóa vặn theo chiều kim đồng hồ hai vòng.

            Chiếc xe Jeep đậu gần cổng, hướng lên dốc. Bàn tay Nga trong tay Nguyên, hai người bước đi nanh.

            Nguyên mở đèn sáng trước khi cho xe nổ máy. Vào giờ này, có chuyến tàu về đến ga.

            Nguyên đạp côn, gài số hai rồi xe lăn bánh. Lên ngã tư, xe rẽ trái qua cầu. Vì không gấp vội, Nguyên cho xe chạy chậm thong thả chuyện trò với Nga. Nàng nói:

-Em thấy anh đi công tác luôn.

            Nguyên đáp:

-Ở cấp trung đoàn, gần với mặt trận nên công việc  của anh cũng lưu động.

-Những công việc chính của anh là gì ?

-Không phân định rõ được. Tùy theo nhu cầu ở hậu phương cũng như ngoài chiến trường.

-Anh đi luôn, em lo quá.

-Không sao đâu. Em biết, việc nào ở ban anh cũng giải quyết nhanh gọn để luôn có thì giờ về với em.

-Hôm nay, anh đãi  em ăn món gì ?

            Nguyên cười bảo:

-Ăn fromage

-Sao mà ăn món này ?

            Nguyên hãm thắng cho xe ngừng rất êm.

-Sao vậy ?

-Em nghiêng đầu qua đi.

-Thôi, coi người ta đi đường trông thấy.

            Nhưng rồi, Nga cũng chìu ý Nguyên. Nàng nghiêng mình qua để  anh cúi xuống đặt môi hôn. Đôi môi Nga mềm ướt, ngọt ngào. Nguyên nuốt thật sâu nụ hôn yêu dấu được người yêu dành cho.

            Hai người buông tay. Chiếc xe chạy trở lại. Và, lúc này cả hai cùng cảm thấy thú vị khi hiểu ra được ý nghĩ của nhau.

            Bên trái  con đường Lê Lợi , khu công viên xuất hiện. Sương mù giăng kín trên dòng sông, bên kia kinh thành Huế ánh đèn cũng mờ sáng trong màn sương. Ở quãng này, bắt đầu nhộn nhịp xe đạp, xe gắn máy và người đi chơi đêm. Ngôi trường Đồng Khánh vẫn in cái bóng màu vôi tím.

            Nga nói:

-Tối nay quán sinh viên có trình diễn ca nhạc.

-Em muốn đi nghe không ?

-Tùy anh.

-Tính sau, đi ăn đã.

-Em cũng đang đói đây.

-Hay là xuống Bưu Điện.

-Vậy là em khỏi yêu cầu anh.

            Khu Morin đèn sáng trưng, không khí đêm nhộn nhịp, và khói thuốc lá bay mù từ những quán cà phê dọc vỉa hè. Quán nào cũng đầy khách, đám thanh niên ngồi đông và chuyện trò nghe ồn ào.

-Em đã ghi danh chưa ?

-Anh hỏi hay không ? Mới có kết quả hôm nay, mừng chưa hết lớn mà...

-Ờ nhỉ, anh lại tưởng như mùa thi qua lâu rồi.

-Em cũng có ý nghĩ như anh vậy.

            Xe vẫn chạy chậm. Tới  khu Bưu Điện, Nguyên nhìn quanh tìm chỗ đẫu xe. Hai người bán quán ra chào mời, Nguyên không đáp lời mắt đang tìm chỗ đậu xe. Nguyên chạy xe lên phía trên rồi trở đầu, chạy một quãng đến đường Trương Định và dừng xe bên lề đường.

            Trời đêm thu thật dễ chịu.      Có tiếng nhạc vọng từ  hội quán sinh viên,  Nga nắm tay Nguyên, theo bước anh dìu đi.

            Có bốn quán ăn nằm trong khu Bưu Điện. Nguyên đưa Nga trở lại quán ăn lần trước. Khi hai người vào, nhiều người khác đưa mắt nhìn, một vài người nói chuyện về nàng. Và, trên mắt người lạ nào cũng ánh lên một nụ cười thiện cảm.

            Có bàn trống sâu bên trong. Ngồi ở bàn đó tuy hơi tối, nhưng có thể trông ra được hai con đường nằm phía sau dưới bóng tối những hàng cây.

            Huế, thành phố này đôi khi cho bạn một cảm giác lạc lõng như thể bạn là kẻ từ đâu xa mới trở về.

            Đứa nhỏ gái chờ Nga đọc món ăn trên thực đơn. Nàng gọi cơm phần bốn món, nước uống làsinh tố.

            Nguyên nhìn Nga, anh mỉm cười. Nàng bảo:

-Anh nhìn em hoài.

            Nguyên vẫn lặng yên nhìn người mình yêu. Đôi mắt anh thật trìu mến, và trong thoáng giây ấy anh nhận ra được tình yêu của anh dành cho nàng. Anh trở về thành phố, để quên được những ngày vừa mới qua trong chuyến đi công tác, trong sức nóng của cuộc chiến, không phải, thế là xong phần trách nhiệm của mình, nhưng cứ mỗi lần anh trở về, anh vẫn cảm thấy chỉ có Nga làm cho anh vơi dịu bớt đi nhiều  những nỗi ưu tư của tuổi trẻ về chiến tranh. Nga, tên nàng là bóng cây im mát, là không gian rộng của bao nhiêu xứ sở trên mặt đất này.

-Hôm nào anh mới đi trở lại ?

-Có thể tuần tới.

-Tuần này, anh  ở hậu cứ.

            Nguyên bỗng nhận ra trong câu hỏi của Nga, muốn cho anh tìm thấy một sự liên đới giữa nàng và đơn vị anh phục vụ. Hai năm qua, từ khi quen biết Nga, không chỉ tình yêu hai người đóng khung trong thành phố mà còn dành cho nhau một cuộc sống thật lãng mạn chan hòa giữa không khí chiến tranh. Nguyên nhiều lần đưa Nga lên thăm căn cứ đóng quân của Trung đoàn ở trên một vùng đồi cao, nơi này, nàng quan sát thấy khung cảnh hoang vắng, hiểm trở, thấy những cánh rừng, những bóng núi, khói lửa từ nơi ấy dâng lên trong cảnh yên lặng của buổi chiều. Nhưng, nàng có sự chia sẻ từ tấm lòng chân thật của mình, và khi đến đơn vị của Nguyên nàng luôn cảm thấy như mình gặp lại bao người thân. Nàng ngồi trong phòng Nguyên làm việc bề bộn giấy tờ, sổ sách, dưới cái nóng của những ngày hè, giá lạnh những ngày đông, và nàng cảm thấy không riêng với Nguyên thôi, nàng còn có sự liên đới nhiệt tình với các chiến hữu . Một khi đưa Nga đến, Nguyên cũng luôn  để cho nàng thoải mái quan sát cảnh sinh hoạt của những người lính, chuyện trò thân mật, hỏi han từng người trong thân tình của bè bạn, gia đình, chị em. Nguyên cũng dành cho Nga cái thú vui ngồi uống cà phê ở câu lạc bộ trong căn cứ, ăn cơm trưa, hoặc chiều tại những hàng quán khu gia binh, và chính những nơi này, nàng hiểu rõ hơn về cuộc sống , về cảnh đời của các quân nhân. Và hơn hết, Nga rất được sự quí mến của các Sĩ quan ở Trung đoàn, từ cấp chỉ huy, đến các bạn cùng ngang cấp bậc với Nguyên, hay nhỏ thấp hơn. Khi được các chiến hữu Trung đoàn khen ngợi phong cách làm việc của Nguyên, Nga làm vui thích, vừa hãnh diện. Biết bao nhiêu người lính chiến ở đây ước ao có được một mối tình đẹp như Nguyên và nàng, ao ước có một người yêu thật sự có tình yêu như nàng. Hầu hết ở đơn vị của Nguyên, lớp Sĩ quan trẻ khá đông, và cũng có trình độ Đại Học, những lần Nguyên đưa người yêu đến, đã có một số anh em ngoài tình cảm yêu mến Nga qua tính tình, qua sắc đẹp, có người con cho rằng nàng là một biểu tượng sáng giá của tình yêu. Cách xa đơn vị không đến mười cây số là thành phố Huế, Nga đang học, đang sống ở đây, và đây là thành phố của những dòng dõi về khoa bảng, về địa vị, gia phong , sắc đẹp của nàng đã làm cho biết bao nhiêu chàng sinh viên các trường Đại học, biết bao nhiêu Bác sĩ, sinh viên Sư phạm vừa mới ra trường, bất cứ ai gặp nàng cũng để mắt chú ý, cũng rất muốn làm quen, muốn cùng nàng xây dựng hạnh phúc, thế nhưng nàng không hề nghĩ đó là điều nàng ước mong về cuộc sống thật yên bình và muốn được chọn lựa. Nàng chỉ là người yêu của Nguyên, vì Nguyên thể hiện được cái tính cách hào hùng, độc đáo  của người trai, hơn nữa là một người lính nhận lãnh đúng trách nhiệm của mình. Những lần đi với Nguyên lên thăm đơn vị, Nga luôn mặc áo dài lúc là màu tím, màu vàng nhạt, màu rêu phong, để rồi trong dáng đẹp thướt tha, nhung lụa của nàng, mỗi  chiến hữu đồng đội của Nguyên, ai cũng được hái cho mình một nụ hoa từ trên cặp mắt dễ thương, trên gương mặt nhân hậu, đầm ấm của nàng.

-Sắp đến ngày sinh nhật của em rồi đó.

-Anh sắp nói, thì em đã cho biết rồi.

-Nhưng hôm đó, có anh không ?

-Có chứ.

-Anh không về, em lên đơn vị tìm anh.

-Em có nhớ chuyến đi thăm Đại đội 3, Tiểu đoàn 1.

-Nhớ chứ.

-Vừa rồi, anh trở lại công tác cùng Đại đội này hai ngày. Ai cũng nhắc đến em hết.

-Em vẫn nhớ những ngày đi tiền đồn với anh.

            Bữa ăn đến lúc này mới mang đến, vì khách chờ khá đông. Nhưng từ nãy giờ, Nguyên và Nga cùng vui chuyện đã  không để ý thời gian đợi của mình. Cơm nóng, thức ăn nóng lên khói. Nga lấy khăn giấy lau chén  xong xới cơm đưa qua cho Nguyên. Và, Nguyên cũng đợi Nga lo xong cho mình, anh mới lên tiếng mời nàng ăn. Từ đôi mắt và cử chỉ của Nguyên, luôn làm cho Nga cảm thấy sự hồn nhiên, trẻ thơ, tâm hồn mới mẻ.

-Tối nay, anh có lên trực ở Trung đoàn không ?

-Không. Tối nay được ở nhà.

            Nguyên tiếp lời:

-Ông Trung đoàn trưởng rất quí anh. Những công việc anh làm cho phòng ban, cho đơn vị, ông rất hài lòng.

-Anh là quân nhân gương mẫu.

-Em là bông hồng của Trung đoàn.

-Không, em phải là nữ quân nhân danh dự.

            Nguyên liền gợi ý:

-Em may một bộ quần áo lính, anh nói ông Trung đoàn trưởng gắn hoa mai cho em.

            Nga vui, nỗi vui bừng sáng cặp mắt nàng.

            Một giọng thân tình, Nguyên nói:

-Anh em trung đoàn, ai cũng nhắc đến em và nhớ những chiếc áo dài tím em mặc.

-Hân hạnh làm người yêu của Trung úy Nguyên

-Anh sắp có hoa mai nở.

-Thật không ?

-Anh có giấy thăng cấp, hai tuần nữa văn thư gởi về.

-Em thực sự, chỉ mong anh bình yên.

-Anh luôn cảm thấy dễ chịu có được em và ở bên em.

            Bữa cơm ngon miệng, Nga và Nguyên ăn được nhiều, nhưng không hết, cơm và thức ăn vẫn còn.  Phía ngoài quán, không khí ồn vui của thực khách, họ trò chuyện sôi nổi và cười lớn tiếng. Cũng có một hai bàn, không khí trầm lặng, ai cũng uống nhiều bia nhưng ăn nói thật chừng mực, cân nhắc.

-Lâu nay, em không thấy bác trai về nhà ?

-Ba anh đang đi công tác miền Tây

-Không phải bác làm việc ở Bộ Xã hội.

-Ba anh ở trong ban Thanh tra. Ông chỉ về  Bộ sau khi xong công tác, còn hay đi luôn, nhất là những vùng đang xây dựng cơ sở.

-Anh cũng như bác, cứ đi công tác hoài.

            Rồi một giọng nhẹ nhàng, Nguyên nói:

-Năm nay là năm cuối em ra trường.

            Nga nhìn lại Nguyên, một giọng nói trong âu lo:

-Nhưng em và anh còn phải xa cách một thời gian mới ổn định.

-Anh cũng nghĩ vậy.

            Nguyên rót thêm trà vào ly đá vừa uống hết. Nga chậm rãi uống từng ngụm nước sinh tố.  Trên bàn, Nguyên cũng rót sẵn một ly trà nóng để Nga uống tráng miệng. Khu phố Bưu điện đang hết sức nhộn nhịp, đông người qua lại. Có tiếng nhạc vang vọng giữa không gian, và đêm, trong không khí sinh hoạt nổi nổi, chìm chìm. Từ chỗ bàn Nguyên và Nga ngồi, hai người nhìn về phía thư viện Xavier đã đóng cửa nhưng đèn sáng bên goài, cạnh thư viện là một cửa hàng bán bánh ngọt, bánh mì nướng, ở đó, rất đông khách đứng sắp hàng chờ mua bánh.

            Hầu như, ai cũng cảm thấy đêm nay trong mùa thu mang một vẻ thân tình, ấm áp. Và, có một đôi tình nhân đang ngồi đây trong quán ăn đông khách, thấy mình hạnh phúc hơn cả.

-Anh nhớ đem chiếc máy ảnh về nghe.

-Anh nhớ.

            Nga cười hỏi:

-Đi đâu nữa bây giờ ?

-Tùy em.

            Nguyên gọi người chạy bàn đến tính tiền. Nga dành phần trả tiền bữa ăn, nàng cười nhìn sang Nguyên.

            Nga để lại tiền lẻ trên bàn cho người phục vụ. Hai người đứng lên, lúc đi ngang qua những bàn phía trước, một số khách nhìn theo hai người và họ vẫn muốn nói nhiều điều trong suy nghĩ của họ về lứa đôi này.

            Hương đêm trong những ngày đầu thu ngào ngạt, đôi lúc bạn nhận ra vị mặn trong mùi cay của lá cây và sương ướt. Rồi hai cái bóng đi bên nhau, đến chỗ đậu xe.

            Nguyên mở đèn sáng, chút sau xe nổ máy. Trên con đường nhỏ xe chạy. Khi ngang hội quán sinh viên, tiếng nhạc ồn, rất khích động. Đã qua rồi, buổi gặp đầu tiên của hai người ở nới đây.

            Hội quán nằm bên khu Đại học. Ở phía trước là khách sạn Thuận Hóa. Khi ra tới con đường chính, Nguyên lái xe rẽ trái rồi chạy thong thả hướng về phía cầu Mới, rẽ phải lên cầu, rồi đổ xuống phố chính Trần Hưng Đạo.

            Phố vẫn còn đông người, và các cửa hàng mở đèn sáng. Những tiệm ăn , tiệm cà phê trên phố chính này đông khách ra vào. Nguyên cho xe chạy thật chậm dọc con phố, đến chỗ rạp hát, ngừng lại trong ít phút.

-Em thích coi ciné không ?

-Vào đi anh.

            Nguyên lùi xe lại khoảng vài mét, rồi tắt máy. Xe đậu bên lề đường, giờ này, bên đường cũng không có nhiều xe hơi đậu.

            Rạp hát chiếu phim La seconde chance. Nga lại dành phần mình đi mua vé, lúc Nga đi, Nguyên theo bên cạnh người yêu. Anh cảm thấy sung sướng, hạnh phúc hơn bao giờ hết vì có được Nga. Nga, đúng là một nàng tiên. Nga rất trẻ thơ, vui tính, và đôi mắt nàng không chỉ tỏ lộ cái đẹp của dòng sông, mà trong vẻ lắng sâu dịu dàng, ẩn chứa một tâm hồn nhân hậu. Nàng cũng luôn cho Nguyên một tiếng nói tự tin, và tiếng nói của nàng cũng là một điểm tựa.

            Nga mua vé xong, nhưng cùng với khán giả đang đứng chờ bên ngoài, vì xuất hát còn mười lăm phút nữa mới vãn. Trên biển quảng cáo, vẽ lớn chân dung hai tài tử Pháp: Robert Hossein và Michèle Mercier. Trong khung lưới rộng, là những bức ảnh chụp từng cảnh phim. Nữ tài tử Michèle Mercier rất đẹp, trẻ trung.

            Không đợi lâu, cửa vào rạp mở rộng và đông khán giả bên trong đi ra. Nhạc và đèn sáng gây nên cái cảm giác rung động, phấn khích, và khán giả xem xuất cuối đã cảm  thấy vui khi đi vào rạp.

            Nguyên và Nga chọn ngồi dãy ghế giữa. Không khí trong rạp hát bình yên trở lại, với ánh đèn vẫn chiếu sáng, và điệu nhạc trở nên êm dịu.

            Nguyên nói:

-Em định theo học Luật hay Văn Khoa.

-Em học Văn Khoa, và anh còn phải dạy thêm cho em nhiều.

-Anh vui từ nhiều ngày nay. Tin em thi đậu, niềm vui được báo trước.

-Năm dự bị, học nhiều môn không ?

-Cũng nhiều.

-Nói cho em nghe từng môn học đi.

            Nguyên kể qua vài môn chính yếu mà trước đây anh đã học. Nga ngạc nhiên hỏi:

-Có học cả môn triết nữa.

-Có. Nhưng Việt Văn là chính. Em cần phải học thêm cả Hán Văn nữa.

-Em thấy khó.

-Khi đến trường ghi danh, em hỏi thêm các bạn sinh viên năm trước.

            Nga nắm tay Nguyên, nàng nói:

-Anh đi với em.

            Nguyên chợt có một thoáng nghĩ mơ hồ. Anh gợi nhớ thời đi học của mình, nhớ những người bạn cũ.

-Hôm ấy, em mặc áo màu thiên thanh. Anh muốn chụp em mấy pose ảnh em đứng trên thềm ngưỡng cửa Đại Học.

-Le quá, phải không anh.

            Bỗng nhiên đèn rạp hát tắt. Không lâu, màn ảnh chuyển động, và những đoạn phim quảng cáo cho kỳ tới diễn ra, trong mỗi cảnh phim, tiếng động và cả tiếng nhạc di chuyển lúc nhanh, lúc chậm.

            Nguyên bỗng nói:

-Em cố gắng nghe tiếng Pháp.

-Em đang tập trung đây.

            Rồi phim chính bắt đầu. Hình ảnh nữ tài tử Michèle Mercier, mặc chiếc áo blouse trắng trong vai nữ sinh viên y khoa, thật là đẹp làm khán giả thốt lên những lời trậm trồ ngợi khen.

-Em có thích học Y khoa không ?

-Cũng thích, nhưng em không học nổi đâu.

            Với một giọng thân tình, Nguyên nói:

-Bạn cứ hình dung Thiên Nga của tôi mặc áo blouse , đeo kính trắng trên cặp mắt và ống nghe vắt qua cổ áo, nàng đứng trong phòng thực tập.., chà chà..

-Đẹp quá, phải không ?

            Nguyên tiếp lời:

-Em học ở Y Khoa, sinh viên không có ai học hành gì được cả.

-Làm gì mà gán chuyện ác cho em vậy ?

-Không thực sao. Em quá đẹp, chàng sinh viên nào cũng ngẩn ngơ.

-Em vào trường Y khoa, thì anh sao ?

-Em nhận được thư của anh gởi hàng tuần.

-Em cũng lên tiền đồn nữa, phải không ?

-Cô là Bác sĩ đầy lòng nhân ái cho quân nhân.

-Ai cũng khen như anh cả, em như là mây bay về trời

            Robert Hossein trong vai luật sư, ông ta đã có vợ con, nhưng ông ta đang yêu say đắm một cô sinh viên Y khoa. Trước khi gặp vị Luật sư này, cô gái đã có một người yêu là sinh viên học cùng lớp.

            Những đoạn đối thoại trong phim, có lúc đi nhanh, cũng có lúc chậm, vừa phải. Khi hiểu được trọn vẹn từng câu, Nga lấy làm thích thú, hãnh diện.

-Ở Văn khoa, có giáo sư  Pháp dạy không anh ?

-Anh không rõ sau này. Trước đây anh học, có ông thầy Cauro.

-Ông dạy văn chương Pháp.

-Đúng rồi.

            Một lúc sau, Nga chợt hỏi:

-Lúc này Thụy có viết thư về nhà không ?

-Nó đang xin đi học ngành phi hành.

-Học lái máy bay hay sao ?

-Ờ, nó xin học lái máy bay.

-Bao giờ mới được đi.

-Chắc còn lâu, trước tiên là đi khám sức khỏe, rồi học Anh Văn ở trường Sinh ngữ quân đội.

-Xong hai giai đoạn đó là đi qua Mỹ.

-Đúng rồi.

-Thời gian học bên Mỹ lâu không ?

-Chừng hơn một năm.

-Vậy là thế nào Thụy cũng xin về phép trước khi đi học.

-Anh cũng nghĩ vậy.

-Chắc Tết này Thụy về thăm nhà.

-Không hy vọng ngày Tết đâu, có thể trước hoặc sau.

-Em nghĩ chắc là Tết, Thụy về.

-Em anh, nó quý em lắm.

-Em biết.

            Nga bỗng nhiên thấy hoảng hốt, vừa hết sức ngạc nhiên. Trên màn ảnh, cảnh phim đang diễn ra một cuộc cãi vã dữ dội giữa cô gái và người bạn trai cùng lớp. Bất ngờ, cô rút súng, bắn liền mấy phát trúng tim,  người bạn cô tử thương, dẫy dụa trên nền nhà. Và, sau đó, một cảnh phim cuối cùng về cuộc đời cô gái, trên chiếc xe FIAT sơn trắng, hun hút trên con đường dài chiếc xe lao đi, đến khúc quanh lao vào vách núi, chiếc xe tan nát, và cô gái đã tử nạn.

            Khi biến cố tai nạn xảy ra, xe cứu thương và xe Cảnh sát bao quanh hiện trường. Người ta đã báo tin và chờ đợi thân nhân đến. Một lúc sau, có một chiếc xe Ford đen dừng lại, viên luật sư bước xuống. Ông ta ngán ngẫm, bị sốc vì cái chết của tình nhân.  Quay sang một phóng viên vừa đặt câu hỏi, ông trả lời:

-Le coupable, c'est moi.         

           

           

                                                       VII

 

                                                            

                               

            Trưa chủ nhật, Thụy đến thăm Thúy Hà . Hôm nay là ngày cuối của nàng ở Sài Gòn. Buổi sáng sớm thức dậy trên căn gác, Thụy nhớ đến người mình yêu, hình ảnh nàng ở khắp căn phòng. Mỗi sự vật, tiếng nói thầm, cảm xúc bâng quơ, hầu như gắn liền với kỷ niệm Thụy đã có với nàng. Khi bỏ một viên đường vào tách cà phê, Thụy như chợt nhận ra, giữa anh và nàng là kẻ bơ vơ trên một con đường tìm trở lại quê nhà.

            Khi thấy Thụy xuất hiện, Thúy Hà có nỗi mừng vui hiện rõ trên gương mặt. Hai người ngồi ở phòng khách nói chuyện một lúc, sau đó, Thúy Hà lên phòng riêng thay quần áo. Khi Thúy Hà xuất hiện ở lối cầu thang xuống nhà, nhìn anh nàng mỉm cười, anh thấy nàng mặc chiếc áo dài tím có chấm bông trắng thật là đẹp.

            Nhà vắng, nên trước khi đi Thúy Hà phải coi lại các cánh cửa. Sau đó, hai người qua phía cửa bên, rồi theo lối đi đầu con hẻm ra đường lớn. Có chiếc taxi chạy qua, nàng vẫy tay.

            Thụy ngồi bên cạnh Thúy Hà . Người tài xế vặn lại khóa đồng hồ rồi mới cho xe chạy. Xe chạy lên hướng Bà Chiểu, rẽ trái qua cầu Bông rồi hướng về khu Dakao. Hôm nay là chủ nhật, ngày cuối cùng của Thúy Hà ở Sài Gòn. Thụy được ở bên nàng, nhưng không hề có chút gì về sự hứa hẹn. Thụy cảm thấy rất tự nhiên ở bên Thúy Hà, vì vậy, anh cũng chẳng có ý sắp sẵn những chuyện riêng tư để nói với nàng. Dù sao nữa, nay anh và nàng còn có bên nhau trong tình anh em.

            Xe dừng ở ngay trước cửa chính chợ Bến Thành. Khi ra khỏi xe, ánh nắng buổi chiều trong thành phố ấm hẳn như thể cho Thụy một cảm giác mình đang ở bên người yêu. Thụy đã quen gương mặt Thúy Hà từ một tháng gặp lại nhau ở đây, và cứ mỗi lần, đưa mắt nhìn nàng, trong cái nhìn phác họa cho anh thấy những nét riêng nào đó của nàng rất dễ nhớ. Cố nhiên, Thúy Hà biết Thụy yêu nàng, thích được nhìn ngắm nàng nên nàng cũng rất muốn dành sự yêu thích đó cho anh.

            Hai người đứng trong đám đông chờ đèn xanh. Trước mặt, con đường tràn ngập những dòng xe và tiếng người ồn ào.

            Chỉ đợi hơn một phút, mọi người xuống lối đi bộ qua đường khi đèn xanh bật lên. Qua bên kia đường, mọi người tản mác, Thúy Hà và Thụy dừng bước. Nàng hỏi Thụy:

-Bây giờ đi đâu anh ?

-Tùy em. Trước hết, em phải đi mua sắm cho mình đã.

-Còn sớm. Em còn bên anh cả buổi chiều.

-Vậy mình ghé quán nước đi.

-Anh thích xem ciné không ?

            Tự dưng Thụy hơi ngần ngại, rồi nói:

-Tùy em.

-Anh biết rạp nào chiếu phim hay không ?

-Chung quanh đây có nhiều rạp.

            Thụy và Thúy Hà cùng dời bước. Buổi chiều Sài Gòn thật rộn ràng trong khung cảnh náo nhiệt, sầm uất,  những con đường đông người, những dãy phố san sát nhà ở, các hiệu buôn trông rất sáng sủa, đẹp mắt.

            Thụy đang nghe Thúy Hà nói về Duy. Giọng nàng vui, đùa nghịch. Hai người đi tới rạp Rex. Cuốn phim En plein soleil đang chiếu. Bên ngòai và dưới mái hiên rạp đông người. Thụy  hỏi ý Thúy Hà , rồi sau đó, anh sắp hàng đứng đợi trước quầy để mua vé. Lúc này, cả anh  và nàng cùng đưa mắt nhìn quanh như để tìm kiếm có ai quen. Trong một giây nhỏ, anh chợt nghĩ đến ngày mai dưới cơn mưa nhỏ hạt, qua ánh đèn nhòa nhạt trên những con đường, một chiếc xe ca lặng lẽ đưa Thúy Hà và bao nhiêu người hành khách nữa rời khỏi thành phố này.

            Đến trước quầy, Thúy Hà trả tiền mua vé, xong lấy hai tấm vé đưa qua cho Thụy cầm. Chưa tới giờ chiếu hai người tới quầy giải khát gần đó mua nước sinh tố. Cô bán nước làm xong, mỗi người cầm một ly đi bên nhau vào rạp hát bằng lối đi lên cầu thang.

            Hàng ghế trước ngay balcon, chỗ Thụy và Thúy Hà ngồi góc bên trái. Rạp hát rộng, có máy điều hòa, đèn đang chiếu sáng và có tiếng nhạc nghe nhẹ nhàng, êm dịu, thỏai mái. Không gian của rạp hát, ánh đèn, những hàng ghế có khán giả, nhưng Thụy vẫn thầm nghĩ rằng, lúc này chỉ có anh và Thúy Hà thôi.

-Ngày mai đi, em nhớ Sài Gòn không ?

-Nhớ chứ.

            Thúy Hà nhìn qua Thụy, nụ cười thật dễ thương.

-Em không nhớ, thành phố này cũng giữ lại em.

-Em cũng phải về chứ.

-Em về, hình ảnh của em vẫn còn ở đây.

-Rồi cũng có ngày em trở lại.

            Trong tiếng nói của nàng, Thụy nhỏ bé quá. Sài gòn, nơi thành phố này nàng đến rồi ngày mai sẽ ra đi.

            Ngày mai, tôi vẫn được ở bên nàng.

            Hai ly nước trái cây thật ngon. Anh đèn trong rạp hát chợt tắt, và buổi chiếu phim bắt đầu. Có hai phim chiếu dạo lâu chừng mười lăm phút, rồi đến phim chính. Tên tài tử nổi tiếng Alain Delon in chữ đậm trên màn ảnh.

            Thụy và Thúy Hà vừa lặng yên xem phim, vừa chuyện trò. Hạnh phúc này, như một món quà nhỏ nàng muốn dành cho anh. Và, anh hãy giữ lấy với sự yêu thương, bao dung của nàng. Giọng nói của Thúy Hà nghe trong âm thanh như những sợi chỉ màu đang nối kết những niềm vui trong nụ cười của nàng lại với nhau. Mỗi nụ cười trên mắt nàng, cho chàng một bóng ánh sáng. Đôi lúc, tiếng nói ngừng lại, Thụy chợt nghe nàng qua hơi thở. Thụy nhìn ngắm người mình yêu sao đẹp lạ lùng, Thúy Hà biết ý, nàng ngả đầu dựa lưng ghế, mái tóc xõa tràn, và trong lúc Thụy cúi xuống hôn môi, nàng nhắm mắt thật lâu.

-Em nói với anh đi.

-Anh muốn em nói gì.

-Nói với anh, em đẹp.

            Nàng khẽ gật đầu. Hai người ngồi lại, hướng mắt lên màn ảnh.

            Cuốn phim có nhiều đọan thật vui. Nước Pháp, những thành phố ở đó trải rộng đem lại cho trí tưởng tượng của Thụy và Thúy Hà như thấy mình đang đi tới những nơi ấy.

            Rồi cuốn phim kết thúc, đèn trong rạp sáng lên. Thụy  và Thúy Hà cùng đứng dậy rời khỏi ghế .

            Buổi chiều xuống mau, trời đang mưa. Bởi cơn mưa nặng hạt nên khán giả còn đứng ở rạp chờ đợi. Thụy lật cổ tay nhìn đồng hồ, mới ba giờ. Bên ngòai, trời u ám vì mưa. Những cơn mưa ở Sài gòn thường nặng hạt trong buổi chiều nhưng cũng mau tạnh.

            Nắng chợt bừng sáng ngay lúc mưa vừa tạnh. Tiếng reo vui  ồ dậy , ngay lập tức, mọi người dời bước, cùng chạy ùa xuống đường.

            Nắng hay mưa, trên các phố chính vẫn luôn nhộn nhịp. Thúy Hà và Thụy vẫn bên nhau, không rời nhau. Hai người đi vội, nhanh bước trên con đường Lê Lợi. Khi vào chợ Bến Thành, Thúy Hà đưa Thụy đến các sạp hàng bán quần áo may sẵn. Nàng chọn lựa, mua nhiều lọai quần áo đủ  cỡ, và cũng mua thêm các lọai áo ấm. Sau khi mua quần áo xong, Thụy và nàng đến chỗ bán hàng bánh kẹo mua nho , táo, hồng khô, và nhiều thứ khác nữa.

            Chỉ vào chợ mua sắm không đến một tiếng, hai người trở ra. Trời lại mưa, và họ băng qua đường núp mưa dưới mái hiên của một công ty xuất nhập cảng.

-Ngày em vào đây cũng vừa đúng mùa mưa khởi sự.

            Thúy Hà không nói gì. Bất chợt, ý nghĩ về ngày mai nàng rời khỏi thành phố này mang lại cho Thụy một nỗi buồn.

-Em về, hành lý nhiều không ?

-Cũng nhiều. Các thứ này nữa là đủ hai va li.

            Mưa lại tạnh, Thúy Hà nói:

-Em cảm thấy đói. An gì đây anh ?

-Tùy em.

            Thúy Hà không trả lời. Thụy  nói:

-Đi ăn bánh cuốn nghe.

            Thúy Hà gật đầu.

            Đường phố lại đông người. Thụy  đưa Thúy Hà đến dãy hàng bán bánh cuốn nằm cạnh nhau trên đường Pasteur. Nơi chiếc bàn thấp, Thụy và nàng ngồi chờ. Bánh cuốn nóng, bốc khói lên trông hấp dẫn. Giọng vui, Thụy hỏi:

-Em đã ăn đủ thứ quà ở Sài Gòn chưa ?

-Em cũng ăn nhiều.

            Ngừng ăn, nhìn Thụy nàng hỏi:

-Ngày mai anh có đi làm không ?

-Ngày mai anh được nghỉ.

-Anh làm việc ở Biên Hòa cứ lên về mỗi ngày.

-Có tuần thôi. Khi nào cần, anh mới về dưới này.

            Thụy  quá hạnh phúc khi được ở bên Thúy Hà. Anh nhìn nàng ăn, nhớ nàng vô cùng.

-Em ăn ngon không ?

-Ngon lắm.

-Em ăn thêm đi.

-Vừa rồi, anh ăn nữa đi.

-Thôi, anh đi mua nước em uống.

            Thụy  đứng dậy đi qua quầy nước mía bên cạnh. Không chờ lâu, anh mang hai ly lớn về đặt xuống bàn.

-Nước mía ngon lắm, em uống đi.

            Buổi chiều còn thư thả nên Thụy và Thúy Hà còn trò chuyện. Thụy đốt điếu thuốc hút, nhìn Thúy Hà nói:

-Tối nay em phải đi ngủ sớm.

            Thúy Hà cười nhìn lại anh.

-Em dễ ngủ mà cũng dễ thức dậy sớm.

-Nhưng cẩn thận, em nên để đồng hồ báo thức.

-Có chứ.

-Ngày mai anh đợi em ở trạm.

-Em sẽ đi taxi đến.

-Về ngòai đó công việc như thế nào, viết thư cho anh biết.

-Em sẽ viết thư cho anh luôn.

-Từ ngày anh đi xa đến nay, anh được đọc nhiều thư em.

-Ba mợ vẫn nhắc anh luôn.

-Anh hiểu. Anh đã có được tấm lòng yêu thương của gia đình em.

-Rồi anh cũng phải lo cho anh nữa.

-Anh chưa nghĩ xa chuyện gì cả.

-Anh cũng phải nghĩ đến thôi.

            Thụy lặng im. Giờ phút này đây, Thụy còn được ngồi bên nàng. Giữa hai người, tình yêu đã cất giấu, muốn trốn và đi tìm, và chỉ còn  chỗ ẩn náu trong con tim. Thụy  gợi nhớ đến những ngày vừa qua nàng đến đây. Thụy cũng đang tìm lại những trang giấy màu, những dòng thư nàng đã viết cho anh. Thật là đẹp, nhưng rất buồn.

-Mau quá, mới buổi chiều hôm đó em tới đây, giờ đã qua một tháng rồi.

-Anh lúc nào cũng cứ gợi nhắc đến kỷ niệm. Em cũng không thể ở lâu hơn.

-Em có tính đi học tiếp nữa không ?

-Thôi, em đã lấy chồng rồi, học gì nữa.

-Anh đang nghĩ tới một công việc phù hợp với em.

-Anh muốn em làm gì ?

-Anh thích em đi dạy học.

-Anh vẫn sống với hình ảnh lý tưởng.

-Hình ảnh em làm một cô giáo đẹp biết chừng nào .

-Không đâu, em sẽ làm công việc năng động hơn.

            Có tiếng còi hụ tan sở từ nơi nào đó vang lên trong buổi chiều. Buổi chiều sắp qua hết. Lúc này, Thúy Hà đứng lên đến chỗ người đứng bán bánh trả tiền. Thụy  hơi ngỡ ngàng, bâng khuâng.

            Thụy và Thúy Hà ra bến xe lam đón xe về nhà. Khi tới cổng, Thúy Hà đưa tay cho Thụy  bắt cùng nói lời tạm biệt.    

            Về nhà dì Hồng, Thụy ở lại đây buổi tối cho thuận tiện sáng mai đưa Thúy Hà lên đường.

-Anh nên nghĩ cho mình đi.

            Tiếng nói của Thúy Hà ắp đầy trong trí nhớ Thụy. Lúc này, chắc Thúy Hà ngồi ở phòng riêng để sọan hành lý. Nỗi ước mong của anh  là được ở bên nàng để giúp nàng.

            Sau bữa ăn tối, Thụy ngồi nói chuyện với gia đình dì Hồng. Trong đêm, anh nằm mơ thấy Thúy Hà . Hình ảnh nàng trong giấc mơ, anh thấy nàng tươi cười từ trên cầu thang phi cơ bước xuống phi trường thành phố. Và hai người gặp lại nhau qua nụ cười của tuổi trẻ.

            Khi nghe tiếng mưa trên mái tôn, Thụy giật mình thức giấc. Lúc này là ba giờ sáng. Thụy  nằm nán một chút nghe mưa rồi trở mình dậy. Với sự khẽ khàng, anh đi rửa mặt, thay quần áo, rồi lặng lẽ rời nhà dì Hồng. Từ con đường hẻm, Thụy bước nhanh ra đường chính và đứng đợi xe lam lên Sài Gòn.

            Tới trạm hàng không, Thụy đi thẳng đến quầy cân hành lý. Không thấy Thúy Hà, Thụy đi qua phòng hành khách đợi cũng không trông thấy nàng.

-Thúy    chưa tới.

            Thụy  nghe tiếng mình nói một cách tự nhiên. Bỗng anh đâm ra lo ngại, sợ nàng để quên đồng hồ reo, hay có khi giờ này chưa có taxi đi qua khu phố đó, thảng hoặc, người tài xế cho chạy vòng quanh nhiều chỗ để tăng thêm giờ trên đồng hồ. Thụy  liền đến hỏi cô tiếp viên về chuyến bay sớm nhất đi Đà Nẵng. Thụy  hơi lo ngại, và bây giờ, hành khách các chuyến bay tới dần dần đông thêm.

            Thụy trở ra phía ngòai đứng nhìn ra lối cổng vào sân. Có một chiếc taxi đang chạy vào, Thụy chú ý ngay khi nó vừa lọt vào cổng, và nỗi mừng vui dậy lên trong anh khi thấy bàn tay Thúy Hà thò ra ngòai cửa gương vừa lên tiếng gọi anh. Thụy bổ xuống thềm tam cấp bước nhanh, lúc xe vừa ngừng, anh vội mở cửa và đỡ lấy hành lý cho Thúy Hà. Trong phút giây này, anh muốn được ôm chầm lấy người yêu của mình.

            Thụy đợi Thúy Hà trả tiền xe, và cố định thần lại nỗi lo vừa qua của mình. Khi người tài xế taxi lái xe đi, Thúy Hà nắm tay Thụy, giọng hơi run nói:

-Em sợ quá, anh ơi.

-Sao vậy ? Có chuyện gì không, em nói đi.

-Cha tài xế này không tốt. Từ nhà tới đây đâu có gì xa, mà xe ông ta cứ chạy vòng qua nhiều chỗ lạ, và lúc nào mắt ông cũng liếc vào tấm gương để nhìn em ngồi sau. Em sợ quá.

-Anh cũng có ý nghĩ đó trước khi em thấy em tới. Biết vậy, anh đến nhà em để cùng đi cho em yên tâm.

-Lúc ấy trên đường đi, em cũng mong vậy.

            Thụy xách hai va li, Thúy Hà cùng bước nhanh theo anh đi vào trạm, đến quầy cân hành lý. Vào sắp hàng sau hai người, anh và Thúy Hà đứng cạnh nhau. Giờ phút này, Thúy Hà và Thụy như không thể rời xa nhau. Đến lượt mình, Thụy nhấc hai chiếc va li đưa qua bục gỗ cho người bên trong nhận để đặt lên bàn cân. Thực là hên, số cân vừa đủ , khỏi phải đóng thêm tiền. Thụy nhận ba thẻ hành lý đưa cho Thúy Hà, hai cái để nhận, còn một cái móc vào túi xách đi đường.

            Xong việc, hai người trở ra ngòai.

-Em ăn uống gì không ?

-Thôi lên máy bay, có bữa ăn sáng.

-Em uống cà phê nghe.

-Em không uống nhiều đâu. Anh mua một ly thôi, em uống với anh.

            Thụy cảm thấy lòng vui vô hạn liền đi tới quầy phục vụ ăn uống mua một ly cà phê sữa. Cà phê đã nấu sẵn nên có ngay, và Thụy cầm một ly đầy trở lại. Khi Thụy đưa mời Thúy Hà uống trước, mắt nàng cười, đón nhận. Nàng uống một hớp nóng rồi đưa lại cho Thụy ngay.

-Em uống thêm nữa đi.

-Ra ngòai băng ghế ngồi nói chuyện.

            Hai người trở ra ngòai ngồi xuống băng ghế trống. Thụy uống hớp cà phê xong đưa qua lại cho nàng. Nàng cầm lấy, giữ hơi ấm nơi thành ly, và Thụy đốt điếu thuốc. Lúc này, trời hãy còn mờ tối. Ngòai con đường, đèn điện chiếu sáng, những dãy phố im lìm, thỉnh thỏang có tiếng động một vài chiếc xe hàng, xích lô máy chạy qua, rồi mất hút, tiếng động cũng tắt theo, lặng chìm.

-Nhớ viết thư cho anh nghe.

-Em nhớ.

-Em có nói ai lên đón em không ?

-Không. Vì xe ca trên phi trường về trạm đi qua nhà mà.

-Anh quên mất.

            Thụy tiếp lời:

-Lên máy bay, em ráng ngủ bù một giờ.

-Em không ngủ đâu.

-Ngủ đi, cho có sức. À..., em về lại ngòai đó, rồi hai tháng nữa Duy mới ra trường.

-Em cán ơn anh những ngày em vào đây.

-Anh cám ơn em nhiều hơn. Cả thành phố này nữa, cho anh được gặp lại em.

            Sau câu nói, Thụy và nàng cùng lặng im. Thụy như không thể còn đủ sức để nói thêm gì nữa. Ít giây phút giây nữa thôi, anh và nàng rời xa nhau.

-Ngày đó, chúng ta không gặp nhau thì sao nhỉ ?

-Anh cũng không biết. Từ khi gặp em, anh luôn nhớ đến em, lúc ở xa, cũng như ngày gặp lại em ở nơi đây.

-Em biết, anh không quên được em.

-Nếu mà anh quên, cũng vô ích thôi, phải không ?

-Có lẽ.

-Chúng ta ngồi đây, mà thấy rõ sự xa cách hơn bao giờ cả. Anh rất mong em được hạnh phúc, hạnh phúc trọn vẹn. Rồi một ngày nào đó, anh cũng sẽ trở về tìm đến em, để thăm em.

-Anh rất tốt với em.

-Anh yêu em, em biết phải không ?

            Thúy Hà lặng không nói gì. Nhưng rồi, có tiếng của nàng bên Thụy, rất rõ.

-Em biết chứ. Dù sao, anh cũng đã nói với em, chứ không im lặng.

            Bên ngoài, ánh đèn thành thành phố vẫn giăng mắc  qua những hàng cây. Trong yên lặng, có bàn tay Thúy Hà nằm yên trong tay anh. Thế nhưng, anh không chờ đợi gì khác ngoài ánh sáng một ngày sớm xuất hiện.

            Từ bên trong, tiếng một cô nữ tiếp viên loan báo cho hành khách biết đã đến giờ hành khách lên xe ca để đi phi trường.

            Hai người đứng dậy. Chiếc xe đậu giữa sân đang nổ máy. Thụy và Thúy Hà xuống bậc thềm, thong thả bước bên nhau. Rồi, chàng và nàng mở rộng vòng tay ôm nhau, nói lời từ giã.

            Thụy vẫn đứng lại ở dưới sân, khi Thúy Hà lên xe. Nàng ngồi ở ghế ngoài, gần cửa.

-Chừng nào anh đi phép ?

-Có thể vào tháng tới.

-Anh về Huế, hay Quảng Trị.

-Anh sẽ về Đà Nẵng, thăm em ít ngày đã.

-Nhớ nghe.

-Nhớ chứ.

-Rồi, anh ra Huế sau.

-Anh cố gắng xin cho được hai tuần, mới chọn ngày đi.

-Anh về thăm, anh và em đi chơi phố.

-Em luôn là một người bạn, suốt đời anh.

-Em vẫn muốn dành cho anh, ít nhiều kỷ niệm đẹp trong tình bạn.

-Mãi mãi, phải không ?

-Ờ , mãi mãi.

-Em đưa tay cho anh.

            Thụy  nắm  cánh tay Thúy Hà, giữ  bàn tay nàng rất lâu đến lúc xe ca chuyển bánh rời ga trạm.

-Nhớ viết thư cho em.

            Thụy gật đầu, mắt vẫn  còn cố trông theo.                                                        

                                                              

 

 

                                                        VIII

 

 

            Quán cà phê Mai Hương nằm ngay giữa phố chính Lê Lợi, nơi này, như là chốn quê nhà, nó luôn muốn để dành riêng một chỗ ngồi, hoặc vài ba chiếc bàn ghế trống để cho những người đi xa, hay đang ở xa, nhớ Sài Gòn mong trở về, và sẽ ngồi ở đây để tìm lại một thành phố của mình thời tuổi trẻ. Một ngày thôi, thì rất thiếu, quá nhiều tháng năm ở mãi nơi này là dư thừa. Có thể, ý tôi và bạn hòa hợp cho rằng, một tuần lễ về Sài Gòn là đẹp nhất.

            Sự tình cờ Thụy gặp lại Hạnh. Người bạn cũ, nay đổi khác nhiều, có vẻ phong trần bụi bặm qua mái tóc, qua bộ quần áo trận, trên ve áo đã đeo bông mai rồi. Cũng thật là nhanh, từ hôm có một kỳ nghỉ phép về thăm Huế.

            Người lính ở vùng biên trấn nhìn Thụy, anh ta bảo:

-Mầy chẳng có gì thay đổi cả.

            Thụy cười, đáp lời bạn:

-Tao sắp được đi học Sĩ quan.

-Vào Thủ Đức ?

-Không. Đã muốn ở bộ binh, tao đi Thủ Đức còn trước mầy nữa.

-Vậy là mầy sẽ là Sĩ quan Không quân.

-Đúng vậy. Tao xin đi học khóa phi hành.

            Hạnh vỗ vai Thụy, cười bảo:

-Le lắm nghe. Ra Pilot, lái phi cơ vận tải cho tao nhờ quá giang những lần đi phép.

-Không được lái phi cơ vận tải đâu bạn.

-Vậy, mầy học thứ gì ?

-Tao chỉ đủ tiêu chuẩn học trực thăng. Vì mắt, xếp loại class A.

-Cũng được. Ra trường la le rồi.

            Thụy cảm thấy vui. Thực lòng anh thấy vui là được gặp lại Hạnh, cứ tưởng sau buổi sáng lên phi cơ ở Phú Bài, rồi mỗi đứa một phương trời. Ở Pleiku, nơi đó là vùng biên trấn, nơi đó cũng là thị trấn của những người lính.

            Bên ngoài, buổi chiều thật đẹp với dòng người đi tấp nập, luôn nghe ồn vui những tiếng chuyện trò. Khi thấy những cô gái xuất hiện, trong quán, nhiều người đưa mắt nhìn ngắm, ngẩn ngơ. Đã lâu, Thụy không gặp Huê. Sáng nay, Thúy Hà rời Sài gòn trở ra Đà Nẵng. Sài Gòn, thành phố chỉ còn giữ Thụy lại, nhưng cũng nói với anh rằng, Thúy Hà vẫn luôn nhớ đến anh.

            Hạnh hỏi:

-Chừng nào mới đi học ?

-Chưa biết. Đang chờ giấy gọi.

-Tao không hiểu.

-Tao mới pass về sức khỏe. Danh sách khóa sinh được gởi qua Phòng tuyển mộ, ở đó mới gởi giấy đến đơn vị gốc gọi đi học.

-Có tính đi phép không ?

-Không.

            Rồi với giọng thân tình, Thụy nói những lời tâm sự với Hạnh.

-Mầy đi đúng đường, không sai đâu.

-Không chắc hẳn là đúng, nhưng cũng có thể sai. Kể ra,mình phải nhận những cái khó khăn trong đời binh nghiệp.

-Vậy sao mầy không đi Thủ Đức sớm.

-Bởi tao còn mong chuyện học. Có được tấm bằng Tú Tài, hay trên Đại học, về sau mới thấy tương lai.

-Bây giờ yên chí, mầy sắp trở thành Sĩ quan.

-Không, không nói chắc trước được.

            Ngừng trong ít giây, Thụy giải thích với Hạnh về thời gian học của các khóa sinh đi ngành phi hành.

-Nhưng chuyện học của mầy, cũng đã thành.

-Không , không thành tao mới chọn cách này. Với ước mong, tao thích đi kỹ thuật, ra trường dễ như bên bộ binh.

            Những điều Thụy nêu ra, lắng nghe rõ lời tâm tình, Hạnh càng thêm  hiểu bạn. Trong quán, khói thuốc mịt mù. Nhưng đám khói nào cũng tan nhanh nhờ các lối cửa trống nhìn ra đường đều đều thoáng rộng. Phía nào, các bàn  cũng kín khách ngồi, nơi đây, hạnh phúc thật đầy và nỗi buồn những kẻ lạc lõng cũng thấm thía.

-Mầy ở Pleiku cũng đã lâu ?

-Tao sắp được về trường Thủ Đức.

-Về đó làm cán bộ sinh viên .

-Không hẳn. Tao thuộc bên ngành Tiếp vận.

-Mong mầy được về sớm.

-Kể ra, tụi mình sẽ còn gặp lại nhau.

            Hạnh trả tiền cà phê. Hai người rời quán, đi cạnh nhau một quãng trên phố chính. Thụy hỏi:

-Đến chừng nào lên Trung úy ?

-Còn lâu, mầy.

-Dù sao, hoa mai của mầy vẫn cứ nở đều đặn.

            Hạnh cười, tay đập nhẹ qua vai bạn.

            Rồi, một mình từ bên này, Thụy băng theo lối đi bộ qua đường bên kia. Buổi chiều vẫn còn đẹp trong nắng ấm, đường phố vui, nhộn nhịp, và lúc nào trên phố chính này Thụy cũng hay  lang thang qua những sạp bán hàng sách báo cũ. Anh tìm sách, mua sách, hay là tạp chí như thể là có sự cám dỗ , hoặc đây cảm giác ghiền mùi vị giấy cũ như ghiền mùi thuốc lá và cà phê. Kể ra, bạn có chịu khó đọc sách, mới khám phá trí óc mình mở rộng nhiều trong không gian của tư tưởng. Những cuốn sách làm bạn yêu thích trong khi đọc, luôn là là một điều hay, một câu chuyện đáng nhớ dù sớm hay muộn, và còn được giữ lâu, hay đã quên.

            Bỗng nhiên, trời trở gió và gây cảm giác lạnh. Những tảng mây xám vội vàng bao phủ bầu bầu trời, đùn cao lên những lớp dày, ra vẻ de dọa đến một trận mưa. Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa, thường lệ hay đến vào buổi chiều.

            Thụy đến nhà dì Hồng. Con hẻm qua nhà dì, sao vắng  vẻ lạ lùng. Tiếng chuông vọng sâu, rồi Thúy xuất hiện.

-Anh gặp chị Hà chưa ?

-Chị Hà nào ?

-Trời, còn hỏi gặng nữa ?

-Anh không rõ.

-Chị Hà đến đây tìm anh .

-Anh không biết, thực tình.

-Em sẽ đưa thư cho.

            Thụy vẫn ngạc nhiên, anh ngồi xuống chỗ ghế dựa đặt ở phòng khách. Lá thư để ở bàn, trên một cuốn sách, và lúc Thúy quay lại, Thụy nhìn cô em có một chút dò xét. Không hỏi gì thêm, Thụy mở lá thư ra đọc.

            Vài giòng rất ngắn: Thời tiết xấu, nửa đường phi cơ bay trở về lại Sài Gòn. Em đang ở khách sạn H. trên phố Trần Hưng Đạo, đối diện trạm hàng không. Thúy Hà.

            Thụy trở về lại cảm giác bình thường, anh hỏi Thúy:

-Chị Hà tới đây lúc nào ?

-Lúc gần trưa.

-Chị đến lâu không ?

-Chừng nửa tiếng. Em có nói chuyện với chị.

-Thúy nói sao ?

-Bộ, em hỏi chuyện với bạn gái của anh không được sao ?

-Không phải. Ý anh muốn biết là chị ấy có thân tình với em không ?

-Cũng dễ chịu. Em khen chị Hà đẹp, anh thấy vui không ?

-Chị ấy trả lời em, sao mà lại bảo anh.

            Cô em gái nhìn Thụy, cặp mắt cười và một giọng nói vui.

-Anh và chị Thúy Hà là sao ?

-Hai người là bạn học hồi trước.

-Chừng đó thôi, sao ?

-Chừng đó, không có gì xa lạ cả.

-Có lẽ chị đang đợi anh.

-Rồi anh sẽ đến gặp.

            Như gợi nhớ ra một chuyện gì đó, Thúy nói:

-Giọng Hà Nội của chị Hà, hay quá.

-Chị có nói với em là máy bay phải trở về Sài Gòn vì thời tiết xấu.

-Có.

            Thúy im lặng, khiến Thụy nhắc.

-Em cứ nói đi.

-Nghe đây, chị có hỏi em về anh, về căn nhà này.

-Em trả lời sao ?

-Có gì khó khăn đâu ? Đây là nhà người dì của anh.

            Thụy gật đầu. Trên tường, phía bên trái để dành một góc lớn treo những bức ảnh gia đình ngày trước. Lúc đó, Thúy chừng độ bốn tuổi.

-Hồi trước, anh có ở với dì một thời gian, Thúy nhớ không ?

-Sao mà không nhớ.

-Anh nhớ em thích chơi đánh thẻ với mấy cô bạn trong xóm.

-Có cả Huê nữa, anh nhớ không.

            Thụy ngạc nhiên:

-Có Huê nữa sao ?

-Anh bị xúc động, mỗi lần nhắc đến tên chị.

-Thực tình anh không hay. Anh vẫn cứ tưởng, gia đình chị Huê mới đến ở sau này.

-Không đâu. Nhà trong con hẻm này có đến cả hai mươi năm rồi. Gia đình nào cũng biết và quen nhau hết.

            Thụy đứng lên, vừa đúng lúc như chiếc kim giây đồng hồ đã chạy tròn vòng của một phút.           

-Bây giờ anh đến chỗ chị Hà.

-Anh ăn uống gì chưa ?

-Cám ơn Thúy. Anh không đói.

            Thụy coi lại lá thư. Thúy đưa Thụy ra cửa, tay kéo chốt mở.

-Anh vẫn làm việc trên Biên Hòa.

-Anh cũng sắp đi học, Thụy nói.

-Tối nay, anh có về đây không ?

-Chắc là không. Anh gặp chị Hà, xong về nhà trọ sáng mai đi làm sớm.

-Hôm qua anh không đến, có chị Huê ở đây.

-Huê có chơi đánh bài không ?

-Anh thực hay. Tới đây, không tụ hội chơi bài là Huê rất lạc lõng.

-Và, lúc này, Huê còn ghiền uống cà phê nữa.

-Bệnh tương lân với anh.

-Anh đi nghe.

-Nhanh lên, kẻo nàng chờ.

            Bỗng dưng, Thụy có cảm giác như mình đứng lại sau câu nói của Thúy. Có lẽ, Thúy Hà luôn đợi chờ anh. Anh luôn là kẻ ra đi, ở xa nàng, nhưng phần nàng lại là người thủy chung, cậy tin, luôn tìm trong tâm hồn anh một nơi chốn cư ngụ. Người ta hay bảo trái tim là nơi cất dấu, nhưng Thúy Hà lại hay nói với anh về một đôi mắt.

            Trên con hẻm dài và rộng, những mái nhà vươn cao, và ánh sáng buổi chiều mang một vẻ dịu hiền. Ra đường chính, Thụy đi bộ về phía khu chợ, anh chạy băng qua đường lúc thấy trống xe, rồi đến chỗ trạm ngừng đợi xe buýt.

            Từ phía khu nhà thờ, xuất hiện bóng đen một bay chim đang bay tới. Thành phố trở lại bình thường, không có dấu hiệu là sẽ có mưa đến.

            Hai người khách bước xuống khi xe vừa ngừng ở trạm. Thụy bước lên, trả tiền lấy vé, và anh ngồi chỗ ghế trống cạnh bên lối cửa lên xuống. Xe chuyến bánh, chạy nhanh một quãng rồi giảm tốc độ. Xe lại ngừng trạm kế, rồi một trạm kế nữa. Tới bến chính trông qua chợ Bến Thành, hành khách xuống hết. Có người tìm chuyến xe khác để về nhà.

            Thụy đi bộ. Lúc vào phố Trần Hưng Đạo, anh ngước mắt tìm khách sạn H. Anh tìm ra chỗ, lúc đẩy cửa vào văn phòng anh chỉ thấy một cô gái đang làm việc.

-Cô là quản lý ở đây ?

-Vâng.

-Tôi xin gặp bà Thúy Hà.

            Cô quản lý bấm chuông, một cô gái khác đến.

-Em lên phòng 16, gặp bà Thúy Hà nói có khách đến tìm.

            Cô gái bỏ đi ngay. Một lúc sau cô trở lại và mời Thụy đi theo cô. Khách sạn H. là một dãy nhà dài, hai tầng, phòng 16 nằm ở giữa, tầng thứ nhì. Cô gái bấm chuông, Thúy Hà ra mở cửa.

            Gặp lại Thúy Hà, Thụy đứng trân, ngơ ngác. Nàng mỉm cười, cô gái phục vụ chú ý nhìn hai người.

-Người bạn của tôi, nàng nói với cô gái

            Cô gái hỏi:

-Bà cần pha trà không ?

-Hay lắm. Cô cho một khay trà.

            Phòng của những người phục vụ dãy lầu hai nằm ở ngay phía đầu, cạnh chỗ cầu thang. Cửa phòng 16 vẫn mở đợi người phục mang nước đến.

            Thụy hỏi:

-Em ra đến đâu mới quay về lại.

-Đến Qui Nhơn. Ngoài đó, trời đang có bão.

            Khi trông thấy cô gái xuất hiện, Thụy ngừng nói. Và cô gái rất nhanh nhẹn, tự nhiên khi phục vụ cho khách.

            Cô gái nhìn Thúy Hà hỏi:

-Bà cần gì nữa không ?

-Cám ơn. Có gì cần, tôi nhấn chuông.

            Vừa quay ra ngoài, cô gái khép cửa lại. Trong lúc Thúy Hà rót trà vào hai cái tách, Thụy hỏi:

-Ngày mai, em đi chuyến bay mấy giờ ?

-Cũng vào giờ sáng sớm.

            Thụy cầm tách trà, đợi một chút cho Thúy Hà cầm tách mới mời nhau.

-Ở ngoài nhà, chắc không biết em bị trễ ngày.

-Không sao, anh. Với lại, em không báo trước gì cho nhà biết cả.

-Anh quá ngạc nhiên.

            Thúy Hà hỏi:

-Anh đi đâu từ sáng đến giờ.

            Thụy nói trong yên lặng, anh bày tỏ tâm trạng sau khi Thúy Hà lên xe ca rời khỏi trạm ngừng. Nơi thành phố này, Thúy Hà đi vắng rồi, tìm con đường nào Thụy cũng chỉ thấy những bóng hình trơ trọi.

-Anh còn ngạc nhiên nữa không ?

-Vẫn còn.

-Rồi, sẽ ra sao ?

-Anh không nói được.

-Sao mà không nói được.

-Em nói đi.

            Bỗng nhiên Thúy Hà đứng lên, đến bên cửa , đóng chốt. Rồi nàng trở về chỗ ngồi, đối diện với người bạn.

-Anh cần em nói gì.

-Nói với anh.., lúc nào nghe được tiếng nói của em là anh mừng, được gặp.

-Anh mừng lắm, phải không ?

-Anh mừng lắm.

-Em cũng mừng như anh.

            Thụy cảm thấy yên tâm, không bồn chồn nữa. Hai người yên lặng, rất là muốn yên lặng trong lúc này.

-Anh muốn xuống phố đi chơi không ?

-Tùy em.

            Thúy Hà vào bên trong thay quần áo. Một lúc sau nàng trở ra, đứng rất gần Thụy, xuất hiện một dáng vẻ quen thuộc, chiếc áo dài nâu, mái tóc phủ bờ vai, và đôi mắt rất sáng, rất tình tứ.

            Nàng để yên cho Thụy nắm tay nàng trong tay anh. Anh nói rất nhỏ cho nàng hay, nàng có một hình ảnh khác nữa, làm cho cái đẹp chết đứng, ngày hôm đó từ trường Thủ Đức trở về trên chuyến xe lam hai người ngồi bên nhau. Nàng khóc, tiếng khóc thổn thức. Thế nhưng, bên nàng, anh bỗng nhận ra trước mắt mình là một đồi cỏ, màu xanh của cảnh hoang vắng, chỉ thấy có hai người đang đuổi nhau chạy, rồi, nàng vấp ngã lúc anh kéo tay nàng, từ những âm thanh nhỏ như những giọt nước mưa trong tiếng cười khúc khích của nàng, đột nhiên nghe thật lớn , ồ ạt với cơn mưa đổ, nhưng cả hai cùng yên lặng, cùng chỉ nghe rất gấp những hơi thở, dần dần nàng đuối sức, còn anh  cũng rã rời, nguôi lịm đi.

            Bây giờ,  một cảnh phim mới rất là sống. Thụy hỏi:

-Em còn nhớ không ?

-Không, em đã quên.

-Anh không cho em cười, nói gì nữa hết.

            Trên cặp mắt nhỏ bé xinh đẹp, ánh sáng nụ cười tỏa rộng ra như quần áo của nàng vừa mới buông thả xuống hết.

            Lên giường, anh vồ vập, tham lam như con thú. Nàng không cất nổi tiếng cười cho bùng vỡ phút giây điên loạn, nàng cũng không khóc, nhưng trong sự đau đơn, nàng thèm được nghe tiếng mình la hét.

            Rồi nàng ngồi trở dậy, nói nhỏ với anh:

-Em mệt quá.

-Anh cũng mệt lắm.

-Anh gắng ngồi thẳng người lên.

            Thụy nghe lời nàng. Nàng đã cúi gục xuống, dựa đầu lên vai anh.

-Anh đừng quên em, đừng bỏ rơi em.

-Em mệt, mê sảng rồi đó.

-Mấy giờ rồi anh ?

-Bên ngoài, trời đã tối.

            Khi nghe tiếng mưa đập ngoài cánh cửa, hai người mới thực sự bừng tỉnh.

-Em đói rồi, đưa em đi ăn.

            Hình ảnh nàng qua chiếc áo dài nâu, đã nhắc anh nhớ lại thời đi học, nhớ lại buổi đầu tiên gặp nàng ở lớp học. Và, bây giờ, nàng trở thành người thiếu phụ. Nàng đang ở bên anh, và thực sự anh không cần thiết mong mỏi nàng bày tỏ những điều gì khác với anh, hoặc là nàng.

            Khi nàng ra khỏi giường, toàn thân nàng để lộ hết mọi thứ ánh sáng. Anh muốn nàng lặng yên, đứng đó, không dời bước nữa. Từng cái một, anh mặc lại đủ tất cả quần áo của nàng.

            Hai người rời căn phòng giữa tầng hai của khách sạn, xuống dưới đường trong lúc trời mưa nặng hạt. Chiếc taxi đưa họ đếm một quán cơm của người Hà Nội ở trên đường Gia Long, gần một ngả sáu.

            Mưa chóng tạnh, lúc xe vừa ngừng trước tiệm ăn. Hương vị của Sài Gòn trong mưa, cả trong đêm nữa như mang nỗi nhớ nhà. Một lúc sau, vào bữa ăn, hai người cảm thấy thật hạnh phúc. Trong quán, giờ này bắt đầu thêm đông khách, vừa nhộn nhịp.    Trên đường tản bộ tìm đến một tiệm cà phê, nàng nói:

-Em và Duy sẽ bỏ nhau.

            Thụy im lặng. Một giọng nói hơi lạ, bởi nghe tiếng cười trỗi dậy. Nàng vẫn để bàn tay mình trong bàn tay của người bạn.

-Anh có tính nhảy vào không ?

-Không.

            Trong hương đêm dậy thơm mùi vị của nước mưa đọng và cây lá tươi ướt, Thụy cố sắp xếp một đoạn văn mà lúc này anh chợt nhớ nghĩ đến kỳ lễ Phục Sinh đã qua rồi, trong năm đó.

            Buổi chiều, Thụy tìm đến nhà Thúy Hà và không thấy có Duy. Duy vẫn còn đang ở Huế. Thụy luôn nghĩ nhiều đến Duy khi anh được gặp Thúy Hà. Về nàng, giống như các bài toán hình học, mỗi người nàng có một cách. Và khi nàng đã giải xong, cách nào bạn cũng thấy hợp lý.

            Từ buổi đầu gặp Thúy Hà, sau đó là Duy, Thụy vẫn luôn xét đoán mình với một sự tự tin thật xác đáng. Khi ở bên cạnh Thúy Hà, anh coi nàng là của mình. Buổi chiều ấy Thụy ở chơi nhà Thúy Hà, trên căn gác với nàng, ngắm một bức tranh khỏa thân của nàng vẽ, rất là giống nàng qua sự hiển hiện chính nàng trước mắt anh bằng xương thịt. Một cảnh phim quá tuyệt vời. Nàng bảo anh im lặng, tuyệt đối im lặng. Đứng xa anh một mét, mỗi cử chỉ, mỗi dáng dấp lúc nàng thả cho quần áo vừa cởi bỏ rơi xuống, Thụy càng thấy mình ngơ dại trong một cảm xúc quá căng đầy một cuộc sống do bao nhiêu hơi thở dồn ép. Khi vẽ xong bức tranh, nàng cho anh bước lại gần. Và anh nhẹ bước, tới gần nàng, lặng lẽ quì xuống, mắt chăm chú vào một cánh hoa và đã nhìn nó thật lâu, rất lâu, vẫn thấy cánh hoa vẫn bất động, vẫn thấy nó không nghiêng mình,  cũng không nghe nữa tiếng động lào xào của những ngọn gió. Đến lúc, anh áp môi vào cánh hoa, hai tay nàng buông xuống, vừa nhẹ và chắc chắn, nàng nắm giữ vai anh, mỗi lúc chặt hơn để anh đừng bị run rẩy, té ngã.

            Ngày hôm sau, Thụy ra Huế. Anh có hai tuần lễ nghỉ Phục Sinh với gia đình. Suốt lộ trình xe chạy, anh nhớ nghĩ đến Liên An đã cho anh một cái tình yêu thương, và quí giá vô ngần. Liên An như là một thành phố nhỏ bé trong linh hồn của Huế, nhớ tới cô em gái, Thụy như đang ngửi thấy mùi vị thơm của trái hòa dịu với nắng, đó cũng là lúc, mùa hạ sắp về tới.

            Vừa xuống bến xe ở phố chính bên chợ Đông Ba, sự tình cờ Thụy gặp Duy. Một người lên tiếng hỏi:

-Anh cũng nghỉ Phục Sinh hai tuần.

-Không, ít này thôi. Anh có đến nhà Thúy Hà không ?

-Có, chiều hôm qua.

-Ngoài này, nhà anh ở đâu ?

-Ở gần nhà ga, đường Huyền Trân.

            Người tài xế lên tiếng báo cho hành khách biết xe sắp chạy. Duy vội vàng bắt tay Thụy, vừa nghe người bạn nói:

-Nhớ lên nhà tôi nghe.

-Rồi.

            Thụy tìm đến thăm Liên An thường lệ vào giờ buổi chiều. Nhưng sau mấy ngày đầu, Thụy lo chuyện học.

            Duy trở ra Huế sau mấy ngày nghỉ vào Đà Nẵng. Anh tìm đến nhà Thụy, rủ bạn đi uống cà phê. Hai người đến quán bằng xe đạp. Quán nằm trong khu thành nội, rất đông khách vào buổi chiều và tối.

            Duy hút thuốc đã lâu, nhưng cái vẻ ngập ngừng trên ngón tay, trông anh như mới bắt đầu tập hút.

-Về với Thúy Hà vui không ?

-Tôi và cô có đi Hội An.

-Đi trong ngày.

-Ờ, đi biển Cửa Đại.

-Có ăn mì Quảng hay cao lầu trong đó không ?

-Sao mà thiếu được.

-Cà phê đây uống cũng được.

-Anh học cùng chung lớp với Thúy Hà.

-Cùng lớp, khác ban.

            Duy nói:

-Năm nay mà thi rớt, tôi bị kêu đi Thủ Đức.

-Còn tôi mà rớt, số phận thảm hơn anh.

-Có gì bi quan vậy.

-Thực mà. Tôi rớt, chỉ có đi hạ sĩ quan.

-Thời chiến tranh, quan hay lính, có hơn gì nhau.

-Cũng khác chứ. Anh ra trường Sĩ quan, mau chóng lên lon.

-Tôi vẫn thích đi dạy học, tốt hơn.

-Anh có thi vào trường Sư phạm không ?

-Có, nhưng không đậu nổi.

            Ngồi lâu chừng một tiếng, thấy trời đẹp hai bạn rủ nhau đi chơi phố. Duy trả tiền cà phê. Rời quán, hai người đạp xe chậm trên những con đường nhỏ, yên tĩnh trong nội thành.

-Anh quen với Thúy Hà lâu chưa ?

-Cô ấy, không kể hết chuyện cho anh nghe sao ?

-Không, về anh. Những lúc chuyện trò, cô hay nói về miền Bắc, về tỉnh Quảng Trị hồi gia đình mới đến trong  những năm đầu di cư.

            Một giọng bình thản, Duy nói:

-Trước đây, cô đang là bồ với bạn tôi.

-Rồi, sao mà rớt nhanh vào tay anh ?

-Tôi giấu biệt thư đứa bạn gởi, không đưa.

-Chắc anh đánh cờ hay lắm ?

-Ông chơi cờ, khá không ?

-Biết thôi. Người bạn ông nay ở đâu.

-Trốn ra bưng rồi.

-Trong biến cố nào.

-Thời đấu tranh ông Diệm.

-Ông còn biết tin tức không ?

-Không.

-Thực sự, ông quen với Thúy Hà ra sao tôi biết rõ.

-Tôi cũng nghĩ vậy ?

-Rồi phần tôi, thì sao ?

-Ông đang trồng cây si trước nhà nàng ?

-Ông có thấy cây tôi trồng ra trái không ?

-Không.

-Ông đừng chủ quan.

-Anh mà yêu nàng, ngày đêm chỉ có tương tư thôi.

-Nàng là một cô gái rất cởi mở.

-Chưa đủ.

-Rất là quyến rũ. Trên cặp mắt nàng, có sức hút của nam châm, lạ lùng lắm.

            Duy cười thật sảng khoái. Hãy nên yêu kẻ khác như là mình vậy. Thụy cũng chẳng ngán, anh sẵn sàng đáp trả ngay, nếu Duy có ngầm ý, hoặc dễ coi thường bạn. Nhưng Duy vẫn rất thẳng thắn, lại còn hiểu cả hai người, về mối liên hệ tình cảm của họ đã không có chút giấu diếm. Và, cũng chẳng cần Thụy phân bua, Duy biết, gia đình Thúy Hà coi Thụy như là người con nuôi quí trọng, đến anh sau này cũng phải phục tòng.

-Bây giờ, anh lên nhà tôi chơi, Thụy nói.

-Anh đến nhà tôi trước, xong chơi thử một ván cờ.

-Hay lắm.

            Nhà Duy ở đường Hàn Thuyên. Về tới nhà, xe đạp của Duy và Thụy cùng dựng bên hàng hiên. Bà chủ nhà đang ăn trầu, Thụy lên tiếng chào.

-Anh ở đây lâu chưa ?

-Từ ngày ra Huế học .

            Căn nhà dài, rộng rãi, thoáng đãng. Phía trông ra đường có mái hiên, cái bàn vuông để trống. Sau lưng nhà là căn vườn. Thụy chỉ đứng bên cửa trông qua chỗ ở của Duy, anh vào không vào phòng riêng chỗ của bạn thuê ở. Một lát sau, Duy đem bàn cờ ra, hai người tới đặt cái bàn vuông dưới bóng cây.

-Gia đình ở ngoài này, sao anh học ở Đà Nẵng ?

-Tôi vào trong đó ỡ với bà dì.

-À, ở Đà Nẵng anh có nhà quen.

            Duy nhường cho Thụy đi trước. Sau một vài nước ra quân, Thụy nhận ra Duy đánh cao hơn mình. Trong lúc chơi cờ Thụy nhớ đến Liên An. Cô gái cũng đành chấp nhận cái tên anh yêu thương mà đặt cho nàng. Từ một buổi trưa hè,  cô gái ngồi giặt áo bên bến sông. Tất cả những ngày tháng đó, cô gái chỉ nói với anh về câu chuyện một dòng sông. Rồi, khi chợt thấy mùa hè, anh lại rằng mùa  hè đã quá muộn.

-Anh học trong đó, vui không ?

-Vui hơn ngoài này.

-Anh có bạn gái rồi.

-Không, anh đâu có.

-Đừng nên giấu em.

            Duy đưa con ngựa qua sông, phía bên trái. Một cây diêm bật sáng, Duy châm điếu thuốc.

-Thúy Hà rất cởi mở, nàng hay nhắc đến anh luôn.

            Thụy đáp lời:

-Lúc này nàng chưa là vợ anh nên chúng ta còn chơi cờ được.

            Nhìn mắt Thụy, Duy nói:

-Tôi đã gắn bó với nàng, nhưng tuổi trẻ không quá nên lụy vì tình. Còn phải nghĩ cuộc sống thực tế nữa.

-Anh nói đúng. Và, anh đừng bắt nàng chờ đợi quá lâu ?

-Nàng vẫn là thế, anh ạ.

-Anh nói sao ?

-Không chừng, tôi sẽ thua anh.

            Thụy cười.

-Anh đánh cờ hay lắm. Tôi không thắng nổi anh đâu.

-Đây chỉ là chơi giải trí thôi. Thực sự, tôi là con bạc. Trong đỏ đen, có lúc tôi không vực dậy nổi.

-Anh là một người hiền, rất tốt.

-Tôi cũng rất thích cuộc đời có đôi chút tiểu thuyết.

            Tối hôm ấy trời có trăng. Hai người bạn vẫn cảm thấy, những chuyện riêng của mình nói ra chưa hết. Vậy nên, Thụy đưa Duy ra ngoại ô, vào một quán ăn bình dân. Sau bữa ăn, Thụy trả tiền.

            Hết kỳ lễ Phục Sinh, Thụy trở vào Đà Nẵng. Sau năm học đó, kỳ lễ Phục Sinh không còn được là một mùa lễ kéo dài lâu đến hai tuần nữa.

            Thời gian qua đi, với biết bao nhiêu đổi thay. Thúy Hà bỗng nói;

-Em và Duy, rồi cũng đến lúc tan vỡ.

-Nhưng có lý do, em và Duy hay ây gỗ nhau.

-Em không chịu nổi phía bên gia đình của Duy.

-Có một người chị trong đó, phải không.

-Bà chị của Duy, lúc nào cũng chống đối em.

-Còn Duy, không bảo vệ cho em sao ?

-Không, anh ta sợ.

            Hai người chợt cảm thấy lạnh. Vào trong quán cà phê, họ hơi nóng ấm tỏa khắp. Vào giờ này uống cà phê mất ngủ, nhưng Thụy và Thúy Hà vẫn cứ uống.

            Thụy nói:

-Anh chờ đợi em, lâu đến bao nhiêu năm, anh vẫn luôn nghĩ là có em.

-Tùy anh, Thúy Hà nói.

 

 

                                                                 IX  

 

 

            Sau buổi họp ban, Thụy được nghỉ ca để về nhà chuẩn bị cho chuyến đi hành quân ngày mai lên căn cứ Vên Vên nằm sát biên giới Miên Việt, đây là bản doanh của Sư đoàn dù, và anh  sẽ đi cùng với người trưởng toán là Trung úy Ngoạn. Trung úy Ngoạn  cũng có nhà ở Sài Gòn, nên Thụy xin quá giang theo ông bằng xe Honda, đi ngang nhà thờ khu Thị Nghè ông thả cho anh xuống, từ chỗ này anh đi bộ về nhà trọ.

            Vừa thấy Thụy bà chủ nhà ngạc nhiên, anh liền cho bà ta biết về chuyến đi xa, vắng nhà từ một tuần đến mười ngày, nếu có ai tìm nhờ bà hỏi tên và địa chỉ . Trong đôi mắt thoáng lo ngại, bà nhìn anh, và lắng nghe kỹ những điều căn dặn.

            Lên phòng, Thụy xếp lại chăn màn, ngồi xuống giường nghĩ tới chuyến đi lên vùng hành quân .

            Một lúc sau, Thụy bắt đầu soạn đồ, đem đi mấy bộ quần áo, khăn mặt, kem, bàn chải đánh răng, mùng và chăn đáp. Tất cả, anh  cho hết vào cái ba lô vừa lấy ở móc treo xuống.

            Xong việc, Thụy rời khỏi nhà tìm đến quán hủ tiếu đầu ngõ . Khách ngồi đông, Thụy gọi tô hủ tiếu, ăn xong, anh đứng dậy trả tiền và đi qua quán cạnh bên uống cà phê. Loại cà phê bít tất pha rất nhanh, Thụy uống cà phê và lấy bánh tiêu để trên dĩa chấm vào cà phê ăn cho có mùi vị béo. Coi như  bữa ăn sáng này thế ăn trưa. Thụy  ăn no, thở nhẹ hơi , nhưng vẫn còn ngồi nán lại hút điếu thuốc.

            Khi rời quán cà phê, Thụy đi bộ thong thả và có ý định  xuống Sài Gòn bằng xe buýt. Đi ngang quầy vé số, Thụy móc ví  lấy mấy tấm vé đã mua đem ra dò, không có vé nào trúng cả. Thụy xé mấy vé trật vứt xuống đường, xong mua hai tấm mới sẽ xổ vào ngày mai.

            Còn một tuần nữa mới tới kỳ lương. Trong ngăn ví , tiền đã gần cạn nên Thụy đang cảm thấy lo.

            Trạm xe buýt đi Sài Gòn nằm bên kia đường, đối diện nhà thờ. Thường lệ, xe buýt trên đường này xuống Sài Gòn, mười phút là có chuyến đến. Đôi lúc, Thụy bị đãng trí, quên ngày, quên tháng. Và anh như hiểu ra rằng, sự kiện này do những mặc cảm bị ức chế từ bao nhiêu thất bại trong chuyện học hành của mình. Xe buýt đến rộng rãi nên có ghế ngồi. Thụy xuống phía dưới, ngồi ghế bên cạnh lối cửa lên xuống.

            Xe chạy, Thụy nhìn đồng hồ tay đã gần mười giờ. Dọc con đường này có nhiều trạm, nên xe chỉ chạy vài trăm mét là ngừng  lấy khách. Rồi , dần dần khách lên đông. Thụy trông thấy một người khách có vẻ quen, nhưng không hỏi, vì không nhớ tên. Bên ngoài, đường phố nhộn nhịp, đông xe đạp, xe gắn máy, người đi bộ.

            Quanh trung tâm Sài Gòn, những con đường ở phía ngoài đường nào cũng trồng nhiều hàng cây. Đường Nguyễn Du trồng me, đường Công Lý, Nguyễn trung Trực, Pasteur, trồng cây sao, cây bồ đề và có cả cây phượng.

            Bến chính xe buýt nằm đối diện với  chợ Bến Thành, gần nhà ga xe lửa, nay dùng làm trạm hàng không. Ở Sài Gòn, cũng có đường ray tàu điện như ngoài Hà Nội nhưng nay không dùng nữa. Thụy vẫn còn ghi nhớ những cảm giác trong tuổi thơ của mình về nhà ga Sài Gòn ngày đầu tiên đặt chân xuống thành phố này vào một buổi sáng sớm thành phố vừa thức giấc. Thụy nhớ mình thật thích thú khi được thấy thủ đô Sài Gòn. Và, lúc đó, Thụy ước mong được nhìn thấy sân banh Tao Đàn, sân banh Cộng Hòa, vào hai ngày cuối tuần sẽ được xem những trận cầu quốc tế giữa đội tuyển Sài Gòn và các nước khác trong khu vực Á Châu, hoặc Châu Âu. Thụy rất yêu thích môn bóng tròn, anh cũng đã là cầu thủ trong đội bóng học sinh lớp nhỏ của trường Nguyễn Hoàng. Trước khi biết Sài Gòn, những trận đá bóng quốc tế anh đọc qua các nhật báo, và nghe tường thuật trực tiếp trên đài phát thanh của ký giả Huyền Vũ .

            Xe vào bến giữa cảnh náo nhiệt, ồn ào. Bọn trẻ bán báo dạo, những người bán quà rong, các chuyến xe về bến, các chuyến xe bắt đầu đi, và lúc này, vẫn rất đông hành khách ở trạm đứng chờ những chuyến đi ra vùng ngoại thành.

            Từ bến Thụy đi bộ, nhưng cũng chưa định rõ mình sẽ đi đâu. Lúc này đã là giờ cao điểm sinh hoạt của thành phố. Sài Gòn ngày nào cũng náo nhiệt, xô bồ, luôn tạo nên sự phấn khích , ham muốn có cuộc sống. Những người quen sống ở Sài Gòn, đi đâu xa vắng chỉ một hai hôm là rất nhớ không khí Sài Gòn, ngày cũng như đêm. Thụy không là người miền Nam, người ở Sài Gòn, nhưng thành phố này là của tuổi trẻ. Thụy thích không khí buổi sáng ở những quán bán hàng rong bên đường. Vào buổi trưa, trong sự lắng yên của tiếng động , Thụy luôn có cảm giác dễ chịu một mình lang thang qua những cửa hàng bán sách báo cũ trên vỉa hè. Anh cũng rất thích buổi chiều trời mưa, ngồi trú mưa trong một quán cà phê nhìn ra ngoài, luôn trong tâm hồn anh có những ý nghĩ hay lạ về những ngưới bạn từ đâu xa đến thành phố này để tìm mình. Trong mưa, cây lá trên đường phố lúc nào xanh tươi, đẹp, gợi cảm sự ướt át trên một gương mặt. Về đêm tối, Sài Gòn đúng là hòn ngọc, đèn đô thị sáng khắp nơi, và ở đâu cũng nghe vọng tiếng nhạc phòng trà khiến bạn không thể ngồi yên ở nhà được.

            Ngang qua sạp báo, Thụy ghé vào mua một tờ rồi tiện thể đứng ngay đó đọc cọp những báo khác.  Thụy bỗng nhớ có truyện ngắn đã gởi đăng ở tuần báo Tiểu thuyết thứ năm, liền vội tìm báo này mở ra xem ở mục hộp thư. Không thấy có, Thụy về trang đầu và niềm vui đến với anh thật bất ngờ. Trong mục lục, có truyện ngắn của anh được đăng.     

            Hết sức là mừng, vội vàng Thụy bước nhanh chân. Ý nghĩ đầu tiên là có tiền nhuận bút, từ  con phố anh đang đi đến tòa soạn, không mấy xa. Khi Thụy  đến, phòng ngoài có hai người khách ngồi chuyện trò với nhà văn Thanh Thủy. Vừa trông thấy Thụy, ông giới thiệu ngay tên anh với nhà thơ Tường Linh và nhà văn Sơn Nam. Cả hai, người nào cũng đeo kính trắng.

            Thụy kéo ghế ngồi chuyện trò, và để khích lệ người viết mới ông Thanh Thủy nói nhiều đến những truyện ngắn  của anh được chọn đăng. Khung cảnh và không khí làm việc ở tuần báo này rất là quen thân, dễ chịu. Ngày mới đến Sài Gòn, Thụy có làm việc ở đây hai tháng trước khi chọn con đường đi lính vào chuyên viên Không Quân. Và sự chọn lựa của anh thực sự là điều may, vì ra quân trường Nha Trang anh chỉ học ba tháng, xong về làm việc ở Sài Gòn, phục vụ  bên phi đoàn 217 trực thăng rồi chuyển qua báo Lý Tưởng, và nhờ làm việc cho báo này anh tạo được bút hiệu, viết được nhiều truyện ngắn, bút ký, đăng ở báo ngoài để lãnh tiền nhuận bút. Có những tháng, truyện ngắn đăng nhiều, anh dành dụm số tiền này cộng với tiền lương lính, gởi về Huế cho mấy em anh ăn quà, mua sách học. Thụy  thật có tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, nhưng anh cũng rất chừng mực, không bừa bãi để chỉ biết vui cuộc sống hôm nay, chẳng  dự tính ngày mai.

            Hai ông nhà văn và nhà thơ nói chuyện về những sách mới xuất bản trong tháng này, và họ cũng nói đến giải thưởng văn học của Hội Văn Bút. Ở hội này, hàng tháng có ra tờ Tin Sách, hàng năm có giải thưởng văn học, và vị Chủ tịch của hội rất uy tín, đó là Linh mục Thanh Lãng, giáo sư  Đại Học dạy ở trường Văn Khoa.

            Khi ông Quản lý tới, hai người khách đứng lên theo ông lên phòng làm việc ở cầu thang, còn Thụy ngồi lại với ông Thanh Thủy.

-Công việc của em lúc này sao ?

-Em ở Biên Hòa, nhưng cũng có được thì giờ viết lách.

-Cố gắng đi, viết được gì  đưa cho tôi.

-Ông in được bao nhiêu cuốn sách rồi ?

-Sáu cuốn.

-Em cũng ước mơ có tác phẩm xuất bản.

-Em hãy viết truyện ngắn thêm một thời gian, rồi khởi sự viết tiểu thuyết. Tới lúc, bắt đầu tiểu thuyết, nghề văn đã hình thành.

            Thụy lắng nghe hết những lời nhà văn nói, xong anh từ tốn đáp:

-Em vẫn viết truyện ngắn thôi. Về tiểu thuyết, em nghĩ là mình cần nhiều đến kinh nghiệm sống và khả năng trong nghề văn.

            Hai người khách kia xuống, đến lượt ông Thanh Thủy bảo Thụy lên lấy tiền nhuận bút.

            Thụy  đứng lên, và khi bước qua những bậc cầu thang gỗ anh cảm thấy hồi hộp. Ông Quản lý thật vui vẻ , đón tiếp .

-Lâu nay, thấy vắng anh.

-Tôi làm việc trên Biên Hòa.

-Công việc ra sao ?

            Thụy cầm điếu thuốc Lucky ông mời, và kể sơ lược cho ông nghe về những việc anh làm ở đơn vị. Hết sức chú tâm lắng nghe, Thụy kể xong, ông gật đầu.

-Anh viết những truyện ngắn hoặc là bút ký, phóng sự trong đời sống quân ngũ đi.

-Ngày mai tôi lên vùng hành quân.

-Đi lâu không ?

-Chừng một tuần đến mười ngày.

-Ghi nhận vào sổ  tay, và viết bài cho báo của tôi.

            Thụy quá  vui mừng hớn hở. Ông tiếp lời:

-Anh đã viết khá. Tiền nhuận bút lần này được tăng.

            Thụy  có được năm trăm cho truyện ngắn vừa đăng. Ngồi trò chuyện với ông chốc lát, Thụy đứng lên kiếu từ. Khi xuống nhà,  Thụy ghé qua chỗ cô Thư ký nhận báo biếu. Cô Hoa làm việc cho tòa soạn đã lâu năm, dạo làm ở đây Thụy có phụ giúp cô trong việc phân phối phát hành báo. Báo Tiểu thuyết Thứ Năm in mỗi kỳ 5000 số, phát hành riêng Sài gòn là 2000, còn lại đưa đi các tỉnh.

            Ông Thanh Thủy hỏi:

-Lãnh tiên chưa ?

-Dạ rồi.

            Thụy  cũng cho ông hay về chuyến đi công tác ngày mai. Ông nhìn anh, trong cặp mắt tỏ lộ một niềm tin cậy về thế hệ mới của những người viết trẻ.

            Ra khỏi tòa soạn,  lòng Thụy vui lên với món tiền nhuận bút bất ngờ. Thoáng có ý định xuống nhà dì Hồng, nhưng rồi, Thụy nghĩ thôi và từ tòa soạn anh về khu phố Lê Lợi , và sẵn dịp, tìm kiếm mua một ít sách báo cũ. Vì nghĩ mình viết văn còn kém, khả năng ngoại ngữ còn yếu, nên mỗi khi gặp các tạp chí cũ và những truyện dịch bán xôn Thụy đều mua để đọc, để học về cách cấu trúc câu chuyện và lối hành văn.

            Trên đường đi, Thụy nhớ Thúy Hà lạ lùng. Nàng đến thành phố này với một khuôn mặt đầy ánh sáng giữa những ngày mưa. Nàng đã cho anh có được mối tình của nàng qua âm thanh trong tiếng nói của nàng với từng câu chuyện kể. Và, như thế đó, tình anh yêu nàng  qua từng nỗi nhớ nhung là một lần như cảm thấy hao hụt.

            Khi đi ngang rạp hát Vĩnh Lợi, Thụy dừng lại chốc lát đứng xem biển quảng cáo. Rạp đang chiếu phim Le repos du guerrier. Hai tài tử đóng phim này là Robert Hossein và Brigite Bardot. Thụy nhìn qua khung lưới, nhìn thật lâu vào những tấm ảnh của BB trong mỗi cảnh phim. Thụy thích vẻ đẹp của BB. Thụy  thấy cô đào này có vẻ đẹp dễ thương, vừa trẻ thơ.

            Bỗng dưng vừa mới quay gót trở ra, Thụy nhìn thấy thành phố sáng lên giữa một vùng nắng mênh mông trải rộng từ dãy bên này qua tới bên kia. Thụy đã trông thấy nắng tràn vào thành phố thành những dòng sông. Trong lúc này tình cảm lãng mạn đến với anh quá bất ngờ, chẳng qua, nó mong muốn được làm vơi dịu trong lòng anh những nỗi buồn. Từ hôm Thúy Hà từ biệt đến nay đã hơn một tuần. Có nàng, Duy coi anh là người bạn. Nhưng nàng đã đi xa, giờ đây, giữa Duy và anh như không còn mối liên hệ mật thiết nữa. Tuy nhiên, Duy sẽ hiểu anh là một người bạn cần thiết trong mối quan hệ hoặc có sự giúp đỡ nhau. Thụy cũng lạ là giữa Duy và Thúy Hà luôn cãi nhau, giận lẫy nhau, rồi làm hòa ngay sau đó. Về phần mình, Thụy thật khó nói nên lời. Nàng biết anh yêu nàng, đã khóc thầm với mối tình , vậy mà, rất nhiều lúc nàng muốn nói, bỗng dưng ngừng lại. Không phải do bản tính rụt rè, nhưng có lẽ rằng, nàng quá thấu hiểu một mối tình lặng câm, vừa chua xót của hai người.

            Một quầy sách lớn xuất hiện, nó ở cạnh hiệu thuốc tây đang bày ra những sách vừa mới xuất bản trong tuần. Thụy vừa dừng bước , đã thấy choáng ngợp. Sách mới, in rất đẹp, nhưng giá tiền đắt. So với các hiệu sách bên kia đường, thì ở đây, bạn mua sách được bớt từ 30 đến 40% trên giá bìa. Những cuốn tiểu thuyết dịch trưng phía ngoài, nằm  ở hai cánh bên với các tựa  Một thời để yêu, một thời để chết, Mùa thu lá bay, Về miền đất hứa, Người vợ cô đơn, Dừng cơn gió loạn  thật là hấp dẫn, bắt mắt,  thu hút sự tò mò của Thụy. Nhưng rồi, anh đã có sẵn ý nghĩ, đợi một thời gian vài tháng sau nó sẽ xuất hiện trên những hàng sách cũ bán xôn.

            Bên kia ngã tư, dọc từ dãy quán đầu đến gần trụ sở Quốc Hội, phía này thuộc khu vực những gian hàng buôn bán sách, báo cũ. Hồi mới vào , Thụy mua được những sách giáo khoa về Triết và đã gởi những sách này về cho Thúy Hà học.

            Thư nàng viết hồi âm cho anh ngay sau khi nhận được sách. Lá thư thật dễ thương, cảm động. Và, từ ngày đó quen nhau qua buổi học đầu tiên, những kỷ niệm gì của nàng, Thụy đều cất giữ bằng cả tấm lòng một người bạn.

            Có tiếng còi hụ giờ trưa vang lên. Ngoài đường, xe qua lại như mắc cửi. Những quán ăn , quán nước bên đường đông khách tới ngồi. Tại gian bán sách đầu tiên, Thụy ngồi xổm xuống, mắt tìm kiếm những sách được trưng bày. Nhưng ở đây chỉ có báo Nhân Loại, Tân Phong, và hầu hết là sách giáo khoa trung học.

            Thụy đứng lên, sang quán bên cạnh. Có hai số báo Sáng Tạo cũ, và cuốn truyện dịch Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh. Rồi bất ngờ, anh tìm ra tập truyện Mưa của nhà văn người Anh Somerset Maugham.  Khi người bán cho giá, anh kỳ kèo và được bớt chút ít. Anh bán sách cũng bằng lòng, rồi lấy những sách Thụy đã chọn cho vào túi nylon. Khi nhận sách anh ta đưa, Thụy nói lời cám ơn.

-Hút điếu thuốc cho vui.

            Thụy cầm điếu thuốc Mélia vàng anh mời, đứng hút và chuyện trò với anh ít phút.

-Anh là người Qui Nhơn hay Tuy Hòa ?

-Anh đoán sai. Tôi ở Nha Trang.

-Tôi cũng mới ngoài đó về đây.

-Anh làm gì ngoài đó ?

-Thì đi lính. Tôi là lính Không Quân.

-Vậy hả. Anh chịu khó đọc sách.

-Ờ đọc giải trí cho vui.

-Những sách báo anh mua rất là hay.

-Tôi cũng mê đọc truyện.

-Anh có mê kiếm hiệp không ?

-Không mê lắm, nhưng có đọc vài bộ.

            Người đàn bà trẻ mang cơm đến, Thụy lên tiếng chào, được anh ta giới thiệu bà xã của anh.

            Người vợ nhắc:

-Anh ăn cơm đi.

            Anh ta nhìn Thụy, nói:

-Khi nào cần mua sách gì, ghé đây nghe.

            Thụy  gật đầu. Ở gian sách kế bên, bán sách báo ngoại ngữ. Thụy lướt mắt nhìn thấy hầu hết là sách báo chuyên môn, khảo cứu. Có ở gian hàng này những báo Thế Giới Tự Do, Đối Thoại, Triển Vọng và Văn Hóa Á Châu.

            Thụy  không mua gì cả. Rồi bất chợt anh nhớ ra một lần trước có mua một ít sách về hội họa gởi cho cô Thiên Nga, thì bây giờ, anh thực sự mong đi tìm ra được những loại sách đó.

-Ủa, mày đi đâu đây ?

-Anh Dương.

-Kéo chiếc ghế con ngồi đi.

            Thụy ngồi xuống ghế, đưa mấy cuốn sách vừa mua cho anh xem. Anh coi qua từng cuốn, còn người đàn bà đang bán sách cho khách hàng.

-Chào chị, Thụy lên tiếng.

            Người đàn bà đáp lời ,  nhìn Thụy vẻ dò xét, vừa tỏ ra thân thiện. Anh Dương hỏi:

-Lâu nay, mày làm ở đâu ?

-Em làm trên Biên Hòa.

-Không đoàn 23.

-Không, em làm bên ASOC.

            Thụy cầm điếu thuốc anh mời, tiện hỏi:

-Quán sách này của anh ?

-Ờ ,  của bà đây.

-Hôm nay anh được nghỉ.

-Làm gì, chút nữa tao tới nhà in.

-Báo Lý tưởng in xong chưa ?

-Đang in, gần xong.

-Lúc này, anh có viết thêm cho báo nào không ?

-Có. Anh đang đi  feuilleton cho báo Độc Lập.

-Truyện dài mới.

-Truyện mới. Hôm nay , kỳ thứ mười.

-Em không hay.

            Anh Dương đưa Thụy  tờ báo Độc Lập. Thụy mở trang trong, thấy truyện dài Người Lính Hào Hoa.

-Cuốn này đúng đề tài của anh.

-Mình phải viết, chứ mấy ông phi công bận đi bay đâu có thì giờ.

-Em sẽ theo dõi truyện dài  của anh.

-Ờ,  tao viết cũng để kiếm tiền.

            Thụy không hỏi thêm, nhưng lúc này dễ dàng nhớ lại những buổi đầu làm việc với anh ở phòng báo chí. Khi Thụy vừa đến  quân trường, báo Lý tưởng ra mắt. Báo được phân phối, Thụy đọc thấy hay, sau đó, anh lấy một truyện ngắn viết trong Đặc San gởi về Tòa soạn. Truyện ngắn anh được đăng, có sửa chữa một vài chi tiết kể cả câu văn. Người sửa là anh Dương đây. Anh Dương là nhà văn tên tuổi trong quân đội, trước khi theo nghề báo anh làm việc bên ngành Không lưu. Thời trước đi lính, anh qua Pháp học ở trường Cơ khí Rochefort như Thượng Sĩ Trạch. Về nước, vừa làm việc, anh vừa viết văn cho các báo Thần Chung, Nhân Loại, và khi tờ Lý Tưởng ra mắt, anh là người đầu tiên được vị Tư lệnh để mắt đến. Về phần Thụy, mãn khóa tân binh anh về Không đoàn 33, do có chỉ số hành quân nên sau khi trình diện bên Liên đoàn tác chiến, anh được đưa đến làm việc ở Phi doàn trực thăng 217. Trong giấy tờ, chức vụ của anh là thư ký hành quân, nhưng thực sự, công việc chẳng có gì là quan trọng cả. Thụy và một bạn cùng khóa - Tài,  hai đứa làm thay ca, hàng ngày, những công việc linh tinh như gọi đài khí tượng để ghi tin tức thời tiết, sau đó, làm phần hành ghi sổ trực những phi vụ hành quân từ Liên đoàn tác chiến gọi tới, cho đến đầu hàng tuần lập danh sách cơ hữu về nhân viên và phi cơ, cuối tháng là cộng giờ bay cho các phi công.

            Không khí làm việc ở phi đoàn thoải mái, dễ chịu. Các phi công đều còn trẻ, từ cấp bậc Chuẩn úy đến Trung úy, mỗi ngày, ở phòng hành quân thường có đến mười phi công trực, ban đêm tăng cường một số nữa. Ở phi đoàn trực thăng, các phi vụ thực hiện là tiếp tế, tản thương, và đổ quân. Thụy có được những dịp trò chuyện với các Sĩ quan trẻ nên được hiểu biết thêm về phi công và phi cơ, được nghe những câu chuyện các phi công này trong những phi vụ ngoài chiến trường, và có hai lần Thụy theo chuyến bay, một chuyến xuống Cần Thơ đưa người tăng phái, và một chuyến tản thương đêm ở chiến trường Hậu Nghĩa. Sau phi vụ  này, Thụy có viết được một truyện ngắn và một bài phóng sự, cả hai được đăng lên báo Lý Tưởng. Nhớ bài báo trên, Thụy được gọi về báo Lý tưởng, và được làm việc chung với anh Dương một thời gian, nhưng rồi, lại rời Sài Gòn trở ra Nha Trang học đúng theo ngành chuyên môn của chỉ số ấn định.

-Ngày mai em đi biệt phái .

-Ở đâu.

-Tây Ninh.

            Thụy thèm cà phê, liền đứng lên gọi. Người bán quán bên kia nghe Thụy gọi hỏi bao nhiêu ly, Thụy nói ba, nhưng chị Dương không uống. Thụy cười  nói với anh Dương:

-Em mới lãnh nhuận bút, mời anh ly cà phê.

            Anh Dương gật đầu. Chị Dương cũng cười, vui mắt nhìn qua Thụy. Anh Dương nói:

-Thụy  đây có viết văn. Làm việc chung với anh ở báo Lý Tưởng.

            Rồi chị Dương nhớ ra, nói:

-Chị có đọc bài của Thụy.

            Người bán cà phê mang chiếc khay qua, đặt hai ly cà phê ở chỗ Thụy và anh Dương ngồi. Anh Dương hỏi Thụy:

-Em có bằng Tú Tài sao không xin đi Sĩ quan.

-Em đã nộp đơn xin đi phi hành .

-Nộp rồi hả.

-Dạ rồi.

            Thụy uống một hớp cà phê cảm thấy tỉnh táo. Anh Dương lấy gói thuốc đưa Thụy một điếu.

-Em đã qua được sức khỏe.

-Khi nào có giấy gọi tin cho anh hay.

-Em hơi yếu về mắt nên chỉ học loại trực thăng.

-Học loại nào cũng được. Gắng đi, ít năm nữa thành sĩ quan.

-Em cũng thấy lo.

-Sao mà lo.

-Không biết nữa, anh cảm thấy vui, nhưng luôn lo lắng.

            Hai người im lặng. Anh Dương nhìn đồng hồ, Thụy biết anh sắp đi nên cũng vội vàng đứng lên. Trước khi đi, Thụy và anh còn nói lại chuyện vừa rồi, lúc ấy như tia sáng giúp Thụy cảm thấy có sự tin cậy về tương lai của mình.

            Ngày hôm sau, Thụy lên đơn vị chờ chuyến đi. Nhưng cả Thụy và Trung úy Ngoạn chờ đến gần trưa, giờ đó mới có chuyến bay Chinook lên vùng hành quân. Tới đây, Trung úy Ngoạn liên lạc về ASOC, xong xuôi, ông quay sang Thụy nói cho anh biết là chuyến đi biệt phái kỳ này kéo dài đến hai tuần lễ.

 

 

                                                         X

 

 

            Lần đầu tiên bà Huyên gặp lại cô gái, kể từ một buổi sáng hè năm ngoái cô đến đây, mới đó, đã qua hơn một năm.

            Khi còn đứng trên bậc thềm cửa, bà trông thấy cô gái đang cắt tỉa những ngọn lá, nhánh cây, và chăm sóc từng cánh hoa, nhìn bóng dáng thiếu nữ hiện lên trong nắng sớm lòng bà nghe trỗi dậy một ni?m thương mến và cảm thấy những giây phút hạnh phúc đang được gửi tới, riêng cho đời mình.

            Từng bước chậm, bà Huyên đi trong dáng vẻ an nhàn, tự tin. Với bộ quần áo nhẹ vàng nhạt, khoác ngoài chiếc áo len màu cà phê, bà có cái dáng thật cao nhã, đẹp thuần hậu qua mái tóc bạc trắng, gương mặt đầy đặn, đôi mắt còn lấp lánh những tháng ngày tìm lại tuổi thanh xuân.

            Hoa, cây lá, cũng là một thứ tình yêu giữ rất lâu trong tâm hồn cô gái. Ánh nắng in xuống vai áo hồng của cô. Không để ý gì chung quanh, lúc này, cô ngây người ngắm từng bông hoa đã nở rộng hết các cánh.

-Chào cháu.

            Cô gái hơi giật mình, quay đầu lại.

-Dạ, cháu chào bà.

-Bà thấy cháu thật là dễ thương. Cháu đã làm sáng đẹp cảnh trí của nhà bà.

-Cháu rất thích chăm sóc cây cối, bông hoa.

-Và, cháu cũng là một cô gái xinh đẹp.

-Cám ơn bà.

            Hai người bên nhau trong nắng ấm của những ngày đầu thu. Những ngày thu luôn mang dáng vẻ buồn dịu dàng, nhưng thật mới mẻ.

-Cụ ông khỏe không bà ?

-Đã yếu đi nhiều.

-Cháu thấy bà vẫn còn mạnh.

            Bên ngoài, con đường không một chút vẩn đục. Tất cả nhẹ êm, sáng sủa. Dòng sông chảy hiền hòa, những hàng cây dọc theo bờ sông phủ kín lá xanh mướt. Dòng sông trôi đi, trong lúc này ánh nắng từ đâu xa tràn tới phủ kín lên chiếc cầu. Đây là khu nhà ga, luôn gần gũi thân mật. Ở khu phố này khi có đoàn tàu ở các tỉnh về đến, lúc nào bạn cũng được nghe nó báo hiệu một hồi còi vang vọng thật dài và rất lâu.

-Cháu vẫn thường về thăm nhà ?

-Dạ, cũng có về nhưng không thường lắm.

            Cô gái lễ phép lên tiếng mời bà chủ vào nhà mình. Yên lặng, bà Huyên theo chân cô gái bước lên bậc thềm vào nhà.

            Căn phòng phòng khách sáng hẳn, những sự vật bày biện đang lộ ra sự vẻ hớn hở để đón tiếp bà chủ nhà. Cô gái mời bà Huyên ngồi xuống chiếc ghế nệm, rồi cô đi ra phòng sau. Một lúc cô trở lại với khay trà, và để  nhẹ xuống bàn.

            Trong khi cô gái rót nước vào tách, bà Huyên nói:

-Bà rất hài lòng về cháu.

-Cám ơn bà.

-Cháu tên gì ?

-Cháu tên Nga.

-Đúng là cái tên thể hiện con người của cháu.

-Mời bà dùng nước.

            Bà Huyên cầm tách trà lên uống một hớp.

-Nhà vườn có bông mộc, cháu bỏ vào trà cho thơm.

-Dạ.

-Cháu đi dạy hay còn đi học.

-Cháu vẫn còn đi học.

-Cháu học trường nào ?

-Dạ, trường Mỹ Thuật.

            Bà Huyên  gật nhẹ đầu, ánh mắt lan rộng cả  niềm vui. Thật chú tâm, bà Huyên nhìn những bức tranh vẽ treo tường. Bà khen cách trang trí của cô gái. Bà nói:

-Cháu chọn những bức tranh thật dễ thương.

-Những bức này cháu vẽ lấy.

-Giỏi quá.

            Bà ngắm cô gái, đôi mắt bà hạnh phúc lạ thường. Và, theo ý mong của bà Huyên, cô gái đưa bàn tay ra cho bà nắm giữ. Giọng thân tình, bà Huyên nói:

-Rất tiếc, con trai bà đã lập gia đình.

            Cô gái bỗng thấy ngượng nghịu, bối rối. Rồi bà tiếp lời:

-Hạnh phúc cho ai được gặp cháu.

-Cám ơn bà có lời khen cháu.

-Không, bà nói thực lòng. Cháu ở đây thấy ra sao ?

-Dễ chịu lắm, thưa bà.

-Cháu nói thực lòng chứ.

-Dạ, cháu rất thực lòng.

-Nào, cho bà xem cuộc sống của cháu.

            Cô gái đứng lên mời bà Huyên vào phòng sinh hoạt của mình. Và, sự ngạc nhiên đến thích thú khi bà nhìn thấy căn phòng cô gái ở rất ngăn nắp, gọn gàng và sạch sẽ.

-Cháu thật là một cô gái hoàn hảo.

-Dạ, cám ơn bà. Cháu thật hạnh phúc trước những lời khích lệ của bà.

            Không nói gì thêm, bà nhìn ngắm những bức tranh cô gái vẽ. Những nét vẽ ấn tượng, màu sắc tươi sáng, trước mỗi bức tranh bà cảm thấy như mình được trở về lại những tháng ngày xưa.

-Nga,  cháu đi theo bác.

            Cô gái vâng lời, bước đi theo. Ra ngoài phòng khách, bà chủ nhà lấy chìa khóa mở một cánh cửa đi qua phòng bên.

            Đây là căn phòng còn bỏ trống. Ở bên trong bức màn, gia đình cất những thứ đồ đạc riêng, nay không cần dùng đến.

            Nhìn gương mặt cô gái, bà nói:

-Bà dành cho cháu căn phòng này để vẽ tranh.

            Cô gái thoáng có chút lo ngại.

-Này cháu, bà hiểu ý. Không, cháu đừng nghĩ ngợi. Bà muốn dành cho cháu căn phòng này vì cháu yêu nghệ thuật. Chỉ có cháu, bà mới mở cửa căn phòng này. Đây là phòng tranh của cháu.

            Giọng ngập ngừng, cô gái hỏi:

-Mỗi tháng bà cho cháu trả bao nhiêu.

            Bà Huyên ngẩn người. Nhưng rồi nhìn vẻ mặt lo ngại của cô gái, bà hiểu.

-Không, bà không lấy tiền đâu. Bà dành cho cháu, cháu hãy dùng căn phòng này để vẽ tranh.

            Một giọng xa vắng, bà tiếp lời:

-Nhưng rồi, đến một ngày cháu xa khỏi đây, xa khỏi thành phố này. Về sau, khi cháu rời căn nhà này, xin cháu gởi lại cho bà một vài bức tranh cháu vẽ để kỷ niệm nhắc bà luôn nhớ đến cháu.

-Vâng, cháu xin hứa với bà.

-Bà rất thương cháu.

            Niềm vui quá bất ngờ, cô gái nói:

-Thưa bà, hôm nay là ngày sinh nhật của cháu.

-Vậy sao ? bà chúc mừng ngày vui hôm nay của cháu.

            Rồi bà Huyên rút chiếc chìa khóa đưa cho cô gái.

-Đây, cháu cất giữ.

-Cháu cám ơn bà.

            Nga theo chân bà Huyên xuống khỏi bậc thềm tam cấp.

-Bà về nghe cháu.

-Dạ, bà về.

            Nga trở lại chỗ khóm cây, nàng dọn dẹp những cánh lá, cánh hoa và nhánh cây tỉa ruing vương rãi trên mặt đất. Bằng lối đi bên hàng rào, nàng cầm túi rác bỏ vào thùng xong đi tới bể nước rửa tay.

            Nga trở lên nhà, trong trạng thái hân hoan và nàng nghĩ tới phòng tranh đặc biệt của mình. 

            Căn phòng lặng yên như thể mong đợi nàng lên tiếng. Ngay lúc này, nàng nghĩ tới việc dời những bức tranh bên phòng vẽ chỗ ở của mình, qua phòng mới, và từng bức một với nghệ thuật trang hoàng tranh thật khéo léo, cân xứng như nghệ thuật cắm hoa, Nga làm cho bức tường trở nên sinh động, đầy ánh sáng qua màu sắc khiến bạn có ngay cảm tưởng, mỗi bức tranh là một khuôn mặt hiện hữu ngoài cuộc đời. Và, hôm nay, cái cơ duyên của bà Huyên đem đến cho nàng, trở nên một sự tái tạo và trưởng thành khi nàng nghĩ đến cuộc đời mình. Ngày mai, đầy ắp những hứa hẹn. Và, ngày mai, cũng luôn luôn là những ngày tháng của mỗi mùa, trong cái tốt tươi, hạnh phúc.

            Lúc nãy, mới bước chân vào căn phòng này, nàng giữ lấy một cảm giác có tính cách ước lệ, vừa thầm kín, nhưng giờ, là trước mắt nàng là một thế giới nhỏ bé được dựng lên thật bao dung, hài hòa. Từ một góc ánh sáng bên cửa Nga nhìn căn phòng, bất chợt nàng có ý nghĩ đây là một khung cảnh của sân khấu, và nàng đang tập diễn cho mình một vai kịch. Không chỉ đứng nhìn tranh vẽ của mình với tâm cảm của một người sáng tác, mà trong sự thưởng ngoạn nghệ thuật, Nga cũng đang ngây ngất với từng nét đẹp duyên dáng, vừa chân thực của tình yêu. Nga bỗng nhắm mắt lại, đây là giây phút huyền nhiệm, và nàng đã có ngay trong trí tưởng một bức tranh thật mới lạ, đầy ánh sáng của màu nắng và cây lá, mỗi màu là một niềm vui, mỗi màu là tiếng nói từ ngoài cuộc đời đưa nàng vào trong sự thể hiện của nghệ thuật.         

            Những giọt mồ hôi trên trán nhỏ xuống, cảm giác của vị mặn trên môi làm Nga nhớ nghĩ đến Nguyên. Và, người yêu của cô, một bóng hình đâu đó, thật rất gần bên cô.

            Nga trở về phòng mình. Nàng xuống bếp, chiếc khăn mặt vắt trên vai, cả mái tóc đổ xuống khi nàng múc nước rửa mặt. Sau khi rửa mặt xong,  Nga thong thả nghĩ đến bữa ăn trưa, mà hầu như nàng không dự tính trước. Ăn gì đây, nàng cất tiếng hỏi đôi mắt hiền dịu đang đứng nhìn chung quanh gian bếp đã nguội lạnh, không có một chút lửa từ sáng đến giờ. Nhưng rồi, nàng chú ý đến mấy thứ thức ăn mua sẵn chiều qua để trên bàn, trong thoáng nghĩ, nàng nghĩ đến một vài món ăn sẽ làm chiều nay để mừng sinh nhật của nàng.

            Nga nghĩ đến món ăn nhẹ. Nàng xách chiếc ấm ra bể lấy nước, đặt lên bếp đun sôi, và trong khi chờ nước sôi reo, nàng làm món mì gói, có cải, tôm và trứng. Đây là món đơn giản, nhưng với tài khéo tay làm bếp, món ăn này của nàng luôn hấp dẫn.

            Khi nước bốc hơi, Nga vẫn để nước sôi thêm chút nữa rồi mới nhấc ấm, và từ từ nàng cho nước vào tô mì, xong lấy một cái dĩa đậy úp kín đợi lâu chừng hơn một phút, mì vừa chín tới.

            Ngày chủ nhật bình yên. Nga ngồi ăn ngoài phòng khách. Bỗng nhiên nàng chợt nghĩ, từ một ngày ấy đến giờ, nàng ở căn nhà thuê này một mình, nhưng không lúc nào nàng cảm thấy lẻ loi, cô độc cả. Nàng luôn cảm thấy hạnh phúc với cuộc sống, với không khí, cảnh vật quen thuộc, và hơn thế nữa, nàng luôn có Nguyên ngay cả lúc này đây vắng chàng. Hầu như, Nguyên vẫn hiện diện về bên Nga mỗi ngày.

            Bữa ăn trưa ngon. Nga đứng lên đem chiếc khay ăn vào nhà để xuống chậu thau dùng rửa bát bên cạnh bể nước, xong nàng trở lên phòng khách, ngồi một mình uống trà thật thú vị trong sự yên tĩnh, rồi bỗng nhiên nàng khép mắt lại như đó là giây phút thần diệu của người họa sĩ nghĩ đến một bức tranh vẽ chân dung.

            Khi cảm thấy trong cõi tiềm thức có một sự lay động êm dịu, nhẹ nhàng, Nga đứng lên, đi vào phòng nghỉ của mình. Trên mặt gối, tóc nàng xõa rộng. Nàng đọc tờ tuần báo Kịch Ảnh, số mới nhất, ra Huế ngày hôm qua.

            Bài điểm phim của nhà văn Mai Thảo về cuốn phim The Snows of Kilimanjaro thật hay. Hai tài tử chính đóng trong phim này là Gregory Peck và Ava Gadner. Nàng đã coi nhiều cuốn phim Gregory Peck đóng, nhớ nhất là phim To kill a Mockingbird. Nàng cũng rất yêu thích nét đẹp lãng mạn, phong trần của nữ tài tử Ava Gadner. Nguyên cho nàng biết, nữ tài tử này, gốc Mễ Tây Cơ, cô ta đóng rất nhiều phim phỏng theo tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Enerst Hemingway, và anh có điều ngạc nhiên, trong phim A farewell to arms, đạo diễn không chọn cô ta đóng vai Catherine mà lại chọn Jennifer Jones. Phim A farewell to arms được quay hai l?n, đều cùng một nữ tài tử Jennifer Jones đóng, nhưng vai cô ta đóng không lột tả hết tính cách nhận vật chính trong truyện.

            Thiên Nga đã thiếp ngủ , căn phòng lắng im không tiếng động. T? báo buông rời khỏi tay nàng, nằm bên cạnh chiếc gối. Và, hơi thở nàng nhẹ, vừa dễ gây niềm xao xuyến. Nàng đẹp trong sự yêu thương trên gương mặt, và nàng đang ngủ ngon giấc. Bên cạnh dòng thác đang tuôn chảy, con đường đèo uốn quanh dẫn nàng đi xa lên thành phố miền cao nguyên. Nga đang nằm mơ thấy mình đi trên một chuyến xe ca vượt từng quãng đèo, cảnh vật hai bên là rừng núi, ghềnh thác. Trời không mưa, nhưng gió lạnh ùa vào khoang xe, và nàng ngồi ở chiếc ghế dựa bên cửa xe nhìn sương mù bao phủ cả một vùng không gian xa lạ, thật là thơ mộng. Trong xe, có tiếng nhạc, có cả tiếng nói của hành khách, nhưng riêng nàng vẫn một mình. Và rồi, quang cảnh thành phố hiện ra, giống thư thể lúc này nàng đang nằm mơ vậy. Nàng hết sức ngạc nhiên trước khung cảnh một thành phố nằm giữa một không gian của núi và rừng bao quanh. Khi xe chạy ngược về phía con đường dốc, nàng trông thấy những biệt thư nằm trên các ngọn đồi, những ngôi nhà màu ngói đỏ tươi bên cánh rừng, những vườn hoa xinh đẹp, chim chóc bay qua trên hồ nước, và ánh nắng sớm đang dần dần làm loãng tan những đám sương mù dày trên các góc phố.

            Nơi thành phố ấy nàng đến là Đà Lạt. Lúc này, trong giấc ngủ thật êm dịu, nàng vừa nhận ra được bóng dáng mình, và nhớ lại một mùa hè ấy nàng mới mười lăm tuổi. Nàng đến thành phố này để thăm một người anh ruột. Anh của nàng đi xa nhà đã lâu, và anh đang sống trong thành phố này ở căn nhà thuê chung với gia đình một người bạn thân.

            Khi cô gái đến,  sự xuất hiện của cô làm mọi người ngẩn ngơ, thấy cô đẹp như là thiên thần. Từ buổi gặp đầu tiên, những người trong nhà ai cũng quí mến, mỗi ngày ai cũng ai cũng dành được ở bên cô, ngắm vẻ đẹp dễ thương của cô, nghe giọng nói của cô như tiếng chim hót, và sự săn sóc dành cho cô là những món quà cô yêu thích.

Người anh của cô, sau buổi đi làm việc ở sở về, là để hết thời gian dành cho cô với mỗi buổi chiều là một cuộc dạo phố, đi mua sắm, đi tới các tiệm ăn, mỗi cuối tuần là đến một nơi có nhiều thắng cảnh đẹp rừng Saint Benoit, hồ Than Thở, thác Cam Ly, thác Prenn, thác Gougha, hồ Xuân Hương, tu viện Domaine de Marie.

            Ngôi nhà ấy nằm ngang lưng dốc đường Duy Tân, bên kia đường là những hàng cây trồng anh đào và mimosa, ở sau lưng nhà, nhìn xuống bên dưới con đường là một ngôi trường trung học, về sau này, tôi mới nói cho cô gái hay tôi đã học ngôi trường đó, tôi đã ở thành phố đó vào thời gian cô đến thăm. Khi nghe tôi nói vậy, cô gái đã nhìn tôi bằng cặp mắt thân thiện, và bạn biết không, chỉ trong cái nhìn ấy mà bao nhiêu ý tưởng về hạnh phúc, về kỷ niệm, về tình yêu bỗng gợi nhớ lên trong sự hồi ức một thành phố cũ của tôi thời niên  thiếu, ngày xa ấy, tôi thấy bóng dáng buổi chiều sương mù trên các ngọn đồi, tôi nghe tiếng thông reo lưu luyến hoài mong những dư âm của tiếng đàn vĩ cầm, và tôi được ngắm nhìn từng mùa hoa nở, đáng yêu nhất là hoa mimosa và hoa anh đào. Tôi chỉ học ở Đà Lạt  hai năm,  rồi đi xa. Rồi một ngày đó, tôi nhận được lá thư của cô gái, cô cho tôi hay rằng người anh của cô đã chết, anh ấy chết khi chưa có gia đình, hay tin cái chết của người anh, cô đã khóc sướt mướt, thảm thương như  thể một người vợ chưa cưới. Lá thư viết dài, cô kể lại cho tôi nghe một mùa hè tuyệt vời của năm ấy, cô nói nhiều về tình cảm người anh của cô, và hiện giờ cô vẫn còn giữ lại kỷ niệm chiếc áo đầm  học sinh màu xanh có dây thắt lưng màu hồng tím rất là đẹp.

            Một hôm ấy, ngồi bên nhau cô gái hỏi:

-Bao giờ mùa hè mới trở lại anh nhỉ ?

-Cô cứ nhìn những chiếc áo cô mặc sau mỗi mùa.

-Anh cũng như thế chứ.

-Không đâu cô. Tôi chỉ có một màu áo thôi, đó là màu của núi rừng.

-Màu ấy, trông thật hoang dại.

-Tôi  chỉ có mặc một màu áo đó. Vì tuổi trẻ của chúng tôi thuộc về chiến tranh.

-Anh không có được những ngày nghỉ hè sao ?

-Không, cô. Những lúc nào tôi cũng nhớ, và bên cô, trong giọng nói của cô, lúc này đây tôi là kẻ trở lại một mình với thời niên thiếu.

-Người anh của em chết thảm thương quá.

-Cô thật đẹp và có lòng nhân hậu.

-Anh vẫn còn giữ những lá thư của em đó chứ.

-Tôi vẫn còn giữ lá thư của cô và nhiều hình ảnh khác nữa.

-Rồi thời gian cũng phôi pha.

-Với cô, trong niềm phôi pha, luôn luôn tôi vẫn thấy những hình ảnh sáng đẹp của cô.

            Khi nghe tiếng chuông nhạc trên đồng hồ treo tường, Thiên Nga bừng tỉnh khỏi giấc mơ, thức dậy. Nàng thức giấc với một cảm giác dễ chịu, và nàng cũng biết rằng, lúc này buổi chiều đã tới.

            Bên ngoài cửa, có tiếng nói thân quen của ba cô gái.

            Vừa gặp nhau, các cô cùng cất tiếng cười vang. Rồi ở ngay phòng khách, bốn cô ngồi xuống, ba cô đem hết những quà tặng của mình ra khoe, còn Nga, nàng luôn là biểu tượng của hạnh phúc.

            Phương, em gái Nguyên tặng cho người chị dâu tương lai một cuốn album và một tập ảnh phong cảnh về Hà Nội thuở xưa. Loan, tặng cho Nga bốn cây cọ và hộp sơn màu nước. Liên An nhìn Nga, nụ cười trong cặp mắt đen lánh. Cô gái muốn để cho Nga tự tay mở sợi dây buộc gói quà. Và, quà tặng của Liên An là một khung ảnh lớn.

            Nga nhận quà xong, nàng để một vài giây cho căn phòng thật là nồng ấm, rồi chút sau lên tiếng:

-Mình vừa mới mở một phòng tranh ?

            Tất cả ba cô gái nhìn Nga, kinh ngạc.

-Mời các bạn bước qua phòng tranh của mình.

            Ngay khi Nga nay cánh cửa bên, những bức tranh của nàng mới treo xong lúc trưa dậy lên như một luồng sáng. Bốn người bước vào, những bức tranh đã xem trước đó, giờ là những bức tranh mới hẳn mang trọn vẹn một ý nghĩa về giá trị nghệ thuật khi nó có được vị trí của mình trong căn phòng này.

-Hay quá, nhưng làm sao chị có  cơ duyên này, Liên An hỏi.

            Bằng một giọng nhỏ nhẹ, thân tình, Nga kể lại câu chuyện sáng nay của nàng và bà chủ nhà.

-Vậy là  là ngày sinh nhật của chị hôm nay đáng nhớ hơn bao giờ hết.

-Chị cám ơn Phương.

            Sau một lúc khá lâu đứng ở phòng tranh, giờ bốn cô qua phòng khách. Vừa ngồi xuống, cả bốn người tranh nhau nói về thực đơn của mình dành cho một tối sinh nhật.

            Liên An chợt hỏi:

-Nãy giờ, chị Nga giấu anh Nguyên đâu ?

-Anh Nguyên đi đặt bánh.

-Loan  sẽ làm món bánh lá.

-Phương  là món bánh xèo.

-Liên An chỉ chờ tới giờ ăn thôi. Nhưng mình cũng có thể làm được món chả giò.

-Hay lắm.

            Rồi cả bốn cô cùng đứng dậy, rộn ràng đi xuống bếp. Tự trưa, bếp nguội lạnh, giờ có lửa sáng, đã nghe ồn lên với những tiếng nói yêu đời của bao cô gái.

            Nga nói với các bạn, nàng làm món mì Quảng và món xôi gà.

            Loan bỗng lên tiếng:

-Mình làm nhiều món quá, làm sao ăn hết ?

-Đừng lo, chúng mình ăn sinh nhật buổi tối mà.

            Phương hỏi:

-Anh Nguyên có mời bạn anh đến không ?

-Không, anh Nguyên chỉ dành cho chúng mình thôi.

            Nguyên được từng cô gái nhắc đến tên, và một vài mẩu chuyện của anh thời trước.

-Em chưa hề hay biết buổi gặp đầu tiên của chị Nga và anh Nguyên.

-Tối nay, chị sẽ bảo anh Nguyên kể cho .

            Liên An nói:

-Em muốn anh Nguyên kể hết chuyện các cô nàng anh quen.

-Anh ấy sẽ chiều ý Liên An.

-Còn chị thì sao ?

-Bao nhiêu chuyện của anh, chị nghe kể hết rồi.

            Loan hỏi Nga.

-Có mấy phút chị buồn ?

-Hơn một giây.

            Ngọn lửa bếp cháy sáng lên làm đỏ hồng gương mặt các cô gái, và lúc này các cô đang chuyển qua những đề tài về chuyện học hành, thi cử, chuyện tình lãng mạn trong yêu đương của chính mình, bạn bè.

            Loan  lên tiếng hỏi:

-Chị Nga thích làm cô giáo không ?

-Đó là ước mong của mình.

-Chị không thích làm họa sĩ sáng tác.

-Mình rất thích vẽ, nhưng không là họa sĩ, sự nghiệp to tát quá.

-Ở thành phố nào mà có chị Nga đến, sẽ là thành phố đẹp.

            Nga đưa mắt nhìn qua Phương, nàng hiểu được bao nhiêu ý nghĩ dễ thương của cô em gái Nguyên dành cho nàng. Và, lúc trưa nằm nghỉ nàng đã mơ thấy một thành phố trong cái đẹp huyền nhiệm của thiên nhiên. Nguyên cũng nói, tên của nàng là một thành phố trong con tim.

-Em chọn học Luật, muốn trở thành Luật sư.

-Em mong năm tới lên Đại Học.

-Liên An thì sao ? Đã có tin đi du học chưa ?

-Vẫn chưa.

-Vẫn còn chờ.

-Vâng, em đợi chờ.

-Liên An nên đi ngành ngoại giao, Loan nói.

            Nga mỉm cười nhìn qua Liên An. Vừa xem Liên An là một người bạn, vừa coi cô như em gái của mình, Nga rất mến Liên An. Về Liên An, cô thật hạnh phúc mỗi khi nói về Nguyên. Nguyên cũng là một lý tưởng của Liên An.

            Phương bỗng phá ngang giấc mộng, cô nói:

-Với  giấc mộng nào đi nữa, chị em mình rồi cũng chỉ làm đến chức nội tướng mà thôi.

            Bốn người cùng cười vang. Buổi chiều đi quá nhanh. Bên ngoài, nắng đã tràn qua hết phía bên kia sông. Hàng cây trên bến nước, nắng ở đó treo từng cụm vàng óng, và hình ảnh dãy nhà tu viện dần dần vươn lên cao khỏi bóng nắng.

            Từ đơn vị, Nguyên lái xe về nhà, tắm rửa xong anh thay quần áo xi vin rồi xuống phố, đến tiệm bánh Bảo Thạnh .

            Nguyên trả tiền, nhận bánh xong về nhà ngay. Ba cô gái còn ở lại nơi gian bếp làm thức ăn để mình Nga lên nhà trên đón Nguyên.

-Trời, anh lạ quá.

-Sao mà lạ ?

-Hôm nay anh thật trẻ ra như sinh viên thời trước.

            Nguyên mặc áo sơ mi kẽ sọc xanh và chiếc quần tây xám. Nga nhận nghĩ thật đúng, những lúc như thế này, Nguyên trẻ hẳn trong dáng nét cũa thư sinh.

-Anh đặt bánh ở đâu ?

-Tiệm bánh Bảo Thạnh.

            Rồi một giọng vui, Nga hỏi:

-Anh có thấy gì lạ không ?

            Nguyên nhìn quanh, bất chợt nhận ra căn phòng bên mở cửa.

-Bà chủ cho em mượn căn phòng để tổ chức sinh nhật.

-Anh đi theo em.

            Nga đưa Nguyên qua căn phòng mới, anh rất ngạc nhiên khi đứng trước những bức tranh của Nga. Hai người bên nhau, Nguyên mong tìm được ý tưởng mới.

-Em nghĩ sao ?

            Nga không đáp lời, nàng ngước lên nhìn Nguyên với nụ cười trong cặp mắt. Nguyên đặt bàn tay lên vai người yêu rồi kéo nàng lại thật gần. Nga hé môi, lặng im để cho Nguyên đặt môi hôn.

            Một giọng nhỏ, nàng nói:

-Em là của anh.

-Cám ơn em. Nghìn lần..

-Thôi, một lần mới quí.

            Nga nói, rồi nắm giữ lấy bàn tay của Nguyên. Hai người trở qua phòng khách. Bất chợt, Nguyên bảo người yêu tới đứng bên cửa mở ra sân, anh lùi một bước và đưa máy ảnh lên ngắm cái dáng nghiêng có mái tóc dài thả xuống vai của thiếu nữ , rồi hai lần bấm nút, Nguyên chụp được cho Nga hai pose ảnh thật vừa ý.

 

 

                                                       XI

 

 

            Nga trở xuống bếp một mình. Chỉ độ mười lăm phút lên đón Nguyên về mà nàng có cảm tưởng thời gian như khá lâu. M?t bu?i chi?u nay, hai người bên cửa sổ, sau cái nhìn đằm thắm, si dại trên đôi mắt, Nga đứng yên cho Nguyên xổ tung mái tóc nàng, anh ngắm nàng rất cảm động, và rồi, anh đón nhận từng nụ hôn m?m ??t, trên cặp môi run rẩy của người yêu.

            Liên An hỏi:

-Anh Nguyên đi lại rồi ?

-Không, ở trên nhà.

            Trên chiếc bàn dài , bên phía Loan và Phương để m?t  tô bột trắng tinh vừa nấu chính, xấp lá chuối xanh, và dĩa thịt kho tôm. Nga và Liên An lo về món chả giò. Nga rây dầu ăn và lòng trứng đỏ phết lên từng chiếc bánh tráng, còn Liên An ngồi cuốn. Những ngón tay thon nhẹ của Liên An tưởng như cũng làm cho mỗi chiếc giò càng nhỏ bé thêm..  Mỗi cô ngồi  trên chiếc ghế gỗ vuông, thấp. Vừa làm, giọng nói qua lời chuyện trò, những lúc được đùa giỡn trong tiếng cười vui, cô nào cũng cảm thấy thể hiện đúng tính cách người phụ nữ.

            Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

            Có kẻ theo chồng bỏ cuộc vui.

            Đôi mắt đẹp của Nga, nhiều lần bị chiếu tướng. Liên An, rồi Loan và Phương lúc nhìn qua nàng biểu lộ một vẻ đằm thắm, lạ lùng. Khi được có mặt nơi gian bếp lúc này, bạn chợt nhận ra cô gái nào cũng thùy mị , đảm đang. Và rồi đây, những cô gái của tuổi xanh này sẽ lớn, có thể họ chia tay bất ngờ, rồi đường đời dưới gót chân, những kỷ niệm đẹp mỗi lúc hao mòn, trong thoáng nhớ, có người thầm nhắc lại mấy câu thơ mà ngày hôm ấy chợt thốt lên.

-Em chỉ có tập Gái quê của Hàn Mặc Tử.

-Không, chị ạ. Em yêu thích sự trong sáng, hiền lành, không hề muốn nghĩ gì về nỗi khổ đau.

-Chị thấy rằng, người thi sĩ này quá bất hạnh.

            Trên bếp nấu, lửa đang cháy đều ngọn. Có hai lò, phía trong là nồi xôi đậu, ở  ngoài là soong nước chờ sôi để luộc gà. Hai món này, do cô chủ Thiên Nga đảm trách, và còn một món nữa chưa làm đến là mì Quảng.

            Hôm nay, ngày sinh nhật Thiên Nga. Nàng sẽ luôn nhớ mãi ngày này, một ngày vui không chỉ riêng cho mình mà còn là của các cô bạn ngồi đây nữa. Bốn cô  đã thành cô Tú hết. Phương kém tuổi hơn, vừa mới đậu xong phần nhất. Cô học khá, trúng tuyển ngay kỳ đầu. Ba cô  Nga, Loan, Liên An, kỳ thi vừa qua đều gặt hái được kết quả vừa ý. Trong tâm cảnh Loan và An, buồn vui lẫn lộn. Loan rất mong đi Sài Gòn, nhưng rồi, hiểu được những ý nghĩ sâu sắc của người anh mình về gia đình, cô đành ở lại Huế học, và những ngày qua, Nga, Liên An , Phương đã làm cho Loan khuây khỏa, vui lên, nhờ đó Loan mới nhận ra rằng, Huế là thành phố của tình bạn. Về Liên An, rồi cô sẽ đi xa. Nơi phương trời ấy, rất lẻ loi, nhưng những  thư cô sẽ viết gửi về cho những người bạn, mỗi lá là chút lửa ấm với quê hương và gia đình. Và, giống như Loan , cô thương mến Nguyên như người anh ruột, giờ đây người yêu của anh ấy là Thiên Nga muôn thuở với màu áo tím. Liên An đã nói với Thụy, trong linh hồn áo tím, em nhớ mãi Thiên Nga.

            Suốt cả tuần lễ khu Morin rộn ràng tiếng nói, tiếng bước chân hớn hở của bao nhiêu cô cậu học sinh mới đặt bước lên năm thứ nhất Đại học. Nga nay không còn ở cái tuổi mười tám dung dăng, dung dẻ, nhưng vẫn giữ được sự hồn nhiên, và bây giờ, hình bóng nàng xuất hiện thật là mới mẻ. Từ sinh viên bên trường Mỹ Thuật qua trường Văn Khoa, Thiên Nga nhận ra được mình trong một ý thức trầm tĩnh về nhân cách và cả học vấn.

            Nguyên đã ở bên Nga trọn một ngày,  hai người rất thích thú khi đạp xe trên phố chính Lê Lợi đến trường Văn Khoa. Thới tiết của Huế, trong những ngày đầu thu

thật là đẹp. Những lúc nhìn qua Nguyên, với gương mặt nhỏ nhắn và dáng dấp thư sinh, nhanh nhẹn, nàng thấy anh rất là trẻ, chừng mới cái độ của lớp tuổi hai mươi.

            Một giọng thân thương, Nga nói:

-Anh ghi danh học lại đi.

            Nguyên cười đáp:

-Anh thuộc lớp sinh viên già.

-Không, em rất muốn anh trở lại thời sinh viên.

-Anh đã có em, em đem anh trở lại thời sinh viên.

            Nga đạp xe chậm lại, trên đôi mắt nhìn xa tới cuối đường, nàng nói:

-Anh đi học, có thêm em nữa, anh vẫn là người thầy giúp đỡ em.

-Em yên tâm học, lúc nào cũng có anh bên em.

            Bên kia sông, hình ảnh kinh thành Huế trải rộng dưới một bầu trời mang một vẻ đẹp buồn. Khu công viên đầy nắng thật sáng sủa, sạch đẹp. Ngôi trường Đồng Khánh đối diện với công viên, trước cổng trường quét vôi tím, nữ sinh Huế mặc áo trắng mới tinh. Nhìn lên bầu trời, bạn chợt trông thấy cả một đàn chim đang bay ngược hướng dòng sông, xa dần khỏi thành phố hướng về phía ngọn núi.

            Nguyên bỗng nói:

-Anh và em, chúng mình có nhau là đủ.

-Nhưng rồi, chiến tranh cũng kết thúc.

-Em mà đã mong đợi, ngày ấy sẽ đến thôi.

            Thoáng có một ý tưởng vui trong nụ cười, Nga nói:

-Anh mà trẻ mãi, thì em mới ở bên anh.

-Thời gian sẽ không làm thay đổi được anh.

-Anh đừng quá tự tin, nhé.

-Em mới làm cho anh tin tưởng về mình.

-Hay quá.

            Nga đáp lời, cặp mắt vui như vừa thấy một con chim chạy nhảy băng qua đường. chân sáo mình đang nhảy nhót như con chim se sẻ. Bên nhau, lòng vẫn nhớ. Nga luôn nhớ nghĩ đến Nguyên, những lúc xa cũng như ở mỗi giây phút gần. Mùa thu cũng đã làm cho thành phố trở nên trang trọng, tuổi trẻ vừa được sự yêu mến của thời gian, vừa đang nẩy mầm một sự trưởng thành trong nhận thức.

            Khi đến khu Morin, hai người phải xuống xe dắt bộ vì rất đông sinh viên đứng tràn ra đường. Tới chỗ gởi xe đạp, Nguyên và Nga ngó tìm một quán cà phê gần đó. Nguyên lấy chiếc máy ảnh ở trước giỏ xe, rồi trên vỉa hè lát đá, cách quãng chừng năm mười mét Nga dừng bước lại vừa tạo dáng để  Nguyên chụp những bức ảnh cho nàng. Nga mặc áo dài tím, nắng thu chiếu sáng lên áo nàng. Nguyên và Nga rất hợp ý nhau trong sự yêu thích những cảnh vật. Vừa chụp nhanh và chính xác, những bức ảnh Nguyên dành cho Nga rất là nổi bật các góc cạnh, tạo ngay ấn tượng, bạn có thể đem so sánh được  với những người chụp ảnh chuyên nghiệp.

            Quán cà phê khá đông sinh viên. Khi thấy Nguyên và Nga xuất hiện, rất nhiều cặp mắt chú ý nhìn chàng và nàng, người nào như cùng  nhận rõ sự tương xứng của đôi lứa này.

            Hai ly cà phê nóng, bốc lên hơi khói. Nga nhìn Nguyên hỏi:

-Tại sao anh không biết hút thuốc ?

-Anh không thích.

-Uống cà phê, không hút thuốc, anh không thấy lạc hương vị sao ?

            Nguyên mỉm cười, đáp:

-Ý tưởng của em cho anh nhìn thấy màu khói.

-Cà phê đây uống ngon, phải không anh ?

-Rất ngon.

-Chừng nào Thụy về phép ?

-Chắc là trong năm nay.

-Coi bộ, Thụy thứ gì cũng lấn lướt anh.

-Em kể ra xem.

-Phương  nói, Thụy rất là bụi đời. Những môn thể thao, thứ nào cũng chơi được, rồi hút thuốc lá, ghiền cà phê, còn cả bài bạc nữa.

-Có một thứ nó không biết.

-Về nghệ thuật ?

-Thụy không biết tí gì về âm nhạc cả. Coi một bản nhạc, nó không đọc được nốt, nói gì đến chuyện cầm đàn.

            Nga nhìn vẻ mặt Nguyên một lúc khá lâu, không hẳn cô gợi sự hình dung gương mặt người em của Nguyên thật khá thân như là một người bạn của nàng đang ở xa, mà có lẽ, với chút suy nghĩ để tìm lấy cho câu chuyện thân mật.

-Hãy bảo Thụy học nhạc, học đàn đi. Tuổi trẻ với cây đàn ghi ta khác chi người lữ khách đầy mơ mộng, lãng mạn.

-Nếu Thụy có được một cây đàn, chắc nó sẽ mơ làm nhạc sĩ.

-Đó cũng là hạnh phúc.

            Nguyên gật nhẹ đầu, rồi cầm chiếc máy ảnh lên điều chỉnh. Bỗng anh đẩy nhẹ chiếc ghế, rồi lùi bước và hơi thấp người xuống. Nguyên lên tiếng:

-Em cầm ly cà phê.

            Nga uống khẽ một hớp, rồi trên tay vẫn giữ ly cà phê để sát gần môi. Nguyên bấm máy, thêm hai pose nữa với đôi mắt Nga yên lặng nhìn xuống ly cà phê đơn độc để lại trên bàn. Nàng cũng vừa chợt nghĩ đến một tranh tĩnh vật, thiếu nữ và ly cà phê. Bức tranh sẽ có một lọ hoa, với hai thứ hoa trắng và tím.

            Nguyên trở lại ghế ngồi, anh đón nhận ở phút giây này cái nhìn đằm thắm của Nga. Nga có đôi mắt thật dịu buồn, những lúc yên lặng nhìn rất lâu, Nguyên có cảm giác Nga sắp nói với anh về những kỷ niệm thật sâu kín đã đến với cuộc đời nàng, mà chỉ riêng nàng mới biết, và vẫn ôm ấp. Những kỷ niệm đó, thường biểu lộ khi anh thấy nàng khóc.

            Hôm nay trời se lạnh hơn mọi hôm, nên không khí ngồi quán uống cà phê rất là thú vị.

            Quán cà phê nằm phía trên khu nhà Bưu điện,  từ chỗ ngồi dưới bóng cây nhìn qua khu Đại học Morin bạn trông thấy rõ tất cả cảnh mọi sinh hoạt.

            Ngồi khá lâu, hai người mới rời quán. Những đám sinh viên năm thứ nhất đến ghi danh xong ra về, dần dần thưa vắng bớt. Nga để tay mình trong tay Nguyên khi hai người băng qua đường.

            Vừa bước lên bậc thềm tam cấp, Nga bỗng thấy trong tâm trí nàng một cảm giác khác lạ không giải thích được. Có thể, bạn chợt thấy chỉ có một bóng dáng nàng trước ngưỡng cửa Đại Học. Khi vào trong văn phòng của trường, hai người dừng lại chờ. Bên trong, các sinh viên và nhân viên phụ trách ghi danh đang làm việc. Những tiếng gõ trên bàn máy đánh chữ  nghe vang đều đặn.

            Nga đang cầm giữ tấm bìa vàng, ở trong là những giấy tờ cần thiết để xin ghi danh. Rồi đến lượt nàng, sau khi bốn sinh viên vừa xong việc ra về. Cô sinh viên phụ trách nhận giấy tờ, văn bằng của Nga xem kỹ, rồi ghi tên nàng vào một cuốn sổ giấy ca rô dày , xong, cô cho nàng biết tiền lệ phí phải nạp.

            Xong việc thu nhận đơn  , trong lúc đưa biên nhận cho Nga, cô gái bỗng ngây người trước một vẻ xinh đẹp , duyên dáng của Nga. Nhưng rồi, cô không biết biểu lộ cách nào, mà nhìn Nga , cô cố gắng tạo dáng nên một nụ cười thật lòng để nhớ mãi.

            Ngày nhập học sẽ được ghi rõ trên giấy báo. Cô gái hỏi Nguyên:

-Anh có ghi danh không ?

-Không.

-Sao lại không ?

            Cô gái vui miệng  hỏi. Nguyên cười đáp:

-Tôi không có bằng cấp.

-Em không tin đâu?

            Rồi nàng nói với Nga:

-Chị nên khuyến khích anh đi học.

-Anh không thích đi học, Nga đáp.

            Xong buổi ghi danh quan trọng này , Nguyên dành trọn cả cuộn  phim mang theo chụp cho Nga. Tới ngày sinh nhật , thêm những cuộn  phim mới ảnh của nàng sẽ đầy kín cuốn album.

            Trên đường trở lại bãi gửi xe , Nguyên nói:

-Em sẽ là người mẫu của trường Văn Khoa.

-Không dám đâu, biết bao nhiêu cô Đồng Khánh đẹp hơn em nhiều.

-Anh sẽ đi tìm một cô Đồng Khánh xinh đẹp để đứng gần em.

-Anh đi tìm đi, rồi để cả một đời anh bên cạnh cô gái ấy.

            Nguyên nói:

-Áo trắng của Đồng Khánh đã phôi pha rồi.

-Thật không ?

-Em hãy tin là có thật.

            Vừa dắt xe đạp ra đường, Nga hỏi:

-Anh đi ăn tiệm không ?

-Tùy em.

            Nguyên có vẻ yên lặng, vừa lơ đãng.

-Hay là về nhà ?

-Ừ, về nhà.

-Nhưng cũng ghé vào chợ một chút.

-Vậy thì qua phố.

-Thôi, tới chợ Bến Ngự cho gần.

            Một buổi sáng thật dễ chịu, Nga như chỉ nói cho mình nghe lúc lên xe đạp. Từ  Morin đi đường tắt đến Bến Ngự rất gần, nhưng cả hai ra đường chính Lê Lợi , thong thả đạp xe bên nhau. Hôm nay, áo tím của Nga mang dáng vẻ của mùa thu. Và, ý thu của nàng rất dễ thương như Huế.

            Dòng sông Hương đang lướt gió, trải rộng trên từng lớp sóng nước như một mái tóc của nàng cung nữ.  Nắng qua mỗi con đường, chiếu sáng lên công viên, nước chảy của dòng sông hòa sắc với những đám mây trên bầu trời tạo cho thành phố không chỉ yên bình theo cuộc sống, mà mới đây, đã hình thành một phong thái rất nghệ thuật.

            Dọc đường Lê Lợi, dòng người và xe đạp lên xuống rất nhộn nhịp. Ít ngày nữa thôi, các trường trong thành phố sẽ bắt đầu niên học mới.

            Nguyên và Nga vẫn đi chậm bên nhau. Thời gian đã dành mỗi phút hạnh phúc trong ân tình, câu chuyện hai người bình thường trong cuộc sống, đôi lúc được nhớ về kỷ niệm từng nơi chốn đã sống qua, thảng hoặc xen vào chuyện học hành hay nhắc đến một hai người thân trong gia đình.

            Bỗng nhiên Nga hỏi:

-Tại sao anh luôn thích mặc đồ lính ?

-Anh là quân nhân, phải mặc quần áo lính chứ sao.

-Nhưng vào ngày nghỉ, anh cũng không mặc quần áo thường.

-Áo quần xi vin nhẹ quá.

-Hay là anh chỉ muốn làm người hùng ?

-Đôi khi, anh vẫn cứ tưởng mình đã ở trong quân đội quá lâu.

-Anh vào quân đội bao lâu rồi ?

-Hơn bốn năm.

-Anh lên lon như vậy có nhanh không ?

-Trong khoảng thời gian vừa phải. Không nhanh lắm, không chậm lắm.

-Anh và Thụy có hợp tính nhau không ?

-Em hỏi một câu thực hay.

-Anh trả lời em đi.

            Nguyên nói:

-Anh chị em trong gia đình, thường sống với nhau bằng tình thương, sự hy sinh, và nhớ nghĩ nhau khi ở xa. Nhưng không thể nào trở thành người bạn, hay coi nhau là bạn, ai có những ý nghĩ so sánh ấy anh cho là không đúng, cũng không thành thực nữa.

            Tới ngả rẽ bên trường Luật, Nguyên và Nga đạp xe vào lối đường giữa đi tới phía cầu Nam Giao,  đoạn rẽ trái, men theo dòng sông phía bên này tới chợ Bến Ngự.

             Dòng sông nhỏ lại, khoảng cách hai bờ cũng gần nhau, nhà ở bên đây và bên kia bờ trông thấy rõ, và mỗi khu vực, có một cây cầu nhỏ bắc qua giữa hai bờ. Sông nhỏ này có tên An Cựu. Suốt dòng sông, có đến sáu chiếc cầu nhỏ bắc qua hai bờ nằm

 cách khoảng nhau chừng vài trăm mét.

            Nguyên đứng ngoài chờ  Nga vào chợ. Lúc này một mình, dưới bóng cây im nắng Nguyên đưa mắt nhìn khung cảnh sinh hoạt  của mọi người đi qua trên đường, về phía các nhà ở, và những cảnh vật hiện lên trong không gian bình thường, lặng lẽ, anh bỗng có cảm giác thật dễ chịu khi được nhớ lại những tháng ngày đã qua.

            Năm 14 tuổi, Nguyên rời gia đình ở ngoài Quảng Trị vào Huế học ở trường trung học Hàm Nghi. Anh học tiếp năm sau ở trường này, rồi thi Thành Chung, sau đó, chuyển qua trường Quốc Học học ba năm ở ban Tú Tài xong bước lên Đại Học. Nhưng ở bậc Đại Học chỉ một năm  Dự bị, hỏng thi vấn đáp, rồi trong không khí chính trị bất an,  anh rời bỏ Huế  vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm, cuối cùng chọn đi lính. Vào lính, anh lột bỏ ngay được cái dáng vẻ thư sinh ngay từ ngày đầu ở quân trường, từ đó, anh cảm thấy mình thực sự yêu mến quân đội qua tâm hồn lãng mạn của người lính. Với anh, lãng mạn trong tâm hồn người lính không phải để là người hùng, mà qua một tập thể lớn mạnh này, ai cũng nhận ra tinh thần trách nhiệm của chính mình với bộ quân phục là biểu tượng. Vậy nên, từ mấy năm ở  lính đến giờ, hầu như Nguyên thấm đậm hẳn về cuộc sống người lính, lúc nào anh cũng nghĩ mình là người lính và luôn cả những bộ quần áo lính anh phải mặc, không thể rời bỏ. Tuy đây chỉ là thói quen, một cung cách, hay là suy nghĩ độc lập từ một cá nhân, nhưng nó thể hiện rõ cá tính của Nguyên về tình cảm cũng như về cách phục vụ. Nguyên rời Sài Gòn ra đơn vị Trung đoàn tân lập này nay cũng đã gần ba năm. Về lại Huế, Nguyên khác xưa nhiều với thời học sinh, sinh viên, nhưng Huế vẫn nhận ra anh là đứa con Huế đã trưởng thành,  và giờ đây cho anh có được mối tình đẹp, rất đẹp với một người con gái xứ Quảng.

            Nga mua một ít rau, cá , thịt và trái cây, mấy túi nhỏ bỏ chung vào cái túi lớn xách bên tay, chừng nửa giờ vào chợ nàng trở ra.  Nguyên không hay khi Nga từ phía sau đi tới. Anh quay lại nghe tiếng Nga hỏi, rồi một giọng vui, anh trả lời:

-Thật là lâu , đó em.

            Nga hỏi lại:

-Bao nhiêu năm ?

-Năm thôi chưa đủ, còn phải thêm cả ngày tháng nữa.

-Anh cảm thấy lo lắng không ?

-Không, anh có em.

            Hai người lên xe đi. Nga vui giọng, kể cho Nguyên nghe những lời ngợi khen của các cô bán hàng trong chợ lúc nhìn ngắm nàng đi qua.

-Em có được là người mẫu không ?

-Em là người mẫu của áo dài.

-Các cô Đồng Khánh thì sao ?

-Các cô ấy dịu dàng quá.

-Còn em, dữ lắm nghe.

-Không, em rất là duyên dáng.

-Anh giải thích nghe mơ hồ quá.

-Cách nói mơ hồ, rất dễ gây cảm xúc cho trí tưởng tượng.

            Nga bỗng nói:

-Ngôn ngữ triết lý thật là khó, nhưng càng gợi ý suy tưởng, em lại thích.

            Giờ khắc của buổi trưa trở nên ấm áp, lạ thường. Huế, mỗi không gian là bức tranh, cách bố cục cho nó, bạn chỉ cần lấy một đoạn sông có cây cầu nhỏ, và bên sông là một mái nhà. Huế, ý thu rất dễ thương khi bạn nghe tiếng nói từ các cô gái Huế , khi bạn đọc cho mình một câu văn của Anatole  France, và tới tuổi trưởng thành từ một nơi chốn xa về lại đây khung cảnh của thành phố này sẽ cho bạn nhiều sự liên tưởng đến một thành phố khác.

            Nguyên bỗng nhớ một gương mặt trí thức trẻ, nhà thơ Nguyễn đình Thi. Rồi tiếp đó là bóng dáng người thi sĩ. Và, lúc này, Huế cũng sẽ mãi đẹp như hai câu thơ của chàng:

            Gió thổi mùa thu hương cốm mới

            Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em         

            Về đến nhà, Nguyên ngồi ở phòng khách đọc báo. Nguyên cảm nhận được sự thoải về không khí bình yên trong một gia đình, dưới một mái nhà, với tờ báo mình đang đọc cho anh liên tưởng tới các bài luận văn thời còn ở những lớp nhỏ dưới trung học.

            Nga thay xong bộ quần áo nhe, nàng đi làm cơm. Trước khi nhen bếp lửa, nàng pha hai ly nước chanh đường, một cho Nguyên và một cho nàng.

-Anh đói chưa ?

            Nguyên ngừng đọc báo, nói:

-Em nấu chín cơm, bữa ăn sẽ rất ngon.

-Em có nấu món canh chua.

-Em đúng là con người thuần túy.

-Sao, anh hay diễn tả ý rất mơ hồ.

            Nguyên đáp lời Nga như bài soạn sẵn:

-Em ở xứ Quảng, mà tất cả các món ăn ba miền Nam, Trung, Bắc em đều nấu được và rất là ngon.

-Vậy, em còn là người mẫu nấu nướng nữa, phải không ?

            Nguyên gật đầu ngay, không do dự. Nhìn qua Nguyên, Nga cười, ít giây sau nàng nói:

-Mứt bánh, mới là món thuốc của em. Nấu ăn, em tạm thôi. Nhưng được anh khen ngon là quí lắm rồi.

-Anh ăn ngon thực sự.

            Vừa chuyện trò với  Nga, Nguyên vừa xem báo. Anh chú ý đến bài xã luận của ký giả Từ Chung.

            Nga cầm ly nước chanh đứng lên, nhẹ bước xuống nhà. Một giờ sau, bữa ăn trưa dọn lên ở ngoài phòng khách.

            Cơm và thức ăn đang nóng. Lúc Nguyên cầm đũa, anh không ngăn được cảm xúc của mình, và sau đó, anh tìm ra được một ý nghĩ trọn vẹn cho đời anh, là anh đang có được sự săn sóc của người yêu.

            Bữa ăn chậm rãi, mỗi miếng ngon rất chân thực như là kỷ niệm của tuổi thơ.

-Có thư Mỵ Châu gởi cho em không ?

-Có.

-Mỗi khi có thư Mỵ Châu, em nhớ cho anh biết và đọc thư Mỵ Châu cho anh nghe.

            Nga bỗng nghĩ tới một ngày, khi nàng và Nguyên có được mái ấm gia đình, gần hay xa tới đâu trong đất nước, nàng sẽ đem Mỵ Châu theo với nàng.

            Sau một ngày nghỉ, Nguyên trở lại đơn vị làm việc bình thường. Anh làm công việc với sự đam mê, thật cẩn trọng về  các thứ giấy tờ, đối  với thuộc cấp, không một ai anh quên nghĩ đến họ. Những lúc sau giờ làm việc, sau bữa ăn trên Câu lạc bộ về phòng nghỉ, anh dành hết thời gian này nhớ đến Nga. Nga luôn hiện ra trong tâm trí anh một khuôn mặt dịu dàng, hạnh phúc. Có những bức ảnh anh chụp được cho Nga qua trí tưởng tượng, thật là mới mẽ, sáng tươi, hay đẹp, hơn cả những bức ảnh Nga có trong cuốn album. Và, hết tuần lễ này, anh phải mua sắm một ít thứ chuẩn bị cho ngày vui sinh nhật của Nga.

            Hôm nay, ngày vui này đến. Nga nói với Liên An:

-Anh Nguyên còn là một người anh của chị.

            An nói:

-Em rất thích anh Nguyên. Anh ấy thật dễ chịu. Và, không chỉ riêng em, anh ấy luôn là người rất dễ thương với bao cô gái khác ở thành phố thân yêu này.

            Bỗng Nguyên xuất hiện, An lên tiếng :

-Nãy giờ anh trốn đi đâu, không xuống coi tụi em làm bếp.

            Nguyên cười hiền lành, rồi anh gọi Nga lên nhà.

-Em thấy anh trang hoàng như vậy, được không ?

-Giỏi.

-Anh muốn em xem lại lần nữa.

            Nga đưa mắt quan sát. Nàng học Mỹ Thuật, nên cái nhìn của nàng, trong đó, mọi sự vật như thể đã được sắp sẵn theo ý nàng. Nga cầm bình hoa, dời qua phía bên trái một chút cho cân đối vị trí. Hai người nói chuyện một lúc, Nga trở xuống nhà, đúng lúc này, bánh lọc đã hấp chín, giò cuốn chiên xong, luôn cả món xôi và gà luộc cũng đã rồi.  Chỉ món đặc biệt là mì Quảng, bây giờ Nga bắt đầu.

            Trên bếp, son nước sôi để luộc mì. Bốn cô cùng đứng bên Nga, nghe nàng nói về món ăn đặc biệt này của xứ Quảng mà nàng học từ người cô em họ của ba nàng. Người cô này, lúc ở Hội An, có mở một tiệm mì Quảng ở Cẩm Hà, quán ăn nằm bên con đường lớn của vùng ngoại ô trông xuống sông Thu Bồn. Ở xứ Quảng, món mì rất bình dân, để được ăn ngon, sợi mì vừa mềm và dẽo, còn đồ nấu là thịt heo cắt lát thật mỏng, tôm nhỏ không bóc vỏ, rồi cho gia vị, tất cả thứ này nấu thành nước dùng mì, nó không được loãng nước như bún, phở hay hủ tiếu mà phải nấu thật rền, và thật kẹo.

            Liên An nói:

-Chị Thiên Nga đúng là một phụ nữ hoàn hảo.

            Nga chỉ cười, tay trái nàng đang cầm đũa khoắng nhẹ cho ớt màu hòa tan vào nước dùng. Liên An nhìn vẻ khéo léo từ bàn tay của Nga khi nấu món ăn, cô gái bỗng ước ao mình có được người chị như nàng.

            Loan lên tiếng hỏi:

-Anh Nguyên có hay khen chị không ?

-Trời, ông cứ khen hoài.

-Và, chị thấy anh sao ?

-Anh Nguyên vui tính.

-Chưa hết đâu.

-Em thấy anh Nguyên và chị quá đẹp đôi.

-Hôm nào đến lễ đính hôn, mình sẽ chụp ảnh và quay phim.

-Em ở xa, chị nhớ gởi ảnh cho em.

-Chắc chắn rồi.

-Có chữ ký , lời đề tặng của hai người. Và cả thư nữa nhé.

            Nga hỏi:

-Liên An muốn mình viết hay anh Nguyên.

-Cả  hai người.           

            Nguyên đang ngồi một mình trên phòng khách. Anh cảm thấy hài lòng khi nhìn cái vẻ sáng đẹp, tươi tắn trong căn phòng hôm nay được trang hoàng để mừng sinh nhật Thiên Nga.

            Bên ngoài, buổi chiều thật nhẹ nhàng.  Phía dưới sông, có đông người giặt giũ, bất chợt vang lên tiếng kêu xình xịch của một chiếc xuồng máy rẽ sóng lướt mau, rồi xa dần. Ngày chủ nhật,  sinh hoạt trên các khu phố quanh nhà ga vẫn giữ một nhịp độ như ngày bình thường. Huyền Trân là con đường từ đầu phố ga ra ngoại ô, con đường này khá dài, có những quãng ven theo dòng sông, buổi sáng sớm trông thấy sương mù còn bao phủ trên những cây cầu và những khu phố bên kia bờ sông, buổi chiều, cảnh hoàng hôn xuống trông rất đẹp, và cũng rất buồn. Khi ra đến cuối ngoại ô, con đường càng thơ mộng, êm ả, với tiếng gió ru hàng cây, với những căn nhà màu ngói đỏ, và nghe dậy lên những hương vị thoang thoảng mùi thơm cây trái từ trong các nhà vườn tỏa ra. Hết con đường này, bạn sẽ còn trông thấy còn một con đường đất rộng nối dài theo, dẫn đi qua các ngôi làng rồi vượt qua các dãy đồi, dần dần tiến đến núi.

            Phương bỗng lên tiếng:

-Anh Thụy sắp về phép đó chị Nga.

-Ờ, chị có nghe anh Nguyên nói. Anh cũng sắp đi học ngành hoa tiêu.

-Anh Thụy đã gặp chị Nga lần nào chưa ?

-Chưa.

-Anh có về phép.

-Ngày Thụy về phép, mình ở Đà Nẵng.

            Liên An nói:

-Anh Thụy quen cô nào, anh cũng mời người ta uống cà phê.

-Con người nghệ sĩ mà.

            Bỗng dưng Liên An muốn kể ra chuyện về một người mình đã gặp nhưng rồi cô dừng lại, sợ có điều dị nghị. Tuy nhiên, Nga đã nghe cô gái kể một vài câu chuyện về người đó rồi.

            Buổi chiều đã qua nhanh, vừa hết giờ nguyện, chuông nhà thờ lớn của thành phố đánh lên vang vọng một hồi dài nghe trầm tĩnh, lắng đọng, sự sinh hoạt một ngày sắp hết.

            Nguyên bật đèn sáng. Vừa đúng lúc, các cô em mang từng món ăn lên dọn vào chiếc bàn xếp dài. Trên bàn, đã có sẵn ly giấy, nước giải khát, các thứ này Nguyên mua ở quầy hàng quân tiếp vụ của Trung đoàn.

            Sau khi mì luộc chín xong, Nga vớt ra ngoài để ráo khô trong cái thau nhựa, còn nồi nấu món mì, lửa được hạ thấp để giữ sức nóng. Ở bàn nhỏ bên kia, Nga đã để sẵn vài dĩa bánh và xôi, dành biếu bà chủ nhà và để cho Phương mang về cho mẹ và các em của Nguyên.

            Ba cô em dọn tiệc xong, đi rửa mặt và thay áo dài. Nga vào phòng mình, sau khi các cô đã xong.

            Kim đồng hồ chỉ đúng sáu giờ, giờ mặt trời lặn.

            Nga trở ra ngoài với chiếc áo nhung màu rêu thật là đẹp. Nàng đeo lên cổ một chuỗi hạt nhỏ màu hồng rất là xinh.

            Nguyên cầm máy ảnh, sẵn sàng, anh đề nghị trước tiên các cô đứng cạnh nhau trước bàn tiệc, rồi lần lượt  là Nga, bên cạnh mỗi cô trước chiếc bánh sinh nhật với một ngọn nến hồng cắm ở ngay chính giữa chiếc bánh lớn.

            Mỗi cô, một màu áo. Mỗi cô, duyên dáng qua nụ cười. Nga cảm thấy hạnh phúc, nàng ứa lệ.

            Rồi ngọn nến được thắp sáng lên. Nga đứng trước chiếc bánh và ngọn nến. Hôm nay là sinh nhật thứ 21 của nàng. Ngọn nến hồng với dáng cao và đẹp vươn lên tỏa sáng xuống chiếc bánh. Nguyên chụp Nga từng ảnh một ghi dấu mỗi khoảnh khắc hạnh phúc của nàng.

            Và, buổi sinh nhật bắt đầu. Ngọn nến lung linh. Như một cảnh trong phim, Nga cúi xuống, chúm môi thổi tắt ngọn nến. Tuổi 21 vừa trôi qua sau một giây. Khi lửa nến đã tắt, tiếng vỗ tay của Nguyên và các cô em gái cùng reo vui lên, rồi lúc đó, tiếng hát những người đang hiện diện cùng cất lên:

            Happy birthday to you, happy birthday to you.

            Happy birthday...

 

 

 

                                                            XII

 

 

 

            Tối hôm ấy, sau bữa tiệc sinh nhật mà món ăn nào cũng ngon, vừa miệng, Nguyên , Nga cùng mấy cô em ngồi ở phòng khách trò chuyện, cười nói rất là vui. Liên An là đề tài chính về chuyện nàng sắp đi du học. Nhân chuyến đi của Liên An, Nguyên kể cho các cô chuyến đi của anh sang Đài Loan hai tháng để học về khoa chiến tranh tâm lý. Anh vừa gợi nhớ, và dùng nét phác họa, rồi theo câu chuyện anh nói đến một biến cố lịch sử Trung Hoa, vào năm 1949, hồng quân Mao Trạch Đông nổi dậy giành chiến thắng, Tưởng Giới Thạch bại trận rút lui quân ra Đài Loan và  thành lập thành một quốc gia riêng trên đảo này.

            Bên ngoài, có tiếng động gió thổi rung cây lá , và trên mặt sân là màu sáng của ánh trăng. Trăng mùa thu thật đẹp. Từ cửa phòng khách mở rộng, bạn nhìn ra thấy con đường Huyền Trân, thấy dòng sông chảy bên dưới, một lúc sau, trăng sáng ngập lên hai bờ sông, dâng cao và tràn qua những mái ngói của ngôi trường, ngôi trường cũng vừa là một tu viện cổ kính.

            Đến 9 giờ, Nga mời mọi người qua phòng tranh. Khi bật đèn sáng lên, những bức tranh hiện ánh màu nước thật là sắc , và trong ánh màu của mỗi bức biểu hiện rõ năng khiếu hội họa của một sinh viên học trường Mỹ Thuật.

            Một giọng vui, lớn trong phong cách đĩnh đạc Nga nói:

-Bây giờ, mình khai mạc phòng tranh với các bạn.

            Các cô vỗ tay khen ngợi. Niềm vui của Nga như thể là những hoa trái đầu mùa vừa được hái. Có mười bức tranh được treo trong căn phòng này. Nga hướng dẫn các cô bạn đi xem tranh, mỗi bức, Nga để cho các cô thưởng thức, bình phẩm, và nếu cần đến một lời giải thích, Nga mới lên tiếng.

            Nguyên thay xong cuốn phim, thêm lúc này nữa, anh chụp ảnh cho căn phòng triển lãm tranh của Nga.

            Tùy theo cách chọn mỗi cô, Nguyên chụp ảnh qua chân dung và bức tranh treo đằng sau. Tiếng bước chân lay động nhẹ nhàng gây nên sự ấm cúng. Rồi sau một lượt xem tranh xong, chiếc bánh sinh nhật được Nga cắt thật khéo để mời khách.

            Mỗi cô gái dành cho sinh nhật  Nga một câu chuyện. Đây là câu chuyện hội họa về những bức tranh được xem xong bên phòng triễn lãm. Và bây giờ, những câu chuyện này được nói ở phòng khách.

            Những bông hoa Loan vừa nói đến, thật sống động. Nhìn qua các bông hoa, bạn sẽ thấy rằng Loan nhận xét đúng, cái đẹp và cuộc đời Thiên Nga ẩn chìm trong những sắc hoa ấy.

            Khoảng hai tuần sau, có toán ALO mới đến , nhóm của Thụy bốn người được thay phiên. Trưa nắng gắt, đầy bụi, sau chuyến tiếp tế, cả nhóm được trực thăng đón đưa về Biên Hòa. Xuống sân bay ở phi đoàn 229, họ quá giang xe pick up, xuống ở phòng tài chánh để lãnh lương.

            Sau khi nhận lương xong, mỗi người tản mác một nơi, hẹn gặp ở bên đơn vị vào đầu giờ làm việc buổi chiều.

            Số tiền lương của Thụy được ba ngàn hai trăm. Thụy  tính đến tiền nhà thuê, tiền ăn trong tháng, còn lại non một ngàn là tiền tiêu.

            Quán cơm nằm cách cổng chính Quân đoàn hơn trăm thước. Khi bước vào quán, người Thụy đầy bụi ở quần áo và trên chiếc ba lô. Nhưng anh không còn cảm thấy mệt mỏi, vì thế nào sau chuyến công tác cũng được nghỉ xả hơi đôi ba ngày.

            Vừa ngồi xuống ghế, Thụy gọi:

-Cơm dĩa.

-Trứng chiên, hay đồ xào chú.

-Cho chú chung cả hai thứ.

-Nước uống, chú.

-Trà đá, ly lớn nghe.

            Đứa gái nhỏ quay bước. Nơi bàn Thụy ngồi trông ra con đường, nắng bụi, và tiếng động xe cố gây thêm cảm giác buồn  ngủ. Sau bữa ăn, Thụy còn muốn uống cà phê cho được tỉnh táo. Hai tuần đi hành quân, ngày đêm, Thụy nghe vang tiếng súng đạn giao tranh, tiếng súng trọng pháo của bên quân dù và bên Cộng quân, và trong  giấc ngủ chập chờn có khi gặp cơn ác mộng, ngay lúc đó, Thụy có cảm tường mình đang ở một nơi chốn nào xa lạ trong khung cảnh nước độc, rừng thiêng.

            Khi đứa gái mang cơm và nước uống ra, Thụy  gọi thêm một dĩa cơm không để ăn no.

            Cứ vào bữa ăn, Thụy luôn đói, nhờ vậy, anh ăn cảm thấy ngon và ăn được nhiều cơm. Những miếng cơm anh ăn cũng thật thô, và anh ăn trong sự vội vàng, thiếu thốn. Những miếng anh ăn cũng không nhai kỹ, rất có thể sau này, khi tuổi càng lớn , bệnh đau bao tử sẽ gây khó khăn cho anh. Nhưng thậy kệ, anh đang sống với ngày qua ngày, có vậy thôi.

            Sau bữa ăn no, Thụy gọi ly cà phê đá. Không đợi lâu, có cà phê đá Thụy cầm ly uống một ngụm đầy xong đốt điếu thuốc. Khi hít những hơi thuốc của một điếu vừa mới đốt, Thụy hít thật sâu, xong nhả khói ra từ từ, cảm giác lúc ấy, biết bao nhiêu là ý tưởng trộn lẫn cùng giấc mơ làm anh thật sự khoái trá. Như vậy đó, Thụy cho phép mình đã hiểu đời, và rất đáng được hưởng một cuộc sống.

            Quán ăn đông khách, vì giờ này là cao điểm. Quanh các loại bàn lớn nhỏ bày trong quán, bàn nào cũng có đông lính tráng ngồi ăn.

            Thụy ngồi ở quán cho đến đầu giờ làm việc. Khi trả xong tiền ăn, anh mua thêm gói thuốc trong số tiền thối lại.

            Một người lính nhìn qua khi anh vừa đúng lên và quàng ba lô vào người. Bật chợt, anh thấy kim đồng hồ treo tường chí đến 2 giờ.

            Ra khỏi quán, anh đi về phía cổng, rồi từ cổng đi bộ tới Trung tâm Không trợ nằm ở dãy nhà bên trái.

            Bộ chỉ huy Không trợ nằm dưới hầm, có gắn máy lạnh. Ở đây, có cả một đơn vị Không quân Mỹ làm việc chung, vậy mà, sự cố gắng học Anh ngữ của Thụy với các ông Sĩ quan và lính Mỹ, không được mấy kết quả. Hai năm rồi, bốn kỳ thi Tú Tài đôi, anh vẫn lấy được nổi mảnh  bằng.

            Qua khỏi quầy căng  tin, Thụy rẽ  trái là đến phòng làm việc của ban ALO. Phước đang trực máy, vừa thấy Thụy người bạn đưa tay chào.

-Sao ? người hùng.

            Vừa buột miệng chưởi thề, Thụy tiếp lời:

-Rét quá mày ơi, ngày nào cũng nghe pháo.

-Đám kia đâu ?

-Lãnh lương xong, anh em tản mác. Chắc tụi nó sắp qua.

            Thụy mời Phước điếu thuốc. Đốt lửa xong, Thụy hỏi:

-Có gì lạ không ?

-Mày có giấy gọi đi học.

-Lâu chưa ?

-Hai  ngày rồi. Mày lên văn thư gặp trung sĩ Bình.

-Ờ.

            Vừa thấy viên Đại úy trưởng ban vào, Thụy đứng nghiêm, chào kính. Ông hỏi Thụy:

-Mấy anh em kia đâu ?

-Ở bên Không đoàn, chắc sắp qua.

-Anh lãnh lương chưa ?

-Dạ rồi.

            Viên Đại úy nhìn áo quần Thụy mặc khá lôi thôi, ông mỉm cười.

-Sao tình hình trên vùng hành quân sao ?

-Nghe đạn pháo suốt ngày, Đại úy ơi.

-Cho mấy cậu đi theo hành quân cho thấm mùi chiến trận.

-Đại úy, cho tụi em ít ngày nghỉ chứ.

-Cố nhiên.

            Thụy định lấy gói thuốc đưa mời, nhưng thuốc anh hút loại nặng và rẻ tiền nên thôi. Viên Đại úy ngồi ở bàn làm việc, còn Thụy vẫn đứng. Bỗng nhớ về Thụy, ông nói:

-Anh được gọi đi học hoa tiêu.

-Dạ, mới nghe anh Phước nói.

            Với một nụ cười hảo cảm, ông nói với Thụy:

-Anh sắp trở thành hoa tiêu rồi.

            Thụy đáp lời ngay:

-Chưa dám đâu, Đại úy.

-Sao mà chưa được. Anh đi học, chừng hơn một năm là trường.

-Nhưng biết có đậu không. Ở đây, Sĩ quan ALO, ông nào cũng gãy cánh.

            Với cái nhìn trầm lặng, thông cảm, ông nói:

-Tôi hiểu anh có nỗi lo. Nhưng khi đã chọn lựa sự ra đi, nhất quyết anh phải cố gắng thành công.

            Rồi ông bảo Thụy kéo ghế ngồi. Ngồi xuống ghế, Thụy nói lời tâm sự:

-Em vẫn muốn học xong Tú Tài II, rồi xin vào ngành kỹ thuật.

-Tuổi em còn trẻ, trở thành phi công hào hùng hơn.

-Vâng, em cũng có ước mong này, nhưng được trở thành phi công như Đại úy, đâu dễ dàng.

-Không khó lắm đâu. Tùy vào khả năng, sức khỏe của mình khi học bay.

-Đại úy bay đã quá ba ngàn giờ chưa ?

-Chưa tới.

-Ba ngàn giờ, là được mang cánh có râu.

-Đúng rồi anh. Vậy là anh cũng biết qua về hoa tiêu.

            Thụy nói:

-Trước khi học chuyên môn, em có làm việc ở phi đoàn 217 và báo Lý tưởng.

-Anh có viết báo sao ?

-Em viết loại truyện sáng tác thôi.

-Hay  lắm. Rồi nghề bay đem cho anh nhiều cảm hứng viết văn.

-Em viết vui thôi, không thể là nhà văn.

-Anh đọc cuốn Đời phi công chưa ?

-Rồi, Đại úy.

-Và những tiểu thuyết của Saint Exupéry

-Có, em đọc qua bản dịch. Em thích cuốn Bay đêm.

-Anh không đọc được tiếng Pháp ?

-Không đủ sức. Nhưng học chương trình thi, tác giả này em có học.

-Saint Ex, viết truyện rất hay, thơ mộng, lãng mạn, đúng tâm hồn của phi công.

-Saint Ex lâm nạn, chết trong kỳ đệ nhị thế chiến.

-Đúng rồi.

            Bên ngoài, tiếng cười nói ồn ào, và Thụy biết là các bạn trong toán đã tới. Trung úy Ngoạn xuất hiện, ông đứng nghiêm chào kính.

-Sao, khỏe chứ Ngoạn.

-Cám ơn Đại úy.

-Hai cậu sao ?

-Dạ,  cũng  bình thường. Tài và Phú chào xong đáp lời ngay.

            Viên Đại úy nói:

-Chuyến công tác tốt. Tôi để cả toán nghỉ ba ngày rồi trở lại làm việc.

            Thụy để anh em ngồi lại, xin phép viên Đại úy đến phòng văn thư. Vừa thấy anh, trung sĩ Bình cười hỏi:

-Sao, chừng nào bạn khao chúng tôi chầu bia đây.

            Thụy chỉ cười. Bình hỏi lại:

-Sao mà cười trừ.

            Vừa kéo ngăn học, Bình tiếp lời:

-Thôi, để cho bạn đi học ra Sĩ quan rồi về khao nhé.

-Đồng ý.

            Thụy được xem Công điện gọi đi học, danh sách gồm bốn chục người. Tên và cấp bậc của Thụy nằm ở hàng thứ 12.  Thụy còn nhận được thư của Phương, em gái anh.

-Rồi thủ tục sao, Trung sĩ.

-Về nghỉ ít ngày cho thoải mái, xong trở lại đây nhận giấy tờ đi học.

            Trong phòng văn thư, có  hai người đang chơi cờ. Bên chiếc bàn trong góc, hạ sĩ Phong đang đánh máy giây tờ về các tin tức tình báo, một vài người nữa đang làm việc, nhưng câu chuyện giữa Thụy và các bạn vẫn tiếp nối.

            Bỗng nhiên, Thụy nhận ra thời gian trôi nhanh. Lúc trưa, cả toán lên trực thăng, từ trên phi cơ nhìn xuống, Thụy trông thấy núi, đồng ruộng, thị trấn Tây Ninh và đường quốc lộ I. Gió tạt  mạnh, tiếng cánh quạt kêu vù vù, ngồi nhìn ra ngoài Thụy nghĩ nhiều đến chiến tranh trong khoảng thời gian hai tuần lễ ở vùng hành quân với Sư đoàn dù, và Thụy đã trực diện, nghe rõ tiếng súng nổ, nhìn thấy những cuộc giao tranh. Vào lúc ấy, Thụy không dám nghĩ đến những câu chuyện chiến tranh thật lãng mạn để kẻ cho Huê nghe (nhưng nếu nàng thích, mình sẽ kể). Với Thụy, có Huê một  cô gái giúp anh hiểu thêm đôi chút về một cô gái lạ lùng trong cuộc sống.

            Kim đồng hồ phòng văn thư chỉ bốn giờ. Thụy nói lời chào các bạn, xong trở lại phòng của ban ALO, nhưng thấy vắng chỉ có mình Phước làm việc.

-Chưa về à ?

-Đại úy Luyện đi đâu ?

-Đi họp.

-Thôi, về nghe.

-Ờ.

            Với chiếc ba lô đeo vai, Thụy mở lối cửa sau ra ngoài. Ở trong phòng có máy lạnh, người cảm thấy dễ chịu, ra bên ngoài trời hừng nóng, một lúc sau mới thấy quen mắt cảnh vật.

            Từ khu vực Trung tâm Không ra đến cổng cũng xa, vừa đi, Thụy đảo mắt tìm kiếm xe quá giang nhưng không có xe nào cả.

            Trời bỗng âm u như thể sắp có mưa. Bên kia đường, có chuyến xe khách vừa mới ngừng. Thụy vội băng nhanh qua và lên xe, nhưng rồi xe vẫn chưa chạy ngay. Thụy ngồi dãy ghế giữa, phía ngoài.

            Hai chiếc phi cơ khu trục vừa cất cánh bay lên tiếng động cơ vang giữa vùng trời.

-Chưa chạy sao anh tài ?

-Chưa. Chờ  lấy thêm ít người khách.

            Chiếc ba lô Thụy treo trên giá. Và lúc này chờ, anh mở thư  Phương ra đọc. Nỗi vui đến với tôi ngay những giòng đầu thư, Phương báo tin cô thi đậu được bằng bán phần, rồi sau đó em Thụy kể chuyện gia đình, gần cuối thư, Phương mới cho biết cô được dự ngày vui sinh nhật của chị Thiên Nga bạn gái anh Nguyên. Bỗng dưng lòng Thụy bâng khuâng, vì không có được ảnh củaThiên Nga. Vậy là, từ kỳ nghỉ phép hồi năm ngoái đến giờ, Thụy chỉ nghe tên người con gái xứ Quảng, và hình dung nàng qua mỗi câu chuyện, qua những hàng chữ viết của người thân trên dòng thư. Phương nói, chị Thiên Nga bằng lòng cho gởi mấy tấm ảnh chị đến cho anh, nhưng vì hay tin anh sắp đi phép nên cô em gái muốn dành cho Thụy một sự ngạc nhiên, vào lúc ấy, không biết anh sẽ nghĩ như thế nào, hay  cảm nhận ra sao sau một thời gian lâu chỉ hình dung nàng qua trí tưởng.

            Có bốn người khách tới một lượt , họ lên ngồi ghế sau. Xe hàng nổ máy trở lại, từ từ  lăn bánh. Thụy gấp lá thư của Phương  bỏ vào túi áo trên.

            Ngồi bên cửa xe Thụy yên lặng nhìn ra ngoài. Ý nghĩ về một nơi chốn xa lạ, về một cuộc chiến đã xảy ra nơi ấy mà Thụy vừa ở đó cách đây hai tuần, giờ đây, trên chuyến xe hàng anh  đang ở trên con đường đi đến một thành phố. Rồi, anh sẽ thấy lại những khung sinh hoạt bình thường ở Sài Gòn như trước khi đi. Rồi, anh cũng sẽ mau chóng quên những ngày lửa đạn vừa mới qua.

            Sài Gòn, trời đang mưa. Xuống xe ở bên hông nhà thờ chợ Thị Nghè, Thụy đến trạm xe buýt đứng núp mưa, đồng thời, mở ba lô lấy chiếc áo mưa ra mặc.

            Trời mưa nặng hạt , rồi tạnh. Về tới chỗ nhà trọ, hầu như mọi việc tôi cùng làm một lúc cho nhanh chóng, sau đó, Thụy trút bỏ hết cảm giác nẳng nề của chuyến đi khi đã giặt, phơi xong hết quần áo, rồi bước vào phòng tắm.

            Mỗi giờ, thời gian lại chuyển dịch Thụy qua một ví trí khác. Bên ngoài, trời chưa tối hẳn. Từ trên gác, nhanh chân qua lối cầu thang đi xuống nhà, tay cầm sẵn tiền đưa cho bà chủ.

-Cám ơn cậu. Hai tuần rồi, cậu đi đâu xa ?

-Tôi đi công tác.

-Có một người tới tìm cậu.

-Ai vậy ?

-Tôi nhớ anh này có đến đây một lần.

-Anh ta có nhắn lại gì không ?

-Không. Anh hỏi cậu, tôi nói đi vắng, xong là anh lên Honda đi liền.

            Thụy  đoán nghĩ chắc là Thành.

-Cậu ra ngoài ăn cơm ?

-Ờ cũng đi ăn, rồi xuống phố.

-Tôi quí cậu làm nghe. Thật là một người đàng hoàng.

-Cám ơn bà. Cứ đến đầu tháng, tôi lo trả tiền nhà cho bà kẻo sợ bà lo lắng.

-Không, không sao đâu.

-Sao, lâu nay, anh con trai của bà có thư về không.

-Có, này cậu. Có ảnh của em chụp ở trường, tôi đưa cho cậu xem.

            Bà chủ nhà đi lấy thư  đưa cho Thụy đọc. Thụy chỉ đọc qua, xem sơ mấy bức ảnh rồi trả lại cho bà.

            Hoàn toàn, lúc này anh không nghĩ đến tương lai của mình.

            Vừa bước chân ra tới đầu đường, bất chợt Thụy có ý nghĩ hỏi mình sao lâu nay, không tìm sắm một xe đạp để đi đây, đi đó. Chưa tìm ra cách giải quyết, mưa ào xuống.

            Tới mười giờ đêm, tiệc sinh nhật vãn. Chỉ còn Nguyên và Nga ở lại dọn dẹp bàn ghế, ly tách, và dĩa giấy. Những phần ăn còn dư cũng được đem cất. Mỗi cô , người nào cũng có một phần quà mang về nhà, vì các món ăn và bánh trái hôm nay làm khá nhiều.

             Sauk hi dọn xong, Nga  để Nguyên lại một mình, nàng qua bên bà Huyên chủ nhà. Bà Huyên đón nàng, vừa vào nhà Oanh để nguyên chiếc khay xuống, rồi theo ý bà Nga ngồi xuống chuyện trò.

            Nga làm bà Huyên vui qua những câu chuyện. Chừng sau nửa giờ, nàng đứng dậy xin kiếu từ. Bà Huyên tiễn nàng đi ra lối cửa trước, dừng lại bên thềm mái hiên.

            Trăng sáng đẹp lạ lùng. Bây giờ, Nga mặc quần áo nhẹ trong nhà, nàng cảm thấy gió đêm hơi lạnh nhưng cũng hay, lúc đi, nàng đã quấn khăn quàng ở cổ.

            Cửa phòng khách vẫn còn mở, Nguyên đang ngồi đọc báo. Nga vào nhà, vừa đóng cửa lại, nàng lên tiếng hỏi Nguyên:

-Anh uống cà phê không ?

-Em không sợ mất ngủ, thì uống.

            Nga nói:

-Em đi làm cà phê.

            Nguyên đọc báo. Cà phê, Nga chỉ pha một phin, với bình thủy nước sôi vừa mới nấu xong.

            Nga hỏi:

-Sao, anh giúp em cả ngày nay, mệt không ?

-Có em, việc gì anh cũng làm tốt.

-Thật không ?

            Hai người bên nhau ngồi chung ở chiếc ghế lớn. Nguyên ôm Nga trong cánh tay, vừa vuốt tóc nàng. Hai người đang chờ cà phê chảy xuống ly.

-Ngày mai Tổng thống ra thăm Sư đoàn.

-Ông có ghé Huế không ?

-Không, ông chỉ thăm các đơn vị rồi về lại Sài Gòn.

-Có thăm Trung đoàn anh không ?

-Có chứ.

            Nguyên hôn mái tóc, hôn xuống cánh tay để trần của Nga anh cảm thấy dễ chịu, nhẹ nhàng với mùi vị trái cây nơi da thịt người yêu.

            Nguyên nói:

-Rồi em sẽ bắt đầu thấy hăng hái, yêu thích chuyện học hành.

-Anh mượn một số cours năm học đầu cho em.

            Nguyên nói:

-Thụy sẽ gởi cho em một số sách văn học em cần.

-Sách dành cho Đại Học.

-Ở trường Văn khoa Sài Gòn, có một số bài giảng được in thành sách.

            Nga chợt mỉm cười, nói với Nguyên:

-Một mình em mà đến hai người săn sóc.

-Chẳng phải, em sắp là chị dâu của Thụy đó sao ?

            Nga hỏi:

-Rồi đến lúc nào Thụy  mới về phép.

-Có lẽ vào tháng tới.

-Vậy anh viết thư nhắc Thụy mua sách Đại học cho em.

-Ngoài sách ra, em cần gì nữa không ?

            Nga chỉ nói:

-Em cũng rất thích học. Nhưng học Đại học, đâu có dễ dàng.

-Em nghĩ đúng.

-Tại sao, anh không muốn học nữa.

            Im lặng, một lúc sau Nguyên nói:

-Anh không duyên nợ với khoa bảng. Năm lên Đại Học, anh thi vào trường Sư phạm đậu đến hạng nhì, nhưng vào vấn đáp bị đánh rớt. Anh có thể học ở Sư phạm, nhưng học không có học bổng, nên anh bỏ, qua học Văn khoa, ở khóa nhì, anh đậu viết, nhưng rồi rớt vấn đáp. Thực ra, lúc ấy đừng xảy ra biến cố chính trị, có thể anh đậu được rồi....

            Nga nói:

-Mới rớt một năm thôi, anh đã nản chí.

-Anh không nản, nhưng duyên nợ với sách đèn, anh không có.

-Anh buồn lắm phải không ?

-Có buồn chứ. Nhưng bây giờ, em đã học thay cho anh.

-Em sẽ cố gắng.

-Và rất ngoan ngoãn nữa, phải không.

-Không đâu, em dữ lắm, Nga cười ngước mắt nhìn Nguyên.

            Rồi nàng hé môi để cho Nguyên hôn nàng.

            Khi xuống tới Sài Gòn, Thụy đến nhà dì Hồng. Trong nhà, ai cũng ngạc nhiên vì cả mấy tuần nay Thụy không đến. Thụy không nói về chuyến đi công tác, mà chỉ trò chuyện bình thường về công việc đang làm ở đơn vị.

            Có tiếng chuông, Thúy ra mở cửa, Lăng đến.

-Ủa, anh đi đâu mấy tuần nay ?

-Đi theo hành quân với Sư đoàn dù.

            Ngay lúc ấy, Thụy nhớ ra người khách đến tìm gặp  Thụy là Lăng, không phải bạn Hoài như  mình nghĩ.

 

 

 

                                                          XIII

 

 

           

            Vừa tới ngày nhận giấy tờ đi học, lúc tìm gặp anh em trong đơn vị nói lời chào từ giã, bất ngờ,Thụy  được hay biết hôm nay là ngày kỷ niệm bốn năm thành lập đơn vị biệt phái. Và, tiệc liên hoan mừng ngày này được tổ chức lúc sáu giờ chiều.

            Sau bữa ăn trưa,Thụy đón xe lam ra Tam Hiệp thăm gia đình chị Số. Tới khu chợ, anh thấy chị ngồi ở sạp hàng, hai chị em nói chuyện, và đợi chừng nửa giờ có cháu gái lớn ra trông hàng, chị đưa anh về nhà. Lối đường từ chợ đến nhà chị ở xa hơn cây số, nhưng đường đi có bóng mát của hàng cây nên không cảm thấy mệt nhọc.

            Đã vắng hơn bốn tháng, nay Thụy mới trở lại nhà chị. Có một vài thay đổi nho nhỏ, bên phía trái cạnh vườn, chị làm  hai cái chuồng cao nuôi chim bồ câu. Từ phía đường trên có tiếng chó sủa, vào sân, Thụy thật vui mắt được nhìn bầy gà của chị đang mổ thóc, và nghe tiếng gà mẹ, gà con ríu rít bên nhau mà nhớ đến làng quê trong thuở thanh bình. Nhớ rõ lần đầu cách đây bốn năm, Thụy và anh Nguyên từ Sài Gòn tìm lên thăm chị. Rồi, Thụy làm việc ở Biên Hòa, rất nhiều lần chị mongThụy  đến nhà chị ở cho có tình chị em, cũng gần chỗ làm việc (mà em có ngại lắm, em chỉ vẻ cho cháu học giúp chị) nhưng thực lòng, Thụy không muốn có điều kiện như thế, Thụy vẫn luôn nhớ đến chị, có dịp đến thăm, và tự nhủ rằng, chị là người nhân hậu, rất thân yêu trong gia đình, giòng họ, và riêng với cuộc đời anh nữa.

-Cháu chào cậu.

            Ở bàn học bên cửa sổ, cháu Hùng con trai chị vừa thấyThụy đứng dậy chào.

-Hôm nay cháu nghỉ.

-Dạ không, cháu học lớp chiều.

            Hai chị em ngồi ở bàn khách, trông ra cửa chính mở rộng. Chị Số hỏi, vừa rót trà nóng ra ly.

-Cậu có về phép thăm nhà không ?

-Em có về năm ngoái.

-Chú thím, mấy em khỏe không ?

-Ngoài nhà bình thường. Em cũng có ra làng quê.

-Chị cứ trông về thăm một lần mà chưa đi được.

            Thụy  nhìn gương mặt người chị, đôi mắt to, vẻ lặng buồn như chỉ gửi gắm trong câu nói.

-Em thăm chị lần này, có lẽ lâu nữa mới gặp lại.

-Cậu thuyên chuyển đi đâu ? Về ngoài Trung hay lên cao nguyên.

-Em đi học.

            Chị Số nhìn lại người em trai. Khi Thụy rút điếu thuốc trong bao, chị để anh châm lửa hút, và rồi không đợi chị hỏi, Thụy giải thích cho chị hay. Niềm vui dậy dàng làm sáng khuôn mặt chị.

-Vậy đến chừng nào em đi qua Mỹ ?

-Chưa đâu, đơn em xin đi học mới được chấp thuận.

            Thụy cũng nói cho người chị hay về điều kiện được cho đi học hoa tiêu là phải có sức khỏe tốt. Thụy  xong được giai đoạn này, trong kỳ khám sức khỏe vừa qua, phần nào anh cũng tốt, chỉ có mắt hơi yếu bị xếp loại A, nghĩa là rồi đây chỉ học về ngành trực thăng.

            Bữa ăn trưa, nhà chỉ có mấy người. Anh Nghi làm việc ở ngành kiểm lâm, trưa ở lại sở. Thụy đã ăn ở quán trước khi đến tìm chị, nhưng rồi cũng cầm đũa cho chị vui. Có món bún cá thật ngon, Thụy ăn hết tô, và gắng thêm một chén cơm.

            Chị Số hơi thất vọng khi thấy anh ăn ít, sớm ngừng đũa. Nhưng rồi, chị vui trở lại, và trong mắt chị ánh lên một niềm vui, sung sướng có được một người em nay mai sẽ đi học ở Hoa Kỳ.

            Khi được mẹ cho biết cậu đi học lái máy bay, cháu Hùng cứ nhìn anh, cắp mắt sáng lên có vẻ thán phục. Thụy  đọc được trong mắt đứa cháu những ý nghĩ và những ước mong của cháu trong sự tưởng tượng về một người cậu.

            Bữa ăn qua mau, Thụy lên tấm phản nằm nghỉ đọc báo, còn cháu Hùng cũng đã vội thay quần áo vì sắp đến giờ đi học.

            Trước khi đi, cháu Hùng lên tiếng chào Thụy, anh đáp lời vừa đưa mắt nhìn đứa cháu. Đợi cháu ra ngoài, Thụy mới hỏi:

-Cháu học hành khá không chị ?

-Cháu học khá, cậu.

-Mong cháu học khá, Thụy nói. Rồi tiếp lời: Bên giòng họ mình không có khoa bảng. Ai cũng chăm chỉ, cần cù, nhưng rồi đường học cũng không có ai đi được xa. Thế hệ anh, chị em mình qua rồi, mong đến các cháu thôi.

-Chị cũng thấy vậy. Nhưng dù sao, trong gia đình mình tình anh chị em, vẫn còn máu mủ, giòng họ.

-Chị ra quán bây giờ ?

-Không, chị làm việc nhà. Cậu nằm nghỉ đi.  

            Thụy  qua tấm phản, ngả người xuống nằm đọc báo. Một lúc anh thiếp ngủ, rồi thức dậy với một cảm giác xa lạ, mơ hồ. Khi nhìn qua kệ sách, Thụy lấy làm lạ có mấy cuốn truyện dịch, Thụy nghĩ chắc không phải của cháu Hùng mà là của anh Nghi. Anh Nghi cũng rất ghiền tiểu thuyết, mấy lần trước ghé thăm, ở lại một hai tối, trời có trăng sáng, hai anh em ngồi uống trà ngoài sân trò chuyện về thơ văn rất thú vị. Và trong các nhà thơ xưa, Nguyễn Bính là thi sĩ anh rất ngưỡng mộ.

            Ở trên kệ không có sách truyện kiếm hiệp của Kim Dung, nhưng Thụy biết anh Nghi đã đọc từng kỳ tên nhật báo và có trí nhớ rất tốt. Những truyện Kim Dung anh đã đọc, ngoài trí nhớ ra, anh có những cách mô tả  nhân vật rất ấn tượng, hấp dẫn và những lời bình luận cũng độc đáo. Thụy có đọc hai cuốn Cô gái Đồ Long và Tiếu Ngạo Giang Hồ. Hai nhân vật nữ trong hai bộ truyện này Thụy rất nhớ, rất vọng tưởng là Chu Chỉ Nhược và Nhạc Linh San. Và, sau hai nhân vật này , có một nhân vật phản ảnh rõ tính cách người đời trong xã hội là Nhạc Bất Quần.

            Thụy rời tấm phản, tới kệ sách, nhìn lướt qua một lúc, xong chọn cuốn Giã Từ Vũ Khí là cuốn anh luôn bị cuốn hút với nhiều lần đọc.

            Thụy trở lại tấm phản, nằm xuống mở rộng cuốn sách. Nhưng anh  không đọc từ đầu cuốn, mà lướt qua nhiều chương, xem chương nào thích thì dừng lại đọc.

            Đến chương XXIII, Thụy cảm thấy muốn đọc. Henry hết kỳ nghỉ bệnh trở ra lại chiến trường. Trước khi đi, anh gặp những người trong bệnh viện nói lời chào tạm biệt. Khung cảnh một buổi chiều thật buồn, cảm động.     Lúc sáng nay, nhận giấy tờ xong Thụy đi gặp vị Trung Tá Giám đốc, các Sĩ quan, anh em Hạ sĩ quan, rồi các bạn lính như anh để nói lời chào từ giã, bỗng dưng anh có cảm tưởng những kỷ niệm về một đời lính của mình đã thực sự hình thành và làm anh xúc động. Mới ba năm lính, vậy mà Thụy thấy thời gian như đã lâu. Nhớ lại buồi đầu tiên, Thụy và Tài bạn cùng khóa đến trình diện làm việc ở phi đoàn 217. Trong phi đoàn, hầu hết là các Sĩ quan phi công, hạ sĩ quan và lính chỉ khoảng mười người. Thụy có chức vụ là thư ký hành quân, buổi sáng lên ca, Thụy gọi điện thoại qua Đài khí tượng xin tin tức thời tiết để ghi lên bảng, sau đó, ngồi ở bàn làm những việc linh tinh về giấy tờ, vừa nghe điện thoại. Giờ nghỉ trưa, chiều, đi ăn xong Thụy  trở lại làm việc, đến tối , một mình với chiếc ghế bố ở  nơi phòng trực. Về  đêm, rất thường xuyên có những phi vụ tản thương ở chiến trường. Vào ngày đầu tuần và đầu tháng Thụy phải vẽ biểu đồ hoạt động của phi đoàn, rồi làm tính cộng số giờ bay của mỗi phi công trong tháng. Trong cuốn sổ bay hàng ngày, các phi công có phi vụ sau khi hoàn tất, thường ghi giờ bay vào sổ ở hai cột, cột hàng đầu là giờ cất cánh, cột hàng nhì là giờ đáp khi trở về, hàng cột  thứ ba là ghi tọa độ và mô tả mục tiêu. Khi tổng kết xong giờ bay, Thụy làm trên một tờ giấy trắng viết tay để trình chi vị Đại úy phi đoàn phó vừa kiêm nhiệm Trưởng phòng hành quân. Thụy chỉ làm một thời gian ngắn, rồi đi. Nhưng với đơn vị đầu tiên này đã cho anh một chút hương sắc hào hoa của người lính không quân. Ở phi đoàn, các sĩ quan trẻ rất vui tính, người nào cũng có thiện cảm với cấp dưới và khi thấy trong lúc rảnh, Thụy đem sách học, ai cũng khuyến khích. Ngày ra đi lính, Thụy thấy tương lai mình buồn bã, nhưng rồi sau ba tháng học căn bản quân sự ở quân trường Nha Trang xong về đơn vị này công việc thật nhàn hạ nên anh cảm thấy dễ chịu, và cầm chắc chữ thọ cho số mạng của mình. Ngoài công việc ra, đôi lúc, anh cũng có đôi chút nghĩ ngợi, suy tư về cuộc chiến tranh. Mỗi ngày, từ sáng đến tối khuya, phi đoàn có rất nhiều phi vụ tiếp tế, tản thương, công tác, biệt phái. Khi các phi công trở về sau một phi vụ hoàn tất, nhìn hình ảnh họ qua bộ quần áo bay màu lam, màu đen, hay màu da cam, Thụy có ngay một ý tưởng về họ là người hiệp sĩ của không trung.  Và tiếp đó, anh liên tưởng những trang sách tả các những chuyến bay chở thư, những chuyến bay đêm, những chuyến bay hành quân của nhà văn phi công Pháp Saint Exupéry. Vào một tối lên phiên trực,Thụy được Trung úy Thạnh trưởng toán cho anh theo một chuyến bay đêm đi tản thương ở Hậu Nghĩa với hai phi công trong phi đoàn. Bãi đậu phi cơ của phi đoàn nằm xa doanh trại chừng hai trăm mét, lúc  lên phi cơ, anh ngồi phía sau với một cơ khí viên, đội mũ bay, phía trước là hai ghế ngồi của phi công bên trái là người chánh, bên phải là người phụ. Sau những vòng quay rất nhanh của cánh quạt, phi cơ cất cánh. Từ chỗ ngồi nhìn ra khoang cửa, lúc phi cơ dần dần lên cao Thụy trông thấy quang cảnh Sài Gòn bừng sáng ánh đèn. Nhưng chỉ ít phút sau, phi cơ bay vào trong đêm tối, và lúc đến vùng hành quân Thụy trông thấy những tia sáng của lửa đạn và có cuộc chạm súng đang diễn ra. Vừa liên lạc với quân bạn, phi cơ vừa giảm độ cao và đáp xuống một trảng cỏ. Gió cánh quạt vẫn quay đều làm tung những đám cỏ ở khu tiền đồn , ngay lúc đó, bốn người lính chuyển hai băng ca của hai thương binh lên máy bay. Trời tối, Thụy không nhìn rõ mặt họ, nhưng nhận ra các vết thương đã được băng bó tạm.

            Từ tiền đồn về quân y viện Cộng hòa khoảng nửa giờ bay. Sau mười phút đổ thương binh, trực thăng lại cất cánh. và trước khi trở lại phi đoàn, hai phi công bay mấy vòng bay trên thành phố Sài Gòn, lúc này,Thụy  được thỏa mắt nhìn thấy một thành phố sáng rực, tưng bừng như ngày hội.     

            Thụy về viết một đoản văn về chuyến bay đêm gởi báo Lý tưởng và được chọn đăng. Rồi anh gởi thêm ít truyện ngắn, các sáng tác của anh được chúy ý, và đến một ngày ấy Thụy được kéo về báo Lý tưởng làm việc với tính cách phóng viên cho tờ báo. Thời gian này, Thụy đi công tác luôn, chuyến công tác nào anh cũng được lên máy bay. Những gì đã qua, đó là những gì vẫn còn lại (rồi sẽ theo anh).

            Vừa ra khỏi bệnh viện, Henry bước vào quán cà phê . Bên ngoài, trời đêm xuống lạnh lẽo, nhiều sương mù. Henry ngồi uống cà phê, lúc trông thấy Cathérine đến, anh đứng lên gõ vào cửa, nàng quay đầu, trông thấy anh nàng mỉm cười.

            Henry rời khỏi quán, bước ra ngoài và cùng với người yêu đi chơi trên phố. Đây cũng là một buổi tối cuối cùng, rồi hai người từ biệt. Rất có thể, họ sẽ gặp lại, và cũng có thể là không. Chiến tranh, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang diễn ra, Cathérine là người Anh làm nữ  y tá phục vụ trong bệnh viện của người Anh, còn Henry là người Mỹ phục vụ trong đội quân Hồng thập tự , cả hai đang ở mặt trận trên đất Ý.

            Về đêm,  đường phố lặng yên, vắng bóng người. Những bước đi của hai người bên nhau là những lời tâm tình, những ước mơ, những điều muốn nói, có vẻ như chỉ mong tìm nguồn hơi ấm, một chỗ ẩn núp, vì trên mỗi  quãng phố họ đi qua trời đang lạnh, rất tối, và mưa.

            Một lúc sau, họ đón xe ngựa trở về khách sạn trước mặt nhà ga nghỉ ngơi, ăn bữa cơm tối, trước khi chia tay. Suốt buổi ăn, Cathérine vắt chiếc áo của Henry trên vai nàng. Đây là kỷ niệm giản dị và chân thực. Xe lửa từ Turin sẽ đến ga vào lúc mười hai giờ đêm. Tới giờ đó, Henry ra đi và chuyến tàu sẽ đưa anh đến đơn vị đang ở ngoài mặt trận.

            Lúc hai người chia tay, trời mưa nặng hạt. Cathérine không vào sân ga để tiễn người yêu, chiếc xe ngựa đưa nàng trở về bệnh viện, ngồi trên xe, nàng ngoái đầu nhìn lại bóng dáng chàng.

             Còn một chương nữa kết thúc phần thứ ba của tác phẩm nhưng Thụy ngừng hẳn, không đọc thêm,  trong khoảnh khắc này, những cảm xúc trong buổi tối ấy đã làm Thụy lây lất nghĩ đến chiến tranh, đến các cô gái anh đã quen hoặc một đôi lần gặp trong những ngày tháng qua của tuổi trẻ. Và, không có một ai như  Cathérine cả. Thụy nghĩ đến Thúy Hà , đến những người bạn đã quen biết nàng, trong đó có Thụy nữa. Sau cùng, Thụy nhớ đến Thiên Nga. Trong sự nhớ nghĩ về nàng, Thụy trở lại những ngày nghỉ phép năm trước, đó cũng là hạnh phúc tưởng như mình đã tìm thấy.

            Chị Số ở nhà dưới đi lên, lúc đặt mâm ăn xuống bàn, chị lên tiếng:

-Có chè ngon, em dậy ăn.

            Thụy  ngửi được hương vị thơm của món chè, liền ngồi dậy, đem cuốn sách sang chỗ kệ, để vào chỗ cũ.

-Em ở đây chơi với gia đình chị ít ngày.

-Em không có ngày nghỉ phép.

-Vậy biết đến lúc nào gặp lại em.

-Rồi cũng có ngày chị ạ.

-Ăn chè đi em.

            Chị Số dọn mâm chè đến sáu chén. Thụy cầm muỗng múc chè ăn. Chè ngọt thanh, những hạt đậu thật mềm, vừa dẽo. Vừa ăn, Thụy  thưởng thức món chè cùng với khung cảnh làng quê ở nơi đây. Bên ngoài, trời chiều thật dễ chịu.

-Lúc này chị buôn bán khá không ?

-Cũng tạm cậu.

-Nhìn  thấy cuộc sống yên ổn của chị ở vùng quê em rất là thích.

-Rồi ít năm nữa thôi, cậu có gia đình.

-Chưa đâu chị ạ.

            Ngon miệng, Thụy ăn thêm chén nữa. Người chị cảm thấy vui, hỏi anh thêm nhiều chuyện. Thụy hết sức hạnh phúc được nhìn và nghe tiếng chị nói. Bằng một giọng hơi nặng, nhưng rõ ràng, chị Số kể lại những năm tháng rời xa Quảng Trị, vào sống ở Huế rồi  lấy chồng, ít năm sau đi theo chồng vào miền Nam. Từ thuở ấy, cái tuổi con gái lớn lên và đi xa gia đình, đã gần mười năm nay chị chưa có dịp về thăm làng quê nội ngoại ở Quảng Trị. Trong các chú, các cô, ba Thụy rất được chị quí trọng. Với ba anh, ông cũng không chỉ coi chị là cháu mà còn là đứa con ruột thịt.

            Ngày xa ấy, Thụy chỉ gặp chị một đôi lần, đến bây giờ, gặp lại lòng anh trở nên thân thiết hơn. Thụy có anh trai và em gái. Cả hai anh đều lấy làm thích, nhưng vẫn còn thiếu, ấy là anh cũng rất cần có một người chị. Bây giờ, anh có thể nghĩ rằng, chị Số là người chị ruột thịt. Thụy thích có được một người chị để được nhớ nghĩ tới và mong mỏi tin tức khi ở xa. Và có được người chị, ở xa về với gia đình, thì nhà người chị là nơi trước tiên mình tìm thăm, đến đó, mình cảm thấy vui được chuyện trò, và nếu lúc mình đến chị vắng nhà, mình sẽ giúp cho chị công việc gánh nước, bổ củi, để khi chị còn lo buôn bán ngoài chợ khỏi phải bỏ công làm thêm việc nhà. Và rồi, buổi chiều hôm ấy chị em gặp lại nhau, cùng nhau vui với bữa cơm trong gia đình. Tối đến, thời gian thư thả tiếng chuyện trò vang âm cả một vùng làng quê ở trong trí nhớ cũng như bên ngoài của cuộc đời.

            Năm giờ chiều, Thụy chào người chị để đi. Chị Số đi theo tiễn anh ra lối cổng, dừng lại đó, Thụy nhìn chị trên gương mặt buồn và đôi mắt mở to, lúc ấy, chị đưa tay lên quệt mấy giọt nước mắt.

-Em cám ơn chị. Đi xa em nhớ đến chị và các cháu luôn.

-Cậu nhớ viết thư cho chị.

-Em nhớ.

            Thụy dời bước, không ngoái đầu lại. Dưới bóng im con đường quê Thụy bước thanh thản, ra đến bến xe gần chợ, anh vừa gặp kịp chuyến xe lam đi Biên Hòa.    

            Khoảng đường từ Tam Hiệp lên Biên Hòa chừng mười cây số. Thụy ngồi dãy ghế bên trái, chỗ phía ngoài cạnh bậc thang lên xuống, đầu quay nhìn những cảnh vật đằng sau mỗi khi xe lướt qua. Trời chiều bâng khuâng trong nắng ấm. Thụy không nhận ra một quang cảnh xa lạ, và cũng chẳng thấy nó quá thân thuộc với mình. Đã qua hơn một năm Thụy đến làm việc ở thị trấn này, chừng đó không lâu, nhưng rồi, cuộc sống của Thụy ít nhiều cũng có sự gắn bó nên đôi lúc nhận ra vẻ thân tình của đời sống, Thụy thật sự bằng lòng, chẳng đòi hỏi cái gì cao hơn, hay một ước vọng gì lớn hơn.

            Thực lòng, Thụy không mấy vui về chuyện được đi học lớp sĩ quan ngành hoa tiêu. Điều ước của anh là dứt khoát lấy cho được mảnh bằng tốt nghiệp trung học, xong việc này là món nợ anh trả dứt. Thụy ước mong có tấm bằng này là để giải tỏa mọi mặc cảm tâm lý về chuyện thi cử đã dồn đọng từ nhiều năm tháng qua. Và rồi, Thụy có thể xin đi học khóa Sĩ quan kỹ thuật ra trường được mang cấp bậc Thiếu úy làm việc dưới đất, có đồng lương kha khá để có thể nghĩ tới được một mái ấm gia đình. Nhưng đây cũng chưa hẳn là điều ước mong thực sự của Thụy,  điều ước chính là con đường văn nghệ, một con đường viết văn anh đang đi và luôn ấp ủ bên mình.

            Khi có được một tâm hồn tự do, phong phú, Thụy sẽ viết văn hay và tin tưởng vào năng khiếu, vào sự sáng tạo của mình và luôn luôn trong mọi tình huống là nhìn về phía trước. Ở đây, trong cái nhìn này, là sự cố gắng khám phá những bí ẩn của con người trong văn chương. Thụy đang nói với chính mình, tôi sẽ không đi tìm sự linh diệu, huyền bí về con người trong đức tin của tôn giáo, mà tôi chỉ mong đạt tới được con người bằng giá trị nhân bản của hiện sinh. Và riêng tôi, những nhân vật trong tiểu thuyết tìm kiếm, không là toàn thể nhưng có được tính cách biểu tượng. Mới ít năm trên đường văn nghệ, nhưng tôi cũng nhận ra sự bộc phát của riêng mình, đồng thời, có một ý niệm về bản sắc của văn chương miền Nam từ sau ngày chia đôi đất nước. Theo cái nhìn chung, thời của văn chương tiền chiến và văn chương kháng chiến đã qua, được đem vào văn học sử một cách trang trọng. Nhà trường vẫn cất giữ những sách này trong thư viện, độc giả bên ngoài  vẫn đọc sách, và các tác phẩm cũ vẫn làm họ yêu thích, nhưng dù vậy, nó đã không còn nằm trong luồng gió mới của miền Nam. Từ ảnh hưởng lớn lao của văn chương hiện sinh, thế hệ mới của tuổi trẻ đã chuyển dòng, khởi sự cho miền Nam một cách viết mới, và cách viết này được có cảm hứng từ những suy nghĩ mới. Nhóm Sáng Tạo là tiền phong, nhóm này  tuy không nhiều người, nhưng gây nên được ngọn lửa, thổi bùng cháy sức sáng tạo ảnh hưởng lớn cho toàn cõi văn học miền Nam. Khi khởi viết những truyện ngắn đầu tiên, tôi đã nương nhờ theo cách viết của nhóm nhà văn này, và càng viết, tôi nhận ra mình có thêm cảm xúc mới, cái nhìn mới, nhờ đó chữ nghĩa trở nên vừa lạ lùng, vừa trong sáng.

            Nhưng theo tôi, gió mới trong văn học miền Nam chỉ ảnh hường nhất thời. Sau những mới lạ ban đầu trong cách viết mới, hầu hết các nhà văn tiên phong đã dừng lại, không đi xa nữa. Tại sao ? Nguyên do chính, vì những cái vốn sống, vốn kiến thức của họ chỉ đến tầm mức trung bình. Có hai hình ảnh nhà văn ở miền Nam: nhà văn tự học, nhà văn có bằng cấp. Ở các nhà văn tự học, thường là có năng khiếu đặc biệt về sáng tác, về sự cảm thụ , nhưng dễ chết non, vì rằng,  ở buổi đầu họ viết hay đều là những dạng hồi ức, tự truyện, khi đến giai đoạn trưởng thành của tiểu thuyết được ví như  dòng sông ra đến biển, thì các nhà văn này không thể viết tác phẩm lớn có bề dày cả hình thức, nội dung, vì rằng, họ thiếu kiến thức học vấn, thiếu cả kinh nghiệm sống, đồng thời điểm quan trọng nhất là đọc. Sự phát triển trong việc đọc là tìm hiểu hiểu văn chương nước ngoài, sự kiện này, các nhà văn tự học do thiếu trình độ ngoại ngữ, và ở miền Nam còn quá nhiều sách dịch. Đó , xem ra, đọc là một bước cản rất lớn hầu như rất ít có nhà văn tự học nào có đủ khả năng vượt nổi.  Về nhà văn thuộc lớp có học, có bằng cấp, thì những tác phẩm của họ viết ra lại nhiều  phần khó hiểu. Những nhà văn này có thể đem lại cho độc giả sự tin tưởng về cái sở học của mình ở cách viết đúng câu, đúng văn phạm, nhưng không tạo cho họ những hứng thú trong một bài thơ, một truyện ngắn có tính cách sáng tạo, vì rằng sự vắng bóng cảm xúc, đến cả đời sống thực cần thiết cho kinh nghiệm. Ở lớp nhà văn có học, hiểu rộng trên sách vở về triết lý hiện sinh nhưng không biểu hiện được con người hiện sinh trong cuộc sống qua tác phẩm của mình. Nguyễn Du không là một nhà văn, nhà thơ của thuyết hiện sinh , nhưng truyện Kiều ông viết là một tác phẩm hiện sinh đặc sắc, toàn diện.

            Thụy  luôn có tâm niệm muốn đi đúng con đường văn nghệ, và chân thực nên luôn luôn anh tự đo lường khả năng của mình. Để đi được xa, trước tiên anh cần kiến thức, đó là sức đọc. Thụy chịu khó, cố gắng đọc. Ít ra, mỗi nhà văn, anh phải tìm ra một cuốn đặc sắc để đọc. Với vốn đọc nhiều, anh tin rằng, mình sẽ nghĩ ra được một cách viết. Thụy muốn viết những gì anh hiểu được, không làm dáng trí thức để viết những điều mà mình không hiểu. Trong những câu danh ngôn, anh có được đọc câu của nhà văn Boileau, ông nói rằng, điều gì mình hiểu  thì sẽ diễn đạt ra rõ ràng. Thụy cũng không thích viết lập lại những khuôn sáo của người khác.Thụy chỉ muốn viết, ước ao viết ra được những gì chân thực, dễ hiểu, đầy cảm xúc, và phải có một kỹ thuật văn chương về cả hai mặt bố cục và bút pháp. Khi đạt điều này, anh đi được một mình. Không có nghĩa, trên con đường độc đạo, chỉ riêng mình anh đang đi, mà thực ra trong cái bóng của anh có sự hiện diện của một người thầy. Người thầy của anh là tác giả và những tác phẩm mà anh vừa yêu thích, vừa khám phá thấy. Nhờ vào người thầy mà Thụy chọn như là định mệnh, và con người  này sẽ là hướng đi dẫn dắt anh đi tới một chân trời văn học.

            Thụy đang ở tuổi hai mươi, cùng lứa tuổi của anh, có rất nhiều anh em cũng  làm văn nghệ, sáng tác thơ văn. Những anh em này là học sinh, sinh viên, và đa phần do tình hình chiến tranh, những người trẻ này đã mặc áo lính. Thụy đang tìm đọc những tác phẩm của bạn bè hôm nay, dù chỉ nghe tên, dù chỉ sơ thân hay đã quen biết. Và đọc họ, anh nhận ra được một đôi điều họ có cái nhìn mới, cảm xúc mới, và rất là táo bạo trong sự diễn tả. Vào thời điểm này, văn chương lớp trẻ trở thành một biểu tượng cho văn học miền  Nam, một văn học của khói lửa và chiến tranh. Và những người bạn văn này có tài năng hơn Thụy, nhưng không vì thế, anh không nhận ra sự yếu kém của họ, nhìn chung vào mặt yếu, anh thấy chưa có ai viết thực với suy nghĩ và cảm xúc, không những thế, rất nhiều anh bạn còn ưa sự làm dáng trong văn chương. Rồi, cái nhất thời ở phía ngoài bề mặt chiến tranh, cũng sẽ chỉ còn là những sự kiện thông tin, sáng tác của họ một thời gian sau cuộc chiến sẽ trở nên cũ kỹ như một lớp sơn đã tróc.

            Trưa hôm ấy nhà vắng, chỉ có mình Thụy và Thúy Hà. Riêng hai người ngồi ở bàn khách chuyện trò, nàng biết anh yêu nàng nên để nguyên vẹn cả khuôn mặt của nàng cho anh được ngắm.

            Với một giọng thân tình, Thúy Hà hỏi:

-Anh đi xa như vậy có nghĩ đến lúc trở về không ?

-Anh không nghĩ tới. Nhưng có em, anh luôn ước mong có một ngày trở về của mình.

-Anh trở về, sẽ cảm thấy vắng bóng em.

-Không, em không vắng bóng đâu. Em sẽ có những đổi khác, nhưng mà trong kỷ niệm anh biết mình đang có là của em.

-Anh có đi theo con đường viết văn không ?

-Anh muốn nói với em, anh sẽ theo con đường này. Không, nó không là mơ ước, không là sự thành công, không là đi tìm kiếm danh vọng, tên tuổi, nhưng nó đã báo trước cho anh biết số phận của mình. Văn chương như thể đã trói buộc, vận vào đời anh.

-Em nghĩ là anh sẽ viết văn.

-Có em, anh tin là anh viết được. Rồi một ngày nào đó của bao nhiêu năm sau, em là nhân vật chính trong tiểu thuyết của anh.

-Nếu anh thực hiện được đó là niềm vui em đã dành cho anh.

-Em đã nói ra những lời anh ấp ủ.

            Sau một ngày ấy, và từ buổi ấy ra đi, giấc mơ để trở thành người viết văn ở nơi Thụy vẫn luôn là sự đợi chờ một hình bóng. Khi Thụy gặp lại Thúy Hà ở Sài Gòn, nàng có đổi khác đôi chút, và nàng có thêm nữa chút vẻ đẹp quyến rũ, rất mặn mà. Những ngày ở Sài Gòn, Thụy và nàng cùng cảm thấy hạnh phúc. Anh yêu nàng, có được nàng qua những ngày mưa nặng hạt buổi chiều. Thụy nhớ chiếc áo dài xanh chấm bông trắng nàng nàng mặc. Thụy như luôn ở bên nàng, và nàng đã cho anh một khuôn mặt thiếu phụ thật trẻ đẹp, mỗi ánh mắt nhìn nàng, anh cố giấu đi nỗi buồn của mình vì thực sự trong lòng đang có niềm khao khát tình yêu. Và ở bên nàng, anh rất thích nghe tiếng nàng nói, tiếng nói của nàng âm thanh trong trẻo như tiếng đàn, có lúc thấy mờ đục như thấm nước mắt, và với giọng nói khô ngọt như miếng mứt hồng cũng hết sức gợi ra trong anh lòng thèm muốn có được tình yêu trong vòng tay ấp ủ của nàng.

            Nàng vào thăm Duy đang học ở quân trường, hai tháng sau đó, nàng về. Sáng sớm hôm ấy, Thụy đến trạm hàng không đưa tiễn nàng.

            Trước khi chia tay, nàng để cho anh ôm hôn nàng, và nghe nàng nói:

-Anh phải quên em mới viết văn được. Đừng nên giữ lại em, nhớ em trong những ngày mưa ở Sài Gòn, vì như thế, anh sẽ chỉ quá nặng lòng tươngtư không viết được. Hãy quên em đi, hãy nghĩ em là một người khác thì anh sẽ viết được và thành công.

            Từ lần nghỉ phép đầu tiên về thăm gia đình, Thụy được hay tin Thiên Nga là người bạn gái của anh Nguyên. Và, đến nay, hình ảnh Thiên Nga mà Thụy mường như nàng là một nhân vật tiểu thuyết.

            Xe lam vượt lên hết quãng dốc, rồi giảm tốc độ xuống, rồi dừng lại phía bên ngoài con đường trước cổng gác chính của Quân đoàn.

 

 

 

                                                        XIV

 

 

 

            Tiệc liên hoan tổ chức ở phòng hội, hai chiếc bàn dài trải khăn màu và mấy chục chiếc ghế xếp. Trên mỗi bàn bày nhiều thức ăn, rượu, bia và nước ngọt.  Anh em trong đơn vị khoảng ba mươi người họp mặt đông đủ.

            Sau lời ngỏ của vị Trung tá Giám đốc kết thúc, tất cả đồng loạt vỗ tay, rồi bữa tiệc vui bắt đầu, mỗi người tự động lấy phần ăn và thức uống cho mình. Có ghế, nhưng ít ai ngồi. Dù là chung đơn vị, nhưng vẫn theo thứ cấp, các Sĩ quan đứng một nhóm riêng, hạ sĩ quan và lính một nhóm riêng. Tiếng chuyện trò nổi lên vui vẻ, thoải mái, và không thiếu những chuyện tiếu lâm là cả một kho tàng của binh chủng Không quân, bao nhiêu chuyện này thường hay đăng trên Lý tưởng, nhưng cũng có một số chuyện được phịa ra nghe vừa lạ, và vui.

            Thụy chỉ uống bia, không dùng rượu. Và, hôm nay cùng các bạn, người nào cũng bắt anh cụng ly. Trong đám lính bạn Thụy, có bốn tên đã đậu Tú Tài, vậy mà chỉ mình Thụy đi học Sĩ quan, ba bạn kia vẫn muốn làm lính để có được nhiều thì giờ học thêm lấy cho xong cái bằng Tú Tài đôi.

            Khi gần tan tiệc, Thụy mới tìm đến chào tạm biệt các vị Sĩ quan. Các Sĩ quan không trợ đều thuộc ngành phi hành , tuổi tác họ chỉ hơn một hai tuổi, tính tình rất vui vẻ.

            Người sau cùng, Thụy đến chào là Trung úy Khải. Thụy nói xong, ông đưa mắt nhìn lại anh rất lâu. Rồi bằng một giọng chân tình, vừa nghiêm nghị, ông nói:

-Mầy đã đi Sĩ quan, thì gắng cho thành. Dù tình huống nào cũng phải trở thành Sĩ quan, không được thoái bước mà quay lui, nghe rõ chưa.

-Nghe rõ Trung úy,Thụy  đáp.

            Ông đưa tay ra bắt tay Thụy.

            Tám giờ tối, tan tiệc. Sau khi thu dọn xong, anh em trong đơn vị chia tay ra về. Chỉ những toán trực ở lại làm việc.

            Vừa trông thấy Thụy, vị Trung tá Giám đốc hỏi:

-Anh có về Sài Gòn không ?

-Dạ có.

-Lên xe tôi về.

            Chiếc xe pick up sơn màu xanh. Ngoài chỗ ghế lái, băng bên cạnh rộng và dài ngồi được ba người.

            Khi xe trên đường hướng ra cổng, một giọng hơi nhỏ, Thụy nói:

-Em cám ơn Trung tá đã giúp cho em nhiều trong thời gian qua.

            Một giọng vui, ông hỏi:

-Anh ra Sĩ quan, rồi có muốn đi ngành Không trợ không ?

-Em chưa dám nghĩ gì cả. Em chỉ mong sao được đi Mỹ học, rồi ra trường.

-Rồi ngày ấy sẽ đến với anh, ông nói.

            Chiếc xe rẽ trái khi ra khỏi cổng Quân đoàn. Giờ này, dưới đèn điện sáng dọc con đường, sinh hoạt thị trấn nhộn nhịp, đông vui. Các quán ăn đông khách, và các quán cà phê vọng lên tiếng nhạc, giọng hát Khánh Ly nghe văng vẳng, chán chường.

-Thời trung tá đi Pháp, thời gian học lâu không ?

-Gần ba năm.

-Thời đó, đi Pháp thật là hiếm.

-Lớp của tôi là lớp đầu, có chừng ba chục anh em.

            Một giọng vui Thụy hỏi:

-Thời trẻ đó, Trung tá có quen cô đầm nào không ?

-Có chứ.

            Thụy không cần hỏi thêm, đã được nghe ngay câu chuyện tình của ông với một cô sinh viên người Thụy Sĩ qua Pháp học.

            Trên gương mặt vị Trung tá ửng hồng vì uống khá nhiều rượu whisky, nhưng ông không say. Những câu chuyện ông vừa kể cho Thụy nghe rất hứng thú, và có những câu thơ Pháp ông đọc lên nghe thật đậm đà, mới lạ. Paris, Thụy không dám hình dung nơi kinh thành ánh sáng ấy những gì lớn lao mà chỉ nhớ nghĩ nơi ấy bởi có tâm hồn yêu thích thơ văn.. Thụy thích những bài thơ của thi sĩ Cung Trầm Tưởng, anh thèm mùi vị cà phê Magots, điếu thuốc Gitane và khu phố sinh viên Latin, những hình ảnh ấy nằm ở trong trí nhớ anh qua một đoạn văn rất đẹp trong tiểu thuyết Đời phi công của nhà văn Toàn Phong. Và, còn thêm một nơi chốn nữa là khu vườn Luxembourg, nơi đây, vào mỗi buồi sáng đi đến trường học, chú bé Pierre Nozière(chính là Anatole France) vừa đi, vừa nhảy nhót như một con chim sẻ. Thụy rất yêu chú bé nếu anh được gặp chú bé ngoài đời, vì chú cũng có một tâm hồn dễ mơ mộng giống như anh.

-Ngày Trung tá về , đất nước đã chia đôi ?

            Thụy hỏi điều ấy, ông gật đầu. Xa lộ dài hun hút, bắt đầu chìm trong bóng tối. Hai bên rất là vắng vẻ, thưa thớt ánh đèn qua những căn nhà, về phía trong xa là bóng núi và các làng mạc.

-Lâu nay, anh có sáng tác được gì thêm không ?

-Dạ, cũng có. Em viết được vài truyện ngắn.

-Anh có tác phẩm in nào chưa ?

-Dạ chưa. Em cũng chỉ mới tấp tễnh viết văn thôi.

-Anh viết cũng khá. Rồi đây, được cơ hội đi xa anh có thêm nguồn cãm hứng sáng tác.

-Em rất muốn viết một cuốn tiểu thuyết về người phi công trong thời chiến.

-Ý nghĩ đó hay. Lâu nay, có một số rất ít viết về cuộc chiến tranh của người phi công.

            Thụy suy nghĩ một lúc, rồi nói:

-Khi trở thành phi công, em sẽ viết, và tin là tác phẩm hoàn tất. Em muốn viết để tiếp nối cuốn tiểu thuyết của nhà văn Toàn Phong. Ở cuốn truyện này, độc giả chỉ mới biết được giai đoạn đầu của người phi công vào những năm còn đang huấn luyện, về cái đẹp của tình yêu, về phần em , nếu tiếp nối được em sẽ viết về những người phi công đang hiện diện trong cuộc chiến tranh ở trên vùng trời miền Nam và cả miền Bắc nữa.

-Anh hãy đọc thêm tiểu thuyết của Saint Exupéry.

-Sách nhà văn phi công này đã được dịch mấy cuốn. Em có hai cuốn Bay đêm và Chuyến thư miền Nam. Nhưng thực sự, thời của Saint Ex, cũng vẫn là thời huấn luyện, thử thách từng dặm đường bay trên không gian, và thời ấy, phi cơ hẳn còn đang thô sơ chưa hiện đại như sau này.

            Vị Trung tá trở lại thời gian cũ của mình, ông cho Thụy biết những tháng năm khó khăn lúc ông học ở bên Pháp, và điều ông cũng như tôi hãnh diện là thế hệ của ông sau này là những người làm vinh dự cho binh chủng Không quân.

            Tới ngã tư Sài Gòn, xe rẽ trái đi theo đường Hồng Thập Tự. Khi xe dừng lại bên đây cầu, trông qua bên kia là khu nhà thờ, Thụy nói lời từ  giã cám ơn ông lần nữa rồi xuống xe.

            Mới tối hôm đó, đã qua hai tuần lễ Thụy  rời xa đơn vị. Ngày mai, Lăng đi xuống miền Tây thực tập ở ba tỉnh Mỹ Tho, Cần Thơ và Long Xuyên. Thời gian thực tập bốn tháng xong trở lại trường, rồi học hết chương trình Cao học trong hai năm. Khi ra trường, Lăng sẽ được hưởng lương ngạch Đốc sự và đảm nhận chức vụ Trưởng ty, Quận trưởng, có khi là Phó tỉnh trưởng.

            Sau khi xem xong trận đá banh, Thụy và Lăng tìm đến quán ăn ở đường Nguyễn tri Phương. Thụy nói với Lăng dù được gọi đi học nhưng lòng anh không mấy vui, vì món nợ với cái bằng Tú Tài hai anh chưa trả dứt được. Không hiểu sao, Thụy cứ lấn cấn và luôn bị ám ảnh về tấm bằng này đến nỗi khiến anh có ý nghĩ mình làm gì cũng cứ thất bại.

            Bữa ăn ngon, và hết sạch các món hai đứa gọi. Không ngồi lâu, vì Lăng phải về nhà để ngày mai đi chuyến xe sớm.  Chiếc xe  Lăng mua, bề ngoài cũ nhưng máy còn tốt, chạy vẫn nghe êm. Sài Gòn, thành phố này luôn ồn vui, sinh động, cho Thụy một cảm giác mình còn trẻ và rất yêu thích cuộc sống. Kể từ nay, có thể nói, cả Lăng và Thụy đều có một một tương lai định hình.

            Lăng ngừng xe , thả Thụy xuống ở khu  chợ Bàn Cờ.

-Có rảnh, nhớ viết thư.

-Có chỗ ổn định, anh xuống dưới chơi.

            Một vài giây còn đứng với nhau, Thụy nói:

-Tôi tính xin ít ngày phép về Huế thăm nhà.

-Xin được, anh nên đi.

            Từ ngõ đường ngoài Thụy đi bộ đến nhà Huê. Có tiếng Thụy và nghe cả tiếng gõ cửa, Huê đi ra.

-Ủa,  anh hả.

-Anh đến mời em đi uống cà phê.

-Sao mà có chuyện lạ vậy ?

-Bình thường thôi, có  gì đâu mà lạ.

            Huê khoác chiếc áo len nhẹ ở ngoài bộ quần áo thường có chấm bông, rồi cùng Thụy đi ra quán nước đầu đường.

            Quán nước có mái hiên, đèn sáng, nhưng khách hơi thưa vắng. Cả Thụy và Huê cùng uống cà phê đen nóng.

            Khi đứa nhỏ chạy bàn bỏ đi, Thụy nói:

-Em có thấy uống cà phê lúc nào cũng thú vị.

-Em cũng thấy thế.

-Em và anh có vài sở thích giống nhau.

-Nhưng suy nghĩ về tình cảm lại rất khác nhau.

-Dù thế nào, em cũng không quên anh.

            Mỗi ly cà phê nóng được đặt trên dĩa lót. Thụy múc hai thìa đường bỏ vào tách của Huê .

-Lâu nay anh đi đâu không thấy ?

-Anh vẫn làm việc ở trên Biên Hòa và ở trên đó luôn, ít về Sài gòn.

-Em cứ tưởng anh lại đi xa.

-Đi xa, anh đã viết thư cho em rồi.

-Trời, anh làm như em là người yêu.

-Cà phê ngon, em uống đi.

            Thụy  đốt điếu thuốc sau một hớp cà phê uống đầy. Thụy muốn tìm một lời chân thật để nói với Huê và anh đang nhìn nàng uống cà phê. Lúc nào gặp nhau cũng vậy, Huê  rất là tự nhiên khi nàng cho anh ngắm lâu vẻ đẹp của nàng.

-Sao đó, công việc làm của anh ?

-Cũng bình thường. Anh luôn nhớ đến em.

            Huê mỉm cười nói:

-Anh luôn hiểu sai những ý của em.

-Nhớ, đâu hẳn chỉ là tiếng của tình yêu, mà tình bạn cũng có.

-Nhưng lúc nào, em cũng thấy anh mượn nhiều ẩn dụ.

            Thụy mỉm cười, nghĩ đến giọng nói của Huê. Trên khuôn mặt Huê, cả một vẻ sáng đẹp hiện ra dưới ánh đèn.

-Anh sắp đi phép.

-Về Huế, phải không ?

-Đúng rồi, em. Ở Huế, em chưa hề biết phải không ?

-Chưa. Này anh,  gái Huế đẹp lắm phải không ?

-Anh không biết .

-Trời đất, anh ở ngoài đó mà không biết hả.

-Anh đã xa ngoài đó lâu rồi.

-Bộ, anh không thích gái Huế hả.

-Anh không quen cô nào cả, xa quê hương vào đây được gặp em nên chỉ biết có em thôi.

-Anh thấy em, sao ?

-Em là một thiếu nữ đẹp.

-Anh nói cũng đúng thôi.

-Em thật duyên dáng như người mẫu.

-Mấy giờ rồi anh ?

-Mười giờ hơn.

            Thụy  gọi đứa nhỏ lại trả tiền cà phê rồi cùng Huê rời quán. Thụy đưa Huê về nhà, cả hai cùng vui câu chuyện trong cách bình thường.

-Em thích anh tặng em chiếc nón bài thơ không ?

-Ờ hay đó, anh mua tặng cho em.

-Sẵn lòng.

            Trước cửa nhà, Thụy và Huê dừng bước.

-Hôm nào anh đi phép ?

-Anh chưa định, vì còn một số việc về giấy tờ anh làm chưa xong.

-Trước khi đi, anh có ghé em không ?

-Có, anh sẽ ghé. Không có anh, em chẳng có bạn uống cà phê.

-Nhớ ghé, lần tới em bao anh.

-Em quá dễ thương.

-Không đúng đâu.

-Em ngủ ngon.

-Nhớ ghé em trước khi đi.

            Thụy chợt kéo tay Huê giữ lại và nàng để cho anh ôm nàng. Buổi tối về nhà,Thụy thức khuya ngồi viết truyện,  qua ngày hôm sau, đọc lại truyện đã viết Thụy sửa chữa đôi ba chỗ, sau đó viết thêm một truyện mới nữa.

            Những khóa sinh ở các đơn vị xa được gọi đi học về trình diện vẫn chưa đông đủ. Lúc thấy Trung úy Cẩm đi ra, Thụy lại gần chào ông. Khi ông lấy điếu thuốc, Thụy bật ngay que diêm để ông mồi lửa. Sau khi kéo một hơi đầy, ông hỏi:

-Có chuyện gì không ?

-Dạ có.

            Ông nhìn lại Thụy. Thụy nói:

-Trung úy cho em xin ít ngày phép về thăm gia đình.

-Gia đình anh ở đâu ?

-Dạ ngoài Huế.

-Sao ở đơn vị, anh không xin đi.

-Có giấy gọi đi học, em phải đi gấp sợ trễ khóa.

            Ông nhìn lại Thụy.

-Anh thi đậu không ?

-Dạ rớt. Ngày thi thứ nhì, em đau bỏ cuộc.

-Tôi đậu rồi.

-Em chia mừng với Trung úy.

-Tôi thi ở Trưng Vương, cùng trường với anh.

-Em không gặp Trung úy.

-Tôi có thấy anh hôm đầu.

-Lên Đại học, Trung úy học ngành gì ?

-Tôi học Luật.

-Ở Không quân, có nhiều Sĩ quan học bên ngành Luật.

-Tôi không thích học văn chương.

-Em thích, và em có viết văn.

-Tôi biết anh.

            Ở ngoài hành lang hai người nói chuyện chốc lát, sau ông trở vào phòng làm việc ,  bảo Thụy đi theo. Khi ông ngồi xuống ghế, Thụy đứng quan sát bàn làm việc của ông. Bên trong chiếc kệ nhỏ, có một số sách sắp ngay ngắn.

-Cho anh đi phép một tuần. Nhớ về trình diện đúng ngày.

-Dạ.

            Trưa hôm ấy, từ Tân Sơn Nhất Thụy đón xe buýt xuống Sài Gòn. Sau khi rời quán ăn, suốt buổi trưa anh đi dọc theo dãy hàng sách cũ trên phố Lê Lợi mua được một ít sách cho anh Nguyên, sau đó qua chợ Bến Thành mua một ít quà biếu về cho bên gia đình Thúy Hà và gia đình anh.

            Trước ngày đi, Thụy có được 700 đồng tiền nhuận bút hai truyện ngắn được đăng trên nhật báo Ngôn Luận và Miền Nam.

            Từ Sài Gòn, Thụy đi chuyến bay C47 cất cánh lúc 10 giờ sáng, đến Đà Nẵng gần mười hai giờ trưa. Từ trạm tiếp liên, có xe thồ và xe lam đưa khách ra phố. Thụy đi xe thồ về thẳng nhà Thúy Hà.

            Vừa thấy Thụy xuất hiện, cả nhà ngạc nhiên, mừng rỡ, các em đến nắm tayThụy  rất cảm động.

            Nàng hỏi:

-Anh về phép lâu không ?

-Anh đi được mười ngày.

            Thụy không thể giấu được sự xúc động khi gặp lại Thúy Hà. Trong ánh mắt nàng, bóng dáng anh  bất động, đã  in lên đó.

-Cậu đã ra nhà chưa ?

-Dạ chưa.

-Anh ở chơi với gia đình ít ngày rồi ra.

            Thụy kéo chiếc ghế ngồi, cảm giác thật nhẹ nhõm. Cả nhà đông đủ, mỗi người hỏi anh một đôi câu. Thụy nghe rõ tiếng nói, nhất là nhớ rất lâu từng âm sắc của Thúy Hà.

            Có khách vào mua hàng, bà Uyên đứng lên đi ra quầy, trong thoáng nhìn,Thụy  quan sát cửa hiệu nước hoa của gia đình, và thấy mới mẻ hơn ngày xưa. Hai tủ kính bày những loại hàng mẫu nước hoa nhiều màu sắp đẹp, ở ngoài mái hiên có một cái tủ kính cũng lớn bày bán thuốc lá, bật lửa, đồ trang sức.

            Từ  khuôn mặt và trên cánh tay để trần của Thúy Hà dâng lên một màu sáng dịu, vừa phảng phất chút hương thơm.

-Anh lúc này mập ra .

-Em đi làm chưa ?

-Em sắp có việc làm rồi, tuần tới bắt đầu.

-Dạy học phải không ?

-Nghề đó, nghèo lắm.

-Anh biết, việc gì em cũng làm được.

            Ông Kha nói:

-Em Hà làm cho hãng xuất nhập cảng.

            Thụy nhìn qua Thúy Hà , đôi mắt nhỏ bé của nàng sáng lên một nụ cười.

-Trưa rồi, mình đóng cửa em ạ.

-Vâng.

            Bà Uyên mở hai sợi dây buộc, bức màn buông rũ khép lại. Hai cánh cửa vẫn mở, và lúc này, cả gia đình chuẩn bị ăn trưa.

            Khi hai người giúp việc dọn cơm lên, Thụy không thấy chị Trà. Bà Uyên nói:

-Mấy người giúp việc trước lúc cậu còn ở đây, họ về quê rồi. Hai người này, cũng là người Quảng Trị.

            Quanh chiếc bàn tròn, gia đình ngồi ăn. Thụy ngồi cạnh Thúy Hà và mấy em nàng. Nhìn Hằng,Thụy hỏi:

-Em học lớp mấy rồi ?

-Đệ Lục anh.

            Thụy ngắm cô bé bắt đầu để tóc thiếu nữ, giọng vui anh mở lời:

-Anh nhớ thời đi học, em mặc chiếc áo đầm, cứ lúp xúp theo bên chị Thúy Hà.

-Nay em đã lớn rồi đây.

-Xinh nữa.

-Em không dám đâu.

-Anh Thụy lúc này có viết truyện nữa không ?

-Có, nhưng không nhiều lắm.

-Anh có mang những truyện đăng báo về không ?

-Có.

            Ông Kha hỏi Thụy:

-Cậu ở lính, thăng được cấp gì rồi.

-Thưa hai bác, cháu sắp đi học Sĩ quan.

-Cậu không ở Không quân nữa sao ?

-Dạ, vẫn ờ Không Quân, cháu xin học về hoa tiêu.

-Vậy là cậu lên cấp Sĩ quan rồi.

-Cháu mới được giấy gọi đi học. Giờ đang là khóa sinh.

-Hoa tiêu là làm phi công phải không anh ?

-Đúng rồi  em.

-Vậy là anh học lái máy bay.

-Đúng rồi.

-Anh đã lái được chưa ?

-Chưa. Anh mới có giấy gọi về đi học.

            Cà nhà nghe Thụy kể chuyện của mình. Thúy Hà nói:

-Anh đi qua Mỹ học, có gì vui bằng.

-Chừng nào đi, anh Thụy.

-Anh chưa biết. Giờ anh đang chờ khóa học Anh ngữ.

            Thụy đã có được một ngày vui với gia đình người bạn gái. Tới đầu giờ buổi chiều các em đi học. Rồi ông bà Kha cũng đi thăm gia đình một người bạn mới từ Qui Nhơn ra. Trước khi đi, ông cho Thụy hay, người bạn này trước đây ở trong quân ngũ, cùng đơn vị với ông. Xa nhau từ sau ngày đình chiến, nay mới bắt được tin tức.

            Thụy không đi đâu, ở nhà với Thúy Hà trông coi cửa hiệu.

-Anh Duy sao không về ?

-Anh đang ở Quảng Tín.

-Làm việc trong đó.

            Thúy Hà nhìn Thụy nói:

-Từ ngày anh Duy ra đơn vị, hư hỏng lắm.

-Sao vậy ? Có chuyện, em nói cho anh biết đi.

-Em buồn lắm.

            Người khách đến mua gói thuốc lá. Thúy Hà bỏ dở câu chuyện đứng lên đi ra bán hàng. Khi trở vào, cô đưa cho Thụy  gói thuốc Pall Mall.

-Anh có đây rồi.

-Anh giữ  lấy mà hút.

            Thụy đốt điếu thuốc, giọng trầm lặng nói:

-Lúc nhận được thư em, anh thấy lo lắng. Từ ngày ấy đến nay, anh chỉ ước mong em có cuộc sống dễ chịu.

-Anh Duy sa vào cờ bạc, em không nói nổi nữa.

            Khi bắt gặp thấy đôi mắt, Thụy và nàng nhìn nhau rất lâu. Rồi anh hỏi:

-Nơi hãng em sắp làm việc, là trong nước hay ngoại quốc.

-Hãng này của Đại hàn.

-Có việc làm, em sẽ bớt phiền muộn.

-Em chán lắm, đôi khi ân hận cho đời mình.

-Em nên nói rõ cho Duy biết.

-Anh ấy chỉ biết con bạc. Anh đánh thua sạch, con người anh không còn tư cách gì nữa.

            Thụy dụi mẩu thuốc lá vào chiếc gạt tàn, cầm tách trà đưa lên miệng uống một hớp đầy.

-Anh ăn gì không ?

-Không, anh không đói.

-Em gọi cà phê cho anh nghe.

-Không, anh uống trà, được dịp về phép thăm em, lòng anh vui.

-Anh qua Mỹ học lâu không ?

-Cũng đến hai năm.

-Sao, anh đã có cô Phượng nào chưa ?

-Em đã đọc cuốn truyện ấy rồi.

-Có. Em rất thích.

-Vậy mà em lại không làm cô Phượng cho những chàng phi công.

-Ở xa, viết thư cho em, anh phải viết hay như những lá thư trong cuốn sách.

-Anh không chắc mình viết hay, nhưng thành thực.

-Những thư anh viết gởi cho em hẳn còn đó.

-Anh cũng giữ những thư của em, và bao nhiêu tấm ảnh của em cùng gia đình.

-Anh đã khởi sự viết cuốn sách chưa ?

-Chưa, nhưng anh rất nhớ những lời  em nói, và căn dặn.

-Anh nên viết cho đời mình một cuốn sách.

-Về ngoài này, em nhớ Sài Gòn không ?

-Rất là nhớ.

-Sài Gòn vẫn còn mưa. Những ngày mưa nhắc anh nhớ đến em hơn hết. Bây giờ đây, bao nhiêu hình ảnh cũ của em vẫn còn trong đó. Sài Gòn, cứ đến về chiều trời mưa, và nhắc anh nhớ tên em, nhớ đến từng bóng dáng của em.

            Nàng nghe tôi nói, chỉ im lặng. Một lúc sau, Thụy nghe rõ tiếng của nàng:

-Em nhớ đến anh luôn.

 

           

 

                                                          XV

 

 

            Xe Phi Long hẳn còn đậu chờ khách. Mới có bốn người trên các dãy ghế trống. Thụy để túi xách lên giá , xong ngồi xuống. Bỗng dưng, anh có cảm giác trống trải lạ thường.

            Một lúc sau, có thêm khá nhiều khách tới tìm xe. Thằng lơ đón mời họ lên những dãy ghế trước, vừa cho biết, chừng hai mươi phút nữa là xe chạy. Người tài xế đứng ở ngoài, dáng nặng nề, anh ta đang hút thuốc. Bà chủ xe mặc bộ quần áo bà ba màu đất, bên vai đeo cái túi xách lớn.

            Thụy không ngồi lâu, một lúc sau anh mở lối cửa bên hông đi xuống rồi chậm bước đến quán cà phê. Anh gọi ly cà phê đen  nóng. Không quá hai phút, đứa nhỏ mang cà phê ra, vừa bỏ xuống bàn, nó hỏi có lấy thuốc hút, anh đáp không.

            Thụy cho hai muỗng đường vào cà phê, khuấy nhẹ, hẳn còn nóng nhưng anh đưa lên miệng làm một hớp đầy để đốt điếu thuốc.

            Nắng buổi sáng thật dễ chịu. Bến xe ồn ào, quanh bến khá nhiều xe đậu và đông khách đợi chờ, còn những người bán quà rong, bán báo dạo vừa mời mọc, vừa cất tiếng rao.

            Khói thuốc trườn lên từng sợi mỏng dần ngả màu tím. Thụy là người lính trở về phép, đi chuyến bay từ Sài gòn ra Đà Nẵng, lúc xuống phi trường anh đón xe thồ về thăm nhà người bạn gái nghỉ chơi ở  gia đình nàng, hai ngày qua, đối với nàng cũng như gia đình nàng, anh được coi như là người thân.

            Lúc sáng nay, nàng tiễn chân anh một đoạn ngắn ra con  đường trước mặt nhà. Trong lúc chờ xe lam đến, nàng và anh có được sự gần gũi bên nhau trong ít phút.

-Anh có trở vào Đà Nẵng nữa không ?

-Không, hết phép, anh đi luôn từ Huế.

-Nhớ viết thư cho em.

-Anh nhớ luôn.

            Một giọng vui, nàng hỏi:

-Anh sắp đi Mỹ, mơ mộng gì không ?

             Với giọng điềm nhiên, Thụy đáp lời:

-Anh vẫn còn lo lắng qua từng giai đoạn. Khó nhất với anh, là học Anh ngữ.

-Mình học ở bên đây mới đi.

-Đúng đó em. Nhưng qua tới Mỹ cũng còn phải thi trắc nghiệm nữa.

-Anh đừng lo lắng quá.

-Cám ơn em.

            Khi từ giã, nàng đưa tay cho anh bắt. Chiếc xe lam vừa lăn bánh, anh ngoái đầu nhìn thấy nàng đứng vẫy tay, thật là một nỗi nhớ da diết, u buồn. Thụy vẫn mãi nhớ đến nàng, đến những ngày ở Sài Gòn. Thời gian cũng đã qua nhanh. Rồi đời lính nói với anh rằng,  năm nay, bạn hai mươi lăm tuổi.

            Cà phê nguội dần, Thụy cũng đang uống chậm. Trong lúc ngồi quán uống cà phê, mắt anh không ngừng chú nhìn quang cảnh sinh hoạt buổi sáng nay ở bến xe, có lúc, anh nhớ nghĩ nhiều đến Huế, có lúc, anh  trông thấy bóng dáng mình vào một năm ấy đã tìm đến thành phố này, rồi bất chợt, anh hướng về Sài Gòn, nơi thành phố đó bây giờ anh đang là kẻ vắng mặt.

            Hành khách tới xe đã khá đông. Bỗng nhiên, một bóng chiếc áo dài tím xuất hiện làm Thụy chú ý. Nàng đứng quay lưng nên anh không nhìn được rõ khuôn mặt, nhưng qua áo tím, và cái dáng thật uyển chuyển trong mỗi bước đi, Thụy hình dung ra được một vẻ đẹp trên khuôn mặt của nàng.

            Bỗng tiếng thằng lơ xe cất lên:

-Mời quý cô bác lên xe.

            Vội vàng đứng dậy, trả tiền cà phê xong, Thụy trở lại xe, và mở cửa hông bước lên.

            Cô gái nhìn Thụy, có vẻ chú ý. Thụy chưa ngồi, còn đứng với cao tay để mở cái túi ngoài lấy mấy tờ báo xuống, chút nữa đọc giết thì giờ lúc xe chạy.

            Vừa đặt tờ báo trải ra, và trong ánh mắt nhìn qua cô gái, ngay lúc này, anh phác vẽ được vào tâm trí mình hình ảnh một bức chân dung thiếu nữ mà chiếc áo tím của nàng là một dĩ vãng đẹp. Nàng có khuôn mặt trái soan, mái tóc không dài lắm, thả xuống chỉ tới gần vai, và nàng có một đôi mắt nhung vời vợi, đẹp vô cùng.

            Tự dưng Thụy ái ngại không dám tìm lời làm quen. Ngồi im gần như bất động, anh cũng thật bối rối. Không hiểu sao anh có mặc cảm, vì anh nhận ra rằng, tuy vẻ đẹp ngoài của nàng rất giản dị, nhưng thật ra, nàng tự mình cất giấu trong linh hồn một vẻ khuê các của các nàng tiểu thư, càng mường tượng, càng tưởng như thấy nàng qua bao nhiêu hình ảnh kiêu sa trên từng lớp nhung lụa.  Vậy đó, ích gì mà mình nghĩ đến hay trông đợi mối  tơ duyên, hoặc có diễm phúc được trao đổi ít lời thành nên một câu chuyện cùng với nàng. 

            Người tài xế nhấn một tiếng còi, liền đó, tay thằng  lơ xe đập mạnh vào mái cửa, vọng lớn tiếng:

-Xong rồi, chạy đi.

            Xe rời bến. Thụy nhìn ra cửa, nhưng không hề sắp  xếp một chuyện gì quan trọng trong đầu đề suy nghĩ về mình nữa cả. Quang cảnh khu phố quanh bến xe mau biến dạng, chỗ này khuất, chỗ kia hiện và sau khi chạy lướt một vòng bến, xe tiến ra ngoài phía cổng. Dừng lại ở đó đợi , ít phút sau xe mới rẽ trái vào đường lớn của phố chính. Khu phố chính thật đông đúc, ồn ào, xe trên đường, và người đi qua lại tấp nập.

            Đà Nẵng cách Huế gần một trăm cây số. Chỉ chạy chậm trên một đoạn khá dài hơn ba trăm mét , rồi thấy đường bắt đầu trống xe liền tăng tốc độ để chạy nhanh. Ngồi bên cửa xe, Thụy vẫn chú tâm nhìn quang cảnh. Mỗi chuyến ra đi hay trở về, anh luôn tự cho mình là lữ khách. Khi đi phi cơ, Thụy luôn tìm và tưởng tượng trong cái nhìn của mình vào không gian,  ở bên dưới là đất liền cho anh  gắn ý nghĩ của mình vào cuộc sống qua tâm tưởng từng con người, ở trên bầu trời, phi cơ đã bay qua những vùng mây, trong mỗi bóng mây anh có sự hình dung về nó, nó hiện lên hình dáng những thú vật không lồ, nó cũng sẽ hiện lên những cánh đồng mây trắng bao la, nó cũng cho thấy những dáng hình vươn lên rất cao như là những ngọn núi, và đẹp nhất nhất là lúc nó tạo nên được những hình ảnh kiến trúc lạ mắt bằng những đền đài, hay bằng những dáng vẻ của một hay nhiều thành phố giữa khung trời thật cao và thật rộng. Thụy đã ghi nhận bao nhiêu hình ảnh đó, và ước mong đến một ngày anh sẽ viết nên được trọn vẹn những cảm xúc chân thực của mình. Ở trong mọi cuộc di chuyển, đời anh gắn bó nhiều nhất là với con tàu. Có lẽ, hình ảnh đầu tiên đã ghi khắc trong trí nhớ của anh là tháp nước, nơi ấy, mỗi khi tàu về đến ga thường dừng lại trong mười phút để lấy nước, rồi sau đó, mới tiếp tục cuộc hành trình. Ngày xa ấy, gia đình Thụy còn ở Quảng Trị và căn nhà gia đình anh ở ngay trước con đường bên dưới phía cổng ga, nhìn đối diện sang bên kia là tháp nước và xa hơn một chút là rừng thưa. Từ một thuở ấy, trong ký ức Thụy đã nghe vang dội lên những tiếng còi tàu. Vậy nên, khi trở về hay đi đâu xa, ngồi trên xe lửa, đó là thời gian của sự hồi ức đưa anh trở lại nơi chốn cũ ở thành phố Quảng trị nhỏ bé, nơi chốn ấy, cũng là một thứ quê nhà cho lữ khách. Đi, bao giờ bạn cũng dễ biết mình sẽ tới một nơi nào đó xa. Và, bạn cũng biết rồi đó, trong đời tôi, đã đầy ắp biết bao nhiêu kỷ niệm còn hơi nóng của tuổi thơ , những kỷ niệm ấy làm nên cuộc hành trình lang thang trên những con tàu và đưa tôi đến từng nhà ga.

            Khi xe bỗng giảm tốc độ, rồi chạy chậm, Thụy nhìn thấy phía trước có một trạm gác nằm gần cây cầu. Tối hôm qua, với một giọng thân tình nàng nói:

-Anh hãy cố gắng quên em đi.

            Thụy lặng im, ít giây sau nàng tiếp lời:

-Anh quên được em, đó cũng là lúc cuốn sách anh ước ao viết sẽ hình thành.

-Em vẫn mang một hình ảnh trong đó chứ.

-Không. Hãy nên đem một ảnh hình khác thay thế em.

-Có thể như em nói, rồi anh sẽ gặp.

            Trong giấy nghỉ phép, Thụy được đi mười ngày. Chiều hôm qua, Thụy đi chơi phố một mình. Sau khi ghé nhà sách Lam Sơn trở ra, Thụy bỗng có ý nghĩ muốn đi tìm nhà cô Thiên Nga. Không biết cô ở phố nào, nhưng cũng mong tìm nên Thụy cứ lang thang qua nhiều dãy phố, tình cờ anh buột miệng hỏi một vài người qua đường, nhưng rồi, không có ai hay biết cả.

            Xe ngừng hẳn. Người tài xế mở cửa xe đi xuống. Viên Cảnh sát gác đứng chờ, lúc đến gần, người tài xế trình giấy. Viên Cảnh sát không nói gì, anh ta đưa mắt quan sát từ phía bên ngoài vào trong xe. Rồi anh ta bước chậm, mắt ngước nhìn qua từng hàng ghế hành khách ngồi trong xe.

            Một lúc sau, đứng chỗ giữa xe mắt anh ta nhìn lên phía trần, bỗng  hỏi:

-Gì trên đó ?

-Hàng hóa thường thôi xếp.

-Còn gì nữa không ?

-Không.

            Thụy để ý vẻ mặt người tài xế và cả viên cảnh sát nữa. Chắc là có chuyện không ổn với những người đi buôn. Vừa chợt nghĩ vậy, Thụy bỗng thấy khó chịu khi thấy viên Cảnh sát tới bên cửa hông, rồi anh ta đu mạnh người lên. Đứng trên bậc cao của thanh sắt, anh ta đưa tay dỡ tấm bạt, vừa  lục lọi tìm từng bao hàng. Cũng khá lâu, viên Cảnh sát mới nhảy xuống.

            Người tài xế đi theo anh ta vào trạm, hai người nói chuyện gì với nhau hơi lâu, rồi họ trở ra, vẻ mặt anh tài xế không mấy vui, còn viên Cảnh sát giờ như có được cảm giác thoải mái với điếu thuốc hút đang cháy đỏ ngậm trên môi.

            Vừa quay đầu vào trong, Thụy bắt gặp cái nhìn cô gái. Tôi cảm thấy bâng khuâng trước vẻ đẹp lạ lùng. Xe lăn bánh chạy, lặng yên Thụy mở tờ báo ra đọc. Bỗng dưng Thụy có cảm tưởng như cô gái định hỏi anh điều gì đó. Thụy ngừng đọc, nhìn qua cô gái nhỏ nhẹ hỏi:

-Còn dư một tờ, cô đọc không ?

            Cô gái gật đầu. Thụy  có hai tờ  báo, đưa qua cho cô một tờ.

-Báo cũ nghe cô.

-Không sao .

            Thụy  đọc tin tức trên trang nhất. Rồi sau đó, lật qua tìm trang trong Thụy đọc lướt  vài bài xong đến mục quảng cáo.

            Rất bất ngờ, Thụy trông thấy cô gái đang cúi mắt chăm chú đọc trên trang văn nghệ có một truyện ngắn của anh.

            Với sự ngại ngần khi không muốn tự mình khoe khoang, Thụy gấp tờ báo lại để trên đùi xong quay mặt ra ngoài.

            Xe đang chạy lên đèo. Những đoàn xe đang nối nhau tạo nên một chuỗi biểu tượng, hình ảnh nào cũng phản hiện những dáng màu sắc rất là sinh động. Thụy nhìn thấy núi qua từng  tảng đá chênh vênh và nghe tiếng nước suối chảy. Phía bên kia xa cách biển, nhưng trong nắng, Thụy cũng nhìn thấy rõ mặt biển lóa sáng, trên biển có bóng dáng vài con tàu đang di chuyển ra ngoài khơi. Nơi xa kia nữa, bạn có thể ước độ qua một tầm nhìn phóng và định hướng về phía đó là Cửa Đại.

            Lên đèo xe chạy theo triền núi, nhiều vòng cua, nhiều lối đổ dốc, nhưng xe vẫn chạy êm không bị nhồi xóc. Hải Vân, tên con đèo nghe dễ thương như tên người con gái. Lúc này, Thụy thực sự rung động đi tìm những nguồn thơ, nhưng không sáng tác, mà muốn  được dành riêng cho mình hạnh phúc nhớ lại những câu thơ hay.

            Khi càng lên cao, núi và sương mù dâng một thứ khí lạnh trong hồn thơ Huy Cận, và hương vị  ấy len vào tâm tưởng làmThụy  nôn nao. Thế rồi, từ trong âm vang của bài thơ Thụy chợt nghe có tiếng động và hình bóng một con chim vụt bay qua cánh rừng

            Bỗng dưng buồn bã không gian

            Mây giăng lũng thấp một màn âm u

            Nai cao gót lẩn trong mù

            Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về

 

            Hải Vân ơi, hãy để cho tôi nghe tiếng gọi thầm như thể đó là tiếng của nàng.

-Anh Thụy ạ, em luôn hiểu anh.

-Anh cũng có ý nghĩ như em.

            Bên dưới này nhìn lên, Thụy trông thấy trạm ngừng của đỉnh đèo xuất hiện. Đã có những chuyến xe đến sớm ngừng đỗ khách ở đó.

            Cô gái đã coi xong truyện ngắn đăng ở trang văn nghệ. Lúc cô lật qua trang khác, giọng thân tình Thụy hỏi:

-Cô đang dạy học ở Huế ?

            Với nụ cười trên ánh mắt, nhìn qua Thụy, cô đáp:

-Không, tôi đang còn học.

-Tôi được về phép thăm nhà.

-Ông đang ở trong quân đội ?

-Vâng.

-Ông xa Huế lâu chưa ?

-Cũng mấy năm rồi cô. Cô học bên Văn khoa hay Luật.

            Thụy được nghe rõ tiếng cô gái nói, giọng chậm rãi:

-Tôi học chính bên Mỹ Thuật, còn ở Văn Khoa mới là năm dự bị.

-Bên Mỹ Thuật, cô học sắp xong chưa ?

-Năm nay là năm cuối.

-Tôi có một người quen đang học ở Mỹ Thuật. Thực ra, cô ấy là bạn gái của anh tôi.

-Ai đó ?, nàng hỏi Thụy.

-Cô bạn gái anh tôi tên làThiên Nga.

            Một nụ cười rất vui trên cặp mắt, cô gái nói:

-Ở trường Mỹ Thuật chỉ có một nữ sinh viên thôi.

            Hai người có vẻ bắt đầu thân tình với nhau trong câu chuyện. Người lính nói:

-Tôi chưa gặp, chỉ đọc thư nhà nghe nói tới người bạn gái của anh mình thôi. Cô gái người xứ Quảng, ra Huế học về ngành Mỹ Thuật. Năm trước, tôi có về thăm nhà nhưng không gặp, em gái tôi nói, chị ấy về gia đình nghỉ hè.

-Vậy là ông chưa gặp lần nào cả ?

-Chưa. Nhưng tôi có nhận được thư. Từ ngày ấy, trong tôi luôn có một sự hình dung, đến bây giờ, hình ảnh mường tượng về cô gái vẫn đẹp, không mất đi một nét nào.

-Người anh của ông có ở trong quân đội không ?

-Có. Anh tôi là Sĩ quan, vừa mới thăng cấp Đại úy.

-Ông thì sao ?

            Người lính đáp:

-Tôi thì rất tầm thường. Tôi là lính bên binh chủng Không quân, nhưng làm lính thành phố cũng nhàn.

-Ông được về phép lâu không ?

-Mười ngày cô ?

-Hôm nay là ngày đầu ?

-Cũng mất hai ngày rồi.

            Nắng rực sáng bên lưng đèo thật là đẹp. Ở phía trước cũng như sau, các đoàn xe nối đuôi nhau chạy. Và mỗi quãng đèo, cảnh vật trở nên đẹp, tươi lên giữa màu nắng.

            Người lính hỏi:

-Cô đã có dự cuộc triễn lãm nào chưa ?

-Cũng có một vài lần vào những kỳ lễ hội hay dịp Tết.

-Năm Dự bị, cô học bên ban nào ?

-Ban Pháp văn.

-Ngày đó, anh tôi chẳng gặp duyên may thi cử. Anh ấy thi đậu viết ở trường Sư phạm , nhưng vào vấn đáp lại rớt. Ở trường Văn khoa, năm Dự bị anh cũng đậu viết, nhưng cũng rớt vấn đáp.

            Cô gái nhìn qua người lính, trên mắt nàng có một nụ cười rất dịu hiền. Một chút sau, nàng lật trang báo, xong đưa ra một truyện ngắn trong đó hỏi:

-Truyện ngắn  này ông viết phải  không ?

-Đúng đấy. Sao cô đoán hay vậy ?

            Nàng cười, bảo:

-Tôi biết hết chuyện ông kể.

-Nghĩ là thân tình trong chuyến đi, tôi kể cô nghe thôi.

-Tôi hiểu.

            Xe đã lên tới đỉnh đèo đang tìm chỗ đậu để nghỉ. Hai người ngừng chuyện, và hành khách lần lượt xuống xe. Giờ đợi đổ đèo xe đến rất đông, các hàng quán tấp nập khách ra vào.

            Bên Thụy, vẫn còn bóng cô gái. Từ đỉnh đèo cao nhìn xuống biển, cảnh trí rất là đẹp mắt,  Thụy bỗng thốt ra lời về điều mình nghĩ.

            Cô gái bỗng hỏi:

-Hồi trước ông có học ở Đà Nẵng không ?

-Có, cô. Tôi có học một năm ở trường Sao Mai.

-Cô gái ông viết trong truyện là nguyên mẫu ngoài đời.

-Một cái bóng thôi cô. Viết truyện, ai cũng tưởng tượng và hư cấu.

-Ông còn đi học tiếp không ?

-Không, tôi thực sự không sáng dạ với sách đèn.

            Giữa đám đông ồn ào trên bãi đậu xe, có những đứa trẻ bán quà rong. Một lúc sau, người lính và cô gái đi tới một quán giải khát. Lúc ngần ngừ dừng lại bên ngoài, người lính nói:

-Mời cô uống cà phê cho vui.

            Cô gái không đáp lời, rồi cùng người lính vào quán ngồi ở cái bàn nhỏ bên chái hiên. Trong quán người ta đang ăn uống và có mùi thịt rừng dậy lên tỏa bay ngào ngạt.

-Cô uống được cà phê vào lúc tối không ?

-Cũng uống được.

-Cà phê tôi uống lúc nào cũng được.

            Đứa nhỏ mang hai tách cà phê nóng ra. Trời ấm nắng và có chút lạnh. Ở nơi đây, vang âm tiếng suối bên lưng đèo thỉnh thoảng nghe trỗi dậy.

-Mỗi tuần cô về thăm nhà một lần ?

-Không thường lắm. Thường là mỗi cuối tháng.

            Người lính nói:

-Ngày hôm qua đi chơi phố, trong đầu tôi có ý nghĩ muốn tìm thăm nhà người bạn gái của anh tôi. Tôi đã được đọc thư, hình dung ra bóng dáng và khuôn mặt của nàng. Dù chưa gặp, nhưng trong thư từ đã có tình thân. Bây giờ tôi phải gọi nàng bằng chị, vì anh tôi và nàng sắp làm lễ hỏi vào tháng tới. Tôi mong lần về này được gặp, và cũng mong rằng những gì mình tưởng tượng là đúng người thực ngoài đời.

            Người lính dừng lời nhìn qua cô gái, thấy khuôn mặt cô, và trên cặp môi dễ thương đang có một vệt màu cà phê đọng lại. Trên mắt cô gái lại có lớp nhung rất mịn màng, và nụ cười thật là hiền dịu trên ánh mắt. Rồi, trong những nét ấy lại còn trải ra một vẻ buồn, thật xa vắng vừa nên thơ.

-Ông được coi ảnh người chị dâu tương lai của ông chưa ?

-Chưa.

-Ông có mong gặp người đó không ?

-Rất mong. Tôi nghĩ lần này về chắc là gặp. Vì lúc này, đang là mùa học, không phải là mùa hè.

            Ngồi chuyện trò với người lính, cô gái vẫn giữ nét trang nghiêm và khi nghe người lính nói về những cuốn sách mà anh bỏ công tìm mua để mang về cho cô học, cô thật là cảm động.

            Hành khách rời quán trở lại xe, người lính rút ví lấy tiền trả, cô gái ngăn lại:

-Để tôi trả cho.

-Tôi mời cô mà.

-Tôi biết. Chút nữa lên xe mình tiếp câu chuyện.

            Người lính được trở về và tìm thấy một thứ hạnh phúc thật êm ái trong thời tuổi trẻ của mình.

            Khi xe chuyển bánh, rồi cùng chạy theo đoàn xe đang xuống đèo phía trước bỗng nghe vang lên một điệu nhạc hành khúc, rồi tiếng hát bắt đầu.

            Hành khách nghe xong hết bản nhạc, vỗ tay.

            Người lính quay sang hỏi:

-Ở Huế, nhà cô ở đâu ?

            Một giọng vui, cô gái cười đáp lời.

-Tôi ở gần nhà anh Nguyên.

 

 

           

                                                          XVI

 

 

 

            Khoảng quá trưa, xe đò đến Huế. Hai người chưa về nhà, cùng đi bộ tìm một quán ăn đầu phố cách bến xe chừng hai trăm mét. Người lính và cô gái cùng cảm thấy vui, giờ họ đã là hai chị em. Nghĩ như thế nên cô gái chợt cảm thấy mình lớn hẳn, nghiêm trang ra, còn người lính, anh ta cũng thấy vui trong cảm giác mình đang nhỏ bé lại.

-Chị Nga có hay ghé nhà Thụy không ?

-Ghé luôn mà.

-Có chị, chắc anh Nguyên hay về nhà.

-Thụy  nói đúng. Trước khi quen mình, anh hay ở luôn trong trại ít khi về.

-Đọc thư của chị, lòng rất vui. Thư đó, Thụy còn giữ.  Rồi, Thụy nói tiếp: mới có một thư thôi đó.

-Một thôi. Thư khác dành cho các cô ở đây. À, Thụy quen Liên An lâu chưa ?

            Người lính này đang yêu, nhưng không tỏ bày. Liên An là cánh bướm trắng, còn Thụy đang phất phơ như chiếc áo giữa vùng trời mây tím.

            Hai người vào ngay quán ăn nằm đầu dãy phố. Trưa đầy nắng, và cái lạnh gây nên một cảm giác thú vị, vừa ấm áp.

            Hai người để túi xách xuống chân, rồi kéo ghế ngồi. Người hầu bàn đi ra, dừng bước ngay bên bàn nghe Thiên Nga đặt món ăn cho bữa cơm phần hai người.

-Rồi chừng nào Thụy mới đi học ?

-Hết kỳ phép này, vào trong đó vừa đúng lúc nhập học.

-Thụy học lái máy bay.

-Chưa, mới bắt đầu học Anh ngữ, thi đậu bên đây sẽ được cho đi. Qua bên đó, còn học ở trường dạy Anh văn thêm một khóa nữa mới chuyển qua học bay.

            Thiên Nga nhìn lại Thụy, ánh mắt cười biểu hiện niềm vui. Rồi anh nghe tiếng nàng nói, và lúc này, đang chờ dọn bữa cơm trưa, Thụy cảm thấy mình thật là nhỏ bé trước một người chị dâu thật là đẹp, vừa rất đáng yêu. Cũng yểu điệu nữa chứ, hay quá, mình nên để nàng nói, một giọng nói  xứ Quảng nghe đậm đà, thân thiết, và mình  cũng đang nghĩ rằng, nàng hay biết trong đôi mắt mình lúc nào cũng thầm lặng ngắm say sưa khuôn mặt đẹp của nàng.

            Khi bữa ăn được người hầu mang chiếc mâm nhôm ra, rồi dọn từng món ăn lên bàn, mùi vị thức ăn và cơm nóng làm Thụy cảm thấy đói.

-Chị ở nhà thuê chung với bạn, hay một mình.

-Ở một mình.

-Nhà thuê rộng không chị ?

-Cũng rộng rãi.

            Hai người cầm đũa, nhìn nhau trong niềm vui, rồi cùng lên tiếng mời ăn.

-Sách Thụy mua cho chị, có mấy cuốn in từ bài giảng dạy ở trường.

-Cám ơn Thụy nhiều lắm.

-Rồi tốt nghiệp bên Mỹ Thuật, ra trường chị có xin đi dạy không ?

-Chưa biết, nhưng dạy học mình rất thích.

-Rồi trở vào Đà Nẵng, chị xin dạy ở đó.

            Với nụ cười đằm thắm, nàng ngừng đũa nhìn Thụy hỏi:

-Thụy  muốn mình dạy ở đâu ?

            Nhìn nàng, Thụy nói:

-Chị xin ra Quảng Trị dạy nghe.

            Nàng gật đầu, ánh mắt của một phương trời.

            Trong giọng vui,Thụy  nói:

-Ước gì, cho tôi được nhỏ bé để ngồi học lớp cô Thiên Nga.

-Anh Nguyên cũng nói mình xin ra Quảng Trị dạy để gần Huế và gia đình.

-Chị đã có biết Quảng Trị rồi phải không ?

-Có. Anh Nguyên đã đưa mình ra thăm ngoài làng quê và ngoài tỉnh lỵ.

            Nhìn Thụy, một giọng vui nàng tiếp lời:

-Quảng Trị , mình không chỉ thấy ngoài thực tế, mà cũng rất chia sẻ với một quê hương Thụy đã viết nhiều trong truyện.

            Thụy uống hớp nước. Một giọng tâm tình, anh kể cho nàng nghe câu chuyện của anh và người bạn gái thân thương.

            Thiên Nga hỏi:

-Sao cô ấy không muốn mình là nhân vật trong cuốn sách Thụy viết.

-Cô ấy không muốn muốn người mình yêu đè nặng mối tương tư.

-Vậy là Thụy phải tìm một hình ảnh khác thay thế cho cô.

-Chị nói đúng, hình ảnh đó là muôn thuở.

-Liên An phải không ?

-Liên An là cánh bướm trắng, rất mỏng manh.

-Vậy thì ai trong đo ?

-Nàng là một tấm áo, và với tấm lòng quê hương cũ.

-Thụy có thích nhân vật cô Loan trong Đôi bạn ?

-Khi mong tìm gặp người thân của mình, Thụy luôn nhớ nghĩ đến Loan.

            Thụy  ăn rất tự nhiên. Thiên Nga cũng đói, nàng ăn ngon. Thụy thỉnh thoảng ghi nhận được những nét duyên dáng của nàng trong cách cầm đũa muỗng, trong cách gắp thức ăn, và mỗi miếng vừa ăn xong, Thụy cũng ghi nhận thêm cái vẻ hay hay từ dư vị thức ăn còn lại trên đôi môi xinh đẹp của nàng. Nỗi buồn thật duyên dáng và tự nhiên từ hình ảnh đôi mắt có nụ cười của nàng, ánh sáng cứ dịu lại, nhỏ dần, và ngưng đọng rất lâu.

            Nàng bỗng nói:

-Liên An có giấy gọi đi du học rồi.

-Chắc cô ấy đã vào Sài Gòn .

-Chưa đâu. Có thể về lần này Thụy sẽ gặp.

-Nhưng sao chị biết Thụy quen Liên An.

-Cô ấy kể chuyện cho mình nghe.

-Hôm ấy Liên An nói: Về chị Thiên Nga, biết lấy ai mà so sánh.

            Thiên Nga cầm ly nước trà đá đưa lên miệng uống. Thời tiết trong thành phố đang bắt đầu những ngày mới mẻ vào đầu mùa đông, ánh nắng đã làm gương mặt Thiên Nga ửng hồng như màu chín của trái cây.

            Một giọng thân tình Thụy nói với nàng:

-Thụy thực sự chưa mong điều chi cả. Nói vậy, không hẳn đúng. Ước mong của Thụy là viết nên được một cuốn sách. Còn về những cô gái mình quen, đó chỉ là những kỷ niệm trong hương sắc gió mùa.

-Về phép, ghé Đà Nẵng Thụy ở nhà ai ?

-Nhà cô bạn.

-Cô gái ở trong truyện Thụy viết, phải không ?

-Vâng, bạn gái thân lắm.

-Người chồng của cô này, có họ hàng bên gia đình mình.

-Vậy à , chị.

-Anh Nguyên hay nói về Thụy, và mình cũng cho anh biết.

-Gia đình cô coi Thụy như là con, nhận làm con nuôi.

-Thế với cô ấy là sao ?

-Hai người rất hiểu nhau.

-Cô ấy trước đây là bạn học cùng lớp.

-Vâng.

            Tối qua, Thúy Hà cũng nói chuyện cho Thụy nghe về Duy chồng nàng. Thụy đem lời tâm sự của nàng nói với Thiên Nga.

-Gia đình bên Duy, người nào cũng vậy hết.

-Anh Duy đánh bạc thua nhiều lắm.

-Bên nhà Duy có họ hàng với bên má mình. Nhưng, cũng không gần gũi, ít qua lại với nhau.

            Bữa ăn thong thả cùng thời gian rảnh rỗi cho câu chuyện. Trong im lặng, Thụy và Thiên Nga dành một vài giây nhỏ cho nụ cười, và trong thâm tâm nàng biết, anh thật ngưỡng mộ nàng, vì thế, nàng cũng thật vui  tạo dáng cho mình thành người mẫu để cho Thụy thật vui trong cặp mắt khi được ngắm nàng.

            Thụy bỗng nói:

-Hình ảnh Thiên Nga vẫn nguyên vẹn trong trí tưởng.

-Nghĩa là sao ?

-Buổi chiều ấy, em Phương nói về Thiên Nga, câu chuyện kể ấy đã cho Thụy hình dung về bóng dáng một thiếu nữ,  và bây giờ, sự không ngờ gặp đã thấy rõ nét người trong trí tưởng vẫn là người của nguyên mẫu.

-Chắc không ? Sao mà có ý khen mình vậy ?

-Cái đẹp của Thiên Nga rất thuần khiết, đúng là hình ảnh của văn chương .

-Những nhân vật trong truyện của Thụy đều có thực ở ngoài đời.

            Câu chuyện của hai người nghe thật thú vị qua giọng nói, vừa thân mật, vừa chất chứa những cảm tình trong sáng.

            Thiên Nga ngừng ăn, cầm ly nước đưa lên miệng uống. Thụy cũng muốn ngưng, nhưng còn lại ít cơm trên dĩa, anh ăn nốt cho hết.

-Chiều nay chị có đi đâu không ?

-Không, ở nhà.

-Anh Nguyên về, tối đi uống cà phê.

            Thiên Nga gật đầu. Người đàn bà ngồi ở quầy tính tiền đưa mắt nhìn ra cửa. Bên ngoài, nắng tràn qua những mái nhà, trên con đường, tiếng động xe cộ qua lại vang lên thật đều đặn.

            Thụy  quay đầu nói:

-Cho tính tiền chị ơi.

            Thiên Nga ngăn lại:

-Để mình trả.

            Thụy  mỉm cười, lắc đầu. Khi rời quán ra đường, Thụy nói:

-Lần về phép này, Thụy lãnh được tiền nhuận bút cho hai truyện ngắn.

-Họ trả nhiều không ?

-Mỗi truyện được bảy trăm. Báo ngày, báo tuần trả không nhiều. Ở tạp chí, nhuận bút đến 2000, khá lắm.

-Sao Thụy không gởi truyện cho tạp chí.

-Khi nào cảm thấy mình viết thật khá, lúc ấy Thụy mới gởi.

-Truyện Thụy viết có nhiều cảm xúc lắm.

-Mình phải đi từng nấc thang. Và muốn viết khá, cần đọc nhiều. Khi Thụy gởi truyện cho tạp chí đó là lúc, chị coi Thụy là nhà văn được rồi.

-Bây giờ gọi nhà văn không được sao ?

-Chưa. Bao giờ truyện Thụy viết hay, và đẹp như hình ảnh Thiên Nga, lúc ấy hẳn gọi.

            Với ý tưởng ấy, giọng nói vui của Thụy tình cờ buông theo cơn gió hất tung chiếc chiếc áo dài tím Thiên Nga bay lên. Nàng đưa một tay ra cầm giữ, khi nhìn tới phía trước, Thụy trông thấy có một bóng người khách đứng chờ ở trạm xe buýt.

            Khi đến đó, Thụy và Nga  cũng đợi. Trạm xe búyt cách xa bến xe đò chừng hai trăm mét, và từ chỗ hai người đứng, nhìn một quãng xa trông thấy ngôi nhà thờ có bức tượng lớn Đức Mẹ vươn lên cao khỏi bóng nắng.

-Năm đầu tiên đến Huế, gia đình ở trong vùng này, căn nhà nằm trông ra con đường nhỏ bên trái khu nhà thờ.

            Thiên Nga hồi tưởng lại thời thơ ấu, nàng kể một câu chuyện vừa thực, vừa trẻ thơ.  Thụy bỗng nghĩ đến cô Mỵ Châu, qua gương mặt ấy là dáng nét của thiên thần.

            Xe buýt đến. Ba người khách lên xe. Người khách kia với dáng vẻ một công chức, trong lúc chờ xe, Thụy và Nga trò chuyện còn ông ta đọc báo, vừa hút điếu thuốc.

            Xe chạy nhanh. Thụy  trông thấy ngôi nhà thờ và thấy bóng dáng căn nhà cũ anh ở con đường bên cạnh. Trong phút giây này, Huế  làm Thụy ngập ngừng, vừa xa lạ.

            Xe buýt đỗ khách ở trạm nhà ga. Nhiều khách đứng ở đó đợi xe, chỉ có hai người xuống bến là Thụy và Thiên Nga.

            Không về nhà ngay, Thụy theo Thiên Nga đến nhà nàng. Từ ga đi bộ tới nhà nàng hơn trăm mét. Con đường Huyền Trân nằm ven theo dòng sông. Thụy trông thấy dòng sông, cây cầu, và ngôi trường cổ giống như tu viện bên kia sông.

            Lối cổng sắt mở rộng, nhà thuê Thiên Nga cuối dãy cạnh đó có mấy cây nở hoa trắng và tím thật đẹp. Khi Thiên Nga lấy chía khóa mở cửa Thụy đưa mắt nhìn qua bờ tường, nhìn cảnh sân trước nhà, và bên ngoài là con đường dưới nắng ven theo dòng sông.

            Vừa bước vào nhà, Thiên Nga nói:

-Ngồi nghỉ đi, mình làm nước chanh cho uống.

            Thiên Nga đi vào nhà trong. Thụy ngồi xuống chiếc ghế ở phòng khách, túi xách để bên cạnh chân. Nắng ngoài sân tràn vào phòng qua cửa lớn mở rộng, Thụy cảm thấy có chút bâng khuâng về người chị dâu đẹp và thương mến của mình. Trong phòng khách bày biện giản dị, có mấy bức tranh vẽ treo trên tường.

            Một lúc sau, Thiên Nga trở ra với khay nước và bộ quần áo mặc thường.

-Chị thuê chỗ này, có đắt không ?

-Không. Bà chủ đây là người rất tử tế, phúc hậu.

            Thụy  nhìn bao quát căn nhà. Thiên Nga nhắc:

-Uống nước đi.

-Mời chị.

            Thụy  và nàng cùng cầm ly nước chanh uống một hớp nhỏ. Lặng yên, Thụy kéo túi xách mở ra, và lấy những cuốn sách đã mua theo lời dặn của anh Nguyên.

            Thụy để gói sách trên mặt bàn.

-Chị mở ra đi.

            Thiên Nga mở gói giấy một cách cẩn thận. Trong gói mặt trên là những sách về văn học, bốn cuốn, còn mặt dưới là những tập bài giảng in ronéo.

            Trong lúc nàng xem qua các bài giảng, Thụy nói:

-Thụy  có người bạn đang học trên Văn Khoa. Những bài giảng này anh ấy học năm trước còn giữ, tặng cho Thụy, tiện mang về cho chị.

-Hay quá.

            Với những sách học rất cần, và các bài giảng thật là hữu ích, Thiên Nga chăm chú, cúi mắt tìm kiếm trên đó một sự chờ đợi cho thời gian học của mình. Thụy  ngắm nhìn dáng vẻ của nàng, mái tóc thả vai, gương mặt đẹp, rất dịu hiền, hòa nhã.

            Khi ngẩng mặt lên, nhìn Thụy, nàng cười.

-Uống nước đi.

-Mong là anh Nguyên về chiều nay, Thụy nói.

-Chiều nay anh về.

-Uống nước đi rồi qua xem tranh.

            Một lúc sau, Thiên Nga đứng dậy. Thụy cũng đứng lên, rồi bước theo nàng qua phòng bên cạnh.

            Vừa nhìn thấy căn phòng và tranh vẽ  xuất hiện, Thụy thốt lên:

-Đẹp quá. Chị có máy ảnh đó không ?

-Không có.

-Có máy ảnh thì hay nhỉ. Những bức tranh chị vẽ Thụy muốn chụp. Và, có cả cô họa sĩ nữa, phải không ?

-Có rồi Thụy , cả phòng tranh này anh Nguyên đã dành cho mình nguyên một cuốn album.

-Thật là tuyệt với.

-Sao, thấy tranh mình sáng tác được không ?

-Bức tranh nào cũng có một khuôn mặt hạnh phúc, Thụy nói.

            Thiên Nga mỉm cười. Khi hai người bước chậm bên nhau cùng xem tranh, nàng cũng đã cho Thụy chút hương thơm nhan sắc của nàng.

            Một hồi lâu, Thụy lặng im không nói gì. Nàng hỏi:

-Có gì mà băn khoăn vậy ?

            Thụy nhìn về phía khoảng tối bên trong, bỗng nói:

-Sao Thiên Nga không vẽ bức chân dung của mình.

-Đó tác phẩm cuối đời.

-Sao không vẽ ngay bây giờ.

-Không, không nên vẽ.

-Nhưng dù vậy, có người đã vẽ rồi.

-Ai vẽ, thực không ?

            Hai  người trở qua lại phòng khách. Ánh nắng từ ngoài sân tràn vào dâng cả vùng sáng, làm mềm dịu mái tóc thiếu nữ. Nàng như hiểu được ý Thụy đã nói ra với nàng, nhưng đó là của trí tưởng tượng in bóng cho mình, chứ không thể nào anh vẽ nên được bức chân dung cho nàng. Vì rằng, anh không có chút năng khiếu nào về hội họa. Nếu anh có , anh không chỉ vẽ một bức chân dung của nàng thôi, mà nhiều , rất nhiều.

            Nhìn vẻ mặt buồn của Thụy, nàng hỏi:

-Đang nhớ Thúy Hà hay Liên An ?

            Một thoáng giây, Thụy nhìn Thiên Nga, anh nói:

-Không, không một ai cả.

            Trên tường, nhạc chuông đồng hồ trỗi lên, ngân vang trong mối tình cảm thật dịu dàng.

                                      

 

 

                                  Phần Thứ Ba

 

 

                                                     I

 

 

            Thụy hẳn  đã có được một sự an lòng về Thúy Hà. Anh rất xúc động khi gặp lại nàng, buổi chiều ấy bên người yêu, anh cảm thấy lòng mình vui lạ thường khi được nhìn sự chăm nom săn sóc của một người mẹ trẻ dành cho đứa con đầu lòng. Từ khung cửa, mắt anh quan sát căn phòng dành riêng cho người mẹ và đứa bé trai sắp đầy tuổi. Chiếc giường gỗ trải tấm chiếu rộng, chiếc nôi có giăng mùng tuynh trắng trông nó giống như con tàu nhỏ, trên các ngăn kệ sắp những hộp sữa mới nguyên, những chồng khăn, chồng tã trắng tinh, thứ nào cũng đều cho anh một cảm giác và một ý nghĩa. Và, trong câu chuyện trao đổi, Thúy Hà còn cho anh biết thêm về chuyện gia đình, tự dưng, vắng mặt Duy anh như thấy mình thật cần thiết khi trở về bên nàng.

            Chỉ lưu lại một hôm rồi Thụy ra Huế thăm gia đình. Trên chuyến xe khách, sự tình cờ anh gặp một thiếu nữ xinh đẹp, nàng mặc áo dài tím, mái tóc trên vai nàng, và nàng cũng ngồi gần bên anh cùng một dãy ghế. Nhìn nàng, tự dưng anh có linh cảm, để rồi một lúc sau, anh đã không ngờ được nàng là người bạn gái thân thương của anh Nguyên. Từ cuộc gặp gỡ ngạc nhiên, thú vị, Thụy viết ra được một truyện ngắn. Và, sau khi truyện đăng báo, Thụy gởi về ngay cho Thiên Nga. Nàng rất vui, mở truyện ra đọc ngay, không bỏ sót một dòng. Khi nàng cầm tờ báo chăm chú đọc, chung quanh nàng là cảnh trí đầy nắng sáng tràn qua cửa sổ, lối đi xuống cầu thang, các thứ đồ đạc trong căn phòng  bày biện rất ngăn nắp. Trên ánh mắt nàng, đôi lúc niềm vui trở nên khuất lặng và thoáng một vẻ buồn đẹp dịu dàng. Từng trang giấy, mỗi dòng Thụy viết nàng nhận ra được tấm lòng của anh đối với nàng.

            Đọc xong, Thiên Nga mỉm cười. Buổi chiều, nàng ra phố đến một hiệu sách mua thêm vài cuốn nữa, về đến nhà, nàng sắp hai cuốn ở tầng một kệ sách, còn của Thụy gởi, nàng cắt từng trang và đem dán vào album ở những trang cuối, bạn có thể nghĩ đây là một lời bạt Thụy viết cho tặng phẩm ngày đính hôn của nàng. Và, rồi  đây, kỷ niệm này sẽ được giữ mãi, mãi mãi với Thiên Nga.

            Thiên Nga đối với Thụy, chân thực như tình bạn. Anh và nàng cũng còn có sự đồng cảm về nghệ thuật. Những bức tranh của Thiên Nga luôn gợi hình trong tâm tưởng Thụy một thứ  ánh sáng dịu dàng và mùi hương tinh khiết. Thụy cũng còn nhận ra trong đó nữa, sự  trỗi dậy tiếng nước chảy trên  dòng sông , hay vẳng xa, rất xa từng âm vọng của tiếng nhạc nghe rất bâng khuâng với nỗi buồn. Còn Thiên Nga, nàng rất thích đọc truyện Thụy viết, nàng luôn coi Thụy là nhà văn của mình. Những truyện Thụy viết như thể là dành cho Thiên Nga rồi gắn ngay số phận của nàng vào một gia đình mà nàng đã có sự chọn lựa rất đúng về phần mình.  Thụy viết nhiều về tuổi thơ thật trong sáng, vì trong đó, anh tìm ra được những nơi chốn anh đã sinh sống, lớn lên và trưởng thành.

            Chuyến bay rời Huế, cất cánh vào lúc giữa trưa. Hành khách đông chật, không còn một chỗ  trống, hầu hết là lính tráng đủ các binh chủng, và cũng có một số thường dân xin quá giang được viên Trung uý trưởng trạm tiếp liên chấp thuận.

            Thời tiết tốt, bên ngoài không trung vàng rực nắng làm Thụy cảm thấy dạt dào mộng ước trở thành người phi công. Đối với anh, ngoài hình ảnh cánh chim bằng  lướt gió, thì không gì hơn nữa.                  

            Ngày trở lại Sài Gòn, Thụy gặp Liên An. Liên An mặc áo dài trắng, nàng vội băng qua đường, hình ảnh đó Thụy ghi nhớ mãi. Tới gần, nhìn thấy nhau, trên gương mặt Liên An hiện rõ một niềm vui. Rồi nàng nói:

-Em mong gặp anh.

            Chiếc túi giấy Thụy đang cầm có ba cuốn sách cũ vừa mới mua. Hai người bên nhau, ngược con đường đi lên phía rạp hát. Ngôi nhà thờ ở xa thấp thoáng ánh sắc đỏ của màu ngói và cả một vùng nắng tỏa rộng, sáng lòa.

-Anh mới về phép thăm nhà.

-Anh có gặp chị Thiên Nga không ?

-Có.

            Sau những lời Thụy kể, cô gái nói:

-Bất ngờ như vậy, hay quá. Có thể thành nên một câu chuyện để anh viết.

-Anh đã viết như ý em muốn.

-Anh có đăng truyện này lên báo không ?

-Có chứ.

            Thụy tiếp lời:

-Thiên Nga,  bây giờ là chị dâu của anh.

-Em biết.

            Khi Thụy đưa Liên An vào quán Cái  Chùa, bà Huyền Chi trông thấy, mỉm cười. Quán đông khách, nồng lên mùi khói thuốc, và lúc đứng chờ Thụy cũng có ý tìm gặp bạn quen. Ở bàn trong cùng có ba người khách rời ghế, Thụy liền nắm tay Liên An kéo đi.

            Người hầu bàn đến, chờ ông ta dọn dẹp xong, Thụy nói:

-Hai cà phê.

            Liên An nhìn Thụy, nàng nói:

-Em thấy lúc này anh khỏe ra.

-Ngày anh về Huế không có Liên An.

-Chị Thiên Nga ra sao ?

-Nàng là áo trắng của hoa hồng.

-Em biết.

            Hai ly cà phê mang ra. Thụy bỏ vào ly của Liên An hai viên đường.

-Anh cho thêm một viên nữa.

            Thụy bỏ thêm cho Liên An, còn bên anh hai viên là đủ. Và, đôi mắt Liên An cũng đẹp như viên đường mới thấm ướt màu cà phê.

-Anh về thăm nhà vui không ?

-Anh có mười ngày với Huế, nhưng đi đâu cũng không tìm thấy em.

-Ngày mai em lên đường.

-Em đi chuyến bay sáng hay chiều ?

-Ban đêm anh, 12 giờ đêm.

            Khi đặt tách cà phê xuống dĩa lót, Thụy đốt điếu thuốc.

-Em uống cà phê giờ này, sợ mất ngủ không ?

-Không, em cũng thích cà phê.

            Người lính thở nhẹ làn khói. Những sợi khói mỏng lãng đãng trước đôi mắt Liên An. Với ánh mắt ngập ngừng trong dáng vẻ nghiêm trang, Liên An ngồi đó nhìn Thụy, mỗi lúc tưởng như trong cái nhìn ấy, những điều gì nói được với nhau dần dần thể hiện rõ. Liên An thật chỉ muốn dành cho Thụy một hình ảnh áo trắng. Thụy chợt nghĩ đến Huê. Rốt cùng, anh vẫn một mình, trơ trọi.

            Tự nhiên Thụy có cảm giác lạ lùng lúc nghe tiếng Liên An hỏi. Vừa ấp úng, anh đáp:

-Không, không có ai cả.

-Đừng có giấu em, nàng cười.

            Vừa thấy người hầu bàn đi ngang, Thụy gọi lấy thêm bánh.

-Hai cái.

-Không, một thôi.

            Khi dĩa bánh mang ra, Thụy để dành cho Liên An.

-Anh ăn đi.

-Anh muốn nhìn em ăn.

            Cà phê đã nguội, nhưng uống vẫn ngon.

            Liên An ăn bánh. Thụy bắt đầu cảm thấy dễ chịu, và nói:

-Anh về phép được mười ngày, những ngày ở Huế thật vui.

-Anh có ra Quảng Trị không ?

-Không, lần này chỉ ở Huế. Bữa cơm thân mật trong gia đình có Loan nữa. Thiên Nga làm món mì Quảng, hôm đó, vắng mình em thôi. Phương cho anh hay sách vở học của em và Loan cô có đủ hết.

            Liên An cười, trong ly cà phê viên đường trắng chưa tan hết.  Trên dĩa, chiếc bánh còn một nửa.

-Em có viết thư cho anh đọc không ?

-Không.

-Em qua Mỹ, học bao nhiêu năm ?

-Bốn năm.

-Em ở  tiểu bang nào ?

-California.

            Thụy nói với Liên An:

-Nếu anh được gởi đi học, anh sẽ ở bên Texas.

-Anh cũng sắp đi Mỹ.

-Anh xin đi học về ngành hoa tiêu. Nhưng khóa học thì vẫn đang chờ.

-Anh mà đi, nhớ cho em hay.

-Em nói không viết thư cho anh đọc mà.

            Nàng bảo:

-Anh đừng làm bộ ngây thơ.

-Anh lúc nào cũng tin lời người khác, nhất là em.

-Em cũng giống như Loan thôi.

-Em nói không đúng. Em là người ở phương xa.

-Không chính xác. Em là người sắp đi tới phương trời xa.

-Liên An bắt đầu lãng mạn rồi.

            Liên An cười, ánh sáng trên đôi mắt khép lại như giấc mơ.

            Không ăn nốt phần bánh còn lại, nhưng cà phê cô gái uống hết.

            Và, Liên An đưa tay ra ngăn lại không để cho Thụy trả tiền.

            Ra ngoài đường phố, buổi chiều Sài Gòn trời thật đẹp.

-Nếu trời thình lình đổ mưa, em có đón xe về nhà không ?

-Không đâu, em ở bên anh hết buổi chiều nay.

            Hai người đi lên phía khu nhà thờ. Bên phải nhà thờ là nhà Bưu điện, bên trái có một hiệu sách. Lúc nãy, khi quay đầu về phía trong quầy có cửa kính, Thụy trông thấy bà Huyền Chi. Bà chỉ nhìn anh, và có lẽ bà còn nhìn theo anh và Liên An lúc hai người đi ra ngoài.

-Thời gian anh đi học lâu không ?

-Anh chưa biết. Nhưng khoảng chừng hai năm.

-Em mới nhận được thư của Lộc. Sáu tháng nữa, anh ấy về nước.

-Anh Lộc đang ở đâu ?

-Texas, anh qua sớm sẽ gặp Lộc.

-Anh sẽ nói gì với  Lộc, nếu gặp.

-Anh kể chuyện về anh, và có những lần gặp em, ở Huế, rồi Sài Gòn.

-Anh và em, còn nhớ nghĩ đến nhau không ?

-Luôn luôn.

-Nhớ thôi, không có chờ đợi.

-Không. Nhưng anh không có gì để làm em quên anh cả.

-Vậy anh chỉ có một tình yêu em gái thôi.

-Anh nói đúng.

            Khu nhà thờ với dáng màu ngói đỏ và nơi đây lá cuối mùa thu rụng xuống hết trên các lối đi và trên vỉa hè. Thụy đưa Liên An tới phía công viên có cỏ, rừng cây, nằm đối diện với dinh Độc Lập.

-Em thích chụp ảnh không ?

-Cũng thích lắm.

-Không có chiếc máy ảnh cho anh chụp em một vài tấm kỷ niệm.

            Buổi chiều chợt trở lạnh. Liên An và Thụy  ngồi xuống băng ghế. Hai người bên nhau nhìn quang cảnh phố, nhìn màu cỏ xanh tươi và những hàng cây trong công viên. Quanh đó, nghe tiếng những con chim ríu rít, vừa nhảy chuyền cành.

-Liên An đã làm lễ hỏi chưa ?

-Chưa, anh.

-Rồi Lộc, còn chờ đợi Liên An về nước.

            Cô gái gật đầu.

-Anh vẫn nghĩ mình xa lạ với em.

-Em không phải là người anh mong đợi.

-Anh không có một ai hết.

-Em biết.

-Nhưng, anh không nghĩ mình là bơ vơ, đơn độc.

            Liên An nhìn qua Thụy:

-Anh chỉ giữ mãi ảnh hình của Thúy Hà.

-Người bạn học của anh thời trước. Anh không có gì trong cuộc sống của nàng cả.

-Có chứ, anh đừng giấu em.

-Chỉ có  trong tiếng nói, nàng làm anh  nhớ nghĩ thôi.

-Em ở bên anh lúc này, anh cảm thấy vui không ?

-Anh rất vui. Liên An là buổi chiều của anh.

-Em luôn nhớ đến anh.

-Biết đến bao giờ anh gặp lại em.

-Thời gian sẽ nhắc nhở cho anh hay.

            Đôi mắt Liên An nhìn lâu vào gương mặt Thụy. Và, nàng mỉm cười. Lúc này bên anh, nàng muốn kể cho anh câu chuyện giữa nàng và Lộc. Nàng lại nghĩ, kể xong hết  chuyện, Thụy sẽ không có chút gì ngạc nhiên, cũng không tự so sánh để ôm lấy mối mặc cảm. Dù sao, Thụy đã là một người lính.       

            Rồi một mình, Liên An đi xa. Đêm vừa xuống, trời đã thấm lạnh. Từ căn nhà đầu phố Gia Long gần bùng binh ngã sáu, bạn vừa trông thấy một chiếc taxi đang chạy chậm, rồi ngừng lại, vào lúc ấy xuất hiện bóng một cô gái đứng bên đường, ít phút sau, cô mở cửa bước lên xe. Cũng còn ở nơi đó, trên lề đường một người đàn ông, hai người đàn bà, cả ba người cùng vẫy tay chào theo  cô gái lúc xe lăn bánh.

            Người tài xế mặc chiếc áo sơ mi đã cũ, có nhiều đường sọc, trạc tuổi chừng hơn bốn mươi. Trên mái tóc để dày, và những sợi tóc như đã  khô cứng. Hai cánh tay ông ta trông khỏe, vừa lớn, bao kín hết vòng tay lái của chiếc taxi nhỏ. Vừa lúc xe đang chạy, ông ta chỉnh lại đồng hồ cây số ghi giá tiền. Mỗi quãng, đồng hồ nhảy lên một nấc. Và, chiếc xe vẫn đang chạy chậm theo con đường cũng nằm trên khu phố thuộc căn nhà gia đình cô gái ở.

-Cô được đi du học ?

-Vâng.

-Cô du học nước nào ?

-Dạ, Hoa Kỳ,

-Cô mới đi lần đầu, phải không ?

-Đúng, ạ.

            Rồi đột nhiên, xe rẽ lối trái, sau đó chạy qua một con phố nhộn nhịp, đèn điện sáng trưng. Người tài xế mỉm cười, nói:

-Đấy, cô nhìn lại Sài Gòn để nhớ lần cuối khi đi xa.

            Cô gái cười, thốt lên:

-Hay quá. Ông thật là người có tâm hồn.

            Người tài xế giữ nhẹ chân ga cho xe chạy thong thả. Ngồi trong xe, cô gái nghe ra những tiếng động xe cộ qua lại trên phố chính, nghe tiếng bước chân người đi trên lề đường, và cả những tiếng chuyện trò của họ, sau cùng, cô thấy nơi đây là thành phố cô đã dừng chân từ hôm rời Huế vào đây, và tối nay cô lên đường trong một chuyến ra đi đến xứ sở khác.

            Người tài xế lại nói:

-Tôi cũng đã có nhiều chuyến đưa tiễn khách lên đường đi tới một xứ khác.

-Vâng.

            Rồi ít giây sau, cô gái hỏi:

-Ông chỉ đưa thôi, có vào phi trường không ?

-Không. Nhưng lần nào tôi cũng cảm thấy lòng mình vui.

-Cám ơn ông.

            Lúc này, xe đang chạy trên đường Catinat, hướng về khu nhà thờ và nhà Bưu Điện. Trong đôi mắt Liên An, ánh sáng của nụ cười thật là hiền dịu. Khi trông thấy quán cà phê Pagode, cô nhớ đến Thụy. Trong bóng dáng của Thụy, có cả bóng những người nghệ sĩ thường ngồi ở quán này, và anh luôn làm cho cô vui khi anh kể nhiều chuyện dễ thương về một người thiếu phụ trẻ đẹp, nàng là bức tranh vẫn còn treo ở đó.

-Hết Sài Gòn rồi, giờ tôi cho xe chạy nhanh nhé.

-Vâng, ạ.

            Tiếng cười nhẹ, và cô gái cảm thấy thực vui, háo hức về chuyến đi của mình.

-Gia đình cô ở Huế, phải không ?

-Đúng, sao ông hay vậy ?

-Không, tôi không hay đâu. Chỉ muốn nhắc lại những lời mấy người thân của cô lúc tiễn cô đi.

-Vâng, ông nói phải.

-Tôi cũng mang một tâm trạng gần giống như họ.

            Cô gái chợt có cảm giác lo ngại, một thoáng nghĩ về điều gì đó, nhưng rồi vội vàng cô xóa ngay đi. Và, trong sự lặng im, cô đang lo sợ.

            Mười lăm phút sau, chiếc taxi đưa cô gái đến phi trường. Vừa thấy bóng dáng Liên An lúc xe ngừng, Thụy liền chạy đến.

            Cô gái vẫy tay chào mừng Thụy, vừa hỏi người tài xế :

-Thưa ông bao nhiêu tiền ?

-Hai trăm, cô.

            Cô gái trả đủ tiền, nói lời cám ơn rồi mở cửa xe. Thụy chờ sẵn bên cạnh xe để đỡ hành lý cho Liên An. Ngay lúc đó, anh thoáng để ý từ cái nhìn lạnh lùng của người tài xế.

            Rồi, hai người dời bước không quay đầu nhìn lại. Người tài xế như có vẻ bất bình, cặp mắt nóng đỏ trong cái nhìn dõi theo bóng cô gái đi bên cạnh người lính đang khuất dần phía trong.

            Mưa đêm xuống, nhẹ hạt.

-Em đổi tiền được không ?

-Có, nhưng đổi theo giá ngoài.

            Liên An chỉ cầm tay cái túi xách nhỏ, chiếc túi lớn của cô Thụy đeo ở vai bên trái, còn tay phải anh  kéo chiếc va ly lớn có gắn bánh xe. Hai người vui chuyện lúc đi bên nhau. Bỗng Liên An nói:

-Em vẫn còn cảm thấy sợ.

-Sao vậy em ?

-Hình như ông tài xế mắc bệnh tưởng ?

            Câu nói của Liên An làm Thụy bâng khuâng. Lúc bước đi chậm hẳn, Thụy hỏi:

-Em ngồi trên xe ra sao ?

-Không có gì, nhưng ông ấy hỏi em những điều có vẻ là lạ.

-Em có trả lời những câu ông hỏi.

-Có. Nhưng rồi, không hiểu sao em ngờ ngợ có chuyện gì đó.

-Và em cảm thấy lo lắng.

-Vâng.

            Nhìn qua Liên An, Thụy nói:

-Em đừng nghĩ ngợi. Hãy bình yên , để thanh thản với chuyến đi của mình.

-Vâng, có anh em yên tâm.

            Hai người đi theo những  hành khách phía trước đến quầy số 4 để ghi vé và ký gởi hành lý.  Tới đó, hành khách dừng lại, thứ tự đứng sắp hàng. Thụy nhìn đám đông hành khách tìm thử người quen, và trong số này, có bốn vị Sĩ quan và hai SVSQ, những người này mặc lễ phục màu xanh của binh chủng Không Quân. Hai chàng SVSQ du học, còn bốn ông Sĩ quan là đi tu nghiệp. Bốn vị này đều là Sĩ quan kỹ thuật, vì không có người nào đeo cánh bay trên túi áo.

            Thủ  tục ghi vé và nhận hành lý rất nhanh chóng. Mỗi hành khách chỉ mất hơn mười lăm phút là xong phần việc của mình.

            Bên cạnh quầy ghi vé có một cửa hàng bán rượu , thức uống và đồ ăn nhẹ. Bây giờ, ai cũng thảnh thơi ngồi nghỉ chờ ra sân bay.

            Cùng với hành khách khác, Thụy và Liên An đi vào quán .

-Em uống cà phê nghe ?

-Cà phê , em sợ không ngủ được.

            Một giọng vui, Thụy nói:

-Nhưng mà đi, là để thức chứ có ai mà ngủ.

-Không, em không thức nổi. Nhưng thức để làm chi ?

-Thức để mà nhớ.

            Liên An cười nhìn Thụy. Thụy đứng lên, đi đến quầy mua cà phê pha sẵn, trong chốc lát đã quay trở lại. Thụy đặt chiếc khay giấy xuống, trên khay đã có sẵn mấy gói  đường nhỏ.

            Liên An rất muốn tạo nên một dáng đẹp, dễ thương để cho Thụy tha hồ mà ngắm, nghĩ ngợi và tưởng tượng. Với cặp vui, cô nhìn Thụy săn sóc mình. Thụy đang cho đường vào ly cà phê, xong cầm thìa khuấy nhẹ.  Rồi, anh đặt ly cà phê trước mặt Liên An:

-Em uống đi.

-Em chờ anh.

            Trong lúc Thụy cho đường vào ly cà phê của mình, Liên An hỏi:

-Bao giờ khóa học của anh mới bắt đầu ?

-Anh chưa biết.

-Đừng nhìn em lâu quá.

-Em uống cà phê đi.

-Anh ở Sài Gòn một mình.

-Ngày đó, anh vào đây tìm kiếm việc làm.

-Anh làm công việc gì ?

-Vào thời gian ấy, việc làm không có nên anh tình nguyện đi lính.

            Hai ly cà phê còn để nguyên, chưa uống vì còn quá nóng. Ngồi ở bàn chỉ có riêng hai người, một lúc sau, cà phê bớt nóng hai người cầm ly mời nhau uống và nhìn mưa bên ngoài. Mưa làm cho bóng tối trở nên dày hơn, nhưng tiếng mưa đổ không nặng hạt. Người lính chợt cảm thấy lạnh, lạ thường. Cô gái mở to cặp mắt chợt nghe anh ta nói: 

-Khi đi xa là một dịp để cho mình nhớ. Đêm nay, ngồi trong phi cơ, lúc phi cơ bay trong trời đêm em chẳng nhìn chi những vì sao ở ngoài trời, mà cần sự hồi tưởng về một thời nào đó của mình. Hạnh phúc nhất của mỗi người là được nhớ. Trong bao nhiêu kỷ niệm về em, gia đình em, và một nơi em sinh trưởng là hiện ra rõ nét hơn cả.

-Cũng có anh trong đó nữa, phải không ?

-Anh nghĩ là cũng có.

-Còn anh thì sao ?

-Anh thấy mình đơn độc khi em đã khuất trong chân mây.

-Lãng mạn quá. Trên đường đưa em tới đây, và lúc này có anh, em nhớ ra thật rõ điều người tài xế nói, và em hiểu vì sao ông ta muốn cho em được nhìn một đêm cuối ở Sài Gòn trong giờ phút ra đi.

-Thế đó mà em lo sợ.

-Em sợ, vì ông ta như là người sống trong bệnh tưởng.

-Rất có thể, em là một khuôn mặt nào đó trong đời, ông ta có sự liên hệ.

-Biết đâu, điều anh nói ra là đúng.

-Nhưng mà, em phải để sự bình yên cho mình. Hay là, em nghĩ đến sự chờ đợi em và Lộc gặp nhau.

-Không, em chưa nghĩ đến Lộc. Em nghĩ nhiều đến anh.

            Thụy nói:

-Anh vẫn là người lính của một ngày đó về phép. Và, tối nay, anh phải mặc đồ lính để qua được bên đây mà tiễn em.

-Em nghĩ đến anh, vì chúng ta sắp chia tay.

-Em có đói không ? Gọi một món cho em ăn nghe.

-Đừng gọi, uống cà phê với anh được rồi.

            Trời vẫn đang mưa. Tiếng hành khách trò chuyện vang lên trong niềm vui trầm lặng thật ấm cúng. Thụy đã hút hết điếu thuốc thứ ba. Liên An nhìn anh châm điếu thuốc thứ tư, cô nói:

-Anh hút thuốc nhiều quá.

-Trong buổi tối nay thôi.

-Không hút nữa, đưa điếu thuốc cho em.

-Em thích hút thuốc sao ?

            Liên An gật đầu. Thụy nói:

-Em hút đi. Có khói thuốc em hút, anh thấy em bay trong mây.

            Liên An mỉm cười. Nàng ngậm điếu thuốc khô trên môi, hít nhẹ một hơi rồi thở ra làn khói. Có thêm nhiều xe du lịch và xe taxi đang đưa khách đến. Mới được bên nhau khoảng thời gian chưa đầy nửa tiếng, vậy mà trong ký ức, hai người cùng cảm thấy có một sự dằng xé vì nỗi buồn của ngày tháng. Thụy nhìn ra mưa, trong lúc tiếng Liên An đang nói bên anh.

            Từ nãy giờ, bạn nghe rõ một câu chuyện về bên gia đình Liên An. Cách kể câu chuyện, giọng nói của Liên An dần dần sắp xếp cho bạn từng thứ lớp, đó là những gì nàng đã gói trọn và đem cất trong chiếc va ly hành lý của nàng , và nó sẽ được gởi theo chuyến bay.

            Thụy nở một nụ cười  hiền hậu, anh nói:

-Em đã có được một khuôn mặt thời gian.

            Thụy uống cà phê thật chậm. Anh đang uống một chút men trong hương vị của một mối tình.

            Liên An tháo chiếc đồng hồ tay đưa qua cho Thụy. Thụy cầm lấy chiếc đồng hồ, anh chỉnh lại  ngày và giờ sau khi đã so giờ bên Việt Nam và giờ ở tiểu bang Cali bên Hoa Kỳ.

-Lúc này là mấy giờ bên Mỹ ?

-Sáu giờ sáng. Em qua bên đó, đến tháng mười là đổi giờ vào mùa đông.

-Em biết.

-Có ai đón em không ?

-Có chứ.

-Người thân bên Lộc ?

-Không. Người của trường ra đón.

-Vậy là em ở nội trú.

            Liên An mở túi xách, lấy ra một phong bì thư khá dày đưa cho Thụy xem. Thụy mở thư đọc, đây là thư của ông bà Smith , người bảo trợ cho Liên An. 

            Liên An nói:

-Có lá thư này em đỡ lo.

            Với một nụ cười dễ thương, Thụy nhìn Liên An. Cô gái cũng nhìn lại anh, màu mắt của cô thật đẹp như  màu một viên kẹo sô cô la.

-Anh cứ mãi nhìn em, thôi nhé.

-Chung quanh em niềm vui như là ánh sáng, Thụy nói.

-Bây giờ là đêm, với ánh sáng là màu vàng.

-Đèn sáng vẫn đợi giây phút em lên đường.

-Anh vẫn luôn mơ mộng.

-Em vẫn là Liên An, cái tên anh rất thích gọi

-Chỉ có tên thôi, phải không ?

-Em vẫn là Liên An, Thụy khẽ nhắc.

            Từ máy vi âm trong phòng phát thanh chợt vang lên tiếng nói của nhân viên phi trường. Đã tới giờ Liên An, ra đi. Thụy chợt rùng mình, ngẩn ngơ. Khi anh và cô gái cùng đứng lên, giọng cô xướng ngôn viên đã thay đổi, và giọng nói trở nên nhanh với hai thứ tiếng Anh và Pháp dành cho những hành khách nước ngoài.

            Lối cửa ra phi cơ gắn tấm biển số 2. Những người kiểm vé đứng chờ. Thụy và Liên An chưa dời bước, mắt nhìn nhau bối rối.

-Em đi nghe, tiếng cô gái nói và nước mắt ứa ra.

-Anh nhớ em lắm.

-Em hiểu.

-Anh nói với em một lời được không ?

-Anh cứ nói đi.

-Anh yêu em.

            Liên An gật đầu, rồi đưa tay ra cho Thụy bắt.

 

 

 

                                                             II

 

 

 

            Liên An đến một phương trời khác. Nàng cũng đã khép đôi mắt, lúc muốn để cho chàng thấm lấy một chút vị ngọt trên cặp môi khô của nàng. Ít ngày sau, Thụy cũng rời xa Sài Gòn. Mưa, thành phố này nghe trong mưa, bạn có được cả cuộc sống người miền Nam. Thêm lần này nữa, Thụy trở ra Nha Trang. Nơi thành phố ấy đã nhiều lần anh trở lại, nhưng anh vẫn không có một nỗi rung động, sự đợi chờ, và ở đó, vẫn là biển, cát trắng, những hàng phi lao, những bóng dáng con tàu đi quanh qua các hòn đảo nhỏ.

            Từ sân phòng tuyển mộ đến phi đoàn vận tải chừng hơn mười phút. Khi đoàn xe tới, rẽ vào lối cổng và ngừng lại trên bãi đất trống bên cạnh nhà kho. Lập tức, 218 khóa sinh nhảy xuống tập trung nhanh thành bốn khối theo danh sách đã có ghi sẵn tên. Mỗi khối, sẽ đi một chuyến bay. Thụy ở trong khối 4, đi chuyến sau cùng.

            Trong lúc chờ, anh em chia nhau thuốc hút, chuyện trò rất thoải mái. Chen lẫn giữa số đông khóa sinh mặc đồ trận, đội mũ vải, có khoảng mười SVSQ niên trưởng mặc đồ vàng đeo dây biểu chương, người nào trông gương mặt cũng sáng sủa, tự tin.

            Tới 9 giờ, khối 1 và 2 lên phi cơ. Hai chuyến bay kế tiếp được thông báo sẽ đi lúc 10giờ. Số khóa sinh còn lại được tự do, nhiều anh em đứng dậy rời hàng đi về phía câu lạc bộ của phi đoàn. Khi trở ra, trên tay anh nào cũng có bánh mì, cà phê.

            Thụy mở nắp túi áo lấy gói thuốc. Đây là điếu thứ tư anh hút trong buổi sáng nay. Bất chợt, Thụy nhận ra mình già hơn các bạn chung quanh. Cũng dễ hiểu, anh đã đi lính, được theo học Sĩ quan nhờ có bằng Tú Tài, còn những bạn kia ngoài đời là học sinh, sinh viên vừa đến tuổi nhập ngũ. Cũng khoác áo lính nhưng trông họ rất trẻ trung và mới lạ. Trong sự trầm lặng của mình, Thụy có đôi chút mặc cảm dù rằng, lúc này anh và họ là cùng chung một khóa học.

            Thụy kéo dây ba lô, lấy ra một cuốn truyện nhưng vội vàng cất vì đã có lệnh di chuyển ra phi cơ. Hàng quân bước đều, trật tự hướng về chỗ hai chiếc phi cơ đậu.

            Bỗng nhiên, Thụy khựng bước. Người áp tải viên nhìn anh, hỏi:

-Nhớ tao ?

-Nhớ.

-Sao, được đi học Sĩ quan hả.

-Ờ, được đi học.

            Thụy vừa đáp lời, nhìn anh bạn cố nhớ tên. Lần lượt, khóa sinh lên tàu. Hai bên dãy ghế  đầy chỗ , số còn lại ngồi xuống sàn. Đây là chiếc vận tải, loại C119. Nếu đi C130, chỗ ngồi thoải mái hơn.

            Khi bửng cửa sau kéo lên, đèn trong phi cơ bật sáng. Một lúc, tiếng động cơ nổ, rồi di chuyển.

            Phi cơ cất cánh rời Tân Sơn Nhất. Anh bạn đi tới chỗ Thụy ngồi, nhìn Thụy bằng một ánh mắt lạ lùng. Thụy lấy gói thuốc, đưa ra mời , anh ta rút một điếu.

-Ra Nha Trang học bao lâu ?

-Học ba tháng quân sự, xong về đây học Anh ngữ.

-Lấy xong Tú Tài II chưa ?

-Chưa, lấy không nổi. Nếu biết lận đận thi cử, tao đi sớm được ba năm rồi.

-Nãy giờ nói chuyện, mày nhớ ra tên tao không ?

-Thực tình không nhớ.

-Tao nhớ tên mày.

-Cám ơn.

-Tao là Chung.

-À, nhớ rồi. Nhớ cả bài thơ của mày đăng trong đặc san của khóa.

            Chung gật đầu cười, hài lòng.

-Mày là chủ biên tờ Đặc San mà.

-Anh em mình cùng làm, tao chỉ lo bài vở rồi đánh máy, quay ronéo.

-Còn giữ tờ báo không ?

-Còn, lần nay ra Nha Trang cũng cố làm tờ Đặc San nữa.

-Mày viết khá lắm. Truyện mày đăng báo Lý tưởng, tao có đọc.

            Thụy có được cảm giác nhẹ nhõm với người bạn lính cũ đã lâu không gặp.

Chung trông khỏe mạnh, cao lớn trong bộ đồ bay như là một phi công. Năm đó, khóa tân binh chuyên viên có tuyển lựa thêm một số áp tải viên, Chung được chọn theo học một khóa về ngành này.

            Lúc này, phi cơ đang bình phi, hai bạn chuyện trò vui vẻ, cởi mở. Những kỷ niệm đầu tiên bước chân vào quân trường được nhắc lại, với từng người bạn, với từng căn lều trại lợp tranh.

            Thụy hỏi:

-Ở phi đoàn, có đứa bạn nào trong khóa nữa không ?

-Không, một mình tao.

            Thụy nói:

-Dáng dấp mày không khác gì là phi công.

            Một giọng trầm lặng, Chung nói:

-Tao đi theo tàu luôn. Không có thì giờ học.

-Có khi nào ra Huế, Đà Nẵng không ?

-Khỏi nói, đi như cơm bữa.

-Tiền phụ cấp bay khá không ?

-Bằng nửa mấy ông Pilot.

-Vậy cũng đỡ.

-Mày lên được gì mới đi học.

-Hạ sĩ. Còn mày.

-Cũng ngang đó thôi.

            Thụy thả mẩu tàn thuốc, dí mũi giày dập tắt.  Cũng vừa  lúc, tiếng chuông reo. Chung đứng lên, áp ống nghe vào hai bên tai. Thụy quay nhìn ra cửa, trông thấy bên dưới là biển. Một nỗi bâng khuâng, Thụy còn níu tay trong những hình bóng ngày cũ. Rồi, anh trông thấy bóng dáng ngọn núi, những con đường của thành phố xuất hiện, lúc này, phi cơ từ từ giảm cao độ để chuẩn bị đáp. Thụy vẫn cứ dõi theo những sự vật như  anh đang tìm kiếm một bóng hình nào thân thuộc. Thụy nhớ nghĩ nhiều đến Thúy Hà, đến bao nhiêu hẹn ước xa xôi trông đợi có được một ngày ở bên nhau.

            Những con đường trong thành phố đã khuất dạng. Phi cơ vừa chạm bánh rất êm xuống phi đạo, bỗng nhiên tiếng chuyện trò im bặt. Lúc này, anh em khóa sinh người nào cũng lo lắng, lặng yên xem xét lại quân trang và quân phục.

            Từ phi đạo bên ngoài, phi cơ lướt bánh rất nhanh một đoạn đường xa, rồi tốc độ chậm dần , đến lúc ngừng hẳn .

-Nhanh lên, các anh còn tà hả.

            Thụy đeo vai ba lô, tay phải nhấc túi xách marin, anh điềm nhiên chờ lệnh lạc. Chung mở cửa sau, từ trong khoang tàu đám khóa sinh vội vàng, hối hả lao ra ngoài.

-Các anh tập trung nhanh lên.

             Giữa những tiếng la hét dữ dội, bất chợt có một hình ảnh như áng mây làm Thụy chú ý, đó là cái bóng nắng in đậm nét viên Đại úy phi công còn rất trẻ trong bộ đồ  bay màu cam đứng riêng một mình, lặng im .

-Các anh vào hàng ngay.

            Người nào cũng đều khiếp sợ, tối mặt tối mày chẳng thấy gì cả, chỉ nhìn theo những chiếc áo treillis và những cái túi sac marin mà chạy  đến chỗ sắp hàng.

-Đếm số.

            Người đứng đầu cất tiếng lớn một, hai, ba, bốn, đến Thụy là số 68 đứng ở hàng cuối.

-Sac marin lên vai, chuẩn bị.

-Sẵn sàng.

-Chạy.

            Đoàn quân chạy đều bước, đều hàng, vừa hô to những tiếng khỏe, khỏe. Trời đầy nắng nóng, tiếng hô, tiếng ồn ào rầm rập bước chân chạy, và tiếng la hét của mấy ông SVSQ niên trưởng vang dội cả quân trường.

            Nhưng chỉ vượt được chừng hai trăm thước, đoàn quân  chạy bắt đầu rời ra, người trước kẻ sau không còn thành hàng, thành lối nữa. Trên vai Thụy chiếc sac marin mỗi lúc càng đè nặng, anh cứ chạy, nhưng  hoa mắt không nhìn thấy quân trường đâu cả.

-Chỗ  trại còn xa lắm. Các anh rõ chưa ?

-Rõ.

-Chạy nhanh lên.

            Đoàn quân thấm mệt, rời rạc trong bước chạy, bước đi, bước nghỉ. Thụy trông thấy có bóng im, anh vội buông túi xách ngồi nghỉ. Trước anh, chừng năm mười bạn, cũng đã xỉu,  rơi dài dài.

-Tại sao anh không chạy nữa ?

-Mệt quá rồi, cán bộ ơi.

            Nghe Thụy  đáp vậy, anh ta bật cười, nhưng liền nín ngay và làm mặt nghiêm.

-Ông chống thế chờ, xuống cho tôi trăm cái hít đất coi.

            Vừa được nghỉ qua ít phút, Thụy tuân lệnh chống thế chờ hít đất. Được hai chục cái, vị này bảo anh đứng lên, sac marin lên vai tiếp tục chạy. Thụy bạo dạn hỏi:

-Gần tới chưa cán bộ ?

-Còn xa lắm,  ông. Nhà trại các ông ở trên núi kìa. Chỗ có vọng gác ông thấy không ?

            Thụy nghĩ tay này xạo, nhưng ông ta hỏi lại lần nữa, anh đáp rõ . Giờ Thụy đang cố gắng chạy, bị đứt quãng mấy đoạn, rồi sau cùng  về tới khu vực chính của trại.

            Về đây anh em tưởng được nghỉ mệt, đâu ngờ, một trận dã chiến ra trò. Trên mặt sân cát, anh thì bò, anh thì lăn thùng phi, anh nhảy xổm, và còn cả một đám đông đang đếm nhịp hít đất. Cảnh tượng diễn ra trong tiếng la hét không lúc nào ngừng. Rồi cả bọn bị bắt lột con cá alpha, bị làm thịt từng đứa một. Bọn lính mới đứa nào cũng nín câm, lầm lì thi hành lệnh phạt. Mấy ông niên trưởng cứ thay nhau quần thảo từng toán một,  và mắt cứ lăm le vào anh nào thi hành không đủ tiêu chuẩn.

            Sau đoạn đường bò dã chiến trên cát hai vòng, nóng bỏng cả hai cánh tay, đến lượt  Thụy phải nhảy 30 cái nhảy xổm đúng thế. Hai tay để lên đầu, thế chân trước, chân sau, anh cố gắng nhảy, cuối cùng cũng đủ. Lúc Thụy đang sửa lại quần áo để báo cáo thi hành lệnh phạt xong,  bất ngờ , một niên trưởng ở toán bên kia bước nhanh sang, rồi dừng trước mặt Thụy, nạt nộ hỏi:

-Ông có biết tôi là ai không ?

-Dạ, là niên trưởng cán bộ.

-Trời, ông dạ. Quân đội không có thưa dạ, ông ơi.

-Là niên trưởng cán bộ.

            Người kia hỏi:

-Ông có quen biết niên trưởng này không ?

-Không ?

-Ông có quen tôi không ?

            Thụy đã nhận ra Giáp, bạn học cũ, chỉ nhìn.

            Tiếng anh ta quát lớn:

-Ông có quen tôi không ?

            Sợ quá, Thụy đáp:

-Không.

-Ông không quen tôi hả.

-Không.

-Hai chục cái hít đất.

            Thụy không  đáp lời, tuân lệnh thi hành. Xong, anh đứng lên nghiêm chỉnh chào kính và trình diện. Một giọng từ tốn, Giáp hỏi:

-Cho ông nhìn lại mặt tôi, có quen không ?

-Không, Thụy đáp.

-Ông không xứng đáng là SVSQ/KQ.

            Thụy lặng im nhìn Giáp. Giáp nói:

-Binh chủng Không Quân, tình bạn là trên hết. Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè. Ông là bạn học với tôi thời xưa, mà giờ vào đây ông lại không nhìn tôi. 50 chục cái nhảy xổm.

            Thụy  thi hành lệnh phạt lập tức. Và anh  chỉ biết mình còn gắng sức, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Nắng trưa càng gắt, trên bãi cát, đám khóa sinh đã xỉu nằm dài, nhưng tiếng mấy ông cán bộ la hét vẫn còn chói tai nhức óc. Bất thần, Giáp cất tiếng:

-Cho ông đứng dậy.

            Thụy chỉ mới nhảy được 20 cái, Giáp đã cho đứng dậy. Lúc anh sửa quần áo để trình diện, tiếng Giáp bỗng  nhẹ nhàng nói:

-Tao là Giáp, nhớ ra không ?

-Nhớ, Thụy đáp nhỏ tiếng mắt vừa nhìn lại người bạn cũ.    

-Có biết  thằng Há không ?

-Biết.

-Hắn mới về Sài Gòn tuần trước. Cuối tháng này hắn đi Mỹ.

-Còn ai bạn quen ở đây nữa không ?, Thụy hỏi.

-Không.

            Dưới nắng, mồ hôi ra ướt đầm áo Thụy mặc. Niên trưởng lúc nãy bắt anh thi hành lệnh phạt, đã bỏ đi. Thụy và Giáp nói chuyện nhỏ tiếng, nhắc lại tên mấy người bạn học với giọng khàn đục khơi trong nỗi nhớ  một chút ngậm ngùi, cay cay trên cặp mắt. Khi xuống máy bay là  mười một giờ hơn, đến lúc này đã quá một giờ trưa, 218 tân khóa sinh chịu đựng hai giờ huấn nhục trong ngày đầu đã ngất ngư , mệt nhừ rồi, chỉ mong được nghỉ ngơi. Vừa trông mong như vậy, bỗng có lệnh tập trung toàn khóa để nghe một Niên trưởng cán bộ trong chức vụ Không đoàn trưởng nói chuyện. Vị niên trưởng này đứng trước hàng quân, dáng uy nghiêm, miếng vải  cà rốt mang trên cổ áo có đến bốn lằn gạch trắng nghiêng, trông ra vẻ là một vị chỉ huy cấp tá. Bằng một giọng trầm, vừa nghiêm, sau lời chào mừng đón tiếp, vị này lần lượt giới thiệu thành phần SVSQ cán bộ phụ trách đoàn khóa sinh trong thời gian huấn nhục, rồi tiếp theo là những điều lệ, nội qui của quân trường.

Từ ngoài sân, lần lượt tân khóa sinh đi hàng đôi vào nhà ăn. Rồi đứng nghiêm trước mỗi bàn,  lặng  im như cầu kinh, tất cả cùng lắng tai nghe những lời hướng dẫn cách ăn uống dành cho SVSQ. Năm phút sau, tất cả mới được phép ngồi.

            Bữa ăn chỉ có cơm, món canh và cá kho. Mệt và đói, nên người nào ăn cũng nhiều. Hết thức ăn, có người lấy nước trà thay canh để ăn cho đủ sức. Lúc này, tất cả niên trưởng thay vì la hét , nạt nộ, ông nào cũng lời lẽ nhẹ nhàng, luôn có mặt từng bàn, vừa trò chuyện, vừa thúc các tân khóa sinh phải gắng ăn thật nhiều, thật no, vì thời gian huấn nhục còn kéo dài đến bốn tuần. Trong khoảnh khắc ấy,  ai cũng cảm động, vơi dần đi nỗi mỏi mệt.

            Bữa ăn thong thả, kéo dài hơn nửa tiếng. Khi trở ra ngoài, với túi sac marin trên vai, từng khối đi nhận phòng. Bên trái khu nhà  ăn, một tòa nhà dài hai tầng, có lối cầu thang ở hai đầu. Được phân chia và hướng dẫn trước, hai khối C và D tầng dưới, A và B lên tầng trên.

Hai dãy giường sắt đôi  song song, một lối đi rộng ở giữa, bên mỗi giường có đặt chiếc tủ nhỏ cao hơn một mét, anh em khóa sinh khi đi vào cứ theo thứ tự hàng đôi mà nhận chỗ. Thụy ở dãy giữa, giường trên, bên cạnh là bạn Lưu Vinh , đối diện có một bạn người Quảng tên Đặng gần đó, là  ba chàng trai Huế là Hiệp, Vê và  Định.

            Hôm nay là ngày chủ nhật, giờ này, có nhiều  niên trưởng mới bắt đầu ra phố, nhưng cũng có một số đã trở về trại.

            Thụy ngả lưng xuống giường chợp mắt được một giấc. Khi anh thức dậy, các bạn chung  quanh đang ngồi đánh giày, soạn sac marin sắp xếp quần áo,  hoặc viết thư. Trong cảnh sinh hoạt giờ nghỉ ai nấy đều yên lặng, nhưng cũng trong giờ phút này, anh em có dịp hỏi chuyện làm quen nhau.

            Hai ngày trước, tất cả khóa sinh tập trung đông đủ ở trước sân phòng tuyển mộ. Điểm danh xong, có ngay tin tức thông báo về khóa học. Viên Thượng Sĩ  đứng trước hàng quân bắt đầu đọc danh sách những người đi Nha Trang , anh nào có tên sắp một hàng riêng. Trước buổi tập họp, trong anh em đã lao xao bàn tán về chuyện đi hoặc ở lại Sài Gòn. Thụy nghe các bạn nói, điểm thi Anh Ngữ dưới 21 sẽ ra Nha Trang học quân sự trước, còn trên mức này, sẽ ở lại Sài Gòn học Anh Ngữ . Với tin này, Thụy tự nghĩ chắc là mình ở lại để học chứ không ra Nha Trang, vì kỳ sát hạch vừa rồi ở Trung Tâm Nguyễn Trãi anh làm bài được, nhất là phần viết và văn phạm.

            Nhưng bất ngờ, sau con số 200, lại có tên Thụy. Cho đến 218 người thì danh sách ngừng lại ở đó, và không cần thông tin nhiều, viên Thượng Sĩ loan báo ngay những ai có đọc tên ra Nha Trang về nhà chuẩn bị quân trang, sáng chủ nhật sẽ lên đường. 

            Hàng quân tự động giải tán. Số đông anh em chưa về ngay, vẫn còn đứng lại chuyện trò , bàn tán sôi nổi.

-Như vậy, tụi mình bị mất ba tháng.

-Đằng nào cũng phải học quân sự giai đoạn II mới ra trường.

-Nhưng đước học Anh Ngữ , đi Mỹ sớm hơn.

-Bạn ạ, ông có đậu Anh Ngữ, đậu bằng lái Pilot, ông cũng phải học xong quân sự mới đeo lon.

-Không đâu, đi qua Mỹ học về là đeo lon luôn.

            Từng đám đông đang tụ tập, vẫn  cứ bàn đi, nhắc lại mấy điều kể trên mà thực sự cũng chưa ai nắm rõ, nên chẳng biết tin bạn nào là đúng. Nhưng dù  đi hay ở , Thụy không bận tâm nữa. Ra Nha Trang cũng vui thôi, điều cốt yếu ngày nào ra trường, trở thành phi công mới là quan trọng. Và, trong lúc 218 khóa sinh chờ lên đường ra Nha Trang thì khoá 69A từ ngoài đó vừa mãn khóa học mới trở về. Có một vài SVSQ của khóa này xuất hiện trong bộ quân phục vàng, có gắn alpha và mang dây biểu chương.

            Ngày chủ nhật,  gần tới rồi. Thụy tự dưng nôn nao, nửa muốn về nhà, nửa còn nấn ná ở lại. Sau hơn một giờ tụ tập, thấy anh em ra về Thụy cũng về theo. Trước khi tới bến xe lam trong căn cứ,  Thụy ghé Phòng Báo Chí gặp anh Dương và được anh cho vài tờ báo Lý Tưởng mang theo đọc.  

             Trong một thoáng nhớ , cuộc đời có vẻ chênh vênh, chập chờn. Lúc này, có những người bạn ngồi cúi đầu lặng yên theo ngòi bút viết thư về cho gia đình. Thụy cảm thấy nao nao,  anh nghĩ đến cha mẹ, những đứa em, và bao nhiêu người thân cùng bạn bè. Anh cũng bất chợt nhớ đến bóng dáng một cô gái Huế cùng anh đi trên chuyến xe buýt, rồi cùng anh xuống một trạm ở nhà ga. Không biết tận phương trời xa, Liên An có nhớ lại một chút gì về  anh không, hay buổi gặp gỡ tình cờ đó, đối với cô thật bình thường, dửng dưng, chẳng hề gọi là kỷ niệm . Riêng anh, bóng dáng nàng như gió mát tâm hồn, phút giây này, lòng anh thực muốn gửi về Huế, thành phố thân yêu ấy một mối tình. Sau cùng, trong trí nhớ Thụy hiện rõ một khuôn mặt hiền dịu Thúy Hà, anh như nghe tiếng nàng nói và đem lại cho anh một nỗi buồn,  từ nay anh chỉ biết giữ mãi sự thầm kín của một câu chuyện tình mà chỉ có riêng hai người biết nhau thôi.

            Bỗng nhiên, từ ngoài lối cửa vào Giáp xuất hiện trên tay cầm một gói giấy báo. Vừa đến bên Thụy, Giáp lên tiếng:

-Ông vừa mới vào quân trường mà đã có thân nhân gởi quà rồi.

            Các bạn chung quanh nhìn Giáp và Thụy. Nhưng Thụy  biết ngay gói quà nhỏ là Giáp mua ở khu cantine,  chứ không hề có ai gởi cả. Thụy nói với người bạn tiếng cám ơn rất nhỏ, hơi rụt rè, rồi lúc Giáp ngồi xuống cạnh giường mình, Thụy mới mở gói giấy. Đó một chiếc khăn mặt, cái bàn chải mới và một phong kẹo nhỏ.

            Giọng xúc động, Thụy hỏi:

-Gia đình anh còn ở Đà Nẵng không ?

-Vẫn ở ngoài đó.

-Anh sắp  đi Mỹ học lái chưa ?

-Không đi Mỹ, đang học khóa Cessna ở đây.

-Vậy cũng được. Anh đã bay solo chưa ?

-Rồi, mới xong tuần trước.

-Như vậy, trên ngực áo anh có nửa cánh chim rồi.

            Giáp cười nhẹ nhàng. Có bạn khác hỏi:

-Chừng nào niên trưởng mới ra trường ?

-Chưa biết, suôn sẻ ,  chừng sáu tháng nữa.

           

           

           

                                                          

                                                         III

 

 

 

            Xong buổi khám phòng, còn được nửa giờ nghỉ nhiều anh em đem công việc riêng ra làm. Tiếng trò chuyện cũng nghe râm ran, chỗ này ch?y ??n chỗ kia, b?ng ch?c ồn ào lên với những tiếng cười hả hê, thoải mái. Rồi, cũng trở về yên lặng.

            Thụy đang viết thư trong lúc  rất nhớ Thúy Hà, và nàng diễn qua tâm trí anh như một đoàn tàu hồi hương. Đến các nhà ga, hay một nơi nào đó, anh cũng chỉ thấy sự xuất hiện một bóng dáng của nàng. Tình yêu, nàng và anh luôn chỉ nằm trong tâm cảnh, và bạn tìm thấy ý nghĩa đó qua đôi mắt nàng, qua tiếng nói, rồi là nắng gió của thời tiết mỗi mùa.

            Vừa lúc lá thư viết xong, hồi kẻng đánh lên báo giờ đi ngủ. Hôm nay, mới hết tuần lễ huấn nhục thứ nhì. Không một ai biết, thời gian thử thách qua giai đoạn này là bốn hay tám tuần. Có lẽ, chỉ bốn thôi, vì khóa học quân sự ba tháng, rồi trở về Sài Gòn vào trường Anh ngữ. Với Thụy, anh không dám vụt bay cao, mà chỉ mong lên được từng bước. Những năm gian nan, lận đận trong thi cử, Thụy đã muốn quên, nhưng rồi nó lại vẫn cứ thôi thúc. Thực lòng, Thụy rất ước mong lên Đại học, bốn năm trước có được tấm bằng Tú Tài I, anh vẫn yên phận làm lính để có được thời gian rảnh học thi lấy bằng Tú Tài II. Khi giật được mảnh bằng này, không gian của tương lai mở rộng. Hoặc ghi danh vào, hoặc bằng hai lối thăng tiến, một xin đi học lớp Sĩ quan ngành kỹ thuật, hai la, trôi theo mộng viễn phương của nhà văn Toàn Phong. Đời phi công thật là đẹp, lãng mạn khi mình được khoác áo hiệp sĩ không gian đứng bên cô Phượng. Và, nếu trong giấc mơ thành đạt, Thụy sẽ tìm ra Phượng có thực ngoài đời.

            Những lá thư quân trường Thụy viết, đã gởi cho Thúy Hà, Lăng, Huê và chị Thiên Nga. Liên An đang ở Mỹ, mới ra đi  cách đây vài tuần, những ngày đầu trên xứ lạ hẳn sẽ làm cho cô gái bỡ ngỡ, nhưng rồi cô cũng sẽ quen với không khí tự do và nếp sống ở xứ người. Với Liên An, cô em gái dành cho anh một kỷ niệm như  bài thơ, bài hát anh yêu thích. Thụy luôn nhớ Huế, bóng dáng nhà ga, chuyến xe buýt ghé trạm ngừng anh và Liên An cùng xuống. Thụy nhớ buổi chiều trước khi ra đi sau thời gian hết nghỉ phép, anh và Liên An đi bộ qua những chiếc cầu và nhìn xuống dòng sông. Thụy nhớ tiếng nói của Liên An rất là nhẹ như cơn gió mát, lúc này đây nàng và anh chắc cũng đã gói kín Huế lại để thương yêu một mối tình.

            Bỗng nhiên, trời đêm trở nên lạnh. Vừa kéo tấm chăn đắp lên người, Thụy nghe tiếng mưa rớt hột. Trong đêm gió, mưa rơi xuống nhanh. Có nhiều người thức giấc lúc nghe mưa, rồi tiếng động những bước chân di chuyển, không lâu, căn phòng yên tĩnh trở lại, chỉ còn mưa bên ngoài. Mưa trở nên nặng hạt, mưa này có khi kéo dài đến sáng.

            Bất thần, cuốn sách Thụy để đầu giường rớt xuống sàn. Tiếng động làm anh bạn nằm giường bên giật mình thức giấc.

-Mưa hả.

-Ờ, trời đang mưa.

-Bạn không ngủ sao ?

-Có, tôi mới chợt thức lúc trời mưa.

-Chưa qua đêm.

-Chưa.

            Người bạn trở mình, nằm quay lưng ra phía cửa trước. Thụy vẫn thao thức, vì quá nhớ Thúy Hà. Sự ra đi của anh Bình ngày đó gây cho Thụy một nỗi buồn, quyến luyến. Những ngày đầu vắng lặng , Thụy rất nhớ đến anh. Thụy nhớ những buổi tối có trăng ngồi đánh cờ, chuyện trò với anh, nhớ tới  những cuốn sách truyện anh đưa cho mình đọc. Và , lại còn tình thân của anh với gia đình Thụy nữa, mỗi  lần chuyện trò Thụy rất thích những chuyện anh kể về Hà Nội, về những tỉnh lỵ, những vùng quê miền Bắc.

            Trưa hôm ấy, nằm nghe  cơn mưa xuống thật nhẹ mát, Thụy đọc lại cuốn truyện Bướm Trắng của nhà văn Nhất Linh. Cô Thu trong Bướm Trắng đã cho Thụy hình dung một thiếu nữ đẹp, sắc nét, rất có thể rồi đây anh sẽ gặp nàng qua hình ảnh một cô gái ngòai đời. Thụy đọc xong trọn chương đầu, cảm thấy buồn ngủ rồi buông sách. Thụy ngủ ngon giấc và nằm mơ thấy Thúy Hà. Nàng và anh ngồi trong lớp học ồn ào, đông bạn bè vây quanh. Các cô bạn mặc nhiều màu áo khác nhau, chỉ có Thúy Hà là một linh hồn áo trắng. Lớp học đang giờ nghỉ, học sinh nói chuyện, và hầu như ai cũng chú ý đến đôi tình nhân. Một lúc sau đó, Thúy Hà và Thụy lên ngồi trên mặt bàn học cạnh bên nhau. Tà áo của nàng lấp qua một bên. Nàng đưa tay qua kéo Thụy lại gần, rồi nàng hé môi. Thụy cúi xuống đặt môi hôn, vừa ôm nàng. Thụy cảm thấy cả môi anh và nàng cùng thơm một thứ vị ngọt trái cây. Thụy ngửi được cả hương vị thơm gạo mùa nơi áo trắng nàng mặc. Hai người vẫn quấn quít trong cặp môi hôn, không rời nhau. Chiếc áo trắng Thúy Hà mặc trong lúc đó đã làm tỏa ngập ánh sáng khắp căn phòng.

            Khi Thụy thức giấc, trời tạnh mưa. Chiếc đồng hồ để trên bàn học chỉ 3 giờ chiều. Thụy ngồi dậy yên lặng, sau đó đi rửa mặt, rồi trở về phòng thay quần áo. Thụy mặc chiếc áo sơ mi màu nâu đậm, quần vải kaki vàng nhà binh. Thụy  mở ngăn ví, thấy có ít tiền còn ở ngăn giữa.

            Đường Trưng Nữ Vương bắt đầu từ Viện Cổ Chàm chạy qua khu chợ Mới và lên thẳng đến vòng đai phi trường. Nhà dì Vân ở quãng giữa, cách một ngả  ba đường đi ra phía biển chừng vài chục mét. Ở khu dưới này chỉ có một ít nhà xây, còn hầu hết là những xóm nhà lao động. Quán ăn, quán giải khát cũng mọc lên nhiều. Vào sáng thứ bảy, chủ nhật, con đường này đông khách ăn, vì các quán bán món ăn bình dân ngon và rẻ. Từ ngày ở Đà Nẵng, Thụy đâm ra ghiền món mì Quảng. Món ăn này đặc biệt của người ở miền trong này, và khi bạn đến đây, ghé vào quán mì Quảng bạn sẽ thấy món ăn này thật hấp dẫn, no mắt và ngon miệng. Đó là những sợi mì dai và dày bỏ vào trong cái tô có rau, thịt kho ba chỉ, bánh tráng, đậu phụng. Khi bạn đói, có thể bạn ăn đến hai tô là thay thế cho bữa ăn trưa hoặc tối. Ở thành phố này những quán bán mì Quảng mở cửa từ sáng sớm đến chiều tối.

            Buổi chiều vang lên giữa hư không tiếng còi tàu vọng từ bến Cảng. Thụy hình dung thấy một con tàu đang rời bến. Ngày mai Thụy ra Huế. Ngày mai, anh về lại với gia đình. Còn lại buổi chiều nay cho anh nhớ đến Thúy Hà. Trong giấc ngủ anh mơ thấy nàng và giờ đã tan biến. Nhưng mà nàng vẫn còn đi từng bước chân qua trí tưởng khiến anh, như nghe tiếng mình đang gọi một người ở xa.

            Thụy  đạp xe ngang qua khu công viên, đối diện với trường anh học. Bên trong sân trường, có một số học sinh đang chơi bóng chuyền.

            Gió thổi mát, bóng nắng in lên vai  Thụy khi anh  dừng xe trước nhà Thúy Hà. Cửa hiệu luôn có khách ra vào mua các lọai mỹ phẩm. Thụy nghĩ là nàng có ở nhà. Nếu như có Duy vào, rất có thể giờ này nàng ở nhà Duy trong căn phòng riêng của chàng. Duy và nàng đã gắn bó nhau cả tâm hồn và thể xác. Thụy có ý nghĩ, thân xác của hai người luôn đầy đủ, có lúc dư thừa. Và, họ sẽ nói gì với nhau ngòai chuyện thân xác. Trên gương mặt Thúy Hà, Thụy luôn nhận ra, nàng có một đời sống riêng, một câu chuyện riêng mà Duy không thể biết. Tiếng nói của Thúy Hà khi dành cho Thụy như biểu hiện điều đó.

            Hai khách hàng rời cửa hiệu. Vừa lúc thấy Thụy  xuất hiện, ông Kha vui vẻ kêu lên. Thụy cũng lên tiếng chào hai ông bà.

-Cậu ngồi chơi. Tôi trở lại bây giờ.

            Thụy đáp dạ, ngồi xuống chiếc ghế rộng cầm tờ báo đọc. Rồi ông Kha trở lên nhà, ông có vẻ thỏai mái sau công việc vừa mới pha chế hàng mỹ phẩm xong.

            Ông Kha đưa gói thuốc mời Thụy một điếu. Thụy cầm lấy, mồi lửa từ cây diêm vừa bật cháy. Có tiếng nhạc từ trên căn gác vọng xuống. Tiếng hát Thái Thanh nghe rõ và trong.

            Về đây khi mái tóc còn xanh xanh

            Về đây với màu gió ngày lang thang

            Thụy lắng nghe đến khi tiếng đàn đệm bản nhạc buông nhỏ dần, rồi tiếng hát ngưng. Sau ít giây còn xúc động, Thụy định thần trở lại, vừa lúc ông Kha hỏi:

-Các trường có nghỉ lễ Phục Sinh không ?

-Dạ có. Ngày  mai cháu ra nhà.

            Cửa hiệu chiếm hết một nửa phòng khách với nhiều tủ kính lớn nhỏ dựa lưng tường. Ở ngòai mái hiên, một cái tủ lớn bày hàng và có bán cả thuốc lá.

            Khi chị giúp việc đem lên hai cái ly lớn có nước đá, vừa nghe giọng mời, Thụy đóan chừng chị là người ngòai quê mình.

            Bà Uyên nói:

-Cậu đây là người ở Quảng trị.

-Chào cậu.

-Chào chị.

-Ở Quảng Trị, cậu ở ngay tỉnh.

-Dạ, ngay tỉnh.

            Ông Kha rót bia vào hai ly.

-Tôi ở Trường Sanh, chị nói.

-Trường Sanh gần Hải Lăng, quê nội của tôi.

            Chị giúp việc tên Trà. Nói qua chuyện ít câu với Thụy xong chị xuống nhà. Ở cửa hiệu, thường có hai người đến giúp việc vào ngày thường trong tuần. Công việc của họ là súc rửa chai , rồi cho hàng vào chai và dán nhãn.

            Thụy cầm ly bia uống một ngụm đầy. Ông Kha nói:

-Các ông Tướng làm Cách Mạng bị quản thúc hết.

-Các ông bị đưa lên Đà Lạt.

-Tình hình vẫn chưa yên ổn.

-Bây giờ, ông Khánh được Mỹ ủng hộ. Ông ấy cũng là tay chân ông Diệm.

-Cậu có nghĩ là mấy ông Tướng trung lập không ?

-Cháu không biết. Nhưng cháu nghĩ những vị Tướng bị quản thúc thân với người Pháp.

            Nắng sáng lên ở ngòai. Lúc Thụy rời khỏi nhà, trời còn âm u sau cơn mưa tự lúc trưa. Thụy nôn nao mong được gặp Thúy Hà. Bỗng anh nhớ đến giấc mơ gặp nàng ở lớp học. Giấc mơ  hẳn còn đây, đang dâng lên mùi thơm chiếc áo trắng nàng mặc.

-Uống đi cậu.

            Thụy cầm ly bia ông Kha vừa rót thêm. Thụy nhìn lại gương mặt của ông. Mỗi lần nhìn ông, Thụy như cố gợi nhớ trong đầu một con người anh đã gặp ngày nào đó. Và, anh luôn có cảm giác, lướt qua hình ảnh ông là một chuyến xe lửa trở về dừng lại bên tháp nước nhà ga. Dòng nước mạnh tràn chảy trên máng xối. Khói đầu máy tàu, buổi chiều xôn xao những tiếng động quanh vùng núi, rồi một lúc sau, con tàu rời ga xép ra đi.

-Uống bia tốt lắm cậu. Đỡ khát nước.

            Lòng Thụy vui hẳn lên cùng với men rượu và nụ cười chợt sáng khi ngước mắt trông về phía cầu thang anh thấy bóng Thúy Hà đi xuống. Tiếng bước chân nàng nghe thật rung động, nôn nao, và Thụy đang nghĩ đến những lời mình mong tìm ra để thành một câu chuyện  nói với nàng, và được ở lâu bên nàng.

            Thúy Hà đi xuống nhà dưới, rồi một lúc sau trở lên gặp Thụy.

-Ba cho con một ly.

            Ông Kha khui chai bia lớn, rót vào cái ly nhỏ cho nàng uống.

-Anh có ra thăm nhà không ?

-Có. Ngày mai anh đi.

            Hai người đưa mắt nhìn nhau. Gần bên nhau, Thúy Hà luôn cho Thụy thấy vẻ đẹp của nàng. Nàng không chỉ đẹp với những tà áo dài anh thường gặp nàng ở lớp học. Nàng đẹp giản dị và quyến rũ cả trong bộ áo quần nhẹ mặc ở nhà. Nàng mặc quần áo nhẹ như  gió mát và hương gió ấy chập chờn làm rung động những cây lá trong vườn. Hai cánh tay nàng để trần, vòng cổ thon thả và trên khuôn ngực, ánh sáng của làn da đầy lên một lớp sữa trắng đọng, đây hẳn  là một phần của bức tượng nghệ thuật mà chất liệu sáng tạo là sự pha trộn các thứ trái cây.

-Em đang dọn lại căn gác.

-Xong chưa ?

-Em nhờ anh đưa chiếc kệ lên căn gác, được không ?

            Không giấu được xúc động, Thụy nhìn người bạn gái. Nàng hiểu, mỉm cười.

            Ông Kha đứng lên nói:

-Tôi trở lại làm việc. Hết giờ nghỉ.

            Ông nói với Thụy một câu tiếng Pháp. Còn lại Thụy và Thúy Hà bên nhau:

-Hai tuần nghỉ, em có tính đi chơi đâu không ?

-Không.

            Khi thấy Thụy nhìn nàng lâu, nàng ra vẻ nghiêm trên cặp mắt. Rồi nàng bảo:

-Lên gác đi.

            Thụy theo Thúy Hà xuống nhà dưới. Chiếc kệ chùi rửa xong được đặt cạnh bể nước. Thụy nhấc thử chiếc kệ, nói:

-Anh đem lên một mình được.

            Thụy nhấc chiếc kệ để lên vai. Vào lối cầu thang, Thúy Hà nhường Thụy đi trước, một tay nàng đỡ phía sau. Từng bước chậm, chắc chắn. Khi lên khỏi cầu thang hẹp, Thụy thực sự cảm thấy sức nặng nhưng cố gắng đặt xuống nhẹ nhàng, lòng anh cứ mãi vui vì được ở bên Thúy Hà .

            Thụy  nhìn qua lối cửa, hỏi:

-Em muốn đặt ở đâu ?

            Thúy Hà bên Thụy, má ửng hồng làm anh đắm say nhưng cố che giấu sự ngượng nghịu.

-Anh muốn đặt ở đâu ?

-Bên cửa sổ.

-Em theo ý anh.

            Thụy và Thúy Hà mỗi người một đầu nhấc chiếc kệ di chuyển đến chỗ đặt dựa vách tường sát cửa sổ.

            Hai người yêu nhau qua ánh mắt. Tiếp đó, khung cảnh và những đồ đạc trên căn gác hiện ra. Chiếc giường ngủ, chăn màn, tủ đựng quần áo, bàn học, sách vở và báo chí. Chiếc radio nhỏ hiệu Nationale với cần ăng ten đã kéo lên.

-Em để lại anh một mình.

            Thúy Hà cười, xong bỏ đi. Thụy gật đầu với vẻ mặt lo âu. Nàng đã rời căn gác đi xuống cầu thang. Thụy bâng khuâng nhìn theo bóng nàng, lòng tiếc nuối, và ước mong chỉ được ở bên nàng.

            Thúy Hà không ở bên mình nữa. Thụy nói thầm, giờ bạn biết  mình làm gì. Căn gác bỗng dưng trống vắng, lạnh lùng. Bất chợt, Thụy để ý đưa mắt nhìn những chiếc áo dài của Thúy Hà được để vào móc áo, treo thành hàng trên một sợi dây kẽm bên lưng tường. Ánh sáng từ ngòai chiếu lên, cái vẻ sáng mở ra màu sắc những chiếc áo dài vừa dửng dưng, buồn lặng. Thụy biết mình không thể nói, đôi mắt anh bình yên nhìn từng chiếc áo của nàng với cảm giác đang trông theo bóng dáng nàng đi qua một con đường trên các dãy phố. Trong phút này, tình yêu thương người bạn gái của anh thật đằm thắm, lặng yên nghe lời nói an ủi, mỗi chiếc áo là một hình bóng, một quãng đời đã in dấu lên trên đó bao nhiêu kỷ niệm thân thương của nàng. Đến cả tiếng nói nữa, mỗi chiếc áo đã gói lại nỗi buồn,  và tiếng nàng nói nghe như một lời gọi bâng quơ rất xa, rất nhớ của một người mẹ trong tình mẫu tử. Nàng rất đẹp, quyến rũ biết bao nhiêu mỗi khi nàng lấy một chiếc áo dài để mặc.

            Bỗng anh nghe tiếng nàng thốt lên:

-Anh cất giữ của em, phải không ?

            Thúy Hà lên gác, đứng ở cửa lúc nào Thụy không hay. Trên tay nàng cầm hai ly nước đá chanh.

            Thụy đang tìm một câu hay để nói. Thúy Hà đến gần đưa một ly nước cho anh. Hai người kéo ghế ngồi xuống bàn học. Khi chiếc muỗng khuấy nhẹ trong ly nước ngừng tiếng động, Thụy nói:

-Anh có được những chiếc áo dài của em. Có được trong đó nữa, biết bao nhiêu là hình ảnh của em.

            Thúy Hà nhìn sang phía những chiếc áo đang treo ở sợi dây kẽm. Nàng bỗng hỏi anh:

-Anh thương em, bạn anh có biết không ?

-Bạn bè anh và em, ai cũng biết.

-Anh thấy màu áo có sặc sở lắm không ?

-Không, màu nào cũng phác vẽ cho em một nét đẹp riêng.

-Em biết, những gì của em anh cũng đều thấy đẹp.

-Không lúc nào hình ảnh em vắng trong anh cả. Em vắng đi, anh cứ đợi chờ.

            Hai người uống nước, cảm thấy đỡ khát. Thúy Hà làm nước chanh thật ngon. Rồi một lúc sau, Thụy đứng lên bắt đầu công việc.

            Thúy Hà chuyền sách cho anh sắp.

-Ở Huế, nhà anh ở đâu ?

-Ở gần chùa Từ Đàm. Hồi ở Quảng Trị, em có hay đi Huế không ?

-Có, một đôi lần. Em đi với ba bằng xe lửa.

            Thụy cầm cuốn sách truyện Thúy Hà mới đưa lật coi nội dung vài trang rồi gấp lại. Anh bỗng nói với người bạn:

-Nhà anh ở Quảng Trị đối diện với tháp nước. Những năm sống ở đó, anh luôn nhớ rõ những chuyến tàu khi về đến ga. Thời kỳ đó, mẹ anh có mở một quán hàng cơm ngày nào cũng đông khách.

-Anh có phụ giúp cho mẹ anh không ?

-Có, bưng cơm nước phục vụ cho khách ăn. Công việc này, mẹ anh có cho anh tiền ăn quà.

-Anh giỏi lắm.

-Cám ơn em.

-Thúy    ạ.

-Gì anh ?

-Anh nhớ thời xưa đó anh gặp một cô bé có cặp mắt giống em.

-Có em, anh lại tưởng tượng thêm nhiều hình bóng khác nữa.

-Có em, một hình ảnh thôi , chưa đủ.

-Anh ra Huế bao nhiêu ngày ?

-Hết kỳ lễ Phục Sinh.

-Anh có đi Quảng trị không ?

-Có. Anh muốn về thăm lại thành phố nhỏ đó.

-Anh nhớ thăm cả thành phố cho em.

-Anh nhớ đến em khi về lại ngòai đó.

-Nhưng mà...

-Sao em ?

-Thôi, chẳng có gì cả.

-Em thích thứ quà gì ở Huế.

-Hay quá. Lúc vào, anh nhớ mua cho em mè xửng.

-Anh sẽ mua mè xửng, cả bánh đậu xanh nữa. Em thích không ?

-Rất thích.

            Công việc đang làm như thể là cái cớ để cho Thụy và Thúy Hà chuyện trò, gần gũi nhau, và có được chút cơ duyên vừa buộc ràng tình bạn, vừa thắt tình yêu thêm một gút. Bên ngoài, mây trời và quang cảnh phố trôi đi trong bình yên. Khi câu chuyện ngừng hẳn, tự dưng Thụy có cảm giác lâng lâng, lạ thường. Những cuốn sách sắp thành hàng ngay ngắn, đẹp mắt, anh hài lòng và cô bạn cũng cảm thấy vậy.Tiếng nói Thúy Hà hay lạ, rồi trong tiếng nàng xưng em dịu ngọt, Thụy cố gắng ngăn chận cảm xúc ôm hôn nàng. Sau đó, Thụy nghe âm thanh của hư vô và trong im vắng, anh có cảm giác mình trải rộng cánh tay để đón lấy những tiếng nói của người yêu,  nhẹ nhàng như những chiếc lá từ từ rớt từng chiếc một.

            Bỗng Thúy Hà cất tiếng:

-Đây này, cho anh Thụy xem.

            Thụy vừa quay đầu lại, Thúy Hà đưa cho anh cuốn album. Thụy  vội ngừng công việc đứng lên đi tới chỗ bàn học kéo chiếc ghế ngồi xuống. Thúy Hà ngồi bên anh, gần hơn. Thụy cầm ly uống hớp nước, cố lấy sự tự nhiên.

            Hai người cùng yên lặng. Thụy hơi run rẩy trên đầu hai ngón tay. Sau đó, sự rung động như muốn anh bày tỏ bằng lời nói. Cuốn album lớn bằng khổ một cuốn sách. Thụy mở ra trang đầu, hạnh phúc thật mát lạnh , ùa ngập, tràn đầy lên cả mặt anh. Rồi nhẹ nhàng, hương vị ấy tan dần. Những bức ảnh đen trắng, lớn có, nhỏ có, được dán thành hàng ngay ngắn, và mỗi tấm cho anh đoán được tuổi của Thúy Hà trên gương mặt. Mỗi cái nhìn từ ánh mắt anh tỏa xuống trên bức ảnh người bạn, đó là tình yêu mà anh biết nàng rất hiểu. Không để yên lặng lâu, Thụy hỏi chuyện để được nghe tiếng nói của Thúy Hà. Có một bức ảnh chân dung rất lạ tạo nên gương mặt Thúy Hà thành một bức tranh sống động, gần gũi, đam mê. Giọng nói nhỏ, mắt anh nhìn qua người yêu.

            Thúy Hà nói:

-Em chụp tấm hình này ở Quảng Trị.

-Anh cảm động nhớ em ngày trước ở đó.

            Thụy vẽ lại thành phố cũ, căn nhà xưa, qua sự  mường tưởng những âm thanh trong giọng nói của Thúy Hà , và anh cố gắng tìm đúng trong lòng mình một giọng nói trung thực để gửi hết quê hương tới cho nàng.

            Thụy lật xem những tấm ảnh khác. Thúy Hà đang ngồi bên anh. Thụy có được Thúy Hà cả hình ảnh và con người. Từng phút giây thời gian cứ lũy thừa gấp nhiều lần cho anh cảm tưởng rằng, hạnh phúc trong kỷ niệm, về sau sẽ được ghi nhớ rất là lâu.

            Cuốn album xem xong được gấp lại để trên bàn. Trở sang chuyện khác, hai người cùng nói về học hành,  thi cử. Thúy Hà, nàng cho anh hay nàng muốn theo ngành Dược khi lên Đại Học. Hình dung Thúy Hà với bao nhiêu nét trẻ đẹp, tươi vui, qua chiếc áo blouse trắng , thời gian sẽ trở thành vùng ánh sáng, ôi, hạnh phúc cho bất cứ ai được lấy nàng làm vợ. Thụy nhận ra rằng, anh chỉ là người bạn của nàng. Người bạn của nàng trong thời thơ ấu, và những kỷ niệm khi tìm kiếm, anh luôn cố nhớ ra từng âm sắc trong tiếng nói của nàng.

            Thúy Hà bật đèn sáng. Những hàng sách sắp trên kệ trông ngăn nắp, sạch sẽ, sáng sủa.

-Ngày mai anh ra Huế.

-Ngày mai anh về với ba mẹ và các em của anh.

-Anh có đi Quảng Trị không ?

-Có.

            Thụy nghe sự lập lại của bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu lời nói và ghi nhận thêm một thoáng ý nghĩ trong đôi mắt Thúy Hà . Thành phố quê hương anh, Thúy Hà đã ở đó, đã qua một thời thiếu nữ với những lớp học, bạn bè, những con đường đi học thân quen.

            Khi thấy Thúy Hà mở cuốn album ra xem, anh viết trong trí nhớ mình một dòng chữ.  Đó là những dòng lưu luyến của anh khi yêu nàng, và luôn nhớ đến nàng qua những chiếc áo dài nàng mặc.

-Em tặng anh.

            Thụy nhận tấm ảnh của Thúy Hà. Dưới nhà, có tiếng ông Kha nói với người vợ.

-Anh sẽ đi giao hàng ba nơi.

-Có kịp không ?

-Kịp chứ. Chừng một giờ thôi, anh về.

-Em đợi cơm.

-Nói với cậu Thụy ở lại ăn cơm.

-Vâng. Cậu đang ở trên gác.

            Thụy cất tấm ảnh của Thúy Hà vào cuốn sách học nàng cho anh giữ. Nụ cười Thúy Hà làm cho Thụy nghe mình có một nỗi vui của giờ ra chơi. Thụy thật muốn nấn ná ở lại trên căn gác này, bên nàng.

-Em có bài học nào cần anh giúp không ?

-Có.

            Thúy Hà rút ra một tờ giấy lớn. Khi Thụy cầm bút, nàng nói:

-Cho anh đi trước.

            Thụy đánh dấu nhân lên ô giấy. Khi chơi, anh và nàng nghĩ đến nhau trên mỗi quân cờ. Thụy cũng còn mường tượng những tờ giấy mà hai người thường chơi cờ ca rô, Thúy Hà vẫn giữ làm kỷ niệm.

            Ông Kha vừa rời nhà. Thụy nghe tiếng xe đạp lăn bánh ra ngòai thềm hiên.

-Anh đi tiếp.

            Thụy lơ đãng đánh một dấu nhân gần hàng ba.

-Anh lơ đãng rồi.

            Thụy nhìn lại Thúy Hà. Nàng cũng nhìn lại anh và cuộc chơi như thể muốn ngừng.

-Anh chỉ muốn có em bên anh.

            Thụy viết lên mặt giấy điều anh muốn nói.

-Em đang ở bên anh.

-Anh...

            Thụy chỉ viết được một chữ, tay run lên. Thúy Hà cười, nàng bảo:

-Anh đánh tiếp đi.

            Ván cờ chơi dở, lại tiếp tục. Trong lúc Thúy Hà cúi xuống với mái tóc, Thụy đặt bàn tay anh lên tay nàng. Nàng để yên.

            Cuộc chơi ngừng. Thụy đứng lên dịch chiếc ghế lại gần Thúy Hà. Ngồi bên nàng, anh mở rộng cánh tay ôm lấy thân nàng. Nàng không có gì nôn nao, bối rối. Trong phút giây lặng yên, Thúy Hà vẫn để bàn tay nàng trong tay anh. Rồi, từng ngón tay đan nhau, cho đến lúc cả hai cùng đứng lên, và ngay lúc đó Thúy Hà khép kín đôi mắt lại. Thụy ghé môi, cúi xuống hôn quanh vòng cổ nàng. Một chút sau, trên cặp môi nàng vừa hé mở, anh nuốt thật chậm, thật sâu, hương vị ngọt của trái cây ứ đầy ướt ngập cả miệng anh. Và, từ phút này, Thụy và Thúy Hà chỉ muốn có được suốt đời một cuộc sống riêng chỉ hai người.

 

 

 

                                                          IV

 

 

 

            Bên ngoài phạn xá, sáng nay bỗng nhiên thấy xuất hiện bốn cái thùng phi đặt cách đều khoảng dọc theo bờ tường, và lúc này, một anh lính cơ hữu đang cho bơm đầy nước. Nước lấy từ cái vòi lớn, sức chảy rất mạnh qua một ống dây nhựa màu xanh dài đến hai chục mét.

            Tối hôm qua, giờ khám phòng rất nghiêm nhặt, gắt gao. Không một anh nào được thoải mái, đứng im nhìn các bạn mình thi hành lệnh phạt. Giờ khám phòng, khốn khổ nhất là màn móc giò lên tủ. Bên binh chủng dù, người lính tập nhảy từ chuồng cu, sau đó, mới thực hành trên phi cơ. Bên đây không quân, bạn lái máy bay tác chiến lúc lao vào phòng tuyến của địch tác xạ bằng súng máy hay dội bom, phi cơ từ độ cao phải cắm chúc xuống,  thì đây là một màn  diễn tập để sau này bạn quen khi lâm chiến. Đó, là một lý luận rất hữu lý của các bậc niên trưởng. Khu trại của đoàn SVSQ có hai dãy nhà xây hình chữ L, dãy lớn nhất dành cho khóa 69B, gồm 218 tân khóa sinh, còn một dãy đối diện với sân cát và phạn xá là dãy đặc biệt của các bậc niên trưởng. Trong số bốn mươi niên trưởng, có một vị thuộc khóa 65 D, nay mang cấp Đại táSVSQ. Những vị khác là sinh viên từ các khóa 67 C đến 68B. Ở Nha Trang, các ngành chuyên môn và kỹ thuật, thời gian học có kỳ hạn hẳn hoi, còn ngành phi hành không thể  xác định rõ được. Từ tân khóa sinh, học căn bản quân sự ba tháng, rồi đến học Anh ngữ phải đạt tiêu chuẩn từ 70 đến 80 điểm ECL, kế đó, là kiểm tra an ninh và sức khỏe. Hãy cứ để cho bạn dễ dàng rời Việt Nam đi du học, qua bên đó, trước tiên bạn phải vào trường Anh ngữ Lackland thi trắc nghiệm Anh ngữ , không đậu, bạn phải học lại cứ bốn tuần là thi lấy điểm, được phép ba lần thi, nếu mà rớt thì bạn phải khăn gói lên đường về VN, ở đây, Bộ Tư Lệnh làm giấy quyết định đưa bạn qua trường Thủ Đức học lớp Trung đội trưởng để ra đơn vị Bộ Binh. Mới nửa đường, bạn đã thấy nhiêu khê, rồi nếu có đi tiếp , nửa phần đường còn lại là học bay. Đây chính là phần đẹp nhất của cuộc đời bay bổng, nhưng rất gian nan, và có thể nói sinh mạng của bạn nằm trong phần bay quan trọng này. Những sinh viên phi công được chuyển qua trường bay, vừa học lý thuyết về khí tượng, về phi cơ, vừa thực hành bay với huấn luyện viên qua những động thao diễn lúc phi cơ khi cất cánh, lúc đang bay, rồi lúc đáp. Một khoảng thời gian học lúc ban đầu là 16 giờ , bạn phải được huấn luyện viên thả bay một mình. Nếu trong những giờ học bổ sung, huấn luyện viên vẫn không thể thả cho bạn bay một mình được, coi như bạn bị đánh rớt, hãy từ giã giấc mộng bốn phương trời. Còn như, bạn pass qua phần bay đơn phi quan trọng này, bạn sẽ cảm thấy hãnh diện với chiếc nón, với nửa cánh bay trên ngực áo. Từ đó, các phần tiếp theo bạn sẽ học là về kỹ thuật như bay phi cụ, bay đêm, bay không hành, mỗi phần có cái khó của nó nhưng chắc chắn bạn sẽ sẽ vượt qua cho đến ngày thi mãn khóa, tốt nghiệp,

            Thụy hiểu khá rõ về những điều kể trên, trong đó, anh vốn có kinh nghiệm mấy năm làm việc ở ban hiệu thính viên ngành điều không. Trong phần ban này ở Trung tâm  Không trợ, các Sĩ quan rất ít người là chính hiệu phi công, hầu hết đều ra trường từ những khóa quan sát viên, sau đó, thành sĩ quan không trợ. Về phần mình, trầy trật mấy năm qua không lấy nối mảnh bằng Tú Tài đôi nên Thụy đâm ra nản chí, nhân cơ hội sau biến cố Mậu Thân, cùng với lệnh tổng động viên và nhu cầu của binh chủng Không quân cần tuyển mộ thêm phi công trực thăng và khu trục, Thụy nạp đơn, hy vọng đây là một cuộc đổi đời. Cho đến lúc này, Thụy có nuôi chút hy vọng đến một ngày sẽ trở thành hoa tiêu, nhưng anh vẫn chưa dám tự tin, vì đây là một ngành học rất khó, không chỉ đủ sức khỏe mà còn khả năng về cả lý thuyết và thực hành với những dụng cụ trên phi cơ.

            Vừa mới nghe dứt xong hồi kẻng, bỗng tiếng la hét của mấy ông niên trưởng ra lệnh tập trung ầm ầm, dội xuống như trời sập. Từ nhà ăn, đám tân khóa sinh vụt chạy gấp về phòng, chuẩn bị ba lô và sac marin. Không ai biết có chuyện gì, vì trái ngày thường, hôm nay thứ sáu, vẫn còn là ngày học quân sự.

-Các anh nhanh lên coi.

            Những tiếng bước chân rầm rập chạy ra các lối cầu thang ùa xuống sân tập họp.

-Điểm danh, đếm số.

-Một, hai, ba, bốn…

            Thụy vẫn luôn chọn đứng xếp hàng phía sau. Hôm nay, không có người khai bệnh. Người cuối cùng đếm dứt, lập tức, đại diện khóa, đằng sau quay đúng thế, đứng nghiêm chào kín xong báo cáo.

            SV Không đoàn trưởng lớn tiếng ra lệnh:

-Thao diễn nghỉ.

            Trong hàng đứng im, bất động.

-Các anh có biết chuẩn bị đi đâu không ?

-Không.

            Với một nụ cười mỉa mai, ngạo mạn, anh ta nói:

-Các anh ra phi cơ về Bộ Tư Lệnh nhận quyết định qua trường Thủ Đức.

            Trong hàng , đám tân khóa sinh vẫn tỉnh bơ.

-Rõ không ?

-Rõ.

            Hai vị niên trường đứng sát hàng quân, một vị lật cổ tay nhìn đồng hồ. Bỗng nhiên, ông kia hỏi:

-Đã liên lạc với trạm tiếp liên chưa ?

-Rồi. Mười giờ ra phi cơ.

            Với một vẻ mắt nghiêm, ông ta lớn tiếng;

-Các anh còn một giờ nữa ra phi cơ bay về Sài Gòn.

-Rõ chưa các ông ?

-Rõ.

            Giáp đứng ở giữa. Một chút sau, đi qua lại trước hàng quân rồi bỗng cất cao giọng.

-Đã qua tám tuần lễ huấn nhục, nhưng khóa các anh không có một tiến bộ nào cả. Phòng ốc bê bối, nếp sống bừa bộn, giày mũ không khi nào đánh bóng, vậy các anh không thể nào xứng danh là sinh viên Không quân.

            Bất thần, một niên trưởng hạ lệnh:

-Tan hàng, ra sân cát tập trung từng phi đội.

-Nhanh lên.

-Qua 8 tuần rồi. Các anh còn chậm chạp như vịt đẹt.

            Nắng buổi sáng đã bắt đầu lên, cao dần và tỏa rộng. Không khí căng thăng đến nghẹt thở.

-Sac marin lên vai, chạy hai vòng sân.

-Thi hành ngay.

            Sân cát bằng phẳng êm như mặt biển. Hai vòng sân, mỗi vòng hơn trăm mét, đây chỉ mới là khúc dạo đầu, hôm nay, chắc cũng là ngày đặc biệt như buổi đầu tiên chào quân trường.

            Rất đông các niên trưởng mặc quần áo vàng, nón cát két, cầu vai đeo alpha, và từ khi bắt tân khóa thi hành lệnh phạt, tiếng la hét không một ai ngừng. Ông này nói chưa hết lời, ông khác đã chen vào, lúc hầm hà nạt nộ, lúc khiêu khích đê chờ các tân khóa sinh nổi máu mặt phản ứng.

            Hai vòng sân chạy rất đều bước, đều nhịp. Những tuần lễ qua đã quen chịu đựng, nên anh nào trông cũng khỏe, hít đất, nhảy xổm, từ 50 đến 100  đều đạt tiêu chuẩn, nhưng càng đủ, cán bộ càng gia tăng thêm.

-Tất cả , bò hai vòng dã chiến.

            Lệnh ra, thi hành ngay. Mới buổi sáng, mặt sân cát còn dịu, và trước lúc bò, người nào cũng kéo hai tay áo xuống.

            Hình pạt bò dã chiến cũng như thi bơi. Nhưng lúc này, hàng ngũ trở nên rời rạc, người về trước, kẻ đến sau không đồng nhất.

            Sau mỗi hình phạt, tân khóa sinh được một phút nghỉ để chỉnh trang quân phục và báo cáo. Rồi như cái máy, anh nào xong nhận tiếp những hình phạt khác. Như cái máy, không ai có thì giờ khiếu nại. Anh nào được các niên trưởng chỉ cho nhảy xổm, hít đất, anh đó còn được chút thời gian cầu giờ, chứ còn chạy và bò, lê lết, một chặp thôi là bắt đầu thở dốc.

-Có người đang xỉu cán bộ.

-Ai.

-Phía đằng này.

-Nhanh lên, khuân tới chỗ phi nước.

            Thì ra, lúc sáng, anh lính cơ hữu đã làm một công việc rất là có tác dụng. Và, đến lúc này, trời gần trưa, không một tân khóa sinh nào không lừ đừ, ngất ngư, và lúc được dội vài  nón nhựa nước là cảm thấy khỏe người. Có anh há mồm  ra uống vài ngụm  nước cho đỡ khát. Và, đám các vị niên trưởng cũng bắt đầu mệt theo, hét quá nghe khan tiếng cả rồi. Nhưng, các hình phạt, không gia giảm, cứ đều đều, tiếp tục.           Những trận dã chiến dồn dập không khác gì cả một đồn binh bị pháo kích. Nắng trưa dần lên cao, gay gắt, sân cát nóng bỏng,  nhưng không ai hay biết gì về giờ giấc cả. Trên sân cát như là bãi chiến trường với cảnh người xỉu, ba lô, nón sắt, túi sac marin vương vãi. Lưng áo mấy anh tân khóa sinh đã ướt dầm, đến các xếp niên trưởng, áo kaki vàng cũng thấm nắng, thấm mồ hôi. Thình lình, đang nằm lim dim vì mệt xỉu, anh em vùng dậy nghe:

-30 giây, tập trung toàn khóa.

-Nhanh lên, các anh còn tà tà hả.

            Trở lại sân tập họp, ai cũng mừng. Khi hàng quân đã ngay ngắn, đại diện khóa lại cất tiếng hô nghiêm nghỉ, chờ lệnh mới. Lúc này, anh em được một ít phút để thở phào, nhẹ nhõm.

-Có ai chống đối không ?

-Không.

-Đã có sẵn một đoàn xe đưa các anh ra Dục Mỹ huấn luyện sình lầy.

-Trong các anh, giờ có ai muốn chống đối không đi.

-Sao, các anh im lặng, không trả lời.

            Bỗng nhiên, đám tân khóa sinh hết sức ngạc nhiên giờ lại thấy vẻ mặt mấy ông niên trưởng tươi rói, nụ cười rạng rỡ trông ông nào cũng sáng lên.

            Một ông, hai ông, rồi đến ba bốn ông niên trưởng cùng lên tiếng hỏi:

-Sao, các anh thấy đã chưa ?

-Đã thấm người chưa ?

-Rồi.

-Hãy nghe : Hôm nay là một ngày tưng bừng để các bạn nhớ mãi cuộc đời hoa mộng được làm SVSQ. Vậy, cơm nước xong, tất cả tân khóa sinh 69B phải sạch sẽ từ trong ra ngoài để tối nay, dự lễ gắn alpha.

-Nghe rõ chưa ?, các ông.

-Rõ.

            Vừa được lệnh tan hàng, anh em vội bay về phòng để cất ba lô và sac marin. Sau đó, tự động đi xuống phạn xá, vì đã có kẻng báo giờ ăn.

            Ai cũng mệt, nhưng l2ng thấy vui.

            Trong bữa ăn, Thụy uống nhiều nước. Và, lúc này các niên trưởng chuyện trò rất thân tình với tân khóa sinh như hôm đầu mới tiếp đón. Và, kỷ niệm về lễ gắn alpha, mỗi khóa mỗi khác, nhưng không khí rất là cảm động. Niên trưởng Tiến nói về đêm alpha của khóa mình, không khí bên ngoài và bên trong bặt im thật là sợ hãi lo lắng. Trong phòng, trên mỗi chiếc tủ cá nhân có gắn nến, tân khóa sinh mang lễ phục, đeo găng tay, quì gối, và một tay giữ nón cát két. Từ ngoài cửa, nghe vọng vào tiếng gót giày đinh, rồi, các vị niên trưởng tiến bước vào,  đến mỗi giường dừng lại, lấy cặp alpha của mỗi tân khóa sinh gắn lên cầu vai. Lúc ấy, bạn biết nỗi lo lớn nhất là sợ đèn nến bị tắt.

            Thụy lắng nghe từ đầu lời kể chuyện, đến chỗ đó, anh cũng thấy rùng mình đến toát mồ hôi.

            Rồi một niên trưởng khác, tiếp lời:

-Khóa này, các anh nhẹ lắm đó. Những khóa chúng tôi, từ Liên đoàn trưởng đến Đoàn trưởng toàn là Sĩ quan Đà Lạt, ngày nào bọn chúng tôi cũng ngất ngư con tàu, có bữa ăn không nổi cơm, chỉ uống nước trà và nghỉ thở.

            Thụy hỏi:

-Đại úy Hoàn mới đến, phải không niên trưởng.

-Ông mới đến, các anh là khóa đầu tiên của ông. Trước ngày đón tiếp các anh, một buổi họp chung của Đoàn ông chỉ thị cho chúng tôi không được dùng hình phạt với tân khóa sinh quá nặng, có tính cách nhục hình như bên trường Đà Lạt, hay các trường Bộ Binh khác. Ông nói, chỉ áp dụng hình phạt nào giúp các anh tập chịu đựng và tăng cường sức khỏe để học bay.

            Rồi không khí trong nhà ăn bắt đầu ồn vui.  Người nào ăn xong, muốn ngồi nán trò chuyện hay về phòng nghỉ, hoàn toàn tự do.

            Khi về lại phòng, hôm nay, có một cảnh        lạ mắt hơn ngày thường là quần áo, mũ, dây biểu chương, cà vạt được để sẵn trên tấm nệm trắng mỗi giường. Đôi giày dự lễ cũng được đánh bóng, tất cả rất đồng nhất.

            Người nào cũng lo phần việc của mình, chăm chút cẩn thận vào bộ lễ phục, đến giày mũ, cà vạt, và còn soi gương lại khuôn mặt trẻ trung của mình.

            Chừng một giờ sau,  các niên trưởng xuất hiện và đem thư đến mỗi phòng phát cho tân khóa sinh. Thụy nghe có tên, lòng anh vui như thể nhận được quà. 

            Sáu giờ chiều, 218 tân khóa sinh mặc lễ phục đeo dây biểu chương hướng về Hội quán Sinh viên, đây là địa điểm hành lễ. Không khí rất trang nghiêm trước sự hiện diện của hai vị  chủ tọa là Thiếu tá Liên đoàn trưởng và Đại úy Đoàn trưởng .

            Một SVSQ đại diện cấp Không đoàn được chỉ định làm chỉ huy buổi lễ.

            Sau các nghi thức rước quốc và quân kỳ, phút mặc niệm chiến sĩ trận vong, phần chính thức bắt đầu:

-Quì xuống các tân khóa sinh.

            Tất cả 218  khóa sinh cùng quì xuống. Anh khóa sinh đại điện, một mình ở vị trí hàng đầu, nón két bi dây viền trắng được đặt xuống ở phía gối bên trái. Rồi, SVSQ chỉ huy lên tiếng mời hai vị Chủ tọa xuống điểm hành lễ gắn cặp alpha danh dự cho tân khóa sinh trưởng khóa.

            Hai người cùng xuống, cặp alpha danh dự, được mỗi người lấy một chiếc gắn lên cầu vai. Hai vị này gắn xong, lần lượt đến các SVSQ niên trưởng gắn cho cả toàn khóa. Rồi, những cánh tay , những lời tuyên thệ dõng dạc, hùng hồn cất vang lớn hội trường.

            Tiếng người chỉ huy buổi lễ hô lớn:

-Đứng dậy, các SVSQ.

            Toàn khóa cùng đứng dậy, nón két bi đội lên đầu.

            Vị Đoàn trưởng đứng trước hàng quân của khóa hô lệnh nghiêm nghỉ, sau đó, quay người , đứng nghiêm chào kính trình diện khóa SVSQ 69B trước vị Liên đoàn trưởng. Vị Thiếu Tá đáp lời chấp nhận, rồi đứng trước micro, ông ứng khẩu tự nhiên, nói với tất cả tân SVSQ những lời tâm tình,  mà lúc này, ông cũng đã gợi lại những tháng năm xây dựng nên binh chủng Không quân, thành lập quân trường, và những hình ảnh của các phi công trong thời trẻ được qua Pháp học rồi về đất nước phục vụ ở các phi đoàn từ cấp Sĩ quan nhỏ Thiếu úy, đến ngày hôm nay đã trở thành những cấp chỉ huy ở các đơn vị Sư đoàn, Không đoàn, Phi đoàn.

            Khi ông dứt lới, 218 tân SVSQ đồng loạt đọc lời tâm niệm:

            Hào Hùng và Độc Đáo

            Chúng tôi biết thương yêu và giúp đỡ đồng bào

            Chúng tôi biết nhà loan trong không gian

            Chúng tôi biết nghiêng mình trước mỹ nhân

            Chúng tôi biết quay cuồng theo điệu nhạc

            Hào Hùng và Độc Đáo

            Rồi, tiếp theo, là cả khóa cùng hát bản Không Quân Hành Khúc của nhạc sĩ Văn Cao.

            Kết thúc buổi lễ, tất cả tân SVSQ cùng hướng về khu nhà ăn, đây là địa điểm được trang hoàng để tổ chức tiệc liên hoan. Từ đầu buổi chiều, ban tiếp tân đã đón thân nhân, khách mời từ ngoài cổng căn cứ Long Hoa vào đây để xem triển lãm và dự liên hoan. Khi được tận mắt xem triển lãm, người nào cũng thấy vui, ngạc nhiên trước những bức ảnh lưu niệm về khoảng thời gian huấn nhục qua các khóa trong quân trường. Trên ảnh, trông anh nào cũng ngố, lờ đờ như là những con gà chết. Và, rồi họ nói, những kỷ niệm quí hiếm như thế này, được ghi nhận tài tình, sống động qua ống kính máy ảnh, là những kỷ niệm cảm động, đẹp hơn bao giờ hết đối với tuổi trẻ khi quân trường là nơi họ được huấn luyện để trở thành người chiến sĩ.

            Từng lúc một, thân nhân và nhiều khách mời đến đông. Thật là hương của gió mùa, đến đây hầu hết là nữ sinh các trường trung học công và tư thục của thành phố, và mỗi cô , người nào cũng thướt tha, duyên dáng trong chiếc áo dài.

            Thụy không có thân nhân hay bạn gái, nhưng anh được giới thiệu tên với thân nhân và khách mời của một số anh em bạn cùng khóa. Trong đêm nay, riêng Thụy biết mình thay đổi hẳn một gương mặt. Ngày đó, nơi quân trường này buổi đầu tiên anh là một người lính hèn mọn, tầm thường,  có những lúc ngước mắt nhìn lên bầu trời, anh cũng chỉ thấy đó là sự hiện diện của thiên nhiên như là núi sông, anh chẳng hề ước mơ mình sẽ trở thành phi công với những giấc mơ của mây gió bốn phương.

            Tới lúc này đây, rộn ràng trong anh một đôi ý tưởng lãng mạn, hào hoa, thế nhưng anh thực sự không muốn mình tạo dáng, làm một đôi chút kiểu cách như những bạn trẻ cùng khóa. Trong khóa này, đông thành phần trẻ là sinh viên, kiến thức các bạn này hơn Thụy rất nhiều. Năm nay, Thụy 25 tuổi, anh vẫn còn được thời gian công nhận là thuộc lứa tuổi hai mươi, nhưng anh cảm thấy mình già sau mấy năm làm người lính trong công việc hiệu thính viên hành quân. Chữ nếu, luôn luôn là một chữ để cho mỗi người tự    giải về hoàn cảnh của mình. Thụy đi lính chuyên viên Không quân, nhập ngũ  ngày 20 tháng tư năm 1965,  hết ba tháng mãn khóa quân sự anh may mắn thi  Tú Tài I trong khóa thi đầu mùa hè năm đó. Sau bao nhiêu lận đận, lấy được một mảnh bằng, và qua được cửa ải của hai chế độ quân dịch, anh trở nên hưng phấn, háo hức ước mơ được lên Đại học. Thế nhưng, cái may chỉ đến có một lần đó thôi. Từ mấy năm qua, anh cũng lo chuyện sách đèn, thi cử, nhưng thi hoài không đậu nổi phần thứ nhì. Cho rằng, Thụy hiểu được ngay trong thời gian vừa mới lấy được mảnh bằng Tú Tài I, là ngang sức đó, thì anh đã tính ngay chuyện đổi đời bằng chuyện xin đi học lớp Sĩ quan, không được bên Không quân ngành phi hành, thì sang trường Thủ Đức, và dù cho ở Bộ Binh, lúc này đây, anh cũng đã có được một, hoặc hai bông mai vàng in sáng trên ve áo trận rồi.

            Giáp , bạn thân với Thụy thuộc khóa 68B đang học khóa 35 Cessna. Với Giáp cũng đã trễ muộn, vì bạn anh cũng lận đận với thi cử. Người bạn còn cho anh biết, sở dĩ không được xuất ngoại được vì lý do an ninh.

            Trên sân khấu, ban nhạc đang chơi những đoạn nhạc dạo nghe thật vui, và rất hay. Đây là những điệu nhạc ngoại quốc được làm nhạc cảnh cho nhiều cuốn phim, bạn nào ghiền xem chiếu bóng thường nghe quen.

            Trong buổi liên hoan tối nay, trên  các bàn của quan khách cũng như sinh viên chỉ có nước giải khát đá chanh và bánh pâté chaud, bánh ngọt, kẹo. Thế nhưng, ai cũng thực hài lòng,  cùng nhau vui trong nhiều câu chuyện, và đến cả các cuộc gặp gỡ cũng rất bất ngờ.

             Ban nhạc càng lúc làm cho không khí buổi liên hoan thêm hào hứng, và tưởng như, ai cũng thích được lên sân khấu trình diễn bài hát của mình.

            Khoảng trống của hội trường được dùng chỗ để khiêu vũ. Mỗi lần có một điệu nhạc tấu lên là khoảng trống được lấp đầy bởi những cặp tình nhân bước chân nhẹ nhàng theo từng nhịp điệu, và  trong ánh đèn mờ ảo, những lứa đôi cùng nhận ra sự quyến rũ, vừa thân tình.

            Từ đầu buổi chiều đến giờ, Thụy cũng chỉ biết chia sẻ niềm vui chung của khóa, anh không hát, không mời ai ra nhảy. Với nghệ thuật, âm nhạc và hội họa, Thụy không biết nhiều, nhưng anh có được sự cảm xúc dồi dào khi nghe một bài hát, hay nhìn ngắm một bức tranh. Trong khóa anh đang học , mỗi tuần luôn có hai giờ cho sinh viên thực tập môn khiêu vũ nên Thụy cũng có biết một vài điệu nhảy căn bản. Nhưng, Thụy là con người bị nhiều mối mặc cảm ức chế, rốt cùng, anh luôn đơn độc. Và, cũng biết rằng, mình thuộc loại người tầm thường, nên anh không thích hợp với hình thức làm dáng, tạo dáng .  Năm 1968, từ biến cố Mậu Thân mới nẩy ra một chương trình quân sự học đường. Và qua chương trình này,  nở rộ rất mau phong trào tuổi trẻ trở thành những người hùng của chiến tranh trong thành phố. Ở ngay Sài Gòn, rất đông sinh viên các trường Đại học thích mặc bộ quần áo kaki vàng, đội nón kalo đi chơi phố, ngồi nhan nhản ở các quán cà phê, kể cả những buổi sáng chiều đến học ở giảng đường. Và, đây cũng là một mốt hiện sinh mới của tuổi trẻ miền Nam ưa thích một không khí chiến tranh trong phim ảnh, trong  nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc du ca, và nhạc tiền chiến.

             Thụy bỗng trông thấy Giáp vừa nắm tay một cô gái dìu đi.  Vừa bụm hai tay lên miệng, Thụy chưa kịp gọi thì Giáp đã trông thấy, liền kéo cô bạn theo tới bàn Thụy ngồi. Giáp giới thiệu:

-Anh Thụy, bạn học cũ của anh.

            Cô gái nhìn Thụy qua bảng tên, cười nói:

-Anh giới thiệu như vậy, không có le cho anh Thụy.

-Ủa, phải giới thiệu sao ?       

-Đây là Sinh viên Sĩ quan Nguyễn Quân Thụy.

            Thụy vui, nhưng hơi lấy làm ngượng. Thụy lấy thêm ghế để ba người cùng ngồi. Trên bàn đã có sẵn nước ngọt, Thụy rót đầy hai ly mời  bạn và cô gái. Trong lúc Thụy rót nước vào ly, cô gái nhìn gương mặt Thụy cố nhớ ra anh là người mà cô đã có lần gặp. Mời cô gái xong, đến lượt mời bạn, Thụy nói:

-Nãy giờ ngóng tìm bạn.

-Mình ra ngoài đón Liên Hương.

-Nhớ ra anh Thụy rồi.

            Cô gái bỗng thốt lên , Giáp hỏi:

-Hai người có quen nhau phải không ?

-Đúng.

-Bạn nói về cô này đi.

-Có giọng hát hay lắm.

            Giáp đưa tay cho Thụy bắt.

-Vậy là lý lịch được xác nhận, phải không ?

-Đúng.

-Chưa đủ. Cho bạn biết thêm, ngày trước Liên Hương học ở Đà Lạt, trường Việt Anh, và tôi cũng học ở đó hai năm.

-Thì ra thế .

-Chứ sao .

            Hình ảnh Liên Hương, cô em gái ngày xưa như hiện lên trước mắt Thụy cả một vùng sương mù thành phố cũ. Nơi thành phố ấy , những kỷ niệm yêu thương luôn gây một chút lạnh vừa ấm cho tâm hồn.

-Hai người nói chuyện đi, tôi ra ngoài gặp Quảng một chút.

            Khi Giáp đi khỏi, Thụy hỏi cô gái.

-Liên Hương còn ở Đà Lạt không ?

-Gia đình em vẫn ở trên đó.

-Liên Hương ở Nha Trang một mình.

-Em ở nhà bà dì, em đang dạy học ở trường Nữ.

            Thụy châm điếu thuốc. Liên Hương cầm ly nước chanh lên uống từng ngụm. Chiếc áo dài màu hoa cải của Liên  Hương nổi bật lên trong không gian lễ hội và sáng dịu dưới ánh đèn. Nàng đang lắng nghe tiếng Thụy , trong lúc nói, anh nhìn vào gương mặt và đôi mắt nàng. Tối hôm  ấy, có một buổi ra mắt  lớp học của Liên Hương. Tại hội trường rất đông học sinh tham dự, và ai cũng cảm thấy vui thích khi chương trình văn nghệ bắt đầu.

            Từ một khoảng hẹp trên sân khấu lúc bức màn vừa hé mở,  Liên Hương xuất hiện với chiếc áo dài tím rất đẹp dưới ánh đèn màu. Nhạc dạo một đoạn thật êm ái, rồi tiếng hát cô gái cất lên cao và rất trong. Bản nhạc có tên Mấy độ thu về , trong từng giây phút, tiếng hát của cô gái làm cho mọi người lắng đi, êm ả, để cùng với sự luyến nhớ mà đi tìm một mùa thu về nơi đâu không rõ. Khi tiếng hát dứt, riêng Thụy thật mơ màng. Thụy giữ lại ảnh hình đầu tiên của cô gái cho đến khi bức màn trên sân khấu che khuất lấp.

            Về phòng, Thụy không ngủ được. Bản nhạc buồn như tiếng đàn vĩ cầm,  mùa thu ấy  trở về từ nơi nao, xa vắng quá. Hình dung lần nữa với cặp mắt, Thụy  thấy lại Liên Hương trong chiếc áo tím, và ánh đèn màu vẫn giữ rất lâu hình ảnh cô gái trên sân khấu, dù cho tiếng hát không còn nữa.

-Liên Hương có quen với Thùy không ?

-Quen chứ. Chị Thùy cũng học ở trường mình, trên em một lớp.

-Anh có gặp Thùy, nhưng cách đây hơn ba năm.

-Em mới đến Nha Trang dạy năm ngoái.

-Liên Hương gặp anh Giáp lần đầu ?

-Em cũng mới quen ít tháng nay thôi. Ngày hôm đó, anh đi tìm một người bạn cùng dạy ở trường em.    

            Thụy đã gặp lại Liên Hương, kỷ niệm đã cùng nhắc nhở anh và nàng về một mối tình cũ. Sau nhiều năm xa cách, cô gái ngày xưa đã lớn và thay đổi nhiều. Đêm văn nghệ, vui nhộn và hết sức thân tình. Một lúc sau, từ sân khấu, người điều khiển chương trình mời Liên Hương lên hát. Nàng đứng lên vẫy tay chào quan khách và tất cả sinh viên. Quay sang Thụy, nàng hỏi:

-Anh thích em hát bài gì ?

-Em có nhớ bản Gợi giấc mơ xưa.

-Có chứ. Nhạc tiền chiến em thuộc nhiều lắm.

-Em hát cho anh nghe bản anh yêu cầu.

-Còn bản nào nữa không ?

-Cũng tùy em. Bài nào, em hát cũng được.

            Liên Hương lên sân khấu, nàng cầm micro với dáng điệu rất tự nhiên. Thụy ngước mắt nhìn người thương năm cũ với nụ cười hạnh phúc, anh không ngạc nhiên mà còn cả một nỗi niềm dấu yêu nữa khi Liên Hương hát một bài ruột thuở xưa của nàng, Mấy độ thu về. Tiếng hát cất lên, tất cả đêm nay, sự vật và mỗi người tình, mỗi người bạn là sự đồng cảm với mùa thu. Tiếng hát dứt, bao nhiêu tràng pháo tay dội lên, ngưỡng mộ nàng. Và, một giọng nói rất thân tình, nàng giới thiệu tiếp bài hát Gợi giấc mơ xưa.

 

 

                                                       V

 

           

            Rồi mai khi anh xa kinh đô

            Em khóc cho tàn một mùa thương

            Nhớ người em nương theo cơn gió

            Ru hồn về dĩ vãng mộng mơ

 

Nhà Liên  Hương ở đường Thi Sách. Từ trường, Thụy đi bộ lên khu nhà thương, qua một quãng đồi thông rồi rẽ xuống con đường đất,  đường này là Thi Sách. Liên Hương đang chơi trước sân bỗng vui mừng khi thấy Thụy đến, cả hai cùng lên tiếng chào nhau.

-Anh đi đâu trên này ?

            Thụy nhìn lại cô gái nay đã lớn hẳn, giọng thân tình nói:

-Anh tới thăm Liên  Hương để từ giã.

-Từ giã. Có chuyện gì quan trọng, nói cho em nghe.

-Anh về Huế, ngoài miền Trung. Cô gái lặng im nhìn Thụy,  nghe anh nói thêm: Anh về ngoài đó học, ở luôn với gia đình.

            Đôi mắt cô gái có chút dò xét sau những điều Thụy vừa giải thích.

-Anh vào nhà chơi.

            Thụy theo Liên Hương vào nhà. Nhà vắng, đầy bóng tối vì cửa đóng và phía sau là khu vườn cây cối bao phủ. Nhưng rồi, ánh sáng tràn vào phòng khách khi Liên Hương mở rộng mấy cánh cửa sổ. Sau đó, cô gái đi lấy nước để anh đứng một mình.

            Liên Hương quay trở lại đặt khay nước xuống bàn, Thụy mới vào ghế ngồi. Rót nước cho ly bên  Thụy xong, cô gái nói:

-Nước đậu ván rang có mùi cà phê.

-Anh rất thích thứ nước đậu này.

            Thụy cầm ly nước đậu lên uống, cảm thấy đỡ khát. Liên Hương có rót vào ly mình, nhưng chưa uống. Hai người chợt nhìn nhau. Thụy  ngắm Liên Hương ngồi, dáng tự nhiên, dễ thương.

-Liên Hương  có học lớp hè không ?

-Không. Em nghỉ chơi cho đã.

            Bắt đầu muốn vào chuyện riêng tư, Thụy nói:

-Anh về ngoài đó xa Đà Lạt, buồn quá.

-Anh ở đây lâu chưa ?

-Mới hai năm.

-Sao anh không ở học luôn ?

-Thầy Hiệu trưởng là cậu anh bị gọi tái ngũ, trường sẽ chuyển giao cho người khác.

-Thầy Hiệu trưởng là cậu anh sao ?

-Cậu của anh, cậu  út trong gia đình. Mẹ anh là chị cả.

-Anh nói em mới biết.

-Anh ở nội trú, em không biết sao ?

-Không.

-Năm tới, em vẫn học ở Việt Anh ?

-Không, em chuyển trường. Em vào  Bùi Thị Xuân.

-Tốt cho em. Học trường công đỡ trả học phí.

-Em không nghĩ vậy, nhưng em học Bùi Thị Xuân vì cô của em nay về dạy ở đó.

            Thụy lặng im mấy giây nhìn Liên Hương. Thụy muốn được nói hết những điều chân thực trong những ngày anh quen nàng. Nàng chợt mỉm cười nhìn lại anh và có lẽ đoán hiểu được điều anh muốn nói ra .

            Bỗng, Thụy nói:

-Buổi tối đó, Liên Hương hát hay quá.

-Em thích hát, nhưng không đam mê.

-Liên Hương hát rất hay, rất có tâm hồn. Anh nghĩ…., thoáng qua anh định khuyên cô gái nên theo nghiệp cầm ca vì có tài năng, nhưng bỗng nhận thấy điều ấy không hay khi nói ra, nên thôi.

-Anh nghĩ sao ? cô gái hỏi.

-Anh thấy Liên Hương hát hay nên luyện tập thêm, Thụy nói.

-Không có đâu, em lười lắm.

-Hai lần nghe Liên Hương hát, anh khó mà quên.

            Liên Hương nghe Thụy khen, nàng vui, vừa xúc động. Thụy tiếp lời:

-Anh sẽ nhớ mãi tên hai bài hát đó.

-Bài nào anh ?

-Mấy độ thu về và Trường làng tôi.

            Ở đây, Liên Hương sống với bà ngoại, hai bà cháu luôn bên nhau để có tiếng chuyện trò thân tình, ấm áp. Có lẽ, gia đình cô gái ở đâu xa, nhưng không bao giờ Thụy hỏi hoặc cố tạo nên hoàn cảnh để mong biết rõ cuộc đời của cô . Có tình yêu chăng, Thụy chưa biết, nhưng anh nhận ra thấy Liên Hương có cảm tình với anh như người em gái.

            Thụy đang nghe tiếng Liên Hương hát, bây giờ anh lang thang trở lại thành phố xưa , tìm trong thành phố ấy những kỷ niệm và hình bóng người bạn cũ.

            Khi bước vào trong tiền sảnh Thụy vội đưa mắt  tìm bản thông cáo mới yết thị để đọc. Đây là thông cáo của Bộ Quốc Phòng dành cho các lớp tuổi thanh niên còn đi học xin hõan dịch vì lý do học vấn. Thụy chăm chú đọc từng giòng. Trong bản thông cáo có rất nhiều đề mục nêu ra những trường hợp cứu xét. Thật hết sức mừng, trường hợp của anh nằm trong cột số bốn đã được cứu xét.

            Thụy đọc lại tòan bản thông cáo lần nữa, rồi thở phào nhẹ nhõm.

            Buổi chiều, bên ngoài bóng im từ những hàng cây đổ xuống,  sân trường phía sau đang dội lên những tiếng reo hò, cổ vũ của đám học sinh đứng xem đánh bóng chuyền. Bất chợt, nghe có tiếng chân bước từ trên cầu thang vọng xuống Thụy ngẩng mặt nhìn, lòng bỗng vui lên vì nhận ra Thúy Hà. Người bạn gái mặc áo màu xanh biển có chấm bông trắng, tay xách chiếc cặp da. Vừa trông thấy Thụy, nàng mỉm cười vừa đi nhanh bước về chỗ anh đang đứng.

            Thụy đón nàng bằng cặp mắt vui,  trông chờ. Khi Thúy Hà tới gần, Thụy hỏi:

-Hôm nay ra lớp trễ.

-Ở lại chép bài.

            Sau câu hỏi đáp hơi ngập ngừng khi mở lời, hai người lặng im. Thụy định cho nàng hay là anh vừa đọc thông cáo của Nha động viên và giờ bớt cảm thấy lo, nhưng rồi anh  không nói. Nhìn nàng, đột nhiên Thụy buột miệng:

-Thúy Hà  có cặp mắt đẹp quá.

-Trời đất, tự dưng lại khen người ta.

-Thúy Hà có cặp mắt đẹp quá. Và, trong cặp mắt lúc nào cũng thấy những niềm vui.

            Nàng rất sung sướng trước lời khen của Thụy. Ở phòng tiền sảnh của trường, thật là vắng lặng chỉ có riêng anh và nàng. Thụy đăm đăm, đôi mắt nhìn gương mặt nàng lâu hơn. Nàng chỉ cười, rồi quay mặt để tránh nỗi e thẹn trước vẻ đắm đuối của người bạn trai.

-Nhà ở gần đây không ?, nàng hỏi

-Chừng mười lăm phút đi bộ thôi, Thụy đáp.

            Hai bạn bên nhau, mà không biết gợi ra thêm chuyện gì để nói. Từ buổi đầu quen biết, một số chuyện trao đổi làm quen anh và nàng đã nói rồi, giờ trở nên khó khăn. Nhưng trong im lặng, Thụy  càng muốn giữ nàng lại đây lâu hơn để nhìn nàng, yêu nàng qua mái tóc thật mượt mà đang buông thả xuống bên vai.

-Về chưa ?, nàng hỏi.

            Hai người dời bước. Khi ra khỏi tiền sảnh, xuống cầu thang hướng về cổng chính, mùi vị của lá, của cỏ, ánh nắng, cùng hơi gió mang chút vị mặn từ con sông dưới bến Cảng dâng lên làm hai bạn như  cảm thấy buổi chiều thật êm dịu. Bên kia cổng trường là công viên xanh  màu lá của những hàng cây và bãi cỏ .

            Tự dưng, Thụy không biết nên nói điều gì để chia tay với người bạn. Thúy Hà hiểu ra sự bối rối của anh, nàng cười nói một câu đùa trêu chọc. Tiếng Thụy nói nhỏ:

-Cám ơn Thúy Hà nhiều lắm.

-Gì, mà phải cám ơn.

-Thúy Hà  đã coi mình là bạn thân, đúng không ?

            Cô gái đưa cặp mắt nhìn lại Thụy rất lâu, và anh hiểu ra được cặp mắt ấy nói gì. Thụy  cũng muốn nỗi buồn nhớ tan đi.

-Bây giờ Thúy Hà về.

            Nàng không đáp lời, chỉ nhìn anh. Nhìn lại gương mặt nàng, Thụy bỗng nói nhỏ:

-Nhà gần, đi bộ một quãng nghe.

            Thúy Hà gật đầu bằng lòng.    Hai người vẫn còn bên nhau. Gió buổi chiều đang thổi lay động cây lá và tung nhẹ chiếc áo dài của nàng. Thụy  cảm thấy sung sướng, hãnh diện vô cùng vì mình đi bên cạnh một người con gái đẹp và được nàng yêu. Thụy cứ nghĩ nhiều đến vẻ đẹp Thúy Hà đang âm thầm trong lòng anh, sung sướng biết nhường nào khi nghe rõ từng tiếng nàng nói. Thụy biết nàng có người yêu rồi, rồi nàng sẽ lấy chồng với chàng trai ấy, nhưng mà chiều nay chỉ có anh và nàng thôi.

Nhà Thúy Hà rất gần trường, nhưng câu chuyện đang nói bằng một giọng thân tình đã làm anh nghĩ nó trở nên xa hơn, và anh còn có cảm giác như được đặt bàn tay lên vai nàng, tựa theo hình ảnh nàng trong trí tưởng.  Thụy sung sướng , lặng im.  Đêm qua, trong giấc mơ hiền dịu, anh gặp nàng. Bây giờ đây, nó là ảo tưởng, nhưng nếu anh hiểu rằng giấc mơ là sự tái hiện của hình ảnh thật trong đời sống, thì sự hiện diện của anh bên nàng trong giấc mơ cũng có thực như lúc này đây anh đang bước đi bên cạnh nàng. Và, mình có nên nói ra cho nàng hay không, nhưng Thụy nghĩ sự ấp ủ giấc mơ ấy vẫn là để cho mình biết tôn trọng, yêu quí nàng. Và, nàng với những âm sắc bao dung trong giọng  nói của mình, thật sự nàng rất muốn cho anh góp lại tất cả những gì của kỷ niệm theo ngày tháng qua mà anh đã có được nàng. Hình như, nàng cũng đã biết anh yêu nàng, sung sướng trong cặp mắt mỗi khi gặp nàng. Hôm nay, hai người là bạn học của nhau, rồi đây tình bạn sẽ làm cho lứa đôi tuy xa cách nhưng vẫn luôn nhớ đến nhau, và rồi đây, sự xa cách cũng sẽ đưa mỗi người đến một phương trời. Bạn đã thấy mình hạnh phúc trong tiếng nói cô gái, nhưng bạn sẽ ngạc nhiên vì mình chẳng còn nhớ được những điều gì mình  nói với nàng cả. Thụy vui, nghe thầm được những tiếng nói đang nhủ trong lòng.

            Hai người về đến nhà. Không chú nhìn qua vẻ mặt, Thúy Hà bảo Thụy vào chơi. Căn nhà tỏa sáng dưới ngọn đèn  néon hầu như để suốt ngày,  và Thụy nhận ra những màu sắc của loại mỹ phẩm ánh lên một vẻ  rực rỡ.  Ông Kha đứng dậy, đón Thụy bằng nụ cười hảo cảm.

-Cậu khỏe không ?

            Ông nói, vừa bắt tay .

-Dạ khỏe, thưa bác.

            Thụy ngồi xuống ghế salon ở phòng khách. Ông Kha ngồi kế bên , hỏi nhỏ:

-Cậu biết tin gì chưa ?

-Dạ chưa.

-Sài Gòn đang có đảo chánh.

Ông đưa điếu thuốc, bật chiếc quẹt zippo cho Thụy  châm lửa. Thụy  hít  nhẹ một hơi, vừa cố lắng nghe tin tức.

-Quân đội đã chiếm được Đài Phát Thanh.

            Thụy ngạc nhiên, vừa mừng, vừa lo lắng. Chiếc cầu thang  lên gác nằm bên lối cửa trống đi xuống nhà dưới. Thụy nhận ra cái bóng Thúy Hà, và lúc nàng quay nhìn lại  phòng khách vẫn thấy anh đang ngồi đó mắt còn trông theo nàng. Nàng mỉm cười, mái tóc rung nhẹ trên vai áo.     

            Bà Uyên sắp hàng mới vào trong tủ kính xong, tới bàn ngồi. Bà đã hiểu diễn tiến câu chuyện. Một giọng hơi e ngại, bà nói với Thụy:

-Cầu mong cho Cách mạng thành công.

            Thụy hết sức bồn chồn, nôn nóng khi hay được tin này. Bản tin đã dứt, giờ là âm nhạc đang trỗi lên.

-Cháu thật lo bác ạ.

-Cậu nghĩ sao ?

            Thụy nói:

-Trong này, hầu như không chuyện gì. Nhưng Huế, có thể là cả một tấn thảm kịch như ở Budapest.

-Tôi nghĩ cuộc Cách mạnh này sẽ thành công. Ông Nhu, ông Diệm đã thoát được hai lần rồi.

            Thụy chợt nghĩ điều ông bác nói đúng. Nhưng sự kiện không chỉ hai lần, mà đã đến ba rồi. Ông Diệm bị ám sát hụt ở Ban Mê Thuột. Cuộc đảo chánh năm 1960 mà lúc đó Thụy đang học ở Đà Lạt, rồi cuộc ném bom Dinh Độc Lập vào năm 1962. Quá tam ba bận, đó câu ngạn ngữ thường hay dùng. Với cuộc đảo chánh đang diễn tiến, Thụy tin chắc lần này Quân đội đứng lên sẽ thành công.

            Khi trở xuống nhà, Thúy Hà mặc bộ quần áo thường có châm bông cải màu tím. Lúc thấy Thụy , nàng mỉm cười rồi lấy chiếc ghế tròn thấp đặt ngồi gần bên phía anh.

-Bác vừa cho biết, ở Sài Gòn có đảo chánh.

-Lúc nào ba ?

-Hai giờ chiều nay.

            Bên ngoài, nắng cuối ngày đã lan qua bên kia con đường. Thụy cảm thấy ngần ngại, vừa mừng thầm là đã được đến nhà nàng, ngồi đây bên nàng, nhưng anh tự biết giới hạn cho mình. Kim đồng hồ treo tường đang chỉ  5 giờ 45, anh nghĩ trong nhà chưa bắt đầu bữa cơm tối , chừng mười lăm phút nữa anh có thể đứng dậy chào xin kiếu từ.

            Thời gian có vẻ muốn chậm lại. Rồi sau đó, câu chuyện bình thường trong gia đình mà anh được nghe qua lời người mẹ. Bà Uyên kể cho Thụy nghe chuyện gia đình bà từ ngày di cư vào Nam, những nơi chốn đã ở và sinh sống. Trong chuyện kể của bà, Thụy thấy có cái riêng từng cảnh ngộ gia đình, nhưng cũng có một tâm trạng chung của bao nhiêu đồng bào miền Bắc vào thời kỳ đó khi vào Nam. Rồi Thụy được bà mẹ nói đến cô con gái đầu đang ngồi đây bên anh, lúc đó mới có  tám tuổi thật đảm đang chịu khó, chịu khổ trong việc giúp mẹ buôn bán và chăm sóc mấy em còn nhỏ. Nàng cười nhìn qua Thụy, và anh vô cùng thích thú, hãnh diện thay cho nàng.

            Sáu giờ mười lăm, Thụy đứng dậy chào cả nhà để ra về. Ông Kha hết sức cởi mở, cầm lên một gói thuốc tặng cho anh với lời lẽ bình thường, Thụy nhận ngay , vừa nói lời cám ơn ông.

            Có vẻ cái bóng của Thụy  lớn hẳn qua chiếc áo sơ mi trắng đã cũ. Thụy cầm sách và tập vở trên tay nói lời chào lần nữa, và lúc đó, Thúy Hà cùng đi theo anh ra ngoài.

-Về nghe, nàng nói.

            Thụy nhìn lại gương mặt nàng, nói với nàng lời cám ơn bằng cặp mắt. Buổi chiều hôm nay không khí mang một vẻ lạ thường, và lần đầu tiên Thụy nghĩ đến hiện tình đất nước mang trong một mối tình học trò của hai người, riêng anh và nàng.

            Trên đường trở về, có hình ảnh Thúy Hà bên cạnh, đôi lúc Thụy tưởng như mình nói chuyện với nàng, hay bộc lộ một cử chỉ vui sướng, bồng bột nào đó mà không nhìn thấy.

            Từ mỗi căn nhà thấp nằm hai bên  đường Trưng Nữ Vương, mỗi lúc Thụy thấy nó cứ theo nhau, trải dài, vừa ra vẻ hoang mang trong âm thanh sôi nổi của nhiều điệu  nhạc hùng vọng ra từ máy thu thanh, hay sau đó, lúc Thụy chậm bước nó đang cùng anh lắng nghe những bản tin tức thời sự về cuộc cách mạng mới xảy ra chiều nay. Thụy bỗng nôn nao, muốn nhập ngay vào đám đông người đang tụ họp để  nghe tin radio và hăng say bàn luận cuộc đảo chánh. Trên gương mặt từng người, Thụy  nhận ra vẻ phấn khích, hoan hỉ đón nhận tin vui, rồi càng lúc anh càng tin tưởng hơn vào cuộc đảo chánh do Quân đội đứng lên sẽ hoàn  toàn  thắng lợi. Suốt  con đường mỗi lúc thêm  đông người tụ tập, tràn lấn ra ngoài gây nên cảnh huyên náo . Thụy chợt dừng bước khi có một đoàn xe nhà binh  xuất hiện, trên xe rất đông lính tráng ngồi mang súng ống, họ đang tươi cười, cởi mở, và cứ thấy dân chúng vẫy tay chào là họ đưa tay chào lại. Rồi, con đường trở lại sự bình thường khi bóng đoàn xe xa dần về hướng tới phi trường.

            Khi Thụy về đến nhà, đúng lúc gặp anh Bình nhưng anh  vội vàng chỉ kịp trả lời câu Thụy hỏi rồi lên xe đi.

-Tối nay anh không về ?

-Không.

            Thụy về phòng mình,  nghỉ một lúc thấy chị Thuận lên mời anh xuống ăn cơm. Thụy xuống phòng ăn, vừa ngạc nhiên lên tiếng hỏi thì chị cho biết hôm nay cả nhà đi ăn giỗ bên cô Chín, em bác Hội.

            Hôm nay là ngày thứ sáu, đầu tháng 11. Ngày mai và mốt là hai ngày nghỉ, tự dưng Thụy muốn bay ra Huế xem tình hình ra sao. Thế nhưng, trong lúc này quân đội cắm trại, di chuyển từ nơi này đến nơi kia có an toàn không ? Thụy vừa ăn cơm, lòng cứ nôn nao  nghĩ ngợi tới cuộc đảo chánh,  từ giai đoạn này biến chuyển của đất nước sẽ như thế nào.

Trời mau tối. Sau bữa ăn, Thụy uể oải đứng dậy lấy nước uống rồi trở về phòng mình. Ngày mai, môn Lý Hóa sẽ làm bài tập tại lớp. Thụy bước qua kệ, lôi ra cả ba cuốn sách giáo khoa Điện, Quang và Hóa để ôn bài. Thầy phụ trách môn dạy này cho học sinh biết, cứ mỗi tháng, thầy sẽ cho bài làm tại lớp một lần. Buổi làm bài này, được thử thách giống như trong kỳ thi lục cá nguyệt hay Tú Tài.

Thụy  học bài đến khuya. Bỗng nhiên, nghe một lọat súng nổ làm anh ngừng, nín im. Tiếng súng nổ nghe càng gần , gây nỗi sợ hãi. Sau khi tiếng súng  dứt , anh lại nghe có tiếng động ầm ì của một đoàn xe đang chạy qua ngoài đường . Thụy chợt có ý nghĩ là tình hình cuộc đảo chánh hẳn chưa ngã ngũ.

            Mười hai giờ đêm, gia đình bác Hội mới về tới nhà. Khi nghe tiếng cười nói các cô chị nhỏ lúc vào nhà, Thụy vội rời phòng tìm gặp bác và dì để hỏi thêm tin tức. Vừa thấy anh, bác hỏi ngay là anh có biết tin đảo chính ở Sài Gòn. Thụy đáp có, trên vẻ mặt  còn lo âu.

            Các cô chị nhỏ đã trở về phòng của mình. Ngoài phòng khách, đèn sáng. Chiếc radio được vặn lên, âm thanh một bản nhạc hùng đang dạo càng lúc càng nhanh, sôi nổi. Khi điều chỉnh núm volume nhỏ lại vừa đủ nghe, bác Hội trở về ghế ngồi.

            Sau vài giây im lặng, Thụy lên tiếng hỏi:

-Đã có tin gì về ông Diệm chưa bác ?

-Chưa.

-Bác vẫn theo dõi từ lúc chiều đến giờ ?

-Coi như cuộc đảo chánh đã thành công . Các tướng tá chỉ huy theo phe đảo chánh hầu hết đều xưng danh trên đài, lên tiếng ủng hộ.

            Dì Vân bảo Thụy:

-Dì chưa nghe tên cậu Nghiêm.

-Con cũng thấy lo . Theo dì, cậu có theo phe đảo chánh không ?

-Cậu phải thức thời, chứ trung thành là không được đâu.

            Sau khi tiếng nhạc kết thúc , Đài Phát Thanh Sài Gòn đọc bản thông cáo số 4 của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm mười điểm. Cả ba người lắng nghe. Và tiếp đó, là danh sách các vị Chỉ huy, các Bộ trưởng đứng lên xưng danh. Mười lăm phút trôi qua, Thụy vẫn không nghe tên người cậu. Còn một số vị Tướng và Bộ trưởng nữa  chưa xuất hiện, lên tiếng nói trên Đài Phát Thanh tối nay. Và, mặc dù quân đội đã làm chủ tình hình Sài Gòn Chợ Lớn, nhưng tin tức về hai ông Diệm và Nhu vẫn chưa biết rõ.

            Thụy nói với bác Hội:

-Vẫn chưa có tin tức ông Diệm.

-Bác đang lo nghĩ như cháu.

-Biến cố 60 thất bại, không biết lần này  sẽ ra sao ?

            Trên vẻ mặt đanh lại, bác Hội nói:

-Cuôc đảo chánh này mà không thành công, số phận các Tướng tá chống đối sẽ vô cùng bi thảm. Lại thêm một  vụ xử của năm 60 ở Tòa án Quân Sự.

            Bác Hội nói xong, Thụy chợt nghĩ đến cái chết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Nhà văn này đã tự tử không chịu khuất phục chế độ và không chịu  ra trình diện trước Tòa An Quân Sự. Cậu Nghiêm em ruột của mẹ là người đã ngồi ghế ỦyViên Chính phủ trong vụ xử này. Hiện giờ, cậu Nghiêm đang nắm giữ chức vụ Giám Đốc Nha Hiến Binh Quốc Gia, có thể nói là người rất thân tín của ông Diệm. Lẽ đó, cậu sẽ không lên tiếng theo phe  đảo chánh.

Giờ này đây, tình hình còn căng thẳng và mặc dù có thêm các Tướng tá, các vị Bộ trưởng xưng danh, nhưng tin tức về ông Diệm và Nhu vẫn chưa được loan báo.

Đã hơn một giờ khuya, ba người cùng đi nghỉ chờ đợi tin buổi sáng. Thụy trở về phòng, lên giường nằm.

            Thụy chợt nghĩ đến Thúy Hà. Ngày tháng nhẹ nhàng trôi đi,  mối tình của anh và nàng càng trở nên gần gũi, vừa thân thiết tự nhiên trong tình bạn, vừa có một sự cất giấu âm thầm để hiểu đích thực về tình yêu. Nhưng anh cũng biết, đó là tình học trò lãng mạn, chứ tìm một cơ may hay đuổi theo  mục đích thì không thể nào thực hiện được. Hẳn nhiên, Thụy không phải so sánh giữa anh và Duy vị hôn phu của nàng.

            Thụy lại nghe có tiếng súng nổ. Ngoài đường, sau khi đoàn xe nhà binh khuất xa, sự yên tĩnh trở lại. Đã ba giờ sáng, đầu óc anh trở nên trống rỗng.

            Thụy thiếp ngủ quên, thức dậy muộn nhưng cũng kịp giờ để tới trường. Khi Thụy ra ngoài đường đã thấy các bạn anh  chờ sẵn. Vừa gặp nhau, cả bọn vui vẻ mặt đứa nào cũng hứng khởi. Cát nói:

-Hôm nay, chắc chắn có mét ting.

-Chắc rồi.

-Có tin gì mới không ?

-Ua, mày không nghe tin đài B.B.C à.

-Không.

-Hai anh em ông Diệm Nhu bị xử bắn.

-Ghê vậy.

-Cuộc Cách mạng triệt để.

            Từng đoàn học sinh cùng rảo bước, lòng rất vui, hăng say bàn chuyện đại sự. Trên đường Trưng Nữ Vương, giống như chiều qua,  sáng nay vẫn bừng bừng  khí thế sôi nổi, qua mỗi nhà, nhà nào cũng thấy tụ tập, nhóm họp nhiều người bàn tán về tin tức cuộc đảo chánh ở Sài Gòn. Và, tiếng vọng máy thu thanh loan tin tức rộng khắp trên con đường.

            Từ khu phố Thụy và các bạn ở tới trường chỉ mất có mười lăm phút đi bộ. Khi đến đầu phố Độc Lập, nhìn xa trông con đường sáng hẳn, xanh tươi lá cây. Khu công viên cũng rất đông người đứng tụ tập kể cả học sinh của trường. Ngoài bến Cảng,  tiếng còi tàu hụ nối nhau như để chào mừng ngày chiến thắng của Quân Đội.

            Thụy hơi chậm bước, dừng trước cổng chính của trường mắt tìm kiếm bóng Thúy Hà. Ở phía dưới khu Hải Quan, bắt đầu đông học sinh đi lên hướng về trường Sao Mai.  Thụy rất mong gặp nàng để cùng chia niềm vui .

            Hôm nay, một ngày náo nhiệt lạ thường. Sân trước và sân sau của trường, học sinh lớn nhỏ đều vui mừng trò chuyện về cuộc đảo chánh tại Sài Gòn xuất phát lúc một giờ chiều qua. Vào lúc 6 giờ sáng nay, đài Sài Gòn và các đài quốc tế đều xác nhận hai anh em ông Diệm Nhu đã chết. Tuy nhiên, các bản tin đều rất sơ lược, không đi sâu vào chi tiết vụ thảm sát và cũng không nói rõ nguyên nhân.

            Giờ vào lớp với hồi chuông dài ngân lên, nhưng ngay lúc đó, từ loa phóng thanh thầy Tổng Giám thị thông báo cho tất cả học sinh Đệ Nhị Cấp tập họp ở sân sau để đi dự mét tinh. Rất vui vì được nghỉ học, các lớp vào hàng rất trật tự. Rồi tất cả học sinh cùng hướng về chỗ bậc thềm cao của  nhà hội, nơi đó Cha Hiệu trưởng đang đứng trước máy vi âm. Bằng một giọng trầm ấm, Cha ngỏ lời với học sinh. Ngay khi bắt đầu, Cha vào đề  về biến cố cuộc đảo chánh, và riêng Cha thật cảm thấy sung sướng, hân hoan trước sự thành công  cuộc Cách mạng do Quân đội đảm nhận để đem lại tự do, đời sống ổn định cho toàn dân miền Nam. Sao Mai là một trường Công Giáo, nhưng không vì vậy mà tự đặt mình vào tình thế đối lập, và rất tha thiết, Cha mong rằng học sinh của trường hãy nên nhận thức sáng suốt về tình hình đất nước mà tỏ tình đoàn kết, không nên vì lý do khác tôn giáo để hiềm khích nhau.

            Không đến nửa giờ, nói đầy đủ ý nghĩa cuộc Cách mạng và tình hình đất nước cho học sinh hiểu Cha Hiệu trưởng ngừng lời, rồi kết thúc bài nói chuyện bằng sự mong mỏi toàn thể học sinh cố gắng học để có một tương lai tươi sáng cho ngày mai.

Cuộc diễn hành đi dự mét tinh bắt đầu. Từ lối cổng sau, đoàn học sinh các lớp lớn của trường đi ra đường Lê Đình Dương rồi rẽ trái vào phố chính Độc Lập. Thụy đi hàng ngoài, cạnh Giáp và Hùng. Trên đường, bọn học sinh đùa giỡn, vừa trò chuyện rất vui. Lúc ngang qua nhà Thúy Hà, Thụy đưa mắt nhìn vào thấy ông bà Kha đứng trước cửa hiệu nhìn ra vừa vẫy tay chào thân ái đoàn học sinh.

            Ý nghĩa của ngày Cách mạng thành công làm không khí chính trị ở miền Trung rất là sôi nổi. Từ Huế vào đến Quảng Ngãi, luôn có những cuộc mét tinh, những cuộc hội họp cùng với rất nhiều thông cáo của các đảng phái. Đà Nẵng, thành phố Thụy đang ở cũng rộn ràng sôi nổi, anh và nhiều bạn bị lôi cuốn bởi những ngọn sóng đang dâng trong tinh thần cách mạng của tuổi trẻ . Suốt tuần qua, hầu như Thụy không mấy quan tâm chuyện học hành. Buổi chiều, sau giờ tan học Thụy thường  xuống phố ghé qua các hiệu sách để xem báo cọp. Vì muốn  xem nhiều báo nên đứng mỗi nơi, Thụy coi xong một tờ rồi lại đi. Với lại, Thụy không thể coi hết cả tờ báo, mà chỉ đọc ở trang nhất và trang tiếp theo những bài tường thuật về những ngày vừa qua ở Sài Gòn. Nơi đây ở xa, nhờ đọc báo, anh mới hiểu ý nghĩa lịch sử của ngày 1/11/63 . Những bức ảnh trải rộng , bao quát trên nhiều đường phố Sài Gòn cho thấy một khuôn mặt thủ đô vừa đổi thay khi cuộc cách mạng bắt đầu . Từ đầu buổi chiều ngày thứ sáu khi nghe tiếng súng nổ, dân chúng Sài Gòn đã ùa ra đường chạy theo các đoàn xe binh sĩ. Ai cũng lo sợ, hồi hộp, nhưng thích thú khi thấy từng đoàn quân tiến đi thật dũng cảm.

            Ngày hôm sau 2/11, Sài Gòn náo nhiệt đông vui, trăm ngàn tờ truyền đơn tung bay trong gió sớm mừng ngày cách mạng như lễ hội. Bất cứ nơi đâu, người dân Sài Gòn cũng ùa ra khắp ngả đường mừng vui khôn xiết khi biết chắc chắn triều đại nhà Ngô đã sụp đổ. Tại khu chợ Bến Thành đồng bào vây quanh những chiếc xe GMC đông lính tráng, họ mang nước uống, bánh mì, và tranh nhau chuyền quà bánh lên xe đưa tận tay từng người lính. Mỗi khuôn mặt đều rạng rỡ, nhưng không giấu được những giọt nước mắt lăn trên má. Tại bến Bạch Đằng, nơi có bức tượng hai mẹ con bà Ngô Đình Nhu bị sinh viên học sinh kéo đổ xuống. Dân chúng vây quanh hai dinh Độc Lập và Gia Long, ồn ào bàn tán. Ở mọi con đường lớn nhỏ trong thành phố, dân chúng  vỗ tay hoan hô nhiệt liệt khi thấy có quân lính hay những đòan xe quân đội đi qua. Tại các trường học, sinh viên học sinh cũng xuống đường, tổ chức hội thảo, tất cả đều ý thức về sự tự do, về cuộc cách mạng, đồng lòng muốn nhận lãnh một trách nhiệm trước tổ quốc. Và, tất cả những nhật báo lớn của Sài Gòn từ mấy ngày qua đều đăng hình đầy đủ các vị Tướng Lãnh trong chân trong Hội Đồng Cách Mạng. Ba vị Tướng đầu não cho cuộc đảo chánh này là Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Tôn Thất Đính.

            Nỗi xúc động trước niềm tin đất nước rộng mở trong ngày mai khiến Thụy không ngăn được mình khỏi khóc. Và, lòng anh thật vui. Trên đường đi bộ về nhà, tâm tư anh đầy ắp những hình ảnh nhân vật tiểu thuyết anh hùng. Thụy  đã đọc cuốn Giờ Thứ 25 của nhà văn người Lỗ Ma Ni, Constant Virgil Goerghiu. Thụy cũng nhớ đến nhân vật  Antipov trong tiểu thuyết Docteur Jvago.

            Khi ngang qua nhà Thúy Hà, anh dừng chân ghé vào. Căn nhà với các cánh cửa sơn màu xanh, sáng ánh đèn, và đông khách đến mua hàng mỹ phẩm làm cho khu phố Độc Lập  trở nên vui, sống động. Lúc nãy, trên đường về nhớ những trang sách trong bản dịch cuốn Docteur Jvago, Thụy như mơ thấy có hình ảnh nàng Lara bên anh. Thụy có nên đem Thúy Hà người bạn gái anh thương để so sánh với nàng Lara không ? Thụy  thật sự hạnh phúc được nhớ cả hai người trong cùng một thời gian với những tiếng động của bước chân, và anh cũng có một ước ao về công việc viết văn. Thụy sẽ chờ đợi một ngày đó rất gần, anh khởi sự  sáng tác để tạo nên một tác phẩm văn chương. Cố nhiên qua gương mặt, bóng dáng Thúy Hà là nhân vật mà anh luôn hình dung trong trí tưởng.

            Vừa thấy anh đứng trước cửa, ông Kha lên tiếng:

-Vào nhà chơi đi cậu.

-Cháu đi xuống phố đọc báo, Thụy đáp lời.

            Ông Kha thở nhẹ một hơi  khoan khóai rồi cầm bình trà rót nước ra tách. Từ lối cầu thang bên căn gác, bóng Thúy Hà đang đi xuống trên từng bậc gỗ. Thụy  nghe tiếng bước chân nàng, lắng đợi một sự gói ghém để cho tình cảm của mình thêm phấn chấn.

            Thụy cầm điếu thuốc ông Kha mời, bật cháy que diêm . Thụy luôn được hút những điếu thuốc ngon. Bên quầy , bà Uyên đang tính tiền và gói hàng cho khách. Khi gặp lại người bạn gái, Thụy được thấy nàng chào anh bằng nụ cười thân thiện.

-Ngày mai cháu ra thăm nhà, Thụy nói với ông Kha.

-Tuần nào cậu cũng ra Huế cả.

-Dạ không. Có khi một tháng hoặc hai. Lần này, cháu muốn về thăm nhà để xem tình hình ngoài đó ra sao ?

-Tôi nghĩ là thành phố Huế rất sôi động. Nơi đó là trung tâm đấu tranh. Cuộc cách mạng này, Huế xứng đáng được vinh danh.

-Cháu cũng có ý nghĩ như bác.

            Thụy nói chuyện với ông Kha, và những điều anh  vừa nói ra rất muốn được Thúy Hà chia sẻ. Thụy yêu nàng, luôn ước mong  được ở cạnh bên nàng. Và nghĩ đến nàng,  Thụy hình dung qua các nhân vật nữ trong tiểu thuyết mà anh yêu thích. Thụy đọc khá nhiều truyện của Nhất Linh. Cô Thu  "bướm trắng" cho anh  một vẻ đẹp thật quyến rũ.  Cô Loan với mối tình "đôi bạn" làm anh cảm động, nhớ rất nhiều đến một miền quê êm đềm. Loan, nàng là hình ảnh của sự yêu thương, của một quê nhà bao phủ mây trắng thanh bình.

            Thụy ra đến Huế  trong bu?i chi?u thứ sáu. Căn nhà thuê ở gần bên dòng Chúa Cứu Thế, nay gia đình anh trả lại, dọn lên chỗ mới vùng Nam Giao, nằm sát bờ dốc bên dưới chùa Từ Đàm. Không riêng gia đình anh, mà hầu như cả thành phố Huế năm nay ai cũng mừng vui chờ đợi mùa xuân đến để trong năm nay, đón một cái Tết thực sự an bình, tự do, không còn  nỗi sợ hãi như trước đây nữa. Trong lần về trước, mẹ Thụy có nói dự định bán nhà ở Quảng Trị, việc này đã thực hiện xong, còn chuyện muốn vào Nam sinh sống do dình hình thời cuộc đã đổi thay nên ba mẹ anh vẫn cứ ở Huế. Với lại, dì Quyên dạy học ngoài Đông Hà nay cũng vào ở Huế , có vậy gia đình bên dì và bên anh được sống gần nhau để giúp nhau.

            Huế, thành phố khởi đầu cuộc nổi lọan vẫn đang còn sôi sục . Dòng sông Hương dậy sóng. Nắng trong thành phố đã thấm đậm vào niềm tin mỗi con người. Nơi đây, có những khát vọng qua tiếng kêu gào tự do, cả lòng thù hận. Nơi đây, nỗi  phẫn uất  còn nung nấu . Hai ngày ở Huế, Thụy  sống vui với bao cảm giác cùng những ý nghĩ mới mẻ, lạ thường. Sau cuộc Cách Mạng, thành phố đông người, ngập tràn đón mùa gió cách mạng trên những con đường như lễ hội. Giọng nói Huế luôn sôi nổi, đồng nhất. Thụy đi chơi, gặp những người lạ cũng thành quen, ai ai cũng tường thuật cho anh hay những giờ phút nghẹt thở của Huế khi hay tin có đảo chánh ở Sài Gòn. Hôm đó, từ đầu  giờ buổi chiều mới nghe tin đồn, cả thành phố rất xao động, nôn nao, hồi hộp, vừa cảm thấy sợ hãi, lo âu. Tưởng như hôm nay là một ngày phán xử, đang hết sức nặng nề. Bỗng dưng, mọi sinh hoạt đình trệ. Những cửa hiệu buôn bán vội vàng đóng cửa sớm. Và, mỗi lúc, các đường phố vắng dần, rồi các trường Đại học, trung học, sinh viên, học sinh rời trường ra về mà hầu như chưa có ai hiểu rõ về một biến cố đang xảy ra ở đây, hay là Sài Gòn. Đài phát thanh Huế hoạt động bình thường, nhưng không có tin tức thời sự, chỉ có ca nhạ, thỉnh thoảng có vài tin ngắn địa phương. Và, trong giờ phút quan trọng này, cũng không tiếp vận đài  Sài Gòn. Tuy nhiên, trong gia đình, nhà nào cũng đang theo dõi trực tiếp Đài Sài Gòn. Vào lúc hai giờ, có lời tuyên bố của quân đội loan báo có đảo chính do tất cả các vị Tướng lãnh đạo. Nhưng rồi, sau đó, lại im lặng vô tuyến. Đột nhiên, có tiếng nói của Tổng Thống Ngô Đình Diệm qua làn sóng đài Sài gòn. Sự hiện diện của ông khiến mọi người lo ngại, vì uy quyền và triều đại của ông chưa sụp đổ. Huế, thành phố như đang hấp hối, hoang mang. Người nào đang ở ngoài đường cũng hớt hãi, mong sớm về nhà. Ngoài bến xe và nhà ga cũng rất vắng. Những chuyến xe buýt trong nội thành, những chuyến xe hàng đưa khách đến tỉnh khác, đều rất vội vàng sợ bị kẹt giữa giờ giời nghiêm. Và, người ta vẫn cứ tin rằng, hai anh em ông Diệm và Nhu vẫn còn nắm quyền chủ động. Nhưng sau một lần lên tiếng đó, tin tức về ông Diệm cũng im bặt luôn. Thời gian qua từng giờ, phía chính phủ, phía đảo chánh cả hai bên, không bên nào nắm được quyền chủ động. Thế nhưng, đây phải là một trận chiến một mất, một còn. Và, cũng qua từng giờ, đài Huế vẫn chỉ có nhạc, không có tin. Những phố chính giờ này đã đóng cửa hết, nhưng người ta vẫn ra bên ngoài tụ tập từng nhóm trước nhà bàn tán về tin tức đảo chánh. Tới 5 giờ chiều, Đài phát thanh Sài gòn loan tin quân đội đã làm chủ tình hình cuộc đảo chánh. Ngay lúc đó, dân chúng nhảy múa, reo mừng và trên đường phố bắt đầu xuất hiện nhiều người đi xe gắn máy, xe đạp, tin đồn loan đi mỗi lúc một nhanh, khắp cả thành phố. Tới sáu giờ, Tướng tư lệnh vùng ban lệnh giới nghiêm. Và, đêm vừa xuống, thành phố Huế như là một nghĩa trang. Sau buổi cơm chiều nguội ngắt, mỗi gia đình đều tập trung một chỗ cố định quanh chiếc máy thu thanh, người nào cũng nín lặng với từng giây phút nghẹt thở, từng giây phút được biểu lộ nỗi hân hoan, vui mừng, tin tưởng, và lúc đó, cũng không thể ngăn được dòng nước mắt. Vào giờ phút này, tất cả dân chúng miền Nam, chân tay người nào cũng cử động, cũng đưa ra bám níu lấy từng tiếng nói, từng cái tên của các vị Tướng. Khi nghe có thêm tên một vị Tướng, một vị công chức cao cấp xưng danh trên đài, đó cũng là lúc thấy được thêm những kết quả chiến thắng. Nhưng, sự chờ đợi, cứ trông vào sự chờ đợi, trông vào mệnh trời, nó vẫn còn dai dẳng, chập chờn, vì , hoàn toàn không ai rõ về tin tức hai ông Diệm Nhu và cả gia đình ông nữa. Người ta được biết Đức Cha Ngô Đình Thục đi La Mã, bà Trần Lệ Xuân và cô con gái đang ở Mỹ giải độc, ở Huế, vẫn đang còn vị lãnh chúa  Ngô Đình Cẩn. Có thể lúc này, Huế vẫn rùng mình, lo sợ ông cậu. Nếu bạn có thể nghĩ xa hơn, thì ông cậu không chi bối rối cả, bên ông, đủ mặt các cận thần, và riêng một mình ông đang suy nghĩ một đường lối sâu sắc, một chiêu thức hiểm độc, đồng thời ông cũng muốn tìm kiếm một địa điểm nào rộng rãi, đầy gió tanh, mưa máu để làm nghĩa trang chôn sống hàng trăm ngàn sư sải, ni cô và thành phần dân chúng Phật tử Huế. Ngày mai, nếu hai người anh của ông còn nắm quyền, còn vững mạnh, ông sẽ thực hiện ngay những điều ác trong cái tâm của ông đang suy nghĩ.

            Dòng sông Hương vẫn lặng chìm giữa đêm tối. Người ta hầu như cố lắng tai để nghe, nhưng dòng nước đang chậm ngừng, không muốn chảy nữa. Người dân còn lo sợ với ảo tưởng, sông sẽ biến thành máu. Trong đêm khuya này, những gia đình theo đạo Phật, nhà nào cũng có hương khói trước bàn thờ, cũng có cái bóng của một người mẹ, hay người cha hai tay lên ngực nguyện cầu cho đạo pháp và dân tộc được sống còn.

            Tự nửa đêm, một tin quan trọng được loan báo trên Đài Sài Gòn là quân đội đang tấn công đánh thành Cộng Hòa và bao vây dinh Gia Long. Người chỉ huy hai mặt trận này là Tướng Tôn Thất Đính, dòng dõi bảo hoàng.

            Nơi xa này, mọi người đang cố hình dung ra một trận đánh. Người ta nghe ra tiếng di chuyển của xe cơ giới, của đoàn quân, và tiếng súng nổ ồ ạt qua từng đợt xung kích.

            Bất thần, nhà nào cũng mở toang cửa, dân chúng ùa hết ra đường ngay sau khi đài phát thanh ở thủ đô loan tin chính thức  hai vị tướng Tư  lệnh vùng 1 và 2 cùng lên tiếng ủng hộ cuộc đảo chánh.

            Khắp các ngả đường, dân chúng ùn ùn chạy, rầm rập đổ về phía tòa tỉnh trưởng, các công sở, tòa lãnh sự Mỹ, và tập trung đông đảo nhất là nơi tư dinh của ông cố  vấn Ngô đình Cẩn. Trong đêm, những trái pháo từ bên kia kinh thành bắn lên vụt sáng lẫn với tiếng hoan hô chào mừng cuộc đảo chánh của các tướng lãnh là tiếng gào thét nguyền rủa, đả đảo chính quyền độc tài gia đình trị nhà Ngô. Và, có thể nói bao nhiêu biểu tượng về gia đình này, cùng một lúc sụp đổ, cùng một lúc mọi dấu vết đều bị xóa sạch.

            Từ đêm khuya ấy của ngày cách mạng đến hôm nay đã qua hai tuần, nhưng cả thành phố vẫn không yên lặng. Ít khi, về đêm Huế có thể gây cảnh náo nhiệt, vậy mà, sự tự do trong cuộc cách mạng đã cho thành phố này những tháng ngày sôi nổi, hiếu động. Những nhà sách, quán báo, đông nghẹt người đứng chờ. Không đủ báo để mua, ở khu vực Đài Phát Thanh trước khuôn viên Đại Học Morin người ta xúm nhau coi chung một tờ báo, và có người sốt sắng tình nguyện đọc hết các bản tin, các bài phóng sự cho mọi người nghe. Rồi lại nghe tiếng cười vui, hoan hô, vỗ tay hài lòng. Hai ngày về thăm gia đình, Thụy chỉ có mặt ở nhà trong bữa ăn tối, còn từ sáng sớm là lấy xe đạp đi chơi nhiều chỗ, bên trong cũng như ngòai nội thành.  Huế , đã là thành phố tuẫn nạn trong biến cố Phật Giáo, vì thế, sự hồi sinh ở đây là sự sống lại của mỗi người dân. Vị thiền sư Nhất Hạnh đã viết hai câu thơ:

            Nếu ngày về khung trời có đổ nát

            Hãy tìm em nơi tận đáy hồn anh

            Khi Thụy đến thăm nhà Dạ Hiền, ai cũng ngạc nhiên và dồn dập hỏi anh về tình hình ở Đà Nẵng.

            Đứng bên Hiền, một giọng vui Thụy nói:

-Không đâu có thể so sánh với Huế, kể cả Sài Gòn.

-Thụy  nói đúng. Không tưởng tượng nổi cảnh tượng Huế trong ngày 2/11.

            Thụy đưa mắt nhìn Hiền, thấy nàng có một vẻ đẹp rất là Huế.

-Không biết người Sài Gòn có hướng về Huế không ?

-Có thể không. Nhưng nơi đó, là cả một niềm tin.

            Hết hai ngày về thăm gia đình, Thụy lại vào Đà Nẵng. Ngồi trên xe, một hình bóng trở lại trong tâm tưởng anh là Thúy Hà.

            Tháng mười một qua đi, tình hình trong thành phố Đà Nẵng thực sự lắng dịu. Mùa đông đã tới. Buổi sáng trời lạnh, đôi khi có những cơn mưa nhẹ hạt. Vào buổi chiều, lúc mặt trời lặn sương mù trên sông bao phủ cả khu bến Cảng. Và, những buổi chiều như vậy, sau giờ tan học Thụy và mấy người bạn chưa muốn về nhà còn dạo chơi  ở công viên nhìn những con tàu đậu, bóng dáng các thủy thủ  trên boong, và đứa nào cũng thật thú vị với  điếu thuốc hút ấm cổ họng , mắt nhìn từng làn khói lượn lờ, lãng đãng,  có đứa tìm được những vần thơ hay liền đọc lên nghe rất dễ thương nhưng cũng men chút ngậm ngùi. Sau đó,  cả bọn cùng kéo nhau lang thang dạo phố, nói cười thật ồn ào, vui trong gió ấm mùa đông với cái lạnh của nắng, có khi là những cơn mưa nhè nhẹ đem buổi chiều dần dần vào bóng tối.

            Sau lễ Giáng Sinh, kỳ thi Đệ Nhất lục cá nguyệt bắt đầu. Kỳ thi kéo dài đúng một tuần lễ. Mỗi môn thi được các giáo sư phụ trách ra đề và quây ronéo phát cho mỗi học sinh. Thụy vững tin về môn Toán, hy vọng sẽ lấy điểm cao. Hôm thi hai môn tiếng Anh và Pháp, anh và Thúy Hà giúp nhau nên bài làm suông sẻ. Giữa anh và nàng, tình yêu đã có , và các bạn học  ai cũng đều biết.

            Rồi cả thành phố chuẩn bị đón Xuân. Trước kỳ nghỉ Tết, nhà trường khuyến khích các lớp từ nhỏ đến lớn làm bích báo , đồng thời tổ chức một chương trình văn nghệ liên hoan cuối năm.

            Khu phòng hội ở lầu ba gần lớp Thúy Hà là nơi các lớp Đệ Nhị Cấp tập trung để làm bích báo sau giờ học buổi chiều. Tại đây, sinh hoạt thật vui, anh em qua lại xem bài vở của nhau và lúc nghỉ cùng vui chuyện trò, ăn kẹo bánh của trường cho. Thúy Hà cũng có chân trong Ban báo chí ở lớp nàng, phụ trách phần vẽ tranh minh họa. Bên lớp Thụy, bài vở các bạn đóng góp thật phong phú. Có thơ lục bát, thơ bảy chữ, thơ tự do, một bài nhận định của thầy Cố vấn lớp, vài đoản văn, tùy bút, và đặc biệt, Thụy viết truyện ngắn. Riêng truyện ngắn anh sáng tác, anh nhờ Thúy Hà vẽ giúp tranh. Nàng sẵn lòng, không ngại ngùng gì cả.

            Khi ngồi bên cạnh nàng, nhìn nàng vẽ tranh cho truyện của mình, Thụy rất hạnh phúc, sung sướng, coi bức vẽ này là kỷ niệm quí giá ví như là một món quà nhỏ mà anh được nàng thân tặng .

 

 

                                                            VI

 

 

 

            Thiên Nga đậu hạng khá trong kỳ thi tốt nghiệp. Cô là nữ sinh viên duy nhất của lớp và của trường. Ngày hôm đó, cô chụp nhiều bức ảnh kỷ niệm với các thầy và các bạn cùng lớp. Riêng mỗi bạn, ai cũng ước mong được đứng bên cô trong một tấm hình làm kỷ niệm, nhưng cô từ chối. Với các vị giáo sư, cô cũng chỉ chụp hình chung để lưu niệm cho trường, chứ không riêng với vị thầy nào cả. Cô đã nhận được tấm bằng tốt nghiệp và một bó hoa hồng. Khi cô nhận lãnh phần thưởng này, ánh đèn chớp sáng của những chiếc máy ảnh bùng sáng lên. Những nhà nhiếp ảnh đã chụp rất nhiều ảnh cho cô, và phần này,  cô ưng thuận cho họ sử dụng một tấm để treo ở phòng ảnh làm mẫu của tiệm.

            Mùa hè đã tới. Một ngày đầu hè, hoa phượng nở sáng đẹp. Và tên cô gái, những hình ảnh về cô nữa (trong ngày tháng năm qua , và hôm nay) làm cho ngày ra trường trở nên vui như lễ hội. Một bông hồng trên tay cô gái là ánh sáng của nụ cười, biểu tượng một thành phố trong tâm hồn nghệ thuật. Những ánh mắt hướng về cô, những lời tán dương thì thầm, biểu lộ cho cô gái thấy đây là những món quà thân ái dành cho cô. Và, tấm lòng riêng mỗi người cũng rất ước mong có được cho mình một khuôn mặt của cô.

            Rồi, phần chương trình tiếp theo là tiệc trà và văn nghệ. Giữa chương trình, một bạn cùng khóa mời cô lên sân khấu hát một bài nhạc mà cô yêu thích. Không từ chối, cô đứng dậy, rời bàn lên sân khấu. Khi đứng trước máy vi âm, cô ngỏ lời chân tình cám ơn quan khách tham dự, cám ơn các thầy cô, sau cùng với giọng xúc động cô nói những lời chia tay với các bạn cùng lớp từ bốn năm qua. Có vài bạn được nhắc tên, bất ngờ lấy làm thích thú, trên gương mặt hạnh phúc sáng rỡ. Từ phút ấy, ai cũng đều chú tâm lắng nghe những lời cô gái phát biểu. Cách diễn đạt của cô qua từng ý rõ ràng, chân thực.

            Mọi người cùng vỗ tay vang lên khi nghe cô giới thiệu bài nhạc mình sẽ hát ,  Bến Xuân  của nhạc sĩ Văn Cao.

            Tiếng hát cất lên, vừa dịu êm, vừa làm cho người nghe có cảm giác như chiếc thuyền đang dâng sóng. Tiếng hát thật  trong , vừa lạnh và ngọt, âm thanh chuyển từng cảm xúc nghệ thuật đến người nghe, không những nghe, mắt còn chú ý đến ánh sáng từ những ngọn đèn làm rõ hơn gương mặt cô gái , mỗi một phút, mỗi một giây, nét đẹp đức hạnh của cô là nguồn sông tồn tại với cuộc đời.  Không một  ai phiêu bạt, giang hồ, và trở nên người lữ khách, nhưng nghe tiếng cô hát , tâm hồn của họ đã được chan hòa với sông nước.

            Tới đây núi đồi chập chùng

            Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng

            Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng

            Ngoài bến xuân

            Ai tha hương….. .

            Thiên Nga hát trở lại nguyên bài một lần nữa, và đoạn nhạc đẹp khách vừa được nghe hát là vạn hộc sắc nước mùa xuân trong tình yêu của nàng.

            Bài hát dứt, tiếng vổ tay nghe thật đầm ấm. Không hát thêm một bản nữa theo yêu cầu, cô nhường micro cho người khác. Không khí tiệc trà trở nên thân mật, gần gũi, và hôm nay, cô gái thật hồn nhiên ( như nắng mới, bạn hãy nghe lắng nghe tiếng cô chuyện trò, thân tình trong sự thẳng thắn và cởi mở.  Số quan khách dự khá đông, ngồi kín hết các chiếc bàn tròn có trải khăn hoa. Những vị khách này, có một số  phụ nữ là những giáo sư dạy các trường học trong tỉnh. Các bà, các cô ai cũng mến yêu nàng, hạnh phúc cho nàng. Khi thấy cô gái đến chào, một bà giáo kéo chiếc ghế mời cô ngồi xuống bên cạnh. Ở bàn khách này, hết người nọ đến người kia tranh nhau hỏi nàng.

-Một mình trong trường em là gái, có sợ không ?

-Có, em sợ lắm. Năm đầu nhập học, em cứ nghĩ trường cũng có đông nữ sinh, đâu ngờ chỉ mình em thôi.

            Ở bên bàn kia, khách cũng đang nghe tiếng của nàng, có hai người trìu mến đưa mắt nhìn nàng. Và, cả hai cùng tỏ lời khen nàng dịu hiền và đẹp.

            Buổi tiệc trà và chương trình văn nghệ góp vui cũng khá dài, lâu đến hai giờ đồng hồ. Rồi cuộc vui tàn, mọi người chia tay. Ngày hôm nay xa nhau, ngày mai vào đời, buổi chia tay của toàn anh em trong khóa học rất cảm động,  ngậm ngùi, rồi tất cả đều chỉ muốn  một người giữ lại những kỷ niệm quí giá này hơn ai hết, là Thiên Nga.

            Nga lấy xe đạp, xong ra về một mình. Trên đường về, nàng muốn dành một ngày vui hôm nay mà nhớ đến Nguyên. Nguyên lại đi công tác chiến dịch lên tiền đồn sau thời gian bốn tuần làm việc tại hậu cứ. Hầu như, đời lính đã gắn bó một cách chân thực với con người Nguyên. Anh làm việc, yêu thích công việc, hoàn tất nhiệm vụ trong khoảng thời gian cần thiết, đầy đủ.

            Bộ chỉ huy nặng của Trung đoàn cố đô vẫn nằm trên căn cứ Bastogne. Lên đó, Nguyên cùng đoàn văn nghệ tâm lý chiến lội bộ đến các tiểu đoàn. Tại mỗi điểm, đoàn trình diễn văn nghệ cho lính xem, chương trình gồm các tiết mục kịch vui, đồng ca, đơn ca. Nguyên luôn dẫn dắt chương trình, anh có những lời giới thiệu hấp dẫn, dí dỏm, làm lính vui và khóai thưởng thức chương trình văn nghệ của lính. Sau khi phần văn nghệ kết thúc, đến phần chính là công tác học tập chiến tranh chính trị. Nguyên giảng giải cho binh sĩ nghe về các bài học chính trị một cách sáng sủa, vừa cụ thể. Lồng vào đoạn giảng, anh kể một câu chuyện, thường là chuyện xưa, tích cũ, những  chuyện  này để luận cổ suy kim, rất dễ cho lính và họ đã cảm nhận được ngay cho chính bản thân, cùng đồng đội. Có vài người lính bày tỏ niềm ngưỡng mộ nói với Nguyên rằng, bài anh giảng hiệu quả hơn cả ngàn mẫu truyền đơn thả xuống vùng địch. Và, không chỉ văn nghệ mà còn có cả chiếu phim. Nguyên giỏi xoay xở, anh mượn những bộ phim thời sự bên phía đài truyền hình, bên các cố vấn Mỹ những phim về chiến tranh ca ngợi sự dũng cảm của người lính chiến đấu ngoài mặt trận. Và, hình ảnh những trận chiến trên màn ảnh thực sự đã có tác dụng vào trí tưởng tượng của những người lính đang hiện diện ngay trong vùng đóng quân trách nhiệm của mình.

            Nguyên gắn bó với đời lính không chỉ riêng cho sự cảm nhận của mình, mà anh còn rất được tình cảm mến thương của đồng đội. Tình cảm đó như một dòng sông rẽ nhánh, càng cho anh có được thêm tình yêu và nỗi nhớ Thiên Nga. Nguyên nhớ Thiên Nga, từng giây, từng phút trong công việc của mình. Nguyên làm việc để nhớ nàng và đặt nàng vào ngay trong công việc của mình.  Thiên Nga cũng vậy, hình ảnh Nguyên là một vầng sáng của hào quang. Sự đam mê công việc của Nguyên rất hòa hợp với quan niệm sống của Thiên Nga. Trên nhung lụa của đời nàng, sự dũng cảm của một con người chiến sĩ được nàng thêu dệt, gói ghém. Nàng cũng luôn thể hiện cái hay, cái đẹp, cả hạnh phúc gia đình rồi đây sẽ hình thành với cuộc chung sống trong từng công việc của Nguyên. Vậy nên, hôm nay dù vắng Nguyên, nhưng nàng đang nhớ nghĩ đến anh nhiều hơn hết.

            Về tới nhà, Thiên Nga thay quần áo xong lên giường nằm nghỉ. Giấc ngủ ngon làm nàng cảm thấy dễ chịu. Nắng ấm của ngày hè đọng lại như mật, rồi chỉ một thoảng gió lay động là mùi hương tản mác, nhẹ nhàng tan ra thành hương vị trái cây.

            Khi một mình nằm lặng im trong thức giấc, Thiên Nga thường để trí tưởng mình nhớ đến cô em gái Mỵ Châu, và nhớ Đà Lạt hơn hết. Đó là thành phố đầy kỷ niệm đẹp của những tháng năm trong thời thiếu nữ  của nàng. Và, nàng đến đó, để rồi về sau mang nỗi nhớ thương đau đến một người anh trai sống ở nơi đó, và chết cũng ở nơi đó.

            Thiên Nga xóa nhẹ giấc mơ đã chảy thật ướt mát trên gương mặt nàng. Nàng ngồi dậy, đến ngăn tủ lấy quần áo đi tắm. Ánh sáng một bóng đèn vừa đủ cho căn phòng nhỏ và tối, nhưng thật là kín đáo. Nga đã múc nước đổ đầy trong cái xô lớn. Xong rồi, nàng bắt đầu tắm. Nàng dội ướt một gáo lớn lên thân người, tiếng nước vang lên, rồi những gáo nước khác, làm tiếng nước vang lên nữa, mỗi lúc, nước càng tuôn chảy rất mau. Sự trong trắng của nàng là hoa lan. Nàng luôn hiểu về mình, yêu thích cuộc sống mình, đó là cuộc sống mang những nét đẹp giản dị và thật uyển chuyến. Nàng thực sự luôn tạo dáng, nhưng đó là sự khéo tay làm bạn ngơ ngẩn người vì vẻ đẹp của nàng trong lối tạo dáng ấy rất là tự nhiên. Thiên Nga là nguồn sáng hiền dịu của bức tranh khỏa thân. Nàng có dáng đẹp từ ánh mắt của bạn nhìn nàng khi thấy rõ toàn thân người. Ở dáng đẹp này, nàng có thêm duyên may của trời cho một khuôn mặt dễ thương vừa gợi cảm, một đôi mắt âu yếm, một mái tóc yêu thương không hề biết đến sự lung lay của tiếng động , và còn nữa, nó nói tới ý nghĩa sự đợi chờ  của tuổi thanh xuân.

            Sau khi tắm xong, Thiên Nga dọn dẹp lại phòng tắm. Không khi nào nàng ở lâu để trang điểm hay ngắm kỹ nhan sắc của mình. Nàng cũng không chải tóc, mà cứ để cho mái tóc ướt sủng, xong đem ra ngoài nắng ráo để  hong khô . Khi tóc ướt và nắng pha trộn, nó làm thành hương vị của một thứ  nước hoa có mùi dịu, ngây ngất.

            Vừa lúc ra khỏi con dốc cuối vườn Thiên Nga chợt dừng bước khi trông thấy bóng bà Huyên từ  phía đầu mái hiên đi về hướng căn phòng nàng thuê ở. Có lẽ, bà tìm nàng, nghĩ vậy, nàng bước nhanh. Hai người gặp nhau trong tiếng chào hỏi thân thiện.

-Bao giờ cháu mới nghỉ hè ?

-Dạ, bắt đầu hôm nay.

-Ngày mai, cháu vào nhà chưa ?

-Thưa bà, chưa. Cháu còn ở đây một tuần nữa.

            Với nụ cười hiền hậu, bà Huyên nói:

-Cháu đừng đi xa bà lâu quá.

-Hôm nào có dịp đi Đà Nẵng, bà ghé chơi nhà cháu.

-Hẳn rồi.

            Thiên Nga mời bà Huyên vào nhà. Hai người đi lên phòng khách. Cánh cửa lớn mở rộng, ngoài sân đầy nắng, và dòng sông bên dưới kia con đường thấp thoáng hiện những chiếc thuyền đang ngược lên phía ngả ba sông.

-Mau chóng quá, mới ngày nào cháu đến ở, giờ đã qua hai mùa hè.

-Đến  chừng nào cháu mới ra trường ?

-Dạ, cháu mới ra trường hôm nay.

            Bà Huyên liền đứng dậy nhìn ngắm cô gái. Hạnh phúc như sắp được thể hiện trong lời cầu mong của bà.

-Rồi đây căn phòng này sẽ vắng cháu, bà Huyên nói xong, lại ngồi xuống.

            Một giọng chân tình của cô gái:

-Cháu vẫn có sự ràng buộc với Huế. Ở đây, cháu cũng luôn có được bà.

-Bà cần cháu giúp một việc được không ?

-Cháu sẵn lòng.

            Nàng vừa đáp, dịch người tới một chút ra dáng vẻ đợi và nghe.

-Bà có một bức ảnh cũ bà rất thích. Cháu vẽ lại tranh chân dung cho bà được không ?

-Dạ được, cháu sẽ vẽ lại cho bà.

            Bà Huyên nói:

-Kỷ niệm của bà là để nhớ cháu.

-Cháu rất cám ơn bà.

            Rồi một lúc sau, nàng nghe tiếng bà Huyên nói:

-Hạnh phúc của mỗi người luôn tìm được trong sự thiếu thốn. Rồi đây căn phòng này không còn sự hiện diện của cháu, bà sẽ đóng cửa không cho ai thuê nữa. Thế nhưng, bà sẽ qua lại căn phòng này, và những gì nơi đây đều nhắc nhở bà tiếng nói của cháu. Sự luyến nhớ đem đến cho mình có thế thôi, nhưng bà vẫn nghĩ, những lúc ấy bà và cháu thật gần nhau.

            Thiên Nga không biết nói gì, nàng đưa mắt nhìn bà Huyên bằng sự yên lặng trong buổi chiều. Nàng bỗng nhớ đến Thụy, phút chốc, trong tâm trí nàng hiện ra một thành phố biển xanh rất đáng yêu.

 

 

                                                            VII

 

 

            Trong tuần lễ chờ Nguyên về, Thiên Nga vẽ xong bức chân dung cho bà Huyên. Nét vẽ của nàng thật kỹ và sắc, lột tả được một khuôn mặt trí thức của bà Huyên.

            Khi nhận món quà là bức chân dung, bà Huyên nói:

-Hãy nghĩ bà là một người mẹ nuôi của cháu.

-Vâng, cháu xin phép.

-Căn phòng này thuộc về của cháu. Những lúc nào cháu ra Huế, hay từ đâu đến Huế, cháu hãy ở căn phòng này.

-Cháu xin cảm tạ tình thương của bà.

            Trưa hôm ấy, Thiên Nga dùng cơm với vợ chồng bà Huyên. Sau bữa ăn, dùng trà, bà Huyên kể về câu chuyện của đời mình cho cô con gái nghe. Thiên Nga thật hãnh diện được biết người mẹ nuôi mình là một phụ nữ trí thức, ngày ấy, đã từng nổi dậy trong những cuộc biểu tình bãi khóa, rồi với cách mạng tháng tám bà đi theo kháng chiến chống thực dân Pháp. Lòng yêu nước của bà rất sáng suốt, hiển lộ cái lý tưởng đẹp với tổ quốc của một người phụ nữ trí thức.

            Tới ngày thứ bảy, Nguyên dẫn đoàn công tác về Trung doàn. Khi đoàn trình diện,  vị Trung đoàn trưởng tưởng thưởng mỗi người một huy chương đồng và mời ra hội quán dùng bữa ăn trưa. Đoàn văn nghệ này thuộc quân khu I nên xong công tác họ đi Đà Nẵng. Nguyên ở lại hậu cứ và tường trình về chuyến công tác trong buổi họp. Vị Trung đoàn trưởng thật hài lòng khi đơn vị có một Sĩ quan trẻ, năng động, xông xáo, và rất thông minh. Nguyên không chỉ trách nhiệm trong lãnh vực về tâm lý chiến, anh còn được xem là cố vấn cho vị Trung đoàn trưởng về tham mưu ở hậu cứ cũng như ngoài chiến trường. Đã bốn lần Trung đoàn nhận cờ danh dự , và cuộc đón tiếp Tổng Thống vào hai tháng trước đây rất thành công.

            Nguyên về, sau chuyến công tác rất vất vả vì thời tiết và đối diện với những ngày trận chiến xảy ra ngoài vùng hành quân. Nguyên thực sự cũng thấy mình thể hiện được tinh thần chiến đấu như binh lính và cấp chỉ huy trong đơn vị tiểu đoàn, địch quân đã bị loại khỏi vòng chiến, rút lui sau hai giờ giao tranh.

            Căn cứ Trung đoàn nằm ở Dạ Lê, xa Huế khoảng hơn mười cây số. Nguyên lái xe một mình. Anh về thẳng nhà Nga đang ở, dừng xe bên con đường Huyền Trân ngoài cổng. Đây là con đường từ đầu thành phố ra ngoại ô,  có một quãng chừng nửa cây số đi ven theo dòng sông.

            Nguyên xuống xe với chiếc ba lô, anh bước nhanh chân, lòng cảm thấy mừng vui như một đứa trẻ đi xa về thăm nhà.

-Nga ơi, tiếng Nguyên gọi.

            Vội vàng buông tờ báo, rời khỏi giường hai chân Nga thật cuống quit. Vừa mở cửa, nàng la lên khi thấy Nguyên xuất hiện trước mắt nàng.

            Nàng cầm chiếc ba lô, hai người ngồi xuống phòng khách. Vừa mở gút dây buộc ba lô, nàng nói:

-Em đợi anh một tuần nay.

-Chuyến đi này thật vất vả.

-Anh hơi gầy đi.

            Trong ba lô có mấy cuốn sách, tài liệu chính huấn, và một gói nylon cất những áo quần lính chưa giặt.

-Ngày lễ ra trường vui không ?

-Vui lắm. Nhưng em cũng hơi buồn vì vắng anh.

-Ngày đầu đoàn mới đến, đơn vị Tiểu đoàn 1 chạm súng với địch.

-Ban đêm, đơn vị có bị pháo kích không ?

-Không.

-Mỗi lần anh đi công tác tiền đồn, em lo. Có đêm không ngủ được.

-Nhưng em cũng đã quen với không khí chiến tranh.

            Thiên Nga mỉm cười, gật đầu. Nàng rất hãnh diện cho Nguyên và cả mình nữa.

-Sao, em có muốn dạy học ngoài Quảng Trị không ?

-Em đợi, để anh về đưa em đi.

-Thụy có viết thư cho em không ?

-Có. Em cũng mới nhận. Đi Quảng Trị về, em sẽ đáp thư.

-Chắc nó viết thư thuyết phục em ra ngoài đó dạy.

-Rất đúng.

-Tội nghiệp, nó rất là quí em. Hình ảnh của em không chỉ là hạnh phúc của gia đình, mà riêng nó, ghi nhận nhiều hơn hết.

-Thụy hiểu tâm tình em hơn cả anh nữa.

-Anh biết.

            Ngày hôm sau, Nguyên và Thiên Nga đi Quảng Trị. Khoảng chín giờ sáng xe khởi hành. Khi Nguyên đi công tác, xe công vụ đem tu sửa, và tài xế của anh nhận được xe một chiếc loại mới, trần thấp, tay lái nhẹ.

            Huế - Quảng Trị, đi chừng gần hai giờ xe là tới. Nguyên và Thiên Nga nói đủ thứ chuyện từ một tuần lễ vắng nhau. Có lúc ngừng trong lặng yên, Nguyên chăm chú lái xe, còn nàng đưa mắt mơ mộng nhìn ngắm khung cảnh làng quê trong buổi sáng êm dịu, trời mát.

-Em thấy lạ, Huế và Đà Nẵng cách nhau một con đèo, mà giọng nói hai nơi rất khác nhau.

-Nhưng cách dùng chữ giống nhau nhiều.

-Một số chữ thôi.

            Nguyên chợt hỏi:

-Tiếng Quảng Trị, em nghe hiểu hết không ?

-Hiểu thôi, nhưng không đúng hết.

-Anh là người Quảng Trị.

-Làm như em không biết chi cả.

-Ý anh muốn em hiểu, anh nói tiếng Quảng Trị.

            Nga phân tích:

-Rất ít chất Quảng Trị. Tiếng anh không quá nặng, nhẹ gần với giọng Huế và có tiếng của miền Bắc.

-Năm 1954, Quảng Trị nhận đến hơn mười ngàn người Bắc di cư. Nhà anh lúc đó, có đến ba gia đình người di cư thuê ở.

-Nhà rộng lắm hả ?

-Đất hoang rộng nên ba anh có làm thêm một căn nhà phụ ngăn bốn phòng.

-Anh nói chuyện thời di cư, em không biết gì hết.

-Đó là năm anh vừa lên trung học.

            Nàng đưa mắt nhìn qua Nguyên. Nàng hình dung lại gương mặt của Thụy. Hai anh em, mỗi người có một nét riêng, thân thiện và dễ nhớ. Nguyên vẫn giữ được dáng dấp trẻ của một thư sinh, còn Thụy khô khan, cứng cỏi, nhưng có giọng nói nghe ấm và đầy cảm xúc. Nàng hiểu rằng, dù Thụy không bao giờ nói ra những lời tâm tình của anh, nhưng nàng hiểu, và trong mắt nàng, sự giải thích về mối liên hệ bao giờ cũng đúng.

            Bỗng Nguyên lên tiếng hỏi:

-Em có thấy lo lắng không ?

-Dĩ nhiên là có. Nhưng không sao, đây cũng là một thử thách cho mình khi vào đời.

            Một giọng thân tình, Nguyên nói:

-Tuy thành phố Quảng Trị nhỏ, nhưng cuộc sống cũng yên bình, dễ chịu.

            Nga nói, giọng hơi nhấn mạnh:

-Không, không thể có sự yên bình. Miền Nam, không nơi nào không có chiến tranh, không có tiếng súng. Chiến tranh luôn đe dọa từng ngày ở vùng núi, nông thôn, cũng như các thành phố.

-Em đừng bi quan với những điều mình lo nghĩ.

-Em ra ngoài quê anh, cũng là để chia sẻ với kỷ niệm cũ của gia đình.

-Em nói một ý hay.

            Nguyên vừa lách tay lái, qua mặt xe trước rồi tăng ga cho xe hướng lên con đường dốc. Hai bên đường có trồng loại cây bồ đề, nhưng quang cảnh hoang vắng. Phía bên trái là đồng ruộng, cỏ hoang, bên phải hiện ra dãy đồi cát hình yên ngựa. Nga buột miệng:

-Quê nội anh, cát thật là trắng.

-Em có thấy những đồi cát tựa như đàn voi.

-Anh thực giàu tưởng tượng.

-Quê hương mỗi người luôn đẹp trong trí tưởng và cả thực tế nữa.

-Mùa hè này Thụy có về phép không ?

-Chắc là không.

            Con dốc khá cao. Lên tới đỉnh dốc, hai người trông thấy một ngôi làng xa, cách những đồi cát đến hơn một dặm. Từ quãng dốc này, hai cây số nữa là tới lằn ranh tỉnh lỵ.

            Nguyên đưa chân qua rà thắng, đến lúc, anh cho xe ngừng trước sân một quán nước lợp tranh.

            Hai người xuống xe, đi vào quán. Trong quán, hai bàn tròn có khách. Còn lại, ba bàn trống vắng. Khi chàng và nàng vào quán, khách đưa mắt nhìn, họ chú ý đến nàng hơn là viên Sĩ quan. Nàng mặc áo dài tím, tóc dài không buộc nơ mà buông thả xuống vai.

            Chị bán quán đến chỗ hai người vừa ngồi, cầm khăn lau bàn.

-Thưa Đại úy và cô dùng chi ?

            Nguyên hỏi Nga:

-Em ăn gì không ?

-Không.

-Uống cà phê nghe.

            Nga gật đầu. Nguyên bảo chị bán quán:

-Cho hai cà phê sữa.

-Dạ, uống nóng hay đá.

-Uống nóng.

            Khi chị bán quán rời bàn, Nguyên hỏi:

-Lâu nay Mỵ Châu có gởi thư cho em không ?

-Có. Mỵ Châu cũng muốn em đi xa nhà ít năm.

-Vậy hả, em Châu nói lúc nào ?

-Anh hãy tin Mỵ Châu lúc nào cũng có nhiều tâm sự với em.

-Anh biết, anh cũng rất thương Mỵ Châu.

            Thiên Nga mỉm cười. Nụ cười trên mắt nàng rất hiền dịu. Trong những khoảnh khắc lặng thầm với suy tưởng, ánh sáng lạnh màu xám tro trên đôi mắt nàng như thể hạ thấp xuống và tìm một chỗ đậu lên hai bàn tay của nàng.

            Hai phin cà phê mang ra. Những giọt cà phê chảy xuống đều, dần lấp kín lớp sữa dưới đáy ly.

            Khi cà phê đã ngừng chảy, Nguyên nhấc phin ra, cầm chiếc muỗng khuấy tan sữa rồi đưa cho Nga. Đến ly của mình, Nguyên cũng khuấy kỹ cho tan sữa vào cà phê.

Hai người mời nhau uống. Cà phê không tệ, uống được, có chút vị thơm.

            Trên khóe môi nàng, có dấu in một vệt sữa. Nàng đẹp, luôn luôn đẹp. Nguyên nói về Quảng Trị như là một bài giảng về môn địa lý.

-Có đúng là ngày xưa mẹ mở quán hàng cơm ?

-Đúng. Kỷ niệm những ngày buôn bán của mẹ, anh nhớ cảm động.

-Em cũng tin. Đọc truyện của Thụy viết, mọi sinh hoạt của gia đình luôn hiển hiện trong đó.

-Những năm ấy anh vào học ở Huế, mỗi cuối tháng mới về thăm gia đình. Còn Thụy ở nhà, giúp mẹ chạy bàn cho khách. Thời kỳ đó, còn có thêm khách ăn cơm tháng.

-Anh là con đầu nên rất sung sướng.

-Thời đi học, anh nhớ được nhiều kỷ niệm đẹp.

-Bây giờ còn không ?

-Còn, em cất giữ.

            Nga cười, nụ cười thật có duyên ở cửa miệng. Ánh mắt nàng cũng cười, trong đôi mắt, những hạt cám vàng nở như hoa. Nga uống nốt phần cà phê còn lại.

-Kể ra, uống cà phê là một cái thú.

            Nguyên hỏi:

-Em có biết ông Kim Thánh Thán không ?

-Không.

-Kim Thánh Thán là một nhà phê bình lỗi lạc Trung hoa. Trong cuộc sống đẹp, ông nói con người có 32 cái thú.

-Ông có nói đến thú uống cà phê không ?

-Thời xưa, bên Tàu chưa có cà phê.

            Nguyên nhớ một vài mẩu chuyện nhỏ, anh kể lại cho Nga nghe. Nàng thích thú, và lúc mắt cười, nàng cứ nhìn sang gương mặt Nguyên.

            Chị bán quán muốn nghe chuyện tâm tình của ông Sĩ quan và cô gái, nhưng chị vẫn đứng bên quầy hướng mắt nhìn về phía bàn hai người. Một lúc lâu, mấy người khách ngồi phía bàn gần quầy rời ghế đứng dậy. Hai thanh niên, bốn đàn ông và hai người đàn bà. Người trả tiền ra cửa sau cùng. Ngoài sân, tiếng người thanh niên nói với đứa bạn:

-Vợ ông Đại úy  đẹp quá.

            Đứa bạn nghe, vội quay đầu nhìn vào trong quán. Nàng đang cười nghe chuyện Nguyên, mái tóc rung rung.

            Nguyên chợt trông thấy chị bán quán mang khay trà đến.

- Bao nhiêu tiền cà phê đây chị ?

-Dạ, xin sáu chục.

            Nguyên mở nắp túi áo lấy tiền trả.

-Cám ơn. Mời cô và Đại úy uống trà.

            Nga tráng tách trà xong, rót hai tách. Nguyên nhìn đồng hồ, uống xong chén trà nhỏ hai người rời quán ra xe.

            Nắng trưa tràn ngập qua cánh đồng. Lên xe, Nguyên tra chìa khóa nổ máy. Tiếng máy nổ nghe êm,  từ phía sân chiếc xe Jeep lăn bánh ra ra đường. Chiếc xe dừng bật đèn hiệu để rẽ, và đợi chiếc xe hàng vượt qua xong, Nguyên mới vào quốc lộ chính và tăng tốc độ.

            Những cột cây số hiện ra trên đường.

-Đồng Hới, 60 km.

            Nga quay sang hỏi Nguyên:

-Đồng Hới thuộc tỉnh nào, anh ?

-Tỉnh Quảng Bình, phía miền Bắc.

-Anh ra tới ngoài đó chưa ?

-Chưa. Nhưng anh có biết.

-Biết sao, nói em nghe.

-Đồng Hới là thị xã của tỉnh Quảng Bình. Ở thị xã này, nhà nào cũng có vườn trồng hoa hồng.

-Hay nhỉ.

            Nguyên tiếp lời:

-Ngày xưa, thời chúa Nguyễn từ Quảng Bình vào đến miền Nam, người ta gọi là xứ đằng trong. Đây là những vùng đất mới của người di dân từ Thanh Hóa.  Đến mỗi nơi, di dân lập nghiệp sống gần nhau, tạo thành thôn, thành xã. Cứ vậy, dân số phát triển dần dần theo cuộc Nam Tiến.

-Anh nhớ hết tên các vị Chúa không ?

-Không nhớ hết. Người đầu tiên đem dân vào xứ đằng trong, lập nghiệp trên đất Ái Tử Quảng Trị là Nguyễn Hoàng, sử gọi ông là Chúa Tiên.

-Có bao nhiêu đời Chúa ?

-Chín đời.

-Vị Chúa nào giỏi nhất ?

-Chúa Hiền Vương. Thời đó, miền Nam trải dài đến vùng Cà Mau, là công lao bình định của Chúa Hiền Vương. Thời của vị Chúa này, miền Nam rất hưng thịnh.

-Đồng Hới, thị xã hoa hồng, còn tỉnh Quảng Bình có lớn hơn Quảng Trị không ?

-Cũng nhỏ như đây thôi. Có động Phong Nha, đèo Ngang trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, và di tích lũy Thầy của Đào Duy Từ.

            Một giọng vui, Nga nói:

-Em khen trí nhớ của anh. Chuyện anh kể, giống như học sinh thuộc bài hồi nhỏ.

            Nguyên điềm nhiên hỏi:

-Em thấy anh dạy môn Sử  địa được không ?

            Liếc mắt nhìn qua, nàng cười nói:

-Người ta đã khen, còn làm bộ hỏi nữa.

            Tới Quảng Trị, đã gần mười hai giờ trưa. Từ ngã tư quốc lộ rẽ vào đường tỉnh, Nguyên cho xe chạy chậm.

-Em muốn đi ăn, hay tới nhà thầy Hiệu trưởng.

-Tùy anh.

-Anh nghĩ, giờ này thầy có ở nhà, mình tới dễ gặp.

            Nga gật đầu. Phố Trần Hưng Đạo, trước đây có tên là đường Ga, đường này dẫn từ ngã tư ngoài quốc lộ I về đến trung tâm tỉnh. Trong tỉnh, cũng có nhiều đoạn ngã tư, ngã ba, mỗi ngả đi về một dãy phố, sinh hoạt quần tụ, liên kết, nối tiếp nhau như những con đường ngang dọc trên một bàn cờ. Khi xe vào trung tâm phố chính, Nguyên chú tâm lái còn Nga đưa mắt nhìn quang cảnh sinh hoạt phố vào giờ này tấp nập, đông vui. Tiếng nói người Quảng Trị nghe nặng thật, Nga mỉm cười nhưng không nhìn sang Nguyên.  Trước khi đến ngã tư, con đường Trần Hưng Đạo có một cửa hiệu chụp ảnh và hai cửa hiệu sách.

-Em không thấy có hiệu thuốc tây.

-Chỉ có một hiệu thuốc tây nằm trong khu chợ.

            Nguyên dừng xe ở ngã tư chờ cho người đi bộ băng qua đường, rồi rẽ phải vào đường Quang Trung. Nga hỏi:

-Thầy Hiệu trưởng dễ chịu không anh ?

-Thầy là một người rất mẫu mực, tính tình thật điềm đạm.

-Thời anh còn học, thầy đã làm Hiệu trưởng chưa.

-Rồi, thầy nhận chức Hiệu trưởng đúng vào niên khóa anh lên lớp Đệ Tam.

            Nga lại hỏi:

-Theo ý anh, thầy nhận em dạy không ?

-Em đừng lo lắng. Anh đã nói chuyện trước với thầy rồi. Và, thầy còn mong nữa. Trường đang thiếu giáo sư phụ trách môn hội họa.

-Em cũng nghĩ môn này, ít giáo sư tốt nghiệp trường Mỹ Thuật nên thầy dễ nhận.

-Nếu em muốn dạy các môn phụ Việt văn, Nhạc, Sử địa, anh sẽ nói với thầy.

-Em dạy môn Việt Văn được không ?

-Sao mà không được. Em có Tú Tài văn chương, thêm một năm Dự bị nữa, quá đủ điều kiện.

            Nga cảm thấy mình hết sức hưng phấn trong sự khích lệ của Nguyên. Ngoài môn Họa ra, nàng sẽ dạy thêm vài môn khác nữa.

            Một giọng hồi tưởng rất ân tình, Nguyên nói với Nga về tiểu sử  của người thầy và ngôi trường cũ.

-Thầy quê ở Cam Lộ, có bà con bên bà ngoại. Năm 1950, thầy thi đậu Tú Tài ban Cổ ngữ. Vì Huế lúc đó chưa có trường Đại Học nên thầy về Quảng Trị với ý định làm nghề giáo. Năm 1951, thầy ở trong ban Hội đồng tỉnh vận động xin mở trường trung học, đầu tiên trường lấy tên Quảng trị, sau đổi thành Nguyễn Hoàng, tên trường này chính thức được Bô Giáo dục chấp nhận. Những năm trường mới mở, thầy dạy các môn Anh, Pháp, Việt Văn. Niên khóa 1958-1959, từ chức vụ Giám học thầy được bổ nhiệm làm Hiệu trường cho tới bây giờ.

-Anh còn nhớ thật là rõ chi tiết .

-Ở Quảng trị, thầy là một biểu tượng không chỉ riêng ngành giáo dục mà còn là nhân sĩ của tỉnh. Một lá thư gởi đến thầy, không cần ghi địa chỉ, người Bưu tín viên cũng đưa đến tận tay.

-Anh rất là giỏi, em khen anh.

-Cám ơn em.

-Đồng ý, nhưng chỉ cần nói một lần thôi. Lập lại nhiều lần, em cất không hết.

            Xe dừng bên ngoài đường, cách đường kiệt vào nhà thầy Hiệu trưởng khoảng vài chục mét. Nguyên và Nga xuống xe đi bộ.

            Trên đường đi, Nguyên còn nhớ lời của thầy Hiệu trưởng nói với anh lần gặp trước đây.

-Hay lắm, trường Nguyễn Hoàng cũng đang thiếu thầy.

            Và, nhớ lời thầy tâm sự:

-Ai đến dạy học ở Quảng trị cũng thương thành phố này.

            Nga cầm lấy tay Nguyên. Hai bên đường kiệt chỉ mọc lên vài căn nhà, và nhà thầy Hiệu trưởng ở cuối hết.

            Cái bóng một người đàn ông dáng vừa cao trong bộ quần áo nhẹ màu lam đang chăm sóc mấy chậu hoa, đó là thầy Hiệu trưởng. Đến trước cổng, cả Nguyên và Nga dừng bước đợi, mắt chăm chú nhìn người chăm sóc mấy bông hoa, nhưng cả hai không lên tiếng gọi. Bất chợt, người đàn ông ngẩng đầu lên nhìn ra cổng, vừa ngạc nhiên, vui mừng. Đến bể nước rửa tay xong, thầy ra cổng mở cửa.

-Mời hai em vào nhà.

            Trước sân là giàn hoa giấy có bông hồng, bông trắng nở rất đẹp. Có một bức bình phong và nhiều chậu hoa sắp thành hàng. Hoa lan có giàn riêng, mỗi chậu có móc hai vòng thép  để treo lên giàn, bên dưới giàn là một bể nước hình chữ nhật vừa nuôi cá, vừa dùng lấy khí mát giữ độ ẩm ướt cho tốt những giò lan để lan được sống lâu.

            Nhà lợp ngói âm, quay lưng với mặt đường phố, từ cổng sân nhìn qua hồ nước, phía trước là một cánh đồng ruộng, nhưng đất ruộng không phải là sở hữu của gia đình.

            Phòng khách để chiếc bàn dài chính giữa, bốn ghế đẩu. Bàn gỗ đánh véc ni sáng bóng. Trên bàn có sẵn khay trà, bình trà, hộp trà, và một chiếc bình thủy. Nhà thường có khách hay viếng nên chủ nhân lúc nào cũng có sẵn trà nước để đón tiếp . Hai người khách ngồi yên lặng, thoáng để mắt quan sát cách bài trí , nổi bật là những bức hình chạm trổ và những chữ nho dát vàng trên mỗi câu đối. Người thầy đang pha trà, vừa hỏi mấy câu chuyện với khách.

            Nước sôi đổ đầy trong ấm. Sau một phút đợi ra trà, thầy rót trà vào ba cái tách. Rất lịch thiệp, thầy đưa tách trà qua cho cô gái, giọng vui nói:

-Mời cô giáo mới của trường tôi.

            Nga rất vui, nàng  nói như reo lên:

-Như vậy, thầy đã nhận em vào dạy cho trường.

-Không nên giải thích nhiều.

-Em cám ơn thầy.

-Không có chi đâu.

            Ba người cùng nâng tách, uống một hớp trà. Nguyên hỏi:

-Năm tới, trường có mở thêm lớp không thầy ?

            Một giọng chậm rãi, người thầy nói:

-Có xin, nhưng hẳn còn chờ phụ huynh đóng góp và ngân sách của tỉnh cho.

            Tiếp lời, thầy nói:

-Mỗi năm, học sinh vào trường một nhiều. Nhưng trường lại thiếu lớp, thiếu thầy. Tỉnh Quảng Trị ở cuối miền Nam, đầu vùng giới tuyến nên ai cũng ngại đến vì lo sợ an ninh và chiến tranh. Nhưng đến đây dạy, tình người dân và học sinh của tỉnh chân chất, ai cũng yêu mến, lúc ra đi đều luyến tiếc. Nhưng trong cuộc sống, hoàn cảnh mỗi người một khác, nên ở Quảng Trị, nơi này có tình nghĩa mấy cũng chỉ giữ được các giáo sư tới đây dạy học chừng một hai, ba năm là cùng. Năm tới, một số thầy của trường cũng đã xin đi.

-Dạ, tiếng Nga đáp rất nhỏ.

            Nàng đưa mắt nhìn vị thầy, thấy một nỗi băn khoăn hiện rõ trên gương mặt một con người lương tri, và đang giữ  lấy tấm lòng.

-Uống trà đi em.

-Dạ.

            Nguyên chợt hỏi:

-Cuốn sách thầy viết được tới đâu rồi ?

-Được hơn một nửa. Về những chương sau này, tài liệu rất khó tìm.

            Giọng rụt rè, Nga hỏi:

-Thầy có soạn sách.

            Một cái gật đầu nhẹ, thầy Hiệu trưởng nói:

-Có. Tôi đang soạn một cuốn sách về địa lý, danh nhân và văn hóa tỉnh Quảng trị. Sách biên khảo này, cần có tài liệu chính xác nên không thể viết nhanh được.

            Nguyên tiếp lời thầy, nói với Nga:

-Thầy là người Quảng trị, sống trong tâm tưởng quê nhà, ở đây thầy xây dựng trường học và gắn bó với trường đã bao nhiêu năm. Học sinh trong mỗi thế hệ đều rất quí thầy, và luôn nhớ đến thầy. Nhưng với bao nhiêu công việc của trường, thầy không thể cáng đáng nổi một mình. Như lúc nãy qua lời thầy tâm sự , ai dạy ở đây cũng qúi mến tình người dân và học trò, nhưng họ không thể nào ở lâu, vì cần phải theo sự thăng tiến trong ngành.

            Chiếc quạt trần vẫn quay đều, nhẹ nhàng từ lúc ba người trò chuyện. Bất chợt, có bóng người đàn bà mặc áo dài, đội nón Huế, đẩy cánh cửa cổng vừa dắt  xe đạp đi vào sân. Người đàn bà để ý, mắt nhìn vào trong, thầy Hiệu trưởng nói:

-Nhà tôi đó.

            Khi người đàn bà xuất hiện, cả Nguyên và Nga đứng lên chào. Một giọng thân tình, người thầy nói:

-Đây là cô Thiên Nga, hôn thê của anh Nguyên. Niên khóa này, cô sẽ dạy ở trường Nguyễn Hoàng.

            Cô Ý Tâm là vợ của thầy Hiệu trưởng. Với Nguyên, cô đã quen biết, còn rất thân tình nữa. Trước đây, cô học trên Nguyên đến hai lớp, và thời kỳ ấy, học sinh mỗi lớp và cả trường không đông lắm nên cũng dễ biết khi gặp nhau. Bây giờ, Nguyên đã trưởng thành, là một Sĩ quan.

            Ý Tâm rất ngạc nhiên, nhưng mắt vui được gặp một thiếu nữ xinh đẹp.

 -Hay quá, rất là hay, nàng nói - nhìn qua Nguyên đoạn tiếp lời - Nguyên thật là có tình với Quảng Trị, đem cho thành phố nhỏ một bậc hoa khôi nhi nữ. Ai đây nhỉ, các cô giáo trong trường, các cô nữ sinh, có đem ra so sánh được với Thiên Nga của Nguyên không ?

-Thưa cô, quá khen em.

-Không. Mình nói thực mà, Nga hỏi anh Nguyên đi.

            Thầy Hiệu trưởng qua ngồi ghế bên, nhường chỗ mình cho vợ ngồi. Trong lúc thầy dời chỗ, Thiên Nga cầm bình trà rót vào tách để mời cô chủ nhà. Ngồi đối diện với Thiên Nga, Ý Tâm nhìn nàng với đôi mắt vui, hạnh phúc và thiện cảm.

-Ra đây dạy học, Thiên Nga ở nhà ai ?

-Em có thuê chỗ nhà người quen.

-Nếu chưa tìm ra, mình giúp cho.

-Cám ơn cô. Em tìm được chỗ rồi.

            Bàn khách bốn người. Câu chuyện thân tình giữa khách và chủ như người trong gia đình. Nhưng thời gian ngồi lâu, Nga cũng lo lắng khi nhìn lên đồng hồ treo tường.

            Ý Tâm, bằng một giọng quả quyết nói:

- Nguyên và cô Thiên Nga ở lại ăn cơm trưa với gia đình.

            Hai người, Nguyên và Thiên Nga thật khó chối từ.

            Thầy Hiệu trưởng tiếp lời vợ:

-Hai em ăn với gia đình thầy một bữa cơm. Người Quảng Trị chân tình lắm cô Nga ạ. Còn Nguyên, từ  năm em rời xa trường đến nay đã lâu lắm.

            Giờ ăn tuy hơi trễ, nhưng có được cái tình cũ của người thầy và học trò. Thiên Nga đứng lên cùng với cô Ý Tâm xuống gian bếp. Bốn đứa con, hai trai, hai gái được mẹ giới thiệu với cô giáo mới, các em cùng vui sướng, khoanh hai tay ra trước ngực vừa cúi đầu chào.

            Thiên Nga được cô Ý Tâm cho biết tên mỗi em.

            Gian bếp rộng, bày biện ngăn nắp. Lò bếp được nấu bằng ga, rất tiện lợi. Nồi canh và các món đã nấu sẵn được làm nóng lại trên lò bếp trước khi đem dọn ra trên dĩa. Cô con gái lớn lau chén bát, đũa để vào mâm. Cô em kế, lên nhà trên trải khăn bàn ăn. Ngồi lại ở nhà trên, Nguyên và người thầy bàn chuyện một cuốn sách. Nguyên nói:

-Em nghĩ, cuốn sách rất là cần thiết cho độc giả.

-Theo ý em,  có nên xuất bản không ?

-Thầy đã bỏ công lao nghiên cứu, biên khảo, sách cần phải được in.

-Ở ngoài này, tỉnh không có nhà in.

-Huế có hai nhà in, Thuận Hóa và Đại Học. Thầy cứ viết cho xong, em sẽ giúp thầy in thành tác phẩm.

-Hay quá. Thầy cố gắng hoàn tất.

            Bữa ăn được dọn lên chỗ bàn ăn đặt gần cửa sổ. Lúc nãy dưới bếp, đứng bên nhau trò chuyện , Ý Tâm rất là thích thú được nghe tiếng nói của Thiên Nga, và được nàng kể một câu chuyện về buổi đầu tiên gặp Nguyên ở quán cà phê. Lòng  Ý Tâm, vui, trong sáng, hãnh diện mình được trở thành người chị của cô gái. Các cháu cũng quấn quit bên mẹ và cô giáo Nga. Cậu con trai út nói:

-Mẹ để cô Nga dạy lớp con nghe.

            Ý Tâm cười bảo:

-Mẹ đâu có quyền, con phải nói với ba.

-Em học lớp mấy ?

-Con học lớp Đệ Thất.

-Vậy là nhập học lên Đệ Lục.

-Dạ.

            Trên bàn ăn bốn cái ly cao dùng cho người lớn, ly vừa cho đám true nhỏ. Mỗi chai xá xị được khui đổ vào một ly có nước đá. Bốn đứa con, hai đứa được một chai. Khi nhìn gương mặt mỗi đứa con của thầy cô Hiệu trưởng, Thiên Nga cũng thầm ước hạnh phúc gia đình cho nàng và Nguyên sau này.

            Bữa ăn thân tình qua tiếng trò chuyện của người lớn, bốn đứa nhỏ vừa ăn và cố chỏng tai nghe. Thằng út tên ở nhà là Bin, thèm được hỏi chuyện cô giáo, nhưng sợ mẹ không cho, nó chỉ nhìn ngắm cô giáo thấy cô hiền, đẹp, dễ thương, ước mong vào niên khóa được học với cô thôi.

            Giọng người thầy luôn chậm rãi, đều tiếng trong cung cách thật điềm đạm. Nguyên nói:

-Anh Bảo đang dạy học ở Đà Nẵng.

            Trong sự gợi nhớ, người thầy nói:

-Trường Nguyễn Hoàng có được nhiều học sinh giỏi, ra đời cũng thành danh.

-Có anh nào trở lại dạy cho trường không thầy ?

-Có vài em thuộc lớp sau Nguyên.

            Trong một thoáng hồi tưởng, gương mặt Nguyên bỗng tỏa sáng, anh nói:

-Em thuộc vào lớp học sinh đầu tiên trường được công nhận tên Nguyễn Hoàng của Bộ Giáo Dục.

-Có thực không ?, Ý Tâm hỏi.

-Em nhớ rõ. Lớp đầu tiên của cô, lúc đó trường còn mang tên Quảng Trị của tỉnh.

            Ý Tâm hỏi chồng:

-Có đúng không anh ?

-Nguyên nói đúng. Hai năm đầu em lên trung học, trường chưa đổi tên mới.

-Anh Bảo và cô là cùng một lớp đầu. Khi trường đổi tên, đúng vào năm cô ở lớp Đệ Tứ.

-Nguyên nhớ giỏi ghê.

            Thiên Nga được nghe chuyện ba người bàn cãi, cảm thấy vui. Ý Tâm làm bộ vừa nghiêm, một giọng vui nói với Thiên Nga:

-Chị là học trò của thầy. Lớp học sinh trung học đầu tiên của trường Quảng Trị.

            Thiên Nga ngạc nhiên, trên gương mặt đỏ ửng. Và lúc ấy, nàng cũng ngừng đũa sau một bữa cơm khách ăn thật ngon miệng.

 

 

 

                                                 VIII

 

 

 

            Ngày chủ nhật, vào giờ này mới là đầu buổi chiều trong thành phố, ngồi trên xe Thiên Nga mặc áo dài tím sang đẹp như  một bà hoàng. Nguyên lái xe chạy xe lòng vòng quanh những con đường, những nơi chốn cũ quen thuộc, mỗi nơi, anh  kể từng mẩu chuyện cho người yêu nghe. Và, như thế này, bạn có ngay cảm tưởng được nhìn thấy Thiên Nga khắp nơi.

            Từ trong một quán cà phê, tiếng hát Khánh Ly cất vọng:

            Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày

            Có sợi tóc nào bay trong trí nhớ nhỏ nhoi.

-Anh thích nhạc Trịnh Công Sơn không ?

-Không.

-Hoàn toàn không.

            Nguyên gật đầu.

            Quán cà phê bỏ lại đằng sau, tiếng hát mất hút. Nga không hỏi thêm, nhưng Nguyên cũng nói ra ý nghĩ của mình.

-Nhạc của Trịnh Công Sơn là nhạc dành cho người chết hát. Người chết trong đó cũng có rất nhiều những góa phụ chiến tranh. Khi em nghe Khánh Ly hát, lời ca và tiếng hát như là vọng âm của các oan hồn.

-Trời, anh đừng làm em sợ. Lúc nãy nghe mấy câu Khánh Ly hát, em thấy hình ảnh đẹp, sinh động , hay lạ lùng.

-Bài hát đó cũng là oan khuất, ước mong của người chết được sống trở lại trên trần gian.

-Em cũng thấy lạ về anh, một người lính mà không sợ hãi nỗi đe dọa của chiến tranh.

-Anh rất ý thức và phân biệt đúng về lịch sử và chiến tranh.

            Thiên Nga hơi ngả người phía sau lúc đưa hai tay sửa lại mái tóc. Trong khu hành chánh tỉnh, những con đường yên vắng, vỉa hè có lát đá và cây cối rất xanh. Xe chạy chậm, Nga có cảm tưởng đây như là khu phố cổ, tường thành rong rêu, những ngôi nhà ngói nâu, rồi bất ngờ ngôi nhà Bưu điện tỏa sáng lên một màu ngói đỏ , name bên kia cạnh ngả ba là thư viện của thành phố.

-Có phải chỗ này là khu phố cổ.

-Em nghĩ vậy cũng đúng. Đây là khu cổ thành, thành Đinh Công Tráng.

-Miếu đôi nằm ở đâu ?

-Bên kia thành, ngoại ô đầu tiên của thành phố có một con đường rộng dẫn xa ra đến biển. Nhưng sao mà em biết Miếu Đôi.

-Em có đọc một truyện ngắn của Thụy viết về cô giáo Trâm, lớp học là mái nhà tranh, sân chơi có cây trứng cá, bên kia là một đầm sen.

-Ngày xưa, tỉnh lỵ nghèo, Ty giáo dục phải mướn nhà dân cho học sinh có chỗ học.

            Nga im lặng nghe, không nói gì. Nguyện chợt hỏi:

-Em nghĩ sao ?

-Đây là quê hương của tình người.

-Em có tâm hồn thi sĩ.

-Anh cứ tưởng, em chỉ biết về họa thôi sao ?

-Không đâu, em còn tài hoa với những ngón tay xinh đẹp trên phím đàn dương cầm.

            Thiên Nga đưa tay qua tát yêu bên má Nguyên, anh và nàng cùng cười với hạnh phúc của tình yêu.

-Em học nửa chừng, tự dưng bỏ. Nếu chịu khó học thêm vài năm nữa, giờ em sẽ đàn thuần thục hơn.

-Trong sự dang dở, đôi khi cũng cái hay.

-Thôi đi, ngài Đại úy.

-Thực chứ. Sự dang dở luôn làm mình nghĩ mà tiếc. Nhưng trong đó, mình hoàn toàn rất thành thực khi nhớ đến.

-Cuối cùng, em đã hoàn tất bốn năm ở trường Mỹ Thuật.

-Có vậy, em mới thấy mình rất tự tin.

-Anh nói đúng.

            Thật quá bất ngờ, dòng sông trải rộng, nước xanh biếc hiện ra như là một bức tranh vẽ. Và, nó gây ngạc nhiên đến độ Thiên Nga thấy mình như đang khác hẳn đi.

            Nguyên đang cho xe chạy trên con đường dọc bờ sông. Dòng sông miên man chảy, gió ập tới thổi tung mái tóc nàng, một cảm giác ngây ngất đến mê lịm đi. Rồi định thần trở lại, nàng bắt đầu nhìn quang cảnh dòng sông. Đây là con đường Gia Long, nước dòng sông thật êm đềm đang chảy bên dưới, trên đường những hàng cây cao nối tiếp nhau. Nắng chiều cũng đã làm đẹp dòng sông bằng những dải khăn lụa vắt qua hai bờ. Xe chạy trên con đường ven sông, mỗi lúc, nàng thấy dòng sông đã trải ra một mái tóc thiên nhiên giữa một quê hương đứng ở hai bờ.

-Sông này tên gì anh ?

-Sông Thạch Hãn.

-Tên dòng sông như tên một vị tướng.

-Mùa nước lũ, nước sông dâng cao lắm.

            Thiên Nga nhìn qua sông, phía bờ bên kia nắng đã lặng chìm nằm im trên một nửa bãi. Nửa bãi trong bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận. Nàng cất tiếng hát, bên dưới ấy, nước và dòng sông miên man.

            Xe chạy hết con đường ven dòng sông, lên tới cây cầu, Nguyên cho rẽ trái nhập vào đường quốc lộ , hướng thẳng con đường này đi Huế.

-Má nói với em, ngày mốt nhà có đám giỗ.

-Em tính ngày nào vào nhà ?

-Anh được nghỉ mấy ngày ?

-Anh xin nghỉ lúc nào cũng được. Về hậu cứ công việc trở lại bình thường.

-Em không bận tâm gì hết, việc hôm nay đã xong.

-Việc của em, không khó khăn. Anh chỉ ái ngại, ở Quảng trị một mình em lại lo lắng, và nhớ nhà.

-Không sao cả.

            Với một nụ cười thương yêu, nàng nói như chỉ là để mình nghe.

-Hương xa của cuộc đời.

-Mỗi tuần em dạy chừng 16 tiếng, trong ba buổi.

-Em vẫn mơ một cuộc triển lãm tranh mình.

-Cuốc sống mới sẽ là nguồn hứng cho em sáng tác.

-Ngài Đại úy nói đúng.

            Trong câu chuyện, lúc này, muốn kéo dài hay lan man tới đâu cũng được. Ngày chủ nhật, có vẻ như là một ngày hạnh phúc của đời sống. Con người vui, thiên nhiên hài hòa, và ở đâu, cảnh vật cũng được sắp xếp như thể làm cho bạn có cảm tưởng các thứ quần áo sạch sẽ, thơm tho, được cất vào tủ hay là chiếc va li. Ngày mai tới, bắt đầu một ngày bận rộn.

-Bao giờ chiến tranh mới kết thúc anh nhỉ.

-Anh cũng rất nhiều lần thao thức với câu em hỏi.

-Em thấy đất nước mình có thiên nhiên quá đẹp, gắn bó, và rất ân tình.

            Nhưng rồi bao nhiêu cuốn sách học về các môn Sử, Địa lý là sức mạnh vô song mà cũng không tìm ra được cách nào để dập tắt khói lửa.

-Lịch sử của đất nước mình chỉ được nghe trong tiếng hát.

            Nguyên lặng im suy nghĩ rất lâu. Nàng đang nói, bất chợt giật mình, cứ tưởng phút giây qua là ảo vọng.

            Khi nghe tiếng rúc còi của đoàn tàu, trên quốc lộ đoàn xe bắt đầu giảm tốc độ chạy chậm lại. Khói đầu máy tàu dâng lên cao, đoàn tàu đang đi qua một chiếc cầu.

            Nhiều chiếc xe ngừng xa trạm gác bên cây cầu chừng trăm mét. Đám trẻ bán quà rong từ trong ngôi chợ gần đó túa ra, vội vàng đi qua từng xe cất tiếng rao.

-Bé con, lại đây.

-Bánh nóng không ?

-Mới nấu, thưa cô.

-Cho cô năm chục cái.

            Con bé lấy bánh trong rổ cho vào túi nylon màu cam, rồi nhận tiền của nàng đưa.

            Khi người bẻ ghi móc lại cây đèn báo động, cánh cổng giở cao, bọn trẻ hàng rong tản mác chạy về khu chợ. Đoàn xe nối nhau qua cầu. Từ  các chuyến xe hàng đậu ở trước, tiếng ca nhạc từ trong radio vọng ra ngoài, rộn ràng, háo hức.

            Thiên Nga trải rộng tờ báo trên chân, bắt đầu bóc lá. Bánh còn nóng, bóc xong một chiếc, nàng đưa qua cho Nguyên. Với một chục bánh lọc gói lá ăn dặm, tuy không có nước mắm, nhưng bánh mềm nóng, dẻo thật ngon.

-Tối nay mình đi cơm tiệm hay ở nhà.

-Có em, anh vui, cứ vậy mà mình hưởng cơm nhà, quà của vợ.

-Có chắc không đấy.

-Em là đơn vị trưởng, lúc nào anh cũng theo lệnh cắm trại 100%.

-Không tin đâu, anh lông  bông lắm. Hồi trước, quen một cô nhân viên Bưu điện, tuần nào anh cũng đến gởi thư và đánh điện tín cho Thụy.

            Nguyện lặng im. Đường quốc lộ mới sửa xong, mở rộng thêm vài đoạn và lớp nhựa đổ dày nên xe chạy rất êm.

-Đúng không, ngài Đại úy.

            Nguyên chỉ lặng cười trên cặp mắt, nhìn anh nàng cười theo. Rồi, nàng gói tờ báo lại để dưới chân.

            Huế, 8km. Nhà ga nằm bên phải quốc lộ. Không có tàu, không có khách, có hai chiếc toa hàng hóa nằm bên đường ray phụ. Nhà ga này không có tháp nước.

            Nga nói:

-Sáng thứ tư, em vào nhà.

-Đến lúc nào em trả lại nhà thuê cho bà Huyên.

-Bà Huyên nhận em làm con nuôi.

-Em nói sao ?

            Nga kể lại chuyện hôm gặp bà Huyên liên quan đến bức vẽ chân dung. Nguyên nói:

-Dì Kim Miên là bạn học cùng lớp với bà Huyên.

-Lạ không, lâu nay em anh không nghe nói.

-Bà Huyên có cuộc đời cũng bí ẩn.

-Em cũng hiểu như anh vậy. Bà là người tốt, phải không anh.

            Nguyên gật đầu, tiếp lời thêm:

-Người phụ nữ trí thức hiếm có. Một hôm nào đó, em nhắc dì Kim Miên cho bà hay.

-Nay dì ấy ở đâu ?

-Dì mất năm anh lên sáu tuổi.

-Vậy sao mà anh biết bà Huyên là bạn học của dì.

-Biết chứ.

            Không cần Nguyên giải tích rõ thêm, Nga vẫn tin. Trong gia đình bên mẹ, dì Kim Miên là chị dì Quyên. Nguyên chợt thấy xuất hiện một mảnh trời của tuổi thơ, ngày xưa đó, bóng dáng ông bà ngoại, các cậu dì mặc đồ tang đứng trước quan tàu dì Kim Miên. Dì Miên mất vì đau bệnh thương hàn, thời đó, thuốc ngoại chữa trị rất là hiếm hoi. Dì đã lấy chồng, nhưng không con cái. Chú ấy theo kháng chiến, chỉ được biết tin của dì mất mấy tháng sau đó. Rồi chú ấy, cũng ngã gục ngoài chiến trận trong một đánh ác liệt giữa quân đội Việt Minh và Pháp ở mặt trận biên giới Lào.

            Trên vẻ mặt buồn trong một thoáng hồi tưởng, ánh mắt Nguyên tự nhiên xa vắng như gởi một cái nhìn tới tận nơi đâu. Anh cũng nhớ lại về mình, về đoàn công tác vừa qua trong những ngày lên tiền đồn, và  anh nhớ rất rõ từng diễn tiến cuộc chạm súng của đơn vị Tiểu đoàn và Cộng quân.

            Nga chợt hỏi Nguyên:

-Trong nhà, mẹ là chị c?.

-Mẹ, dì Kim Miên, dì Quyên rồi đến cậu Nghiêm.

-Ủa, cậu Phiên, dì Ngọc  là sao ?

-Hai c?u dì em nói là con của bà ngoại em.

-Vậy ông ngoại, hai bà cũng là hai chị em ruột.

            Nguyên gật đầu đắc ý. Nga mỉm cười, chợt hỏi Nguyên:

-Anh thì sao ?

-Anh là của Thiên Nga.

            Nàng không hỏi chàng điều gì nữa. Nụ cười giữ  hạnh phúc thật lâu trên cặp mắt nàng. Về tới Huế,  Nga cảm thấy sự yên bình sau một chuyến đi. Nàng thở nhẹ, cảm thấy hài lòng.

                                                             

 

                                                      IX

 

 

 

            Trong thành phố Quảng Trị nhỏ bé này, Thiên Nga được coi là khuôn mẫu về cả đức hạnh và nhan sắc. Nàng rất thẳng thắn với các bạn đồng nghiệp bên nam cũng như bên nữ, còn học sinh các lớp dạy, nàng rất yêu mến , luôn khích lệ sự học tập các em cho tất cả các môn và,  không bao giờ nàng phân biệt bất cứ một em nào cả.  Nàng có thể vượt hơn nhiều phụ nữ khác trong sự thể hiện tinh thần giáo dục qua tính cách một người làm công tác từ thiện.

            Thành phố Quảng Trị thật là xinh xắn nhờ lối kiến trúc do người Pháp xây dựng. Trên  các khu phố chính, đường nào cũng có một dáng dấp mùa thu với nhiều ngôi nhà còn tươi màu ngói đỏ, bóng xanh mát của từng hàng cây trồng bên đường.

            Bên này và bên kia con sông,  đời sống luôn được khơi day ( chuyển mình qua một ý niệm, từ bên trong và bên ngoài dòng sông chảy. Nhà Thiên Nga thuê ở trên đường Gia Long, đây là một con đường tình tự của buổi chiều, và của những tà áo trắng bên dòng sông.

            Bến Hộ nằm ở ngay đầu ngã ba đường Gia Long và đường nhà đèn. Bến xây bằng đá lát, sạch sẽ, nơi bến này nước rất trong và sâu. Nhà Thiên Nga thuê nằm phía trên, cách bến chừng khoảng trăm thước. Căn nhà có gác riêng, cầu thang phía sau, và một mái hiên gác ở phía trước . Từ chỗ đứng ở hiên gác, buổi chiều Thiên Nga có thể phóng một tầm mắt xa để nhìn các làng mạc và những cánh đồng lúa, những hàng tre, hàng dừa, để cảm thấy một sự rung động chân tình trước cảnh đồng quê thật êm ả. Nhưng, với nàng, đẹp và quyến rũ nhất là vào buổi sáng sớm, bạn được nhìn  thấy dòng sông sương mù bao phủ. Khung cảnh hoàng hôn cũng thật kỳ diệu, lúc ráng đỏ hừng lên, đó là lúc trí nhớ của dòng sông nghe một tiếng ai vừa gọi vô cùng thân thương và xa vắng.

            Nguyên chỉ có một ngày chủ nhật cuối tuần ra thăm Nga rồi trở lại Huế trong ngày. Và, anh luôn chia tay với nàng lúc mặt trời sặp lặn. Trên đường về, Nguyên nhớ Thiên Nga da diết. Vào những phút giây đó, anh ước mong vô cùng cuộc chiến tranh kết thúc, rồi từ cuộc sống yên bình của đất nước, anh và nàng sẽ được sống mỗi ngày, mỗi người làm những công việc theo ý thích và khả năng của mình, và cả hai luôn có những đêm trăng thu ngồi tình tự trước thềm cửa nhà, đến hai ngày cuối tuần, hai người dã ngoại vui với đời sống thiên nhiên, mà, với họ, vẫn trời mây, biển, núi, sông nước, ao hồ, nhưng mỗi sự hiện diện bằng hình bóng của họ là mỗi cảnh trở nên khác đi. Từ cảm nhận đó, họ nhận ra, quê hương là một tấm lòng.

            Tối đến, cơm nước xong Thiên Nga ngồi soạn bài trong một cuốn tập giấy ca rô đóng bìa thật khéo. Ngoài môn dạy Họa là chính, nàng còn phụ trách thêm Việt Văn và Địa lý ở hai lớp nhỏ Đệ Thất và Đệ Lục. Trong bài soạn, Nga làm một dàn bài chính, rồi ghi vào phụ chú những chi tiết cần giảng. Ở lớp, nàng không đứng giảng mà không cần sách hay xem bài soạn, với nàng, trách nhiệm việc giảng dạy luôn phải cẩn trọng thấu đáo. Trong giờ dạy, cứ giảng xong một phân đoạn, nàng trở lại bàn, xem trong cuốn tập soạn bài đề mục tiếp, rồi nhẹ nhàng bước ra bục giảng. Vào giờ nàng có mặt ở lớp, các em học sinh rất ngoan ngoãn, hồn nhiên, đứa nào cũng chăm chú để hiểu bài, và đứa nào cũng rất muốn bày tỏ sự yêu thương, quí mến nàng. Khi học môn Địa lý, điều chúng thích nhất là hình vẽ bản đồ các nước, nàng vẽ, dùng cả phấn trắng và phấn màu khiến chúng thấy thích thú, ham học, vì nó đẹp mắt. Ở môn Việt Văn, giọng đọc thơ của nàng nghe thật êm ái, truyền cảm, nhưng giờ chúng thích nhất là giờ hướng dẫn thuyết trình các sách truyện mà chúng theo từng nhóm cần phải đọc và trình bày.Với 20 giờ dạy, mỗi tuần phụ trách sáu lớp, Thiên Nga dồn hết trong ba ngày, từ thứ hai đến thứ tư. Từ hôm lễ khai giảng, bắt đầu trở thành cô giáo trung học, Thiên Nga không tránh khỏi niềm ái ngại, vừa lo âu về khả năng giảng dạy của mình, nhưng rồi, người đem lại nghị lực và sự tự tin, vượt thắng cho nàng là Nguyên. Thêm vào đó, có thầy Hiệu trưởng, luôn quan tâm coi nàng như một người em. Khi nhắc đến Nguyên, người thầy tỏ ra hài lòng, mãn nguyện. Vào hôm ấy, trong bữa cơm khách với gia đình thầy, Thiên Nga cũng biết thầy đang biên soạn một cuốn sách giá trị, những lúc gặp ở trường, nàng thay Nguyên hỏi đến, và nàng hứa với người thầy rất đáng quí mến, khi nào cuốn sách hoàn tất đem in, nàng sẽ giúp thầy vẽ bìa sách.

            Thời gian của một niên học đã qua hai tháng. Nga đến trường đều đặn với các giờ dạy sáng chiều ghi trong thời khóa biểu. Nàng đi và về bằng xe đạp. Không chỉ học sinh lớp nhỏ quí mến nàng, mà học sinh lớp lớn dù không học, nhưng vẫn có lòng ngưỡng mộ và rất thiện cảm với nàng. Và, với đồng nghiệp, nàng không để mất lòng ai cả. Nàng chỉ gặp gỡ, trò chuyện với đồng nghiệp ở trường, không bao giờ nàng tiếp ai ở nhà riêng cả. Nguyên đã đeo chiếc nhẫn đính hôn vào ngón tay của nàng, nên không còn một ai khác trong tâm tưởng của nàng. Nàng luôn nhớ đến Nguyên trong bữa ăn tối dưới ánh đèn, những buổi sáng thức dậy sớm, và đôi lúc buổi chiều về đến nhà nghe những tiếng bước chân lên cầu thang nàng có cảm giác anh bên cạnh nàng.

            Bỗng dưng tiết trời trở  bất thường gây nên bệnh cúm. Trong thành phố, không khí như ngưng đọng, ngột ngạt , dưới một bầu trời đầy những tảng mây đen xám đang nặng nề di chuyển.

            Thiên Nga mắc bệnh cúm, vì thế ý định vào Đà Nẵng thăm nhà đành dời đến dịp sau. Buổi sáng nay lúc rời nhà, đến cửa hiệu thuốc tây nàng phải đem theo áo mưa, và mặc cả áo ấm. Hiệu thuốc tây nằm trong khu chợ, ngay trước con đường Hoa Viên. Đây là con đường dài khoảng bốn trăm mét, dẫn ra tới bờ sông. Nơi này, có một cái bến dành cho thuyền bè của những người buôn hàng ở các làng xa đến. Họ đem bàn các thứ nông phẩm, trái cây, và mua lại những thứ thuốc men, vải vóc, những mặt hàng tạp hóa tiêu dùng. Khu chợ khá lớn, cảnh buôn bán sầm uất, vừa rất là thân tình. Khi nàng bước vào hiệu thuốc, nàng thấy một người ngoại quốc cao lớn, tóc bạc, ông ta đang nói tiếng Pháp với một người Việt nhỏ thấp hơn, chắc là người chủ cửa hiệu. Trong hiệu thuốc có hai phụ nữ trẻ mặc áo blouse trắng đứng bán hàng. Nàng mua cả ba loại thuốc, trụ sinh, cảm cúm và ho. Người bán hàng bỏ các loại thuốc vào trong túi giấy, nhận tiến nàng trả, rồi thối lại.

            Rời khỏi hiệu thuốc, nàng đạp xe tới nhà Bưu điện vào trong guichet mua tem và gởi đi mấy lá thư ngay ở quầy.

            Không đi đâu nữa, nàng quay xe trên đường về nhà. Rồi nhân thể nàng ghé tiệm chụp ảnh lấy cuộn phim và ảnh được gởi sang tuần trước. Nhìn đồng hồ đã trưa, nàng liền ghé tiệm phở ăn một tô nhỏ để uống mấy viên thuốc. Nàng cảm thấy người mình hơi nóng, vẻ mặt hồng đỏ trong cặp mắt mệt mỏi. Trong lúc nàng bắt đầu ăn, bên ngoài trời mưa. Nàng nhìn ra mưa với nỗi lo ngại. Không đói, miệng vừa đắng nên nàng không ăn hết nổi tô phở. Ngừng bữa ăn, nàng lấy các viên thuốc đã mua uống cùng một lần với nước trà. Nàng chợt thèm một ly sữa nóng, nhưng tiệm ăn không có bán.

            Mưa không lớn, nhưng vì cảm nên Thiên Nga cảm thấy người khó chịu. Nàng mở ví lấy chai dầu nhị thiên đường chấm vào ngón tay giữa xức vào giữa cổ và hai bên thái dương. Cũng may, những ngày đang bệnh rơi vào ngày nàng được nghỉ không có giờ dạy.

            Một đứa nhỏ từ nhà trong đi ra, tay cầm khăn lau chùi những bàn trống. Tiệm ăn cũng lớn, sạch sẽ. Khi thấy nó làm việc, nàng nẩy ý định nhờ nó mua ít tờ báo ở hiệu sách cách tiệm ăn vài căn. Nàng cầm bút ghi vào miếng giấy nhỏ, và lấy tiền ra sẵn. Vừa xong việc, nó quay đầu lại khi nghe tiếng nàng gọi.

            Đứa nhỏ rất lễ phép, lắng nghe lời dặn của nàng xong cầm tiền và mảnh giấy đi ngay. Nàng đợi cũng lâu, nó mới trở về quán. Vừa thấy nó về, nàng vui, nở một nụ cười nhìn nó đi tới bàn nàng ngồi. Lúc này, tiệm có hai người khách ăn mới vào. Những tờ báo nàng nhờ nó mua, có đủ.

-Cám ơn cháu.

            Nàng cho nó tiền lẻ, và bảo nó tính luôn tiền tô phở.

            Mưa ngừng tạnh. Gió thổi những đám mưa còn lại bay qua trên dãy phố, nghe tiếng động làm rớt rất nhanh những hạt mưa xuống lòng đường.

            Về tới nhà, nàng lên gác bằng lối cầu thang phía sau. Mưa ướt xuống những tấm ván cầu thang, sợ ngã, nàng bước chậm. Khi mở cửa vào phòng , nàng bật đèn sáng, lấy khăn lau mặt, vội vàng thay bộ quần áo nhẹ, xong lên giường nằm nghỉ.

            Trong giấc mơ, nàng khóc. Người anh ruột của nàng vắng bóng đã lâu, nay trở về. Anh nói với nàng, căn nhà ở Đà Lạt hiện bỏ trống không người ở. Anh nàng chết trong một tai nạn xe hơi bị lật ở quãng đèo Prenn. Ngày đó, được tin nàng khóc sướt mướt, tiếng khóc than của cô em gái như thay cho người vợ, vì anh của nàng chưa lập gia đình. Những kỷ niệm về các món đồ chơi, quần áo người anh sắm cho nàng, nàng đã cất giữ. Khi nhớ đến người anh, nàng hay kể chuyện xưa cho cô em gái Mỵ Châu nghe. Nàng có một hộp giấy đựng thư từ, thư rất nhiều, số thư của Mỵ Châu chiếm gần một nửa.

            Ngủ thiếp đi, mê mệt trong nhiều giờ tới quá nửa buổi chiều Thiên Nga mới thức dậy. Nàng cảm thấy đói nên xuống nhà bếp lấy củi nấu một soong nhỏ cháo. Gian bếp có cửa hông, bên ngoài trời gió, nàng húng hắng ho rồi khép cửa. Một lúc sau bị ngột khói, nàng lại mở cửa nhìn ra ngoài. Ngoài sân sau có giếng nước và hai cây khế đang ra hoa tím. Nhìn ngọn lửa, Thiên Nga thấy nhớ Thụy, nàng cảm thấy như mình có chút cơ duyên mến yêu vô cùng người em của Nguyên. Nàng nhận ra, Thụy hiểu nàng, và thấy được rằng nàng mới là người có hạnh phúc khi lấy Nguyên làm chồng.

            Nồi cháo sôi, hơi đặc, nên nàng múc thêm một ly nước lạnh đổ vào, khuấy đều, và để cho sôi lại lần nữa. Trong lúc chờ cháo chín, nàng lấy cái bát nhỏ lau khăn xong để sẵn một bên. Và, cháo đã sôi lại, vừa chín tới  nàng bắt đầu bỏ hai thứ gia vị, nước mắm và tiêu vào soong cháo xong khuấy đều. Lửa bếp tắt, nàng múc cháo vào tô nhỏ xong đem lên nhà. Tô cháo hẳn còn nóng, nhưng nàng vẫn ăn cho ra mồ hôi, và để uống viên thuốc.

            Mưa, bên ngoài trời đang mưa. Nàng ăn tô cháo cảm thấy vừa miệng hơn là tô phở ở tiệm lúc trưa, và sau khi uống một viên thuốc cảm, một viên trụ sinh, nàng bắt đầu cảm thấy khỏe người.

            Nàng đứng lên rời khỏi bàn ăn ra ngoài phòng khách, trên tay đem theo mấy tờ báo và xấp ảnh mới sang. Đèn bật sáng, bên cửa sổ nhìn ra nàng thấy trời ảm đạm và con sông có nhiều lớp sương mù khuất che bờ bãi bên kia và những ngôi làng xa.

            Nàng ngồi xuống ghế nệm, dựa lưng, cầm ly uống hớp trà nóng. Cuốn phim 32 tấm ảnh được sang đủ. Vào chủ nhật tuần trước Nguyên ra, đưa nàng đi chơi các vùng quê xem thắng cảnh, ra đến biển Cửa Việt, nơi nào cũng có một hai bức ảnh chụp lưu niệm. Thiên Nga, tên nàng, và nàng đã đẹp rồi, những bức ảnh nào của nàng cũng tạo một vẻ đẹp riêng. Hai người ăn một bữa cơm ở quán nằm gần quận lỵ, đi chơi đói, ai ăn cũng ngon.

            Khi về, Nguyên và Nga vào thăm ngôi trường cũ lợp mái tranh, nơi đây, Nguyên đã học hai lớp đầu tiên khi lên bậc trung học. Ngôi trường vắng, có chút xa lạ, hoang tàn nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Ngôi trường cũ lợp tranh, nền đất bằng đã trải dài một căn nhà chia ra làm sáu lớp học. Ngày xa ấy, mùa đông Nguyên và các bạn đến lớp học trong những buổi sáng mưa và gió lạnh, buổi học chiều, vì mưa nên trời tối, lớp nào cũng thiếu đèn điện, giờ học đó, học sinh chỉ lắng nghe thầy giảng bài mà ghi nhớ.

-Em thay thế anh đứng trước mỗi cửa lớp.

            Không cần tạo dáng, mỗi lớp Nga đứng bên cửa với bao nhiêu nụ cười rất hồn nhiên. Nguyên không chụp cho Nga ở bên trong lớp mà đưa nàng ra chỗ sân cờ và trước cổng trường. Vẫn còn đó, tấm bảng gỗ mộc mạc với cái tên ngôi trường cũ ngày xưa.

            Nguyên nói với Thiên Nga:

-Ngôi trường này vẫn lưu giữ để nhớ một thời trong quá khứ được xây dựng, hình thành. Nơi đây, những người học sinh trưởng thành, đi lưu lạc phương xa, về thăm lại Quảng Trị, những bạn nào trong thế hệ của các anh từng học ở đây đều có ghé lại để nhớ trường cũ, ngày tháng cũ, và để có được một nỗi xúc động với cuộc đời mình qua thời gian.

            Lúc trưa, đứa nhỏ mua cho nàng hai tờ nhật báo và một tờ tuần báo Văn nghệ tiền phong. Tờ  tuần báo này thay thế tờ Kịch Ảnh vì hiệu sách đã bán hết.

            Khi Nga cầm tờ nhật báo lên đọc, tin tức chiến sự chạy dòng chữ lớn trên trang nhất, và rồi nàng không khỏi ngạc nhiên có bài phóng sự của Nguyên viết về các trận giao tranh của Trung đoàn với địch quân. Nàng phải đọc ngay bài chàng viết, cảm thấy người khỏe hẳn trong niềm hãnh diện.

            Hình ảnh Tết Mậu Thân là cả một cơn ác mộng với Huế. Chiếc cầu Trường Tiền bị sập vài giữa chưa được sửa chữa lại. Đây là nỗi đau của Huế, vì chiếc cầu và con sông là một biểu tượng văn hóa của thành phố. Người ta yêu con sông thật đằm thắm ,và dòng sông cũng nói với thành phố, nàng là hiện thân một mái tóc muôn thuở của người cung phi. Còn chiếc cầu ở đây thật là một dáng người học thức, thanh tú, yêu cái đẹp về cuộc sống, và anh ta là một người rất nghiêm túc với thời gian.

            Trận chiến Mậu Thân đã gây tang tóc cho miền Nam, nhưng Cộng quân thất bại, hiện nay, Hà Nội-Sài Gòn đang đi đến cuộc hòa đàm để giải quyết chiến tranh. Nhưng hai năm qua rồi, diễn tiến cuộc hội đàm vẫn ngưng trệ, bế tắc.

            Thiên Nga buông tờ báo, cầm tách trà uống một hớp đầy. Nước trà đã âm ấm, không còn nóng khói và thơm như lúc đầu.

            Trong tờ báo Tiền Phong    phần giữa có một truyện ngắn của Thụy. Nàng bỗng thốt lên:

-Sao mà hôm nay mình gặp cùng lúc hai anh em.

            Giữ tờ báo trên tay, nàng chưa đọc, nàng ngả người dựa lưng ghế, đôi mắt khép lại. Trời vẫn còn mưa, nàng nghe rõ tiếng mưa nặng hạt.

 

            Quảng Trị, cuối tháng mười…

            Thụy thân mến,

            Một thiếu nữ sinh trưởng nơi xứ Quảng, đến Huế học trường Cao đẳng Mỹ Thuật qua thời gian bốn năm, vừa mới tốt nghiệp xong, và nay đã trở thành một cô giáo. Trường trung học Nguyễn Hoàng là một nơi ghi dấu kỷ niệm đầu tiên buổi vào đời của nàng.

            Vậy là mình giữ được một lời hứa với anh Nguyên và cả Thụy nữa.  Sau chuyến đi công tác lên tiền đồn ba tuần lễ, anh Nguyên trở về hậu cứ ngày thứ bảy, sáng hôm sau chủ nhật anh lái xe đưa mình đi Quảng Trị, đến nhà thầy Hiệu trưởng. Và, mình không những hân hạnh được hai thầy cô nhận cho dạy, còn là khách mời dự một bữa cơm trưa thật ngon miệng với gia đình .

            Thầy Hiệu trưởng là một người rất điềm đạm, nhân ái. Anh Nguyên và Thụy là học trò cũ của thầy, hẳn là hiểu rất rõ về thầy nhiều hơn chính mình.

            Trường Nguyễn Hoàng, đúng là một trường công lập lớn nhất tỉnh. Trong sân trường, những cây lớn trồng để lấy bóng im, dáng hình vừa cao, chắc chắn và đẹp mắt. Những căn phòng học cũng rộng rãi, thoáng mát, tiện nghi.

            Lễ khai giảng của trường là ngày thứ hai, đầu tháng 9. Đó cũng là một ngày mình rất đáng nhớ , và mình được trở thành cô giáo. Nỗi xúc động rất lớn, cho bản thân chính mình, và buổi sáng đó mình nghĩ nhiều lắm đến các em học sinh, khi đến cả ngàn em của toàn trường cất tiếng hát  bài quốc ca lúc làm lễ chào cờ.

            Rồi, cũng như bao nhiêu giáo sư khác đã nhận thời khóa biểu từ buổi họp tuần trước, mình đi đến lớp. Thụy ơi, bạn sẽ ngạc nhiên là lớp Đệ Lục đầu tiên mình đến đúng ngày phòng học ngày xưa Thụy được học ngôi trường này. Có vẻ như, khi mình sắp làm vợ anh Nguyên thì những gì mình có hay tìm thấy đều có chút liên hệ với cả những người thân bên gia đình anh.

            Đây là lớp Đệ lục B4, hai giờ học đầu là môn Việt Văn. Khi mình vào nhận lớp, các em trố mắt nhìn. Có một em học sinh ngồi đầu bàn mình nhận ra trước tiên và em cũng thật sung sướng trong buổi gặp gỡ này, em đó không ai khác là con thầy Hiệu trưởng. Thụy biết không, em Bin khi biết mình là cô giáo dạy ở trường, cứ xin mẹ cho cậu được vào lớp học của mình. Hôm nay, cậu được mãn nguyện.

            Trước bảy mươi em học sinh, mình tự giới thiệu tên mình, trường mình đã học, sau đó mình đề nghị chọn một em khá vững vàng làm Trưởng lớp. Về môn học,  mình cho các em biết chương trình học cho cả năm chia làm hai lục cá nguyệt. Không để mất thì giờ, mình cầm phần viết lên bảng và bảo các em chép chương trình ngay vào trang đầu tiên của tập vở.

            Lớp học có cả nam và nữ, tuy khá đông nhưng các em ngoan ngoãn. Để dọa dẫm, mình nói các em ngoan ngoãn cô sẽ dạy suốt năm, còn như ồn, phá phách quá thì cô sẽ dạy ở lớp khác.

-Chúng em xin nghe lời cô.

            Ngày xa ấy, bằng tuổi này, Thụy ngồi ở lớp tâm hồn như thế nào nhỉ. Có thể, cũng vào giờ đầu tiên Thụy gặp một cô giáo mới xinh đẹp như cô Trâm, nhưng hẳn rằng tâm trạng cậu bé Thụy lo lắng hơn, chứ không mơ mộng quá sơm như lúc đến tuổi trường thành.

            Hôm nay, ngồi viết thư cho Thụy, một tháng bình yên của mình ở ngôi trường mình dạy đã trôi qua, không có một điều kiện chi khó khăn, hoặc vấn đề gì lo ngại. Với đồng nghiệp, khi giới thiệu mình đã là hôn thê anh Nguyên, học sinh cũ Nguyễn Hoàng nhiều giáo sư cũng đã biết và có lời nhận xét khen ngợi khả năng của anh.

            Với thời khóa biểu dạy mỗi tuần 20 giờ nên mình có được chút thời gian rảnh rỗi làm công việc riêng, nhất là sáng tác tranh. Và, mỗi cuối tháng, mình lại đi xe lửa về thăm nhà, lúc ra thì ghé Huế thăm bên gia đình và gặp lại anh Nguyên.

            Lúc này, việc học tập của Thụy ở quân trường ra sao ? Nhận được thư của Thụy, mình mới hay là Thụy đang ở thời huấn nhục và còn là tân khóa sinh. Khi hết thời gian huấn nhục sẽ được gắn alpha để trở thành SVSQ. Rồi đây, những thư từ thành phố Nha Trang Thụy viết sẽ giúp mình biết thêm về thành phố biển này, nhất là với một cô Phượng nào đó ngoài đời Thụy mong gặp. Rồi, không chỉ là nơi thành phố biển ấy thôi, đến một ngày tận nước Mỹ xa xôi Thụy còn sẽ viết nhiều lá thư nữa gởi về cho mình đọc, trong đó, mình luôn theo dõi từng bước ngày tháng trong thời gian Thụy được huấn luyện để trở thành một phi công.

            Có lẽ, công việc học của Thụy chiếm nhiều thơi gian nên không có kỳ nghỉ phép. Và từ nay, Thụy vẫn luôn trông đợi đến ngày ra trường trở thành Sĩ quan phi công. Với tình cảm gia đình, mình rất mong Thụy thành đạt.

            Nay thì mình đã khăn gói vào đời để thu xếp lấy một cuộc sống. Riêng Thụy, tuổi trẻ vẫn còn những giấc mộng viễn phương.

Thân mến,

Thiên Nga.

 

            Và, trong tháng mười một này, khóa 69B bắt đầu bước vào tuần lễ thi các môn học quân sự. Hầu hết các môn học đều thi viết, chỉ vài môn thi thực hành như tháo ráp vũ khí, tác xạ, cơ bản thao diễn và đoạn đường chiến binh.

            Trong thời gian học quân sự tại đây, anh em ai cũng nghĩ rằng, chỉ cần dự đủ môn, đủ thời gian ở lớp, còn             thi mãn khóa thì có tính cách hợp thức hóa cho điều kiện ra trường sau khi học xong ngành bay, thế nhưng, từ bốn khóa trở lại đây, trường quân sự đã đánh rớt một số khóa sinh vì kém khả năng. Tuy nhiên, giấc mơ đến Mỹ vẫn là những câu chuyện lúc vào lớp học, và đến cả thời gian ở phòng.

            San Antonio ở tiểu bang Texas  là một thị trấn lớn, nơi đây có một trường huấn luyện hoa tiêu. Trước khi sang trường bay, các khóa sinh phải đậu được Anh ngữ với số điểm định mức là 80ECL. Thời gian học bốn tháng, hai tuần thi test một lần, nếu rớt trường cho học lại bốn tuần để thi , và sau bốn kỳ không đạt được số điểm, những khóa sinh kém khả năng sẽ bị loại và trả về lại Việt Nam. Rồi theo số phận, các chàng trai không thỏa mộng giang hồ sẽ được đưa qua trường Thủ Đức, học chín tháng ở đây xong ra đơn vị bộ binh. Thụy hiểu rõ hiện trạng này, nên lúc nào anh cũng có sự lo lắng. Vào binh chủng Không quân, chọn theo ngành phi hành, khi mang được đôi cánh, khoác được chiếc áo bay, lúc ấy, bầu trời mới thật là màu xanh, và  cuộc đời mới thật là đẹp. Nhưng, học ngành này không thể biết thời gian ra trường, rất nhiều cái nhiêu khê đến với bạn, nào là vấn đề sức khỏe, ba lần khám, qua được quân sự giai đoạn hai, sau cùng là khả năng thi đậu Anh ngữ. Với môn Anh ngữ, bạn phải đạt mức 90% về khả năng nghe , nói,  và hiểu lý thuyết bài học. Còn lại, bước cuối cùng là lên ngồi chiếc máy bay học lái với huấn luyện viên. Khi một khóa sinh sau chừng hơn mười giờ học bay, được thầy tin tưởng thả ra cho bay một mình, đây là phút thành bại của một người muốn theo đuổi nghiệp bay. Vì, không lấy nổi mảnh bằng Tú Tài toàn phần để vào học bên kỹ thuật, nên theo ngành phi hành với Thụy chỉ là mong thử thời vận. Nếu anh thực hiện được giấc mơ cùa một cánh chim bằng lướt gió, thì một tác phẩm chiến tranh của người phi công trong thời chiến anh sẽ viết ra được trọn vẹn bằng con tim mơ mộng và bằng những khát khao của sự suy tưởng.

            Từ quân trường Nha Trang, lần nào gởi thư cho gia đình, bạn bè, Thụy cũng đều có viết cho Thiên Nga đọc, và nàng luôn viết trả lời thư cho anh. Không có ai thay thế một người bạn thân thương và đồng cảm với nàng bằng Thụy. Và, qua Thụy, nàng gắn bó với Nguyên, yêu Nguyên nhiều hơn cả tình anh có với nàng. Với nàng, Thụy còn là một điều lý thú gợi ý cho nàng hương vị cuộc đời từ một ly cà phê thơm ngon, và nàng thật lãng mạn trong ánh mắt nhìn những sợi khói lãng đãng từ điếu thuốc gắn trên môi Thụy.

            Nguyên nói, trong nhà, anh thương nó nhất, và anh rất muốn em hiểu được tình cảm đó của anh.

-Em cũng rất là mến Thụy.

-Mỗi lần có thư em, chắc nó vui lắm.

-Thụy nói với em, ở Nha Trang, những ngày cuối tuần được phép xuất trại ra phố, lúc nào chàng cũng muốn tìm ra một cô Phượng ngoài đời, nhưng vẫn không thấy.

-Nó ít có bạn gái. Sự ước tưởng của nó luôn luôn mong tìm gặp người ngoài đời như là nhân vật trong tiểu thuyết.

-Đúng là tâm hồn của một nhà văn.

 

 

                                                             X

 

 

            Giáp có được mười ngày đi phép về thăm nhà ở Đà Nẵng. Về ngoài đó, anh có đến thăm trường Sao Mai, gặp cha Hiệu trưởng. Ngồi chuyện trò với cha, anh đọc thấy trên gương mặt một con người hiện thân ý Chúa đang có nỗi băn khoăn trước hiện tình đất nước. Trên mái tóc đã bạc nhiều, trông cha gầy yếu đi. Và trước khi từ giã anh học trò cũ, cha nói, năm tới cha sẽ thôi làm Hiệu trưởng và cha Huỳnh sẽ thay thế.

            Giáp có đem thư của Thụy gởi thăm gia đình Thúy Hà. Nhưng, anh chỉ gặp ông bà Kha, không gặp nàng. Thúy Hà đang ở Hội An.

            Hết những ngày phép, Giáp trở lại quân trường. Khi trở về, buổi trưa, Giáp tìm đến phòng ở của Thụy và cho anh một hộp kẹo gương. Cơm nước vừa xong, sẵn có nước trà trong bi đông, Thụy khui hộp kẹo mời Giáp và mấy bạn nằm gần ngồi ăn. Kêu gương mỏng dòn, có ướp chút gừng nữa nên ngọt thơm, uống với nước trà là đúng ý.

-Sao, ông bà cụ khỏe không ?

-Cũng khỏe.

-Đà Nẵng có chi thay đổi không, niên trưởng.

-Quán cà phê mọc đầy.

            Anh em cười vui vẻ. Một bạn dân Huế nói:

-Cả miền Trung, chỗ nào cũng mọc quán cà phê và nghe nhạc Trịnh Công Sơn.

            Một giọng nói nghe thật là nhẹ:

-Anh đó bây giờ đang sáng tác nhạc cho Việt Cộng hát.

            Giáp hỏi:

-Thi cử xong chưa ?

-Rồi, hết tuần này về Sài Gòn ?

-Niên trưởng sắp ra trường chưa ?

-Một tháng nữa.

            Trước ngày đi phép, Giáp cho Thụy biết anh đang ở giai đoạn hoàn bị của chương trình phi huấn. Đây là phần khó nhất, được chấm điểm rất kỹ để xác định khả năng tốt nghiệp. Trong phần này, khóa sinh thực tập các tác diễn: cất cánh và đáp với các độ cánh cản, triệt nâng có máy, triệt nâng không máy, nhào lộn số 8 chậm, chandelle, và hạ cánh bắt buộc. Từ phần này, khóa sinh phải bay với Huấn luyện viên mỗi ngày hai phi suất,  sáng và chiều, mỗi phi suất thời gian bay một tiếng ba mươi phút.

            Vừa mới kết thúc khóa học quân sự sau một tuần lễ thi khảo hạch các môn lý thuyết và thực hành nên lúc này khóa 69B được nghỉ không đến lớp, hàng ngày lo vệ sinh, tạp dịch doanh trại, thu xếp lại quân trang chờ ngày lên máy bay về Sài Gòn. Ngoài công việc đó ra, anh em có thì giờ nghỉ đi câu lạc bộ uống cà phê, đánh bóng bàn, bi da hay ngồi nhà tụ tập từng nhóm tán gẫu, phá phách. Khu trại của Liên đoàn sinh viên nằm trên một con đường rải đá, xa cổng chính lối chừng hai trăm mét. Từ hai ngày nay, có một chương trình phát thanh đặc biệt của Liên đoàn với các bản tin liên quan đến những khóa học của sinh viên. Những thông báo về tuyển mộ, sinh viên được du học, hay vừa tốt nghiệp được coi là tin mới nhất làm mọi người chú ý, và hẳn nhiên rất lấy làm phấn khích. Ở văn phòng , viên Đại úy rất bận rộn. Trên bàn ông làm việc, luôn có sẵn một gói thuốc Salem và ly cà phê đá. Anh em khóa 69 B đã làm ông rất hài lòng, đây là một khóa mẫu của ông. Với trách nhiệm và tâm tư của một vị Đoàn trưởng, ông rất có lòng. Kết quả kỳ thi giai đoạn II quân sự, có đến năm bạn bị thiếu điểm đáng rớt, nhưng ông đã đứng ra, nhân danh là Đoàn trưởng xin trường quân sự dành cho điểm vớt để số người này giảm thiểu được một thời gian ba tháng học lại, và sớm được học bay để trở thành hoa tiêu. Trong số người thiếu điểm này có Thụy. Tuy nhiên, xin vớt điểm là một chuyện, nhưng ông rất nghiêm khắc khi đưa ra những lời cảnh báo, phải gắng nghe lời ông học tập chuyên cần, chăm chỉ , đạt mục đích sau cùng là ra trường với đôi cánh bay gắn trên ngực áo.

            Uống hết ly trà, Giáp đứng dậy. Thụy tiễn chân bạn ra cửa phòng, xong quay lại. Hộp kẹo vẫn còn để trên tờ báo lót, Thụy mời các bạn ăn cho hết luôn.

-Hồi trước ông là bạn của niên trưởng Giáp hả.

-Ờ, bạn học cùng lớp.

-Vào năm nào ?

-Năm đảo chánh ông Diệm.

-Ủa, bạn học năm đó, sao giờ mới nhập ngũ.

            Thụy đáp:

-Tôi đi lính trước mấy bạn ba năm.

-Rồi sao bạn được đi học Sĩ quan ?

-Thì tôi có bằng Tú Tài I như mấy bạn ?

-Bạn mới thi đậu trong năm rồi.

-Không có đâu. Vừa mới nhập ngũ được mấy tháng, khóa thi hè năm 65, tôi đậu được Tú Tài I rồi.

-Có bằng, sao năm đó không xin học sĩ quan.

-Tôi muốn lấy nốt phần hai rồi tính chuyện.

-Lúc ở lính, bạn thuộc binh chủng nào.

-Dạ, Không quân.

            Mấy người kia à lên một tiếng, gật đầu hiểu ý của Thụy.

-Rồi, bạn xong phần II chưa ?

            Thụy lắc đầu, cảm thấy mình thất vọng. Anh nói:

-Ý định của tôi là đi Sĩ quan kỹ thuật, không phải là phi hành.

            Một người nhìn Thụy nói:

-Trông bạn lóng cóng, vụng về, trói gà cũng không chặt.

-Rồi sao nữa ?

            Người đối diện cười đùa nói:

-Bạn không hiểu ý tôi nói sao ?

-Không, Thụy đáp.

-Tôi cần nói điều thật không ?

-Bạn cứ nói.

-Bạn không lái máy bay được đâu ? Lên máy bay, bạn làm rớt máy bay liền.

            Có nhiều tiếng cười cùng giễu cợt. Thụy điềm nhiên hỏi:

-Vậy bạn cho biết tôi làm gì ?

            Với nụ cười tinh quái, anh ta nói:

-Bạn làm thơ được. Hai câu thơ bạn làm giữa nắng trưa, đọc nghe hay.

-Tôi không nhớ.

            Mỗi ngày một miếng bánh mì

            Với hai hớp sữa, còn gì cho em

            Thụy ngồi dựa lưng tường. Chung quang năm sáu người đang nghe chuyện, rồi thêm vài người tới nữa.

            Sau vài giây yên lặng, người kia hỏi:

-Sao tôi nhận xét vậy, bạn thấy đúng không ?

-Bạn nhận xét rất là đúng.

            Thụy đánh que diêm đốt điếu thuốc, một giọng bình thản anh tiếp lời:

-Lúc đi học, tôi có nhiều mặc cảm với bạn bè và cả thầy dạy nữa. Một đứa bạn cùng lớp, nó nhỏ con nhưng rất ngổ ngáo, lúc nào cũng kiếm chuyện gây gổ,  hay giấu sách vở tôi vào giờ ra chơi, nhưng tôi nhịn. Một bữa đó, tan lớp học chiều đi về cùng đường nhiều bạn, có nó nữa, nó vừa chọc ghẹo, vừa gây sự, lúc ấy, các bạn đi cùng xúi tôi đánh nhau với hắn. Lập tức, tôi dang tay ra thách thức, nó cười cợt, đứng nhìn tôi , rồi hai tay múa điệu võ quyền anh. Tôi chẳng cần võ, điên người từ lâu nay, tôi lao tới, và lúc đó hai đứa quần nhau. Khi nó tung cú đấm, tôi gạt được cánh tay, và không để chậm, tôi tống ngay vào mặt nó cú đấm tay trái, nó loạng choạng, tôi dồn tới đấm liên tiếp trong tiếng hò reo của lũ bạn, và cú cuối cùng, tôi đá một cú thẳng chân cho nó ngã xuống hố, và cơn điên giận của tôi kinh hoàng lắm, tôi nhấc một tảng đá nặng chừng hơn một ký, cũng may cho nó, các bạn  đứng ngoài đã can không cho tôi bổ xuống đầu nó. Thực với các ông, tâm hồn tôi là của kẻ sát nhân, nếu giết nó, tôi không ân hận chút nào cả. Đó là chuyện nhớ đời về một thằng bạn cùng lớp. Tôi xin kể tiếp chuyện mấy ông thầy. Một ông thầy dạy Sử ở lớp dưới trong lúc đang kể chuyện riêng của mình, chợt ngừng, hỏi ý kiến cả lớp điều ông vừa nói và cách hành xử là đúng hay sai, cả lớp im lặng, khi không tôi buột miệng khen ông làm đúng. Lập tức, ông cho tôi con zéro với lời gải thích là học trò khen thầy là vô phép, vô tắc. Khoảng bốn năm sau tôi được lên học lớp trên, vào một buổi học môn tiếng Pháp với ông giáo gia, vì tôi có chuyện xích mích với một bạn ngồi gần bàn, hai bên xì xào tiếng cãi vã và chửi nhau, đi ngang ông thầy nghe được, tưởng là tôi chửi ông, ông liền giáng xuống người tôi một trận đòn oan nghiệt, tôi thấm lắm. Năm học sau, một vị thầy trẻ dạy môn Lý Hóa nhìn thấy bản mặt tôi coi bộ làm ông không ưa, đang giảng bài, đột nhiên ông nói với cả lớp rằng, con người như tôi rất là tầm thường, học hành không ra gì , và năm nay tôi sẽ thi không đậu, tôi đánh cá là không thi đậu, và cũng sẽ không thể nào đủ sức lấy nổi cái bằng Tú Tài I để cầu may ra đi lính được Sĩ quan.

            Tôi không hề có một phản ứng nào với ba vị thầy trong ba sự kiện vừa kể trên với các bạn. Về sau, tình cờ tôi được biết tin, ông giáo già bị án sáu năm tù vì can tội hiếp dâm một cô học trò bạn học cùng lớp con gái của ông, còn ông thầy trẻ tử nạn vì do bác sĩ chích nhầm một lại thuốc trụ sinh.

-Còn ông thầy cho bạn zéro điểm.

-Tôi đang chờ.

            Không ngừng đến nửa giây, Thụy nói:

-Rồi cũng tới số.

            Những sợi khói thuốc bay lên trong một cảm giác đang phiêu bồng. Thụy cười nhẹ, nụ cười của anh như hiện ra một cái nốt ruồi.

            Một người trong đám bỗng hỏi:

-Ông có viết văn, phải không ? Kể ra, thơ truyện ông làm cũng được.

-Hút một điếu thuốc nghe bạn.

-Cứ tự nhiên, Thụy nói vừa đẩy nhẹ gói thuốc tới gần cho anh bạn.

            Chung quanh Thụy, có bạn ngồi trên giường, có bạn dưới sàn, bây giờ ai cũng chú ý đến mấy chuyện anh vừa nói.

            Một cái lon nhỏ được chế biến thành cái gạt tàn. Những bột tàn thuốc  mới rải mỏng một lớp mỏng dưới đáy lon.

-Trong khóa mình, có ai ghét bạn không ?

-Tôi không biết.

-Ai thân với bạn nhất ?

-Không có ai cả. Tôi cũng chẳng nghĩ hay bận tâm tới bạn nào hết. Tôi chỉ biết rằng đây là khóa 69B, tôi đang học cùng với các bạn một khóa.

-Chúng tôi là lính trẻ, còn bạn là lính già.

            Một vài anh thích chí, cười to lên.

            Thụy luôn nhìn vào làn khói thuốc khi nói:

-Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi. Kể ra, tuổi này chưa già. Nhưng giữa tôi và các bạn không cùng một tâm tưởng. Trong các bạn, đa phần là sinh viên, tuổi trẻ nhanh nhẹn và có học thức, các bạn sẽ trở thành phi công. Trong các bạn, ai cũng đang mong chờ ngày tung mây, lướt gió. Còn tôi, chỉ rất muốn cầu an lấy cuộc sống bình thường, không ước mơ danh vọng và sự toại nguyện.  Tôi cũng không là người gan dạ, hay trông lãng mạn, hào hùng độc đáo như các bạn.

-Hào hùng độc đáo, phải là oai phong như Đại úy Đoàn trưởng chứ bạn.

-Đại úy Hoàn là một Sĩ quan rất thế giá. Tôi hết sức quí trọng viên Đại úy.

-Cũng may cho bạn. Chứ lớ ngớ như bạn, mấy ông niên trưởng phạt bạn đến ngất ngư, chẳng đùa đâu.

-Bạn này cũng đã có áo giáp của niên trưởng Giáp.

-Ngôi trường cũ mà tôi và Giáp học, nhiều kỷ niệm đáng nhớ lắm.

-Ở thành phố nào bạn.

-Đà Nẵng. Ngôi trường ấy cảnh trí đẹp, trông ra công viên và bến Cảng.

            Thụy nuốt khói thuốc rất lâu. Anh đang trầm ngâm, chợt nghe một bạn khác hỏi:

-Sao hồi là lính, bạn không xin về báo Lý Tưởng.

-Tôi có làm ở đó ít tháng trước khi học chuyên môn.

-Bạn học gì trong ngành chuyên môn ?

-Tôi học ngành điều không ?

-Ngành này về phi hành mà ?

-Không, hành quân dưới đất, liên lạc máy bay trên trời.

-Bạn viết văn đã lâu chưa ?

-Tôi đi theo nghề này được bốn năm rồi.

-Vẫn tiếp tục.

-Bạn nói đúng. Tôi theo nghề này để kiếm sống, chứ không để có được tiếng nhà văn.

-Bạn kiếm sống bằng nghề này sao ?

-Tôi viết truyện cho nhật báo và tuần báo. Khi đăng, họ trả tiền nhuận bút hẳn hoi.

-Họ không trả thì sao ?

-Tôi viết thư nếu ở xa, còn ở Sài Gòn đến tòa soạn đòi.

-Rồi họ có trả không ?

-Bắt buộc phải trả. Tôi nói với cả Chủ bút và Chủ  nhiệm không đăng thì thôi, đăng là trả tiền.

-Nhưng họ không trả, bạn làm gì được họ.

-Tôi là một người giỏi chịu đựng, kiên trì và quyết liệt. Ở miền Nam, hành nghề báo chí phải theo chính sách và luật pháp.

            Một bạn trong đám ngồi quanh vươn người tới đưa tay ra cho Thụy bắt. Anh ta nói:

-Bạn, như vậy là được. Tôi chịu.

-Đến lúc này, bạn thấy rằng tôi thuộc về lẽ phải, đúng không.

            Với giọng thân tình, Thụy kể cho các bạn ngồi quanh nghe những ngày anh ở miền Trung vào Sài Gòn, tâm trạng chán nản, tuyệt vọng, bỗng nhiên có ý định viết văn, anh viết truyện ngắn đầu tay, và được đăng ở một tờ tuần báo.

-Ông Chủ bút có khen bạn không ?

            Ông chỉ nói:

-Tôi viết được. Có triển vọng tương lai.

            Có một giọng vui phát biểu:

-Khóa 69B chúng ta có một văn sĩ.

-Một thi sĩ nữa.

            Thụy đáp lời:

-Tôi học hành dang dở, thất bại. Nhưng, duyên may tôi được ông trời cho cái năng khiếu viết văn. Không trốn quân dịch được tôi đi lính. Đi lính, tôi cũng tiếp tục nghề văn, và đề tài là người lính không chỉ là với lính không quân, mà còn nhiều người lính trong binh chủng khác. Các bạn không biết đấy, là hiệu thính viên điều không, tôi đã từng mang máy đi theo nhiều cuộc hành quân với Sư đoàn dù, Sư đoàn thủy quân lục chiến và cả với các Trung đoàn bộ binh. Những gì trong chiến tranh tôi quan sát và cảm xúc, tôi đều viết ra được hết. Tôi có một người thầy dạy tôi cách viết văn, và cách nói về đề tài chiến tranh là nhà văn Mỹ Ernest Hemingway.

-Ông đọc được truyện bằng tiếng Anh ?

-Làm gì, tôi đọc truyện dịch. Sách dịch truyện ngoại quốc, nhiều lắm.

-Nếu là phi công, bạn có viết về nghề bay không ?

-Thật là ước mong được nói ra với các bạn điều này.

            Thụy bỗng lặng im.

-Bạn nói đi chứ.

            Thụy rút trong bao thuốc ra một điếu , ngay lúc đó, một que diêm bật cháy sáng lên để anh mồi. Một người lên tiếng:

-Tại sao lúc này trời không đổ mưa nhỉ.

-Và, cũng thiếu cà phê.

-Chút nữa, tôi mua một ly đãi ông văn sĩ này.

-Bạn nói đi chứ.

-Tôi ước mong được là người phi công. Không phải, mình sẽ tạo ra cái dáng đẹp của người hiệp sĩ không trung qua cách đội chiếc nón nón kao lô, mặc bộ đồ bay, đeo bông mai vàng nở, và thỏa chí tang bồng lướt gió tung mây, hay thật lả lướt với những điệu nhảy  mê hồn với những nàng kiều nữ xinh đẹp. Không, đó chỉ là hình thức. Ước muốn của tôi là hình thành nghiệp bay như tạo nên được tác phẩm giá trị dành cho những người phi công trong thời chiến.

            Thụy đang sắp đặt những lời, những ý của nhiều chuyện nhỏ liên kết với nhau để trình bày thành một ý tưởng tổng thể và có sự trung thực, bỗng anh ngước mắt nhìn về dãy cuối phòng, nơi ấy nhẹ khơi lên âm thanh tiếng đàn tây ban cầm xao xuyến như cơn mưa.

-Tiếp lời đi bạn.

-Tôi vừa nghe điệu nhạc rất quen.

-Bạn cũng thích âm nhạc.

-Bạn có biết bản nhạc gì đó không ?

-Không biết được.

-Bản nhạc của Francis Lai trong phim Le passager de la pluie.

-Tay này có trí nhớ nhỉ.

            Những nốt nhạc sau cùng của tiếng đàn nhỏ dần. Lúc đang nghe, Thụy nhớ khung cảnh một công viên trông ra bờ sông, chiếc xe buýt ngừng ở trạm và một người lữ hành đơn độc xuống  khỏi xe đi bộ dưới cơn mưa đến một căn nhà.

            Thụy bắt đầu vào chuyện:

-Ngày tôi học xong khóa tân binh, nhận được sự vụ lệnh về Không đoàn 33, trình diện ở liên đoàn tác chiến, sau mấy ngày làm thủ tục, tôi và một bạn nữa được gởi đến phục vụ trong phi đoàn 217 trực thăng. Tôi làm việc tại đây với chức vụ thư ký hành quân, mỗi ngày lên ca, buổi sáng hỏi tin tức khí tượng, làm trang mới trong cuốn sổ bay hàng ngày, trực điện thoại hành quân khi sĩ quan trực vắng mặt, và nhật tu quân số phi đoàn khiển dụng, bất khiển dụng, đi phép, công tác hay dưỡng sức. Ngày cuối tháng, thêm một công việc là làm tính cộng về số giờ bay của mỗi phi công. Những việc linh tinh này không đòi hỏi chuyên môn hay khả năng, và thời gian xong mỗi việc chừng năm, mười phút. Thế nhưng, trong ba tháng ở đơn vị này, tôi hiểu được giá trị của những người phi công. Khi người phi công cất cánh đưa phi cơ ra vùng mặt trận để thực hiện một phi vụ tiếp thế hay tản thương, đó là những giờ khắc của sự hiểm nghèo, vì phi cơ có thể bị  hỏng máy, bị súng lớn của địch bắn cháy, hay bị đạn lạc trong vùng giao tranh, nên sau một phi vụ, thấy người phi công trở về là biết họ sống sót. Ngày cũng như đêm, người phi công trong mỗi phi vụ, đều thấy rõ mối hiểm nghèo, thấy rõ sự đối diện với cái chết qua nhiều tình huống, nhưng dù vậy, họ vẫn luôn ý thức được trách nhiệm của mình. Ở phi đoàn, mỗi ngày lên công việc tại văn phòng,  khi nhìn ra cánh cửa thấy các phi công trở về an toàn sau một phi vụ trong ngày hay trong đêm, tôi nhìn họ với sự ngưỡng mộ. Một lần đó, viên sĩ quan trực cho tôi đi theo một phi vụ tản thương ở ngoài tiền đồn Hậu Nghĩa. Khi phi cơ mới xa khuất đèn điện thành phố Sài Gòn, bóng đêm đã bao trùm cả một bầu trời, trong bóng đêm, chốc chốc tôi lại thấy lóe sáng lên từng ánh chớp của lằn đạn đang bay. Và, khi đến mục tiêu, tôi nhìn thấy rõ quang cảnh trận chiến, nghe tiếng nổ ầm ầm của trọng pháo, tiếng súng đạn đôi bên đang giao tranh. Từ độ cao, phi cơ xuống thấp, hạ cánh và bốc đi ngay được hai binh sĩ bị thương nặng đưa về tới bệnh viện Cộng hòa. Từ một chuyến bay đêm này, tôi ngửi thấy không khí chiến tranh. Và, trong cuộc chiến này, người phi công từ trên cao nhìn xuống, thấy rõ hơn hết. Với những ghi nhận trong một giới hạn, một góc cạnh tôi nói với bạn, tôi đã hình dung, ngưỡng mộ và rất cảm kích về cái hào hùng của những phi công làm tôn vinh giá trị cái đẹp của tuổi trẻ trong con người, nhưng ít, và cũng không thấy nữa một người nào trong số họ viết và lột tả những suy nghĩ lớn lao về chiến tranh để hình thành nên một tác phẩm.

-Vậy là chúng tôi đợi đến ông.

-Tôi đang chờ đợi và ước mong.

-Nhưng nếu bạn không thành Pilot thì sao ?

-Thì, tôi sẽ viết về tất cả các bạn.

            Thụy tiếp lời, với giọng nói như khẳng quyết.

-Tới ngày chúng ta học xong, ra trường đi đơn vị, sẽ đúng vào thời điểm cuộc chiến tranh ở miền Nam leo thang, và những ngày tháng ấy sẽ vô cùng khốc liệt.

-Có vẻ bạn là một nhà quân sử.

-Không đâu, tôi hơn tuổi các bạn trong chiến tranh. Có ai, ngờ được rằng Hà Nội đã dám tung trọn quân miền Bắc vào đánh chiếm hết các tỉnh miền Nam. Vậy mà, năm Mậu Thân đã xảy ra.

            Một người dáng cao, vẻ mặt khắc khổ, từ giường bên kia lên tiếng:

-Bạn nhận định tình hình rất đúng.

            Vài bạn ngồi trên sàn quay lưng nhìn anh ta. Tiếp lời:

-Tôi ở đơn vị BĐQ, làm Tiểu đội trưởng. Ở đơn vị Tiểu đoàn 21 của chúng tôi, đụng trận với bọn chính qui liên miên.

            Thụy và anh bạn cũng là Hạ sĩ quan đi học nêu lên những vấn đề chiến sự, đến lúc này, anh em trẻ hiểu được điều họ nói. Từ hôm vào quân trường đến nay, Thụy có mặc cảm nên ít muốn gần gũi, làm quen với những bạn trẻ tuổi hơn trong khóa. Lẽ đó, một số tưởng nghĩ anh là người khác thường, tuy chẳng lập dị, nhưng hầu như không mấy giống ai. Có cách đặt tên, có sự đùa cợt, trêu chọc, mỉa mai, với Thụy anh chẳng lấy làm giận dữ, hay thách thức. Anh là người đã quen với sự chịu đựng, vốn sống mỗi ngày trong đời anh là kinh nghiệm từ cái nhìn của mình thấy kẻ khác, và nơi kẻ khác, mỗi người anh liên hệ với những nhân vật hư cấu trong những cuốn tiểu thuyết mình đọc. Dù rằng, anh chưa phải là một nhà văn, nhưng anh thấy nhà văn là một giá trị phải được công nhận.

            Hôm nay, có lẽ Thụy làm các bạn trẻ hiểu mình và tin mình. Với lại, đang là những ngày cuối khóa học, trong anh em, có điều gì không phải với nhau cũng bỏ qua. Rồi đây, sớm hay muộn anh em cũng rời quân trường ra đơn vị, lúc ấy, ai cũng bỗng dưng cảm thấy nhớ đến nhau, và thật có tình nghĩa với nhau.

            Trong khói thuốc, ánh màu xanh ngả sang tím. Những làn khói chờn vờn, mỏng dần, vừa tan giữa vũng nắng. Mới lúc trưa, bạn Giáp đến thăm, từ lúc ấy đến giờ, lần đầu tiên Thụy mới thấy đông bạn hữu ở quanh mình.

 

 

                                                    XI

 

 

            Thụy cùng các bạn lên phi cơ rời Sài Gòn buổi chiều ngày thứ sáu trước lễ Noel một tuần. Trong anh em, người nào cũng được hai tuần nghỉ phép, sau đó tự động đến trại khóa sinh trình diện để bắt đầu khóa học.

            Chỉ có một số bạn gia đình ở miệt lục tỉnh mới thực sự đi phép về thăm nhà, còn hầu hết những anh em ngoài miền Trung, không mấy ai muốn về thăm quê lúc này, mà ở chơi Sài Gòn mua sắm và hưởng không khí mùa lễ Giáng Sinh cùng Tết dương lịch. Sài Gòn, thành phố này ai ở xa đến cũng đều muốn được vui chơi, thỏa thích với cảnh sinh hoạt xô bồ, náo nhiệt ở đô thị. Những ngày chơi phố, anh nào cũng chưng diện đồ vàng, cầu vai đeo alpha, đội nón cát két, có anh đội nón kao lô không gắn lon. Và, trong thời gian khóa 69B về Sài Gòn, viên Đại úy Đoàn trưởng cũng về theo nhân chuyến công tác ở Bộ Tư Lệnh. Anh em đều hay biết vị Đoàn trưởng có về,  lúc vào ngày thường, lúc thứ bảy chủ nhật ông hay chạy xe quanh những phố chính Sài Gòn, quan sát cách đi đứng của các SVSQ, và thấy bạn nào có dắt bồ dạo phố, ông hài lòng chấm điểm cho bạn đó bằng một nụ cười. Nhớ lại, sau lễ gắn alpha, ngày đầu tiên xuất phố ra Nha Trang, trọn một ngày đó, trên các ngả đường nơi nào SVSQ cũng thấy ông xuất hiện. Sự quan tâm của ông thể hiện một tinh thần trách nhiệm của cấp chỉ huy, nơi con người ông là sự liên đới từ tình cảm cá nhân đến đồng đội, và chính ông đã tạo cho lớp SVSQ khóa 69B một phong cách độc đáo, những bạn này nay đã có được cái phong thái lịch thiệp và tự tin.

            Ngày về lại Sài Gòn, Thụy khác nhiều. Những người thân bên ngoại, các cậu, các dì ai cũng thấy anh lạ hẳn, trông anh chững chạc, tư  cách qua quân phục, không còn xuềnh xoàng như trước đây nữa. Thực ra, Thụy biết mình vẫn vậy, chẳng qua quần áo mới được cấp phát, cắt may vừa vặn, mặc vào trông dễ coi. Tuy nhiên, những ngày nghỉ phép, anh mặc đồ dân sự cho tiện. Và, trước nhất, là anh đem  một số truyện ngắn, mỗi truyện chừng năm, sáu trang không dài lắm đến các tuần báo và nhật báo gởi đăng để kiếm tí tiền còm, mua sắm ít sách vở học, cần nhất một cái máy cassette để thu các bài giảng về nhà nghe. Học Anh ngữ đi Mỹ, cần nhất nghe và đàm thoại. Khả năng nghe là chính yếu, nếu bạn nghe không rõ, câu trả lời sẽ không đúng, có đúng, cũng là rùa. Khi Thụy đến tòa soạn Tiểu thuyết thứ năm, ông Chủ bút Thanh Thủy đã nghỉ việc, về miền Tây trở lại nghề dạy học, nay tạm thời việc bài vở do ông Quản nhiệm coi sóc . Ông Vượng là Quản nhiệm vẫn còn nhớ ra Thụy, và khuyến khích anh viết.  Hai tờ báo còn lại là Văn Nghệ Tiền Phong và Độc Lập cùng nằm trên đường Võ Tánh.

            Sau khi mang mấy truyện đến tòa báo xong, Thụy đến trường Hành Chánh tìm Lăng.

            Trường Hành Chánh nằm bên đường Trần Quốc Toản gần Viện Hóa Đạo, và đây là lần đầu Thụy tới, anh hỏi thăm các Sinh viên đứng ở ngoài, được biết lớp Lăng đang có giờ học nên Thụy đi ra ngoài cổng ghé vào quán cóc kiếm nước uống, ngồi đợi bạn.

            Không lâu lắm, hết giờ học, Thụy đi vào cổng đến chỗ bãi gởi xe, vừa lúc gặp Lăng. Hai đứa cùng ngạc nhiên. Rồi Thụy lên xe Honda ngồi sau, Lăng chở đến một quán ăn bình dân ở Nguyễn Tri Phương.

-Anh có tính về Huế không ?

-Không. Với lại thời gian phép cũng ít.

-Chừng nào anh nhập khóa học ?

-Sau Tết tây một ngày.

-Xong khóa Anh văn là đi Mỹ.

-Đúng vậy.

-Rồi thời gian học lái máy bay là bao lâu ?

-Cũng từ sáu đến tám tháng.

-Tính ra, học xong kết quả cũng mất gần hai năm.

-Có thể.

            Quán cơm nằm phía đầu, cạnh ngã tư. Trong lúc chờ , Thụy gọi một chai bia lớn và hai ly có đá. Người chạy bàn đem ly ra, và khui bia đổ vào ly.

-Nào, cụng ly một cái.

-Hút thuốc lá đi.

-Không hút được.

            Thụy uống một ngụm bia rồi đốt điếu thuốc.

-Học bổng của Lăng có khá không ?

-Cũng khá.

            Thụy nói:

-Tôi vẫn còn ăn lương cũ, ra trường, lúc đó đời mình mới khá hơn được.

            Nhìn Thụy, Lăng nói:

-Nếu biết việc thi cử không thành, hồi đó, xong Tú Tài anh đi ngay, giờ cũng ngon lành rồi.

-Ờ, mình cũng vụng tính. Như hồi đó, thay vì vào Không quân, mình đi Sĩ quan Bảo An, giờ được đồng hóa với Bộ Binh làm việc ở các Tiểu khu.

-Anh cũng quá lận đận.

            Bữa cơm phần dọn ra ba món mặn, một món canh. Trời chiều đã muộn, hai bạn cùng đói nên ăn ngon miệng.

            Thụy hỏi:

-Sang năm, Lăng ra trường chưa ?

            Lăng gật đầu, vừa giải thích:

-Ban Cao học, học hai năm thôi.

            Hết một chai, Thụy gọi một chai lớn nữa, người chạy bàn đem ra rót thêm vào hai cái ly lớn.

-Ông cho thêm ít đá.

-Có ngay.

            Nhìn Lăng Thụy hỏi:

-Có ai chưa ?

-Cũng có. Nhưng tôi chưa ý định gì cả.

-Có cho dì biết không ?

-Trời, me tôi, bà sốt ruột. Ở Huế, không biết là bao nhiêu đám đi làm mai. Không chỉ cho tôi, bà còn lo cho cả anh nữa.

-Tội, rất là thương dì.

            Bữa ăn xong, bên ngoài đèn đường sáng. Dọc theo con phố, những xe bán hàng rong, và các sạp quán vỉa hè bắt đầu hoạt động.

            Thụy nói:

-Tôi ở Không quân, có được chữ thọ, và cái mác bên ngoài thôi. Chứ nhìn tương lai, cũng chưa thấy màu hồng.

-Rồi đến sang năm, anh cũng ra trường.

-Tôi mới nghe tin mười người khóa trước đi học bay bị loại, lên đường về nước rồi.

-Trường hợp bị loại, họ cho học ngành gì.

-Không rõ, nhưng số đó phần nhiều bị đưa qua Thủ Đức.

            Lăng im lặng, không hỏi gì thêm trong ý tưởng bi quan của Thụy.

-Bác đang ở đây, hay đi công tác ?

-Bác ra Huế rồi.

-Anh về có gặp không ?

-Không. Hình như, bác tìm mua nhà trong này.

-Bác có thư cho anh ?

-Bác bàn chuyện với dì Hồng. Có căn nhà dưới Thị Nghè bác tính mua.

-Ở ngoài quê không còn ai, nên chi phải có cơ sở tại đây để phòng chiến tranh.

-Tôi cũng nghĩ như Lăng vậy.

            Hút xong điếu thuốc, Thụy nhìn đồng hồ tường.

-Anh đang ở nhà ai ?

-Nhà  dì Hồng.

            Thụy gọi người chạy bàn đến trả tiền. Lúc đợi lấy tiền thối, Thụy nói:

-Tôi có mấy truyện ngắn vừa gởi đi, chắc trong tuần này đăng tôi có được ít nhuận bút.

-Anh không gởi truyện cho Văn

-Sức mình chưa đủ. Cứ theo dạng này, mình kiếm được ít tiền tiêu vặt.

            Hai người rời quán ra xe. Về tới nhà dì Hồng, Lăng còn ở chơi chuyện trò đến mười giờ khuya mới về. Lúc này, Lăng đang ở nhà cậu Nghiêm. Khi được giải ngũ  ra ngoài dân sự ,  cậu đi làm Luật sư, cuộc sống thật dễ chịu, thoải mái. Nhiều vụ án, cậu phải đi xuống miền Tây và các tỉnh xa.

            Những ngày nghỉ phép vẫn thong dong. Từ hôm về lại Sài Gòn, Thụy chỉ có đi chơi với Lăng, ghé tới nhà mấy người bạn cũ là lưu học sinh trong những năm học ở Đà Lạt.

            Một hôm Thụy tìm đến nhà Khánh, lại gặp Phượng. Cô vẫn nhận ra anh, lên tiếng hỏi:

-Lâu nay anh đi đâu?

-Anh đi học ngoài Nha Trang mới về ?

-Anh vào nhà ngồi chơi đợi anh Khánh.

-Anh Khánh vẫn làm việc ở hãng cũ ?

-Ủa, anh Khánh đi lính rồi, anh không hay à.

-Không, lâu chưa ?

-Bây giờ anh làm việc ở Biệt Khu Thủ Đô.

-Khánh được Ở Sài Gòn là hay lắm.

-Anh ra Nha Trang học gì ?

-Anh đi bên Không quân.

-Anh có lái máy bay không ?

-Không, anh làm việc dưới đất.

            Nhìn Phượng, Thụy có thấy đổi thay và trên vẻ mặt cho một ý nghĩ nay Phượng đã có gia đình.

            Khánh về nhà, ngạc nhiên thấy Thụy đến. Gặp nhau vui mừng, Thụy ở nhà bạn ăn cơm, sau đó, hai đứa lại ra quán nước ở ngoài đường.

            Nhà Khánh vẫn ở đường Cô Giang. Khu phố này vẫn như xưa, không mấy thay đổi. Thiện, em của Khánh, năm đó học Đệ Tứ và Khánh đã có ý bảo Thụy đến dạy kèm nhưng rồi anh đi lính.

            Thụy nói:

-Tao định viết thư cho mày, nhưng quên địa chỉ.

-Mầy tính sao có lợi cho mầy thì làm.

-Biết vậy rồi. Nhưng sợ mầy trông.

-Tao có ý đợi, nhưng nghĩ chắc mầy xin được việc.

-Thực ra, tao có làm việc ở tòa báo mấy tháng rồi đi lính.

            Ngồi ở quán nước bên đường, trong bóng ánh đèn điện, gương mặt hai bạn trông khác xưa nhiều.

-Mầy đi khóa mấy ?

-9/68.

-Đến chừng nào lên Thiếu úy ?

-Còn  bốn tháng nữa.

-Mày, sao ?

-Tao đi lính Không Quân một thời gian, giờ được cho đi học Sĩ quan hoa tiêu.

-Vậy mầy được đi Mỹ.

-Chưa biết. Vì, tao đang còn chờ học một khóa Anh ngữ.

-Học ở trường sinh ngữ quân đội.

-Đúng.

            Thụy đốt điếu thuốc. Trong ý nghĩ riêng mình, anh cảm thấy Khánh là người bạn tốt, chân thực. Vào thời còn đi học, xa nhà làm học sinh ở chung gác trọ với nhau, lúc ấy, tình bạn của tuổi niên thiếu khác bây giờ. Khi đến tuổi trưởng thành, người ta mới có được ý nghĩ rằng cuộc sống hằng ngày cần được xây dựng từ trong hai ý niệm: thời gian và bằng hữu. Và, khi có được mối liên hệ căn bản này bạn sẽ thấy, cá nhân là của xã hội.

-Mầy có gặp mấy đứa không ?

-Chúng nó ở đây cả. Trừ tao ra, đứa nào cũng đã xong Đại Học.

-Mầy có đi học lại không ?

            Thụy kể vắn tắt về mình trong mấy năm qua. Khánh nói:

-Tao cũng muốn đi học cho xong, nhưng ít thì giờ quá.

-Ở giai đoạn này chiến tranh đang leo thang, mình có muốn cũng vô ích.

-Rồi sao, vợ còn gì chưa ?

-Chưa nên gì cả, làm sao tính chuyện đó được. Còn mày ?

            Khánh cười bảo:

-Tao cũng như mầy thôi.

-Không đâu, mầy quá dễ dàng.

-Mầy tin vậy sao ?

-Hoàn toàn. Nói đi, bà xã làm gì ?

-Bà làm việc ở ngân hàng.

-Lúc nãy vào nhà tao không thấy.

-Bà về bên nhà ngoại.

-Mấy mống rồi.

-Một.

-Phượng thì sao ?

-Mầy thương nó không ?

-Nếu tao được làm em mầy là nhất.

            Thụy và Khánh đứng dậy rời quán. Trở lại nhà Khánh, Thụy nói cho người bạn nghe về những ngày mới đây ở quân trường và ước vọng sẽ trở thành phi công của mình. Vừa nghe Thụy nói, Khánh đặt bàn tay trên vai bạn.

            Dừng lại bên ngoài lối đi vào con hẻm, Khánh nói:

-Thứ bảy, chủ nhật ra ngoài ghé tao chơi.

 

 

                                                   XII

 

 

            Trại khóa sinh Không quân còn có một cái tên thân quen là Tent City, tọa lạc trên một diện tích đất khá rộng, cổng gác nằm trên con đường phụ, rẽ phải là hướng đi Tân Sơn Nhất, rẽ trái , ra đến ngã ba con đường chính là thấy quận Gò Vấp. Từ ngã ba này, đi xuống phía Phú Nhuận là về Sài Gòn, đi ngược lên là đường tới Trung Tâm huấn luyện Quang Trung, đường này cũng sẽ gặp quốc lộ I đi Tây Ninh.

            Đây là một khu vực gồm nhiều dãy nhà kho tiếp liệu cũ của người Mỹ, sau khi đơn vị này rút đi, họ để lại những nền nhà trống, và BTL/KQ đã chọn địa điểm này làm nơi tập trung khóa sinh học Anh ngữ. Quân số khoảng gần một ngàn được chia ra một nửa học lớp buổi sáng, một nửa học lớp buổi chiều. Thành phần đông nhất của trại là SVSQ, hơn sáu trăm người.

            Hai dãy nhà lều đầu tiên trông ra phía cổng gác là nơi dành cho khóa 69B mới đến. Khóa này quá đông quân số nên được phân làm hai Đại Đội 701, 702. Sự phân chia này không chọn lựa, lấy thứ tự từ kết quả đậu cao thấp về khóa thi quân sự ở Nha Trang.

            Thụy thuộc Đại Đội 702, học lớp buổi chiều. Lúc sáng nay tập họp nghe nội qui, xong tan hàng về lều dọn chỗ ở, anh em người nào cũng vui vẻ, phấn khởi.

            Trong mỗi căn lều đã có sẵn giường sắt cá nhân và đèn điện. Về mặt sinh hoạt, trại có sân chơi bóng chuyền, câu lạc bộ , thư viện đọc sách báo và các quán ăn ở khu gia binh. Một nhà thầu lo chuyện cơm nước cho khóa sinh ngày hai buổi, ai muốn ăn, đóng trước tiền cơm tháng để nhận phiếu ăn. Giờ ăn rộng rãi trong ngày cho hai bữa trưa và chiều. Nếu không ăn cơm nhà thầu, tự do xuống khu gia binh. Ở nhà thầu, không cho ghi sổ, nhưng dưới khu gia binh, anh em được ghi có giới hạn.

            Khi đến lều nhận chỗ ở, Thụy chọn ngay giường đầu bên cửa lều. Một cái giá để đồ nhẹ, anh em cất ba lô, túi xách , còn sac marin nặng để ngay phía góc giường.

            Hai tuần qua nghỉ phép, Thụy mua được một ít thứ đồ cần dùng và sách học tiếng Anh. Anh cảm thấy phấn chấn, yêu đời, yêu thành phố và ước mong mình giữ được tuổi trẻ một cách hồn nhiên. Trong khoảng khắc đó, anh tự yêu lấy mình, cho rằng chỉ còn có mình hiểu được mình thôi. Nhưng rồi, anh nhận ra một sự vắng bóng lạ thường. Người con gái anh nhớ nhiều nhất là Huê. Nhưng Huê đang ở đâu, anh không biết. Anh hỏi Thúy, tìm đến nhà cũ, nhưng vẫn không có được tin. Một buổi chiều thứ bảy ngồi ở quán cà phê nhìn ra ngoài trời mưa, Thụy thấy nhớ đến Huê hơn lúc nào hết. Và ở Sài Gòn anh vẫn thấy nhớ Sài Gòn, nhớ đến Huê nữa, nàng cho anh cũng nhiều kỷ niệm, tình yêu vừa là em gái, Huê ở đâu ?, anh khát thèm được nghe giọng nói của Huê và những chuyện vui Huê kể.

            Trong cuộc sống nếu có sự trớ trêu như vậy là thường tình. Nhưng rồi, có hay là không vẫn chỉ lấy làm một. Một điều may mắn, là mấy truyện ngắn Thụy đem gởi cho các báo, truyện nào cũng được đăng, tiền  nhuận bút cả ba truyện anh nhận được đúng  hai ngàn. Với số tiền lương còn lại, cộng thêm tiền nhuận bút may mắn đến lúc cần, Thụy yên tâm để dành cho mình trong thời gian của khóa học.

            Tính ra số truyện Thụy viết từ bốn năm qua gom góp lại mà in sách cũng được hai ba tập, nhưng anh không thể in được, vì truyện anh viết mới là cảm xúc chưa có gì lấy là độc đáo, đặc sắc. Với lại, do cuộc sống khó khăn, khi viết anh nghĩ tới, tìm tới nơi báo nào đăng được để có tiền nhuận bút. Tuy nhiên, rồi cũng đến ngày, nghiệp văn là đời của Thụy. Lúc ấy, cuộc sống hàng ngày không thể thiếu cái phần thời gian quí giá dành cho công việc viết văn.

            Thiên Nga đang dạy học ở Quảng Trị, nơi quê hương nghèo khó của  Thụy. Và, nàng thấy hạnh phúc với việc dạy học, cùng với tình cảm êm dịu nàng có với thành phố, với người dân, nhất là với học sinh.

            Mỗi tuần, Thiên Nga chỉ dạy trong ba ngày. Với đồng lương lãnh được, quá đủ cho nàng trong các sinh hoạt thường nhật. Trong mấy ngày rảnh rỗi, Thiên Nga vẽ tranh, đề tài của nàng rất phong phú, tranh phong cảnh, tranh lụa, tranh tĩnh vật. Những bức tranh nàng vẽ, thể hiện cả tâm tính và thiên hướng của nàng. Nàng học được các bậc thầy hội họa trong cách dùng chất liệu màu, cách bố cục một bức tranh, nhất là thể hiện tinh thần bức tranh qua nét vẽ. Với nàng, hội họa không phải là bắt chước mà là sáng tạo. Sự sáng tạo cho thấy đời sống thực của con người qua mỗi cách diễn tả. Nga nhận ra sự  tự tin của mình khi đứng trước giá vẽ, và thấy, những nét vẽ mỗi ngày một sắc.

            Nếu không dùng vào thì giờ vẽ, nàng nghe nhạc qua những băng cassette. Trong nhiều cuốn băng nàng có sẵn và mua thêm sau này, nàng chọn lọc được nhiều bài hát nàng thích, rồi thu lại làm hai cuốn riêng. Hai cuốn này, nàng để dành những lúc bên Nguyên, hai người trong không khí ấm áp của ly cà phê, trong vòng tay ôm ấp, và hạnh phúc trong mỗi lời tự tình của bài hát.

            Nga đọc sách cũng khá nhiều. Với một năm học ở lớp Dự bị, kiến thức của Nga đã có phần mở rộng về hai mặt cảm xúc và suy tưởng. Trên kệ sách của nàng, có mấy cuốn truyện tiếng Pháp của Sagan, Balzac, Flaubert loại livre de poche. Nàng có mua một ít sách khảo luận văn học, và khá nhiều truyện dịch của tạp chí Văn xuất bản. Trong cuốn truyện Buồn Nôn của nhà văn Jean Paul Sartre, nàng rất thích câu cuối cùng của tác phẩm: Ngày mai, mưa sẽ rơi trên thành phố Bouville. Nàng đọc xong câu văn , im lặng ngồi rất lâu, và tưởng như nó là nguyên vẹn một ly cà phê đậm thật ngon để trước mặt nàng. Không đâu cô, đây là câu nói giã từ của chàng Roquentin khi rời bỏ thành phố này để đi lên Paris.

            Có một ít tuần báo, Nga thường hay mua đọc, sở thích là báo Kịch Ảnh. Ở Quảng Trị có đến bốn hiệu sách, hiệu nào cũng có nhiều sách và báo. Khi ghé vào hiệu sách, đứng ở quầy báo, Nga thường coi qua để chọn mua vài tờ đọc giải trí. Nếu tình cờ, trong mấy tuần báo này có đăng truyện của Thụy, Nga mừng vui, mua ngay. Trên đường về, nàng hình dung các chàng trai, những người lính, các cô gái, và không khí các quán cà phê trong thành phố, không khí chiến tranh, đó là những chi tiết,  bối cảnh rất quen thuộc trong nhiều truyện ngắn của Thụy. Nga và Thụy, hai người thật là tâm đắc, quí mến nhau với sự chân tình, trong sáng. Thiên Nga bỗng nhớ đến cát trắng ở làng quê nội của Thụy, nàng hay nghĩ, cát trắng thật là sạch sẽ.

            Nàng cũng hay trao đổi tâm tình thư với Thụy, cứ mỗi truyện Thụy viết, đọc xong, nàng viết thư cho anh nêu ra mấy nhận xét thẳng thắn, đề nghị một số chi tiết nên sửa đổi  hay làm sáng tỏ, và giọng nàng trong lá thư luôn thân tình, vừa dí dỏm. Với những lúc được đọc truyện ngắn của Thụy, rồi cứ đến những buổi dạy học ở các lớp về ba môn Họa, Văn và Địa lý, đó là những lúc hạnh phúc của nàng. Về Thụy, ở xa mỗi lần Thụy nhận được thư của Thiên Nga hay Thúy Hà là anh có một niềm vui, nhưng rồi sau đó lại buồn. Thúy Hà ơi, tình yêu ở nơi đâu mà cứ gây nỗi nhớ bâng khuâng, buồn bã, đơn độc để hai người cứ ở mãi một bên trời lận đận. Thiên Nga rất hồn nhiên, đẹp sáng trong nắng thu. Khi được đọc thư Thiên Nga, anh rất mến yêu nàng, thân quí và san sẻ bao nhiêu kỷ niệm của gia đình trong đó, và khi viết thư cho nàng hai điều anh lo ngại nhất là sợ nàng buồn ở một nơi chốn xa nhà, thứ hai, là công việc dạy học mới vào đời của nàng. Thế nhưng, nàng luôn cảm thấy hài lòng vì nàng được học sinh ham thích học môn nàng dạy và các em rất quí mến nàng. Đến cả đồng nghiệp, dù nàng không thân riêng một ai, bên nam cũng như nữ, nhưng họ rất quí trọng, lịch thiệp, không tỏ ra một điều gì gây cho nàng sự  dị nghị hay khó xử. Và, luôn luôn bên nàng có Nguyên.

            Trưa, đã tới giờ cơm. Những khóa sinh học lớp sáng đã về trại, tất cả cùng tấp luôn vào nhà ăn trước khi về lều nghỉ. Từ mười giờ, nhà thầu đã ra cơm, và những khay cơm đã dọn sẵn trên hai dãy bàn. Khi vào ăn mỗi người đưa phiếu cho người quản lý xong đến bàn nhận phần ăn. Những lớp học mới ra về hôm nay là khóa sinh đã ở đây trước, riêng khóa của Thụy ngày mai, hai Đại đội mới nhập trường.

            Vì giờ ăn đang đông nên Thụy lên thư viện ngồi đọc báo cho qua thì giờ. Báo Lý tưởng vẫn phát hành đều đặn hàng tháng. Anh Dương vẫn làm công việc Tổng thư ký tòa soạn. Trong tòa báo, nay có thêm một vài người mới. Hình như những người này là hạ sĩ quan đồng hóa. Từ ngày rời tòa soạn đến nay, Thụy không có gởi bài, với lại, anh có ý những bài ký và truyện sáng tác anh dành cho báo ngoài để kiếm ít tiền nhuận bút. Chẳng qua, có được thêm khỏan này đỡ với đồng lương, chứ tài năng của anh, chưa lấy gì là có tên tuổi. Và, Thụy cũng chẳng mong nghĩ tới những truyện của mình viết ra được đăng trên báo Văn hay Bách Khoa.

            Buổi chiều, anh em trong khóa đang từng nhóm vui chuyện, chơi cờ bỗng nghe có lệnh tập họp. Rất nhanh, từ các lều đi ra ngoài, họ tập trung mau chóng thành hàng như ở quân trường.

            Viên Trung úy hỏi:

-Anh nào là Trưởng khóa ?

            Trong hàng, một bạn bước ra.

-Kể từ nay, có gì anh liên lạc với tôi.

-Rõ.

            Sau đó, viên Trung úy giới thiệu tên và nói trách nhiệm của mình ở trại. Ông là người được Ban Giám đốc giao đảm trách về sinh hoạt nội vụ của khóa sinh.

-Các anh có biết tập họp làm gì khọng ?

-Không.

            Một nụ cười trên miệng và giọng vui, ông nói:

-Thấy các anh ở nhà buồn, đưa anh xuống Sài Gòn chơi.

            Một vài bạn vui giọng đáp lời.

-Hai tuần phép đi chơi nhiều rồi, Trung úy.

-Vậy giờ các anh muốn đi đâu ?

-Về lều nghỉ.

-Dễ thôi.

            Cứ tưởng không có gì, ông Trung úy sắp cho tan hàng. Nhưng rồi, một giọng nghiêm ông nói:

-Ngày mai các anh bắt đầu nhập học. Bây giờ tôi đưa các anh qua thăm trường, sau đó, các anh sẽ nhận sách mới để học. Xin các anh giữ trật tự khi đi, khi về, và nhất là trong khi thăm viếng đừng trò chuyện ồn ào.

            Viên Trung úy quay sang Trưởng khóa, bảo:

-Anh cho hàng quân di chuyển.

-Đàng trước, bước.

            Rất đều bước và tác phong như ở quân trường.

-Cho bắt bài hát.

            Tự động, trong hàng một quản ca bắt giọng. Tiếng hát cất lên, khúc Không Quân Hành Khúc rộn ràng trong nhịp bước hăng hái.

            Tới phía cổng, đoàn quân dừng lại. Viên Trung úy đến, ra hiệu cho người lính gác mở cổng cửa. Đoàn quân tiến qua khi cổng gác cất cao lên.

            Vào khu vực của trường mọi người yên lặng, nhất nhất theo sự hướng dẫn của viên Trung úy.

            Rồi đoàn sinh viên đứng ở ngoài sân trông ra phía cổng chính của trường Anh ngữ.

            Không đợi lâu, một viên Đại úy đảm trách phần học vụ xuất hiện, trước khi nghe lời ông phát biểu anh Trưởng khóa hô lệnh nghiêm nghỉ trình diện.

            Viên Đại úy hỏi:

-Các anh ở Nha Trang mới về phải không ?

-Phải.

            Viên Đại úy giới thiệu tên và trách vụ của mình. Sau đó, ông vào đề, khi ông nói, anh em im lặng lắng nghe và ghi nhớ những điều quan trọng.

            Sau hai mươi phút nói chuyện, viên Đại úy và cả viên Trung úy hướng dẫn sinh viên đi thăm  toàn cảnh bên ngoài và bên trong trường.

            Trường tọa lạc trên khu đất rộng, có nhiều bộ phận, mỗi bộ phận có một căn nhà riêng khá rộng. Lớp học là một dãy nhà đôi dài, mái ngói xi măng, thoáng mát có đến hơn hai mươi phòng . Trong số phòng học, có phòng thính thị, và phòng chiếu phim vừa giải trí là hai căn phòng vừa lớn, và tiện nghi.

            Lần lượt đến mỗi nơi, người thuyết minh là viên Đại úy. Ông là người Bắc, nói tiếng nghe ấm và rõ. Rồi sau khi tham quan các lớp, khóa sinh được gặp các nhân viên văn phòng và ban giảng huấn. Nhân viên văn phòng có ít người, còn bản giảng huấn đông hơn với một phần ba Việt Nam, hai phần ba là lính Mỹ. Những giảng viên người Mỹ, hầu hết là những anh binh nhì, hoặc hạ sĩ quan bị động viên nhưng người nào cũng đã tốt nghiệp ở Đại học chuyên về ngành giáo dục, và họ ở trong cơn quan viên trợ quân sự và văn hóa. Khi đi dạy, họ mặc đồ lính bốn túi,  mang súng M16. Giảng viên Việt Nam là các Sĩ quan từ cấp Chuẩn úy đến Trung úy. Những Sĩ quan này đều là thành phần sinh viên và tốt nghiệp Đại học ở ngoài. Về chuyên ngành Anh ngữ, họ được qua một lớp huấn luyên Anh ngữ ở trường Lackkland Hoa Kỳ.

            Trong lúc bên ngoài có thăm viếng, trong lớp học, các khóa sinh đang nghe giảng viên giảng bài.

            Thời gian thăm viếng một tiếng. Trước khi về, là một buổi phát sách học của nhà trường. Đây là loại sách dành cho lớp sơ cấp ghi số 1100 nằm trong bộ Americain English Course gồm 10 cuốn. Bốn cuốn sơ cấp, bốn cuốn trung cấp và hai cuốn cao cấp. Như lời viên Đại úy cho hay, mỗi cuốn thời gian học ba tuần, hết sơ cấp thi lên trung cấp, ở bậc trung cấp chia hai giai đoạn, và cuối giai đoạn 2 bậc trung cấp thi ra trường, khóa sinh được đủ điều kiên du học phải đạt được số điểm 80 ESL. Bài thi ra trường gồm có 120 câu, 80 câu nghe và trả lời, còn lại 40 câu viết.

            Sách được cấp phát rất là mới. Giấy cứng và trắng tinh, chữ rõ ràng,  mỗi bài từ bốn đến năm trang in, trong đó phần chính là đàm thoại, những câu hỏi, cách phát âm và sau hết là phần văn phạm.

            Kết thúc buổi thăm viếng trường, anh em theo viên Trung úy dẫn ra về. Khi trở lại cổng Liên đoàn, đoàn quân tự động tan hàng, giải tán.

            Ở phía sân bóng chuyền đang có người chơi và một số đứng xem. Giờ này, cũng là giờ ăn cơm chiều ai muốn ăn sớm thì vào ăn, trễ muộn cũng được.

            Thụy ngôi trên giường lật lại cuốn sách coi qua một lúc. Trong các lều, anh em tụ lại chơi cờ, domino, tán chuyện gẫu. Không có ai nói gì chuyện học Anh ngữ, những gì nghe được lúc nãy, giờ muốn tạm quên.

            Ở phía sân bóng chuyền, có tiếng vỗ tay. Từ giường nhìn ra sân, Thụy thấy quả bóng lên cao và có một người đang nhảy đập , nhưng bóng chạm lưới bật trở lại.

            Thụy cất sách đứng lên, ra ngoài dạo bước lấy không khí mát buổi chiều. Khi trở về, anh ghé vào hội quán ăn cơm. Giờ này, vẫn đông người ăn, ngồi rải rác các bàn. Hội quán khá rộng, nền xi măng, mái trần cao thoáng mát. Khi có chương trình học tập hay trình diễn văn nghệ thì toàn khóa sinh tập trung ở đây.

            Bây giờ, một ngày đã hết. Đêm xuống, đèn đường sáng lên. Trong các lều đèn cũng bật sáng, nhưng ánh sáng chỉ vừa đủ để chơi cờ, đọc sách, không tỏa rộng.

            Vào lúc này, có nhiều bạn viết thư cho gia đình. Thụy có ly cà phê, anh uống chậm đốt thuốc lá, nhớ tới những người thân quen. Thế nhưng, kỷ niệm về mỗi người trở nên rời rạc. Trong mùi vị cà phê và khói thuốc, anh chợt mong trời đổ cơn mưa. Nhưng, đêm nay, trời không có trăng sao. Những sợi khói không mềm, không ẩm ướt, và lúc này đúng là lúc Thụy ngẫm suy về cuộc đời.

            Trở về một buổi tối ấy, hai người đứng bên nhau dưới mái hiên nhìn ra quang cảnh những khu phố dưới cơn mưa, và nàng kể:

            Một buổi chiều chủ nhật, chàng tìm đến nhà nàng. Trong lúc đợi, chàng vẫn nghĩ đến lá thư của người bạn bỏ trên túi áo.

            Tiếng hát qua máy thu thanh nhỏ dần, rồi tắt. Một lúc sau, bóng nàng xuống cầu thang cùng với cặp mắt tìm kiếm.  Chàng  vừa trông thấy bóng nàng qua mái tóc thả bên vai, chiếc áo cánh ngắn tay lấm tấm hoa cải vàng.

            Cầu thang nhỏ hẹp, nàng đi chậm. Chàng hơi có cảm giác hồi hộp trong lúc chờ. Khi xuống đến nhà, nàng nhìn chàng vẻ bỡ ngỡ. Còn chàng, một tiếng sét bất ngờ như từ đôi mắt nhỏ bé kia vừa ném tới khiến chàng quyết định ngay tức khắc là vứt bỏ lá thư của người bạn gởi nhờ, không đưa nữa.

            Dù có sự ngạc nhiên, nhưng nàng cũng nhỏ nhẹ lên lên tiếng chào. Chàng vẫn là người khách lạ, gây cho nàng sự chú ý bằng dáng vẻ thanh nhã, đứng đắn, gương mặt hiền lành của một thư sinh. Rồi thêm ít bước nữa,  nàng chợt linh cảm về một sự việc mà dường như  đã đoán biết. Nàng  kéo nhẹ chiếc ghế, vừa nói câu mời khách. Họ chợt cùng mỉm cười, đưa mắt nhìn nhau.

-Cô đang học thi ?

-Không, nghe nhạc.

            Nàng luôn tỏ ra là cô gái dạn dĩ,  nhạy cảm. Khi thấy chàng nhìn vào đôi mắt mình, nàng hiểu ngay, rồi bằng dáng điệu nghiêng vai một chút , sau đó nàng lặng im để nguyên vẹn cả khuôn mặt sáng đẹp cho chàng  nhìn ngắm. Và từ   phút giây này, chàng trai không bối rối nữa,  cũng chẳng phải suy ngẫm tìm kiếm những lời hay ho để tán tỉnh, cặp mắt đa tình của chàng là cục nam châm hút ngay sắc đẹp cô gái rồi. Đến  cô gái, thì cũng biết mình  đã biết bị rơi bởi tiếng sét.

            Cậu bé em nàng bưng chiếc khay nhôm  ra để hai tách trà xuống bàn, nói một giọng mời rất lễ phép.

            Chàng xin phép uống nước. Nàng mỉm cười trong hương thơm từ nhan sắc tỏa ra, phảng phất. Bây giờ gần nhau, chàng được nhìn thấy nàng sáng đẹp lên một khuôn mặt,  dịu dàng màu ánh mắt ,  những nụ cười đậu quanh vòng cổ trắng nõn, hai cánh tay đầy đặn và mái tóc mượt mà vắt bên vai áo.

            Những câu hỏi đáp, bắt đầu quay vòng giống như ba chiếc kim đồng hồ cùng di chuyển theo một chiều thật nhẹ nhàng, từ tốn, đến một lúc, bỗng nhiên tiếng nói nhỏ dần tưởng  chỉ còn nghe qua hơi thở.

             Nhà vắng, mọi người đi đâu chỉ còn hai chị em. Chàng ngồi đợi , tay cầm tách trà lên uống từng hớp nhỏ. Chàng cảm thấy vui cho hạnh phúc của mình, vì được gặp cô gái của người bạn mà anh ta đã nhờ  đưa thư.

-Em học lớp mấy ?

            Cậu bé đáp ngay.

-Dạ Đệ Lục.

-Em học ở Phan Châu Trinh.

-Dạ không, trường Sao Mai. Chị em cũng học ở đó.

            Khi nghe tiếng bước chân xuống cầu thang, chàng ngừng chuyện hướng mắt nhìn bóng dáng nàng. Chiếc áo dài trắng, mái tóc xõa vai, nụ cười trên cặp nhỏ bé, cặp môi còn tươi đỏ, chừng đó, chàng trai đã nhìn thấy cái sắc đẹp mê hồn của một thiếu nữ. Chàng đứng lên nhìn nàng tới gần, và lúc đó chàng bỗng khát thèm muốn được ôm hôn nàng. Rồi chỉ trong một phút lâu, đôi mắt hai người cùng lặng im ngừng đập nhịp thở.

            Nàng quay đầu, nói với cậu bé:

-Em coi nhà nghe.

-Dạ.

            Ra bên ngoài cả hai cùng dừng bước. Nàng hỏi:

-Đi đâu anh ?

-Tùy em.

            Trời về chiều, sức nóng dịu dần. Hai người đi bộ hướng lên khu công viên. Ở nơi đó,  phía trước là bến Cảng với nhiều quán nước nằm rải theo con đường dọc bờ sông, còn đằng sau một  ngôi trường học đã đóng cổng cửa vì lúc này đang là mùa hè.

-Năm nay em không thi cử sao ?

-Năm tới mới bắt đầu.

            Nàng là một cô gái đẹp, nhẹ nhàng với từng bước đi. Chàng trai mặc chiếc áo sơ mi  kẽ sọc, tóc chải rẽ, giọng nói hơi kéo dài nhưng dễ nghe. Trước mắt hai người, quang cảnh khu công viên mở rộng. Gió, lá rụng, màu cỏ xanh tươi, sóng nước vỗ lên bờ đá, tiếng còi tàu trỗi dậy một âm vang bồi hồi bỗng chìm lặng trong  tiếng cười nói ồn vui của nhiều người đang dạo chơi.

            Nàng rất thẩm ý, cười một mình  khi nghĩ đến sự tinh quái, liều lĩnh của chàng trai.

-Em có đi học cours hè không ?

-Không, hè muốn nghỉ chơi cho đã.

-Em nên học chuẩn bị cho năm tới.

-Anh dạy cho em đi.

-Sẵn sàng.

            Nàng để yên bàn tay cho chàng nắm. Hai người đi vào khu công viên. Ngày chủ nhật thật vui. Người ta đi dạo loanh quanh, những chiếc ghế đá bỏ trống nhiều. Ở các quán nước có đông thủy thủ, họ đang đùa giỡn, la hét.

            Hai người đi sâu đến chỗ gần bờ sông. Ngồi xuống chiếc ghế đá để nghỉ, chàng cầm tay nàng vuốt ve, cặp mắt âu yếm nhìn lên gương mặt người yêu.

-Em đẹp quá. Tâm hồn anh...

-Như mây bay...

-Như..., được thấy em trong lòng anh.

            Nàng vui cười, rồi bảo chàng.

-Anh gọi đứa nhỏ đem nước uống đi.

-Để anh đi.

-Không, anh ngồi đây, em còn hỏi anh.

            Nói xong, nàng làm bộ vẻ mặt nghiêm. Chàng trai tự dưng hơi bối rối.

-Anh gọi đứa nhỏ lại đi.

            Chàng đứng lên. Ở đằng quán, thằng bé trông thấy chàng ngoắc tay vội chạy đến.

-Cô chú gọi.

-Em uống gì ?

-Nước cam tươi.

-Một cà phê đá, một cam tươi.

            Thằng bé chạy đi ngay. Nàng nhìn qua chàng, giọng lạnh lùng hỏi:

-Thư của em đâu ?

-Làm gì có thư.

-Đừng tưởng em không biết. Thư đâu, lấy ra.

-Không có. Mà có, anh cũng xé ngay.

            Nàng cười, nhanh tay giựt lá thư chàng cất trên túi. Nàng nhìn phong bì, nói:

-Đúng là thư của Khoa gởi cho em mà anh không đưa.

            Chàng cười sung sướng, mãn nguyện.

-Em đẹp quá. Anh chết ngay lúc mới gặp em, còn đưa thư từ gì nữa.

-Trông mặt anh hiền, mà cũng tinh quái, liều lĩnh ha.

-Có vậy, em mới không chạy trốn được anh.

            Nàng bỏ lại lá thư trong túi áo của chàng.

-Em cứ mở ra đọc đi.

-Không.

            Hai người nhìn thằng bé mang thức uống tới. Lúc nó tới gần, chàng đứng dậy lấy ly nước cam tươi đưa cho nàng.

-Đem cho chú chiếc ghế nhỏ.

-Dạ.

            Nước cam vàng rợi, đầy ly, dậy mùi thơm. Nàng hỏi:

-Anh về nghỉ hè lâu không ?

-Chắc là cuối tháng anh trở ra Huế.

            Nàng hỏi:

-Có  em khác  ngoài đó nữa.

-Không. Anh phải ra thi khóa II. Khóa I, chắc là  rớt.

-Anh học ở Luật ?

-Không. Bên Khoa Học.

-Anh sắp xong chưa ?

-Anh mới học năm thứ nhất.

            Khi thằng bé mang chiếc ghế nhỏ tới, chàng trả tiền nước và cho thêm mấy đồng.

            Nàng vẫn cầm ly nước cam trên tay, ngậm ống hút uống từng ngụm nhỏ. Chàng đặt ly cà phê lên ghế, tìm gói thuốc ở túi quần lấy một điếu.

            Nàng ngồi im, mắt như vẫn cười nghĩ tới điều gì đó. Anh lửa que diêm cháy sáng, rồi điếu thuốc được đốt, những hơi khói đầy trong cổ họng chàng thở nhẹ ra bay lơ lửng. Phía ngoài Cảng, nhiều con tàu neo đậu và có đông thủy thủ đứng trên boong. Nắng buông xuống, tràn  đầy trên dòng sông.

-Ở Huế, anh thuê trọ hay ở nhà quen.

-Anh ở chung với Khoa.

            Chàng đáp lời ngay. Nàng nhìn qua gương mặt chàng dò xét.

-Anh Khoa là bạn thân với anh ?

-Anh có nhiều bạn, nhưng không thân với ai cả.

            Chàng đang thưởng thức điếu thuốc ngon miệng. Lúc này, nàng đâm ra nghĩ ngợi. Nhưng, thực sự nàng chẳng phân vân, thắc mắc gì nhiều. Tình yêu, luôn có những lý lẻ riêng của nó.

            Hai người rời công viên, đón xe xuống phố. Chiếc xích lô thong thả chạy trên con đường dọc bờ sông. Dòng sông rộng, nước sông mênh mang với những đợt sóng nổi chìm. Ngồi chung xe, sự tiếp xúc trong yên lặng đã làm nàng muốn giấu đi nỗi e thẹn của mình, còn chàng cảm thấy mình như bị đè nén.

            Vào đầu ngã tư phố chính, xe ngừng, hai người xuống. Chàng trả tiền xe xong, cùng nàng đi dạo phố.

            Nắng tắt, thành phố xuống trong nỗi buồn yên lặng như sắp sửa rời xa. Hai người đi trên con đường lớn dẫn tới một rạp chiếu bóng. Cuốn phim Mirage de la vie đã chiếu từ  đầu tuần, hôm nay có thể là ngày chót.

            Hai người vào lối cửa lên balcon. Nàng rất vui, những ngón tay êm ái đan vào trong tay chàng. Rạp hát sáng đèn, âm thanh tràn kín nổi chìm theo điệu nhạc trong tiếng đàn.

            Chàng dắt nàng đến dãy ghế cuối, và lấy hai ghế ngoài. Ở tầng trên, không có đông khán giả bằng ở phía dưới. Lần đầu tiên nàng đi với một chàng trai vào rạp hát. Lòng rất vui, vì nàng được gặp một người yêu thật vừa ý mình. Chàng trai khá dễ thương, khuôn mặt hiền lành, và cặp mắt  ngây thơ vừa đa tình.  Giọng nói của chàng nhỏ nhẹ như con gái. Rạp hát là nơi tìm thấy hạnh phúc chân thực. Chàng và nàng quá hiểu nhau nên không cảm thấy bồn chồn chờ đợi buổi chiếu phim bắt đầu.

            Nơi mái tóc, gương mặt và toàn thân nàng tỏa ra hương thơm ngây ngất. Bàn tay nàng vẫn nằm yên trong tay chàng, một lúc sau chàng kéo nàng lại gần mình. Bên nhau, là một ngày mai.

            Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng. Những ngọn đèn sáng trong rạp hát vụt tắt. Tự dưng, cả chàng và nàng nôn nao, nghe bồn chồn bởi nhịp đập đang dồn nhanh. Phim thời sự được chiếu trước. Hình ảnh đô thị Sài Gòn hiện lên trong màu sáng của phim đen trắng. Tiếng người xướng ngôn viên nói nhanh. Quanh những hàng ghế, bỗng có tiếng ồn ào bàn tán về biến cố Phật Giáo.

            Qua một cánh đồng, bóng dáng một người đàn ông đang phi ngựa thật nhanh. Bên kia ngọn đồi là một thị trấn, những ngôi nhà tường vôi hồng nằm bên con đường. Người đàn ông dừng ngựa lại đưa mắt nhìn quanh. Đây chỉ là đọan phim quảng cáo, phim chính chưa bắt đầu.

            Nàng nghiêng đầu tựa  vai chàng. Thật âu yếm, bàn tay chàng mềm mại vuốt mái tóc nàng rồi cúi hôn nhẹ xuống vai . Hai người hạnh phúc qua tiếng nói rất nhỏ. Trên màn ảnh, bây giờ phim chính bắt đầu.

            Không khí trong rạp hát lặng im. Chàng cúi mắt xuống nhìn si dại gương mặt người yêu, rồi trải cánh tay lên thành ghế. Nàng ngả đầu , và để mặc cho mái tóc xõa tràn. Nàng im hơi trong tiếng thở nhẹ, rồi nhắm mắt. Khi chàng cúi mặt xuống, nàng hé môi. Chàng hôn nhẹ, rồi từ từ nuốt từng nụ hôn thật chậm. Chàng hôn thật lâu, dịu dàng, mê say, nàng vẫn khép mắt không muốn mở ra nhìn chàng, mỗi một giây ngừng thở, nàng lịm ngất đi.

            Khi chàng ngừng hôn, nàng mới mở mắt. Không có ai ngồi những hàng ghế quanh đó để mắt chú ý đến chàng và nàng. Trên màn ảnh, cảnh phim di chuyển lúc chậm, lúc nhanh. Có một cô bé đứng bên  cửa kính nhìn thấy người đàn ông đang ôm hôn người mẹ mình. Và hình ảnh cuốn phim như là những tiếng động, những tiếng đều bước kéo theo sau một đời sống bình thường. Có lúc, người ta đứng lại chờ mong ai đó cất lên tiếng gọi.

            Bên ngoài, buổi chiều đã tan vào bóng tối, thành phố vừa lên đèn. Cuốn phim đột nhiên kết thúc với bài thánh ca vang vọng, sâu thẳm. Tiếng hát nghe nặng nề, xót xa, và mọi người cảm nhận nỗi buồn thảm. Bỗng dưng nàng lo sợ, nhưng sau đó, biết có chàng ở bên mình. Rồi từng hàng ghế khán giả đứng dậy, yên lặng đi từng bước chậm hướng ra cửa chính.

            Ai cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi ra ngoài. Trời đêm có gió mát. Lúc này thì giờ còn sớm nên cảnh sinh họat trên các ngả đường vẫn nhộn nhịp, đông người đi và xe cộ qua lại. Đà Nẵng là thành phố lớn thứ nhì của miền Nam sau Sài Gòn. Thành phố có con sông lớn, bến cảng rộng, buôn bán sầm uất, trước đây có nhiều vũ trường, quán rượu mở cửa đến khuya. Ở thành phố này, người ta chú ý vào cuộc sống hiện tại, khác với Huế mang vẻ trầm lặng muôn thuở, nhưng lúc này đây biến cố Phật Giáo đang sôi sục những ngày đấu tranh khốc liệt.

            Chàng và nàng đi trên phố chính rồi ghé tiệm ăn Hưng Viên. Chỉ mới quen nhau vừa trọn một buổi chiều, mà giờ đây, bạn đã nhìn thấy họ như đôi vợ chồng từ một nơi xa đến cùng chờ đợi chuyến tàu ngày mai. Bạn thấy họ rất tự nhiên, sự bối rối đôi lúc là một cử chỉ nhỏ khiến họ phải tìm một chữ, một tiếng cho chính xác hơn. Chàng và nàng vui chuyện, mỗi câu nói có thể tạo nên hình ảnh một trận đấu với nhiều cú đập bóng thật tuyệt vời.

            Tiệm ăn sang trọng, bàn ghế sạch sẽ, đèn treo sáng sủa. Phía ngoài, gần cửa vào có đông thực khách ăn. Chàng đưa nàng đi vào các dãy bàn đặt ở phía trong, tối hơn, nhưng có được riêng tư, ấm cúng.

            Hai người kéo ghế ngồi đối diện. Cái nhìn nhau lúc này quá hạnh phúc, mãn nguyện. Em sẽ là vợ của anh, đôi mắt nàng vui lên muốn nói cho chàng hay điều này. Còn chàng, vẫn muốn tôn trọng nàng, coi nàng là một người tình diễm phúc.

            Người đàn ông tới mang hai tấm bảng menu đặt xuống bàn.

-Em chọn món ăn đi.

            Nàng mỉm cười nhìn thấy niềm vui trên gương mặt chàng. Nàng mở menu, bình tỉnh chọn vài món ăn và đọc cho người chạy bàn ghi.

-Nước uống, ông ta hỏi nàng.

-Cho tôi ly trà đá.

-Cho tôi một chai bia 33 lớn.

            Người đàn ông bỏ đi, dáng bước vội. Chàng hỏi:

-Năm tới, em chọn học ban nào ?

-Ban A.

-Thời gian hè còn lâu, em nên đi học thêm.

            Nàng cười bảo:

-Anh dạy cho em.

            Chàng cười nói:

-Anh dạy, chắc em không học được đâu .

-Sao mà không.

-Có người yêu kèm, không cô gái nào học được cả.

            Nàng bật cười hơi lớn tiếng, vội lấy khăn tay che miệng.

            Bữa ăn được người hầu bàn lúc nãy mang ra. Ông ta để cẩn thận từng món ăn xuống bàn. Cơm và thức ăn đều nóng, bốc khói.

            Nàng lấy muỗng đũa,  giấy khăn lau đưa qua cho chàng . Nàng đang làm bổn phận người vợ săn sóc chồng. Chàng có vẻ lơ đãng, mắt nhìn về chiếc đồng treo tường. Chiếc đồng có ba chiếc kim đều màu vàng.

-An đi anh, nàng nhắc.

            Chàng rót bia đầy ly. Nước bia sủi bọt muốn trào ra ngòai. Nàng vắt múi chanh vào ly trà, uống một hớp đầy trước khi ăn.

            Sự yên lặng thật từ tốn để cho hai người vui trong bữa ăn. Chàng nói:

-Anh học ở Sao Mai ba năm, vậy mà chẳng hề biết em.

-Em mới bắt đầu học năm ngoái.

-Rồi những năm trước em học ở đâu ?

-Em học ở Quảng Trị. Em ở ngoài đó một mình với người bác ?

-Còn gia đình ở đâu ?

-Gia đình em vào trong này trước mấy năm.

-Sao em không vào luôn ?

-Bác em không có con cái nên giữ em lại ở với bác.

-Ông bà chắc thương em lắm.

            Nàng cười, nói đùa:

-Em rất nhiều người thương, cả người thân và người ngoài

-Ở Quảng Trị, chắc cũng đã có người quen em rồi.

-Đông lắm, vui lắm. Em có đến cả tá thư nhận được.

-Rồi anh Khoa quen em ở đâu ?

-Anh là người đưa thư mà chẳng biết gì cả.

            Bữa ăn vui ấm như câu chuyện mà chàng nói xong, là nàng đáp lời ngay. Và hai người cùng đói nên ăn rất ngon.

-Nhà anh ở xa không ?

-Không xa lắm. Cuối đường Độc Lập.

-Sao anh không vào Sài Gòn học ?

-Ba anh muốn anh học ở Huế.           

            Chàng kể chuyện về gia đình, cha mẹ và những người anh em. Nàng yên lặng nghe, chú ý từng người khi chàng nhắc đến. Vừa nghe chàng nói, trong thâm tâm, nàng cảm động sung sướng rồi đây sẽ được làm vợ của chàng.

            Chín giờ đêm họ rời tiệm ăn, bây giờ về nhà. Mùa hè thật mát trong gió đêm. Hai người nắm tay nhau đi bộ thong thả. Phố chính bỏ lại đằng sau, con đường về trở nên yên vắng, tay nắm trong tay hai người lại vui với câu chuyện của mình.

-Anh muốn gọi tên em là Gigi.

-Nghĩa là sao ?

-Em đã coi cuốn phim Gigi chưa ?

-Chưa.

-Leslie Caron đóng cuốn phim này. Cô bé có tên là Gigi.

-Em không phải là cô bé. Lớn rồi, đã yêu rồi, biết không.

            Chàng vòng tay qua ôm người nàng. Không có ai trên đường, nàng đứng im cho chàng hôn.

-Em đẹp quá.

-Anh yêu em không ?

            Chàng ôm giữ nàng thật kín gió trong vòng tay mình. Chàng cúi xuống hôn môi nàng đã mềm ướt.

            Rồi trở về, trên đường đi tiếng bước chân đều nhịp. Chàng nói:

-Ngày mai em ở nhà đợi anh nghe.

-Mùa hè này là của anh, được chưa.

-Cám ơn...,cám ơn em.

            Nàng cảm nhận lời chàng nói như hương vị những nụ hôn của chàng còn thấm ướt trên môi mình.

            Về đến nhà, thấy chàng xuất hiện khiến cả gia đình nàng ngạc nhiên. Nàng giới thiệu ngay chàng với ba mẹ và các em. Chàng có vẻ mặt thân thiện nên ai cũng mến chàng ngay.

            Cả nhà đang ăn cơm. Nàng ngồi với chàng cùng nói chuyện với gia đình một lúc rồi đi lên gác. Nàng trở xuống ngay sau đó với bộ quần áo nhẹ có những hạt cải xanh lấm tấm. Nàng luôn giữ vẻ đẹp, lúc  có trang điểm cũng như lúc  bình thường trong nhà.

            Trong lúc chàng chuyện trò, nàng rót thêm nước trà vào tách cho chàng. Vậy là tối hôm nay, sự hiện diện của chàng đã là một người trong gia đình này.

            Chàng còn ở lại để cùng cả nhà uống trà sau bữa ăn tối. Trên bàn khách bày một dĩa bánh ngọt lớn và kẹo. Không khí gia đình đầm ấm dưới ngọn đèn tỏa sáng. Nhà gia đình nàng ở vừa là một cửa hiệu buôn bán mỹ phẩm. Vào giờ này, bên ngoài cửa hiệu đèn néon vẫn để sáng dù giờ này không còn mấy khách mua ghé vào.

            Bằng một giọng nói chậm, đầy sự hoài nghi về thời cuộc, ông Kha ba của nàng nêu lên những sự căng thẳng của chính phủ Ngô đình Diệm trong biến cố Phật Giáo. Từ khi xảy ra, không buổi tối nào ông không mở các đài B.B.C , VOA,  Phi Luật Tân,  Uc Đại Lợi  để nghe. Dù không để cho giọng nói mang nỗi phẫn uất, nhưng ông là người thực sự bất mãn về chế độ đương quyền. Những vụ tự thiêu, những cuộc tranh đấu bất bạo động phía Phật Giáo theo ông, đó là một đường lối  ôn hòa, nhưng rất quyết liệt. Ông Kha luôn luôn là một con người thành tín. Bà Uyên, vợ ông là một Phật tử thuần thành. Bà rất dịu hiền, lúc nào cũng dè dặt, vừa lo sợ mối thảm họa, nhưng rồi bà đặt hết niềm tin nơi ánh sáng từ bi của đạo Phật.

            Chàng vừa từ Huế vào nên tình hình ngòai đó đang diễn ra như thế nào, chàng thấy và hiểu rõ. Bỗng tiếng chuông đồng hồ treo tường ngân vang lên những điệu nhạc. Chàng đứng dậy xin kiếu từ đúng lúc. Cả nhà cùng đáp lễ khi chàng nói lời chào. Bà Uyên bỗng hỏi:

-Thế cậu về bằng gì ?

-Cháu đón xe về được.

            Nhìn chàng, bà nói:

-Có xe đạp trong nhà, sợ cậu đi không tiện.

-Cháu đón xe về được, chàng đáp.

            Cả nhà đứng lại bên thềm cửa. Chỉ cô cô gái theo chàng ra đường. Sau đó, mọi người vào nhà, ở bên ngoài chỉ còn chàng và cô gái.

-Ngày mai anh tới được không ?

-Không.

-Em không cho anh gặp, buồn lắm biết không ?

-Buồn thì ở nhà một mình, tương tư.

-Ở bên em cũng thấy nhớ tương tư rồi.

            Câu nói của chàng làm cho nàng vui sướng. Luôn luôn,  đôi mắt nhìn nhau chàng và nàng cùng cảm thấy hạnh phúc mình có thực.

-Em thường ở nhà, không đi đâu cả.

-Chiều mai anh đến nghe.

-Em đợi.

            Giọng nói của nàng hơi buồn. Có bóng chiếc xích lô phía bến cảng đang đi xuống. Hai người im lặng chờ.  Bỗng sực nhớ đến người bạn, chàng lấy lá thư đưa lại cho nàng.

-Em coi lại thư của Khoa đi.

-Vâng, em sẽ đọc.

            Chiếc xích lô ngừng bên lề đường trước cửa hiệu. Chàng nắm tay cô gái nói:

-Em ngủ ngon.

            Nàng cười gật đầu.

-Chiều mai,  anh nhớ đến.

 

 

                                                               XIII

 

 

            Tới sớm mười lăm phút, anh em đứng trước quầy căng tin mua nước uống. Thụy hơi buồn ngủ, anh uống cà phê đá. Có ly cà phê mát cổ họng, Thụy tỉnh táo đôi chút.

            Dưới mái hiên trước cửa lớp, khóa sinh đứng chuyện trò, người nào cũng vui. Hôm nay là buổi học đầu tiên của khóa 69B trong lớp chiều. Danh sách khóa sinh vào các phòng học đã được yết trên bảng, và tất cả đều cùng bắt đầu với cuốn sơ cấp 1100. Trong thời gian ba tháng khóa này  học giai đoạn hai quân sự, ở trường Anh ngữ, đã có một số SVSQ được đi Mỹ. Nhưng người này, điểm thi Anh Văn cao, anh nào cũng trên 80ESL. Có một số bạn cho biết, trong số này, có người giỏi thực sự, nhưng cũng có người học bùa, đánh bùa.

            Hồi chuông reo báo giờ vào lớp. Trong phút chốc, ngoài sân chơi trở nên vắng lặng. Thụy học ở phòng 14. Lớp Thụy có 12 người, bàn được xếp theo hình chữ U, mỗi bàn bốn khóa sinh.

            Sau ít phút đợi, giảng viên vào lớp. Giảng viên tên là Phụng đeo lon Thiếu úy.

            Trước khi mở đầu bài học, Thiếu úy Phụng  ngỏ vài lời tâm tình với khóa sinh. Sau đó, ông hỏi tên mỗi người. Trong lớp học, người nào xưng tên xong, cũng nói qua một đôi chút về mình.

            Rồi cuốn sách mở ra, lúc này giảng viên bắt đầu nói bằng tiếng Anh. Cả lớp lắng nghe giọng đọc của giảng viên toàn bài học. Đọc xong, chậm rãi từng câu, ông đọc và học viên lập lại.

            Bài học được lập lại hai lần, sau đó, đến phần giảng về ý nghĩa câu và văn phạm. Có những chữ khó , giảng viên vừa giải nghĩa bằng tiếng Anh, vừa dịch ra tiếng Việt.

            Với cả bài học, nghĩa chữ không khó, nhưng nghe là vấn đề. Sau khi cho khóa sinh hiểu bài xong, giảng viên bắt thực tập đàm thoại theo trong sách dạy. Mỗi bạn nhận một cái tên. Bạn này hỏi xong, bạn kia trả lời. Hết một phiên cả lớp , giảng viên cho xoay tua, lập lại lần nữa. Ông nói tiếng Anh, đại ý:

-Học ngoại ngữ, hiểu thẳng câu của tiếng nước đó, không nên dịch lại qua tiếng Việt rồi mới nói.

            Giờ đầu trôi qua nhanh. Qua giờ thứ nhì, giảng viên mở máy cho khóa sinh nghe theo giọng đọc của người Mỹ. Cả lớp, ai cũng chú tâm lắng tai nghe. Bài thì hiểu rõ nghĩa đấy, nhưng khi nghe giọng đọc, có câu Thụy ghi nhớ được, có câu đôi ba chữ.

            Xong phần nghe, đến phần hướng dẫn viên đọc chậm trong máy  cho khóa sinh đọc theo. Nếu không nghe kịp, câu đó bỏ qua luôn.

            Nghe xong cuốn băng, giảng viên tắt máy, và ông cầm phấn ghi lên bảng cách đọc và những phiên âm quốc tế.

            Sau đó, các thành ngữ thông dụng người Mỹ thường dùng. Không chỉ lấy thí dụ mẫu trong sách, giảng viên còn cho những thí dụ khác, câu rất ngắn dễ hiểu.

            Anh em ham thích học. Và, cách của giảng bài thực dụng của giảng viên rất dễ hiểu. Ngay lúc này, Thụy nhận ra, những sách dạy tiếng Anh trong phần văn phạm và thành ngữ, có những câu thí dụ không thực tế với ngoài đời.

            Bài học hôm nay, nội dung là hai công nhân gặp nhau ở trạm xe buýt, họ tự giới thiệu tên khi làm quen , rồi hỏi nhau về công việc làm. Khi lên xe buýt, câu chuyện vẫn tiếp tục. Xe buýt chạy qua nhiều trạm, đến trạm ngừng hai người công nhân và một số khách nữa cùng xuống, lúc ấy, mọi người nói với nhau lời tạm biệt và hẹn gặp lại.

            Khi đọc và hiểu nội dung bài, Thụy hình dung ra gương mặt hai người công nhân, hình dung chuyến xe buýt ở Mỹ, các trạm ngừng, đường phố, trên đó xe đi qua các trạm xăng, siêu thị, nhà hàng, quán ăn, quán cà phê, chừng thứ đó là Thụy có được một cuộc viễn du đến nước Mỹ.

            Giờ ra chơi, có hồi chuông vang lên. Ngay lúc đó, giảng viên cho nghỉ, và bao nhiêu sách vở để lại trên bàn.

            Sân chơi trước rộng, đầy nắng. Sân chơi sau, có bóng im, và giờ này người bán căng tin rất là bận bịu vì đông người mua. Bánh mì kẹp chả, nước uống, cà phê, thuốc lá.

            Sau buổi học, anh em tìm nhau nói chuyện học hành. Buổi học đầu tiên, ai cũng thấy mình bỡ ngỡ. Thụy chợt dừng trước một bảng thông báo đọc tin tức của trường. Anh chăm chú đọc một trang báo tiếng Anh được cắt dán treo trong lưới. Số vốn ngữ vựng không nhiều, nhưng anh gắng đọc để hiểu. Đọc xong bài báo ngắn hai cột, Thụy hiểu đại ý bài này giới thiệu những khóa sinh xuất sắc đã được điểm tốt trong thời gian học Anh ngữ. Tên trường Anh ngữ bên đó là trường Lackland. Hai khóa sinh người Việt được nhắc tên là Tiến và Đạt, điểm thi Anh ngữ  đạt  được 95 điểm.

            Lòng Thụy vui theo. Với mình, anh chỉ ước mong đến lúc xong khóa học Anh ngữ, thi ra trường, đủ tiêu chuẩn sang Mỹ là mừng rồi. Hôm nay, ngày đầu của buổi học. Và, bài học của hai giờ đầu tương đối dễ hiểu trong nội dung, đến  cách nghe cũng như đọc. Tiếng Anh không đọc như tiếng Pháp, nên phát âm rất là khó khăn.

            Trở lại lớp lúc nghe hồi chuông, bên ngoài sân chơi lại vắng. Sách mở ra, bây giờ, học viên nhìn theo phần câu hỏi và câu trả lời trong sách chuẩn bị trước khi giờ học bắt đầu.

            Giảng viên chỉ Thụy đọc câu hỏi đầu tiên. Anh đọc ngay, người bạn kế đọc liền câu trả lời. Đây là một thể loại câu hỏi để cho học viên làm quen với phản ứng, không phải mỗi câu hỏi có sự suy nghĩ trước khi trả lời. Hết phiên mình, Thụy vẫn chăm chú nhìn xuống sách, anh nhận ra, cuốn sách soạn rất là dễ hiểu và rất hay.

            Hết một vòng 12 người, đến lượt giảng viên điều khiển. Ông không theo thứ tự, mà chọn một câu hỏi trong phần bài tập, rồi gọi một học viên trả lời. Lúc này, anh em ai cũng có phần lúng túng vì không được mở sách. Giảng viên cứ để mặc, người này trả lời chưa được đúng, ông hỏi sang người khác, và cứ sau ba người ông mới đáp câu trả lời, tiếp đó ông hỏi sang câu khác trong phần bài tập. Đến lượt Thụy, anh hiểu câu hỏi và trả lời theo cách diễn ý của mình. Khi Thụy đáp câu hỏi, những chữ phát âm sai được ông sửa lại cho đúng. Lớp học đang có được cái đà tiến, nhờ cách dạy của giảng viên. Khi qua những câu sau đã quen cách trả lời, nên ai cũng mạnh dạn  nói và phát biểu.

            Trong bài học có bốn thành ngữ đi với hai động từ to be và to get. Giảng viên rời ghế đứng dậy cầm phấn đi lên bảng, mỗi thành ngữ viết xong, ông giảng tiếng Anh, rồi tiếng Việt sau đó, và cứ mỗi thành ngữ là có một thí dụ ngắn.

-Các anh hiểu được không ?

-Hiểu.

-Rồi, các anh lấy giấy, mỗi người làm thí dụ cho mỗi thành ngữ ghi trên.

            Bài tập làm xong, giảng viên chấm điểm ngay tại chỗ.

            Giờ tiếp theo cũng là giờ cuối,  giảng viên dẫn cả lớp lên phòng lab. Khi tới đây, học viên đứng sắp hàng, vì theo lệ thường, giờ nghe lab  dành cho bốn lớp cùng trình độ.

            Vào phòng lab, Thụy ngồi ở hàng cuối. Trong phòng lab mỗi ghế ngồi được ngăn, và lúc này, các học viên đeo ống nghe vào hai tai để nghe hướng dẫn viên đọc bài trong máy. Người hướng dẫn này, đọc lần đầu rất là nhanh, qua lần thứ nhì đọc chậm, đến lần thứ ba, đọc xong một câu,  máy ngừng trong một giây để học viên đọc theo. Và, bài này là bài đã được học trong sách. Khi được học trong một tiện nghi đầy đủ, thoải mái, Thụy rất là thích, cảm thấy ham học và cứ sợ hết giờ. Trong phòng lab, riêng mình một chỗ, một ghế, có những giây Thụy muốn mình lơ đãng để nhớ tới Thúy Hà, nhớ tới Thiên Nga, ước mong gởi về nơi xa ấy hạnh phúc của mình.

            Bên ngoài, chiều xuống cùng lúc mặt trời đã lặn. Hồi chuông vang lên, học viên đứng dây rời phòng lab về lớp lấy sách vở còn để trên bàn.

            Khi ra khỏi cửa lớp, anh em nói lời chào tạm biệt với giảng viên bằng tiếng Anh.

            Lớp học chiều có đến trên ba trăm khóa sinh. Cánh cổng mở rộng, khóa sinh đi thành hàng về trại và tan hàng trước cổng liên đoàn. Ngay lúc đó, họ vào nhà ăn, để ăn bữa tối cho xong bữa.

            Thụy chưa ăn. Anh về lêu cất bỏ sách vở, xong lấy khăn, quần áo đi tắm. Ở khu nhà tắm chung cũng có một số  bạn quen, gặp nhau chuyện trò về các bài học và chương trình học. Dù mới học buổi đầu, nhưng khái quát về thời gian học, thi cử điểm chuẩn và nhiều thông tin về bạn bè bên đây và bên Mỹ. Một bạn cho hay, ngoài Nha Trang đã  có khóa học 70A mới đến.

            Về đêm, doanh trại sáng đèn , đông vui như  ngoài thị trấn. Vào giờ này, các quán ăn ở khu gia binh tấp nập khách vào, và sáu dãy quán nối liền nhau, quán nào cũng đầy khách. Ở loa phát thanh, giờ này cũng là giờ phát thanh tin tức và chương trình ca nhạc của Không Quân.

            Đời sống tập thể trở nên quí hiếm, hôm nay còn đây,  và không có ai mong đợi đến những ngày sắp tới phải chia tay nhau.

            Về lều, Thụy phơi quân áo và khăn ở dây kẽm xong mặc quần áo vào nhà ăn. Trong nhà ăn, vẫn còn đông người ăn. Thụy mua thêm một chai nước xa xị có đá để uống cho dễ tiêu cơm.

            Ngồi trước bữa ăn cơm canh còn nóng, Thụy cảm thấy đói, anh ăn ngon. Anh vẫn thích một mình, không muốn kết thân với ai, và cũng bình thường không tỏ ra đơn độc. Từ buổi ấy ra đi, Thúy Hà luôn là một hình bóng cũ trong tâm tưởng và trí nhớ của Thụy. Những giờ phút Thúy Hà thường đến là buổi chiều trời mưa, quán cà phê, hay trong bữa ăn hàng ngày tạm đủ như lúc này. Với Thụy, nàng là một câu chuyện với sự an ủi trong giọng nói trầm lặng, hiền dịu. Đời riêng của nàng, nàng luôn muốn nói hết với anh, và lúc này, anh như tìm thấy trên một cuốn tập vở cũ để lại những dòng nhật ký của nàng.

            Nàng viết:

            Tôi đang nghĩ tới anh Thụy. Lá thư nào tôi viết cho anh cũng đầy kín hai trang giấy pelure. Và, mỗi lần nghĩ tới chuyện viết thư cho anh, tôi hay mỉm cười chế nhạo mình. Trong sự rung động của tình cảm và tiếng nói, tôi cũng có ý nghĩ về chuyện ngọai tình. Điều này vừa đúng, mà cũng không đúng. Tuy nhiên, nó đã được sự bao dung, thừa nhận. Anh Thụy khi quen tôi, đã tỏ cho tôi thấy ngay tình yêu của anh đối với tôi khi anh hòan tòan chưa biết Duy. Khi tôi gặp anh Thụy tôi cũng có chút tình yêu dành cho anh. Rồi sau đó, anh đến với gia đình tôi, anh gặp Duy và biết rõ mối liên hệ giữa tôi và Duy. Từ đó, dù biết mình yêu, thực sự yêu, nhưng anh cũng đến với gia đình tôi cũng như riêng tôi bằng một tình bạn chân thực. Tôi biết anh rất yêu tôi, ao ước có tôi, mỗi lần đến nhà chơi gặp tôi, được chuyện trò với tôi anh vui thích lắm. Và, dù tôi không nói ra, chắc anh cũng hiểu tôi có dành tình yêu thực sự cất giấu trong lòng tôi cũng như gởi cho anh bằng những câu chuyện, bằng những lá thư thăm hỏi, đến cả một vài bức hình làm kỷ niệm để đừng quên nhau. Và, dần qua thời gian, nay anh Thụy đã là thành phần trong gia đình tôi để chúng tôi coi nhau như anh em.

            Khi trời sáng, mưa tạnh nhưng bên ngòai còn khóac cái vẻ u ám, ủ dột. Tôi rửa mặt xong trở lên gác, có ý định bắt đầu công việc một ngày nhưng chưa nghĩ ra. Tôi đứng bên cửa sổ, mở rộng hai cánh nhìn ra khỏang trống trông thấy bầu trời mang một vẻ thầm lặng, xôn xao, có vẻ như muốn hạ thấp để trải những lớp mây xám dày xuống những mái nhà ở dãy phố bên kia. Bên đó, trong lúc này con đường rè rè tiếng động của những tiếng còi xe, tiếng gọi văng vẳng, lúc thưa vắng, lúc đông đúc những người đi trên đường. Tôi chú ý đến hai người đàn ông đi trên bờ đường. Một người đang nói chuyện với cử chỉ luôn vung tay, còn người kia đầu đội chiếc nón phớt nỉ, trên miệng ngậm điếu thuốc, và lúc anh ta rít một hơi đầy, những sợi khói mỏng manh nhả ra.

            Trên gác đèn sáng. Tôi mở máy thu thanh để nghe tin tức, nhưng ít phút lại tắt. Sau đó, tôi xuống nhà cùng với gia đình ăn sáng. Trên chiếc bàn khách trải khăn, bữa ăn sáng được dành riêng cho mỗi người một phần. Có bánh cuốn, bánh mì, bún. Tôi ăn bánh cuốn chả. Bữa ăn sáng nào, gia đình tôi cũng mua quà sáng ở một quán hàng cách nhà tôi bốn căn. Đây là hàng quán ăn bán suốt ngày cho khách, cho công nhân bến tàu từ sáng sớm đến chiều tối. Hàng quán này luôn đông khách ra vào, và món ngon nhất ở đây là bún chả giò chiên, bún thịt nướng. Hai ngày cuối tuần, bữa quà chiều thường lệ của gia đình tôi là hai món này, ăn rất ngon. Vì vậy, đến 9 giờ đêm đóng cửa hiệu, gia đình tôi mới bắt đầu bữa ăn tối. Đó là lúc hạnh phúc nhất của gia đình trong ngày.

            Ba tôi là người luôn mở đầu câu chuyện trong bữa ăn. Còn tôi, thường nối tiếp chuyện của ba tôi khi ông còn bỏ dở, hoặc đang gợi nhớ. Bữa ăn trong gia đình tôi luôn có sự hòa hợp, vui vẻ với mọi chuyện về cuộc sống chung hay riêng, có khi ở một nơi xa, có khi là chuyện vừa mới xảy ra trong thành phố này , hoặc là một vấn đề thời sự mà tình hình miền Nam hiện nay đang xáo trộn chưa ổn định hẳn vấn đề chính trị. Với bất cứ đề tài nào, ba tôi cũng am tường, có nhận xét tương đối xác đáng, và ông luôn giảng giải cho cả nhà về vấn đề ông được hiểu. Những khả năng, kiến thức về sinh họat chính trị của ba tôi thu thập được là đọc báo, nghe đài. Ngày trước, ba tôi học ở trường Thăng Long hết Thành Chung, và ở trong quân đội ngành Bảo An. Có thể nói tôi là người sung sướng hơn cả, vì tôi luôn tỏ lộ niềm vui qua những nụ cười. Đôi khi, trong bữa ăn, ba mợ tôi chợt nhớ lại những tháng ngày ngòai đất Bắc, và trong nỗi nhớ đó, giọng nói của hai người như chùng lại. Nhân sự gợi nhắc lại quá khứ đó ở nơi vùng quê cũ, tôi hay vui hỏi chuyện ba mợ tôi hồi đó đã quen nhau như thế nào, và ngày đám cưới vào thuở đó ra sao ? Trên tường, còn một bức ảnh kỷ niệm thật hạnh phúc của ba mợ tôi sau ngày đám cưới đi Hà Nội chơi. Bức ảnh chụp ở Hồ Gươm, quang cảnh trải rộng với những hàng cây , bóng dáng của Tháp Rùa, và cũng thấy cả những con đường chung quanh thành phố Hà Nội.

            Bữa ăn sáng bao giờ cũng có một ly cà phê sữa dành cho ba tôi. Ba tôi thích ăn bánh mì trứng ớp la. Ông vừa ăn, vừa uống cà phê. Và, tôi cũng uống một vài hớp cà phê ba tôi để lại cho sau bữa ăn..

            Trời buổi sáng nay vẫn âm u. Chỉ sau một vài dấu hiệu cây lá ngòai đường, cơn mưa đổ xuống. Mưa không ồn ào gây sự huyên náo, hoặc đe dọa, nhưng vẫn to hạt. Bữa ăn sáng vào ngày cuối tuần luôn kéo dài trong gia đình. Và, không lúc nào ba tôi lại không nhắc đến anh Thụy . Đôi khi vui chuyện trong nhà ba mợ, các em cùng trêu chọc tôi. Tôi chỉ cười, muốn giấu cái hạnh phúc và nỗi cảm động. Trong cử chỉ đó, cặp mắt tôi có những giây khắc yên lặng, muốn mở to. Giọng nói của ba tôi đã cho cả nhà hay ông đang nghĩ đến anh Thụy đứa con trai lớn của mình, và ông đã nói về anh bằng những lời thật cảm động. Mỗi lần, có thư anh gởi về thăm là ông đọc cho cả nhà nghe, riêng thư của tôi, thì tôi giữ lấy thôi. Đôi khi, tôi nghĩ ba tôi thương anh Thụy còn hơn cả Duy  sắp là con rể của ông.

            Hai người khách vào mua hàng bắt đầu một ngày sinh họat buôn bán của cửa hiệu nhà tôi. Tôi thu dọn bữa ăn trên bàn, mang bát dĩa xuống nhà, rửa ở bể nước.

            Trời vẫn còn mưa. Tôi trở lên gác thay quần áo, và mặc ngòai chiếc áo mưa màu lam.

            Khi tôi xuống nhà, bên vai đeo túi xách nhỏ, mợ tôi hỏi:

-Con xuống nhà Duy.

-Không. Con tới nhà người bạn.

            Trời mưa, nhưng ngòai đường ánh sáng có vẻ sạch sẽ, tươi xanh những hàng cây. Tôi đi bộ. Lúc nãy, mợ tôi hỏi, tôi đã giấu không nói chuyện mình đi đến nhà Bưu điện bỏ thư cho anh Thụy. Dù rằng, trong nhà đều biết rõ anh Thụy thương yêu tôi, nhưng tôi không bao giờ tỏ lộ cho trong nhà chuyện riêng tư qua những lá thư, chỉ có Thúy Vân hai chị em luôn tâm sự với nhau thôi.

            Trên đường đi, buổi sáng nay mưa tôi nghĩ nhiều đến anh Thụy. Tôi đã yêu anh, viết thư cho anh, và đi bộ tới một nơi bỏ thư bằng cả một tấm lòng. Duy vị hôn phu của tôi cũng biết tôi có cảm tình với anh Thụy nhưng tôi cũng không bao giờ nói với Duy về sự riêng tư giữa tôi và anh Thụy. Có thể Duy vẫn thóang nghĩ đến hai chữ ngọai tình, nhưng dù có vậy, cũng không có gì quan trọng đối với tôi. Tôi là người phụ nữ luôn trung thực với cách sống của mình. Từ ngày đó đến nay, anh Thụy và tôi viết rất nhiều thư cho nhau. Những lá thư này tôi không đưa cho Duy đọc, và chàng cũng không dám lục lọi. Thực ra, Duy cũng nhìn thấy gia đình tôi đã coi anh Thụy như là người con cả trong nhà.

            Tôi vẫn không giấu được rằng, tôi luôn nhớ đến anh Thụy kể từ ngày anh đi Sài Gòn tìm kiếm việc làm. Sáng nay, tôi đi tìm anh. Tôi đến một nơi bỏ thư để tìm anh, và cảm thấy gần gũi với anh khi lá thư được gởi đi. Trời đang mưa, tôi đi trong hạnh phúc với một tâm hồn thương yêu, dào dạt.

 

                                                                *

 

            Khi nghe tiếng chuông nhà thờ ở dưới phố chính vọng lên tới trên này, cả nhà cùng thức dậy. Tối qua, dù thức khuya phụ các em dọn dẹp bàn ghế, rửa hết các loại chén bát, ly tách, nhưng lúc lên giường Thúy Hà ngủ ngay thật ngon giấc. Nàng ngồi dậy, mỉm cười nói với Vân .

-Em dậy quá sớm.

-Em không cảm thấy buồn ngủ.

            Thúy Hà để Vân lại một mình, nàng rời thang gác xuống nhà ra bể nước rửa mặt. Hôm qua, Vũ thay mặt gia đình xuống nhà Duy báo tin cho gia đình anh hay là gia đình cậu bằng lòng cho tổ chức lễ cưới. Tự buổi trưa, cả hai bên cùng chuẩn bị.

            Nhà Thúy Hà ở  đầu phố Độc Lập, gần bến Cảng. Từ ngày rời Quảng Trị vào trong này định cư, vợ chồng ông Kha không làm việc ở hiệu thuốc tây mà chuyển sang nghề chế tạo các loại mỹ phẩm, nước hoa là chính. Căn nhà thuê có bề rộng khoảng 5 mét, bề dài đến gần 20 mét nên dễ có điều kiện để ngăn chia từng phần. Nửa phần trên dài khoảng mười mét được dùng làm chỗ buôn bán, cũng vừa là nơi sinh hoạt cả nhà, với bàn ăn, những chiếc kệ, đi văng, giường ngủ sắp thật gọn, ngăn nắp. Trên lối đi hẹp xuống nhà sau, cạnh bên lối cửa trống có một căn phòng nhỏ, tất cả các loại hoá chất để pha chế thành nước hoa và mỹ phẩm được cất vào đó, đồng thời cũng là chỗ làm việc hằng ngày của ông Kha. Ông là một con người cởi mở, hiếu khách, và rất siêng năng. Khi bắt đầu vào giờ làm, ông khoác chiếc áo blouse trắng, ngồi vào ghế, với cặp kính trắng đeo lên mắt, ông say mê công việc trong sự pha chế cũng như đo lường rất chính xác.

             Hôm nay, căn phòng nhỏ này được dùng làm phòng của cô dâu. Trời vừa hửng sáng, cả đoàn xe sáu chiếc của nhà trai tới. Trong đoàn xe, chiếc Toyota màu trắng là chiếc xe có kết hoa để rước dâu. Đoàn xe dừng lại bên ngoài lề đường, cách xa nhà cô dâu khoảng năm chục mét. Mọi người xuống xe, vội bước lên vỉa hè để sắp thành hàng đôi, đủ từng cặp. Người chủ lễ đứng hàng ngoài đếm lại số người đi, căn dặn một đôi lời, xong một mình hướng về nhà cô dâu để gặp gia chủ, và đây là lễ đầu xin giờ, đồng thời báo cho nhà cô dâu biết bên nhà trai đã đến, sẵn sàng.

            Khi ông chủ lễ quay bước ra, tới gần, ông phác tay ra hiệu cho đoàn người khởi sự di chuyển. Sáu cặp ở tốp đầu, người nào cũng mang mâm quả trầu cau, rượu, bánh trái, đồ nữ trang để nạp lễ. Duy mặc bộ đồ veston màu xanh đậm, bông hoa ghim trên túi áo. Duy cảm thấy hạnh phúc, luôn nở nụ cười. Đi bên Duy là người em họ, làm phụ rể.

            Căn nhà cô dâu sáng rực đèn khi đoàn người bên nhà trai tới. Trong sự tôn kính buổi lễ, mọi người đều lặng im. Lễ vật cưới hỏi rất đầy đủ và bày thứ tự trên chiếc bàn dài. Một phút sau, người chủ lễ mới lên tiếng bằng một giọng nói đỉnh đạc, nghiêm trang. Trong lúc ông nói, thỉnh thoảng cơn gió buổi sớm thổi nhẹ vào lay động những dãi hoa giấy trang hoàng hai bên bức tường. Cả phía mặt ngoài căn gác cũng có treo những chùm hoa đủ màu sắc rất tươi.

            Hôm nay, cả bốn anh em Vũ đều biết là ngày quan trọng của gia đình. Những bộ quần áo mới cắt may, mặc rất vừa, nhưng trên vẻ mặt mỗi em đứng ở chỗ đó, riêng trong một góc nhìn mọi người, em nào cũng bỡ ngỡ, ngạc nhiên và cảm thấy mình còn thơ ngây.

            Bên trong căn phòng nhỏ, lúc thấy người mẹ vào, Thúy Hà đứng dậy và cô phù dâu cũng đứng lên theo. Từng bước nhẹ, ba người đi bên nhau. Lúc ra ngoài, một mình Thúy Hà bước ra giữa,  rồi đưa mắt mỉm cười nhìn Duy đang cầm bó hoa đi tới gần để trao tặng cho nàng. Khi Duy trao xong bó hoa, tiếng vỗ tay vui lên cùng tiếng cười chúc tụng. Rồi cô phù dâu tiến ra, nhận bó hoa từ tay của cô dâu, lễ cưới chính thức bắt đầu.

            Duy cầm chiếc nhẫn cưới đeo vào ngón tay Thúy Hà. Nàng cúi  mắt nhìn ngón tay anh đang đeo cho mình, trên đôi mắt nhỏ bé của nàng nụ cười sáng lên. Hình như, nàng đã nói với Duy một điều nguyện ước trong nụ cười đó. Đến lượt, Duy đưa tay cho người vợ trao nhẫn. Anh lặng im, lúc này chiếc nhẫn là vật tin cậy hơn hết mà nàng trao cho anh.

            Bên ngoài, trời rạng sáng hẳn cùng lúc những ngọn đèn đường trên các dãy phố đều tắt. Bữa tiệc trà đơn sơ, vui vẻ, nhưng không kéo dài lâu, vì đã đến giờ rước dâu. Trong phút giây này, ba mẹ, và mấy anh em Vũ đều xúc động chảy nước mắt khi nhìn cặp mắt Thúy Hà vừa khóc, vừa nói những lời chào từ giã.

             Dưới mái hiên cửa, lúc rời bước ra đường mọi người đều hướng về phiá đoàn xe đang đậu. Chiếc xe trắng có kết hoa đậu ở giữa. Và nổi bật hơn hết giữa mọi người là Thúy Hà trong bộ áo cưới thêu kim tuyến và chít vương miện trên đầu. Nàng vẫn đang khóc khi mới rời nhà, trên mắt nàng, những giọt nước mắt cứ nhạt nhoà.

              Tiếng động của thành phố cũng bắt đầu sinh hoạt ở vào giờ này. Đoàn xe di chuyển, thay vì đi ra hướng bờ sông, họ chạy thẳng theo con đường xuống phố chính. Sau đó, đoàn xe mất hút dần .

               Ba mẹ Vũ và các em đều ở lại nhà, không có ai theo đưa tiễn. Đi đưa, chỉ có những người thân trong họ hàng thôi. Khi khách ra về hết, bốn em Vũ phụ giúp nhau dọn dẹp bàn ghế, ly tách đem xuống nhà dưới. Trên bàn khách chỉ còn để lại ghế và ly tách, bình trà để còn đón khách viếng thăm ngày hôm nay. Quanh tường, giấy hoa trang trí vẫn để.

               Thúy Hà không nhớ nghĩ gì đến những công việc mà các em nàng đang làm lúc này. Nàng cũng không nghĩ nữa, ba mẹ nàng có vui, hay băn khoăn gì nữa về chuyện nàng đi lấy chồng không. Nàng đang nghĩ tới một cuộc đời trước mắt, hôm nay, nàng trở thành người vợ của Duy rồi.

               Từ nhà cô dâu về đến nhà Duy mất gần nửa giờ. Đoàn xe dừng lại trên con đường bên ngoài có trồng những hàng cây me. Ngay khi vừa bước xuống xe, cô dâu đã nghe tiếng ồn ào, tiếng khóc từ trong nhà vọng ra. Và cảnh tượng đó gây cho cô một sự ngỡ ngàng khi cô vừa bước qua khỏi cửa. Ông Lương còn nằm đó, đang hấp hối. Những tiếng khóc kể, nuối tiếc, cứ bán riết quanh chiếc giường ông nằm. Rồi người ta đánh thức ông khi đám cưới đã rước dâu về đến nhà. Nửa tỉnh, nửa mê, ông mở mắt. Duy đưá con trai út của ông và người vợ mới cưới đang đứng bên cạnh giường ông. Duy nói ấp úng:

-Thưa ba, vợ chồng con đây.

                 Ông đưa mắt nhìn về phiá con dâu. Nàng đang cúi đầu chào ông, và nàng chỉ lặng im. Nàng không thể nói gì được, bỗng nhiên, nàng khóc lớn tiếng, nức nở. Nhà rất đông người, nhưng hầu như không ai hiểu được nỗi lòng của nàng. Nàng đang khóc lớn tiếng, tiếng khóc không kể lể với một ai, kể cả nàng, tiếng khóc như một khúc rẽ của cuộc đời mà nàng đã nhận ra, và như thế này, nàng sẽ không còn thay đổi gì khác nữa được.

                   Lễ nhập gia dành cho cô dâu bắt đầu. Trên chiếu, Duy và Thúy Hà đứng bên nhau vái lạy từ bàn thờ này qua bàn thờ khác theo nghi thức. Sau đó, Duy đưa vợ mình vào căn phòng riêng dành cho hai người. Nàng bước vào, cánh cửa đóng lại. Trong phút này, nàng nằm xuống nghỉ ngơi trong giây lát cho đỡ mệt. Duy vẫn ở bên nàng, nhưng hai người không trò chuyện gì với nhau nhiều. Nàng không còn khóc nữa, nhưng nàng cảm thấy mình xa lạ. Duy đang ở bên cạnh nàng, nhưng nàng vẫn có vẻ lãnh đạm như thể lúc này, nàng chỉ còn nghĩ đến một ai đó mới có thể giúp nàng có đủ sự tin cậy.                   

                                                                  *

 

            Những ngày cuối cùng của cụ Lương đã làm cho hai gia đình bên tôi và Duy bối rối. Khi Duy cho tôi biết lời khẩn khỏan của ba anh, tôi hiểu nhưng im lặng. Tôi ra Huế thăm Nguyệt, ở chơi mấy ngày với người bạn trước khi Nguyệt rờiViệt Nam sang Pháp. Tôi ở Huế mấy ngày trong sự thư giản êm ái, và được gia đình Nguyệt đón tiếp như con trong nhà. Ở chơi ít hôm, tôi vào Đà Nẵng. Vừa lúc xuống ga, bỗng nhiên, tôi có nghe có tiếng ai gọi tên tôi. Một lúc sau, tôi mới nhận ra anh Thụ, ngày trước thời sinh viên anh mở lớp cours dạy học chúng tôi ở lớp nhỏ. Anh Thụ đi Đà Lạt, học trường Võ Bị. Anh mới về phép giờ trở lại quân trường. Trong lúc tàu ngừng đợi ở ga để tránh tàu ngược, anh Thụ mời tôi vào quán nước. Nhiều năm xa vắng, trong sự gặp lại anh nhìn tôi bỡ ngỡ. Tôi hiểu hết. Tôi hiểu rằng, tôi đã lớn. Tôi đọc được trong cặp mắt anh những điều muốn tỏ bày, mong gặp lại tôi và viết thư cho tôi khi ở xa. Khi nhìn thấy tay tôi đeo nhẫn, anh hỏi chuyện riêng về tôi, tôi gật đầu.

            Đã đến giờ tàu chuyển bánh. Tôi cám ơn anh đã mời tôi uống nước. Và để lưu một chút tình cảm với người quen biết, tôi còn đứng lại ở sân ga vẫy tay chào anh khi con tàu chuyển bánh.

            Rồi con tàu khuất dạng. Hình ảnh của anh như một đôi lời nhắn của một người bạn cũ gởi cho tôi.

            Ra khỏi ga, tôi đón xích lô về nhà. Về đến nơi, thấy không khí trong nhà như có chuyện gì đó vừa xảy ra. Tôi không vội đi lên gác thay quần áo, mà ngồi lại ở bàn khách nghe ba mợ tôi nói chuyện.

-Bà Lương và cô Thi vừa mới về.

            Tôi đã đóan hiểu, nhưng cứ hỏi:

-Có việc gì không mợ ?

            Ba mợ tôi nhắc lại chuyện vừa rồi, bà Lương và cô Thi đến thăm. Và rồi, bằng giọng khó khăn song thân nói đến chuyện cưới xin để chạy tang. Bà Lương cũng cho biết là ông đang hấp hối. Tôi điềm nhiên không chút xúc động, bàng hòang, nhưng lúc ấy, trong miệng tôi đầy cảm giác vị mặn của nước bọt.

            Buổi chiều hết sức yên tĩnh, cửa hàng đang vắng khách. Trong cửa hiệu đèn luôn để sáng. Ba mợ tôi hỏi ý kiến tôi như thế nào làm tôi suy nghĩ. Tôi đã không trả lời Duy khi chàng hỏi ý kiến tôi. Nhưng lúc này, tôi phải trả lời. Rồi sau đó, ba mợ tôi đưa ra lời giải thích là tôi mới hai mươi mốt tuổi. Nếu ông cụ của Duy qua đời, chỉ đợi hai năm mãn tang, vừa đúng thời gian chuẩn bị cho hôn nhân. Những điều ba mợ tôi nói ra rất hợp lý và còn sự trọng vọng về gia đình mà bác Hai tôi ở Sài Gòn cũng các chú nhà ngòai này đều mong muốn dự đám cưới của tôi là con gái đầu của ba tôi. Tôi hiểu những điều gia đình giải thích.

            Tối hôm ấy Duy lên nhà tôi. Sự xuất hiện của Duy trong nhà đều hiểu. Nhưng ba mợ tôi không nói gì, để riêng mình tôi suy nghĩ và quyết định. Hai chúng tôi lên căn gác. Với vẻ mặt buồn mà tôi đóan không hẳn phải vì ba chàng đau nặng, mà về cuộc hôn nhân. Một giọng khô khan, chàng nói với tôi, ba của chàng gởi lời trối là được thấy chàng nên gia thất trước khi ông nhắm mắt. Từ lúc quen biết Duy, tôi biết chàng là con út trong nhà và rất được nuông chiều. Tôi cũng cảm thấy lo âu, lặng im không nói gì. Phía ngòai cửa sổ căn gác là một khỏang trống của bầu trời. Anh trăng non mới xuất hiện. Bỗng dưng, Duy khóc. Chàng khóc gần như vô cớ. Tôi thản nhiên nhìn chàng khóc.

            Khi quay sang tôi, chàng hỏi:

-Sao em không nói với anh ?

            Tôi nhìn lại cặp mắt chàng với sự dò đóan lương tâm. Trên vẻ mặt chàng thật buồn, ủ rủ. Khi chàng nắm lấy bàn tay và ôm tôi trong hai cánh tay chàng, một giọng chân tình tôi nói cho chàng hay về ý kiến của gia đình đã bàn chuyện với tôi lúc ban chiều. Sau khi nghe tôi giải bày, chàng nói, với riêng chàng và tôi đã thương yêu nhau, thời gian đợi chờ không có gì ảnh hưởng, nhưng, trong tình cảnh ông cụ sắp lâm chung, ước nguyện trong lời trối chàng rất mong được tôi chia sẻ.

            Hơn lúc nào hết, trong vòng tây ấm áp, ôm ấp, chàng ôm giữ tôi với những lần nụ hôn kín khắp gương mặt như là nỗi sợ, ngày mai, khi có một việc gì xảy ra, chàng và tôi không được gần nhau nữa.

            Tới gần nửa đêm, chàng đứng lên, khi rời căn gác tôi theo chàng xuống. Ra ngòai đường, đêm vắng, những ngọn đèn sáng lây lất trong gió, tự dưng chàng run lên như ớn lạnh.

-Thôi được rồi, em bằng lòng.

            Chúng tôi cùng đi bộ một quãng đến ngã tư, dừng lại chia tay. Duy đón xích lô về nhà, tôi một mình trong bóng đem trở về lại nhà mình.

            Chỉ có hai ngày chuẩn bị cho hôn lễ. Buổi sáng sớm hôm ấy, họ nhà trai đến. Lễ cưới tuy đơn giản nhưng rất trang trọng. Sau tiệc trà, bên nhà trai xin rước dâu. Tôi và Duy lên xe hoa, chiếc Toyota màu trắng có kết hoa. Trên tay tôi ôm giữ một bó hoa. Và, tôi có cảm giác như lúc nào tôi có sự liên đới cuộc đời mình với bó hoa đang cầm trên tay.

            Con đường phố Độc Lập trải dài và sinh họat một ngày bắt đầu. Bên tôi, Duy lặng yên. Nhưng trong dáng vẻ của chàng, tiếng chàng nói chuyện với tài xế, tôi thấy chàng hài lòng, vui sướng.

            Về đến nhà chồng, một cảnh tượng khác thường diễn ra làm tôi hụt hẫng, chới với. Một bên là cảnh đón dâu rộn ràng, một bên là sự tang tóc đối với người thân sắp sửa lìa đời. Tôi cố giữ sự bình thản khi đi bên cạnh Duy vào nhà qua hai cánh cửa lớn mở rộng. Tất cả, hầu như im lặng trước ánh sáng và hương. Sau khi làm lễ gia tiên, tôi và Duy qua một căn phòng để riêng nơi ba của Duy đang nằm.

            Khi chúng tôi đến, ông ngước mắt nhìn. Tôi nhận ra ông thực khác thường, với vầng trán cao, mái tóc được chải và bộ đồ mới được thay sạch sẽ. Với cặp mắt hiền từ, ông nhìn vợ chồng tôi rồi bình thản ra đi.

            Tôi chẳng muốn nhớ thêm làm gì cái ngày buồn thảm đó trong hạnh phúc thời con gái của tôi khi đi lấy chồng. Tôi cũng không muốn gợi gì thêm đêm tân hôn của tôi và chàng trong căn phòng được trang hòang lộng lẫy. Chàng nói, chàng tự mình trang hòang lấy căn phòng này để bày tỏ hết tình yêu của chàng dành cho tôi. Căn phòng có chiếc tủ nhỏ, cái bàn viết đánh vec ni sáng bóng, trên tường treo một bức tranh của hai đứa nhỏ rất dễ thương. Tối hôm ấy, để làm dịu bớt nỗi buồn lo của tôi, chàng ôm ấp tôi trong vòng tay chàng vừa vuốt ve, vừa nói những lời dịu dàng, thân thương. Và, sau một nụ cười đằm thắm, tình tứ, chàng cúi xuống đặt nụ hôn trên cặp môi tôi. Từ từ, tôi khép kín đôi mắt.

            Nửa đêm, giờ hợp cẩn mới bắt đầu. Theo nghi lễ, tôi rót một ly rượu nhỏ mời chàng uống. Khi uống xong, chàng để lại một nửa phần cho tôi để uống cạn.

            Ba của Duy mất lúc mười giờ sáng ngay vào ngày cưới của tôi. Gia đình để quan tài và đón họ hàng, bạn bè thăm viếng ba ngày. Suốt ba ngày, tôi mặc áo tang và đứng vào vị trí những người con dâu trong gia đình. Nhưng riêng tôi, hầu như chỉ nhận ra mình là kẻ lạ. Khi có được giây phút nghỉ, tôi về phòng riêng của mình. Duy ở ngòai tiếp khách, sự vắng vẻ trong căn phòng làm tôi nghĩ ngợi nhiều về quãng đời đã qua của tôi. Rồi tối đến, bên Duy, chàng lại ôm ấp, cuồng si với cảnh ái ân, lúc ấy tự dưng, tôi chán buồn và nhận ra sự phóng đãng, bồng bột của mình trở nên vô ích.

            Mãi hơn một tuần, đời sống bình thường trở lại. Và, chính lúc này tôi cảm thấy chán ngán khi nhìn cảnh sinh họat trong gia đình của Duy. Nhà này, đã là chỗ chứa cờ bạc. Không chỉ là thú vui nhỏ, mà là nơi tụ tập, sát phạt, ồn ào với những tiếng cãi cọ. Ngòai những phòng ở, ở nhà ngòai, trên các tấm phản, mỗi nơi là một chỗ để khách và người trong nhà chơi bài. Chàng cũng là một con bạc ghiền nặng. Khi mà tôi đã thuộc về chàng, không có gì lo nghĩ nữa, thì tôi hầu như trở thành cái bóng lẻ loi, đơn độc. Tôi không thể ngồi bên chàng vui cùng chàng trên một chiếu bạc. Tôi chỉ còn đối diện với nơi ở của mình là căn phòng mà tôi coi như là sự tạm bợ. Vì chưa tìm ra công việc làm, Duy cũng không có gì cả, nên chúng tôi chưa thể tìm một chỗ ở riêng được. Tôi có cảm giác, cuộc đời làm vợ của tôi đã trở nên tối tăm.

            Thời gian cứ vậy trôi qua. Sau Tết, Duy bị gọi động viên. Khi nhận giấy gọi nhập ngũ, cùng lúc, chàng có giấy bổ nhiệm của Nha Học Chánh bổ về dạy một trường trung học ở quận Điện bàn. Duy chỉ còn một tuần lễ bên người vợ mới cưới. Suốt tuần đó, Duy và tôi không rời nhau. Ngòai bữa ăn trưa và tối, chúng tôi ở lì trong phòng, đóng kín cửa. Chúng tôi cùng say đắm làm tình không mệt mỏi. Ngủ say, thức giấc nhìn nhau rồi lao vào sự đam mê ân ái, tôi và chàng trở nên phờ phạc. Nhưng sự khóai lạc đã cho chúng tôi cái cảm giác tới tuyệt đỉnh. Và mỗi đêm là một nghệ thuật trình diễn như một cảnh hấp dẫn trong phim. Và, có lúc, hai chúng tôi liều lĩnh muốn ghi lại bằng hình ảnh những giờ phút cảm khóai đầy hạnh phúc. Có một điều tôi chưa mong nghĩ đến, nhưng với Duy rất rõ ràng là chàng muốn tôi mang thai và chàng luôn chờ đợi tin vui tôi sẽ nói cho chàng biết. Nhưng thực sự vẫn chưa có gì động tĩnh cả. Đã qua gần một năm kể từ ngày chúng tôi lấy nhau. Và suốt tuần lễ này, với ngày đêm làm tình không ngơi nghỉ, Duy hy vọng tôi sẽ đậu thai, nhưng rồi chàng thất vọng. Đêm cuối cùng, cả tôi và Duy không ngủ. Những cảm xúc mãnh liệt dồn đầy lên hai thân xác chúng tôi. Có lúc tôi và Duy cùng khóc. Rồi nhìn nhau, mỉm cười.

            Buổi sáng thứ hai, tôi đưa Duy lên Trung Tâm Nhập Ngũ ở gần Quân Trấn. Rất đông thanh niên ở lứa tuổi nhập ngũ như Duy. Những người này đến từ Quảng Trị, Huế, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Rất đông người đưa tiễn. Ai cũng bịn rịn, khóc lóc. Tôi cố giấu đi những tình cảm yếu đuối của mình. Hôm nay, có một ban văn nghệ của Tiểu đòan 10 CTCT tới giúp vui để cổ vũ tinh thần anh em. Buổi trình diễn dã chiến ngòai trời, với những bài hát vui, dí dỏm, ca tụng đời lính. Trên đời này, chỉ có đi lính là vui, và có nhiều bạn bè. Chỉ có đi lính mới thấy có sự rung động trong nỗi nhớ chân thực về người yêu của mình. Chỉ có người lính mới tạo nên một bầu trời lãng mạn trong tâm hồn. Sau buổi giúp vui, mỗi người nhận được quà tặng một cặp áo mai ô một cuốn tiểu thuyết viết về đời lính.

            Khi chương trình văn nghệ chấm dứt sau một giờ, là quang cảnh biệt ly . Những thanh niên đứng trong hàng chờ đọc tên để bước lên xe. Duy ôm chặt tôi hôn đầy trên gương mặt rồi với cái túi xách đeo vai anh ra ngòai hàng tập trung. Trong túi xách của Duy, ngòai quần áo, tôi để nhiều thức ăn và trái cây khô.

            Giữa sân nắng, thanh niên lên xe trước những lời đưa tiễn, hẹn hò. Đòan xe chuyển bánh, từ đây, tất cả hướng về phi trường để đi chuyến bay vào Sài Gòn.

            Khi đòan xe khuất khỏi khu vực quân trấn, những người đưa tiễn ra về. Lòng tôi cũng buồn như họ. Tôi về nhà gia đình tôi. Chỉ có những người trong gia đình tôi mới làm tôi khuây khỏa nỗi buồn.

            Qua đi hơn một tháng, tôi nhận được thư anh Thụy. Kỳ nào cũng vậy, gởi thư về thăm gia đình tôi anh luôn gởi hai lá, một cho ba mợ và một cho tôi. Thư anh đến làm tôi vui, bừng sống lại một phút giây trong ngày tháng cũ.

            Tôi chưa mở thư anh ra đọc ngay mà đợi ba tôi đọc thư anh trước. Anh nói với ba mẹ tôi là anh đã nhận được thư và ảnh đám cưới, anh xin chia vui cùng với gia đình và cầu chúc vợ chồng tôi trăm năm hạnh phúc. Anh cũng cho ba mợ tôi hay là những bức ảnh của tôi anh cất giữ trong cuốn album riêng của anh và gia đình anh.

            Tôi lên gác của Vân để đọc thư anh Thụy. Vân và các em tôi đang học ở trường. Căn gác vắng, tôi có chút bồi hồi xúcđộng khi mở thư anh Thụy. Những lời thư anh viết rất giản dị, chân thực. Anh nói với tôi về những bức ảnh ba tôi gởi cho anh. Mỗi bức cho anh một cảm nghĩ riêng. Trong cảm nghĩ ấy, anh nhớ đến tôi rất nhiều. Anh hết sức cầu mong tôi hạnh phúc. Và bây giờ, anh được chúng tôi xem như người trong gia đình nên anh rất vui được có sự gắn bó. Hai chữ hạnh phúc anh nói trong thư thật là chân tình mà tôi hiểu rằng, anh rất yêu thương tôi mới viết vỏn vẹn hai chữ này. Thư anh viết đầy kín hai trang giấy. Trong thư chỉ là chuyện gia đình với nhau. Anh có mua một gói quà cưới và đã gởi cho tôi. Đọc đến những giòng này tôi thương anh lạ lùng. Tôi biết anh yêu tôi, vô cùng yêu tôi. Và, tôi cũng đáp lại tình yêu của anh, mỗi lần có thư của anh là tôi viết gởi ngay để anh đọc.

            Thời gian đã trôi qua mấy năm, tôi không nhớ nữa. Chắc bây giờ anh đã đổi khác. Khi còn ở đây, anh và tôi học chung một trường, một lớp nhưng khác ban. Tuy nhiên chúng tôi thường gặp nhau ở giờ học ngọai ngữ. Vào buổi đầu gặp tôi anh rất mến tôi. Sau đó, rõ ràng, tôi biết anh yêu tôi. Tình yêu anh đối với tôi không nói bằng lời mà bằng đôi mắt. Anh Thụy có một khuôn mặt khắc khổ như định mệnh đã gắn liền với tên anh. Nhưng trong vẻ khắc khổ, u tối đó, đôi mắt sâu thẳm của anh thật đầy lòng nhân ái.

            Hình như cái cơ duyên anh hợp với gia đình tôi. Ba mợ và các em tôi đều mến anh. Nhất là cậu em kế tôi. Khi nào ghé đến nhà chơi, thấy có tôi, lòng anh vui mừng ra mặt. Về sau này, anh Thụy có lần nói với tôi từ khi gặp tôi ở lớp nhiều lần đi ngang qua nhà trông thấy bóng tôi, anh rất muốn vào thăm tôi. Đã có lúc về đêm, đi ngang qua nhà tôi anh dừng bước bên kia đường nhìn qua khung cửa sổ hướng về căn gác mà nghĩ rất nhiều đến tôi. Thực là cảm động trước sự chân tình của anh đối với tôi.

            Sau một năm học, anh đi xa vào Sài Gòn. Tối hôm đó anh ở lại nhà tôi ăn bữa cơm sun họp gia đình và để nói lời từ giã. Anh đi Sài Gòn tìm kiếm việc làm.

            Ngay sau khi đến Sài Gòn, ổn định chỗ ăn ở, anh viết thư về tin cho Ba mợ tôi và cho tôi. Vừa đi học về, có thư anh tôi rất vui. Tôi cầm lá thư anh với một hạnh phúc hơn bao giờ hết. Vân nhìn tôi mỉm cười, buột miệng nói ra những ý nghĩ thầm kín của anh ấy dành cho tôi. Chắc chắn, Vân nói đúng. Và ba mợ tôi cũng hiểu rằng, anh rất thương tôi.

            Tết đầu tiên ở xa, ngòai thư chúc tết, anh gởi từ Sài Gòn về cho gia đình một hộp bánh Bảo Hương, gọi là chút quà anh nhớ đến gia đình khi ở xa. Về phần tôi, nhận một tấm thiệp chúc tết rất đẹp, tôi nghĩ là anh đi tìm trong hàng ngàn tấm thiệp để chọn một tấm có rất nhiều ý nghĩa dành cho tôi. Với tình cảm của anh, tôi thực sự vô cùng thương anh.

            Đôi lúc, tôi có suy nghĩ, biết làm như thế nào để làm lại lòng tốt của anh. Chắc hẳn, anh không trông mong tôi và gia đình tôi giúp đỡ anh điều kiện vật chất. Anh luôn giữ sự kính trọng với gia đình tôi, trong đó, riêng tôi, anh vừa coi như một người em gái, vừa có một sự ấp ủ chân thật ước ao trong cuộc đời này, anh muốn có được tôi bên anh.

 

 

 

                                                                XIV

 

 

            Một tiếng trống ngắn đánh lên báo hết giờ, nghe xong, đúng lúc Nga vừa kết thúc bài giảng môn Địa lý.

            Từ phía dãy nhà tôn thấp bên kia sân cờ, Nga ra khỏi lớp, xuống hết mấy bậc cấp rồi thong thả đi qua dãy nhà xây đối diện. Nắng lên cao và nóng, nàng đưa chiếc cặp lên che đầu, và cố gắng bước nhanh lên để vượt qua sân nắng.

            Lớp nàng dạy môn Vẽ giờ này, nằm ở tầng dưới phòng cuối hết. Phía ngoài, đứng ở mái hiên có thể trông qua bức tường nhìn thấy sân vận động thị xã. Nhưng tường xây không dài, có một hàng rào lưới B40 mắc nối theo qua đến phía dãy nhà tôn, dãy nhà này trước là của trường nữ tiểu học được nhường lại cho trường Nguyễn Hoàng theo chỉ thị của Ty Tiểu học tỉnh. Và, tuy làm hàng rào, nhưng có mở một lối cửa rộng, và cửa này chỉ được mở khi lớp nào có giờ học môn thể dục.

            Vừa thấy cô giáo xuất hiện trước cửa, cả lớp đứng dậy chào. Nga ra dấu bằng tay cho các em ngồi , rồi nàng bước lên bục đến bàn để chiếc cặp xuống. Chiếc cặp không lớn, mềm nhẹ, có  hai ngăn chứa vừa đủ cho sách dạy học và các cuốn tập vở bài soạn.

            Bin, con thầy Hiệu trưởng tên đi học là Lâm. Khi được học với cô Thiên Nga cả hai môn Vẽ và Việt Văn, nó rất thích, vui sướng như là có được quà. Vào mấy tuần lễ đầu, trong bữa ăn gia đình nó luôn nhắc đến cô giáo Thiên Nga với ba mẹ nó với bao nhiêu là niềm vui, sự hớn hở. Thầy Hiệu trưởng và cô Ý Tâm cũng mến Thiên Nga. Ở trong thành phố nhỏ này, những ngày nghỉ dạy hay cuối tuần, Nga có đi phố cũng chỉ ghé vào các hiệu sách, hay đến chợ, thư viện, nhà giây thép, rồi về nhà, nàng không đến thăm chơi một nhà ai. Khi có Nguyên ra, một đôi lần, anh đưa nàng tới thăm người thầy cũ, chuyện trò chốc lát xong thì ra về. Và, lúc có được một ngày nghỉ, hai người luôn dành hết thời gian cho nhau.

            Lâm ngồi ở bàn đầu. Trong lúc Nga nhìn xuống lớp, thằng bé ngẩn ngơ ngắm nhìn cô giáo với cặp mắt thơ ngây và ngưỡng mộ.Trong lớp, nó cũng là đứa học sinh khá về cả hai môn nàng dạy: Việt Văn và Vẽ. Dù rằng, Lâm là con thầy Hiệu trưởng, nhưng không vì thế nàng phân biệt với các em khác. Với nó, tuy còn nhỏ tuổi, nhưng rất hiểu biết,  rất lễ phép, dễ thương, vừa mến bạn và kính trọng thầy cô. Vào giờ giảng văn, lớp này Nga dạy các em rất là rộn ràng, linh hoạt. Khi cô giáo Nga đặt những câu hỏi, rất nhiều em đưa tay xin trả lời, và câu nào cũng thấy Lâm đưa tay cao hơn hết. Thường khi được cô giáo gọi, Lâm đứng lên, chững chạc trả lời. Đến cuối tháng, Nga cho đề một bài luận, có khi làm ở lớp, có khi về nhà. Đề bài nàng ra với cốt ý giúp cho học sinh luyện văn, viết đúng câu tiếng Việt, và những ý trong nội dung bài thể hiện được sáng sủa, phong phú. Và, trong việc chấm bài, Nga đọc mỗi bài rất kỹ, cho điểm rất cẩn thận. Điểm qua tất cả, Nga nhận thấy có chừng mười em làm luận khá, trong số mười em này có Lâm. Bài luận Nga chấm, điểm cao nhất nàng cho là 15/20, nhưng ở môn Vẽ, em nào xuất sắc có năng khiếu nàng cho đến 18/20.

            Hôm nay, bài học là vẽ sự vật cố định. Nàng cầm lên một hộp giấy hình chữ nhật cho cả lớp quan sát, rồi nàng bắt đầu giảng giải các từ ngữ như trắc diện là mặt bên, chính diện là phía trước mắt, bình diện là một mặt phẳng. Khi quan sát một sự vật để vẽ, nàng giải thích cho các em là phần nào của sự vật mắt quan sát nhìn thấy, phần nào không. Riêng về mặt phẳng, mắt trần thấy nó là hình chữ nhật, nhưng trong  không gian hình học, không gian hội họa, nó được nhìn như một hình bình hành.

            Khi các em hiểu được về cách quan sát, nàng cầm chiếc hộp xoay từng mặt, mỗi mặt như vậy được dánh dấu bằng số cho dễ nhớ, rồi, sau cùng, nàng lật đáy hộp lên, đây là phần cuối của toàn thể một chiếc hộp.

            Trước khi thực hiện hình vẽ trên bảng, Nga hỏi lại cả lớp, từ đầu phần bài giảng về cách quan sát.

            Nàng hài lòng khi các em trả lời đúng. Bây giờ, nàng đem chiếc  hộp để lại trên bàn, xong trở ra bục, nàng bắt đầu vẽ lên bảng. Nàng vẽ xong, cả lớp trầm trồ khen ngợi, vẻ mặt em nào cũng hớn hở, thích thú.

            Vẽ xong chiếc hộp, nàng bắt đầu dẫn giải.     Trước nhất là vị trí của người đứng quan sát, sau đó, khoảng cách giữa người quan sát và chiếc hộp. Từ điểm mắt người quan sát, nàng dùng những tia chấm tới toàn thể sự vật đã vẽ, qua những tia chấm này, học sinh thấy được phần nào là nhìn xa, phần nào là nhìn gần.

            Hình vẽ chiếc hộp cho bài giảng đã xong. Bây giờ, dựa theo cách vẽ này, nàng cho đề bài vẽ chiếc bàn của nàng đang hiện diện trước mặt cả lớp.

            Một chút sau, có em học sinh ở dưới lớp đưa tay cao. Nàng cho em đó đứng lên, và em chỉ nói:

-Ở xa, em không nhìn thấy rõ.

            Nàng gật đầu, kéo chiếc bàn ra phía bục để cho cả lớp dễ thấy.

            Xong, nàng nói:

-Các em nhớ, các em vẽ từ vị trí quan sát của mình.

-Dạ.    

            Tập vở croquis dùng để học vẽ có khổ giấy rộng, vào giờ vẽ, em nào cũng sẵn có bút chì, và nhiều em có cả hộp bút chì màu đem theo.

            Bây giờ, Nga dành sự yên lặng cho các em vừa quan sát, vừa vẽ. Từ trên bục, nàng nhìn xuống lớp, trong giây khắc nàng cảm nhận được sự thân thiết, trìu mến của nàng.

            Nàng chưa bắt đầu đi xem cách vẽ của các em, một mình, nàng bước đến cửa nhìn ra ngoài sân nắng.

            Trong sân trường, những hàng cây bên hai bờ rủ xuống bóng im, và có những con chim đang chạy nhảy tìm mồi dưới nắng. Phía bên trái sân chơi là một nhà chơi có lợp mái tôn, ở nhà chơi có một căn nhà bác cai Phú phu trường ở.

            Ngày mai, Nga sẽ về thăm nhà ở Đà Nẵng. Nàng đi xe suốt, nhưng khi trở ra, nàng sẽ xuống Huế ghé nhà gia đình bên Nguyên một ngày, có thể chiều chủ nhật, hay sáng sớm hôm sau nàng đi Quảng Trị. Thường khi có Nguyên, nàng ở lại luôn ngày chủ nhật vui chơi với chàng, đến sáng sớm, Nguyên lái xe đưa nàng ra Quảng Trị sớm, ghé nhà trọ sửa soạn và thay quần áo xong là đến trường.

            Những thoáng nghĩ đến hạnh phúc đem cho Nga niềm vui. Nhưng không đứng lâu, nàng quay trở lại lớp, đi qua từng bàn, nhìn các em cúi đầu chăm chú vẽ. Khi thấy có em nào vẽ sai, nàng dừng bước, chỉ vào tờ giấy vẽ chỗ em đã vẽ sai để sửa lại.

            Trong các lớp dạy Vẽ, Nga thấy lớp B4 này, các em có nhiều năng khiếu và mau hiểu bài.

            Hạnh phúc của Thiên Nga là các em nhỏ. Nàng luôn thướt tha trong dáng đẹp chiếc áo dài, và những buổi sáng hay chiều đến lớp dạy, cuộc đời làm cô giáo của nàng như là một. Nàng rất vui trên cặp mắt, niềm vui ấy, nhà thơ Xuân Diệu nhắc nàng nhớ đến hai câu :

            Những buổi sáng niềm vui hằng gõ cửa

            Thắng giêng ngon như một cặp môi gần

            Nàng trở lên bục giảng, vừa nói được mấy lời, một hồi trống tan trường bỗng nghe vang dội. Nàng nghe nhịp trống, với một phút nôn nao lạ thường. Thế nhưng không gấp vội, tiếng trống dứt, nàng nói hết lời giảng mới kết thúc buổi học.

            Ngoài sân, học sinh vừa ra lớp ồn vui như đàn ong vỡ tổ. Nga rời khỏi lớp với chiếc cặp nhẹ xách bên tay, tới cửa văn phòng nàng đi vào. Một lúc, nàng tới bồn nước rửa tay, dùng khăn lau khô.

            Khi hết buổi dạy về văn phòng, các giáo sự thường chưa về ngay còn đứng chuyện trò, đến khi nhìn ra sân thấy học sinh đã về hết họ mới chia tay.

            Thiên Nga đi xuống sân cùng với ba cô bạn, họ đi về phía nhà chơi nơi gởi xe đạp. Trên đoạn đường ngắn, câu chuyện về cuốn phim La vérité đang chiếu trong rạp lớn ở tỉnh được trao đổi.

            Hôm nay, màu áo xanh lá cây trông Thiên Nga lạ hẳn. Nhưng phải nhìn áo tím nàng mặc, bạn mới  thấy hoa phượng rở sáng một mùa bên sông. Ở đây, chỉ có hoa phượng đỏ, nhưng nơi xứ người mùa hè là mùa của hoa phượng tím. Liên An đã đến phương xa, nàng viết thư gởi về Huế, cho Loan và Thiên Nga. Trong thư dành cho Nga, cô kể chuyện học, cuộc sống sinh viên, thời tiết cùng phong cảnh nơi thành phố cô ở. Gần cuối thư, cô hỏi thăm Nguyên và địa chỉ của Thụy.

            Chỉ có một chiếc áo trắng trong bốn cô giáo. Khi ra khỏi cổng trường, một đôi tách nhau trên hai lối đường về nhà.

            Bên cạnh Yến, Nga nói:

-Ngày mai mình về thăm nhà.

-Ở Đà Nẵng, nhà Nga ở đường nào ?

-Hùng Vương, ngay trung tâm thành phố.

-Sao Nga không xin dạy học trong đó ?

            Nga hơi do dự, nhưng trong tình thân đồng nghiệp nàng nói với người bạn về mối tình cảm của nàng đối với quê hương chồng.

-Hay quá, Yến nói. Rồi tiếp lời - Nhưng một hai năm sau, Nga cũng nên về trong đó với gia đình.

-Yến nói đúng ý mình.

            Nắng trưa dịu hẳn. Trên đường về, những đợt gió phất phơ, đôi khi nghe tiếng động lùng bùng rồi trông thấy những nhánh cây khô nhẹ nhàng rớt xuống.

-Nga ở nhà trọ chung với ai ?

-Không có ai, một mình thôi.

            Một giọng vui, Yến nói:

-Anh Nguyên trông hay lắm.

            Nghe Yến nói về Nguyên, Nga hơi ngạc nhiên. Nhưng rồi, nàng nhớ ra một hai lần Nguyên từ Huế đi công tác, anh đến thăm Nga ở trường. Vào lúc đó trông thấy Nguyên, các thầy dạy và đến các cô giáo, ai cũng có cái nhìn thiện cảm với chàng. Với bộ quần áo trận, ba hoa mai thêu trên cổ áo, trông chàng có dáng vẻ hào hùng, lý tưởng. Và, họ cũng nhận ra ngay, chàng và Nga thật đẹp đôi.

            Yến hỏi:

-Anh Nguyên còn viết báo không ?

-Có, nhưng không nhiều như hồi trước.

            Yến nói:

-Huế trong năm 63-64 đầy biến động. Sinh viên học sinh Huế cùng đứng lên chống đối chính quyền của tướng Nguyễn Khánh. Tờ Sinh Viên Huế xuất hiện thời điểm đó.

            Nga cười nói với bạn:

-Vậy mà mình hỏi đến, thì chẳng còn có một tờ báo nào anh giữ.

            Yến nói:

-Anh Lập mình, bạn học ở trường Luật với anh Nguyên. Khi ra báo, anh Nguyên làm Chủ bút, anh Lập là Tổng Thư Ký.

-Anh Lập còn giữ không ?

-Anh có đủ bộ.

            Nga cười nói:

-Anh Nguyên không lưu giữ tờ nào cả.

-Mình rất thích những bài viết của anh Nguyên. Có một vài truyện ngắn, anh viết hay.

-Yến học sau anh Lập mấy lớp ?

-Ba lớp.

            Nga nói:

-Mình có gặp anh Lập một lần, và được anh Nguyên giới thiệu.

-Năm đó, anh Nguyên có ghé nhà mình.

            Hai chiếc xe đạp bên nhau như là hai người bạn. Yến đã cho Nga về những tháng năm cũ, về kỷ niệm thời sinh viên của Nguyên, cả lý tưởng của chàng nữa. Nga thật hài lòng, nàng chợt nghĩ đến mẹ, và tự hỏi, nếu như mình chỉ  có nghĩ đến sự yên bình với một cuộc đời đã có sẵn, không sóng gió, đấu tranh, không phải đương đầu với mọi nghịch cảnh, thì cái đẹp của nàng có sẽ dần mòn như bao nhiều lớp phấn son tàn tạ. Khi sống, mình biết yêu mến cuộc sống, thì cuộc sống mình hiện hữu sẽ giữ mãi lớp phấn son cho nhan sắc, cho cái đẹp của mình.

            Ngừng lại đầu ngã tư phố chính, hai người chia tay. Yến hỏi:

-Chiều nay Nga có giờ dạy không ?

-Có, hai giờ đầu.

-Chiều nay mình nghỉ.

-Làm gì chiều nay ?

-Mình thích nghe nhạc, đọc sách ?

-Đó cũng là cái thú của mình.

-Nga vẽ tranh được nhiều không ?

-Một vài bức.

-Mình chưa được xem tranh Nga vẽ.

-Chiều đến nhà mình chơi.

            Trong nụ cười, mắt Yên nhìn ra nắng.

-Nga hay uống cà phê không ?

-Có chứ.

-Rồi, chiều mình ghé bạn xem tranh và uống cà phê.

            Nga gật đầu, đôi bạn ra chiều vui trong ánh mắt khi có sự đồng cảm. Rồi, xe Yến rẽ lối phải về nhà. Một mình, Nga vẫn đạp xe chậm, thong thả.  Trên đường phố, cảnh sinh hoạt gây huyên náo, ồn ào, nhưng mà trong lắng đọng tâm hồn, Nga nhớ nhiều đến Nguyên, đến bao nhiêu khuôn mặt thân thương trong gia đình của Nguyên. Nàng hiểu về gia đình chồng, về cuộc sống có ý nghĩa qua những thử thách và sự chọn lựa của mình.

            Tới ngã ba nhà đèn, xe rẽ trái. Đây là con đường yên tĩnh. Nàng trông thấy con sông, thấy cánh đồng cỏ, thấy ngôi làng bên kia sông khi đi ngang qua trường Nguyễn Hoàng cũ đối diện với một ngôi đình, ngôi đình này trước đây như là công viên trồng nhiều loại hoa.

            Gió sông thổi lên bờ khá mạnh, hất tung chiếc áo dài của Nga bay lên chấp chới. Và, chiếc xe đạp hơi bị chao khi Nga giữ lại thân áo, nhưng với ảnh tượng một tà áo trong cơn gió lộng thổi, trong ánh nắng, trên con đường miền quê, Nga thoáng nghĩ đến bức tranh mình sẽ vẽ nên được.

            Nắng trưa mở rộng hai bờ. Dòng sông ánh lên dưới nắng, làm bạc đi một chút màu xanh của dòng nước.

            Về đến nhà, Nga để xe dưới mái hiên rồi đi lên lối cầu thang. Kéo bức màn để thay quần áo, xong nàng xuống bếp làm bữa cơm trưa đơn giản.

            Trong bữa ăn, Nga vừa đọc báo. Những tờ nhật báo Nga chỉ mua lúc thấy có tin quan trọng về một vài biến cố chính trị và tình hình thế giới. Những báo này Nga hay giữ, và đọc thong thả vào giờ ăn.

            Hai giờ chiều, Nga đến trường. Lớp Đệ Thất B6, nằm ở căn giữa dãy nhà lợp tôn. Sau hai giờ ở lớp này, nàng rời trường. Hôm nay cũng là ngày cuối, xong hai mươi giờ dạy của nàng trong  tuần lễ. Ngày mai, không chỉ riêng nàng, chắc cũng có một vài đồng nghiệp về nhà ở Huế. Giáo sư dạy ở trường, cả Đệ nhất và nhị cấp đều từ Huế ra cả. Cũng có một số vị quê quán ở đây, và họ còn là cựu học sinh cũ của trường trở về dạy lại.

            Sau ba tiếng trống, sân trường trở nên vắng lặng. Mùa chim én bay về trên bầu trời rộng, lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch đã qua, lúc này đây sinh hoạt trong thành phố trỗi dậy niềm mong ước về một cuộc sống mới nẩy mầm.

            Nga đi vào lớp học với dáng vẻ dịu dàng, hiền từ, và trầm lặng. Nàng đặt chiếc cặp trên bàn, xong mở ra, lấy một cuốn sách giảng văn của tác giả Nguyễn Quảng Tuân.

            Nàng nói:

-Hai giờ hôm nay của các em, giờ đầu là chính tả, giờ sau là giảng văn.

            Bên dưới, có tiếng lào xào rồi yên lặng. Trên bàn học, tập vở được mở ra, và em nào cũng chuẩn bị cho giờ viết chính tả.

            Nga chọn bài "Cô hàng xén" của nhà văn Thạch Lam.

            Cuốn sách mở rộng trên tay nàng. Nàng đứng giữa lớp, cất tiếng đọc chậm, giọng đọc của nàng luôn theo đúng nhịp điệu của câu văn, để cho các em hiểu từng ý tác giả viết.

            Bài chính tả dài hơn hai mươi dòng vừa đúng nửa trang sách. Đây cũng mới là một đoạn trích văn hay trong toàn truyện ngắn của tác giả. Truyện ngắn này được in chung trong tập Gió đầu mùa.

-Cô bắt đầu nhé.

-Dạ.

            Cả lớp cùng đáp lời, Thiên Nga bắt đầu đọc. Nàng đọc xong, đọc lại lần nữa sau khi dừng ít giây. Những mái đầu cúi xuống chăm chỉ, nghe đọc, nghe viết, và bóng dáng Thiên Nga tay cầm cuốn sách với từng bước chân nhẹ nhàng giữa lối đi.

            Tiếng nàng rõ, trong những chữ có dấu hỏi ngã, nàng nhấn giọng đọc để mỗi em phân biệt. Trong lớp, có một số em thuộc gia đình người Bắc, những em này, xác định hỏi ngã rất chuẩn. Nhưng để học sinh viết đúng hỏi ngã, những bài trước nàng đã giảng đầy đủ qui luật này.

            Bài chính tả kết thúc. Nàng đọc lại lần nữa nguyên đoạn văn trích trong sách, sau đó, nàng bước lên bảng viết ba câu hỏi chọn trong sách. Trong ba câu này, một câu về đại ý, một câu giải nghĩa chữ khó, và câu chót là đặt câu với bốn từ ngữ được ghi ra.

            Trong khi các em làm bài, Nga đi lại trên lối giữa và lối hai bên qua từng bàn xem xét bài của các em làm. Đây cũng là trách nhiệm, vừa là kinh nghiệm giúp cho nghề giáo của nàng. Không lúc nào, nàng dùng thì giờ làm bài của học sinh để làm công việc riêng khác như đọc sách, đọc thư  hay viết thư cho gia đình. Ở lớp,  từng giờ dạy là nàng làm tròn bổn phận trong chức năng của mình. Và, nàng luôn giữ tính cách độc lập, với ước mong các em học sinh chăm học, tiến bộ, không để bị cám dỗ trước lời khen của đồng nghiệp hay những lời yêu kính và mến mộ của học sinh.

            Trước năm phút hết giờ đầu, các em làm bài xong. Nga gọi trưởng lớp đi thâu tập vở. Khi có lệnh này, các em tại mỗi bàn gom vở lại để  ngay chỗ người ngồi ngoài đầu bàn .

            Tiếng trống báo hết giờ. Nàng đếm lại từng tờ bài làm của lớp, xong chia làm hai rồi cất vào cặp. Chiếc cặp da mềm nhẹ, có hai ngăn chính và một ngăn phụ.

            Thiên Nga cầm sách trở ra bục giảng đứng giữa, nàng nói số trang cho học sinh biết để mở sách.

            Bài chính tả vừa mới đọc xong, nàng dùng luôn bài này làm giảng văn. Trước khi vào phần nội dung, nàng nói qua tiểu sử tác giả Thạch Lam.

            Tay trái cầm cuốn sách được gấp trang chính giữa mấy ngón tay, tay phải nàng cầm phần ghi lên bảng con số năm sinh và tên quê quán của nhà văn.

            Quay xuống lớp, vừa biểu thị với bàn tay, nàng nói:

-Trước khi giảng cho các em đoạn văn trích giảng này, cô sẽ phác qua vài nét cho các em biết về nhóm Tự Lực Văn Đoàn, trong đó nhà văn Thạch Lam là một thành viên. Nhóm Tự lực này, nhà văn Nhất Linh là người sáng lập. Kể từ năm 1930 đến nay, nhóm Tự lực Văn đoàn thực là đã có một công lao đóng góp cho văn học Việt Nam rất lớn. Khi nhóm này khởi sự hoạt động với hai tờ báo Phong Hóa và Đời Nay, tôn chỉ của nhóm nêu ra mười điều lệ được đăng trên báo Phong Hóa:

            1/Tự  sức mình làm ra những sách có giá trị văn chương, chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.

            2/Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và cho xã hội ngày một hay hơn lên.

            3/Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.

            4/ Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.

            5/ Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.

            6/ Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quí phái.

            7/Trọng tư do cá nhân.

            8/Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

            9/Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.

            10/ Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.

            Trong mười điều Nga vừa ghi lên bảng, có ba điều quan yếu là một, bốn, bảy nàng nhấn mạnh, dùng phấn xanh gạch dưới hàng chữ ghi các điều này. Rồi nàng nói:

-Trong đoạn chính tả cô vừa đọc cho các em viết, các em đã thấy, đã hiểu được một cách hành văn Việt Nam giản dị, trong sáng của tác giả Thạch Lam, đó chính là tôn chỉ của nhóm Tự lực văn đoàn. Với những thế hệ trước, đến thế hệ của cô, rồi bây giờ là các em, tiếng Việt chúng ta học và viết ra được một cách rõ ràng, dễ hiểu, sự kiên này cho chúng ta thấy cái công lớn mở đường một giai đoạn văn học mới, vừa sáng tạo, vừa có bản sắc dân tộc của Tự lực văn đoàn. Một sự kiện rõ nét nữa, là những nhân vật xây dựng trong các tác phẩm tiểu thuyết đều thể hiện được toàn vẹn tính cách người Việt, không một dấu vết ảnh hưởng người Trung Hoa hay người Pháp.

            Lớp học vẫn luôn yên lặng khi cô giáo Nga giảng bài. Nàng biết, các em nhỏ mến nàng, rất ngoan ngoãn, đó cũng là một sự khích lệ cho nàng một sự tự tin, và sự xúc động luôn luôn nén giữ chặt trong lòng nàng. Không chỉ yêu mến cô giáo vì vẻ hiền hậu, giọng nói thân thương, mà ở tuổi này, các em cũng biết rằng cô giáo Nga rất đẹp, hoa khôi áo tím của trường.

            Nga bắt đầu vào đoạn chính giảng văn sau mười lăm phút lược qua về tiểu sử nhà văn Thạch Lam và nhóm Tự lực văn đoàn. Để nắm ý đoạn văn, nàng lược kể nội dung truyện ngắn: Tâm là một cô gái miền quê hiền hậu , vừa có nhan sắc. Cô làm công việc buôn hàng xén trên một phố huyện để nuôi mẹ và lo cho em ăn học. Rồi đến tuổi lấy chồng, cô nhận lời lấy Bài, làm giáo viên trường làng. Nhưng về gia đình Bài, cô Tâm không nhờ vả được gì, còn gặp phải chồng khó tính, hay gắt gỏng, thêm mẹ chồng cũng là người rất cay nghiệt. Cuộc đời của nàng trở nên tối tăm, buồn tủi số phận, một thân với gánh hàng xén, lo nuôi mẹ, nuôi em, nuôi cả gia đình chồng. Trong hình ảnh đó, nàng chỉ còn nhìn thấy những tháng ngày trong chiều tối, trong mưa, trong gió lạnh, và trên bước đường đời, nàng chỉ đến một ngõ cụt.

            Nói tới đây, giọng Nga rất buồn, nhỏ lại. Trên đôi mắt nàng một lớp nhung rêu phủ yên lặng, có em nữ sinh ngồi bàn đầu chăm chú nhìn nàng.

            Qua đi vài giây xúc động, nàng tiếp bài giảng:

-Và, tác giả cũng đã cho ta thấy trong xã hội ta lúc bấy giờ, cô Tâm là tiêu biểu cho hạng  phụ nữ thôn quê suốt đời chỉ biết hy sinh, sống trong sự tối tăm cùng khổ, không hề biết có ngày vui.

            Nga dừng một lúc, lớp học lặng yên chờ nàng. Bên ngoài, những hàng cây buông rủ bóng im xuống và tràn vào cửa sổ. Và, tiếng động của gió, nghe rất nhỏ.

            Nga trở lên bảng, nàng cầm phấn, vừa xem sách, nàng vừa ghi ra những từ ngữ tác giả sử dụng cho đoạn văn, rồi quay lưng hướng về lớp. Lúc này, nàng nói đến sự khéo léo của tác giả khi mô tả cảnh vật, sự vật, và sự biến chuyển trong mối cảm xúc của nhân vật.

            Hồi trống dài báo hiệu giờ ra chơi. Còn một ý chót trong bài, Nga cố gắng giảng nốt cho xong trước khi cho các em rời lớp .

 

 

                                                            XV

 

 

 

            Nga chăm chú nhìn cái bóng cây ngô đồng làm điểm chuẩn. Lúc trông thấy nó rõ hơn, nàng quay đầu nói với người lơ xe.

-Anh cho tôi xuống đây.

            Một em học sinh ngồi ghế bên hỏi:

-Không phải cô đi Đà Nẵng.

-Ngày mai cô mới đi.

            Người lơ xe gọi lớn, anh tài xế nghe được liền cho xe giảm tốc độ lăn bánh một quãng chừng mươi thước, rồi ngừng hẳn.

            Nga và một khách hàng buôn nữa cùng xuống. Nga trả tiền, lơ xe nhận không nói gì, nhưng với người buôn anh ta còn kỳ kèo, đủ tiền nhét vào túi anh mới chịu lên trần dỡ hàng xuống cho khách.

            Với cái túi xách cầm tay nhẹ, vì chỉ có quần áo thôi, ở Quảng Trị không có hàng quà gì lạ nên Nga không mấy khi mua mỗi lần về thăm nhà. Những lần về, có chăng là những tấm ảnh chụp ngoạn cảnh lúc một mình, lúc có Nguyên. Có bốn tấm ảnh nàng chụp chung với các em trong mấy lớp dạy. Và, những ảnh này, nàng dành cho cuốn album của em Mỵ Châu.

            Khi Nga tới gần một ngả ba, chiếc xe đò đã vượt qua khỏi nàng. Em học sinh ngoảnh đầu nhìn qua phía cửa hông hàng ghế bên kia tìm kiếm bóng nàng. Em chỉ thấy màu tím của chiếc áo, và câu chuyện giữa em và một cô giáo không còn nhắc em nhớ gì thêm nữa.

            Hai bên quốc lộ, những đồng ruộng trải dài. Ngày hôm trước có trận mưa nên các thửa ruộng nước còn đọng. Nơi đây, quang cảnh buổi sáng hẳn còn vắng, gió lộng trên cánh đồng, những chuyến xe khách đi qua, và gần đây có một quán hàng ăn và một ngôi trường tiểu học lợp ngói.

            Nga đi bộ một mình, con đường băng qua cánh đồng ruộng nhìn về hướng đông rất xa là dãy núi, xuất hiện trên ngọn đồi là căn cứ đóng quân đơn vị Trung đoàn của Nguyên.

            Có tiếng xe phía sau, vừa nép vào bờ lề, Nga vừa quay đầu nhìn. Chiếc xe Jeep bỗng thắng gấp khi vượt qua khỏi nàng một đoạn ngắn. Nga đọc bảng số xe, nhớ ngờ ngợ.

            Nga bỗng thốt lên:

-Ủa, chú Trí. Anh Nguyên đâu ?

-Đại úy đang họp ban.

-Chú mới đi đâu về ?

-Lên Sư đoàn nhận văn phòng phẩm.

            Nga lên xe ngồi ở ghế trên. Xe vừa lăn bánh, anh tài xế nói:

-Sao không nghe Đại úy bảo gì cả.

-Chú Trí nói sao ?

-Có chị ghé thăm phải đi đón chứ.

-Tôi tính đi luôn Đà Nẵng, nhưng tiện xe dừng khách ở đây tôi xuống thăm anh Nguyên.

-Ngày mai chị đi Đà Nẵng ?

-Ờ, ngày mai.

            Anh tài xế cười thú vị, nói:

-Hay lắm nghe. Ngày mai Đại úy đi họp trong Quân đoàn.

            Lòng Nga vui lên. Nàng hình dung bóng dáng Nguyên với nhiều kỷ niệm trong ánh mắt nàng. Nàng nhớ khuôm mặt, nhớ chiếc nón vải, đôi giày sô, và gương mặt sáng, vừa  thanh tú của chàng. Trước đây, Nga hay yêu cầu Nguyên mặc quần áo xi vin khi đi chơi phố, nhưng nay, nàng không cầu mong nữa, với Nguyên bộ quần áo lính trông hay hay, hào hùng, quyến rũ. Nguyên không chỉ đem niềm vui riêng một mình Nga thôi, trong các lần tiếp đón đoàn văn nghệ, hay đi thăm các trường học, anh là đối tượng một để cho các cô gái vui tìm đến gặp, vừa chuyện trò, vừa nghe những lời tán tỉnh rất thích thú. Đó là đặc điểm của Nguyên, với một tâm hồn cởi mở, không những Nga hiểu chàng mà còn hãnh diện mình có được chàng.

            Lên khỏi dốc, xe vượt qua cổng gác rồi rẽ trái, chạy thêm một quãng chừng nửa cây số, xe dừng trước sân ban 5, nơi Nguyên làm việc.

            Vừa mới họp xong, anh em về chỗ làm việc. Nguyên đang ký tên vào những tờ trình đã đánh máy, chợt nhìn ra cửa trông thấy Nga đến. Nga vào một mình, trong khi tài xế Trí khuân thùng giấy lớn vừa nhận ở phòng tiếp liệu Sư đoàn.

-Gì đó, Trí.

-Văn phòng phẩm.

-Một thứ thôi.

-Một thôi.

            Trí vác trên vai thùng giấy lớn xuống chỗ nhà kho, anh vừa nói chuyện với mấy bạn lúc đi ngang qua dãy bàn anh em làm việc.

            Nguyên vẫn làm việc, vừa hỏi:

-Em có gấp vào nhà không ?

-Không.

-Ngày mai anh đi họp ở Quân đoàn.

-Em nghe chú Trí mới nói.

            Vốn đã quen thuộc với nơi làm việc của Nguyên, nên khi trở lại đây sau những ngày vắng bóng, Nga vẫn tự nhiên và cảm thấy không khí quen thuộc như hồi nào.

-Anh cứ làm việc đi, em đọc báo.

            Nguyên kéo ngăn hộc, đưa cho Nga tờ tạp chí Tiền Phong.

-Có bài của anh viết không ?

            Nguyên gật đầu. Bỗng nhiên, mắt chàng dừng lâu xuống đoạn cuối của bản tường trình, rồi đọc thật kỹ. Nguyên gật đầu, hiểu.

            Nga tìm được bài viết của Nguyên. Nàng mỉm cười, vì bài viết chàng để tên chung của hai người. Không cần người thân hay bất cứ ai kể lại, Nga thật sự hiểu được khả năng sâu rộng của Nguyên về sử học, về chiến tranh, và tình hình thế giới. Những bài anh viết về tâm lý chiến rất có tác động, và hiệu quả trong cuộc chiến tranh miền Nam đang xảy ra từng ngày.

            Nga lật đến trang thứ mười, bài mới kết thúc một phần.

-Anh viết dài ghê.

-Bài này anh phải viết đầy đủ.

-Số tới, báo đi tiếp.

-Đúng rồi.

-Anh viết cho báo Quân đội có nhuận bút không ?

-Có chứ.

-Em cứ tưởng anh viết đóng góp.

-Ở Phòng Báo Chí của Cục, có ngân khoản để trả tiền bài cho tác giả.

-Ngày mai anh đi sáng hay trưa ?

-Anh sẽ đi sớm với em.

-Anh họp mấy ngày ?

-Hai ngày.

            Nguyên ký xong giấy tờ, anh gọi Hạ sĩ Hóa, phụ trách văn thư đến nhận chuyển lên cho văn phòng Trung đoàn trưởng.

            Hạ sĩ Hóa ngồi ở bàn nhì, nghe gọi đứng lên ngay. Khi tới bàn Nguyên, gặp Nga anh lên tiếng chào, ngạc nhiên nói:

-Lâu quá, không thấy chị Nga ghé.

-Tôi bận dạy học.

-Chị dạy ở Đà Nẵng ?

-Không. Ở Quảng Trị.

            Hóa ôm các tạp bìa vàng trên tay, nghe lời Nguyên dặn xong trở gót. Kim đồng hồ trên tường chỉ gần mười một giờ.

-Em uống gì không ?

            Trong phòng, có một bình lớn nước lọc, một cái tủ lạnh để nước giải khát. Vào mỗi tháng có hàng quân tiếp vụ bán, quân nhân được mua theo tiêu chuẩn, còn các phòng ban, nhận được một số nhu yếu phẩm đặc biết dùng để tiếp khách hoặc giải lao.

            Nguyên đến mở cửa tủ lạnh lấy ra hai chai nước chanh. Nước lạnh sẵn nên Nguyên không lấy đá, chỉ mang lại bàn hai chai và hai ly.

            Nhìn nhau, hai người vui. Nga rất thích ngắm cặp mắt của Nguyên lúc anh nhìn nàng. Và, đôi mắt của Nga luôn vui khi ở bên Nguyên, những lúc nhớ đến Mỵ Châu đôi mắt  nàng mới tỏ sự buồn nhớ. Nàng cũng hay khóc thương cô em gái, khi quá cô đơn.

            Nguyên hỏi:

-Em dạy học ra sao ?

-Em dạy khá lắm.

-Học sinh ngoan ngoãn không ?

-Rất là ngoan.

-Có đứa nào quậy phá bị cô Nga đánh thước kẽ không ?

-Anh làm như em cũng dữ lắm.

-Học sinh quậy phá, đánh thước kẽ nó mới sợ.

-Không đâu. Em rất thương học sinh, không phân biệt đứa nào cả. Chúng nó cũng rất mến em.

-Ở Quảng Trị, em thấy sao ?

-Căn nhà thuê anh chọn cho em quá lý tưởng.

-Anh cứ ái ngại, sợ em dạy học xa nhà một mình.

-Không, anh đừng lo lắng. Em rất tự tin.

-Có cô em gái bạn anh, cũng dạy ở Nguyễn Hoàng.

-Yến, phải không ?

-Đúng rồi, em của Lập.

-Hôm qua Yến đến em. Yến đến xem tranh em vẽ, và ngồi uống cà phê với em.

-Hai cô có nói chuyện gì nữa không ?

-Cô Yến rất ngưỡng mộ anh. Hồi đó, anh cũng xách động học sinh xuống đường biểu tình, bãi khóa dữ ha.

-Anh có ra một tờ tuần báo nữa.

-Vậy mà, báo của anh, anh không giữ, để người khác giữ.

-Ai ?

-Ở nhà, anh của Yến còn giữ đủ bộ.

            Nguyên nói:

-Năm anh đi Sài Gòn, rồi bỏ hết. Ở nhà, mẹ cũng dọn chỗ ở nhiều nơi.

-Tuần tới, Yến sẽ mang báo ra cho em xem.

-Hay lắm.

            Nga rót thêm nước chanh vào ly. Trí xuất hiện, hỏi Nguyên:

-Đại úy mua gạo không ?

-Có chứ. Em mua cho bà già bao một tạ.

            Nguyên mở nắp túi áo trên đưa tiền cho Trí . Có một hồi kẻng báo giờ nghỉ trưa.

            Từ các phòng, quân nhân ra ngoài, đây đó, họ tìm đến câu lạc bộ và quán ăn nhà thầu.

            Nguyên và Nga đi bên nhau. Vào câu lạc bộ, anh em trông thấy Nga ồn ào lên tiếng, và nàng vẫy tay chào.

            Nguyên đưa Nga vào bàn chung với mấy vị Sĩ quan của Trung đoàn. Một người hỏi:

-Chị Nga đang dạy học phải không ?

-Đúng rồi. Sao mà hay vậy ?

-Chàng đây kể ra, còn ai nữa.

-Chị dạy trường nào ?

-Tôi dạy ở Quảng Trị, trường Nguyễn Hoàng.

            Bữa ăn chung dọn ra, hai đầu bàn hai tô cơm lớn và đầy. Trên bàn, có canh và ba món mặn. Thức uống là nước trà nóng và giải khát.

            Những Sĩ quan trẻ của Trung đoàn hầu hết là dân trừ bị, từ lò KBC 4100 ra cả. Tuổi lính chưa ai  quá 5 năm, ngồi đây chỉ có Nguyên và Thượng là đeo ba bông mai. Thượng ở đơn vị Tiểu đoàn mới về làm phụ tá ban 3 năm ngoái. Ít tháng nữa, Thiếu tá Quyền đi học lớp Tham Mưu, Thượng sẽ lên trưởng ban.

            Bữa ăn vui, và Nga được nhiều anh em hỏi chuyện về cuộc sống, về công việc dạy học. Nàng nói, ở Quảng Trị, thành phố cũng yên bình, chưa hẳn mất an ninh kể đến cả các quận lỵ và ngoại ô. Bây giờ, ở Quảng Trị, không chỉ trường Nguyễn Hoàng có đủ lớp Đệ Nhị Cấp, các trường tư thục cũng mở  nữa, học sinh toàn tỉnh giờ rất là đông.

            Nga vẫn là hình ảnh thân thuộc của Trung đoàn. Với vị Trung đoàn trưởng và ban tham mưu, đến các Sĩ quan mỗi phòng, rồi anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ, họ quí mến nàng vì trong thời gian những năm học ở Mỹ Thuật, nàng hay đi cùng với Nguyên lên đơn vị, hai người hay la cà vào các quán nước, vào câu lạc bộ, đến cả quán ăn khu gia bình cùng các chiến hữu  chuyện trò thật tự nhiên, thân tình như đã cùng sống, cùng hiểu nhau trong một đơn vị.

            Trung đoàn cố đô được thành lập ngay sau biến cố Tết Mậu Thân. Đây là một trung đoàn được sử dụng để bảo vệ Huế, vì thời ian vừa qua thành phố chịu cảnh tang tóc nhất ở miền Nam.

            Từ mặt trận Khe Sanh, Nguyên trở về cùng với một số phóng viên báo chí trong và ngoài nước, và anh đã viết một bài phóng sự đầy đủ diễn tiến các trận đánh của đơn vị  quân Hoa Kỳ, Sư đoàn dù và các Trung đoàn bộ binh của Sư đoàn I, cùng nhiều đơn vị yểm trợ khác. Bài anh viết cho nhật báo Tiền Tuyến lần lượt chạy bốn kỳ. Và, đó cũng là bài phóng sự cuối cùng đánh dấu ba năm anh phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến ở Đài truyền Hình và Phòng Báo Chí. Thời gian anh làm việc hai nơi này, với khả năng và kiến thức của một người viết báo, anh được các vị chỉ huy tin tưởng. Không cần phô trương, nhưng anh có quyền hãnh diện khi những bài phóng sự anh viết luôn được đi trên trang nhất, từ bốn đến tám cột.

            Trưa hôm ấy, Trạch đến tìm Nguyên đang uống cà phê trong cậu lạc bộ của đơn vị. Ngồi bên Nguyên là Lục, một nhà thơ quân đội. Lục rất thân với Nguyên, giới thiệu Nguyên với nhiều bạn văn trẻ khác cũng ở trong quân đội, họ là những người lính sống hào hùng, khí phách.

            Lục nhìn vẻ mặt ủ dột của Trạch, đoán ra, bạn ta có chuyện gì rắc rối.

-Này Nguyên, toa đi thay cho moa được không ?

-Chuyện gì vậy ?

            Trạch  trình bày buổi gặp sáng nay với Cục trường về việc ông thuyên chuyển anh ra đơn vị Trung đoàn tân lập ở Huế để giữ chức vụ Trưởng ban 5, vì ngoài đó, đơn vị trưởng đang cần.

            Nguyên nói:

-Ông chỉ định toa, toa đi, sao lại đến tìm moa.

            Một giọng thân tình, Trạch nói:

-Trong phòng, chỉ một mình toa có gia đình ở Huế. Vì thế, nhân có chuyện này, moa gặp toa, hy vọng được toa giúp.

            Lục lên tiếng:

-Phòng mình, phóng viên đi ngoài rất ít. Nguyên mà đi, nhân sự  phòng sẽ thiếu.

            Với giọng kẻ cả, Lục tiếp lời:

-Lâu nay, ông làm việc ở văn phòng, có đi, cũng sinh hoạt quanh Sài Gòn.

            Trạch nhìn Lục, nói:

-Nhưng chuyện này đâu phải của ông.

-Nhưng tôi thấy được tầm mức quan trọng.

            Không tranh cãi với Lục, Trạch hỏi:

-Sao, Nguyên. Mong được toa giúp. Mình ra miền Trung xa gia đình, đơn phương.

            Nguyên không trả lời.

            Buổi chiều sau giờ làm việc, Lục chở Nguyên về nhà ở trong một con hẻm gần ngã tư Hàng Xanh. Căn nhà có cây trứng cá, có mái hiên lợp tôn, chỗ này để một bàn nhỏ làm chỗ uống cà phê và gặp bạn bè văn nghệ.

            Vĩnh  đến, gặp cả Nguyên và Lục. Một cách sảng khoái, anh lên tiếng chửi thề.

Lục hỏi:

-Mày mới uống ở đâu ?

-Nhà thằng Nam.

            Quay sang Nguyên, Vĩnh hỏi

-Mày ở Khe Sanh về lúc nào ?

-Mới về được bốn ngày.

             Vĩnh để bàn tay lên vai Nguyên đập đập mấy cái.

-Mày được, tao chịu.

            Tối hôm đó, ba ông Sĩ quan trẻ đấu láo đến khuya. Hai ngày sau,     Cục trưởng gọi Nguyên vào trình diện:

-Sao anh lại xin đi ?

-Thiếu úy Trạch không có gia đình ngoài đó, tôi nhận thay cho anh ấy.

-Anh đã nghĩ kỹ chưa ?

-Thưa Đại tá, tôi làm việc ở đâu cũng được.

            Nguyên được vị Đại tá mời nước ở phòng khách. Ông nói:

-Anh là một Sĩ quan trẻ có khả năng. Anh hơn rất nhiều người ở đây, có được một phóng viên năng động, giỏi dang như anh, tôi rất là cần. Nhưng nếu Trung úy Trạch không đi, ở đây, Cục cũng phải cử một người cho trung đoàn tân lập. Anh tình nguyện, tôi rất lấy làm tiếc. Và, cũng thật khó vì không biết cử ai. Với lại lực lượng phóng viên còn thiếu.

            Nguyên nói:

-Đại tá yên tâm. Về ngoài đó, có thì giờ tôi sẽ gởi bài cho báo Tiền Tuyến.

-Anh phải hứa nhé.

-Vâng, Đại tá yên tâm.

-Bài anh viết, sẽ được Tiền Tuyến trả nhuận bút cao.

-Tôi coi công việc nào mình làm cũng là phục vụ trong quân đội.

-Anh hơn được rất nhiều người.

            Một giây thoáng nghĩ, vị Đại tá tiếp lời:

-Nếu lúc nào anh muốn trở về lại đây, cho tôi biết.

-Cám ơn sự quan tâm của Đại tá

-Tôi ký SVL cho anh thêm với hai tuần nghỉ phép.

            Khi Nguyên gặp Lục thông báo cho bạn mình biết, Lục rất bất bình. Với Nguyên, Lục rất thân. Ngày Nguyên lên đường, Lục đưa ra trạm hàng không Tân Sơn Nhất. Nguyên nói:

-Thằng Thụy em tao ở đây một mình.

-Khỏi lo. Nó cũng là em của tao.

            Về Huế, ngày Nguyên trình diện Trung đoàn trưởng, anh có một buổi nói chuyện về cố đô Huế và về sự tổ chức của ban 5 với sự  trình bày rất rõ ràng, chi tiết, biểu hiện tính hiệu quả thực tế và xác đáng.

            Trong những ngày đầu làm việc ở đơn vị mới, với chức vụ quyền Trưởng ban 5, anh tổ chức lại nhân sự, trong buổi họp ban anh nêu những công tác thực hiện quan trọng như  dân sự vụ, xã hội, chính huấn. Và, chỉ trong một tháng đầu, dân chúng Huế đã được biết rất nhiều về sinh hoạt của Trung đoàn cố đô qua chương trình phát thanh 45 phút hàng tuần ở Đài phát thanh Huế. Bất cứ việc nào trong ban đều có sự hiện diện của Nguyên, người giữ chức vụ Trương ban. Và, không chỉ những hoạt động của Trung đoàn được biết ở địa phương, hay là cố đô Huế thôi, mà còn được phổ biến trên một số nhật báo dân sự , đặc biệt là tờ Tiền Tuyến. Những bài viết Nguyên gởi đi, không chỉ nói riêng sinh hoạt của Trung đoàn, mà còn đến các Tiểu đoàn, các Đại đội, trong đó anh nêu rõ danh sách những chiến sĩ xuất sắc được khen thưởng.

            Về ngoài này, Nguyên được gần nhà, và chỉ sau hai tháng làm việc vị Trung đoàn trưởng hết sức hài lòng về anh. Một buổi thuyết trình có tướng Westy tham dự, anh đã trình bày đầy đủ những hoạt động của Trung đoàn ở tiền tuyến cũng như hậu phương. Những trận đánh của các tiểu đoàn được anh mô tả qua những sự kiện, về quân số, vũ khí, diễn tiến cuộc giao tranh. Ở hậu cứ, các phòng ban của Trung đoàn, anh cũng nêu rõ từng hoạt động hữu hiệu, đặc biệt là hoạt động an ninh tình báo và chiến tranh chính trị.

            Tướng Westy rất hài lòng , lúc kết thúc buổi thuyết trình ông cùng vị Trung đoàn trưởng bắt tay anh và bày tỏ những lời khen ngợi.

            Ngày xa đó, Nguyên từ giã Sài Gòn không như một nhân vật tiểu thuyết, anh là một người lính, một phóng viên chiến trường, ra đi với chiếc ba lô đeo vai, túi sac marin, buổi sáng sớm người bạn làm chung phòng lái xe jeep đưa anh ra trạm tiếp liên nằm kế bên phi đoàn vận tải. Nguyên đi chuyến C130, đến Huế, anh nghỉ hết mười ngày phép xong trình diện đơn vị mới. Nguyên làm việc ở đây, với trung đoàn, với Huế đô, không chỉ chừng đó, anh còn có dịp gặp lại đông bạn bè cũ. Và, một năm sau, anh gặp Nga.

            Bữa cơm đã xong, nhưng các chiến hữu vẫn còn ngồi lại uống nước chuyện trò. Khi hồi kẻng đánh lên, hết giờ nghỉ họ mới trở lại phòng làm việc.

            Nguyên và Nga chậm bước bên nhau, lúc này Nga bỗng hỏi chuyện Thụy. Nguyên chỉ nói:

-Lâu nay nó không viết thư về nhà .

-Thụy học Anh ngữ chừng bao lâu ?

-Khoảng ba bốn tháng.

-Ít nữa, cũng qua năm sau Thụy mới ra trường.

-Có thể.

            Về tới chỗ làm việc, Nguyên thấy xe Jeep đậu trước sân, nhưng không thấy Trí.

-Em muốn về nhà nghỉ không ?

-Ai đưa em về.

-Anh nói Trí đưa em về.

-Thôi, phòng ban có nhiêu khi cần việc. Em ở đây chơi đợi anh.

-Hay thôi, để anh đưa.

-Anh phải làm việc.

-Không có gì. Anh cũng còn ghé qua Đài truyền hình nữa.

-Có phải muốn chìu em mà anh bỏ công việc.

-Em nói như là tình trong ca dao.

-Có thể em bị ảnh hưởng các bài giảng về môn văn.

-Em tính học thêm nữa không ?

-Thôi, anh đã ngừng em cũng ngừng theo.

            Vào phòng, Nguyên gặp Trung úy Dinh phụ tá, anh nhờ Dinh coi việc giúp, đưa Nga về nhà xong trở lại ngay.

-Đại úy tiện ghé qua Đài truyền hình.

-Tôi nhớ.

            Hai người trở ra xe. Nguyên nói:

-Têt năm nay, còn cắm trại nữa.

-Kinh nghiệm Mậu Thân đắt giá quá mà.

            Nguyên hướng xe ra cổng. Người lính gác trông thấy cấp bậc của anh đưa tay chào kính. Anh chào lại, rồi giữ chân thắng khi xe đổ dốc. Nơi đơn vị Trung đoàn đóng quân cách xa Huế mười cây số. Vào quốc lộ, xe chạy nhanh. Đến Huế, Nguyên ghé Đài truyền hình, xe dừng ngoài sân anh và Nga cùng đi lên phòng kỹ thuật ở tầng lầu hai.

            Phục, chuyên viên của Đài đang làm việc, thấy Nguyên và Nga đi vào, anh đứng lên. Nguyên tới gần bắt tay Phục và giới thiệu Nga.

-Xong rồi Đại úy. Tối mai phát lúc 8 giờ.

-Cho tôi xem qua được không ?

-Dạ được.

            Nguyên và Nga đi theo Phục vào phòng máy. Sau một lúc điều chỉnh các nút, Phục cho cuốn phim chạy một đoạn thử trên màn ảnh. Nguyên và Nga xem, chú ý quan sát từng điểm trên màn hình.

            Đoạn phim sinh hoạt của Trung đoàn được chiếu thử trong hai phút. Nguyên hài lòng, anh nói lời cám ơn Phục.

            Hai người trở ra xe. Một giọng vui, Nguyên hỏi Nga:

-Lúc nãy em ăn cơm lính ngon không ?

-Bộ em mới ăn lần đầu với anh sao ?

-Nhưng đã lâu rồi, nay em mới trở lại.

-Em rất quí mến anh em trong Trung đoàn.

            Xe chạy vào phố chính. Những hàng cây trải dài, công viên im vắng, và dòng sông êm đềm dưới nắng.

-Không khí Huế thật là dễ chịu.

-Ở Quảng Trị ra sao ?

-Phố chính, sinh hoạt ngày nào cũng ồn, xô bồ như Sài Gòn.

-Ban đêm bình yên không ?

-Ban đêm không mấy yên bình.

-Em có nghe tiếng súng nổ không ?

-Có. Ở  trên núi vọng xuống.

            Nguyên nói:

-Em dạy hết một năm, sang năm xin vào Đà Nẵng.

            Một vào giây sau, Nga nói:

-Vào Đà Nẵng, không chắc em dạy được ở thành phố.

-Em đừng lo. Khi em chuyển trường, ba sẽ giúp em.

-Anh làm như em đẻ bọc điều. Bất cứ việc gì cũng có người khác lo.

            Tới nhà, Nga và Nguyên cùng xuống. Hai người vào nhà, Phương reo lên ùa tới nắm tay Nga.

-Hôm nay Phương nghỉ.

-Em có lớp buổi sáng.

-Má đâu ?

-Chơi bên nhà dì Quyên.

            Ba người ngồi ở phòng khách. Bàn học của Phương đặt bên cửa sổ. Trên bàn những tập cours và sách học. Phương đang học năm thứ nhất ở Luật.

            Nga hỏi:

-Anh uống đá chanh không ?

-Uống, Nguyên gật đầu.

            Một lát sau, Nguyên nói:

-Nói với má, mai anh Trí đem gạo về.

-Dạ.

            Nga đi ra vườn hai mấy quả chanh tươi trong lúc Nguyên nói chuyện với Phương.

-A, nhà mới nhận được thư của anh Thụy.

-Đâu ?

            Phương đi lấy thư đưa cho Nguyên.

            Nguyên cầm lá thư của Thụy, mở ra đọc. Một lúc sau Nga lên, thấy Nguyên đọc thư, nàng hỏi, vừa để ý thấy Nguyên đang vui qua một nụ cười.   

 

 

 

                                                                    XVI

 

 

            Trường Anh ngữ và Ban chỉ huy trại cho toàn thể khóa sinh nghỉ ăn Tết bốn ngày. Anh em, ai nấy đều rất vui. Và năm nay, lấy từ kinh nghiệm Mậu Thân sẽ là năm bắt đầu với các quân nhân là chỉ có ăn Tết ở tại đơn vị, nhưng mức độ cắm trại tùy theo tình hình, dù vậy sự di chuyển hay phép tắc cũng có dễ dãi, nới lỏng để lính tráng được xả hơi, vui đón những ngày xuân.

             Tối hôm qua, trại tổ chức liên hoan có chương trình ca nhạc do biệt đội văn nghệ Không quân trình diễn.

            Sáng nay, giấy phép được phát sớm. Từ các dãy lều, anh em ùa ra hai phía cổng chính và phụ, nơi đây, đã có sẵn những chiếc xe lam , cả xe thồ bằng Honda chờ đón khách. Trong dịp Tết này, chỉ các bạn nào có gia đình ở Sài Gòn hay dưới lục tỉnh mới thực sự đi phép, còn những bạn quê miền Trung chỉ ra phố chơi rồi trở về trại. Trong mấy ngày Tết, nhà thầu vẫn phục vụ cơm nước cho khóa sinh như  ngày thường, mỗi bữa ăn có được tăng thêm phần phụ trội của trại cung cấp. Ở  khu gia binh, các quán ăn, quán cà phê vẫn mở cửa từ sáng đến chiều tối.

            Từ bể nước, Thụy xách cái xô nhựa với áo quần vừa giặt xong, anh đi ra phía sân phơi có giăng nhiều hàng dây kẽm. Nắng lên cao, vừa ấm và lạnh. Lúc này, quang cảnh trại trở về yên vắng, văng vẳng nghe có tiếng nhạc từ khu gia binh vọng lên tới trên này. Thụy phơi quần áo ở hàng dây ngoài cùng. Anh không biết mình định làm gì hôm nay, nhưng chắc chắn, anh không muốn rời trại đi ra ngoài, và trong bốn ngày phép Tết, anh chỉ lấy ngày mồng hai đi thăm bà con, nội trong ngày này thôi.

            Xong việc, Thụy trở vào lều, dọn dẹp các thứ linh tinh để trên giá cho ngăn nắp. Trong lúc làm mấy việc lặt vặt này, Thụy tự đi tìm niềm vui qua những lá thư, hình ảnh các thiếu nữ, trong đó biết bao nhiêu tiếng nói, và từng khuôn mặt hiền dịu, dễ thương, rất tươi sáng, đó là Liên An, Dạ Hân, rồi Thiên Nga.

            Thụy thay quần áo, kiểm soát ví tiền rồi ra ngoài. Trên đường, lúc gặp nhau anh em cùng cất tiếng chào nhau và chúc mừng năm mới.

            Sáng nay, anh em còn ở lại khá đông, lều nào cũng có người đang tụ tập chuyện trò, tiếng nói cười nghe rất vui vẻ, phấn khởi. Nhưng bên trong lều, cũng có nhiều canh bạc sát phạt nhau, không nương tay. Tiền lương tháng cộng với tiền thưởng Tết mới phát cách đây hai ngày, ngay hôm đầu tiên, các con con bạc đã tụ tập, có đám chơi đến lúc trời rạng sáng.

            Thụy xuống khu gia binh. Dọc hàng quán, chỗ nào cũng đông khách và mở nhạc xuân. Thụy tới quán quen ngồi ở cuối hết, anh gọi tô hủ tiếu mì ăn sáng và một ly cà phê sữa. Trong lúc đợi người chạy bàn đem ra, Thụy dành những phút giây nhớ nghĩ đến gia đình ở Huế. Anh chợt lặng im, vì nỗi nhớ đã cho anh thấy một cảnh đời muộn màng, nếu như gặp may, ở tuổi này, anh cũng đã giúp đỡ cho gia đình bớt phần nào sự khó khăn.

            Đứa nhỏ đem bữa ăn sáng ra dọn lên chiếc bàn, cả cà phê cũng có sẵn luôn. Thụy lau đũa muỗng, xong bắt đầu ăn. Anh chợt nghĩ tới thời gian học ở đây sẽ kéo dài trong bao lâu, mỗi cuốn sách học trong ba tuần, xong mỗi cuốn là thi lên lớp, và cứ mỗi cấp là một giai đoạn. Khi lên học đến cuốn sách xanh 2400 là thi ra trường, kỳ thi này chia làm hai đợt, đợt một, bài thi sàng lọc tương đối dễ, đợt hai, bài thi sẽ khó hơn với tốc độ đọc nhanh và những câu hỏi về văn phạm cũng khó. Ở kỳ thi tốt nghiệp, điểm đậu là 80ECL. Từ hôm nhập trường đến nay, Thụy đã học lên cuốn thứ ba, qua Tết một hai tuần là thi chuyển cấp.

            Thụy ăn xong tô hủ tiếu, cầm cái thìa nhỏ khuấy cà phê xong đốt điếu thuốc. Thụy luôn cảm thấy ngon miệng khi mùi vị ngọt của sữa trong cà phê trộn vào khói thuốc. Những bản nhạc xuân nghe vui, nhưng trong quán vẫn ồn ào tiếng người nói chuyện. Thụy ngồi quán không lâu, hút xong điếu thuốc anh đứng dậy tới quầy trả tiền, và lấy thêm gói thuốc lá Mỹ, Pall Mall. Đây là loại thuốc nặng, đắt tiền, nhưng hút rất ngon. Ngày thường, Thụy hút Bastos xanh, đến cuối tháng có tiền lương anh mới làm một gói thuốc Mỹ Pall Mall, hoặc Lucky. Từ năm vào lính cho đến giờ, Thụy luôn dè xẻn đồng tiền lương, ở quân trường anh không hề vắng một buổi cơm phạn xá, kể cả hai ngày cuối tuần đi phép xuất trại, không chỉ có vậy, anh còn hạn chế mức xài tiền bằng cách ghi sổ nợ. Anh rất sợ món nợ này, vì lúc tiêu xài mình dễ coi thường không để tâm đến các món hàng nhỏ, nhưng tới cuối tháng, số tiền nợ tăng lên là đủ chóng mặt.

            Từ  Bộ tư lệnh , Kiêm vừa mới biệt phái qua trại khóa sinh để làm một tờ báo hàng tháng trong chương sinh hoạt của trại. Kiêm đi với Trung úy Trân, cũng ở trong ngành chiến tranh chính trị. Ở nơi đây, tuy là trại khóa sinh, nhưng quân số của Ban chỉ huy có hai mươi người, nếp sống và kỷ luật áp dụng gần giống quân trường, nhưng tương đối nhẹ, dễ dãi.

            Trước đây, Thụy và Kiêm có làm việc chung một thời gian ngắn ở báo Lý tưởng. Sau đó, Thụy đi học chuyên môn, mãn khóa anh ra đơn vị mới là Trung tâm không trợ III,  còn Kiêm vẫn làm việc cho Lý Tưởng. Đây là Nguyệt san của binh chủng Không quân, số 1 ra mắt đầu năm 1964, vào thời gian Thụy vừa mãn khóa tân binh, tờ báo cũng vừa đúng kỷ niệm một năm,  số đặc biệt dày 200 trang khổ lớn, nhiều bài vở rất hay.

            Kiêm còn có một người anh là Đạt, là giáo sư vừa làm nhà văn. Có một số sách giảng văn  người anh của Kiêm biên soạn cho các lớp Trung học. Thực ra, Kiêm lớn hơn Thụy đến bốn tuổi, nhưng rồi thân nhau, nên hay gọi là mày tao cho đúng tình bạn thân trong đời lính.

            Vừa chợt nghĩ tới bạn cũ, đi ngang thư viện, Thụy ghé vào. Kiêm đang cắm cúi viết, chợt ngừng, nở nụ cười khi gặp Thụy.

-Hôm nay trực ?

-Ờ. Mầy không đi phép à ?    

-Không.

-Không có nhà người quen ?

-Có, nhưng ra mồng hai mới đi thăm.

            Thụy kéo ghế ngồi cạnh Kiêm.

-Viết cái gì đó ?

-Ờ, viết tạp ghi.

-Cho báo Tiền tuyến.

-Không, cho báo của trại.

            Kiêm đã viết xong được hai trang. Người bạn ngừng việc chuyện trò với Thụy.

-Tết này, mầy có truyện đăng báo Xuân không ?

-Không có bài nào hết.

-Đọc Lý tưởng Xuân chưa ?

-Chưa.

-Ở lều không có sao ?

-Có, nhưng anh em đang đọc.

-Lát nữa, tao cho một tờ.

            Trong thư viện, chỉ có Kiêm và Thụy. Hai bạn đốt thuốc, bàn luận qua về thời cuộc, theo nhận định của Kiêm, người Mỹ sẽ chuẩn bị rút lui để lại toàn cơ sở cho VNCH,  nhưng trong vòng hai năm tới, Hà Nội sẽ xua quân đánh lớn.

-Nhưng quân đâu nữa, vụ Mậu Thân nướng hết rồi.

-Mậu Thân, mới là quân du kích. Còn chính qui, hao hụt không bao nhiêu cả.

-Phía Mặt trận, quân nhiều vậy sao ?

-Nhiều lắm, nhiều thành phần.

-Mầy nghĩ đám nội thành còn hoạt động không ?

-Còn. Vạn Hạnh là ổ đó.

-Mậu Thân có thoát được không ?

-Tụi nó kéo nhau ra bưng.

-Ở Huế, đám sinh viên đi cũng nhiều.

            Bất chợt Thụy hỏi Kiêm:

-Bên Không quân, lên cấp Sư đoàn, quân số là bao nhiêu ?

-Mỗi Sư đoàn, chừng khoảng hơn kém ba ngàn người.

-Chỉ bằng Trung đoàn Bộ Binh.

-Chừng đó, không nhiều.

-Với cấp số chừng đó, sao thành lập Sư đoàn nổi. Mầy biết không, cấp số Sư đoàn là mười ngàn.

-Đang ở  giai đoạn này là thời kỳ bành trướng, việc nâng cấp Sư đoàn cũng là để tạo uy thế với Cộng quân.

-Và, nó sẽ tưởng một Sư đoàn Không quân của mình, đủ các loại phi cơ chiến đấu và cả hàng chục phi đoàn tác chiến.

-Vậy thôi.

            Kim cười nhìn sang Thụy.

            Một vài ý cân nhắc, xong Thụy nói:

-Miền Nam  của mình, nói là một triệu quân, nhưng thực sự không đủ. Số lính ma, lính kiểng, mỗi đơn vị Sư đoàn, ít lắm cũng không dưới 500. Nói đến thực lực và quân số ngoài chiến trường, các đơn vị trực tiếp là cấp Tiểu đoàn, đến Trung đoàn là thuộc về hậu cứ, còn ở cấp tiểu khu, Sư đoàn, Quân đoàn hoàn toàn thuộc về hậu phương, như vậy, đương đầu với CQ, quân lính ngoài chiến trường của VNCH còn quá ít, so với miền Bắc, đưa vào Nam cả hàng binh đoàn, mà đi vào, chỉ có cầm súng chiến đấu, không có tình thế được phân bố theo hậu phương và tiền tuyến như mình. Bên miền Bắc, hậu phương là bên kia vĩ tuyến 17, còn tiền tuyến là toàn lãnh thổ trong miền Nam. Ngay cả, VNCH có hai lực lượng trừ bị là Nhảy dù và TQLC, đối diện với trận chiến vẫn là cấp Tiểu đoàn, còn lại, thuộc về Bộ chỉ huy đặt gần sát mặt trận. Ở Không quân, tham chiến chỉ có các phi đoàn là trách nhiệm trực tiếp, còn như tụi mình, thuộc về lính thành phố hết.

-Ai cũng thấy rõ, nhưng phía miền Nam, quân đội được đồn trú để giữ đất, phòng vệ, còn miền Bắc, rõ ràng với ý đồ xâm lược, cướp miền Nam. Hà nội, đám lãnh tụ ngoài đó là chủ chiến, đánh đến bao giờ, đất nước nghèo đói, kiệt quệ mới thôi.

            Kiêm bỗng rời ghế, đi qua kệ sách lấy một cuốn tài liệu dày về Không ảnh chụp rõ về các vùng làng mạc, thị trấn, thành phố ngoài miền Bắc đưa cho Thụy xem.

Trong những trang ảnh này, có cả Hà Nội là thủ đô miền Bắc. Nơi đây, không giấu tình cảnh quá nghèo nàn của người dân miền Bắc. Và, Thụy còn có cảm tưởng như đây là thành phố chết.

-Đời sống ở miền Nam rõ là khá hơn, nhưng mình đây không có người lãnh đạo giỏi. Tình trạng tham nhũng, hối mại quyền thế, đảng phái tranh giành, tôn giáo kỳ thị, chừng đó cũng đủ làm cho miền Nam xáo trộn, rối loạn, ngày càng có dấu hiệu suy sụp. Nếu rồi đây, Mỹ rút lui, Tổng thống Thiệu làm gì, chắc ông sợ đảo chánh, sợ ám sát, lúc đó, ngày nào cũng có các nhà tướng số được ông mời vào dinh độc lập. Mầy tin không ?

-Đừng có đùa nghe mầy, tao ngồi đây, chứ thằng khác nghe nó báo an ninh nhốt mầy.

-Tao cũng là thứ lính trơn mà, đâu có gì mà sợ hãi.

-Đùa, mầy. Mầy đi học lớp sĩ quan mà.

-Thì, cho le vậy thôi, ngữ tao ra gì đâu.

            Kiêm bỗng hỏi:

-Bộ hôm nay có chuyện gì mà bất mãn quá vậy.

-Có chuyện gì đâu, vui chuyện với mầy thôi.

-Mầy khuynh tả đó.

-Không đúng đâu mầy. Tao vẫn luôn trung thực với mình, và nói ra những điều gì, mình được thấy, được biết. Những điều tao nói, trên các nhật báo viết đầy ra, rồi mầy thấy cả chính quyền cũng chỉ lờ đi thôi. Và, chuyện báo nói ra cũng là quá rõ. Bây giờ, ông Thiệu tham quyền lực có thua gì ông Diệm đâu, chỉ khác với ông Diệm là ông Thiệu không quá tay làm nhiều chuyện ác đó thôi.

-Thời kỳ có biến cố Phật Giáo, mầy ở đâu ?

-Tao học ở Đà Nẵng ?

-Năm đó Huế ra sao ?

-Năm đó, nếu cuộc đảo chánh không thành, thì cả thành phố Huế là nghĩa trang.

-Lúc đó, tao ở Nha Trang.

-Còn trong quân trường.

-Đúng vậy bạn.

            Kim đồng hồ trên tường chỉ hơn mười một giờ.

            Kiêm duỗi rộng hai tay trên ghế, vừa ngả người cho đỡ mỏi.

-Sao chừng nào mầy đi Mỹ.

-Cũng không lâu, mà cũng không sớm lắm.

-Học đến cuốn nào rồi.

-1400.

-Mầy chưa qua cấp 1.

-Qua Tết là thi lên lớp.

-Vậy cũng còn ba bốn tháng nữa.

-Thời gian học là sáu tháng.

-Vậy dư sức, mầy thi đậu ra trường.

-Không dễ mầy ơi, lên lớp trên học khó, ra trường cũng phải được 80 ECL mới đậu.

-Cũng dễ thôi.

-Dễ với  mầy.

            Kiêm hỏi:

-Mầy học ngang tới đâu rồi ?

-Tú Tài I.

-Có thi phần hai không ?

-Có, trượt hoài mới đi học ngành này đây.

-Ra trường được, mầy lên lon nhanh.

-Có số hết. Giày dép còn có số nữa mà..

            Ngồi chuyện vãn khá lâu, Thụy và Kiêm cùng đứng dậy.

-Hôm nay trực cả ngày.

-Không, chiều đứa khác.

            Thụy bắt tay Kiêm, trở gót. Vừa mới dời mấy bước, Thụy chợt hỏi:

-Nhà mầy ở đâu.

-Ngã sáu Sài Gòn ?

-Bây giờ về nhà ?

-Ờ.

-Cho tao quá giang ra phố được không ?

-Nhưng mầy về nhà ai ?

-Không cần, tao ra phố chơi chiều vào trại.

-Đứng đó đợi tao.

            Kiêm đóng cửa thư viện rồi cùng Thụy ra chỗ để xe. Trên đường xuống Sài Gòn, hai đứa chuyện trò sôi nổi, về thời thế, về quân đội, cả về chuyện học hành.

-Mầy nhập ngũ lâu chưa ?

-Nói với mầy lúc nãy, không nhớ à.

-Nhớ rồi năm 63, trước tao hai năm. Rồi có học hành lại không ?

-Mầy biết tao đang học gì không ?

-Không. Tiếp lời, một giọng vui, Thụy nói: Bạn bè, có gì nói hết, đừng giấu.

-Tao đang học năm thứ ba ở Luật.

-Le vậy ta.

-Đi Mỹ tu nghiệp về báo chí hai lần, được chưa ?

-Quá le.

-Mầy có học tiếng Anh trường bên Mỹ không ?

-Tao có bằng Anh ngữ ở Lackland.

-Giỏi quá. Mai mốt qua thi giùm tao đi.

-Mầy thi cũng đậu, khó khăn gì.

-Tao vẫn sợ không đậu nổi.

-Học ở lớp ra sao ?

-Trung bình.

            Khi xuống đến Sài Gòn, Thụy nói Kiêm cho anh ghé vào quán cà phê Pagode. Anh chợt nghĩ, mình ghé vào đây tiện hơn, vì các nhà người thân, ai cũng lo bận bịu với ngày 30 Tết.

            Kiêm cho xe ngừng để Thụy xuống. Hai bạn bắt tay thân tình, và Kiêm cho Thụy hay đến mồng hai mới trở vào, ngày hôm đó trực, rồi lại nghỉ mồng ba, qua đến mồng bốn thực sự ngày làm việc.

-Cám ơn nhiều.

-Mầy còn khách sáo.

            Thụy cười nói:

-Tao học trong sách, bài nào cũng có mấy chữ hello, thank you.

            Kiêm gật đầu. Thụy còn dừng bước trên bờ đường nhìn bóng xe của Kiêm càng lúc xa dần. Thụy có ý nghĩ, nếu mình có được cái học dễ dàng và vận may như Kiêm thì cuộc đời dù sao củng có ý nghĩa. Nhưng rồi, cả bản tính và khả năng của anh luôn chậm chạp, vụng về.

            Bà Huyền Chi trông thấy Thụy đi vào, bà chú ý ngay. Thụy lặng bước, đến chỗ bàn trong góc anh kéo ghế ngồi. Những lúc đến quán này, anh thường ngồi ở phía góc, nơi chỗ đó, anh được trông thấy người thiếu phụ và được nói với bà bằng những lời tỏ tình, những lời ngưỡng mộ qua đôi mắt. Và, luôn luôn anh hiểu rằng, bà cũng chú đến anh, dành cho anh một khuôn đẹp buồn để anh cởi mở hết tấm lòng, có chân thực hay thờ ơ, bà cũng không nói gì hay trách móc cả.

-Cho tôi cà phê, bánh croissant.

            Thụy đốt điếu thuốc trong lúc chờ cà phê mang ra. Đã quá trưa, trên dãy phố này sự chùng lặng buông xuống hơn thường ngày. Vắng bóng xe cộ, chỉ có người đi bộ trên bờ đường và rạp hát kế bên kia vẫn mở cửa.

            Trong dịp Tết này, Thụy không có truyện ngắn đăng báo xuân nên anh không có chi làm quà tinh thần gởi về cho Thiên Nga và Thúy Hà. Báo xuân in nhiều, hẳn nhiên sẽ phát hành ra đến các tỉnh miền trung, Quảng Trị, nơi địa đầu vẫn có.

            Mấy ngày qua, không khí Tết gây nỗi nhớ nhà. Thụy hay lang thang ngồi quán ở khu gia binh , rồi ghé vào câu lạc bộ chơi bóng bàn, chán chê, anh vào thư viện đọc báo. Tối đến, ngồi tụ với bạn bè tán chuyện gẫu. Trong tâm tư mỗi anh em, có người nhớ về quê nhà mình, nhớ cha mẹ, người thân, bạn bè, có người nhớ Nha Trang, nhớ quân trường, và ngoài đó cũng đang có một số bạn chờ học khóa hoa tiêu quốc nội, những bạn này, được tuyển chọn trước nhờ vào số điểm cao trong kỳ thi mãn khóa quân sự.

            Trong đêm khuya khoắt, Thụy vẫn thức, nghe hương khói bềnh bồng, tản mác , anh cảm thấy mình chỉ còn sự yêu thương, ấp ủ cho mình là hơn hết.

            Thụy không ngủ được vì uống cà phê đậm lúc chiều, chứ không do lai nào cả. Nằm một lúc, anh trở dậy vén mùng vắt lên tấm vải, ngồi ở giường đưa mắt nhìn ra ngoài. Hương đêm xuân quá dịu hiền,  đằm thắm. Trên bầu trời, những vì sao đêm di chuyển như đang đi cùng một lộ trình.

            Bây giờ mình nhớ đến ai ? Từ ngày Liên An đi, anh chưa nhận được thư nàng. Thụy không lấy làm buồn, vì Liên An đã có Lộc. Thụy nghĩ lâu về Thúy Hà, nhưng bao nhiêu nhớ nhung, thương yêu, rốt cùng anh cũng gói lại đem cất. Thúy Hà đã có gia đình, nàng sống với Duy và nàng đang ở Hội An. Hội An, thành phố nhỏ này với bất cứ con đường nào bạn đi qua, mỗi nơi ấy, bạn luôn tưởng mình dừng chân để nhớ nghĩ tới một người bạn. Xa Hội An bốn cây số là Cửa Đại. Thụy nhớ lắm, biển xanh là kỷ niệm đẹp, hạnh phúc của anh thời niên thiếu.

            Khi đã gói lại những kỷ niệm về Thúy Hà và đem cất, Thụy bỗng nhớ nụ cười Thiên Nga. Thiên Nga rất là vui, nàng ưa tạo dáng, và những cách tạo dáng thật hồn nhiên làm cho nàng luôn sống vui với tuổi trẻ và vẽ ra được những bức tranh đẹp.

            Tự nãy giờ, bà Huyền Chi đứng nguyên chỗ bên trong cửa kính cạnh cái tủ lớn bày trái cây và bánh. Khi thấy Thụy nhìn, bà cũng đáp lại cái nhìn của anh trong vẻ thờ ơ  một thoáng dịu hiền. Hôm nay, bà mặc chiếc áo đầm màu đỏ mận. Bà có dáng hơi cao, nhưng khuôn mặt thật là đẹp. Trên khuôn mặt ấy, đôi mắt bà luôn trải rộng xuống trên hai bàn tay mở ra với nỗi buồn trang trọng. Bà rất hiểu những điều người lính kia muốn nói với mình, và cá nhân của người lính, anh cũng khao khát được yêu bà, để có, nghe được giọng nói của bà, một giọng miền Nam rất nhẹ, dễ thương.

            Thụy đang ngồi một mình, ly cà phê, khói thuốc. Bỗng anh ngạc nhiên thấy Lăng đi với một cô gái. Hai người đẩy cửa bước vào, Thụy đứng dậy , cô gái bỗng cất tiếng:

-Anh Thụy.

-Loan.

            Loan mặc áo dài xanh lấm tấm hạt cải. Hai anh em Lăng tới bàn Thụy, kéo ghế ngồi.

            Người hầu bàn đến, Lăng hỏi ý Loan, cả hai cùng uống cà phê.

-Loan vào lúc nào ?

-Gần một tuần rồi.

-Vào luôn hay vào chơi.

-Anh nghĩ sao ?

-Chịu.

            Loan cười nói:

-Mồng sáu Tết em ra Huế.

            Người hầu bàn tới lấy từ chiếc khay hai ly cà phê để xuống bàn. Lăng hỏi:

-Anh nghỉ Tết được mấy ngày ?

-Bốn ngày.

-Hôm qua anh ở đâu ?

-Ở trong trại.

-Anh không ghé cậu.

            Thụy im lặng. Loan hỏi:

-Chừng nào anh đi Mỹ ?

-Còn lâu.

-Anh đang học Anh văn.

-Ờ. Ngoài nhà sao ?

-Cũng thường. Dì lúc này khỏe lắm.

-Liên An có viết thư cho Loan không ?

-Anh này nhắc hay thật.

-Sao ? Liên An hỏi địa chỉ của anh. Không những hỏi, mà còn viết cái thư ngắn nhờ em đưa.

-Bây giờ Liên An ở đâu ?

-Em không nhớ địa chỉ. Chỉ biết đang học trường Đại học Longbeach.

-Học ngành gì ?

-Văn chương Anh.

            Lăng uống cà phê, mắt lơ đãng nhìn ra ngoài, tai vẫn nghe tiếng Thụy và Loan nói chuyện. Những bàn vuông giữa, nơi các nhà văn ngồi, họ cười nói bàn chuyện văn học sôi nổi. Thụy vẫn chưa có nổi một truyện ngắn có thể gởi đến báo Văn. Từ mấy năm qua, Thụy vẫn quen với lối viết kiếm tiền cà phê ở các nhật báo và những tuần báo lá cải.

            Lăng hỏi:

-Năm nay anh có truyện đăng báo Xuân không ?

-Không. Cũng không có thì giờ viết.

            Một chặp sau, Thụy tiếp lời.

-Ông Thanh Thủy đi, tôi mất nhờ.

-Sao vậy ?

-Có ông, đưa bài dễ đăng. Bây giờ báo Tiểu thuyết Thứ Năm giao cho người khác rồi.

-Anh có gởi bài nữa không ?

-Không.

            Thụy bỗng ngừng nói, mắt nhìn bà Huyền Chi từ bên trong đi ra, bà tới một bàn có sáu người mới đến. Khi bà tới gần, tài tử Lê Quỳnh đứng lên đón tiếp, bà đưa cánh tay ra cho tài tử này bắt, ông ta cúi người đặt môi hôn xuống bàn tay bà.

-Lê Quỳnh ngồi bên kia, Lăng.

            Ba người cùng nhìn về phía bàn khách có một phụ nữ, bà Huyền Chi.

            Loan hỏi:

-Lê Quỳnh là chồng của Thái Thanh, phải không anh.

-Đúng. Nhưng hình như đã thôi nhau rồi.

-Ông còn đóng phim không ?

-Còn chứ. Mới đóng với Kiều Chinh và Duy Trác một phim Chờ sáng.

            Từ nhà thờ, tiếng chuông vọng ngân. Bên đường phố, người ta đi chơi đông. Tiếng chuyện trò, tiếng giày dép khua lên vang xa gần.

            Thụy gọi người hầu bàn đến tính tiền, nhưng Lăng dành trả.

-Bây giờ đi đâu ?

-Đi ăn trưa.

            Ba người cùng đứng lên rời bàn. Từ phố Catinat đi xuống, rẽ vào phố Lê Lợi tìm đến quán ăn bên trong rạp hát Dakao.

            Loan rất vui, cô nói với Thụy sang năm cô vào đây học. Thụy không nói gì, anh nhớ Liên An, nhớ buổi chiều ấy cùng nàng về trên chuyến xe buýt, rồi gặp nàng ở nhà Loan. Tất cả mọi sự diễn ra trong tình cờ, nhưng rồi, với Thụy anh cảm thấy mình lẻ loi.

            Sau bữa ăn, ba anh em vào rạp hát coi một cuốn phim hài: Le petit colonel.  Ra khỏi rạp, Lăng đưa  Loan đến chỗ gởi xe, chở về nhà. Thụy hẹn Lăng và Loan đến nhà dì Hồng.

            Khi hai anh em Lăng đi khỏi, Thụy lang thang trên phố, lúc này anh mong gặp người quen. Thụy bỗng nhớ ngày đó có anh Nguyên, hai anh em ăn một cái Tết vui cùng bạn bè, qua mồng hai Tết lên thăm nhà chị Số , xong trở về Sài Gòn. Sài Gòn, thành phố này hay mưa, nhưng mưa và cây lá trong mưa, là sự thức giấc của ngày mai. Ngày còn làm việc ở Cục tâm lý chiến, anh Nguyên hay đi công tác ra vùng chiến trận miền Trung, nên dịp ấy, anh hay ghé thăm nhà. Bây giờ đây, nơi thành phố này chỉ có mình Thụy. Nhưng Thụy cảm thấy sung sướng vì anh Nguyên có được Thiên Nga, nàng đã là người vợ yêu quí của anh.

            Thụy lên xe buýt đi đường Chợ Lớn, tới ngã sáu chợ Thái Bình anh xuống, thong thả đi bộ. Vừa rẽ vào con hẻm, anh gặp Lăng và Loan tới bằng xe Honda. Loan xuống xe, đi bộ với Thụy một đoạn.

-Loan  thấy Sài Gòn vui không ?

-Quá vui.

-Loan  học năm thứ mấy rồi ?

-Năm thứ hai.

-Sang năm Loan vào Sài Gòn ?

-Em rất muốn.

-Ý anh Lăng, sao ?

-Anh nói, đợi anh ra trường có việc làm đã.

            Hai người tới nhà dì Hồng. Không cần bấm chuông, vì cửa mở. Hôm nay nhà đông khách hai bên nội ngoại, có cả vợ chồng cô Lan con nuôi chú dì.

            Thúy tới gần Thụy, nói nhỏ:

-Hai chị em chơi bài trên lầu.

-Ai ?

-Hỏi nữa.

-Em bí mật quá.

-Huê, chứ còn ai nữa.

-Thật à.

            Thúy ngước mắt lên nhìn Thụy. Cô đọc được ngay cái ngớ ngẩn, lưng chừng trên gương mặt của anh. Ngày hôm nay, Thụy có cảm giác như lòng mình thật vướng mắc, bề bộn.

            Thúy đưa Thụy xuống nhà, anh lên tiếng chào chú dì Hồng và họ hàng hai bên.

Có hai người em cùng cha khác mẹ với dì Hồng, Thụy quen gặp. Anh lên tiếng chào, ngồi xuống ghế bên cậu Cảnh. Hai cậu cháu chuyện trò về tình hình sinh hoạt chính trị ở Sài Gòn. Ở gian bếp, người nhà cũng đang nấu cỗ, mùi thơm ngào ngạt.

            Rồi khi cỗ bắt đầu dọn cúng, ở nhà dưới mọi người lên nhà trên. Ở một góc bên cửa đặt chiếc máy truyền hình. Chương trình sinh hoạt Tết quanh các quận đô thành, âm thanh nghe nhỏ, vì trong nhà có tiếng chuyện trò râm ran.

            Ngồi một lúc, Thụy bỏ đi. Anh nhẹ bước lên lầu, ngồi xuống bên cạnh Huê.

-Ủa.

-Em được hay thua ?

-Em đang ăn.

-Hên quá hả.

            Nhà cái chia bài xong, Huê nói:

-Anh coi cho em đi.

-Huê đi đâu ?

-Không, ngồi đây.

            Thụy cầm lên hai cây bài, nguyên đôi chín. Anh để xuống mặt chiếu, nhìn qua Huê. Huê ngồi yên để cho anh ngắm nàng.

-Lâu nay em đi đâu ?

-Em ở Sài gòn, chứ đi đâu.

-Anh tìm đến nhà cũ, không ai biết.

-Nhà đó bán rồi. Em và chị Huyền đi thuê nhà riêng.

            Nhà cái xét bài. Hai tụ hòa, một tụ thua, ba tụ ăn.

-Rồi hết cái.

            Bài Huê hòa nhà cái. Tiền đặt vẫn để nguyên. Huê ngồi bên coi Thụy bắt bài. Mới 14 nút, Thụy bắt thêm được con 6, Huê cười.

-Hôm nay có bạn trai em tới không ?

            Không trả lời, Huê lấy bàn tay đập nhẹ lên vai Thụy.

-Anh lúc này sao ?

-Lưng chừng.

            Có tiếng gọi vọng. Hết hội bài, mọi người xuống. Tiếng trò chuyện ồn ào, thân mật.

            Bữa cỗ dọn bốn bàn, hai nhà trên, hai nhà dưới. Thụy giới thiệu Loan với Huê.

-Giống anh Lăng quá.

            Thụy nói qua với Loan về Huê.

            Rồi mọi người ngồi vào bàn. Bữa cỗ dọn rất nhiều món, và có bia.

            Dì Hồng bảo Thụy:

-Tối ở lại đây chơi bài nghe con.

-Dạ.

            Thụy quay sang Lăng:

-Ở lại không ?

-Không, về. Ngày mai anh lên nhà cậu ?

-Chưa biết. Có thể chiều tôi thăm Tết cậu và mấy dì rồi vào trại luôn.

            Khi vào bàn ăn, Thụy dành chỗ cho Loan và Huê ngồi gần nhau. Hai cô chuyện trò thân mật. Huê có vẻ thích nghe giọng Huế của Loan, còn Loan, chắc cũng nhận ra nét đẹp của Huê, nhưng một điều  không hay biết, Huê nói giọng Nam nhưng gốc Bắc.

 

 

                                                             XVII                                                                 

 

 

 

            Sau đợt thi lại cuối cùng lần thứ ba, chỉ có bốn khóa sinh đạt đủ điểm chuẩn 60 ECL. Thụy tiếc hùi hụi, vì anh chỉ thiếu có một điểm. Nhớ lại lúc ở trong phòng lab có một số câu do ngờ ngợ, không dám quả quyết, anh đã đánh trúng, lại xóa đi đánh vào câu khác, thành ra sai. Không chỉ phần nghe, cả đến phần viết nữa. Đúng là số con rệp. Với cái tuổi đời đã 26, biết khôn ngoan, hiểu rõ khả năng của mình và những cơ hội biết chọn đúng lúc, thì đời quân ngũ của Thụy cũng khá sáng, đâu đến nỗi tệ như  lúc này. Nếu có nên trách cứ, Thụy hãy biết, anh là kẻ tự làm cho mình đi lạc đường. Nhận định này không sai đâu, thời học sinh, anh chỉ học vài ba môn anh thích, luôn chỉ chú tâm học các môn này thôi, tảng lờ những môn khác. Vào lính, thời gian ở Sài Gòn, cơ hội học lớp đêm dễ dàng với học phí nhẹ, không cao lắm, anh lại không nghĩ đến mà chỉ dành thời gian tự học lấy, thành ra mất căn bản. Bỏ đi ba năm, không chịu xin đi học sĩ quan sớm, đó cũng là sự chậm lụt do anh thiếu suy nghĩ. Rồi, gần đây nhất, cơ hội đi Mỹ được dành cho anh với sáu tháng học Anh ngữ, anh chỉ hăng hái lúc đầu, rồi tụt dần, do một phần mơ mộng, nhớ nhung những bóng dáng người đàn bà chỉ có trong tưởng tượng, một phần nữa, thay vì cố gắng học tiếng Anh cho khá, chưa thông được môn này, anh lại còn kiểu cách đèo theo thêm môn tiếng Pháp nữa,  để làm gì, khi anh đã dứt khoát không có ý định thi tiếp Tú tài phần hai nữa. Học tiếng Pháp, anh chỉ có biết thêm về ngữ vựng, nó giúp anh hiểu để bổ sung cho tiếng Anh, thế nhưng, hai ngoại ngữ này, nghe và  đọc rất là khác nhau, thật rất dễ vướng mắc, lầm lẫn. Và, rõ ràng, kết quả những kỳ thi vừa qua, từng giai đoạn chuyển cấp, cũng như ra trường, Thụy rất yếu về phần nghe là phần chính yếu gồm 80 câu hỏi. Phần văn phạm anh cũng yếu nữa, dù vậy, anh còn làm được trên mức trung bình.

            Số khóa sinh còn lại, năm mươi người đang chờ. Rất có thể đôi ba ngày nữa thôi, hoặc qua đầu tuần tới, tất cả số này sẽ được trường Anh ngữ trả về Bộ Tư Lệnh để giải quyết.

            Thụy chẳng buồn tìm kiếm ai trò chuyện, hoặc hỏi dò tin tức. Hôm đó, kết quả thi vừa yết xong, số anh em không may mắn đến tìm viên Đại úy phụ trách học vụ để hỏi, ông cảm thấy phân vân, rồi cho hay rằng, vì lý do tài khóa đã chấm dứt nên trường không thể giữ lại lâu thêm nữa. Thời gian ấn định là sáu tháng khóa sinh phải đậu ra trường, nếu không, thì trả về đơn vị gốc.

            Rất thông cảm với số phận của anh em khóa sinh, ông nói:

-Tôi hy vọng, các anh sẽ được chuyển ngành.

-Không phải là chúng tôi sẽ qua trường Thủ Đức.

-Tôi hy vọng là không. Vì Không quân tuyển các anh vào binh chủng này mà.

-Nhưng ở binh chủng này không định rõ qui chế. Chúng tôi học xong quân sự giai đoạn II, lý ra phải được làm lễ tốt nghiệp để đeo lon rồi học tiếp ngành bay, nhưng bây giờ, rớt Anh ngữ, chúng tôi lại bị đưa qua Bộ Binh học giai đoạn 2 một lần nữa, vậy học quân sự ở Nha Trang với mục đích gì. Chúng tôi đi lính,  đâu ai muốn kéo dài thời gian ở quân trường.

-Tôi không ở binh chủng Không quân nên không trả lời được.

-Chúng tôi hiểu.

            Một khóa sinh phân trần:

-Những bạn chúng tôi, cùng một lượt vào Quang Trung, rồi Thủ Đức ai cũng đã ra trường và có cấp bậc. Còn chúng tôi qua Không quân, giờ thiệt thòi, nếu trở lại Bộ Binh.

            Trên vẻ mặt và ánh mắt của viên Đại úy luôn giữ một vẻ điềm đạm, vừa cảm thông. Khi nghe từng lời tâm sự các khóa sinh đang đứng quanh ông, ông cũng thấu hiểu rằng, tổ chức trong quân đội miền Nam có rất nhiều sự bất hợp lý và bất công. Thử đem ra bàn xét, hãy khoan nói ngoài đơn vị mà đặt ngay trong qui chế của quân trường. Một thanh niên chỉ có bằng Trung học đi Bảo An, ra trường đeo lon Thiếu úy, trong khi đó, bạn anh ta có bằng Tú Tài đi Thủ Đức 9 tháng, ra trường chỉ đeo lon Chuẩn úy. Giữa trường Đà Lạt và Thủ Đức cũng khác nữa. Vào học Đà Lạt hai năm ra trường Thiếu úy, một năm sau lên Trung úy, còn ở Thủ Đức, khi ra trường là Chuẩn úy, đến khi được lên Trung úy thường niên thời gian là đúng ba năm sáu tháng. Tới lúc đó, thì các Sĩ quan xuất thân Đà Lạt đeo lon Đại úy hết cả rồi. Nhưng nếu xét nữa, Đà Lạt còn thua Biên tập viên Cảnh Sát, những ai học ngành này, ra trường mang cấp bậc Đại úy, le hơn cả mấy ông học ngành quân y ra trường chỉ mang lon Trung úy.

            Bỗng có bạn hỏi:

-Đại úy học ở Thủ Đức hay Đà Lạt ?

-Tôi học Thủ Đức, khóa 14.

            Có bạn khác với một giọng vui, nói:

-Tôi vào Quang Trung khóa 9/68, giờ vẫn còn đeo con cá.

            Sau một hồi suy nghĩ, viên Đại úy đáp lời:

-Theo ý tôi, trường hợp các anh đã học xong phần quân sự phải ra trường có cấp bậc hẳn hoi, về phần Anh ngữ, phần đi học bay là thuộc chuyên môn, anh nào đủ khả năng thì học, thiếu khả năng bị loại thì đưa ra bộ binh, phần nào đó các anh không có lời ta thán, đằng này, các anh cứ trong tình trạng lơ lửng, chẳng biết đến lúc nào mới được ra trường. Mà, cho dù số khóa sinh, sinh viên qua Mỹ học bay, đâu có dễ dàng như học quân sự bộ binh, rồi rớt bên đó, về VN, lại qua Bộ Binh, vậy thời gian các bạn đó đeo alpha thực là quá lâu.

            Viên Đại úy nói xong, có bạn phân trần:

-Tại sao Bộ Quốc Phòng không qui định rõ qui chế cho từng quân trường, Đại úy. Tôi có chút suy nghĩ, trường Bộ Binh đâu có phải là bãi rác, ai cũng đem ném vào đó được cả. Ở Không quân, ngành phi hành đâu chỉ có phi công lái máy bay, còn những ngành khác nữa như quan sát viên, điều hành viên, cơ khí viên, sao không cho chúng tôi qua các ngành đó học mà chuyển qua bộ binh.

            Viên Đại úy cười một cách độ lượng, nói:

-Anh làm như tôi là Tướng Bùi Đình Đạm.

            Rồi một giọng thân tình, ông nói:

-Có một số ông Tướng của mình chịu khó học lắm các anh. Tướng Cao Văn Viên và Bùi Định Đạm thi Tú Tài, rồi Cử nhân đậu từng năm một.

-Ai mà đám đánh rớt mấy ông đó, Đại úy.

-Tôi chỉ biết là mấy ông ấy vẫn còn chí ham học.

-Nhưng mấy ông ấy đậu, chắc gì là theo khả năng.

            Một bạn cắt ngang, hỏi:

-Bao lâu nữa, chúng tôi rời trường ?

-Kể từ ngày mai, các anh không đến lớp nữa.

-Ngày mai chúng tôi không đi học nữa, sao ?

-Phải, các anh cứ ở bên trại chờ quyết định của Bộ Tư Lệnh.

            Viên Đại úy xin rút lui, trở về chỗ làm việc, ông nói lời cáo từ rất nhã nhặn, lịch sự.

            Giờ tan học, khóa sinh ra về. Vẫn không khí bình thường như mọi ngày, nhưng hôm nay, riêng các bạn vừa thi rớt, sắp sửa từ giã cuộc sống ở trại từ sáu tháng nay, có chút gì đó, ân hận và ngậm ngùi. Nỗi buồn của họ, vẫn đang cố níu theo những cánh tay và những bước chân rất nặng nề.

            Sau bữa ăn, Thụy đến thư viện tìm Kiêm nhưng không gặp. Có Trung úy Trân đang ngồi soạn thảo bài thuyết trình, bên cạnh ông là những sách tài liệu tham khảo.

Thụy có biết ông qua Kiêm. Trông thấy Thụy, ông ngừng viết, nói:

-Kiêm đi công tác chưa về.

            Thụy ngập ngừng, muốn rút lui, nhưng viên Trung úy bảo:

-Ngồi xuống đi.

            Thụy kéo ghế ngồi, một giọng thân tình viên Trung úy hỏi:

-Anh Thụy học hành xong chưa ?

-Tôi thi rớt rồi, Trung úy.

-Vậy hả. Chà, sao để rớt, cơ hội đi Mỹ cho anh mà.

-Hôm nay thi xong kỳ chót, chỉ có bốn người đậu ?

-Anh Thụy được bao nhiêu điểm ?

-59, thiếu một, Trung úy.

-60 điểm trường cho đậu. Đây là mức trung bình cho 120 câu thi.

-Dạ đúng vậy.

-Anh Thụy thi lần thứ mấy ?

-Lần thứ ba. Lần thi nào vào final cũng bị rớt, điểm cứ suýt soát, một hai.

-Rồi, bây giờ sao ?

-Anh em đang chờ về Bô tư lệnh.

            Sau điều Thụy nói, viên Trung úy im lặng nghĩ ngợi. Vì không muốn làm mất thì giờ, Thụy đứng lên kiếu từ. Viên Trung úy bắt tay anh, chúc anh có sức may mắn.

            Khi trở về lều, nhìn cảnh trống vắng căn lều với những chiếc giường đã bỏ trống, Thụy cảm thấy hụt hẫng.

            Sự luyến tiếc và hối hận đặt Thụy trong tình cảnh đơn độc, cố gắng đi tìm lấy sự an ủi. Và, hơn ai hết, giờ đây Thụy đang nghe tiếng nói của Thúy Hà.

            Trong cuộc sống mỗi người, cơ duyên là một ý nghĩa hiện sinh. Thúy Hà hẳn chỉ biết mình là một thiếu phụ. Nàng có rất nhiều hình bóng cũ và những kỷ niệm thân thương để luyến nhớ, nhưng nay, trong chiếc cặp da thời đi học nàng vẫn còn giữ, bao nhiêu thứ đó được đem cất. Thư từ, những lá thư đầu tiên đưa đến năm nàng mới mười hai tuổi. Rồi mỗi cái tuổi của nàng, không hẳn làm mới như đồng tiền lì xì, mà nó là tiếng động mùa thu của chiếc lá rơi nhẹ nhàng, nhưng được nghe thấy.

            Vì Duy và những người bên gia đình chàng có điều tiếng không hay về nàng, cuối cùng, ông bà Kha khuyên nàng thôi làm công việc ở phi trường, tìm một việc khác, nếu không, ở nhà giúp đỡ công việc sản xuất nước hoa cho gia đình có thêm lợi tức.

            Sau hơn một năm ở với gia đình bên chồng, ngày Duy rời quân trường Thủ Đức về, anh và nàng kéo ra ở riêng. Và, đó là ý của nàng. Nhà Duy rộng, nhiều phòng, có vườn cây ăn trái, nhưng Thúy Hà vì không chịu nổi những chuyện tranh chấp, cãi vã, và nhà ở còn là nơi tụ tập cờ bạc hàng ngày. Ngay trong năm đầu tiên mới lấy nhau, Thúy Hà đã khuyên Duy nên lánh xa những con bạc, vì nó không hay, và càng trở nên tệ hại. Duy rất yêu Thúy Hà, yêu vợ, nhưng anh mới là con sâu cờ bạc hơn cả những người khác bên nhà anh. Bởi một lẽ đó, Thúy Hà bỏ mặc, nàng đi làm việc cho một cửa hàng quân tiếp vụ Mỹ bên trong phi trường. Ngày đầu tiên, nàng gặp người cửa hàng trưởng, tên Anthony Clair. Nàng nói tiếng Anh rất lưu loát, làm anh ta hài lòng. Và, trong lúc hỏi chuyện nàng, anh ta cũng chú ý đến sắc đẹp của nàng qua đôi mắt và gương mặt. Kết thúc buổi phỏng vấn, anh ta bắt tay nàng, và trong ánh mắt nhìn, anh  nói nhỏ tiếng:

-Cô đẹp quá.

            Nàng rất hiểu lời khen của Clair. Ngày hôm sau, Clair dẫn nàng đi thăm cơ sở làm việc, có văn phòng, nhà kho, cửa hàng buôn bán, và cùng lúc giới thiệu nàng với các nhân viên trong cửa hàng. Chỉ có một phụ nữ Việt Nam làm văn phòng, hai công nhân ở nhà kho, còn phần đông là người Mỹ bên dân sự cũng như quân sự.

            Trong khi dẫn Thúy Hà đi thăm cơ sở, Clair thích ngắm nàng, và cũng nói ra những lời tán tỉnh. Anh ta khen nàng mặc áo dài đẹp, đôi mắt, mái tóc  nàng đẹp, và nàng có giọng nói hay. Thúy Hà chỉ mỉm cười, và khi được Clair hỏi, nàng  thẳng thắn trả lời là nàng đã có chồng và một cháu nhỏ. Tiếp lời, nàng nói thêm chồng nàng là một sĩ quan, cấp Trung úy.

            Hai người trở lại văn phòng, Clair đưa cho Thúy Hà một cuốn sách nhỏ chỉ dẫn, trong đó, có ba mươi điều lệ được in bằng chữ lớn và đậm.

            Để cho Thúy Hà vui lòng, Clair hỏi:

-Cô cần mua hàng gì không ?

-Cám ơn, Thúy Hà đáp.

            Rồi nàng hỏi lại:

-Ông sắp cho tôi làm công việc gì ?

            Clair đáp ngay:

-Không gấp vội. Ngày thứ hai đầu tháng cô đến.

-Cám ơn ông.

            Nàng bắt tay Clair. Từ phi trường, có xe thường xuyên ra vào, và Clair nói với tài xế riêng của mình lái xe đưa nàng ra phố.

            Trên đường, nàng và anh tài xế cũng vui chuyện. Thực sự, anh là một quân nhân điều từ một đơn vị tiền tuyến phía Nam ra ngoài này. Mới tới Việt Nam hơn một năm, nhưng đất nước này làm anh ta vui, phong cảnh xứ này đẹp nhất là biển. Nàng hỏi về Clair, anh ta chỉ biết, ông sếp của mình là người ở tiểu bang Tennessie, học về ngành Luật.

            Người tài xế dừng xe bên ngoài đường, trước cửa hiệu nhà nàng.  Nàng bắt tay, nói lời cám ơn.

            Chiếc xe nhỏ của Clair sơn màu trắng. Từ đầu phố trên này, nhìn trong tầm xa bạn vẫn trông  thấy rõ những sinh hoạt của phố chính dưới kia.

            Henry mới 24 tuổi, quê nhà ở California, đã học xong hai năm ở trường Cộng đồng Golden West. Khi nàng đưa tay cho anh bắt, anh xin phép được hôn bàn tay nàng. Nàng mỉm cười, bằng lòng.

            Bữa ăn trưa, gia đình đông đủ.  Thúy Hà nói cho ba mẹ và các em trong nhà biết công việc mình sắp làm. Ông Kha ra dáng suy nghĩ. Thúy Hà không hiểu được ba cô đang nghĩ gì. Nàng nói:

-Mình có thể bán thêm thuốc lá và một số mặt hàng ngoại.

-Con đã hỏi ý của Duy chưa ?

-Không cần, ba ạ.

            Duy biệt phái ra đảo, khoảng ba tháng sau trở về nhà. Khi về, anh thấy có sự thay đổi, vừa hài lòng vì Thúy Hà làm ra nhiều tiền. Nhưng, lòng anh vẫn có mối lo vì số tiền lương anh lãnh được đã nướng hết vào những canh bạc. Duy đánh có ăn, lúc đỏ ăn lớn, nhưng rồi qua ngày khác anh lại thua.

            Hôm đó, nàng đáp lời anh:

-Không, em không về bên nhà anh.

-Tại sao ?

-Không sao hết. Anh về một mình đi.

-Tại sao cô không về dưới nhà.

-Không, tôi nói với anh là không.

-Cô thật là quái lạ.

-Tôi chán anh lắm rồi.

-Nhưng tôi đã làm gì ?

            Thúy Hà hét lớn:

-Anh đi làm, tiền lương đâu ? Bao nhiêu tháng nay rồi…?

            Duy sửng sốt. Anh nhìn Hà, tóc nàng rối bời, giận dữ.

            Một lúc sau, niềm đau dịu xuống, anh ngồi vào ghế, nhìn sang người vợ, giọng khô đặc anh nói:

-Anh xin lỗi em.

-Không, anh chẳng có lỗi gì với tôi cả.

-Ở xa, không có gì làm, anh đánh bạc cho đỡ buồn, rủi bị thua.

            Thúy Hà không đáp lời. Nàng chẳng nhìn, cũng chẳng bận tâm hay nhủ lòng thương hại trong sự hối lỗi của Duy. Anh ngồi đó, mặt ủ rũ. Thúy Hà lấy quần áo đã phơi khô đem ra ủi. Xong việc, nàng vào phòng trong thay quần áo.

            Khi nàng trở ra, Duy hỏi:

-Em đi đâu ?

-Về nhà tôi.

            Duy nén giận, nhưng anh cứ để cho Thúy Hà đi. Trong lúc Thúy Hà ngồi xích lô về nhà mình, Duy  bỗng thấy có sự nghi ngờ vụt sáng qua đầu anh. Không kiềm chế được, anh mở các ngăn hộc, những giấy tờ để trong đó, anh lôi ra hết để xem xét. Có một lá thư của Clair gởi cho nàng, Duy cầm đọc, nhưng anh không hiểu hết ý.

            Duy bỏ lá thư ra một bên, tìm kiếm tiếp. Sau đó, anh vào phòng của Thúy Hà lục tìm từ trong tủ trang điểm, tủ quần áo và những chỗ khác trong phòng.

            Bên trong chiếc áo vét, Duy tìm ra tiền của Thúy Hà cất giấu. Đó là tiền dollars đếm được hơn bốn trăm đồng. Duy bỏ tiền lại trong túi đi ra ngoài. Anh cầm lá thư của Clair gởi cho nàng và đặt cuốn tự điển cỡ trung một bên.

            Duy đọc xong lá thư, hiểu lờ mờ, dù đã cố gắng tra nghĩa từng chữ. Duy cất lá thư trong túi.

            Hôm nay chủ nhật, hàng bán được. Khi thấy nàng về, đứa nhỏ reo mừng. Trong lúc nàng ôm con nựng nịu, bà mẹ hỏi:

-Duy về chưa con ?

-Về rồi. Đánh bạc thua nữa.

            Ông Kha lên tiếng:

-Tại sao lại có chuyện đó nhỉ.

-Con không khuyên bảo Duy ?

-Vô ích, mợ ạ.

            Bà mợ nói:

-Đang lúc này cũng may, con có được việc làm.

            Đứa nhỏ ngồi trên chân mẹ. Nàng vuốt mái tóc nó, cảm thấy sự an ủi của nó dành cho nàng thật mềm mại.

            Một người khách xuất hiện ở trước cửa lên tiếng chào, vừa hỏi:

-Hàng đóng xong chưa ông bà ?

-Rồi, ông ạ.

            Người khách bước vào, anh ta cầm tờ biên lai xem kỹ. Sau đó, anh ta rút một cọc tiền trong túi đếm lại để trả.

            Ông Kha phụ giúp đưa hàng ra xe gắn máy cho khách. Hàng được buộc cẩn thận bằng nhiều sợi dây cao su hai lớp.

-Đi nhé ông.

-Vâng, chào ông.

            Ông Kha quay vào nhà, ngồi xuống ghế cầm tách trà đã rót sẵn đưa lên miệng uống. Nhà vắng, bà mẹ cho hay các em đi học thêm. Thúy Hà hỏi:

-Ba có tính cho Vũ đi Không Quân không ?

-Cậu xong Tú Tài II, ba cho đi ngành kỹ thuật.

-Ba không để cho em đi phi công ?

-Tùy cậu. Nhưng vào Không Quân thôi, nếu không học lên Đại Học.

-Không biết anh Thụy đi Mỹ chưa ?

-Chắc cậu còn học Anh văn đã.

            Buổi chiều xuống yên bình. Vừa thấy các cậu và các dì về đứa nhỏ reo lên. Vũ tới bồng cháu, nhấc bổng, nó cưới thích chí.

            Nhà dọn lên bữa ăn sớm hơn thường lệ. Bữa ăn có bia, nhưng chỉ có ông Kha và Vũ uống.

-Anh Duy về chưa chị Hà ?, Vũ hỏi.

-Về rồi, cháy túi.

-Trời đất, Vũ cười.

            Vân nói:

-Anh Duy sao không có chút trách nhiệm gì với vợ con.

-Chiếc xe Honda anh đi cầm lấy lại chưa ?

-Ông bán luôn rồi. Nhưng có phải cầm và chuộc lại, ông về xin tiền bên nhà.

            Hôm nay, Thúy Hà ăn được nhiều. Khoảng mười giờ đêm, đứa nhỏ buồn ngủ nàng mới bồng con thuê xích lô về nhà.

            Không biết Duy đi đâu, nhưng anh cũng vừa mới trở về. Thúy Hà đặt đứa nhỏ xuống giường ngủ, xong cầm tờ báo đọc. Nàng ở trong phòng riêng không ra ngoài.

            Khi Duy đứng dậy đi tới bàn lấy một lá thư để trong cuốn sách, anh lên tiếng.

-Thúy Hà, em ra đây.

            Im lặng, Thúy Hà vẫn xem tờ báo. Một lúc, Duy vào, anh cầm lá thư trên tay nói với Hà.

-Ra ngoài này anh nói chuyện.

-Không, không có gì nói với anh cả.

            Duy nhìn Thúy Hà nói:

-Tôi xin tiền nhà bù vào tiền lương, đừng lo lắng.

-Tôi không cần tiền của anh.

-Nhưng lá thư này là của ai.

            Thúy Hà đứng lên đi ra ngoài.

-Anh nói gì về lá thư ?

-Ông Clair là ai, viết thư cho cô đây ?

            Thùy Hà hỏi:

-Anh đọc có hiểu không ?

            Duy ấp úng. Anh nói:

-Nhưng đây là lá thư tình cảm ông Clair gởi cho cô.

            Nàng đáp:

-Anh cầm lá thư này nhờ bạn anh dịch cho.

            Duy nghiêm vẻ mặt, nói:

-Không cần. Cô như thế nào tôi đã hiểu.

-Anh cứ cho tôi làm đĩ đi, không sao cả.

            Duy nghe giật mình, đứng sững. Anh quay mặt, tránh cái nhìn của nàng. Anh nói một lời nhẹ nhàng.

-Cô đã nói ra những điều cô sẽ làm được.

            Thúy Hà đáp:

-Anh nghĩ đúng.

            Thúy Hà trở vào phòng lên giường, tắt đèn ngủ. Một mình, Duy xuống bếp đun nước sôi pha cà phê. Anh cho cà phê vào phin, nước chỉ nấu vừa một ly nhỏ nên mau sôi. Duy rưới qua chút nước rồi đổ đầy phin. Không đợi lâu, cất chiếc phin đi, Duy lấy hộp sữa đổ một lớp mỏng xuống cà phê, khuấy đều.

            Duy đem cà phê lên, ngang qua phòng hai mẹ con ngủ anh dừng bước, rồi đi vào. Trên tay Duy, ly cà phê sữa đang nóng. Anh cúi gần xuống, nói nhỏ bên tai Thúy Hà.

-Có cà phê ngon, em dậy uống với anh.

            Thúy Hà nằm im. Duy nắm lấy cánh tay Thúy Hà, lay nhẹ. Nàng mở mắt.

-Có cà phê ngon, dậy uống với anh.

            Thúy Hà đáp:

-Mai tôi phải đi làm.

            Duy trở ra ngoài. Anh đến móc áo, tìm gói thuốc để trong túi jacket. Với gói thuốc, ly cà phê, Duy ngồi ở phòng khách một mình. Ánh đèn đêm cho anh một cảm giác mệt mỏi, gương mặt đã già đi.

            Duy nhìn khói thuốc. Cà phê thật ngon. Anh không sợ mất ngủ, vì ngày mai anh nghỉ, có thể một hai hôm dưỡng sức anh mới vào tiểu khu trình diện. Lúc này, sự suy nghĩ của Duy là tìm ra một phương kế để làm giải tỏa sự bức xúc, mặc cảm trong gia đình.

            Đồng hồ treo tường chỉ một giờ sáng. Thúy Hà thức giấc, nàng đi xuống nhà sau, khi trở lên vẫn thấy Duy đang ngồi viết thư.

            Nàng trở về giường, ngủ lại.

            Thời gian qua đi. Công việc làm ở phi trường giúp Thúy Hà kiếm được nhiều tiền. Clair đeo đuổi nàng, dành cho nàng những đặc ân. Anh ta mời nàng đi ăn, hai ba lần khẩn khoản nàng mới nhận lời. Và, một tối hôm đó, trong đêm vui dạ tiệc, nàng có uống rượu và nhảy với Clair, thêm một vài khách là lính Mỹ một số bản nhạc. Rồi, với phút giây tình cảm cởi mở, nàng đứng im để cho Clair ôm nàng. Nàng cũng hé môi đón nhận nụ hôn, và Clair càng lúc thêm ngây ngất khi hôn say đắm trên cặp môi của nàng. Những nụ hôn cuối cùng, anh nuốt sâu làm cho Thúy Hà có cảm giác chênh vênh, tưởng như mình đã ngã quị.

            Rất bất ngờ, Thụy nhận được lá thư của Duy. Thư gởi về nhà dì Hồng. Lúc này, Thụy đang học lên bậc trung cấp 2, sách 2300 và 2400, học xong bốn tuần lễ anh sẽ thi một cái final test để lấy điểm ra trường. Không biết linh cảm về chuyện gì mà Thụy cảm thấy nôn nao, lo lắng. Anh sắp phải trải qua một kỳ thi quan trọng, từ lúc nhập khóa học đến giờ, Thụy học tương đối là được, không xuất sắc lắm nhưng không đến nỗi quá tồi, và ở đây, những khóa sinh học trước đã lâu, thời gian định mức sáu tháng không đậu kỳ thi ra trường đã bị loại, những bạn này đành chấp nhận vào trường Thủ Đức để sau đó ra bộ binh.

            Thụy nhớ Liên An, anh đã viết thư gởi đi, đang trông đợi có thư của nàng. Có còn ai nữa không, Thụy không thể nhớ nữa, nhưng giờ đây, Liên An vẫn là áo trắng, bên anh là bóng dáng cái tháp nước và tiếng còi vọng xa của con tàu.          

            Trở lại trại, cơm nước xong Thụy về lều nằm đọc thư của Duy. Lúc ở nhà dì Hồng, anh đã mở thư, nhưng chỉ đọc lướt qua. Thụy đọc kỹ từng giòng, tự dưng  anh cảm thấy lo ngại. Tình yêu anh và Thúy Hà không bao giờ mất, vẫn được giữ trong con tim, trong nỗi nhớ. Khi gần gũi, đó là những tháng ngày đợi mong. Khi xa cách hình ảnh hai người như bóng dáng đôi bờ trong buổi chiều, đó là vẻ đẹp buồn của ánh nắng, và sự thương yêu của một dòng sông êm đềm. Thế nhưng, đó là cuộc sống của những lý tưởng, của giấc mơ, không thuộc về thực tại.

            Những ngày gặp lại Huê và có nàng, đôi tình nhân đã có được một thành phố mình luôn gắn bó và mến yêu, luôn hiểu rằng chỉ có những sự vật, những cảnh vật nói thay cho mình những cảm ý chân tình, và đúng ý nghĩa nhất. Hạnh phúc mà Huê tìm thấy nơi Thụy là cuộc đời bình thản của một người lính, cho và nhận một cách vô thường. Về phía Thụy, anh có Huê như là một nơi chốn quen thuộc hàng ngày, đi đâu xa hay gần, trở về lại luôn nhận ra cái mối tình thân của con đường, của ngôi nhà mình ở.

            Thụy bỏ lá thư của Duy vào phong bì, ngẫm nghĩ:

-Mình viết gì đây cho Duy, cho Thúy Hà để hai vợ chồng hiểu được nhau.

            Không đọc lại lá thư khá dài với bao nhiêu tình tiết như đó là thuộc về tiểu thuyết, hiếm thấy ngoài cuộc đời. Một đoạn tâm tình với Thụy, Duy viết:

            …Tôi với anh Thụy được biết nhau qua gia đình Thúy Hà. Riêng với nàng, tôi rất hiểu nỗi buồn của anh trong một tình cảm, đúng hơn trong một con tim anh cất giấu gương mặt Thúy Hà. Nhưng hơn ai hết, anh vẫn luôn có với tôi một tình bạn thật trong sáng, một sự tôn trọng dành cho Thúy Hà và cả tôi nữa, đúng thật anh là một con người của lòng tin. Thúy Hà rất là quí anh, tình cảm nàng dành cho anh có thể nói vượt cả tình bạn, tình yêu, tình chồng vợ, tôi hiểu anh và Thúy Hà hai người trong tâm hồn mãi mãi là của nhau. Thế nhưng, tôi đã có nhiều lầm lỗi với người vợ của mình, với cô em gái của anh, nên tôi nghĩ, không một ai khác ngoài anh ra nói được với nàng bằng một tiếng nói trung thực nhất….

            Hết hai ngày cuối tuần, khóa sinh lại đi học. Vào giai đoạn cuối này, Thụy rất cố gắng, anh cầu mong đạt được điểm chuẩn để ra trường, chí ít, cũng có được một lần sang nước Mỹ. Lúc này, không khí trong trại rất là náo nức, bồn chồn, mỗi buổi tối vào giờ phát thanh anh em đều lắng nghe tin tức về chương trình du học, về các tài khóa học, sau đó là tên những bạn được Bộ Tư Lệnh gọi về để làm thủ tục xuất cảnh. Những bạn này có tên, vì đã đạt được điểm tiêu chuẩn về kỳ thi Anh ngữ ra trường.

            Thụy đã viết xong lá thư gởi cho Thúy Hà.

            Hôm ấy, vào giờ nghỉ trưa, Thúy Hà vào văn phòng làm việc của người cửa hàng trưởng Anthony Clair.

            Anh ta rất vui khi tiếp đón nàng. Tự mình lấy nước mời nàng uống và hỏi chuyện về công việc nàng làm. Thúy Hà trình bày việc quan trọng của mình, Clair lấy làm ngạc nhiên, anh ngả người dựa lưng ghế để lấy chút bình tâm. Rồi anh hỏi:

-Cô Hà, có chuyện gì vậy ?

-Không có gì cả. Chồng tôi thuyên chuyển nơi khác.

-Ông nhà đi đâu ?

-Nha Trang (nàng phải nói dối)

-Tôi nghĩ cô cứ làm việc, rồi tôi sẽ tăng lương.

            Một chập suy nghĩ, nàng nói:

-Chồng tôi không muốn tôi làm việc ở phi trường.

            Trên vẻ mặt Clair lộ vẻ đăm chiêu. Anh nhìn Thúy Hà, không hẳn phải quyến luyến những ngày vui bên nàng, mà anh cần có sự hiện diện của nàng để anh làm chạy công việc.

            Trước khi giã từ nhau, Clair tặng cho Thúy Hà một món quà, và đặc biệt cho nàng mua được những thứ hàng nàng cần trong quân tiếp vụ. Nhân buổi chia tay, Clair mời nàng  đi ăn tối. Sau đó, hai người khiêu vũ ở hội quán, tới mười hai giờ đêm Clair đưa nàng về nhà.

            Một buổi chiều chủ nhật, sinh nhật bà Uyên. Sau bữa tiệc vui trong gia đình, cả nhà ngồi nghe ông Kha nói chuyện với Duy :

-Ba thấy con thiếu trách nhiệm với gia đình. Không hiểu sao, con không dứt nổi sự cám dỗ của cờ bạc. Hãy nhớ rằng, trong cờ bạc đỏ đen, nhân cách con người xuống rất thấp. Và, con là người thấy rõ. Những việc con làm do sự đỏ đen trong cờ bạc, tự nó, đã làm con mất hết giá trị của một Sĩ quan. Ai cũng có lúc vui, và chơi đúng người đúng cách. Ở đây, con đánh bài bạc với cả lính. Khi thua, con không thể tránh được, như con đã thấy, con mắc nợ lính, lính đến nhà đây đòi nợ. Nếu như con được bạc của họ, con nghĩ  thế nào khi vợ con họ không có được đồng lương của chồng, của cha mang về để nuôi sống hàng ngày. Không có tiền lương, họ phải chịu thiếu thốn. Như vậy, chơi bài bạc, con thua lính được nhờ, con đánh ăn, lương tâm con đâu được yên bình.

-Vâng con xin lỗi ba và vợ con.

            Duy đáp lời ngay sau khi ông Kha ngừng lời. Chừng đó, ông thấu hiểu không nói gì thêm.

            Sự căng thẳng trong gia đình chỉ lo âu một chút, sau đó, vui trở lại. Duy ngồi bên Thúy Hà, nắm giữ lấy tay nàng.

            Một lúc sau Duy nói:

-Em nhớ viết thư cho anh Thụy.

-Anh Thụy…

            Nàng chợt ngừng lời, hình ảnh của nàng như chỉ cho bạn thấy một mái tóc rất đẹp, đen nhánh xõa xuống bờ vai.

 

                                                            

 

                                                   Phần Thứ Tư

 

                                                     

                                                              I

 

 

            Bây giờ Thúy Hà đã dọn vào ở Hội An. Gia đình nàng tìm được nơi thành phố này một cuộc sống bình thường, êm ấm. Đứa con trai có tên là Vinh , cháu gần được ba tuổi và trông rất giống mẹ. Nơi chỗ ở chỉ cách xa trung tâm chừng một cây số, căn nhà sân trước rộng, sau lưng là một khoảnh vườn có trồng cây ăn trái, và mấy thứ rau cải để dùng khi cần đến cho bữa ăn hàng này. Từ Quảng Tín, Duy được thuyên chuyển ra Hội An, làm việc ở phòng tài chánh, chức vụ phát ngân viên. Còn Thúy Hà, nàng làm việc bên ngành du lịch. Hội An tuy nhỏ, nhưng đây là một thành phố cổ xưa giữ được nhiều di tích lịch sử về các thời chúa Nguyễn. Còn nữa, có biển Cửa Đại, cát trắng rất sạch và đẹp.

            Thụy cùng năm chục anh em khác nữa bên Không quân đã lên trường Thủ Đức nhập vào khóa trừ bị 6/70 để học lớp trung đội trưởng. Vài ngày sau, anh viết thư cho Thúy Hà, vừa lúc nhận được thư anh gởi, nàng đáp lời ngay cùng kèm theo mấy tấm ảnh gia đình. Bao giờ cũng vậy, đọc thư nàng viết, lòng Thụy luôn buồn nhớ. Những giòng, cũng như từng nét chữ thân thương của nàng là những lời thương yêu của một người vợ. Từ buổi ấy ra đi, Thụy không chỉ ôm giữ trong con tim mình hình ảnh của người yêu, mà còn cả những tấm ảnh nàng đã trao cho anh nữa. Đến nay, ảnh và thư của Thúy Hà Thụy vẫn cất giữ. Buổi sáng ấy, lúc chiếc xe GMC vượt khỏi cổng gác chạy lên đường dốc, nhìn xuống phía bên trái thấy khung cảnh khu nhà tiếp tân trống vắng, tự dưng lòng Thụy nhớ nôn nao đến Thúy Hà, nhớ ngày hôm đó anh dẫn nàng đi, đến đây, nàng thăm chồng, còn anh thăm một người bạn.         

            Thụy ở Đại đội 37 thuộc Tiểu đoàn 3.  Khu doanh trại của Đại đội rất khang trang có trồng cây và đào giao thông hào, trên mặt hào, trải đều từng hàng bao cát, không chỉ để tránh đạn pháo kích, còn tiện làm chỗ ngồi nghỉ chân trong những giờ sinh hoạt tự do ngoài trời. Một dãy nhà ngói dài, chia bốn phòng ở cho bốn trung đội. Chỗ ngủ là giường sắt và được phát chiếu nylon để trải nằm.

            Vào những ngày đầu mới đến, Thụy vẫn mang nặng mặc cảm, anh hay nghĩ đến số phậm hẩm hiu về bao nhiêu tháng ngày qua trong đời quân ngũ của mình. Thụy cứ mãi hổ thẹn, vừa tiếc rẻ trong sự phân vân, đáng lý ra anh nên xin đi học lớp sĩ quan sớm hơn, không cần thiết là được ở binh chủng Không quân thì đến lúc này, anh cũng đã có được hai bông hoa mai gắn trên ve áo trận rồi.

            Sự tình cờ Thụy quen biết Trương. Hôm ấy, hai bạn đứng cùng hàng và giá súng chung một chỗ trước khi vào phòng học lý thuyết môn chiến thuật. Hai giờ sau, cả đại đội cùng rời phòng với ba lô, súng đạn di hành ra bãi tập. Trên đường, đi hàng trước, hay hàng sau, phía nào cũng nghe  ồn ào tiếng trò chuyện, cười nói rất vui vẻ. Tự dưng, nhìn qua Trương, Thụy cảm thấy thân mến với người bạn.

            Ngày nào có hai môn địa hình và chiến thuật, sau buổi học lý thuyết ở phòng là đi ra bãi thực tập. Buổi học sáng qua rất nhanh, tới giờ nghỉ  có nhà bếp mang cơm trưa ra phân phát cho mỗi trung đội, xong đến từng người. Vào giờ này, cũng có sẵn một đội quân bán hàng rong tiếp ứng.

            Dưới những lùm cây, chỗ nào cũng có nhóm tụ tập. Hơn một tiếng trong giờ nghỉ, cũng có người nằm ngủ trưa, lấy ba lô gối đầu.

            Sau bữa ăn, Trương lấy gói thuốc mời Thụy một điếu. Thuốc nặng, hiệu Bastos, nhưng cũng là gout của Thụy. Đang đánh que diêm mồi lửa, Thụy nghe Trương hỏi:

-Bạn là giáo chức hay bên hành chánh ?

-Không, cả hai, Thụy đáp.

            Thụy rít đầy khói thuốc, nói thêm:

-Tôi bị out bên Không quên nên phải sang bộ binh.

-Bên đó, bạn đi ngành kỹ thuật hay phi hành.

-Đi ngành phi hành, nhưng rớt.

-Bạn có qua Mỹ rồi ?

-Không đi được. Tôi thi Anh văn rớt.

            Trương đưa mắt nhìn qua Thụy, không có ý dò xét, nhưng hiểu được phần nào về tình cảnh người bạn mới quen. Khói thuốc khô, mệt mỏi trong nắng.

-Bạn dạy học ở đâu ?

-Tôi dạy ở Qui Nhơn.

-Ra trường lâu chưa ?

            Trương cười nói:

-Vừa mới dạy học hai tháng bị kêu động viên.

-Nhưng bạn được biệt phái.

-Hy vọng như vậy.

-Chắc chắn rồi. Các anh không trở lại trường, kiếm thầy đâu dạy học sinh.

-Bạn  chắc có gia đình rồi ?

-Bạn đoán tôi bao nhiêu tuổi.

-Trên ba mươi.

-Sai, tôi mới 26 tuổi.

-Trông bạn hơi già.

-Tôi thuộc thành phần lính xin đi học.

-Tính đến bây giờ, bạn có bao nhiêu năm quân ngũ ?

-Năm năm.

            Rồi Thụy nói thêm:

-Tôi nhờ có bằng Tú Tài I mới được học khóa thường xuyên như các bạn.

-Vậy à. Tôi lại nghĩ, cả thường xuyên và đặc biệt cùng học chung.

-Không phải đâu.

            Từ đó, Trương và Thụy trở thành bạn thân. Trương tốt nghiệp Đại học Sư phạm ban Anh văn. Trương  đọc rất nhiều sách về biên khảo và tiểu thuyết. Nói chuyện văn học, Thụy nhận  ra, Trường có cái nhìn rất mới và lạ. Chính nhờ vào người bạn, Thụy tìm được cho mình một cách viết để vượt qua được những sáng tác cũ mà Thụy đã làm như với tính cách mưu sinh.

            Bỗng nhiên Trương hỏi:

-Thụy có quen bạn văn nào ở Huế không ?

-Không quen, nhưng có biết tên.

-Có đọc chứ ?

-Có, trên tạp chí Văn ?

-Thụy có truyện đăng trên Văn không ?

-Không có. Tôi viết còn kém lắm.

-Về nhưng cây bút của Huế thì sao ?

-Anh em ngoài đó, ai cũng viết khá, nhưng đừng quá làm dáng thì hay hơn.

-Có lẽ, Thụy nói đúng.

-Anh em ở miền Trung phần đông viết giống nhau, như nhóm Tuy Hòa, chịu ảnh hưởng nhiều truyện ngắn của Y Uyên.

            Trong quân trường Thủ Đức có khu sinh hoạt và khu gia binh rất nhộn nhịp ban ngày cũng như ban đêm. Mỗi khóa học có trên cả ngàn khóa sinh nên các quán ăn, quán giải khát, cà phê nhạc mọc lên trong hai khu này không lúc nào vắng khách.

            Thụy và Trương thường đến quán của cô Giang nằm gần tuyến gác D chạy ngang qua cổng số 9. Cô Giang học ở Trưng Vương, khá xinh. Và, ở nơi quán này, Thụy và Trương, qua hình ảnh cô gái thường hay tâm sự với nhau về những chuyện riêng của mình. Trương có một cô bạn gái học cùng lớp, đang dạy học ở Ninh Hòa. Khi  nghe Trương nhắc đến quận lỵ này, Thụy bỗng nhớ đến Huân, người bạn thân thời niên thiếu. Từ sau ngày Thụy vào miền Nam và lên học ở Đà Lạt, hai người không gặp nhau. Thế nhưng, kỷ niệm về Quảng Trị, cả hai đều còn nhớ, riêng Huân, vẫn còn giữ lại nơi chốn đó hình ảnh gia đình chị Huyên. Khi nghe những lời Trường kể chuyện,Thụy thấy đôi mắt  Trương đang ở bên bóng dáng người tình, và hình ảnh nàng ngồi yên đó, với một vẻ buồn sầu muộn, xa vắng. Về chuyện của mình, sau khi nói ra, trong số đó một người Trương biết rất rõ là Liên An, vì em gái của Trương là bạn học cùng lớp với An. Từ ngày Liên An ra đi, thắm thoắt thời gian cũng dễ đã một năm. Một năm  thuộc  quá khứ, hình ảnh của Liên An trong lòng Thụy là kỷ niệm về một nhà ga, cái tháp nước, bóng dáng chiếc áo trắng, và những cây cầu bên con sông, mỗi một thứ đó là  của Huế, và bây giờ đây với Trương, Thụy có thêm một người bạn khá thân hiểu được mình.

            Thời gian học quân sự của giai đoạn 2 là sáu tháng, nhưng rồi bị chậm trễ mất hai tháng, một tháng trong kỳ chiến dịch, một tháng tập dượt diễn hành cho ngày Quốc Khánh 1/11.

            Không có bạn nào rớt ở kỳ thi mãn khóa học. Trương ở trong số 600 người thuộc thành phần giáo chức biệt phái. Thụy đậu thấp, đi đơn vị Sư đoàn 2 đang trú đóng ở Quảng Ngãi. Khác với lúc học quân sự ở Nha Trang, học ở Thủ Đức, Thụy thấy kiến thức về quân sự của mình qua hai mặt lý thuyết và thực hành trở nên vững vàng, tự tin hơn, trước khi anh ra ngoài chiến trận đảm nhận cương vị một người trung đội trưởng. Và, không khí nơi quân trường bộ binh cũng cho Thụy những kỷ niệm lãng mạn về chiến tranh qua những buổi học về chiến thuật. Năm 1970 cũng là năm chiến cuộc miền Nam lan rộng khắp cả bốn vùng chiến thuật, và luôn trong tình thế khẩn trương. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong một buổi họp với các Tướng Tư lệnh VNCH và Đồng minh đưa ra một nhận định là để ngăn chận Cộng quân sự xâm lấn của Hà Nội vào miền Nam, cần phải có một cuộc hành quân vượt biên tấn công vào hai mật khu nuôi quân quan trọng của Hà Nội là Kampuchia và Lào, và sẽ đánh phủ đầu ngay tại hai trận chiến lớn chứ không để cho CQ xâm lăng vào lãnh thổ mới đối diện kẻ thù. Ngày 27/4 cuộc hành quân Toàn Thắng 42 khai diễn. Tư lệnh cuộc hành quân này là Trung Tướng Đỗ Cao Trí. Lực lượng tham chiến có Sư đoàn 18 BB, Trung đoàn 46/SĐ25, Liên đoàn 3 BĐQ, 4 Thiết đoàn Kỵ Binh và Tiểu đoàn 7 dù. Cuộc hành quân lớn này chia làm sáu giai đoạn. Năm giai đoạn đầu, quân lực VNCH phối hợp với Hoa Kỳ, giai đoạn cuối, một mình Quân đoàn III phụ trách. Mục tiêu của giai đoạn 1 và 2 là càn quét khu Mõ Vẹt từ biên giới tới Sway Rieng, giai đoạn 3 từ Sway Rieng lên đến vùng Đầu Chó phía Tây Bắc Tây Ninh, giai đoạn 4 khai thông  Quốc lộ I từ Sway Rieng đến Konpong Trabeck, giai đoạn 5 tấn công vào đồn điền Chup và giai đoạn 6, tấn công chiếm đồn điền Mimot.

            Khi cuộc hành quân này diễn ra, báo chí hàng ngày ở Sài Gòn luôn cho chạy tin tức và phóng sự ngoài chiến trường lên trang nhất. Hình ảnh người lính bộ binh lội bộ, mưa nắng, dãi dầu mồ hôi, và không khí chiến tranh trong quân trường đã làm Thụy mau chóng quên hết những tháng ngày nhàm chán ở thành phố, đời người lính Không quân dư thừa, nhàn rỗi nơi đô thị, đến cả Huêcũng như  bao nhiêu hình ảnh thiếu nữ khác, sau cùng, Thụy nhận thức rõ là mình sắp đối diện thực sự với chiến tranh.

            Sau khi rời quân trường, giữ lời hứa với Trương, Thụy cùng người bạn lên đường ra tới Nha Trang thăm Bảo. Gặp cô bạn gái của Trương ở một ngôi trường quận lỵ, có dịp chuyện trò với nhau ở một quán cà phê, ở lại thành phố biển Nha Trang một đêm sau đó, hai bạn lên xe ra Huế về thăm gia đình. Nhà Trương ở phố Gia Hội, còn nhà Thụy vẫn căn nhà cũ bên dưới ga, trên con đường đi lên nhà máy vôi Long Thọ.

            Thụy đã không dừng lại ở Đà Nẵng để vào Hội An thăm Thúy Hà. Về Huế , sau vài ngày Thụy đi ra Quảng Trị thăm chị Thiên Nga đang dạy học ở trường Nguyễn Hoàng. Không cần nói ra, Thụy cũng biết chị Thiên Nga là hoa khôi của thành phố này. Thụy đi vào sáng thứ tư, vừa đúng vào ngày bắt đầu nghỉ trong tuần của người chị.

            Bỗng nhiên Thiên Nga buông tờ báo, rời giường vội mang đôi đép rồi đi nhanh ra lối cửa ngoài hiên gác.

            Người lính đứng bên ngoài đưa mắt nhìn quanh, nơi này, anh nghe rõ tiếng nước của dòng sông và trên con đường đến đây một quãng  gặp dòng sông, anh nhớ lại hết những ngày thơ ấu trong phần đời của mình. Lúc nghe tiếng hỏi, anh chợt ngẩng đầu:

-Ủa, về hồi nào vậy ? nàng reo mừng thốt lên.

            Người lính cảm thấy vui trong lúc đứng đợi. Một lúc sau, nàng xuất hiện.

-Về phép được bao nhiêu ngày ?

-Hai tuần, chị. Đã hơn một tuần ở Huế.

            Anh bước theo nàng đi ra sân sau và lên lối cầu thang ngoài. Khi vào căn gác, anh nhận ra sự ấm cúng, thân tình, dù rằng nơi đây chỉ có một mình.

            Nàng để anh ngồi ở bàn khách, xong nàng đi lấy nước. Lúc trở lại, nàng đặt khay xuống bàn, và trong lúc rót nước, nàng nói:

-Trông Thụy đen và hơi gầy đi, nhưng có vẻ chắc chắn.

-Mới mãn khóa học xong .

-Và ra đơn vị ở đâu ?

-Quảng Ngãi.

            Nàng mời nước. Anh cầm tách nước, đưa cặp mắt đằm thắm nhìn nàng. Nàng mỉm cười, trong nụ cười ấy nàng cũng thấy mình hạnh phúc.

-Công việc chị dạy học ra sao ?

-Cũng bình thường.

-Không khí sinh hoạt có dễ chịu không ?

-Cũng dễ chịu.

-Thành phố này đã quen chị chưa ?

-Hẳn rồi.

-Mỗi cuối tháng, chị về thăm nhà ?

-Không đều đặn lắm. Khi có anh Nguyên ra, mình không đi.

-Anh có hay đưa chị ra ngoại ô không ?

-Hơn một năm dạy ngoài này, mình đi hết các nơi rồi.

-Chị có tính gắn bó luôn không ?

            Nàng cười nhìn Thụy:

-Mình giữ lời hứa với Thụy và anh Nguyên ra dạy ngoài này. Ở nơi đây, rất là tình người. Nhưng ít năm nữa, mình xin vào Huế hoặc Đà Nẵng. Cũng tùy theo anh Nguyên.

-Ở nơi đây, dù chị dạy một ngày, một tháng, một năm cũng là tấm lòng của chị.

            Hai người không ra phố. Sau bữa ăn trưa, nàng làm cà phê, hai người ngồi ở bàn khách trò chuyện về cuộc sống ở đây, về công việc dạy học và những sáng tác của nàng.

-Thế nào Thụy cũng gắng in một tập truyện ngắn.

-Nên lắm.

-Từ nay, Thụy sẽ viết khác đi .

-Khác thế nào ?

-Về sự suy nghĩ. Những ngày tới đây, Thụy thực sự đối diện với cuộc chiến.

-Có ghé thăm Thúy Hà không ?

-Không, vì Thúy Hà không còn ở Đà Nẵng nữa ?

-Cô ở đâu ?

-Ở Hội An.

            Nhân tiện Thụy kể về Trương cho nàng nghe. Lúc nghe, nàng hình dung đến Bảo, và vẽ ra trước mắt nàng một cô gái Huế dịu dàng.

-Rồi, ngoài Thúy Hà ra có Liên An, cả cô Huê nữa. Với Thụy, giờ ra sao ?

-Tất cả, gần giống như bên cạnh hình ảnh của chị.

            Ở nhà Thiên Nga, cơm nước, chuyện trò, trao đổi những ý tưởng sáng tác, anh và nàng đều thực sự cảm thấy có được một ý nghĩa đẹp về đời sống. Tới buổi chiều đã muộn, Thụy ra bến xe đi Huế. Còn lại bốn này phép cuối cùng, Thụy không đi đâu, anh ở với mẹ và các em hết thời gian này cho này lên đường đi đơn vị.

 

 

 

                                                                II

 

 

             

            Hết hai tuần nghỉ phép, Thụy lên đường. Anh ra đi mang theo cả ba lô và túi sac marin, trong đó, áo quần nhà binh là chính, còn lại là một số sách truyện cùng vài thứ đồ dùng cá nhân. Một thứ quí giá nhất, đó là cuốn album  chỉ cất giữ những tấm ảnh của Thúy Hà. Dù rằng, nàng không phải là người vợ, nhưng đối với anh, nàng luôn chiều  ý đem tới cho anh hết tất cả những hình ảnh của nàng.

            Thụy đi chuyến xe sớm nhất. Trời mưa lúc xe rời thành phố, dù đêm qua thức khuya nhưng giờ Thụy không cảm thấy buồn ngủ , lúc này, anh  buông thả tâm hồn với thời gian để nghĩ tới những ngày sắp tới đây của đời lính. Đã có bao nhiêu kỳ nghỉ phép, bao nhiêu lần trở về thăm gia đình rồi ra đi, nhưng không lúc nào Thụy lại phân vân lo nghĩ nhiều như lần này. Tới Hải Vân, vừa kịp giờ đổ đèo nên xe đã không ngừng đợi. Mưa đã tạnh, màu trời trở nên sáng, quang đãng. Ngồi bên cửa xe, Thụy để những phút lãng mạn nhìn những tảng mây trôi từng trên mặt biển, rồi trông thấy sương mù tan dần dần.

            Xe ngừng trước những hàng quán nằm bên cạnh một ngả ba quốc lộ cho khách xuống nghỉ chân và dùng điểm tâm. Thụy vào quán ăn một tô bún và uống ly cà phê đen nóng. Mỗi lúc, quán trở nên đông vì có nhiều xe khác đến. Nhìn chung quanh, Thụy tìm có ai quen nhưng không thấy. Và, trên lộ trình phía Nam xe nào cũng có một vài quân nhân đi công tác, hoặc đi phép trở lại đơn vị.

            Những điếu thuốc hút, những sợi khói mỏng trườn lên, bất cứ lúc nào nhìn vào đó mà nghĩ ngợi lòng Thụy luôn cảm thấy vương vấn, nặng nợ với tình yêu. Nhưng rốt cùng, anh chẳng có ai,  kể đến cả Thúy Hà là một người anh yêu quí hơn hết tất cả một ai trong đời mình.

            Nửa giờ sau đó, tài xế ra xe vừa gọi khách lên đường. Xe chạy suốt. Quốc lộ I trải dài, hai bên hầu hết là đồng ruộng, và trời có lúc mưa trên từng chặng, từng vùng. 

Khi cảm thấy mỏi mắt, buồn ngủ, Thụy bật diêm đốt điếu thuốc. Lúc xe chạy qua Chu Lai, nhìn thấy những dãy đồi cát, Thụy chợt nghĩ tới làng quê của mình. Nhưng ở đây, trông sao vắng lặng , buồn buồn.

            Tới đầu buổi chiều, xe đến Quảng Ngãi, vào bến chính và đỗ hết khách. Xe dừng luôn ở đây, không tiếp tục chạy vào phía Nam.

            Thụy bỗng thấy mình bỡ ngỡ, phân vân, không biết tìm chỗ nào có phòng trọ. Để có thì giờ, Thụy ghé vào quán ăn, vừa lấy chỗ nghỉ chân cơm nước, rồi nhân đó mà định liệu cho công việc của mình.

            Đứa gái nhỏ đến bàn Thụy ngồi, cầm khăn lau dọn xong, hỏi:

-Chú ăn cơm hay mì ?

-Có cơm phần không cháu.

-Dạ có.

-Cho chú phần cơm, và bình trà.

            Trời không mưa, nhưng cảnh vật hiện lờ mờ , chênh vênh, rồi bỗng thấy nó trôi giạt. Ở đây cũng lạnh như ngoài Huế. Trong quán có đông khách ăn, một số cũng là quân nhân như Thụy. Thụy mặc ngoài chiếc áo jacket, áo này không phải được cấp phát, mà anh gặp may mua được ở chợ trời, nó vừa khổ người của anh. Với số tiền chưa đến hai ngàn, từ hôm nay đến cuối tháng còn hai tuần nữa, nhưng mà tới lúc đó, Thụy cũng chưa biết tình trạng đơn vị và lương bổng của mình ra sao. Ở bên trái túi áo trên , Thụy cất riêng cả tờ sự vụ lệnh và giấy nghỉ phép từ quân trường Thủ Đức. Thụy cũng biết rằng, ra trình diện Sư đoàn 2 chưa phải là đơn vị phục vụ mà anh còn nhận các giấy khác nữa, từ Sư đoàn đưa ra Trung đoàn, rồi Tiểu đoàn.

            Đứa gái nhỏ mang cơm nước đến dọn xuống chiếc bàn thấp. Cơm phần có ba món. Thụy  cầm khăn giấy lau chén đũa,  xong xới cơm. Anh ăn thong thả, cảm thấy ngon miệng vì đang đói. Trong lúc này, Thụy chợt nghĩ tới những người bạn văn nghệ mà anh nghe tên tuổi, nhưng chưa hề gặp mặt. Thụy chưa có truyện đăng trên tạp chí Văn, nhưng tờ báo này, thỉnh thoảng anh có mua những số đặc biệt, và những số ngoài bìa đề là tuyển tập thơ văn để đọc.  Qua tờ báo này, Thụy lần quen tên những cây bút trẻ miền Trung. Nơi tỉnh nào cũng có thi văn đoàn và xuất bản một tờ đặc san. Và, dù chưa hề gặp, nhưng Thụy cũng hay biết rằng những người trẻvăn nghệ luôn thích có được nhiều người bạn. Chỉ một lần gặp, trao đổi vài câu chuyện về thơ văn, là tình bạn hữu trở nên thân thiết, đậm đà. Trong tạp chí Văn luôn có để dành hai trang sinh hoạt văn nghệ để giới thiệu sự ra mắt những tác giả và tác phẩm của các thi văn đoàn. Thụy rất yêu thích mục này, đang ngồi đây, anh vẫn có thể hình dung ra mỗi khuôn mặt các tác giả trẻ, đồng thời, biết rõ từng nơi họ đang sống, làm việc. Có hai thành phần rõ rệt, một thuộc về giới giáo chức, một thuộc về giới quân nhân. Nơi thị xã này đây, Thụy biết có bốn bạn văn, hai người làm thơ, hai người viết truyện. Nếu mà tình cờ gặp, chỉ cần bày tỏ chân thật cái duyên nợ văn chương, lập tức, Thụy sẽ được các bạn này mời về nhà nghỉ ngơi, và khỏi cần lo nghĩ đến việc đi tìm phòng trọ.

            Bên kia triền núi, sương mù đang xuống nhiều. Sau bữa ăn, Thụy rót trà vào  cái ly nhỏ, nhấp từng hớp, vừa hút điếu thuốc. Nơi chốn lạ này gây cho Thụy một chút xao xuyến, vừa lạ lùng trong sự mơ tưởng. Có hai chuyến xe khách vừa rời bến đi ra hướng  quốc lộ, một chốc lát sau, có chuyến khác mới đến, và ngừng lại đỗ hết khách. Chung             quanh bến, tiếng bước chân, tiếng chuyện trò, tiếng còi xe, và cả tiếng gọi nhau của đám trẻ bán quà rong, nhưng cảnh tượng không ồn ào, xô bồ, vẫn thấy sự trầm lặng, rời rạc.

            Thôi thì, mọi chuyện cũng đã thành quá khứ. Anh không thể nhìn tới nào là xa cách, ở đâu là có sự yên bình, gần gũi. Khác đi rất nhiều với những năm khi Thụy còn là người lính Không quân, tà tà buông trôi cuộc sống hàng ngày ở thành phố.

            Khi trông thấy đứa gái nhỏ đi ngang, Thụy gọi tính tiền. Anh mua thêm một gói thuốc, rồi đứng lên, vai đeo ba lô, tay bên trái cầm túi sac marin.

-Chuẩn úy đi đâu ?

            Thụy dừng bước, hỏi người xích lô:

-Ở đây có phòng trọ không anh ?

-Có.

-Giá đắt không anh ?

-Không, giá bình dân.

-Anh thấy chỗ nào gần, đưa tôi tới đó.

-Rồi, mời Chuẩn úy lên.

            Thụy cảm thấy nhẹ nhõm, chân gác lên túi sac marin để ngang bên dưới.

-Ở đây, giá sinh sinh hoạt có dễ không anh.

-Chuẩn úy mới ở đâu tới ?

-Tôi mới ra trường, đơn vị là Sư đoàn 2.

-Vậy sao Chuẩn úy không vào ở trong cư xá.

-Tôi mới đến, chưa trình diện.

-Còn đang giờ làm việc, Chuẩn úy có muốn vào Sư đoàn không ?

-Thôi, tôi ở tạm ngoài một đêm.

-Tôi nghĩ, Chuẩn úy nên vào trong Sư đoàn.

            Thụy im lặng. Sự thể thật bất ngờ khi anh xích lô ngừng xe lại trước cổng Sư đoàn, và chỉ cho Thụy đến trạm hướng dẫn nằm ở phía cổng phụ bên trái.

-Anh cho trả tiền xe.

-Ba chục.

-Xin cám ơn anh giúp đỡ.

            Người xích lô cầm tiền và nói thêm cho Thụy biết một đôi điều.

-Cám ơn anh.

            Thụy dời bước. Đến trạm hướng dẫn, Thụy lấy giấy tờ đưa ra cho viên Thượng sĩ xem, ông ta hỏi:

-Chuẩn úy có nhà quen ở ngoài không ?

-Không có, Thượng sĩ.

            Lúc Thụy cất lại giấy tờ, viên Thượng sĩ đứng lên chỉ lối đường cho Thụy đến khu cư xá vãng lai.

-Dãy nhà nằm bên dưới Câu lạc bộ. Nhưng, Chuẩn úy phải vào chỗ Câu lạc bộ trước, gặp Trung úy Thành, ông ta sẽ giúp cho.

            Thụy rời bước, hướng theo con đường dẫn đến Câu lạc bộ. Đang lúc này còn giờ làm việc, các phòng đều mở đèn sáng. Bỗng nhiên, Thụy cảm thấy mình vui hẳn lên khi nghe tiếng nhạc và giọng hát Khánh Ly. Nhạc Trịnh Công Sơn sáng tác, nhưng khi đã nghe Khánh Ly hát, bạn biết mình chỉ còn có một Khánh Ly thôi. Nàng hát, ai nghe nghe cũng rung cảm hết, nhưng mỗi người nghe thì chỉ biết Khánh Ly đang hát cho riêng mình.

            Thụy bước lên bậc thềm cấp, vào phía cửa trước. Bài hát sắp dứt, tiếng hát nhỏ dần. Đèn sáng lên tạo hơi ấm, chỉ có mấy bàn có khách, riêng ở góc bàn gần quầy có bốn chàng phi công đang ngồi chơi binh bài xập xám. Trên bàn, người nào cũng có ly cà phê và một bao thuốc lá.

            Thụy bước tới phía quầy nơi có một người đàn bà đang ngồi trông hàng. Người đàn bà im lặng, lắng tai nghe. Thụy nói:

-Tôi ở xa mới đến, xin được gặp Trung úy Thành.

-Anh đi ra cửa sau, rẽ trái, phòng đầu tiên.

            Thực may cho Thụy, vừa lúc đó, viên Trung  úy xuất hiện. Thụy đứng nghiêm chào kính,  xong mở nắp túi áo lấy giấy tờ.

            Trung úy Thành hỏi:

-Anh về đây một mình ?

-Không, có nhiều anh em nữa.

-Họ tập trung  ở đâu ?

-Tôi không rõ. Ngày ra trường, chúng tôi được hai tuần phép thăm nhà. Từ Huế, tôi vào đây.

-Giờ, anh cần gì ?

-Tôi không có nhà ngoài. Nhờ Trung úy cho một chỗ nghỉ vãng lai.

-Anh không có nhà quen sao ?

-Dạ không .

            Viên Trung úy có vẻ nghĩ ngợi.

-Thôi được, anh theo tôi.

            Thụy đi theo viên Trung úy ra lối cửa sau. Hai người vào văn phòng làm thủ tục tạm trú, sau đó, ông ta dẫn Thụy đi đến một khu cư xá nằm biệt lập, xa câu lạc bộ khoảng chừng vài trăm mét.

-Cư xá vãng lai kín chỗ rồi. Anh qua đây ở tạm chung với Thiếu úy Thuyên.

-Đây là cư xá cơ hữu ?

-Phải. Ngày mai có một số người đi, tôi sẽ đưa anh qua vãng lai.

-Sao cũng được, Trung úy. Tôi nghĩ , anh em chúng tôi có ở Sư đoàn cũng chỉ trong vài ba ngày rồi đi ra Trung đoàn.

-Tôi không rõ lắm, nhiệm vụ của tôi là giúp những người ở xa mới đến.

            Lúc nãy, ở văn phòng, Trung úy Thành đã có liên lạc điện thoại gặp Thiếu úy Thuyên được sự ưng thuận, viên Trung úy mới dẫn Thụy đi.

            Khi hai người đến, Thiếu úy Thuyên đã sẵn chờ khách trước cửa phòng.Thụy được giới thiệu, viên Thiếu úy niềm nở bắt tay.

            Trung úy Thành vội đi. Thiếu úy Thuyên đưa Thụy vào bên trong, chỉ cho chỗ anh bỏ túi xách và ba lô, rồi buồng tắm, buồng vệ sinh. Thụy đưa mắt nhìn quanh, rồi đồ đạc anh để xuống nền nhà bên góc chỗ giường nằm.

            Với nụ cười cầu thân, Thụy nói:

-Cám ơn Thiếu úy đã giúp.

-Anh ở đơn vị nào thuyên chuyển đến ?                    

            Thụy lấy ra gói thuốc, mời Thiếu úy Thuyên.

-Mới ra trường, Thiếu úy.

-Mới, à.

-Vâng.

-Sao mà trình diện sớm quá vậy ?

-Nghỉ phép cũng đủ rồi, Thiếu úy.

            Thiếu úy Thụy nhìn đồng hồ, xong nói:

-Anh Thụy nghỉ đi. Cần gì tắm giặt cứ tự nhiên.

-Cám ơn Thiếu úy.

-Ở Câu lạc bộ có cơm nước. Anh muốn ăn ở đó, hoặc ra phố, tùy anh.

-Vâng.

            Rồi Thụy hỏi:

-Mấy giờ, Thiếu úy về ?

-Sáu giờ.

            Đáp lời xong, viên Thiếu úy lấy trong túi ra xâu chìa khóa. Thụy hỏi:

-Tôi  lên câu lạc bộ giờ này được không ?

-Được chứ.

            Khi thấy Thuyên tìm một cái chìa khóa, Thụy ngăn lại:

-Tôi cũng đi ngay, Thiếu úy cứ khóa phòng lại đi.

-Vậy thì mình đi.

            Cửa phòng được đóng lại. Hai người ra đường, đi bên nhau một đoạn rồi chia tay.

            Thụy hướng về phía Câu lạc bộ, và lúc đến gần, anh nghe rõ tiếng nhạc và lời hát.

            Vừa bước vào bên trong, Thụy hết sức bất ngờ, vô cùng ngạc nhiên.

            Đặng đứng phắt dậy, dáng người cao lớn trong bộ đồ bay của phi công. Người đàn bà vẫn ngồi ở quầy chú úy nhìn Thụy, thấy anh bối rối, bà ta mỉm cười.

            Thụy cũng mất một vài giây mới nhớ được rõ hơn về người bạn. Đặng và Thụy cùng học khóa 69B ở Nha Trang. Đặng  đã trở thành phi công, còn Thụy về Bộ Binh.

            Bây giờ, bàn của mấy chàng phi công có thêm Thụy nữa. Đúng lúc có sự hiện diện của Thụy, họ ngưng, xếp lại bộ bài không chơi nữa.

            Đặng  gọi cho Thụy một ly cà phê. Bên ngoài cửa, trời đang mưa nhỏ hạt. Chỉ trong ít phút, người đàn bà đem cà phê ra. Cà phê đã pha sẵn, chỉ cần cho thêm một lớp sữa mỏng.

            Đặng  mỉm cười nhìn Thụy. Và, đợi Thụy uống nóng hớp cà phê, xong rít vài hơi thuốc, hắn mới hỏi:

-Vì sao mầy bị ra bộ binh ?

            Thụy cười, hỏi:

-Đoán thử coi?

-Bị kỷ luật.

-Không đúng. Tao rớt Anh ngữ .

-Trời, thi Anh ngữ sao để rớt ông ?

-Trật bùa.

            Nhưng rồi, một cách thẳng thắn, Thụy kể lại rành rẻ trường hợp của mình cùng năm mươi bạn khác nữa. Bây  giờ đây, ngồi quanh Thụy là Đặng, bạn cùng khóa 69B, rồi Trạc, Huỳnh , Phú, đều là phi công bay loại phi cơ quan sát. Thực sự, cả bốn anh chàng này thuộc phi đoàn 110 ở Đà Nẵng, nhưng do nhu cầu, phi đoàn trưởng đã cử một biệt đội vào Quảng Ngãi tăng phái cho Sư đoàn 2.

-Thời gian ở đây lâu không ?

-Tụi tao vừa mới đến.

            Thụy trở nên tự nhiên với mấy người bạn. Anh cảm thấy vị ngọt của sữa, và mùi thơm cà phê là ngon hơn cả.

            Tối hôm ấy, cả đám rủ nhau ra phố chơi, đi ăn tối, rồi và tiệm bi da, đến khuya mới trở về.

            Thuyên vẫn chưa ngủ, anh nằm đọc báo. Khi Thụy trở về, Thuyên rời giường ra mở cửa, lúc đó, Thụy hết sức bối rối, nhưng Thuyên hiểu bạn, anh tỏ ra cởi mở.

            Bây giờ, Thụy mới chú ý đến chiếc kệ dã chiến của Thuyên. Chiếc kệ cao hơn một mét, ba ngăn, trên mặt kệ để các thứ linh tinh, rồi ngăn thứ nhất là một số sách truyện và cả sách học về Luật, ngăn thứ hai : các tạp chí văn nghệ có Văn, Văn Học, Bách Khoa. Số báo Văn nhiều hơn hết, và ngăn dưới cùng là những tờ nhật báo và báo Chiến sĩ Cộng Hòa. Cũng có vài ba tờ báo Lý tưởng, bìa ngoài giấy láng, màu xanh da trời.

-Anh có viết lách gì không ?

-Không, Thuyên đáp.

-Anh chắc đọc nhiều.

-Ở nhà tôi có khá nhiều sách truyện.

-Quê anh ở đâu ?

-Tôi ở Tân Uyên.

-Một quận của tỉnh Biên Hòa.

-Anh nói đúng.

-Tôi có thời gian ở Biên Hòa .

-Anh dạy học hay làm công chức ?

            Thụy nói qua với Thuyên một chút về mình. Sau những lời của Thụy, Thuyên gật đầu hiểu. Hai người đứng cạnh nhau bên chiếc kệ. Thuyên cảm thấy vui khi những sách báo anh chưng bày được sự quan tâm của người bạn, và lúc này, Thuyên thấy Thụy đang muốn tìm một đề tài nào đó trong những tạp chí sắp ở hàng kệ thứ nhì.

-Anh đọc thứ gì, cứ lấy đọc.

            Thụy quay sang hỏi:

-Thực sự anh chỉ đọc thôi, chứ không viết lách gì cả.

-Không.

-Mình hiểu nhau, anh đừng quá khiêm tốn.

-Không đâu.

-Anh có trà không ?

-Có.

-Làm một ấm, anh em mình chuyện trò.

-Dễ dàng.

            Thuyên đi lấy nước và nấu bằng résistance.  Chừng ít phút, nước sôi, Thuyên  tắt công tắc xong đổ nước sôi vào ấm nhôm đã có sẵn trà.

-Anh ở Sư đoàn lâu chưa ?

-Hơn một năm.

-Từ ngày ra trường ?

            Thuyên gật đầu. Khi trà uống được, Thuyên rót vào hai cái ly nhỏ, thứ ly cũng dùng để uống cà phê buổi sáng.

            Một hớp trà đậm ngon, Thụy hỏi:

-Anh Thuyên đã có vợ con chưa ?

-Chưa.

-Tôi cũng chưa.

-Không có gì quan trọng cả.

            Hai người bỗng im lặng nhìn nhau cười. Thụy hỏi:

-Anh quen nhiều anh em văn nghệ ở đây không ?

-Có biết thôi, không quen ai cả.

-Những bạn đó có thơ và truyện đang trên Văn.

-Ờ, đại khái biết họ qua sự xuất hiện tên trên báo.

-Tôi cũng như anh. Nhưng nói chung, anh em văn nghệ ở miền trung rất là chí tình.

-Họ dễ thương lắm. Anh có viết lách gì không ?

-Tôi có viết, tính cách văn nghệ thôi.

-Viết được cũng là niềm vui.

            Thụy châm điếu thuốc, rồi giọng chậm rãi nói:

-Rồi đây, tôi sẽ viết khác xưa rất nhiều. Tôi sẽ viết về chiến tranh, vì đã đến lúc mình có sự hiện diện. Tôi vẫn nghĩ rằng, sự quan trọng của người viết tiểu thuyết, là nhìn được tận mắt các sự vật, các bối cảnh và hiểu về nó một cách trung thực.

            Thuyên nói:

-Tôi đọc anh em trẻ viết khá nhiều, nhưng tựu trung, vẫn chưa có được mấy người nổi bật.

            Thụy nghĩ ngợi hơi mông lung. Bỗng anh quay sang hỏi Thuyên:

-Anh buồn ngủ chưa ?

-Chưa.

            Thụy nói:

-Ít ra, tôi cũng ở đây với anh đến cả một tuần mới ra Trung đoàn.

            Thuyên cười:

-Sao anh không nghĩ, là anh sẽ làm việc ở đơn vị này, vào những ngày sắp tới.

-Không, chắc là không, anh Thuyên.

-Tôi rất mong anh ở đây. Để tôi cố gắng.

            Bên ngoài cửa, đột nhiên có đèn xe lóa sáng, một chiếc xe Jeep đang chạy chậm, tới gần hơn, rồi ngừng lại ở trước một căn phòng kế bên . Không lâu, máy xe ngừng nổ, và đèn tắt.

 

                                                                III

 

 

 

            Hai ngày sau, Trung úy Thành đưa Thụy qua ở khu cư xá vãng lai. Phòng ở tập thể có tám chiếc giường sắt trải nệm, tương đối rộng, thoải mái. Thêm bốn bạn nữa mới đến, nhưng tổng số hai mươi người chưa hiện diện đủ. Buổi sáng đến phòng Tổng quản trị, vẫn không có tin tức gì mới, chốc lát sau, viên Đại úy phụ tá cho anh em về. Từ cổng chính ra phố cũng gần, Thụy lang thang dọc theo phố chính, nơi anh thường hay ghé là quán cà phê và cửa hiệu sách. Phố chính dọc quốc lộ I, trải dài hơn một cây số là nhà ở sát liền nhau, vừa là các cửa hiệu buôn bán, cảnh sinh hoạt trong thị xã không có vẻ xô bồ, huyên náo, nhưng thật đều đặn, dễ chịu với cuộc sống thường nhật cho mọi người. Buổi chiều, sau giờ tan sở, quán xá trông có vẻ đông vui, tấp nập. Ở gần Ty Bưu Điện có nhiều quán ăn ngon, giờ này khách ngồi đôngchật ở bên trong và cả bên ngoài. Ngày đầu tiên, Đặng  đãi bạn ăn nem nướng và bún chả ở đây, ngon tuyệt. Bữa ăn ngon đó, hai bạn uống hết nửa két bia khổ lớn.

            Trời mưa, nhưng các phi vụ hành quân vẫn thực hiện. Khi trở về, có lúc, phi cơ của Đặng đáp xuống phi trường Chu Lai, hoặc trở lại Quảng Ngãi. Vẫn cùng đang độc thân, nhưng Thụy thấy mình không thể so sánh với  Đặng. Đặng ra trường với cấp bậc Thiếu úy, ngoài lương căn bản, Đặng có thêm tiền phụ cấp bằng phi công, tiền ăn trưa, và có cả thời gian hai tuần nghỉ dưỡng sức ở Đà Lạt. Còn Thụy, đồng lương Chuẩn úy cần kiệm lắm cũng chỉ đến tuần lễ thứ ba là sạch túi, trông chờ đến tháng lương tới. Nhưng đấy là chuyện riêng mỗi người, rất nhỏ nhặt. Giữa hai người tình bạn cùng khóa trong mấy tháng ở quân trường vẫn giống như cái bắt tay rất thật tình với sự nồng ấm, tin cậy, để mà giã từ, để mong còn gặp lại.

            Đặng hỏi:

-Anh em trong khóa ra Bộ Binh đông không ?

-Năm mươi người.

-Ở Nha Trang có bốn đứa bị loại ?

-Vì sao ?

-Kém khả năng bay.

            Ngồi trong quán nước, sáng chủ nhật trời mưa rả rich, nhạc Trịnh Công Sơn mỏi mệt, vừa khô đắng với giọng hát  đến cạn lời của Khánh Ly làm cho Thụy cảm thấy lòng mình như chùng xuống, mệt nhoài. Đặng rất điềm nhiên, thật say, thật lắng đọng với bao nhiêu nỗi u uẩn, với bao nhiêu câu chuyện tình lãng đãng trong ý nhạc lẫn lời ca qua của Trịnh Công Sơn. Bây giờ, Thụy nhớ rõ, ngày mãn quân sự, an hem 69B có được hai tuần khóa nghỉ phép, dịp đó, Sài Gòn rộn ràng đón mùa lễ Giáng Sinh, rồi qua mới, sáng ngày thứ hai đầu tuần, 218 anh em khóa 69B hiện diện đông đủ ở trại khóa sinh nằm ở quận Gò Vấp.

             Bất ngờ, Đại úy Lê Như Hoàn xuất hiện, tay cầm một danh sách về kết quả thi đậu giai đoạn 2 quân sự. Sau khi điểm danh xong, Đại úy thông báo cho cả khóa biết, là Bộ Tư Lệnh sẽ chọn ba mươi người đậu theo thứ hạng ra Nha Trang học khóa bay Cessna.

            Rồi, đích thân viên Đại úy tên trên danh sách đánh máy. Lần lượt, những bạn có tên bước ra, Đặng là người thứ sáu.

            Chỉ một khoảng cách trong và ngoài có mấy mét, mà tâm trạng anh em cùng khóa lúc đó như là hai bờ sông bị ngăn cách.

            Danh sách đọc xong, một phút trong sự ngỡ ngàng, yên lặng.

             Bỗng nhiên có bạn hỏi:

-Nếu không xin ra Nha Trang, ở đây, học Anh ngữ để đi Mỹ được không Đại úy ?

            Hướng về anh bạn mới đặt câu hỏi, viên Đại úy đáp:

-Anh có quyền chọn.

            Lúc hai bên hàng quân đứng trong và ngoài có tiếng xì xào, viên Đại úy lên tiếng:

-Các anh hãy nhớ, ở binh chủng Không quân về ngành phi hành, tất cả các phi công đều có được những dịp xuất ngoại qua Mỹ. Vậy, các anh ra Nha Trang đừng có nghĩ, mình học Việt Nam thì sẽ chịu thiệt thòi.

            Có hai người xin ở lại, lập tức hai bạn đậu hạng kế tiếp theo được điền tên vào.

            Chỉ một thoáng nhớ, màu khói thuốc loãng tan. Một giọng nói , Thụy nghe khô, vừa ẩm ướt:

-Lúc đó, tao mong được học trong nước, nhưng đậu thấp quá ?

-Mầy đậu hạng bao nhiêu ?

-Bao nhiêu gì ?, đậu vớt. Không có Đại úy Hoàn, 5 thằng phải ở lại Nha Trang học tiếp với khóa sau.

            Đặng cười. Trên nụ cười của Đặng, sự lạc quan thể hiện rõ và đúng với ước mơ của mình.

            Mưa bay ngoài đường phố. Mưa thật bình yên, nhưng nếu ra mưa lúc này chịu lấy cảnh ướt át, không có gì ngăn được những tiếng khóc thầm trong lòng Thụy khi anh nhớ nghĩ đến Thúy Hà.

            Nàng nói:

-Hôm đó, thấy anh ướt át, lạnh lẽo, em thương anh quá chừng.

            Vào những tháng mùa đông như lúc này, miền Trung chịu những trận mưa bão là ý của trời. Ngày chủ nhật, rất buồn. Vì, ngày đó một trận bão rớt kéo về thành phố làm cho nhiều cây cối trên đường phố bị ngã đổ. Trong ngày mưa này không biết làm gì, bất chợt, Giáp đến nhà chơi, rồi hai đứa đột nhiên nổi hứng kéo nhau đi ra ngoài nhìn quang cảnh phố trong cơn bão. Khi ngang qua trước cửa hiệu nhà Thúy Hà, Thụy trông thấy bên đường có đông người xúm nhau lại, hai bạn qua bên đó mới thấy người ta đang xẻ cây lấy củi. Trời mưa lạnh, người đàn ông đứng run lập cập, môi lập bập điếu thuốc bị ướt.

-Mỏi tay rồi.

            Gã thiếu niên buông cầm rìu đưa cho đứa bạn của nó. Gã này lấy rìu bổ xuống cây, xong mỗi nhát, tách những miếng củi ra ngoài, phần người đàn ông làm công việc gom lại thành từng bó.

            Giáp và Thụy yên lặng đứng nhìn. Bỗng nhiên, người đàn ông tới gần nói với Giáp:

-Anh bổ giùm cho mấy em một lát.

            Giáp nhìn qua Thụy, bất chợt lòng tự nhiên thấy vui. Rồi, sẵn sàng, Giáp ra tay. Giáp bổ những nhát rìu xuống thân cây, từng nhát chắc và mạnh. Một lúc sau đến lượt Thụy. Người đàn ông nhìn Thụy bổ củi với sự cảm thông, hài lòng.

-Xin mời ai anh hút điếu thuốc.

            Thụy và Giáp hút thuốc trong lúc hai cậu thiếu niên cầm lại rìu, thay nhau bổ. Mưa chợt tạnh, trời lặng bớt gió. Vừa có ý định xuống phố chơi, bất ngờ, Thụy trông sang bên kia thấy cửa hiệu mở cửa, và cả nhà Thúy Hà cùng ra ngoài  để nhìn cảnh tượng bão. Thụy đứng trong đám đông bên này trông thấy nàng, anh có chút ngượng ngùng. Rồi bên kia, cả nhà cũng trông thấy anh. Vũ cất tiếng gọi tên anh, anh liền để Giáp ở lại băng qua bên kia đường. Thụy vượt qua đường trong sự thấm lạnh của quần áo, và vẻ ướt át trên gương mặt. Càng tới gần, nhìn những người thân trong gia đình anh cố gượng cười, vừa cảm thấy có chút lửa ấm. Cả gia đình cũng yên lặng nhìn lại anh, rồi lúc anh bước tới gần, ông Kha lên tiếng hỏi:

-Họ có trả tiền cho cậu không ?

-Dạ. Cháu và người bạn bổ giúp thôi.

-Nói họ trả tiền công hẳn hoi.

            Thụy bối rối, anh thấy Thúy Hà nhìn anh rất lâu.

            Ngày nào đó, xa xôi, hay vẫn luôn cảm thấy gần.

-Em thương anh quá chừng ?

            Thụy vẫn nhớ mãi lời Thúy Hà nói.

-Mầy ra trường lâu chưa ?

-Vừa đúng ba tháng.

-Tụi nó đi Mỹ, đã về hết chưa ?

-Mới quá một nửa.

            Đặng bỗng mở dây kéo, cho tay vào túi trên chiếc áo bay lấy ra một phong thư.

-Nhớ thằng Lạc không ?

            Thụy để mất ít giây, mới gật đầu.

-Nhớ.

-Thư của hắn đây.

-Mới hay là cũ.

-Nhận lâu chưa ?

            Đặng cười, rồi bảo Thụy:

-Mầy đọc thư của nó đi.

            Thụy cầm lấy thư, mở ra đọc. Thư người bạn khá dài, qua đến hai phần ba trang sau. Nửa đêm, Lạc cùng với mười khóa sinh nữa lên máy bay của hãng hàng không Pan Nam rời phi trường Tân Sơn Nhất. Trong chuyến đi, họ gặp đông lính Mỹ hồi hương và nghỉ phép. Tới Nhật, phi cơ hạ cánh xuống phi trường Tokio để tiếp nhiên liệu. Sau hai giờ nghỉ, chuyến bay tiếp tục cuộc hành trình, trực chỉ đến căn cứ Không quân Travis ở Fairfield, tiểu bang California. Toán khóa sinh được đón tiếp, tạm trú hai đêm ở motel ngoài phố Fairfield, rồi được xe ca đưa đến phi trường quốc tế San Fransisco đáp chuyến bay đi Dallas, rồi Texas, và đến căn cứ Lackland ở Sanatonio để học và xác định lại khả năng Anh Ngữ. Sau bốn tuần, những khóa sinh cùng đi chuyến bay với Lạc được đưa qua trường bay. Trong số này, Lạc và hai người nữa, học về trực thăng. Trường bay Fort Wolters  dạy lái trực thăng nằm ở thành phố Fort Worth, khóa sinh bắt đầu học lý thuyết và học bay loại phi cơ TH55 có hai chỗ ngồi. Mỗi lớp có khoảng 20 đến 30 khóa sinh, và mỗi ông thầy Mỹ dạy hai người, thầy ngồi ghế trái, học trò ngồi bên ghế phải. Thời gian học 16 tuần lễ. Học lái trực thăng gồm có: cất cánh, hạ cánh, đang bay cao tắt máy để đáp khẩn cấp, rồi làm hovering để cho máy bay đứng yên một chỗ cách mặt đất khoảng một mét,  đây là trường hợp áp dụng ngoài chiến trường để đổ quân hay tiếp tế vật dụng loại nhẹ. Sauk khi tốt nghiệp giai đoạn học TH55, khóa sinh sẽ được đưa đến trường bay Fort Hunter Army Airfield, Savannah ở tiểu bang Georgia để học lý thuyết và học bay loại UH1. Thời gian học loại máy bay này 18 tuần lễ, cũng một thầy hai trò, nhưng huấn luuyện loại này, hai khóa sinh cùng lên phi cơ với ông thầy một lúc, một học lái, một ngồi sau quan sát. Đến tuần lễ thứ 19 là thi ra trường. Những khóa sinh trong giai đoạn chót này đều rất lo lắng, căng thẳng, nhưng cũng dễ dàng vượt qua, vì lâu nay, đã làm quen với chiếc phi cơ. Bài thi thực hành, người thầy khảo sát khả năng của khóa sinh rất nghiêm nhặt với từng phần, từng động tác, và khóa sinh không để bị mắc lỗi, phải đạt tới sự hoàn bị. Kết thúc kỳ thi tốt nghiệp, trường cho khóa sinh làm lễ ra trường. Trong ngày này, khóa sinh sẽ được gắn cánh bay cấp phát hai văn bằng tốt nghiệp.Vậy là, học ở Mỹ, trở thành một phi công trực thăng, khóa sinh nhận được bốn văn bằng cho cả hai loại phi cơ huấn luyện TH55 và UH1.

            Đặng vẫn ngồi yên, cảm khái những bản nhạc của Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khanh Ly. Một đôi câu, Đặng hát theo như thể đang một mình theo dòng nhạc truyền cảm, không  để ý Thụy Đang đọc lá thư của Lạc. Thụy đọc cẩn thận qua từng giòng, hình dung ra những bối cảnh, những người bạn, đôi lúc tưởng mình đang cho chiếc máy bay cất cánh, rồi máy bay lên cao và anh được thấy không gian rộng mở khắp cả bầu trời.

            Thụy gấp lá thư , hỏi bạn:

-Lạc về nước chưa ?

-Chưa.

            Thụy không hỏi thêm. Một giọng xa vắng, Thụy nói:

-Mới ngày nào đó, hai năm trôi qua rồi.

            Không khí trong quán trở về yên lặng. Ngoài đường phố, trời vẫn đang mưa.

-Còn nhớ kỷ niệm ở quân trường không ?

-Vẫn nhớ chứ.

-Khi bọn tao trở ra lại ngoài đó, Đại úy Hoàn đi học tham mưu cao cấp .

-Ai thay thế làm Đoàn trưởng ?

-Đại úy Bình.

-Có dễ chịu không ?

-Khác rất nhiều với thời Đại úy Hoàn.

            Thụy lại cho Đặng hay, thời mình còn là lính, thời gian mới học xong khóa chuyên môn về trình diện ở TACC, anh có gặp Đại úy Hoàn, lúc đó hẳn còn đeo lon Thiếu úy. Buổi gặp ấy vào lúc trưa, Thiếu úy Hoàn rời phòng làm việc đi ra với hai người bạn, chỉ mình ông mặc đồ bay, đeo qua người một dây da có đầy băng đạn và cây súng lục để trong bao. Vừa nhìn thấy, Thụy như dừng bước để được nhìn và ngưỡng mộ cái phong cách hiệp sĩ của người phi công. Thế rồi, khi Thụy trở thành khóa sinh đi học ngành hoa tiêu, viên Thiếu úy trẻ ngày ấy đã trở thành một vị Đoàn trưởng và mang cấp bậc Đại úy. Thời gian ba tháng ở Nha Trang, khuôn mặt ông là một hình ảnh tiêu biểu mà Thụy ước mong mình thể hiện được.

-Người anh lớn của tao học cùng lớp với Đại úy Hoàn .

-Rồi cũng là phi công ?

-Không, hai người học ở trường Pellerin, cùng một lớp.

            Thụy chợt nhớ đến ngôi trường này ở Huế, nằm bên cạnh một dòng sông. Còn thành phố biển Nha Trang, kỷ niệm trong mấy tháng quân trường  là một cuốn album còn giữ nguyên vẹn những tấm ảnh.

            Sau bữa ăn trưa Thụy rời phạn xá, không về phòng mình mà đến thẳng văn phòng Liên đoàn để ngồi trực. Trời dịu nắng, trên đường đi, anh thoáng nhớ lại những ngày trước đây khi anh anh còn là người lình, và sau đó là khóa sinh học chuyên môn. Kể ra, với Nha Trang thành phố này cũng đã trở nên quen thuộc, còn quân trường, có vài cảnh tượng đổi thay để cho Thụy có cảm tưởng như chính đã thực đổi thay vậy. Thụy không cố ý làm dáng, nhưng với quân phục, dáng đi, nó đã khoác lên hình ảnh con người anh một phong cách mới lạ, trẻ trung. Rồi, để xóa mặc cảm là người lính cũ, anh đã thực hành theo cái nế sống sinh động của tuổi trẻ qua những người bạn trong cùng khóa là thành phần sinh viên trí thức.

            Về tới văn phòng, Thụy đi qua lối cửa bên, và lúc thấy anh về, người bạn đang trực đứng dậy.

-Tôi đi ăn nghe.

-Rồi, đi đi.

-Hôm nay ăn gì.

-Có thịt hộp và canh chua.

            Người bạn đi ra ngoài, Thụy kéo ghế ngồi xong cầm tờ báo Lý tưởng cũ mở ra đọc. Một lúc sau, bỗng nhiên có tiếng hỏi:

-Anh cũng có học trường Pellerin ?

            Thụy bỏ tờ báo, vừa quay lại thấy Đại úy Đoàn trưởng đứng sau lưng. Vừa nhổm người đứng lên để chào kính, vị Đại úy ra hiệu cho anh ngồi tự nhiên.

-Dạ, em có học ở đó.

-Lúc anh học ở đó, frère Bonard còn làm Hiệu trưởng không ?

-Thưa không, Đại úy.

-Anh học bên Moderne, hay Classique. ?

            Ly cà phê nóng còn lên khói. Giữa hai ngón tay, điếu thuốc còn cháy đỏ đóm lửa. Viên Đại úy đứng bên Thụy với gương mặt cương nghị, hòa nhã. Và, ông đang chú tâm nghe Thụy nói:

-Năm em học, trường đã đổi tên, chuyển hẳn qua chương trình Việt và phân ra ba ban A, B, C như các trường ngoài. Tuy vậy, môn tiếng Pháp, frère quản lý Harman dạy, chỉ nói toàn giờ bằng tiếng Pháp.

-Anh học bao nhiêu năm ?

-Có một năm thôi, Đại úy.

            Viên Đại úy nhìn Thụy, ánh mắt  rất thiện cảm.  Khi ông kéo chiếc ghế ngồi, câu chuyện được nói đến, kỷ niệm đầu tiên để nhớ là Huế và những bạn cùng thời. Thụy cảm thấy vui trong lòng với mỗi câu chuyện, trong đó, thời gian của Huế là những tháng ngày yên bình. Huế đó, từng nhánh sông nhỏ, mỗi nhánh sông chảy qua rất nhiều cây cầu. Và cứ mỗi cây cầu, lại  có riêng một tên gọi.

-Mẹ tôi mất sớm. Tôi rời Huế và rời ngôi trường Pellerin sau bảy năm học ở đó. Tôi vào Nha Trang, sau đó là Sài Gòn, rồi gia nhập binh chủng Không quân. Tôi thuộc khóa 61A. Tôi cũng có sáu tháng ở trung tâm huấn luyện này rồi lên đường đi Mỹ. Qua đó, tôi học ở trường bay của Hải quân về loại phi cơ chiến đấu. Khi tôi trở về nước, vừa đúng lúc xảy ra biến cố đảo chánh 1/11/63. Sau biến cố này, như anh cũng thấy rõ, không biết bao nhiêu là xáo trộn cả quân sự và chính trị. Bởi sự kiện này, miền Nam bất an, và cuộc chiến tranh ngày càng leo thang. Khi người Mỹ đã nhảy vào, xen vào nội bộ của chính phủ miền Nam, thì Hà Nội lấy cớ này để gây hấn.

            Chỉ ít giây yên lặng, Thụy bỗng nhận ra gương mặt của viên Đại úy phảng phất một vẻ buồn.

-Tôi không trở lại Huế từ ngày ra đi. Nhưng tôi vẫn gởi lại thành phố đó thời tuổi trẻ của tôi. Tết Mậu Thân, anh ở đâu ?

-Dạ, em ở Biên Hòa. Thưa Đại úy, em là lính cựu Không quân, trước đây em làm việc ở Trung Tâm Không Trợ III.

-Vậy à. Nhưng tôi nhận ra, anh hiếu học, đọc sách khá nhiều.

-Vâng, em có đọc sách, thường là loại sách truyện.

-Tôi trở lại Huế, nói cho anh hay, năm Mậu Thân thực kinh hoàng. Người Cọng Sàn tàn ác quá. Biết bao nhiêu thường dân vô tội bị chúng giết và chôn sống .

            Thụy nghe tiếng ông chậc lưỡi, sau đó tiếp lời.

-Hai người bạn học cũ với tôi đã chết trong biến cố thảm sát này.

-Hai người bạn cũng ở trong quân đội.

-Không, họ là nhà giáo.

            Thụy cảm thấy phân vân, bỗng hỏi:

-Tại sao người Mỹ họ không muốn đánh thắng Cọng Sản ?

-Không muốn thắng, anh nói đúng. Người Mỹ vẫn nghĩ rằng, nếu thực sự đánh, hai nước đàn anh của Hà Nội là Trung Quốc và Nga sẽ nhảy vào. Luôn luôn, làn sóng của chủ nghia Cộng Sản vẫn đe dọa người. Không ở Châu thôi, cà Châu Á nữa.

-Năm Mậu Thân, hai bên Mỹ và Hà Nội đã mở cuộc hòa đàm, nhưng đến lúc này hầu như ngưng trệ.

-Anh biết không, tôi vẫn lo ngại cho miền Nam trong hiểm họa của cuộc chiến này.

            Với một giọng thân tình, vừa ngưỡng mộ, Thụy nói:

-Trong chuyến bay Bắc phạt đầu tiên, phi công Việt Nam thực hào hùng, oanh liệt.

-Anh có nhớ ngày lịch sử đó không ?

-Ngày 8 tháng 2 năm 1965. Ngày này sẽ ghi trong quân sử và trận đánh được ghi vào lịch sử.

-Anh có cái nhìn trung thực.

-Tôi có được đọc các bài tường thuật củaphóng viên  báo chí, trong đó, tên của tướng Nguyễn Cao Kỳ, của Đại úy và những phi công dự trận đánh này được nhắc đến. Và, sau trận đánh mở màn này, trong năm 1965, binh chủng Không quân còn biểu dương bao nhiêu trận chiến hào hùnng trên không trung nữa. Rất tiếc, người Mỹ đã muốn chúng ta dừng lại.

-Trong cuộc chiến hiện tại, người Mỹ luôn chị những ảnh hưởng của chính trị đe dọa. Họ rất mạnh về quân sự, nhưng họ không muốn cuộc chiến tranh bùng nổ, lan rộng, trở thành thế chiến thứ ba.

-Trước đây, người Mỹ rất khôn ngoan. Họ đã nhảy vào vòng chiến hai trận giặc lớn của Châu Âu và thế giới, và rồi, họ đã được lợi và trở nên giàu có, ai có thể tranh được vị trí siêu cường của Mỹ.

-Và, bây giờ, họ vẫn muốn có chiến tranh, chứ không hòa bình, nhưng trong khoảng cách vừa phải.

-Em cũng có ý nghĩ đó.

            Thụy vừa nhớ, và đã đọc lại cho mình những mẩu chuyện, những bài viết cũ trên trang báo, trong hoài niệm của anh đã hiện lên một khuôn mặt biểu tượng của người phi công. Viên Đại úy rất thân quí với anh, ông là tiếng nói chung của một quân nhân miền Nam rất giàu tình cảm, và hơn hết, sự cao cả của ông là thấy mình luôn luôn mang trách nhiệm.Trước tiên, ông trách nhiệm về chính mình. Trong chuyến bay đầu tiên ra miền Bắc, phi cơ ông không thả bom xuống những vùng dân cư ở, mà, đánh vào các mục tiêu quân sự, những  nơi ấy là các kho vũ khí, tiếp liệu, những cây cầu chiến lược mà phía Hà Nội sử dụng để chuyển quân vào miền Nam. Rồi đến ngày đảm nhân chức vụ Đoàn trưởng coi toàn thể các tân khóa sinh và sinh viên của các khóa, ông đã cầm lấy trong tay những vui buồn của họ, và chính ông ấp ủ một ngày mai về những tương lai của họ.Vol de nuit, cuốn tiểu thuyết đoạt giải Fémina năm 1931, có lời viết tựa của nhà văn André Gide, là tác phẩm hay nhất trong sự nghiệp Saint Exupéry.  Trong cuốn này, tác giả kể ra câu chuyện  một người phi công, n hiều đoạn văn hayEt maintenant, au Coeur de la nuit, comme un veilleur il découvre que la nuit montre l'homme; ces appels, ce lumières, cette inquié tude. Cette simple étoile dans l'ombre: l'isolement d'une maison. L'une s'éteint: c'est une maison qui se ferme sur son amour - và bây giờ, trong đêm sâu, như một người canh tuần, anh ta nhận thức được đêm tối xác định sự hiện hữu của con người qua những tiếng gọi, ánh đèn hay sự lo âu của họ. Chỉ một vì sao trong bóng tối: một ngôi nhà nằm đơn độc. Một vì sao vụt tắt: tình thương tỏa ra từ một ngôi nhà vừa được khép lại. Fabien là một phi công, anh ta được giao phó nhiệm vụ chuyên chở thư từ và hàng hóa trong những chuyến bay đêm đầy nguy hiểm. Thời kỳ xa xưa ấy, mới là buổi ban đầu của ngành hàng không, các loại phi cơ và những dụng cụ hàng không còn thô sơ nên khi chiếc phi cơ cất cánh lên vùng trời, người phi công có thể nhìn thấy cái đẹp huyền nhiệm của không gian, nhưng đồng thời cảm nhận đó cũng là những cạm bẫy chết người. Núi, sông biển, những cánh đồng, những đàn cừu, những dãi cát vàng của sa mạc, những ngôi nhà được ví như ánh sáng của ngọn đèn, đó là sự hiện hữu của đất liền mà con người có được sự gắn bó. Còn mây, nó tạo nên được dáng vẻ một thành phố, sự trắng xóa của bầu trời, đó là một thế giới của trí tưởng tượng. Thế giới ấy, cũng là thế giới của người phi công. Fabien, nhân vật được tác giả tạo nên người phi công trong cuốn truyện kể này. Bay từ độ cao, nhìn những cánh đồng mây giống như biển cả huy hoàng, nhưng ở dưới lớp mây xa hơn là hư vô. Một mình gữa muôn vàn tinh tú, Fabien cảm thấy như chỉ còn liên lạc được với thế giới của loài người qua làn sóng của máy truyền tin hay ánh đèn leo lét của một ngôi nhà nào đó thật xa trong đêm khuya. Trong bóng tối bao la mờ mịt, mỗi ánh đèn là một dấu hiệu của lương tri. Chốn này, người ta đang đọc sách, người ta đang suy tưởng, người ta đang thổ lộ tâm tư. Nơi kia có lẽ người ta đang dò dẫm không gian, người ta đang mỏi mòn trước những con số, tính toán mãi về tinh vân Andromède. Ở một chốn nọ, người ta đang yêu đương, và đó đây, lác đác trên cánh đồng, những ánh lửa đang đòi hỏi được nuôi dưỡng, giữ gìn. Cho đến cả những ánh đèn kín đáo nhất, của nhà thơ, của nhà giáo, của người thợ mộc. Nhưng rồi, khi ánh đèn đó được tắt đi, sư liên lạc mong manh với loài người cũng không còn, và tình người mà nhà văn viết từ trong cuốn Terre des homes, tình người mà nhân vật Fabien cảm nhận qua ánh đèn của một ngôi nhàcũng biến mất. Đó cũng là chuyến bay đêm cuối cùng của Fabien, vì máy bay lâm nạn, anh  không bao giờ trở về nữa.

 

                                                             

 

                                                               IV

 

 

            Dưới cơn mưa buổi sáng, hai mươi anh Chuẩn úy mới ra trường đang đứng ở mái hiên ngoài của Phòng Tổng quản trị sư đoàn chờ đợi xe đến bốc đi. Tất cả ra Trung đoàn, mỗi Trung đoàn nhận năm tân sĩ quan. Trong số này, tuổi Thụy đã gần 27, còn các bạn khác cùng xấp xỉ chừng 20 đến 22.

            Thụy là người trình diện sớm nhất. Từ hôm đến, cho tới lúc này sắp lên đường, anh đã sống qua mười ngày ở đây, tương đối rất dễ chịu. Ngày nào, trời cũng mưa, không vào buổi sáng thì cũng đến lúc chiều. Những ngày chờ đợi, Thụy chỉ thấy mình qua cảnh tượng của một anh lính đi lang thang trên phố, vào quán cà phê, ghé tiệm ăn, đến tối, để dỗ giấc ngủ cầm một tờ báo đọc cho đến lúc cảm thấy mỏi mắt, mới tắt đèn.

            Nơi thị trấn xa lạ này, mới đặt chân tới lần đầu, hẳn nhiên có biết bao nhiêu mối cảm nhận làm lay động ý tưởng và dễ gây cho tâm hồn mình một sự xôn xao, thầm lặng, thế nhưng, Thụy đã không thể hiện được gì cả. Anh chẳng ước ao viết ra một truyện ngắn, không mong tìm gặp các bạn văn, và cũng không cảm thấy đơn độc để rồi nghĩ đến những mối tâm sự mà viết thư gởi cho nàng Thiên Nga và Thúy Hà. Trong lòng Thụy, từ nay, ít nhiều gì cũng mong muốn Thúy Hà hãy quên mình đi, tất cả, với anh và cả nàng nữa. Về Thiên Nga, nàng đã là chị dâu của anh rồi đó, nhưng anh vẫn có chút rung động về nàng, mỗi khi nhớ nghĩ đến. Hình ảnh Thiên Nga đẹp mãi, vẻ đẹp ấy là đóa hoa trắng của nụ cười, là muôn thủa của dòng sông.

-Thụy có đủ áo ấm chưa ?

-Có chiếc áo jacket đang mặc đây .

-Một cái không đủ đâu ? Để mình đan cho Thụy áo len.

-Anh Nguyên có chưa ?

-Có rồi.

            Trưa hôm ấy ngồi uống cà phê với nàng, Thụy có cảm giác như câu chuyện muốn viết, đã viết nên được nguồn cảm xúc và sáng tạo trong đó chính là tiếng nói của nàng.

-Sao chị bỏ không học đàn dương cầm.

-Những năm ở  trường Mỹ Thuật, rồi lo học thi Tú Tài chiếm quá nhiều thời gian nên mình tạm ngưng.

            Một giọng vui, Thụy nói:

-Hình ảnh của chị đã là một bản đàn dương cầm rồi.

            Nàng bảo:

-Bạn khen mình nhiều quá.

            Nói xong, đôi mắt nàng nhìn qua anh.

-Chị có ý định xin vào Đà Nẵng dạy không ?

-Mình đợi anh Nguyên, nhưng chắc cũng trở về lại nhà.

-Về lại nhà, chị gần với Mỵ Châu hơn.

-Mỵ Châu cũng rất cần đến mình.

            Cũng như anh Nguyên, chị Thiên Na, Thụy rất muốn xem Mỵ Châu là em gái của mình.

            Bỗng nhiên cơn mưa thêm nặng hạt. Chiếc xe GMC xuất hiện, chạy rất chậm , rồi ngừng.

            Người lính xuống xe, đến trình diện viên Thiếu Tá.

-Anh vào trung đoàn 3 trước, xong trở ra.

-Bao nhiêu người Thiếu Tá ?

-Hai mươi.

-Mỗi người đều có sự vụ lệnh riêng.

-Không, sự vụ lệnh từng toán đến Trung đoàn.

            Xe đang ngừng và đợi đến lúc ngớt mưa.

-Rồi, xin các anh lên xe.

            Viên Thiếu Tá nói xong, ông bắt tay một vài anh em đứng gần.

            Thụy nhường các bạn lên trước. Anh lên sau cùng và ngồi ở băng ghế bên trái.

            Viên Thiếu Tá đưa cao tay chào tạm biệt. Bên cạnh có một vài Sĩ quan, họ đứng hút thuốc, trên mỗi gương mặt tỏ lộ sự yên tâm như vừa trút xong gánh nặng.

Trời mưa trở lại. Từ con đường chính này, xe hướng ra cổng. Khi vào quốc lộ I, xe rẽ trái. Người bạn ngồi gần Thụy hỏi:

-Anh đi Trung đoàn nào ?

-Trung đoàn 5.

-Trung đoàn này ở Tuần Dưỡng.

-Xa không ?

-Ra phía ngoài Quảng Tín.

-Gần quân Thăng Bình không ?

-Không, trong này nữa.

            Những bạn khác trong xe cũng trao đổi chuyện với nhau. Một người nói:

-Vào phía trong là đi trung đoàn 3 và 4.

-Ở đâu ?

-Sa Huỳnh, Mộ Đức.

            Ngồi phía ngoài, mưa tạt lất phất nhưng Thụy vẫn cảm thấy mình vẫn cần đến ánh sáng, nhìn thấy quang cảnh, và được quan sát. Hình ảnh thị xã Quảng Ngãi đã trở nên quen thuộc, như vẫn là nó nằm trong lòng Thụy mười ngày qua. Cách đây hai ngày, Thuyên được kỳ nghỉ phép thường niên hai tuần. Với dáng người nhỏ, vừa tầm thước, qua mái tóc đen nhánh lộ sáng đường rẽ ngôi, trông thấy ngay một con người hiền lành, và trong cặp mắt, với nụ cười thầm lặng như để bạn hiểu ngầm. Thuyên có sự cởi mở, nên dễ làm quen và cảm thấy thân thiện. Hơn hết, với một giọng nói chừng mực, rõ ràng từng tiếng, người này còn cho bạn thấy anh ta có một sự hiểu biết rất là căn bản, chin chắn.

            Khi nhận được giấy nghỉ phép, Thuyên tìm đến Thụy. Ngày mưa hôm qua và hôm nay trong buổi chiều vẫn yên lặng, rớt đều hạt. Thụy tháo sac marin, lấy quần áo ra sắp lại, vừa xong thì bất ngờ Thuyên xuất hiện.

-Hôm nay anh được nghỉ.

-Tôi có giấy nghỉ phép thường niên.

-Hay quá, tiếng Thụy reo lên. Chừng nào anh đi ?

-Bạn có rảnh không ?

-Cứ ở đợi thế này, làm sao không rảnh.

-Ra phố uống cà phê được chứ ?

-Không một ai được quyền từ chối.

            Trời đang mưa, nhưng không ào ạt. Hai bạn mặc ngoài áo mưa, bên trong áo jacket, vừa chuyện trò vừa thong thả đi bộ ra lối cổng chính, rồi thẳng đến ngả ba phố chính xong rẽ trái, đến một quán cà phê nằm ngay giữa phố chính.

            Hai người vào quán, cảm thấy ấm nhờ ánh đèn. Trong quán, một vài chiếc bàn sâu bên trong có khách ngồi. Lệ Thu đang hát, tiếng hát của nàng vang xa những lời gọi của một người tình. Và, tiếng hát như còn đeo đuổi theo một hình bóng đang ra đi, mải miết

            Với ánh đèn, hơi ấm giữ được lâu. Đứa gái nhỏ chạy bàn tới gần, Thuyên bảo:

-Cho hai cà phê sữa.

            Thụy bật cháy que diêm mồi điếu thuốc.

-Anh đi phép bao nhiêu ngày ?

-Hai tuần lễ.

-Ngày đi đường tính riêng.

            Thuyên gật đầu hài lòng.

-Ngày mai lên đường chưa ?

-Ngày mai tôi ra Đà Nẵng.

-Lúc này đi máy bay quân sự dễ dàng.

            Đứa gái nhỏ bưng khay cà phê ra. Cà phê dậy mùi thơm, đang lên khói. Trong lúc hai người cầm cái thìa nhỏ khuấy lớp sữa dưới ly, một khúc hát vang lên, vẫn là giọng hát Lệ Thu.

            Về đâu nét tàn úa phai mờ duyên xưa

            Lòng Thụy nghe, bỗng chùng xuống, chiếc muỗng cũng dừng không khua động.

-Anh đi đơn vị nào, biết chưa ?

-Chưa. Tôi nghe nói Sư đoàn sắp sửa dời đô.

-Hai tháng nữa.

-Đi đâu, anh biết không ?

-Ra Chu Lai ?

-Ngoài đó có căn cứ của Mỹ.

-Đã bàn giao rồi. Đang sửa chữa.

            Khói thuốc lượn lờ, phiêu lãng. Những hớp cà phê ngon miệng, vui thích. Một giọng hóm hỉnh, Thuyên hỏi Thụy.

-Hình như anh có bà con với Tướng Toàn.

            Thụy cười.

-Nếu được bà con, tôi đâu có ra Trung đoàn, mà làm việc ở Sư đoàn với anh.

-Anh được ra Trung đoàn 5, gần Huế, dễ về thăm nhà.

-Trung đoàn 5 đóng ở đâu ?

-Căn cứ Tuần Dưỡng ?

-Cái tên nghe lạ.

-Phía ngoài Tam Kỳ, cách thị xã chừng 7 cây số.

-Vậy thì, ra Đà Nẵng gần.

-Đúng vậy.

            Quán ngừng mở nhạc, Thụy hỏi:

-Anh Thuyên còn học tiếp nữa không ?

-Tôi cũng học lơ mơ, chưa có chuẩn bị kỹ để đi thi.

-Anh đã xong năm thứ mấy rồi ?

-Năm thứ hai.

-Còn hai năm nữa.

-Với mình, không có chắc gì cả.

            Thụy bỗng hỏi:

-Anh có ra vùng  hành quân không ?

-Ở phòng nhì, tôi đi hoài.

-Những tờ báo bên kia, chiến lợi phẩm của Phòng nhì ?

            Thuyên gật đầu.

-Nhiều không ?

-Khá nhiều. Cả thư từ của cán binh CS nữa.

-Tôi có đọc một cuốn bút ký cán binh của Cục Chính Huấn. Những lá thư đó nguyên văn hay được sửa lại.

-Có sửa lại, chừng mười phần trăm.

-Chữ viết không thay đổi.

            Thuyên cười:

-Ông qua làm bên tâm lý chiến thì rõ hết.

-Trong trường cũng đã có dạy.

            Hai bạn cùng cười. Rồi một giọng yên lặng, Thụy nói:

-Tôi có đọc một số truyện trong mấy tạp chí anh đem về.

-Anh đọc, thấy sao ?

-Chủ nghĩa anh hùng ghê gớm quá.

            Thuyên biết Thụy còn nói tiếp, nên anh bạn đang chờ.

-Tôi không hiểu sao họ viết ngây thơ đến vậy được. Dễ như họ viết, miền Nam đã mất lâu rồi, khiến gì cho mấy anh ngoài bưng biền phải lội sông, lội suối, núp dưới những hầm hố tránh đạn, tránh bom. Những đám này, khác gì với quân phiến loạn trong thời Đệ nhất Cộng Hòa. Còn ngoài Bắc, thanh niên đi B vào Nam, cuồng tín trong đầu óc chuyện giải phóng, đánh nhau chỉ vì thù hận, vì quân Mỹ dội bom. Trong đám này cũng vậy, thơ văn họ sáng tác để tuyên truyền chiến đấu, để làm người hùng, chứ không phải là ý thức về một cuộc chiến.

            Thuyên nói:

-Ở miền Nam, trí thức và sinh viên cũng đã bị chủ nghĩa Cộng Sản mê hoặc.

            Có lẽ, Thụy đã bộc lộ mặc cảm cùng với nỗi phẫn uất của chính mình. Anh nói như là giảng giải khiến Thuyên cười nhìn anh. Nhưng sau dó, người bạn cũng gật đầu thông cảm.

-Người trí thức thiên tả, thân cộng, họ đang sống ở miền Nam ít ra cũng có chút tự do, cởi mở, vậy nên họ chỉ luôn nhìn thấy cái mặt trái của chế độ, nhưng đã không nhìn thấy mặt trái về chiến tranh.

-Anh còn nhớ vụ đưa mấy người trí thức qua sông Bến Hải không ?

-Tôi còn nhớ rõ tên và đọc kỹ các bài báo.

-Anh thấy người nào cũng sợ hãi, đúng không ?

-Không sợ sao được, họ cũng quá rõ người Cộng Sàn mà. Và, không ai trong những người đó mà không biết đến vụ Nhân Văn Giai Phẩm.

-Thực sự mà nói, đó là những người của thế hệ trước chúng mình. Hào quang của cuộc kháng chiến chống Pháp còn là dư âm vang trong lòng họ. Vì thế, họ còn say với Việt Minh , và nhớ nhiều đến miền Bắc, đến mặt trận Điện Biên Phủ.

-Anh nói đúng. Thế hệ chúng mình hiểu được những mặt trái của chiến tranh nên vẫn muốn bảo vệ miền Nam.

-Tôi có người bạn thân đã chết. Anh ấy là một người viết truyện ngắn tài hoa.

-Ai, anh nói tên đi.

-Y Uyên.

-Bạn học cùng lớp anh ?

-Không. Y Uyên cùng khóa 27 và ở chung với tôi một Đại Đội. Tôi và Y uyên khá thân nhau. Ngày ra trường, hai chúng tôi có ghé đến thăm một cô hàng cà phê ở bên khu sinh hoạt. Cô ấy cũng khá xinh, và trở thành một nhân vật trong truyện ngắn của bạn tôi.

            Thụy đỡ lời:

-Tạp chí Văn có làm một số đặc biệt về Y Uyên nhân ngày giỗ đầu của anh. Tôi có mua số báo đó, và đọc hết tất cả những bài viết của bạn bè cùng các bạn văn.

-Tôi và anh bạn thi ra trường đậu thấp nên người đi Sư đoàn, người ra Tiểu khu. Tôi làm Trung đội trưởng , lội rừng cũng hơn một năm, may chạy thuốc để có được chỗ này yên thân. Còn Y Uyên, ra Phan Thiết, làm trung đội trưởng đóng đồn ở Nora. Số Y Uyên thật run rủi, vừa đúng lúc được SVL về Sài Gòn, một viên đạn tên du kích bắn sẻ, anh ngã gục, không kịp trối một lời.

-Hôm đó, Y Uyên muốn trở lại tiền đồn để được nhớ chiến tranh, nhớ kỷ niệm cũ, và nhân thể để nói lời tạm biệt với các chiến hữu. Y Uyên đã có cái thật, sống thật  với chiến tranh như là những nhân vật trong truyện của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque. Y Uyên đã xuất bản được ba tác phẩm: Bão khô, Tượng đá sườn non, Chiếc xương lá mục. Khi ra được cuốn nào, anh cũng gởi tặng cho tôi với lờ đề tặng rất chí tình.

-Trong số tưởng niệm, anh có viết gì không ?

-Không, nhưng cái chết của người bạn làm tôi bàng hoàng.

            Thụy nhìn vào cặp mắt của Thuyên, đọc được một sự tưởng nhớ rất chân tình của người bạn.

            Y Uyên là một nhà giáo hiền lành. Trong tâm hồn phong phú của anh có một sự hóm hỉnh rất dễ thương. Những năm anh dạy học ở Tuy Hòa, anh được nhiều bạn văn quí mến, và luôn anh sống gần gũi với các bạn. Dù, với tên tuổi anh nổi tiếng và tài năng vượt trội, nhưng anh luôn ở giữa bạn bè với thái độ cởi mở, thẳng thắn. Người bạn gái của anh là cô Ngọc, cũng là giáo viên tốt nghiệp trường sư phạm Qui Nhơn. Thụy quen biết với Y Uyên qua tậm trạng của một người đọc. Và, mỗi lần đọc một truyện nắn nhà văn trẻ này viết, Thụy luôn cố hình dung ra người đó. Nhưng tuyệt nhiên, chỉ vậy thôi, anh không có chút háo hức tìm gặp để được làm quen và kết bạn. Thụy cũng hiểu rằng, Y Uyên đã làm hỏng nhiều bạn văn không phải do anh tạo nên, mà do bởi cái bóng của anh những người khác cố chụp lấy, níu lấy, và khi bắt được cái bóng đó thì tưởng nghĩ rằng đó là chính mình. Và, Thụy còn hiểu thêm một người nữa, đó là nhà văn Trần Phong Giao. Tạp chí Văn bán ra được một số lượng lớn ở miền Trung, và trong tạp chí này, sự đóng góp của các nhà văn trẻ ở miền ngoài này rất là nhiều. Vì muốn khích lệ các nhà văn trẻ hăng hái viết, anh Giao đã có một sự bao dung khi chọn bài để đăng, và cố nhiên, những truyện ngắn được đăng này cũng tạo được ảnh hưởng tốt  đối với độc giả. Nhưng cái tốt ấy, thành ra hại, khiến các bạn văn trẻ ngoài này viết gần như giống nhau, và họ thường mãn nguyện làm nhà văn khi thấy truyện của mình đăng ở báo Văn. Từ đó, anh nào cũng ham viết, ham làm nhà văn, không muốn ngừng để chịu khó tích lũy trong việc đọc, nghiềm ngẫm sáng tác để viết hay hơn, độc đáo hơn. Và rồi, người ta vẫn thấy tên tuổi họ xuất hiện đều đặn như đã bằng lòng làm nhà văn trung bình.

            Sau cái chết của Y Uyên, nhưng truyện của anh được tái bản, và được nói tới rất nhiều. Riêng Thụy, đọc và rất thích nhà văn này. Truyện của Y Uyên viết, không khí chiến tranh của miền Nam được mô tả ở những vùng xôi đậu, nơi đây, những người dân thường lúc nào cũng thấy sự bất an ngày cũng như đêm, họ luôn bị bóng ma một cuộc chiến ám ảnh, và nỗi sợ hãi về cuộc chiến này đã khiến họ là những con người bị tật nguyền, những con người bất bình thường, ở trong cùng một nơi chốn, nhưng họ đã sống dửng dưng, lạnh lùng, gần như là vô cảm. Khi đọc truyện của Y Uyên, bạn như chưa biết gì về một thị trận, một quận lỵ làng mạc có thực trên bản đồ, mà là đó là một thế giới riêng như cái vùng riêng biệt của người du mục. Hình dung nơi ấy, bạn chỉ thấy một chiếc xe đò dừng lại bên đường giữa nắng trưa, một con sông đục nước, chiếc cầu gãy, cánh đồng khô, chiếc phi cơ đang bay qua đầu ngọn núi, và một đoàn người đang đi bộ qua đèo. Trong sinh hoạt, cũng có những buổi chiều ồn ào, nhộn vui  ở các buổi họp chợ, ở tiếng đùa giỡn la hét của bọn trẻ con, bọn học trò, và ở nơi quán rượu thường pha trộn những tiếng giọng khàn đục của những kẻ chán đời . Tiếng súng nổ cũng có, nhưng nghe tiếng súng đó, bạn không thể biết nó xuất phát từ bên phía nào. Và rồi, cái chết bỗng dưng xảy ra, trông thấy thật rùng rợn.

            Hai người bạn ngồi rất lâu trong quán cà phê. Ngoài phố, buổi chiều ấy, mỗi lúc trời càng mưa nặng hạt.

            Sáng nay, Thụy cùng những người bạn lên đường trời vẫn mưa.

 

 

                                                               V

 

 

            Thụy đã đến đây hơn hai ngày, buổi sáng ấy trong cảnh trời mưa tầm tã, nặng nề, chiếc xe GMC đã chở hai mươi tân sĩ quan lần lượt thả họ xuống các Trung đoàn 3, 4, 5, và 6. Vào lúc năm tân sĩ quan trình diện, vị Đại tá Trung đoàn trưởng có dành mười lăm phút để hỏi qua sơ yếu lý lịch từng người, sau đó ông ký trên tờ SVL phân phối ; về Tiểu đoàn 3 hai người, còn lại mỗi Tiểu đoàn một người. Thụy thuộc Tiểu đoàn 1.

            Từ ngã ba quốc lộ, một con đường đất dốc đá và sỏi chạy qua khu gia binh qua một khu nhà tiền chế bỏ hoang, đến cổng chính Trung đoàn, khoảng cách đến gần hai cây số.

            Căn cứ nằm giữa một quả đồi rộng lớn, nhìn về hướng núi, trông thấy một vài tiền đồn thấp thoáng trong lớp mưa và sương mù của mùa đông. Về hướng đó, bên dưới núi là một ngôi làng nhỏ,  tới sát vòng đai là những hàng rào kẽm gai nhiều lớp được chăng phòng thủ cho căn cứ, nằm giữa những vòng rào này là bãi mìn, lựu đạn.

            Bộ chỉ huy Trung đoàn nằm riêng biệt giữa khoảng đồi rộng với một dãy nhà tôn dài, phía trước, phía sau, và hai bên được tấn bằng những hàng bao cát để chống pháo kích. Cửa chính có bề rộng khoảng hai mét, ngay bên lối vào là phòng thuyết trình, tiếp đến một hành lang đi qua những phòng  làm việc của Bộ chỉ huy, rộng nhất đặc biệt là Phòng hành quân với những tấm bản đồ lớn và đủ các các loại máy vộ tuyến, điện thoại đường dây nóng. Ở phía đầu hồi, hai căn phòng đối diện nhau, một của vị Trung đoàn trưởng một của vị Trung đoàn phó.

            Sân bay, vừa là sân cờ của Trung đoàn. Hôm qua, từ Trung đoàn trưởng đến các Sĩ quan đã đứng thành hàng ở sân bay để đón tiếp tướng Lãm Tư lệnh Quân đoàn I ở Đà Nẵng vào, và tướng Toàn Tư lệnh Sư đoàn 2 từ Quảng Ngãi ra. Hai vị Tướng này cùng xuất thân trường Võ Bị Đà Lạt. Cà hai, cùng ở binh chủng Thiết Giáp, đã có thời gian nhiều năm đi tu nghiệp ở trường Saumur bên Pháp. Ngày trước, tướng Lãm là thầy giáo, dạy cùng trường với ba của Thụy  ở quận Cam Lộ. Trường lấy tên quận, có năm lớp, thầy Lãm dạy lớp Nhất. Sau hai năm dạy học,  thầy Lãm tình nguyện đăng lính vào trường Võ Bị Đà Lạt. Ra trường, thầy mang cấp bậc Thiếu úy. Rồi, đời quân ngũ của thầy gặp vận may, cấp nào cũng có huy chương, có thăng thưởng, và lúc này là một vị tướng ba sao. Tuy là một người đã làm nên danh vọng, nhưng ông vẫn giữ tình thân như ngày xưa với ba Thụy là bạn đồng nghiệp, cũng như , vẫn còn đó kỷ niệm những tấm ảnh, những lá thư của ông trong thời trẻ, thời dạy học, thời đi lính được gia đình Thụy cất giữ.

            Khu cư xá vãng lai có nhiều phòng, nằm cách cổng chính khoảng gần năm trăm mét. Nơi này, không chỉ dành riêng cho các quân nhân ở xa mới đến nhận đơn vị, còn là chỗ dành cho các gia đình thân nhân từ các nơi xa đến thăm chồng. Thụy và các bạn cùng khóa về đây, đã tạm trú qua hai ngày đêm. Bên cạnh phòng vãng lai là phòng làm việc của ban 3.

            Từ Trung đoàn, năm vị tân sĩ quan còn đến ban 1 để nhận sự vụ lệnh đi về các Tiểu đoàn. Trưởng ban 1 mang cấp bậc Trung úy, người miền Nam. Khi năm vị tân sĩ quan đến, ông ta đón tiếp niềm nở và mời trà thuốc, chuyện trò cởi mở. Số quân nhân làm việc ở đây khá đông, đến 20 người. Trong ban 1, có tiểu ban tuyển mộ do một Thiếu úy đảm trách. Trong lúc chờ nhận SVL, Thụy để ý đến công việc của tiểu ban tuyển mộ đang làm. Anh Trung sĩ tên Mạnh có mái tóc hớt cao, vẻ mặt còn thư sinh chắc cũng vừa mới ở trường Đồng Đế Nha Trang ra đơn vị đang đang kẽ chữ lên một tờ giấy trắng lớn. Những hàng chữ thẳng đều và cân xứng. Trên tờ giấy lớn này, anh ta ghi những điều lệ nhập ngũ và quyền lợi của quân nhân về lương bổng, phụ cấp, và các ngành học chuyên môn. Mỗi tờ viết xong, anh ta dán lên tấm gỗ mỏng, rồi bao ngoài bằng tấm nylon dày, trong suốt. Thụy cảm thấy vui, lắng nghe mấy người lính trò chuyện, qua đó, Thụy được biết những tấm bảng này sẽ được đặt ở trạm gác dọc tuyến đường do Trung đoàn phụ trách.

            Không đợi lâu, Thụy cùng các bạn nhận SVL từ viên Trung úy Trưởng ban 1. Nhận xong, mấy anh em kéo nhau qua quán gần bên ngồi uống cà phê, rồi đến giờ cơm, ăn trưa ở đó luôn.

            Buổi chiều, Thụy trình diện ở Tiểu đoàn 1. Căn cứ Tiểu đoàn nằm trên ngọn đồi cao  nhất nhìn thấy bao quát hết quang cảnh bên trong và ngoài căn cứ. Thụy cảm thấy bơ vơ, tưởng như mình không còn có dịp về thành phố nữa. Đường quốc lộ vắng bóng người và xe, những mái nhà trông thật ảm đạm, và cả đồng ruộng cũng  chìm ngập trong cảnh buốt giá của mùa đông.

            Ba người ngồi bên trong căn hầm nhìn ra cửa khi thấy Thụy xuất hiện. Viên Thượng sĩ hỏi:

-Chuẩn úy hỏi tìm ai ?

-Không, tôi trình diện Tiểu đoàn.

            Thụy mở nắp túi áo lấy tờ SVL, anh đưa cho ông Thiếu úy.

            Viên Thượng sĩ tìm một chiếc ghế trống ở gian bên đem qua mới Thụy ngồi. Thụy vẫn còn đứng, tay dựa thành ghế. Trên bàn có trà và một gói thuốc, nhưng chỉ có mình ông Trung sĩ đang hút.

            Sau lưng ba người, có chiếc bàn dài, một anh lính truyền tin đang ngồi nghe máy.

-Mời Chuẩn úy ngồi.

-Cám ơn.

            Nãy giờ, ông Thiếu úy im lặng. Khi nhận SVL của Thụy, ông không nói gì mà mở ra một cuốn sổ lớn, rồi cầm bút vừa nhìn qua tờ giấy vừa ghi.

-Chuẩn úy ở đơn vị nào đổi đến ?

-Không, tôi vừa mới rời quân trường sau khi mãn khóa học.

-Chỉ có một mình Chuẩn úy về Tiểu đoàn.

            Thụy cầm ly nước trà nóng uống một hớp đầy. Anh nói:

-Chúng tôi về Trung đoàn năm người, và được phần phối đi bốn Tiểu đoàn.

            Xong việc, ông Thiếu úy nhìn Thụy hỏi:

-Chuẩn úy có cần chúng tôi giúp gì không ?

            Chỉ sau ít giây, Thụy nói:

-Quân trang của tôi còn thiếu…

-Không sao ? Chuẩn úy sẽ được cấp phát bổ sung.

-Cám ơn Thiếu úy.

            Rồi tất cả cùng im lặng. Người lính truyền tin đưa ống liên hợp cho viên Thượng sĩ. Từ căn cứ hành quân, vị Tiểu đoàn trưởng đang cho lệnh để hậu cứ thi hành. Sau mỗi lệnh của vị chỉ huy, ông Thượng sĩ đáp nhận rõ qua khẩu lệnh truyền tin.

            Nhận chỉ thị xong, ông cho vị Tiểu đoàn trưởng hay biết là có một Chuẩn úy mới đến trình diện.

-Già hay trẻ.

-Còn trẻ, mới ra trường.

-Cho lên trình diện tôi.

-Nhận rõ.

            Ông Thượng sĩ rời máy, nói với Thụy:

-Thứ hai có chuyến tiếp tế, Chuẩn úy sẽ đi theo lên gặp Thiếu Tá.

            Thụy uống hết ly trà, rồi đứng dậy cùng đi với viên Trung sĩ đến nhà kho. Tại đây, Thụy làm thủ tục lãnh quân trang ,  quân dụng. Anh nhận được hai bộ quần áo trận mới, hai chiếc nón vải, một cái nón sắt, một chiếc ghế bố, một cây súng M16 và cấp số đạn hành quân.

            Ở Tiểu đoàn cũng có phòng vãng lai, đặt bốn chiếc giường sắt giống như ở quân trường. Sau khi nhận xong quân trang và quân dụng, Thụy đến phòng vãng lai bỏ ba lô, đồ đạc, xong theo viên Trung sĩ đến ban quân lương. Kể từ hôm nay, anh thuộc về quân số Tiểu đoàn và sẽ được hưởng phụ cấp 4500 tiền hành quân.

            Ở Tiểu đoàn, thủ tục rất đơn giản. Chỉ qua ít giờ, mọi việc xong xuôi, và ngày lên căn cứ hành quân đã được ấn định nên Thụy không còn lo nghĩ hay chờ trông gì cả.

            Trời đã tạnh mưa. Những cái bóng sáng vừa lay động đã xóa tan rất mau cái vẻ ảm đạm của buổi chiều. Không có ai trông dợi, nhưng rồi tiếng còi hụ vang lên, ngay lập tức, người nào cũng vội vã. Hầu hết và hạ sĩ quan làm việc ở Tiểu đoàn đều là người địa phương, họ có nhà ở trong khu gia binh và ngoài thị xã.

            Thụy vẫn còn được ít ngày nữa mới lên căn cứ hành quân. Đây cũng là sự ưu ái của vị Tiểu đoàn trưởng đối với những người ở xa mới đến.

            Buổi sáng thứ sáu, Thụy quá giang xe cơ hữu của Tiểu đoàn ra thị xã Tam Kỳ. Xe dừng ở giữa phố chính, bên kia đường là một tiệm buôn bán trà và hàng tạp hóa. Vừa xuống xe, Thụy hỏi đường đến Ty Bưu điện, và đi bộ nhanh bước.

            Bên ngoài sân, cảnh vắng lặng, có thể mới đầu buổi sáng còn vắng khách. Vào bên trong, Thụy đến chỗ bàn đá có chia nhiều ngăn cho khách viết thư hay gói hàng trước khi gởi.

            Thụy viết thư gởi về Huế cho mẹ và các em. Lá thư viết trên giấy có kẽ giòng.

            Kính thăm mẹ,

            Hiện giờ con đang ở hậu cứ Tiểu đoàn. Ngày thứ hai, con sẽ lên vùng hành quân theo chuyến bay tiếp tế. Mới đến đơn vị, nhưng con cũng đã nhận được lương của tháng này. Với số tiền lãnh được, con trích ra 5000 gởi cho Mẹ tiêu dùng, và cho mấy em một ít mua sách vở học.

            Anh Nguyên có hay về nhà không ? Kỳ phép vừa rồi, con có ra Quảng trị chơi và gặp chị Thiên Nga. Chị có nói với con, dạy thêm một năm nữa, chị sẽ xin vào Đà Nẵng để được gần nhà.

            Thư của ba, con sẽ gởi sau. Mẹ yên tâm, cố giữ gìn sức khỏe và các em gắng chăm học. Nhờ trời Phật phù hộ cho con luôn bình yên. Nơi đơn vị con đang ở, cách thị xã Tam Kỳ chừng 7 cây số. Như vậy, không xa Đà Nẵng và Huế. Từ đây về Huế, chỉ chừng năm giờ xe đò là tới, thành ra, con vẫn có nhiều dịp về thăm gia đình. Vài giòng thư ngắn, con tin cho mẹ và các em hay. Nhận được thư và tiền, mẹ nhớ tin cho con biết.

Con rất nhớ mẹ. Chúc các em vui, chăm học.

Con của mẹ, Thụy.

            Những điều trong thư Thụy vừa mới viết, thực sự nó yên bình. Hai người khách rời quầy, vừa đúng lúc Thụy đến. Nhưng anh lại dừng chờ, vì cô nhân viên đang còn bận xếp lại thư từ và mấy gói bưu kiện vừa mới nhận.

            Khi cô ta quay lại, Thụy lên tiếng chào và nói:

-Tôi cần mua một tấm mandat.

-Bao nhiêu tiền, Chuẩn úy.

-Năm ngàn đồng.

            Cô nhân viên đưa một tờ giấy kê khai tiền gởi cho Thụy điền. . Làm xong, Thụy gởi tiền cho cô nhân viên đếm. Sau khi đếm đủ, cô viết một tấm ngân phiếu , xong đưa cho Thụy.

            Thụy nhận tấm mandat liền cho vào phong bì rồi dán kín, và đưa lại cho cô nhân viên đóng dấu tem bảo đảm.

-Thư bảo đảm này đi chừng mấy ngày cô ?

-Đây ra Huế chừng hai ngày, có thể ba ngày.

            Cô nhân viên giao giấy biên nhận cho Thụy. Anh cẩn thận cất mẩu giấy này vào trong ngăn ví.

-Cám ơn cô.

-Không có gì, Chuẩn úy.

            Nãy giờ, cô nhân viên Bưu điện đã có sự chúy ý đến người lính. Cô cảm nhận một chút gì đó, nhưng không dám hỏi. Hình như cô nhớ ra được cái tên rất quen biết của người gởi.

-Chào cô tôi đi.

-Vâng, chào Chuẩn úy.

            Bỗng nhiên cô gái đứng lên, chợt gọi tên Thụy.  Thụy ngạc nhiên, anh quay bước trở lại.

-Có gì trở ngại không cô ?

-Không, tôi chỉ muốn hỏi Chuẩn úy trước đây có học ở Đà Lạt không ?

-Có. Cô cũng học ở đó.

-Tôi học ở trường Việt Anh, cùng lớp với Chuẩn úy.

            Cô nhân viên mỉm cười nhìn Thụy.   

-Thực vậy sao ?

-Sao mà không ?

-Nhưng sao cô lại nhớ tên tôi .

-Anh là cháu thầy Phiên, phải không ?

-Đúng rồi.

            Cô gái như đang muốn tạo một dáng vẻ ngày xưa để nhắc một kỷ niệm nào đó với người bạn cũ.

-Ờ nhỉ,  lớp mình học đông quá, cả nam và nữ. Bên nữ, hầu như tôi không mấy nhớ được nhiều tên.

-Anh còn nhớ tên những ai.

-Một vài cô, như cô Thu, cô Liễu.

-Còn tôi, cô không nhớ.

-Tôi hình dung ra được rồi, nhưng quên mất tên.

-Tôi là Trang.

-A, nhớ rồi, phải , phải, Trang ngồi gần cô Ngân.

-Không phải.

-Vậy thì, sao đây ?

-Anh Thụy nhớ đúng. Cô gái đáp, vừa gật đầu.

            Một giọng thân tình, Thụy hỏi:

-Sao ở trong đó, Trang ra làm việc ngoài này ?

-Mình đi theo chồng.

-Ông xã là công chức hay quân nhân.

-Công chức ở Ty Xã Hội.

            Hai người trao đổi chuyện trong lúc vắng khách. Tiếng của Trang gợi Thụy nhớ nhiều đến thời niên thiếu. Không chỉ riêng Đà Lạt thôi, mà có những ngày tháng bình lặng ở Quảng Trị nữa. Nơi ấy, là nhà ga, bóng dáng tháp nước, quán hàng cơm của mẹ. Trong ánh mắt Trang, mỗi lúc biểu lộ sự dịu dàng và Thụy vừa thấy một màu ánh sáng buồn và đẹp trên khuôn mặt.

            Sự im lặng thật nhẹ nhàng trong ánh mắt có nụ cười lúc hai người bạn nhìn nhau. Bỗng nghe có tiếng nói, tiếng vọng bước chân, Thụy ngoái đầu thấy ở cửa chính có vài người khách xuất hiện. Nhưng, lúc vào, họ còn dừn ở  chỗ bàn đá, một người gói đồ, hai người kia viết thư. Thụy vẫn đứng bên quầy chuyện trò với cô bạn cũ.

-Trang ra ngoài này lâu chưa ?

-Ba năm.

-Nhà cũng ở ngay trong thị xã.

            Trang gật đầu, nàng hỏi:

-Thụy làm việc ở Tiểu khu.

-Không, ở ngoài Trung đoàn. Hai ngày nữa đi lên căn cứ hành quân.

-Xa không ?

-Chưa biết. Tôi mới tới đơn vị mấy ngày nay.

            Trang lấy một chiếc phong bì, ghi địa chỉ nhà mình ở đưa cho Thụy.

-Đây là địa chỉ nhà Trang. Có dịp rảnh , Thụy ghé chơi.

-Có dịp về, là ghé.

-Nhớ ghé nghe.

-Chắc rồi. Cám ơn Trang, cho gởi lời thăm ông xã.

            Khi Thụy dời bước, hai người khách hướng về ghi sê của Trang. Trang đang nhìn theo cái bóng của Thụy. Dù biết đằng sau, bên khung cửa lưới bóng dáng Trang đang đứng nhìn theo mình, nhưng Thụy vẫn không ngoái đầu. Hình như, chỉ còn một bóng dáng đơn độc, nó giữ lại một thành phố trên miền cao nguyên.

            Nắng dậy sáng, mở rộng cả khu phố. Thụy không biết mình đi đâu. Đây là lần đầu tiên anh đến thị xã này, cảm thấy mới lạ và mong đợi. Luôn luôn, trong cuộc sống Thụy mong mỏi tìm người bạn.

            Trong cảm giác của một người xa lạ bỗng dưng xuất hiện ở nơi này, Thụy không thể tìm cho mình một mái nhà, một người bạn, hay một hình ảnh thân thương nào cả.  Anh thấy mình như một chiếc thùng rỗng đang lăn lóc, vật vờ. Khi trông thấy một cửa hiệu sách đầu ngã ba, Thụy ghé vào. Cửa hiệu khá lớn, nhiều sách, và trông mặt ra hai con đường, một đường thuộc về thị xã, một đường nằm trên quốc lộ. Người chủ tiệm ngồi ở quầy nhìn Thụy có vẻ chú ý. Thụy cũng biết, nhưng anh làm lơ, và cũng không muốn hỏi chuyện về sách vở để làm quen. Bây giờ, Thụy nhớ ra, dọc con đường chính của thị xã này, có đến ba nhà sách anh trông thấy trưng bảng hiệu, nhưng có lẽ đây là nhà sách lớn nhất. Thụy muốn đốt điếu thuốc, nhưng có phần ngại. Chung quanh anh, chỗ này, chỗ kia bên các hàng ghế, hay trong mỗi góc, một vài người đang yên lặng tìm kiếm sách. Bỗng nhiên , có tiếng cười lớn làm ai cũng ngạc nhiên. Người chủ hiệu trong dáng bước tự tin, vừa rời khỏi quầy để tiếp một người bạn quen.

-Hôm nay ông được nghỉ ?

-Không, tôi vừa mới ở trường về.

            Người khách cầm gói thuốc mời, chủ hiệu rút một điếu. Thụy bước đến chỗ đặt hai cái bàn lớn, và trên mặt bàn này những loại sách mới vừa xuất bản được trưng bày để giới thiệu khách hàng. Thụy cảm thấy ngợp, trầm trồ, chiêm ngưỡng những tác phẩm đồ sộ của hai nhà văn lớn nước Nga: Tolstoi và Dostoievsky.  Sách dịch in rất đẹp, bìa dày,  giấy loại tốt, và giá khá đắt. Thụy biết mình không thể mua nổi, với lại tác phẩm cũng khó đọc, nhất là với Dos là đại văn hào của thế giới, anh đành nhìn tác phẩm như  nhìn pho tượng. Bên cạnh  những tác phẩm đồ sộ này, có một số khá nhiều tiểu thuyết mới của các nhà văn tên tuổi ở Sài Gòn. Hai nhà văn đang ăn khách là Mai Thảo và Duyên Anh.

            Thụy chỉ nhìn bằng mắt, lướt qua mỗi cái tựa tác phẩm in ngoài bìa. Anh không mó tay, lật qua vài trang để xem, và cũng không có ý định chọn một cuốn nào để mua.

Thỉnh thoảng câu chuyện giữa vị thầy giáo và ông chủ hiệu sách lọt vào tai Thụy. Bất ngờ nhìn qua, Thụy thấy cái cung cách ông chủ hiệu có vẻ niềm nở, thoải mái với người khách kia, vừa như có chút hãnh tiến về mình, cũng là hạng trí thức. Người khách là thầy giáo, ít nói,  tỏ ra điềm đạm, mực thước hơn.

            Một lúc sau, Thụy đến trước những dãy kệ dựa lưng tường. Nơi nào cũng đầy kín sách, và mỗi dãy, các loại  sách được phân loại và sắp theo từng ngăn. Thụy nhận ra ngay ở hiệu này, tuy có đủ loại sách về sáng tác và biên khảo, nhưng vẫn không nhiều hơn các lại sách giáo khoa.

            Sự tình cờ Thụy được gặp một số truyện dịch mà anh yêu thích. Ở đây, có Khung cửa hiệp của André Gide, Giao cảm của Albert Camus, Kiếp người của Somerset Maugham.  Thụy dễ dàng đưa tay lấy cùng một lúc ba cuốn và coi giá tiền, anh tính nhẩm, và cảm thấy hài lòng. Giữ lấy ba cuốn sách trong tay, Thụy đi qua những hàng kệ khác, và một tác phẩm anh mua được thêm là cuốn Chùa đàn của nhà văn Nguyễn Tuân.

            Thụy không tìm thêm, anh đến quầy trả tiền. Người khách là vị thầy giáo đã ra về lúc nào, anh không hay. Người chủ hiệu nói với Thụy:

-Sách được bớt 10%

-Cám ơn ông chủ.

-Ở đây, tùy theo loại sách chúng tôi bớt giá.

            Thụy thật tình hỏi:

-Nhà sách của ông lớn nhất ở đây.

            Ông chủ mỉm cười, đáp:

-Có lẽ.

            Rồi ông hỏi Thụy:

-Chuẩn úy ở xa mới đến.

-Dạ, tôi mới đến.

-Tôi là người sinh trưởng ở đây, ông nói.

-Tôi biết, nghe trong giọng nói của ông.

            Kể ra, hôm nay là một ngày bình yên. Thụy gặp Trang, bạn học cũ ở Đà Lạt. Vào cửa hiệu sách, gặp người chủ dễ dãi, thiện cảm, và anh cũng tìm được mấy cuốn truyện mình thích đọc, mà cũng rất cần có nó để đọc, trau dồi cho nghề văn.

            Trước khi rời quầy, Thụy được ông chủ hiệu tặng cuốn lịch bỏ túi. Trưa mùa đông, trong ánh nắng bừng sáng hơi ấm, nhưng thời tiết vẫn thấm lạnh. Trên đường đi, tình cờ thấy có sạp báo , Thụy dừng mua mua ít tờ. Rồi, Thụy tìm một quán ăn. 

            Vừa trông thấy Thụy ở cửa, người đàn bà chủ quán lên tiếng chào và mời Thụy ngồi ghế. Thụy đến chiếc bàn ở góc, nhưng trông ra phố thấy rõ mọi quang cảnh sinh hoạt. Người chạy bàn đến, Thụy gọi cơm phần ba món. Khi ông ta đi khỏi, Thụy bỗng cảm thấy chỉ còn lại mình với một nỗi niềm an ủi, dễ chịu. Rồi, trong lúc chờ cơm, anh lấy mấy tờ báo vừa mua mở ra đọc.

            Bữa cơm mang đến, Thụy bắt đầu ăn. Anh cảm thấy đói, lạnh, và ăn ngon miệng. Thụy cũng hiểu rằng, anh chỉ còn ít ngày nữa thôi. Bữa ăn vừa đủ, anh ăn hết, không gọi thêm. Sau bữa ăn, Thụy cố nhờ chỗ này để ngồi lâu đọc báo. Tiệm ăn có khách nhưng không đông. Bên ngoài, con phố chính vẫn đông người đi bộ, xe đạp, xe gắn máy, nhiều hơn hết là xe nhà binh.

            Người chạy bàn mang ra cho Thụy một ly lớn nước trà chanh nóng. Thụy uống từng hớp ngon miệng, cảm thấy nhẹ nhõm. Trên bàn, tờ báo mở rộng. Những tin trang nhất anh đọc, một nửa là tin chiến sự, còn lại là tin sinh hoạt quốc nội và những tin từ Dinh độc lập với các phái đoàn ngoại giao. Tình hình chiến sự ở vùng hỏa tuyến được yên tĩnh trong mùa đông này, nhưng ở phía Nam thuộc miền Đông và miền Tây giáp biên giời Cam Bốt, diễn biến đang sôi động với nhiều trận đánh lớn. Hà Nội không chỉ chuyển quân vào Nam với quân và cơ giới hạng nhẹ, mà đã có những xe tăng, đại pháo, chuẩn bị cho những trận đánh lớn trên chiến trường. Tờ báo Thụy đang đọc là tờ Chính Luận, một tờ báo rất nhiều bài vở tin tức, và được coi là rất uy tín với quần chúng độc giả mọi giới. Và, ở tờ báo này, những trang quảng cáo rất ăn khách, hiệu quả.

            Thụy đọc khá kỹ những bài cần đọc. Rồi lật vào trang trong, anh tìm đọc những mẩu tin sinh hoạt thường ngày từ Sài Gòn đến các tỉnh thành. Huế sắp có cuộc triễn lãm cho mùa xuân năm Nhâm Tý 1972.

            Bỗng nhiên, Thụy cảm thấy ngỡ ngàng, như thể tờ bào trên tay anh đang cầm nhẹ nhàng như một chiếc lá vừa rời cành.

            Với sự bình tâm, Thụy đọc lại tin vui của Huê. Bây giờ, lòng Thụy trống trơn, anh vẫn hình dung ra được gương mặt của Lan Huê, nhưng lạ thay, anh không còn nhớ được gì nữa về Huê, về những kỷ niệm vui, và rất dễ thương của anh và nàng.

            Ngồi trong quán như đã lâu, Thụy gấp tờ báo đứng dậy đến quầy trả tiền. Khi anh bước ra đường, trong cái lạnh, anh chợt có cảm tường như Huê đang ở bên anh chứ không phải nàng đã đi lấy chồng .

 

 

                                                          VI

 

 

            Với Lan Huê, nàng không có một điều gì phải làm Thụy buồn nhớ, phiền muộn. Nàng vẫn thường nói với anh, chuyện trò vui với anh trong chốc lát, trong sự nghỉ ngơi, cả trong sự chờ mong, nhưng em vẫn luôn là em gái của anh. Anh nói em là hình ảnh của Phượng, cũng có thể, nếu anh yêu quí hình ảnh đẹp đó, anh hãy cứ giữ lấy, như một bức ảnh em đã có tặng cho anh. Vậy đó, Lan Huê vẫn còn là những hình ảnh vui, trẻ trung, dễ thương trong trong mỗi ngày. Nàng luôn thấy mình xuất hiện để cho Thụy tình cờ trông thấy. Anh gặp nàng trên đường phố, trong quán cà phê, ở hiệu sách, và một đôi khi trong rạp hát, nàng như một người dành cho anh những lời tâm sự và những câu nói tỏ tình rất dễ nghe. Rồi vừa mới đây, nàng đi lấy chồng. Tin về nàng, anh được đọc trên tờ báo.

            Thụy đến nhà Trang vào buổi trưa chủ nhật. Anh được cả gia đình cô bạn học cũ đón tiếp rất niềm nở, và trong buổi hội ngộ này, anh ngạc nhiên gặp một người quen, nàng không nhớ ra anh, nhưng chỉ mất trong ít giây hồi tưởng là anh nhớ.

            Ngày trở lại Huế lần đó, Thụy bỗng có ý thức rõ rệt về cuộc đời mình khi thấy đang làm cặp mắt anh có ngấn lệ, xốn xang. Ở với gia đình khá lâu, còn lại mấy ngày cuối, Thụy muốn để dành thời gian vào Đà Nẵng thăm gia đình Thúy Hà. Anh rất nhớ nàng, bao giờ cũng cũng ước ao có nàng, hay được gặp lại, được thấy lại nàng, và hơn lúc nào hết anh luôn chờ đợi nghe tiếng nàng nói từ trong cặp mắt nhỏ bé, từ một gương mặt rất đẹp và buồn.

            Vì có ý định ở lại Đà Nẵng một ngày nên Thụy đi chuyến xe đò buổi chiều. Và, cũng chẳng ai hay, đó là chuyến xe cuối cùng trong ngày.

            Chuyến xe đông chật hành khách. Thụy ngồi bên cạnh một cô gái có gương mặt thầm lặng. Trong xe, hành khách phần đông là những người đi buôn, một số công nhân và có vài người lính mặc quân phục. Thỉnh thỏang, cô gái bắt gặp cái nhìn của anh, và cô cũng nhìn lại với sự dò xét. Tuy nhiên, hai người chẳng chuyện trò gì cả.

            Xe chạy mới hơn một phần đường thì gặp mưa. Trời mưa lớn nên chỉ trong chốc lát cảnh vật hai bên đường bị mưa và sương mù phía núi tràn xuống nhòa kín hết. Những cánh cửa xe hai bên và đằng sau đều đóng kín. Trong xe, bóng tối bao phủ chỉ còn thấy lô nhô đầu người, thỉnh thỏang lóe lên vệt sáng như sấm chớp. Xe không có đèn điện. Có người đốt diêm hút thuốc.

            Cô gái ngồi nép mình. Xe chạy giảm tốc độ gây cảm giác buồn ngủ. Bên ngòai trời lạnh, mưa, bên trong hơi người ngột ngạt. Khi nghe hơi thở nhẹ bên mình, Thụy có cảm giác như là một hương vị lạ dịu dàng. Vừa quay đầu sang, anh thấy đôi mắt cô gái nhắm lại, và rồi đầu cô ngả nhẹ xuống vai anh. Anh nhìn cô gái như nghĩ đến một con chim nhỏ, như gợi nhớ ngày nào của tuổi thơ cô hiện ra trong trí tưởng anh hình ảnh người em gái .

            Xe mới qua khỏi con đèo đầu tiên thì bất ngờ bị hỏng máy. Trước khi ngừng, chiếc xe kéo lê lết với tiếng máy kêu lịch xịch đến khi tắt ngấm ngòi điện nổ mới ngừng. Trời còn mưa. Bên trên tài xế khóac áo mưa ra khỏi xe. Cùng xuống với anh ta có hai người tài phụ. Khi người tài xế mở nắp ca bô trước, khói và hơi nước trong máy phun ào lên. Trời vẫn đang mưa, anh ta dùng đèn pin soi rọi các bộ phận trong máy xe xem bị hư chỗ nào.

            Hành khách vẫn ngồi lại trong xe vì trời mưa. Con đường lại vắng, vì giờ này không còn chuyến xe nào từ Huế đi vào phía Nam. Có thể, người ta trông đợi những chuyến xe hàng từ Đông Hà, từ Quảng trị, hay may ra là những chuyến xe nhà binh.

            Mưa tạnh ráo. Vừa tạnh mưa, những đám mây mù trôi nhanh để lại ánh sáng của buổi chiều trên quốc lộ. Ở phía sau mọi người xuống xe. Rồi nối theo nhau, hành khách trên các băng ghế trước cùng xuống.

            Hầu như ai cũng thấy dễ khi được  hít thở khí trời ở ngòai. Vừa xuống xe, nhiều người mau chạy đi làm vệ sinh cá nhân ở chỗ khuất. Sau đó, họ về lại xe, đứng từng nhóm trò chuyện. Thụy mong tìm người nào quen trò chuyện nhưng không gặp. Ba người lính và một vài hành khách nữa đi lên chỗ đầu xe xem người tài xế sửa chữa. Một vài lời góp ý, chẩn đóan về căn bệnh của xe.

            Khói thuốc hút tan lõang ra, mong manh. Cô gái đứng riêng một mình mắt nhìn ra phía cánh đồng trống. Hình ảnh đồng quê ướt át sau cơn mưa chắc cũng gợi cho tâm hồn cô một mối rung động buồn bã và thân thiết. Hút xong điếu thuốc, Thụy nhẹ bước đi về chỗ cô đang đứng.

            Cô ta nhìn thấy rõ dáng đi và vẻ mặt anh. Có hơi bối rối, nhưng cô ta vẫn đứng yên chỗ. Lấy giọng tự nhiên,  Thụy hỏi:

-Cô dạy học ở Đà Nẵng ?

-Dạ không .

-Cô về thăm nhà ?

            Cô gái mỉm cười lắc đầu sau câu Thụy hỏi. Giọng chậm rãi, Thụy nói:

-Gia đình tôi ở Huế, nhưng vào quân đội đơn vị tôi ở gần Sài Gòn.

-Ông về nghỉ phép.

-Cô nói đúng.

            Anh sáng cuối ngày đã vụt tắt. Giữa đường, chiếc xe hàng bị pan máy chưa sửa chữa xong. Đêm xuống. Bóng đêm lan nhanh, lan rộng tới các vùng làng quê về phía xa. Núi chỉ còn thấy lờ mờ, và sương mù đã xuống nhiều.

            Kim đồng hồ đeo tay của Thụy chỉ 7giờ rưỡi. Anh và cô gái lặng im, không biết nói gì thêm. Bỗng mọi người nghe tiếng bật nổ của máy xe. Nhưng vừa sắp sửa nổ mạnh thì lại tắt. Người ta lại lo lắng, vừa hy vọng. Sau ít phút, với sức quay tay rất nhanh, tiếng máy bật nổ lớn. Mọi người cùng vỗ tay. Vẫn chưa có ai vội lên xe, vì người tài xế vẫn còn đợi nghe tiếng máy nổ. Không lâu, tiếng máy nổ nghe đều, người tài xế mới yên tâm , anh ta vừa đóng nắp ca bô lại vừa lên tiếng mời hành khách. Mọi người vui vẻ lên xe không có lời phàn nàn.

            Đêm như có vẻ mịt mù, xa khuất. Xe lăn bánh ra đường. Đèn trước xe tỏa rộng ánh sáng để thấy đường. Xe chạy suốt không nghỉ. Xe chạy qua những đường đèo, đồng ruộng, những nhà ở thưa thớt, ánh đèn hiện ra rồi biến mất, nhưng rồi, không có gì để bận tâm, lo lắng.

            Bên kia đèo Hải vân, một trận mưa đã tràn lấn xuống mặt biển. Vừa lúc xe xuống đèo, phía xa chừng mười cây số nơi đó là thành phố Đà Nẵng đã lên đèn. Mưa còn nhẹ hạt khi xe lên đèo, mưa lớn thật dữ dội khi xe đổ xuống đèo. Ở nơi xa khỏang mười cây số, đèn thành phố đang lay động, và cơn mưa có lúc tưởng rút ngắn khỏang ánh sáng có lúc bị đẩy lùi trôi giạt, và trong mưa người ta nghe tiếng gió đập phần phật vào thành xe, cả trên trần xe. Nhưng xe vẫn cứ chạy, và mọi người cùng cảm thấy an tòan khi xe đã về gần tới thành phố.

            Trong bóng tối Thụy ngồi cạnh cô gái. Cả hai cùng lặng im. Vùng ánh sáng trên gương mặt cô gái là nhan sắc. Thụy có cảm giác như tìm được qua vùng ánh sáng nhỏ bé dịu hiền này những ngày thương yêu cũ của chính mình. Thụy nghe ra âm thanh nhỏ nhẻ tiếng nói của cô, anh đứng yên một chỗ để nhìn thấy dáng điệu, hình bóng cô đang dời bước, và anh cũng tin rằng, một ngày nào đó anh sẽ gặp lại cô một nơi chốn nào đó khác với bóng tối vây quanh giữa cuộc đời.

            Mưa không tạnh, nhưng lòng Thụy cảm thấy ấm. Xe đang chạy vào thành phố. Những tiếng động của ánh sáng, tiếng nói, xe cộ còn di chuyển dưới trời mưa mặc nhiên nói với mọi người về những sự tin cậy. Và, trong mỗi ánh đèn tìm thấy, ai cũng đều nghĩ đến căn nhà mình ở và sẽ về đến nơi.

            Đã mười giờ đêm. Xe vào bến đậu trong cơn mưa dai dẳng. Quanh xe, có tiếng gọi nhau ơi ới của khách hàng buôn trên vọng xuống và dưới gọi lên. Những người chạy xích lô chờ sẵn. Rồi cũng may, xe vào bến, trời ngớt mưa cho khách xuống để về nhà.

            Thụy và cô gái xuống sau cùng vì ngồi hàng ghế trong. Những khách xuống trước lên xích lô chở hàng, hoặc về nhà. Có nhiều người đi cùng chung một chuyến.

            Hai người vừa ra khỏi xe, người tài xế hỏi:

-Hai anh chị về đâu ?

-À, không phải đâu.

-Về đâu, lên xe đi. Hết xe rồi.

            Thụy liền giải thích với anh xích lô.

-Tôi và cô đây chỉ là hành khách thôi.

-Anh về đâu ?

-Tôi về ở chỗ bến Cảng.

-Còn cô đây.

-Phố Quang Trung, cô gái đáp.

-Bây giờ ai đi ?

            Thụy hỏi cô gái:

-Cô về một mình được không ?

            Cô gái im lặng không đáp lời. Rồi anh xích lô lên tiếng:

-Hai người lên chung xe tôi. Tôi đưa cô đây về trước, rồi lên nhà anh, được không ?

            Trời lại mưa tiếp. Cô gái gật đầu. Thụy và cô gái vội vàng lên xe. Anh xích lô đóng tấm bạt trước vừa cho hai người biết, ở đây mưa lớn từ lúc chiều. Đóng xong tấm bạt, anh đi ra sau và nhảy lên yên xe,  đạp chạy.

-Mưa lớn từ lúc chiều đến giờ.

-Em lo quá. Giọng cô gái nói rất nhỏ.

            Chiếc xe di chuyển chậm. Chỗ ngồi không rộng, nên vai anh và cô gái dựa sát nhau và cảm thấy chật chội. Cả phía dưới chân nữa. Thụy chỉ có ý nghĩ muốn đưa cô gái về đến nhà bình yên. Và, lúc này, anh chẳng muốn bày vẽ chuyện để hỏi han, tán tỉnh cô. Nơi thành phố này, tên một người bạn gái thân thương đang nhắc nhở anh. Và, lòng anh sung sướng khi đến nhà nàng, trong tiếng gọi anh cất lên, cả nhà nghe thấy ùa ra mở cửa và anh đọc sự mừng vui xúc động của từng người. Con đường bị mưa, và con phố trở nên tối tăm nên chiếc xe thương bị vấp ổ gà làm nghiêng ngả. Mỗi lần, cô gái bị ngã, Thụy cầm nắm giữ bàn tay cô. Nhưng đường xấu chỉ có một đọan ngắn, rồi xe lại chạy bình thường. Có tiếng hát cải lương của anh xích lô ca lên nghe mùi mẫn làm cả anh và cô gái cùng cười.

-Cô vào ở chơi lâu không ?

-Em đi một tuần.

-Tôi cũng đi ít ngày rồi trở ra lại Huế.

            Thụy trông thấy cặp mắt cô gái đen lánh, và thấy lại lần nữa một vùng ánh sáng trên gương mặt cô tỏa ra.

            Tiếp lời, Thụy nói:

-Tôi vào quân đội đã lâu. Tôi ở đơn vị xa. Hai ba năm tôi mới có chuyến đi phép về thăm nhà.

            Câu chuyện của hai người trở nên thân tình, và lúc này, bánh xe lăn trên đường nhựa nghe êm ả, lạ lùng. Vâng, cô gái đây là cô giáo mới ra trường dạy học được ít năm. Những lời riêng tư của mình, cô đã cho người lính cái hạnh phúc được ở bên cô với bao nhiêu người bạn của cô, anh chị em cô và người thân trong gia đình. Về phần người lính , nương mình trong cái bóng dáng phiêu bạt của đời quân ngũ, anh ta nói về một cuộc đời, về sự lớn lên của tuổi trẻ, và về một cuộc chiến tranh không biết đến bao giờ sẽ chấm dứt. Nơi đây là một thành phố vừa lạ, vừa thân quen. Và, trên cùng một chuyến xe, một con đường, anh có nên viết ra trên một mẩu giấy cho cô gái này hay biết tên người bạn gái yêu thương của anh không ?

            Bỗng nhiên có tiếng anh xích lô hỏi:

-Nhà cô số mấy ?

-Mười bốn, anh.

            Đang vui chuyện về mình, Thụy ngưng hẳn. Bất chợt một giọng hơi buồn, anh nói:           

-Về tới nhà cô rồi.

-Dạ.

-Biết đâu, gặp lại cô ở Huế.

            Cô gái nói:

-Ông còn trở về đơn vị của ông nữa mà.

-Đúng vậy. Đâu có thể chờ được.

            Chiếc xe ngừng. Giọng thân tình, cô gái nói:

-Em xuống đây, chào ông nghe.

-Vâng.

-Em xuống đây nghe, cô gái nhắc lại.

            Cô gái còn chờ anh xích lô xuống mở tấm bạt. Trong một giây nhìn nhau, Thụy nắm giữ bàn tay cô gái. Cô vẫn để yên bàn tay cô trong tay anh. Hơi ấm mang đầy hương vị thơm từ bàn tay cô gái làm anh xúc động. Và nỗi xúc động đã cho anh có được một nụ cười.

            Sau một đoạn phim vừa gợi nhớ, Thụy mỉm cười nhìn Thu. Thu, tên của cô gái ngày hôm đó, nhưng lúc chia tay, cô đã không cho anh biết tên mình.

            Cô gái vừa mới nói với Thụy:

-Cám ơn anh đã nhớ quá đầy đủ tình tiết.

            Thu được gặp lại người lính trong lần này, và sau câu chuyện nghe kể, nàng cảm thấy mến anh, vừa có chút phân vân. Rồi không do dự, nàng cho anh hay, nàng sắp thuyên chuyển về dạy học ngoài Huế.

-Thu có gia đình quen ngoài không ?

-Có.

            Thực ra, Thụy không muốn hỏi, biết thêm gì nhiều về Thu. Anh chợt nghĩ, rồi Thu cũng sẽ như Huê, cô gái sẽ lập gia đình, có chồng con, như người bạn học cũ của anh là Trang mà ngày hôm ấy đã anh ghé thăm rồi cùng chung vui chén rượu, bữa cơm thân mật gia đình.

            Thụy chỉ còn Thúy Hà, nàng luôn ở trong anh một tiếng nói, một lòng tin.

            Sương mù đã tan mau trong nắng sớm. Bên kia con suối là cánh rừng. Trong tiếng chim hót, Thụy có cảm giác như mình không nghe, không nhìn thấy cảnh tượng chiến tranh. Nhưng mà, một buổi sáng trời mưa nặng hạt, Thụy đã theo chuyến bay tiếp tế lên đây là căn cứ đóng quân của Tiểu đoàn. Trong chuyến đi này, qua sự tệ hại của thời tiết, anh càng nghĩ rằng, chiến tranh sẽ còn tệ hại hơn như thế này nữa. Anh chưa biết mình rồi sẽ như thế nào, lúc đó, anh cố gắng nhớ lại, và như muốn trở lại thời gian còn ở quân trường. Để làm chi, Thụy không thể giải thích điều mình đang nghĩ với ai khác, vì rằng anh đang cầu mong một sự an ủi để làm giảm bớt đi nỗi lo sợ.    

            Chiếc trực thăng đã hạ cánh. Bãi đáp được lót bằng những tấm ghi, có bề mặt ước chừng bằng nửa sân đá bóng. Hai người phi công chính và phụ vẫn ngồi ở ghế lái, và cánh quạt vẫn quay đều trong lúc hàng tiếp tế gồm hai cái thùng giấy và bốn bao tải lần lượt được chuyền xuống. Thụy rời phi cơ khi hàng tiếp tế được tải xong, và từ chỗ bãi đáp, anh theo toán lính tải hàng đi lên phía đồi dốc nơi đóng quân của ban chỉ huy Tiểu đoàn.

            Tiếng động chiếc phi cơ trôi xa dần, bay qua khỏi con suối và cánh rừng. Trời chợt tạnh mưa. Vừa đi vào bên trong căn hầm, Thụy nghe một sĩ quan ban 3 đang liên lạc hành quân với một đơn vị đang hoạt động ở ngoài.

            Thụy cầm sẵn sự vụ lệnh trên tay, đứng chờ. Anh không vào văn phòng mà đã gặp ngay vị Thiếu Tá ngay ở đây, ông đang theo dõi viên Trung úy đang liên lạc với các toán bên ngoài.

            Rồi lúc vị Thiếu Tá quay lại, Thụy đứng nghiêm chào kính. Ông nhìn Thụy, vừa nhận tờ SVL, cúi mắt đọc.

            Một lúc sau, ông hỏi:

-Anh là người ở đâu ?

-Tôi, người Quảng Trị.

-Có biết Đại úy Thụ không ?

-Dạ không.

-Đại úy Thụ cũng là người ngoài quê anh.

-Vâng.

            Vị Tiểu đoàn trưởng người miền Nam. Dáng người cao lớn, rắn chắc, nhưng giọng nói rất nhỏ nhẹ, ôn hòa.

-Anh mới ra trường, chưa có kinh nghiệm để nắm một trung đội tác chiến.

-Vâng.

-Anh sẽ về Đại Đội II của Trung úy Chánh, nhưng tôi giữ anh lại đây một tuần để thực tập công việc của ban 3.

-Vâng.

            Trong dáng vẻ của mình, Thụy biểu lộ tính cách con người chơn chất. Anh không hỏi han, yêu cầu, chỉ thuận nghe những lời vị Thiếu tá đã nói với anh. Tới giờ ăn trưa, anh được dùng cơm chung với vị Thiếu Tá và các sĩ quan trong ban chỉ huy của Tiểu đoàn.

            Khi Đại úy Tiểu đoàn phó trở lại đơn vị sau ký nghỉ phép hai tuần lễ, không khí trong ban chỉ huy Tiểu đoàn vui nhộn hẳn lên. Và, lúc nghe vị Thiếu tá nói đến Thụy là người Quảng Trị, không phân biệt cấp bậc, chức vụ, ông tìm đến Thụy ngay.

            Một câu hỏi:

-Anh là người Quảng Trị, phải không ?

            Thụy đứng lên, chào kính. Rồi, Thụy nói:

-Tôi có ở Quảng Trị, nhưng đi xa cũng đã lâu ?

-Ngoài đó, anh không còn ai.

-Dạ không, chỉ còn làng quê bên ngoại và nội.

            Đại úy Thụ hỏi:

-Ở Quảng Trị, hồi đó nhà anh ở đâu ?

-Tôi ở ga. Gia  đình tôi từ Đông Hà vào tỉnh năm đình chiến, đến năm 60 vào miền Nam.

-Sao lại đi ?

-Ba tôi làm giáo viên. Do bị kỷ luật, ba tôi  phải đổi đi xa vào dạy học ở tỉnh Phước Thành.

-Sao anh đi lính trễ quá vậy ?

            Thụy lược kể qua thời gian đi học và đi lính của mình. Vị Đại úy lắng nghe, mắt nhìn anh, chú ý tìm trong gương mặt anh nỗi buồn của  một kẻ thất bại.

-Thôi được, bạn hãy quên, và bắt đầu vào giai đoạn mới. Biết đâu …

            Thụy hỏi:

-Ngày trước, Đại úy có học trường Nguyễn Hoàng ?

-Tôi học trường đó, chứ đâu khác.

-Tôi có biết anh Khanh, phi công bay vận tải.

-Huỳnh ngọc Khanh, phải không ?

-Đúng, anh Khanh đó. Chắc anh Khanh cũng lên Đại úy rồi.

-Tôi biết Khanh, nhưng học khác ban.

            Với tinh thân, lúc này Thụy cảm thấy cần nói rõ hơn về trường hợp xin đi học trễmuộn ở trường Thủ Đức .

-Vậy, anh đã xong Tú Tài đôi chưa ?

            Thụy cười trừ, đáp:

-Chưa.

            Bỗng để ý vào ngón tay đeo nhẫn. Thụy hỏi:

-Đại úy xuất thân trường Đà Lạt.

-Đúng. Trong khóa tôi, có bốn người Quảng Trị.

            Hai người Quảng Trị đã tình cờ gặp nhau, và họ có một giờ trò chuyện trong buổi chiều nắng ấm, vừa lạnh vào thời gian mùa đông sắp sửa hết. Nhớ đến Quảng Trị, Thụy còn có một ảnh hình hiện dịu của chiếc áo dài tím là chị Thiên Nga. Và rồi, thời niên thiếu của anh ở Đà Lạt, luôn luôn gợi nhắc anh nhớ đến một câu chuyện của Thùy. Trên đồi, những quả đạn súng cối 60 ly bắt đầu  được bắn quay rối vào các mục tiêu nghi ngờ có địch quân.

            Thụy chợt hỏi:

-Đại úy có gia đình chưa ?

-Chưa.

-Anh thì sao ?

-Dạ,  cũng chưa.

 

 

                                                            VI

 

 

            Ban chỉ huy nhẹ của Trung đoàn đặt ở căn cứ West, đây là căn cứ chính, lớn hơn ai căn cứ nằm ở phía Đông và phía Tây là Siberia và Delta. Bên cạnh ban chỉ huy luôn có một Tiểu đoàn đóng quân, trong thời gian này là Tiểu đoàn 1 của Thiếu tá Bình.  Trung đoàn có bốn tiểu đoàn, luân phiên nhau đóng quân tại ba căn cứ kể trên, và Tiểu đoàn còn lại về hậu cứ Trung đoàn dưỡng quân vừa lo phòng thủ. Thời gian dưỡng quân chừng ba bốn ngày, có khi tuần lễ. Rồi hết kỳ hạn, Tiểu đoàn này lên vùng hành quân để cho Tiểu đoàn kia về nghỉ.

            Tại ban chỉ huy nhẹ của Trung đoàn chỉ có một Sĩ quan và hai người lính truyền tin. Căn hầm lớn nằm đối diện với bãi đáp trực thăng, được ngăn làm hai có lối cửa thông, hầm nhỏ là chỗ sinh hoạt, hầm lớn là phòng thuyết trình có bày bàn ghế và một tấm bản đồ lớn ghi chú đầy đủ bằng bút mỡ màu, xanh là của các đơn vị bạn, đỏ là của địch, và vàng là những vùng khả nghi.

            Nơi căn cứ này, trực thăng đến nhiều hơn các căn cứ khác. Khi có cuộc hành quân lớn, từ vị Tư lệnh Quân đoàn đến Sư đoàn thường đáp trực thăng xuống căn cứ này, còn vị Trung đoàn hầu như lngày nào cũng lên vùng hành quân thị sát. Qua máy truyền tin, ông liên lạc với các Tiểu đoàn trưởng để thăm hỏi tình hình và các hoạt động của đơn vị. Trước khi trở về hậu cứ, ông thường xuống căn cứ này để nghe thuyết trình. Đi lên vùng hành quân của ban chỉ huy nhẹ, thường gọi quen cái tên là đi relève. Đã qua ba tuần lễ, toán của Trung úy Tường đang ở đây. Mỗi ngày ông lên Tiểu đoàn ăn cơm, còn lính của ông tự túc, họ nấu ăn với gạo tươi, có khi ăn cơm sấy và mì gói thay bữa. Buổi đầu gặp Thụy, hai người trò chuyện cũng tâm đắc. Vào buổi chiều, hai người chơi cờ tướng. Thụy hỏi chuyện về công việc, được ông cho biết, mỗi tháng các toán relève  lên thay phiên, và thời gian ở căn cứ này, không lúc nào dưới một tháng.

            Những ngày ở trong ban chỉ huy Tiểu đoàn tương đối dễ chịu. Thụy đã nghe quen về lệnh lạc, chuyển đạt các thông tin hành quân và cách mã hóa các từ ngữ trong hệ thống truyền tin. Từ nơi căn cứ, trong cái lạnh của mùa đông, có những hôm nắng, có những giờ khắc trận mưa kéo dài, và bao quanh căn cứ là suối rừng, bóng núi, sương mù, Thụy cảm nhận rằng, dù chưa phải ngửi mùi súng đạn nhưng ở nới đây, cũng đã thấm được một chút gì hương vĩ của chiến trang, rất khác biệt với thành phố. Ngày lên căn cứ hành quân, ngoài những thứ cần quân dụng và cá nhân cần mang, Thụy còn đem theo hai cây thuốc lá quân tiếp vụ loại nặng, ít gói thuốc thơm và một ký cà phê. Thuốc lá, Thụy hút nhiều, mỗi ngày nguyên một gói. Thực ra, với cái rét miền núi trong mùa đông, một gói, không đủ, nhưng Thụy cố gắng cầm chừng. Thực ra, mỗi chuyến tiếp tế, anh có thể nhớ hậu cứ mua, và trả tiền qua hệ thống của Tiểu đoàn.

            Thụy cũng sắp rời công việc ban 3 Tiểu đoàn để ra ngoài Đại Đội II. Những ngày qua, các hoạt động hành quân  bên ngoài vẫn vô sự. Ở vùng này, rất ít có đơn vị chính quy của miền Bắc, hoạt động thường xuyên là du kích địa phương. Có nhiều cuộc chạm súng lẻ tẻ, và trong khi hành quân lục soát, đơn vị ở ngoài bắt được một vài tên du kích, cùng số người khả nghi của địa phương. Thế nhưng, trong sự yên bình, cũng là một thời gian chuẩn bị của địch quân về những trận đánh lớn. Nơi vùng này, xưa kia được coi là chiến khu.

            Liên An vẫn còn được nhớ và nhắc lại một đôi lần. Thế nhưng, cô gái  đã không muốn gợi ra nỗi buồn trong lòng Thụy, có lúc, tiếng nói của cô làm Thụy vui lên, tưởng như cô đang ở bên anh. Ngày còn trong quân trường Thủ Đức, một tối khuya ngồi trên vọng gác, anh đã hình dung Liên An và trò chuyện cùng cô. Anh nghe tiếng nói của cô như tiếng chim. Và qua tiếng nói, cô đã cho anh thấy một nụ cười trong cặp mắt. Bên nhau trong trí tưởng, anh đã muốn cô ở bên anh cho đến giờ thay phiên ác, nhưng độy nhiên, cô đứng dậy đòi ra đi.

-Em đi đến đâu nữa ?

-Em đến một phương trời khác.

-Sao, em muốn xa anh.

-Không đâu, em vẫn là cánh chim nhỏ bé của anh.

-Vậy thì, anh giữ lại em, không cho em bay, dù là bầu trời này quá rộng.

-Không, đếm mùa thiên di.

-Em không bay được.

-Em bay đây.

            Cô gái tan biến và anh chợt nghe có tiếng súng nổ. Đó là một giấc mơ trong lúc Thụy chờn vờn, thèm có được một giấc ngủ. Trương đang dạy học ở Qui Nhơn. Hai người bạn tuy vẫn nhớ nghĩ đến nhau, nhưng không có thư từ. Thụy đã gặp Bảo của Trương, nhưng rồi, cũng như Huê, Bảo xa Trương và lấy người chồng là một quân nhân.

            Hôm ấy, sau bữa ăn trưa ở nhà Trang đến hai giờ chiều Thụy đứng lên xin kiếu từ. Thu cũng về theo, nhân đó, Thụy mời Thu ghé vào một quán nước để được chuyện trò riêng tư. Hiểu ý Thụy, Thu mỉm cười.

            Vào trong quán, Thụy và Thu cùng gọi cà phê. Cà phê nóng, không pha sữa.

-Về Huế, Thu dạy học trường nào ?

-Thu dạy ở Hàm Nghi.

-Anh Nguyên tôi, ngày xưa học ở đó .

-Anh, thì học ở đâu.

-Nhiều nơi, và cũng nhiều trường.

-Thu biết anh có viết văn, đúng không ?

-Ờ, cũng là một niềm vui nhỏ.

            Cà phê phin nguyên chất, đặc quánh, thơm ngon.

-Những người viết văn như anh đâu thiếu được hai thứ cà phê, thuốc lá.

            Thụy giải thích rõ hơn:

-Tôi uống cà phê, ghiền hút thuốc loại nặng, nhưng không phải hai thứ đó giúp tôi làm nhà văn .

-Có, hay không, thời gian trả lời.

-Đúng, cô là cô giáo đang giảng bài.

            Thu mỉm cười nhìn Thụy. Một lúc sau, nàng hỏi:

-Nói thực với em, anh có bạn gái chưa ?

            Thụy đáp:

-Bạn gái thì có nhiều, nhưng không được ai làm người yêu cả.

-Anh chỉ biết giữ kẽ, chứ tâm hồn nhà văn, đâu có vắng được những bóng hồng.

-Bóng hồng trong tưởng tượng.

            Tự nhiên, Thu cảm thấy phân vân. Vào quán, nàng nghĩ rằng, nhân thể gặp nhau, anh có một đôi lời tình cảm với nàng. Nhưng anh tỏ ra mình một người lính, một cuộc đời bị ám ảnh bởi không khí chiến tranh.

            Mới ngày đó, một tháng đã trôi qua. Thiếu tá gọi anh và nói:

-Ngày mai, có trung úy Chánh đưa anh ra Đại Đội.