Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 




Swedish poet Transtromer wins Nobel in literature

 (AP)  STOCKHOLM — The 2011 Nobel Prize in literature was awarded on Thursday to Tomas Transtromer of Sweden, whose surrealistic works about the mysteries of the human mind won him wide recognition as the most influential Scandinavian poet of recent decades.

Nhà thơ Thụy Ðiển, Tomas Transtromer ,“nhà thơ nhà”, “ta về ta tắm ao nhà vẫn hơn”, đã được Nobel văn chương năm nay, 2011: Những tác phẩm siêu thực của ông về những huyền bí của cái đầu của con người khiến ông được nhìn nhận rộng rãi như là nhà thơ Scandinavian ảnh hưởng nhất trong những thập kỷ gần đây.

*

Swedish poet Tomas Transtromer is pictured at his home in Stockholm, in this file photo taken March 31, 2001. Sweden's most famous living poet, Tomas Transtromer, won the Nobel prize for literature on Thursday, the first time in more than 30 years the award has gone to a native of the Nordic country. – Reuters Photo

Tomas Tranströmer: Alone

A poem by the 2011 Nobel prize for literature winner
*

One evening in February I came near to dying here.
The car skidded sideways on the ice, out
on the wrong side of the road. The approaching cars –
their lights – closed in. 

My name, my girls, my job
broke free and were left silently behind
further and further away. I was anonymous
like a boy in a playground surrounded by enemies. 

The approaching traffic had huge lights.
They shone on me while I pulled at the wheel
in a transparent terror that floated like egg white.
The seconds grew – there was space in them –
they grew as big as hospital buildings.

You could almost pause
and breathe out for a while
before being crushed. 

Then something caught: a helping grain of sand
or a wonderful gust of wind. The car broke free
and scuttled smartly right over the road.
A post shot up and cracked – a sharp clang – it
flew away in the darkness.

Then – stillness. I sat back in my seat-belt
and saw someone coming through the whirling snow
to see what had become of me. 

    II 

I have been walking for a long time
on the frozen Östergötland fields.
I have not seen a single person. 

In other parts of the world
there are people who are born, live and die
in a perpetual crowd.

To be always visible – to live
in a swarm of eyes –
a special expression must develop.
Face coated with clay.

The murmuring rises and falls
while they divide up among themselves
the sky, the shadows, the sand grains. 

I must be alone
ten minutes in the morning
and ten minutes in the evening.
– Without a programme.

Everyone is queuing at everyone's door. 

Many. 

One.


Note: Cái sự kiện, trang TV giới thiệu thơ [mũi lõ] ào ào, quả là đi đúng cái nhịp đập thơ ca của trái tim nhân loại!

Thần sầu!
Tuyệt cú mèo!
Thôi, đừng... "Tạ lỗi Trường Sơn" nữa nhé!  

Hà, hà!

The Nobel Prize in Literature 2011 was awarded to Tomas Tranströmer "because, through his condensed, translucent images, he gives us fresh access to reality".
Nobelprize.org

Nobel văn chương 2011 được trao cho Tomas Tranströmer, ‘bởi vì, qua những hình ảnh cô đọng, trong sáng của mình, ông mời chúng ta nhập vô thực tại, bằng một cái ngõ tươi mát, mới mẻ”.


Sau cùng Nobel đã đến với Tomas Tranströmer

Chuyển ngữ: Thường Quán

Theo Richard Lea & Alison Flood (The Guardian), bản dịch của Thường Quán.

Blog Da Màu

Note:
1. “Sau cùng”, tại sao? Trong "nguyên tác" đâu có từ này?
2. Ðã “chuyển ngữ”, thì bỏ “theo’, bỏ “bản dịch”, dùng 1 chữ thôi chứ?
NQT

Sau đây là nguyên tác, được TQ "chuyển ngữ, theo, bản dịch của...".
Không thấy chữ "sau cùng"!

Câu mở ra bài viết, là để phản biện đám "Mafia Do Thái", chuyên xía mũi vào giải thưởng Nobel, nhà thơ TQ bèn thiến mẹ nó mất!

The Swedish Academy has responded to accusations of insularity over recent years by awarding the 2011 Nobel prize for literature to one of their own: the Swedish poet Tomas Tranströmer.

Viện Hàn Lâm Thụy Ðiển đã phản biện những lời buộc tội về “tính hòn đảo” [đây là muốn nhắc lại cái vụ vị thư ký Nobel chê văn chương Mẽo chỉ có tính cục bộ, chỉ dành cho đám di dân], của những giải thưởng mấy năm gần đây, bằng cách cho béng cái giải này, năm này, cho một vị của chính họ, thuộc hòn đảo của chính họ, Scandinavia: nhà thơ Thụy Ðiển Tomas Tranströmer.

Nobel prize for literature goes to Tomas Tranströmer

Richard Lea and Alison Flood

The Swedish Academy has responded to accusations of insularity over recent years by awarding the 2011 Nobel prize for literature to one of their own: the Swedish poet Tomas Tranströmer.
Tranströmer becomes the eighth European to win the world's premier literary award in the last 10 years, following the German novelist Herta Muller in 2009, the French writer JMG le Clezio in 2008 and the British novelist Doris Lessing in 2007.
Sweden's most famous poet becomes the 104th literature laureate, joining former winners including Mario Vargas Llosa and Orhan Pamuk, and is the first poet to take the laurels since Wislawa Szymborska in 1996. Praised by the judges for "his condensed translucent images" which give us "fresh access to reality", Tranströmer's surreal explorations of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native country have been translated into over 50 languages.
Peter Englund, permanent secretary of the Swedish Academy, admitted the choice of a Swede could "perhaps" be seen as controversial internationally, but added that "one should also keep in mind that is soon 40 years since this happened": the last Swede to win the literature Nobel was in 1974, when the Swedish authors Eyvind Johnson and Harry Martinson took the prize jointly. "It's not that we spread them around on Swedes each and every year," said Englund. "We have been quite thoughtful about this - we have not been rash in choosing a Swede."
And Tranströmer is also well known internationally, translated into over 50 languages and "one of the world's now living poet that has been translated the most," said Englund, recommending two collections which have been translated into English, The Half-Finished Heaven and New Collected Poems. "Both of them are pure gold. They are very good, and I understand that he translates very well," said Englund.
The Scottish poet Robin Fulton, who translated New Collected Poems and has worked on Tranströmer's writing for years, said that "in some sense the win was expected - it's looking back on a life's work".
"He's terribly famous already - just about as famous as a poet could be," he said. "Some writers become famous after they get the Nobel - he was famous before."
The poet Robin Robertson, who wrote versions of the Swedish writer's poems for the collection The Deleted World, said that "readers of Tomas Tranströmer had almost given up any hope that this extraordinary poet might ever be recognised by his own country and receive the Nobel Prize". Robertson called the decision "a happy end to a long wait: joy with a wash of relief. Tranströmer is not only Scandinavia's most important poet, he is a writer of world stature – and that has finally been publicly acknowledged."
Fulton agreed with the Nobel committee's praise of Tranströmer's "condensed, translucent images". "These do jump through over linguistic boundaries," he said, adding that some poets "use their own language so densely they won't translate at all. Tranströmer is not one of these. In many ways the language he uses is relatively unadventurous and simple [but] he gives people unusual images [which are] sometimes very surprising, and give the reader a shock. That should be what poets do."
"I lean like a ladder and with my face / reach into the second floor of the cherry tree. / I'm inside the bell of colours, it chimes with sunlight. / I polish off the swarthy red berries faster than four magpies," Tranströmer writes in "Winter's Gaze". "A sudden chill, from a great distance, meets me. / The moment blackens / and remains like an axe-cut in a tree-trunk."
Although Englund said that Tranströmer 's production has been "sparse" - "you could fit it into a not too large pocket book, all of it" - the permanent secretary praised the poet's "exquisite" language. "He is writing about the big questions -about death, history, memory, nature," he said. "Human beings are sort of the prism where all these great entities meet and it makes us important. You can never feel small after reading the poetry of Tomas Tranströmer."
Born in Stockholm in 1931, Tranströmer studied at the University of Stockholm and worked as a psychologist at an institution for young offenders. His first collection of poetry, 17 Dikter (17 Poems), was published in 1954, while he was still at college. Collections including Hemligheter på vägen (1958) and Klangar och spår (1966) reflected on his travels in the Balkans, Spain and Africa, while the poems in Östersjöar (1974) examine the troubled history of the Baltic region through the conflict between sea and land.
He suffered a stroke in 1990 which affected his ability to talk, but has continued to write, with his collection Sorgegondolen going on to sell 30,000 copies on its publication in 1996. At a recent appearance in London, his words were read by others, while the poet, who is a keen amateur musician, contributed by playing pieces specially composed for him to play on the piano with only his left hand. "He is very gifted," said Fulton. "He has hardly any words, though. His wife communicates for him."
Tranströmer has described his poems as "meeting places," where dark and light, interior and exterior collide to give a sudden connection with the world, history or ourselves. According to the poet "The language marches in step with the executioners. Therefore we must get a new language."
"He is very subtle, very musical and multi-layered," said Neil Astley at Bloodaxe Books, which published New Collected Poems this year. Tranströmer is a "very immediate" poet, added the publisher. "He is metaphysical and visionary but very particular, and very personal," he said. "He worked as a psychologist for most of his life, and all that psychological insight is there in the poems. He writes about the border between sleeping and waking, between the conscious and the unconscious."


Tại hạ tò mò lục lọi trên Google, xem thử ông già 80 tuổi Tomas Tranströmer vừa được vinh danh bằng giải Nobel văn học 2011 là ai. Cũng có khá nhiều thông tin về thân thế và sự nghiệp của ông, nhưng không may tại hạ chẳng tìm được tác phẩm nào – chắc do vấn đề bản quyền nên không ai chịu post lên tác phẩm của ông chăng – trừ đọc được khổ thơ sau đây:….

The airy sky has taken its place leaning against the wall.
It is like a prayer to what is empty.
And what is empty turns its face to us
and whispers:
“I am not empty, I am open.”
….
Chắc là ông không viết bằng tiếng Anh và khổ thơ trên đã được dịch lại từ tiếng Thụy Điển. Dù vậy khổ thơ cũng rất hay. Thấy “khoái” nên tại hạ bèn dịch lại lần nữa ra tiếng Việt để thưởng thức chơi:
...

Bầu trời thoáng đãng chiếm lĩnh chỗ của bức tường cố chấp.
Như kẻ cầu nguyện chiếm lấy hư không
Và cái hư không quay mặt về phía ta
Thì thầm:
“Ta chẳng phải hư không, ta rộng mở.”
...
Ngộ thiệt, ông già Thụy Điển này viết thơ rất đậm mùi thiền phải không…!?
Lạy trời người đã dịch ra bản tiếng Anh đã không đi xa quá ý thơ gốc của ông, và tại hạ cũng không làm gì hư hại ý thơ đó! 

Nguồn

Note: Theo tôi, NQT, bạn hiểu sai ý đoạn thơ.
Ðúng ra, phải như vầy, vẫn theo tôi:

Bầu trời thoáng đãng lấy cái chỗ của nó dựa lên bức tường.
Như 1 người cầu nguyện trước cái trống không.
Và nếu như thế thì cái trống không đối mặt với người cầu nguyện
Và thì thầm:
Ta đâu phải trống không, mà là ta mở ra.

Từ ý trên, có thể liên tưởng tới câu 'Mặt trời chẳng bao giờ hiểu được nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã xuống bức tường của một tòa nhà’, qua trích đoạn dưới đây, từ bài viết Một chuyến đi:

Nguyễn Tuân, trong một truyện ngắn, cho rằng trăng mười bốn hơn trăng rằm: trong cái chưa chín có cái chưa tàn lụi. Nghe nói ở bên Nhật, có những cảnh chùa dở dang: cứ để dành một khoảng trống cho tín đồ nhập vào. Đây là sự khác biệt rất cơ bản giữa Đông và Tây. Charles Moore, trong lời giới thiệu tác phẩm Ca Ngợi Bóng Tối của nhà văn Nhật Tanizaki, cho rằng đồng minh mãnh liệt nhất (the most powerful ally) của chúng ta (Tây phương) là ánh sáng. Dẫn Louis Kahn, một nhà kiến trúc: 'Mặt trời chẳng bao giờ hiểu được nó tuyệt vời như thế nào, cho tới khi nó ngã xuống bức tường của một tòa nhà'; do đó việc xây nhà dựng cửa (là một trong những đòi hỏi cơ bản, đòi hỏi trú thân, nối kết, quần tụ với nhau, cho dù theo kiểu ăn xổi ở thì với nơi chốn thuộc về con người, hay con người thuộc về nó, nhưng) đối với chúng ta, cái nhà phải tương hợp với mặt trời, đồng minh số một, phải giúp đồng minh ban ánh sáng. Và ông cho rằng Tây phương đã "tá hoả" khi nghe chuyện ca ngợi bóng tối và bóng đen; và đã sững sờ thích thú khi nhận ra rằng, nhạc sĩ, ở đâu đâu cũng thế thôi, tạo nên những âm thanh của họ, là để nắm bắt sự im lặng, và kiến trúc sư, khi tạo ra nhà cửa, là để ôm lấy quãng không.
Trân trọng
NQT
*

Thơ ông là những thám dò vào thế giới nội tại và những tương quan của thế giới đó với phong cảnh của quê hương Thụy Điển.
TQ dịch

Nguyên tác:
Tranströmer's surreal explorations of the inner world and its relation to the jagged landscape of his native country have been translated into over 50 languages.

Những thám hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này] thế giới nội tại, và sự tương quan của nó [số ít, không phải những tương quan] với những phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn] của quê hương của ông được dịch ra trên 50 thứ tiếng.  

Mấy từ quan trọng, TQ đều bỏ, chán thế.


Cảnh đẹp VN

*


  Thu 2011

“All memoir is prostitution”

"Tất cả hồi ký hồi kiếc thì đều là thứ điếm thúi”, Julian Assange, ông Trùm WikiLeaks phán, sau khi đọc bản nháp Hồi Ký của chính ông.



Was Einstein wrong?

*

The 2011 Nobel prize for physics

Expanding horizons

Không biết năm nay bọn “Mafia Do Thái” sẽ chọn nhà văn Nobel là ai, nhưng Nobel vật lý thì quả là Uỷ ban Nobel [không phải đám Mafia Do Thái nhe] đã đi guốc vào trong “[Ðầu] Gấu”, [Mafia với Ðầu Gấu thì cũng thế, tài hoa của NTHL Mít thì đâu có thua gì tài hoa của Nobel văn học Joseph Brodsky], khi ban cho mấy nhà vật lý thiên văn, đúng như tờ Người Kinh Tế phán dưới đây.

Lý do là, mấy ngày nay Gấu cố tìm cách giới thiệu thật gọn nhẹ nhà thiên văn thần kỳ, 1 trong 3 nhân vật thần kỳ của cuốn Những Kẻ Mộng Du của Koestler, là Copernicus, Kepler và Galileo, nhân bài điểm cuốn tiểu sử của Copernicus trên tờ Người Kinh Tế.

Nếu đúng theo lịch trình thì TV sẽ dịch bài điểm tiểu sử Copernicus, cùng lúc viết về Nobel vật lý năm nay, cùng lúc, giới thiệu cuốn Những Kẻ Mộng Du, chương về Copernicus, và tất nhiên, về Einstein và câu hỏi nhức nhối:

Was Einstein wrong? Liệu Einstein đã lầm?

THIS year's Nobel prize for physics was awarded for what was, in a sense literally, the biggest discovery ever made in physics—that the universe is not only expanding (which had been known since the 1920s), but that the rate of expansion is increasing. Something, in other words, is actively pushing it apart.

Nobel vật lý năm nay được ban cho sự khám phá lớn lao nhất chưa từng có trước đây, về vật lý - rằng vũ trụ không chỉ nở mãi ra, điều này được biết từ 1920’s, nhưng mà cái mức độ nở của nó thì cứ tăng lên. Một điều gì đó, đang tích cực đẩy nó rã ra.

Ui chao, “một điều gì đó”, chẳng lẽ là cái sự cũng “thường” thôi của sự triển nở của… Cái Ác Bắc Kít ?

Vậy mà cứ cuống cuồng mãi lên!

Zara NHT xuống núi, chẳng đã phán Thượng Ðế đã chết, mà như Dos nói, nếu đếch có Thượng Ðế thì chuyện đéo gì cũng được phép.
Thảo nào NHT nghĩ đến “truyện ngắn” "Tội Ác và Trừng Phạt” của Dos.

The Economist October 1st 2011

Neutrinos and relativity

Faster than the speed of light

What does an experiment that seems to contradict Einstein's theory of relativity really mean?

IN 1887 physicists were feeling pretty smug about their subject. They thought they understood reality well, and that the future would just be one of ever more precise measurements. They could not have been more wrong. The next three decades turned physics on its head, with the discovery of electrons, atomic nuclei, radioactivity, quantum theory and the theory of relativity. But the grit in the pearl for all this was a strange observation made that year by two researchers called Albert Michelson and Edward Morley that the speed of light was constant, no matter how fast the observer was travelling.

Some physicists are wondering whether their subject has just had another Michelson-Morley moment. On September 23rd researchers at CERN, Europe's main physics laboratory, announced that subatomic particles called neutrinos had apparently sped from the lab's headquarters near Geneva, through the Earth's crust, to an underground detector 730km (450 miles) away around 60-billionths of a second faster than light would take to cover the same distance (see page 85). The difference in speed is tiny, but the implications are huge.

As every schoolboy (and journalist with access to Wikipedia) knows, this flies in the face of special relativity, a theory devised by Albert Einstein precisely to explain the observation of Michelson and Morley. Special relativity, which physicists thought they had tested almost to destruction, and found not wanting, states that as objects speed up, time slows down. Time stops altogether on reaching the 299,792,458 meters per second at which light zaps through a vacuum. Go any faster and you would be moving backwards in time.

If CERN'S neutrinos really are travelling faster than light, it is therefore a big deal. Modern physicists, aware of the hubris of their 19th-century predecessors, have never thought their subject closed. But nor have they found a chink in the armor of relativity that they could use to pries the whole thing open. This would be such a chink. Their caution in the face of the result-the public statements that it is probably explained by experimental error, even though the researchers involved have been over their equipment with a fine-tooth comb-is understandable. No one wants to get egg on his face by having missed something obvious.

A theory of everything

If the result is true, though, it does change everything. In particular, the likely explanation is that the neutrinos are taking a short-cut through one of the extra dimensions which string theory postulates are hidden among the familiar four of length, breadth, height and time. Measured along this five-dimensional route, Einstein might still be right. (It would not so much be that he made a mistake as that he did not know the whole story.) Indeed, moving beyond four dimensions in this way would also allow physicists to try to integrate Einstein's work with quantum theory, the other great breakthrough of 20th-century physics, but one which simply refuses to overlap with relativity. A unified theory of everything, including perhaps as many as 11 dimensions, would then beckon.
That is a lot to hang on a single, unconfirmed observation.
But then, in 1887, no one could have foreseen the consequences of the Michelson-Morley experiment. If a glitch is found in CERN'S result, the whole thing will rapidly be swept under the carpet and forgotten. If there is no glitch, an astonishing futur of understanding beckons. 
*

Lần đầu tiên, Gấu biết tới Những Kẻ Mộng Du, 1959, là đúng vào thời mê BHD, quen HPA, và cùng anh hay la cà mấy tiệm sách cũ khu Chợ Ðũi, Trần Quí Cáp, loanh quanh ngôi trường Kiến Thiết, nơi em học tiểu học, cho đến khi đậu vô trường Gia Long, và nhà rời từ đường Phan Ðình Phùng lên đường Gia Long.
Cũng nơi có quán cà phê hủ tíu, sáng Gấu hay ngồi, chờ em, đưa em đi học trường KT, nơi chị học ngày xưa, rồi sau đó, tới ngồi uống cà phe với Gấu! Có kể trong
Hà Nội Của Gấu rồi.

Chính là 1 trong những lần lục sách báo cũ đó, Gấu vớ được 1 số báo nrf điểm cuốn Những Kẻ Mộng Du của Koestler, và không làm sao quên được sự chúc dữ của cái vòng tròn, la malédiction du cercle, tức thời kỳ Koestler gọi là Dark Interlude.
Do quá say mê cái vòng tròn, mà nhân loại chìm đắm vào trong cõi u minh hai ngàn năm, vì cứ đinh ninh quĩ đạo của các hành tinh là vòng tròn, thay vì hình quả trứng e-líp.

Lịch sử lập lại: Cái sự say mê chủ nghĩa không tưởng Mạc xịt thì đâu có gì khác?

Nhớ 1 lần ngồi Quán Chùa, nhắc tới Koestler, nhắc tới kỷ niệm trên, với ông anh nhà thơ. Hóa ra là ông cũng mê Koestler. Nhân đó, ông giới thiệu Gấu cuốn Le Cri d'Archimède, The Act of Creation, 1964, Hành động sáng tạo, của Koestler.

Koestler viết: Nhờ những cuộc cãi lộn về bản chất con người mà tôi viết ra được những cuốn tiểu thuyết. Những cuốn sách kia, là những toan tính của tôi, nhằm nghiên cứu, cùng một số phận về bản chất của con người, nhưng bằng những thuật ngữ khoa học.

Càng về già, Gấu càng biết ơn Koestler, nhờ đọc Ðêm Giữa Ban Ngày đúng vào lúc mới lớn, nói theo Applebaum, người viết Gulag Một Lịch Sử, nó giống như 1 thứ thuốc chủng, nhờ vậy đã không lên rừng phò HPNT, những ngày ở Sài Gòn!


Thăm hỏi

Wednesday, October 5, 2011 1:01
Trụ,
Vẫn khỏe, bình thường chứ?
Sáng qua tao đi bác sĩ. Check up định kỳ. Đem theo cuốn 'Nơi Người Chết Mỉm Cười' của mày. Đọc trong lúc chờ gặp bác sĩ.
Sách có nhiều thông tin hay. Chữ nghĩa của mày rành rọt, thông thoáng, ý tưởng liên kết tự nhiên, thoải mái. Văn phong chững chạc, tự tin. Tao nhớ có lần nghe mày nói, ai đó tao không còn nhớ tên, nói mày viết 'tản mạn văn chương' thì hiện không ai bằng. Và nay tao đọc mày, tao cũng có nhận xét đại khái như vậy. Liên tưởng đến, loáng thoáng một số bài thuộc loại này của mày trên Net tao tóm tắt nhận xét của tao qua mấy chữ "tới", "tếu" "tợn" và "tục".
Lủng

Tks
Tao OK. Mày cho tao bốn chữ T, mà thiếu một chữ T[iền]
NQT

&*


Đọc "Nơi Người Chết Mỉm Cười"
 Phạm Xuân Đài
 (trích báo Thế Kỷ 21, số tháng Chạp 1999).

Trong thập niên 60, bút hiệu Sơ Dạ Hương đã xuất hiện trên báo văn học ở Sài Gòn. Đó là Nguyễn Quốc Trụ, người từ thời ấy ngoài sáng tác, đã viết phê bình sách, và sau 1975 đã ở lại Việt Nam rất lâu, mãi đến gần giữa thập niên 1990 mới chịu ra đi.... NNCMC là cuốn thứ nhì ông xuất bản ở hải ngoại, sau Lần Cuối, Sài Gòn ông xuất bản năm ngoái.
Sách này gồm các tạp ghi văn học, những bài mà tác giả cho rằng "Gọi Tạp Ghi thực không đúng, nhưng cũng chẳng biết gọi là gì." Trong một mức độ nào đó, các tạp ghi này cũng có thể gọi là các bài nhận xét và phê bình văn học, với một cung cách tự do thoáng đãng không bám chặt vào một cái khung có sẵn của trường phái hay chủ thuyết. Tác giả là một kẻ khổ công đọc tài liệu văn học Việt Nam và thế giới, đặc biệt là văn học tây phương, bài viết của ông tràn ngập sự kiện, dẫn chứng (dĩ nhiên thuộc văn học). Các bài tạp ghi thường cảm hứng từ một vấn đề, một tác giả, một tác phẩm mà tác giả gặp thấy trên con đường lặn lội mênh mông vào thế giới yêu thích của ông, đem lại cho người đọc rất nhiều suy nghĩ cũng như tài liệu về các sự kiện ấy. Không phải người Việt Nam nào, ngay trong giới cầm bút, cũng có điều kiện, khả năng và lòng ham thích tìm hiểu, cập nhật tình hình văn học khắp nơi như Nguyễn Quốc Trụ đang làm, vì thế những tạp ghi của ông, mà xen lẫn là các mẩu dịch của những tác giả nước ngoài, giúp ích cho chúng ta rõ được một phần các khuynh hướng đang diễn tiến.
Ngoài những vấn đề văn học, một số bài viết về các kỷ niệm với bạn bè, các kỷ niệm của chính mình về thời đã qua. Tất cả đều nằm trong một không khí chung, là sinh hoạt văn học.

Đọc Nguyễn Quốc Trụ để hình dung ra con người của ông, hình như đối với người này, không có gì khác, ngoài văn học.

PXĐ

Tks again. Many tks all, below

NQT

*

Phạm Phú Minh [PXÐ] & Thành Tôn & Trần Yên Hòa
@
Factory Café, 8;44

Nhân dịp bạn Lủng còm về Nơi Người Chết Mỉm Cười Gấu bèn lôi ra đọc lại, và nhớ ra, đúng như mình đã từng nghĩ, bài viết tuyệt vời nhất ở trong đó, là bài từ giã mục Tạp Ghi, trên báo Văn Học, viết về Trúc Chi phần lớn, và những bài tạp ghi, tuỳ bút của ông, mà ngay từ khi mới xuất hiện, Gấu đã nhìn ra, nó là từ tuỳ bút Nguyễn Tuân bò ra.
Ngay từ hồi đó, Gấu đã nhận ra, TC mới đúng là đệ tử chân truyền, y bát của đại sư phụ Nguyễn Tuân.
Ðoạn viết trên đây, chỉ là viên gạch, đặt tạm đó, để cho đừng quên, và khi nào có thì giờ sẽ trở lại, để mở rộng thêm ra, nhân đọc 1 blogger trong nước, viết về tuỳ bút của Võ Phiến:

Liệu có thể coi, VP cũng từ cái bóng [tuỳ bút] NT, bước ra?


Nguyễn Huy Thiệp: Đời hay lắm chứ

Cứ cuống cuồng lên

Gần đây, chúng ta nói nhiều tới sự gia tăng tội ác trong xã hội khiến tôi lại nhớ đến truyện ngắn "Tội ác và trừng phạt".
Báo chí lâu nay nói hơi nhiều về tội ác. Trong một ngôi nhà, nếu không khí âm u phiền não thì tất cả mọi người sống ở trong đấy sẽ rất nặng nề. "Nghĩ chính phiền não trừ, nghĩ tà phiền não đến. Chính tà đều chẳng thiết, thanh tịnh đến vô cùng...".
Phải hiểu những tội ác cũng là một sự thường khi xã hội phát triển. Điều quan trọng là phải biết để tìm cách diệt nó, không thể nào lờ nó đi được. Sẽ còn có những tội ác ghê gớm hơn nữa.
NHT

Note: Không hiểu NHT muốn nói tới “Tội Ác và Trừng Phạt” của Dos? Nếu đúng thế, thì đâu phải truyện ngắn.

Ðọc bài viết mới hỡi ơi. NHT không làm sao hiểu được nguyên nhân cái tội ác trong xã hội Mít hiện nay, thành ra Người mới phán cũng là 1 sự thường khi xã hội phát triển.

Cái tội ác bi giờ ở xứ Mít nó khủng khiếp, và chẳng giống trước, chẳng phải chuyện xã hội phát triển, thì tất nhiên tội ác cũng có tăng trưởng tí ti!
Nguyên nhân của tội ác xứ Mít có gì tương tự vụ phát sinh Lò Thiêu ở Âu Châu. Lò Thiêu là hậu quả của thời kỳ Ánh Sáng; như thế, nó là con đẻ của đỉnh cao chói lọi của văn minh Âu Châu, nguồn La Hy.
Tội Ác xứ Mít là con đẻ của văn minh sông Hồng, và đỉnh cao của nó là chiến thắng 30 Tháng Tư, 1975.

Có 1 thời Gấu cứ nghĩ ông nhà văn Bắc Kít này, trong thời gian "úp mặt vào núi", (1) khi làm 1 ông thầy dạy học trên 1 bản làng miền cao, đã linh cảm ra được cái mầm mống của Tội Ác Mít, và mơ mòng tưởng tượng ra một vị hoàng đế Nguyễn Huệ cất công đem quân ra xứ Bắc, chỉ để nhét kít vô miệng sĩ phu Bắc Hà, để họ tỉnh ra, nhằm ngăn ngừa cái tình trạng cái ác lan tràn như hiện nay.

Hóa ra không phải.

Người hoá ra cũng thường thôi.
Chỉ có Gấu là tẽn tò!

(1) "Úp mặt vào núi", là từ giai thoại "dí thơ vào núi", hay "dí núi vào thơ",  trong bài NHT viết về thơ Ðồng Ðức Bốn, nếu Gấu nhớ không lầm. NQT


**

Note: Bài về Kertesz trên TLS Sept 2011, tuyệt.

Viết, sau Lò Thiêu, thì cứ phải bám chặt lấy câu phán của Camus: Phải tưởng tượng Sisyphus hạnh phúc.

*

Cực khó hiểu, tại làm sao, tội ác lan tràn xứ Mít lại làm NHT nhớ đến…  Dos?


Thơ Mỗi Ngày

GRAYHEADED SCHOOLCHILDREN

Old men have bad dreams,
So they sleep little.
They walk on bare feet
Without turning on the light,
Or they stand leaning
On gloomy furniture
Listening to their hearts beat.

The one window across the room
Is black like a blackboard.
Every old man is alone
In this classroom, squinting
At that fine chalk line
That divides being-here
From being-here-no-more.

No matter. It was a glass of water
They were going to get,
But not just yet.
They listen for mice in the walls,
A car passing on the street,
Their dead fathers shuffling past them
On their way to the kitchen.

Charles Simic

Học Trò Ðầu Xám

Người già mộng dữ
Cho nên ít ngủ
Họ đi chân đất
Không bật đèn
Hay tỳ người lên lũ bàn ghế lù mù
Lắng nghe tim đập

Cửa sổ dọc theo căn phòng
Thì tối thui như cái bảng đen.
Mọi người già thì đều cô độc
Trong lớp, đưa mắt nhìn đường phấn
Phân chia
Thuộc về đây,
Hay không còn thuộc về đây nữa.

Ðâu cần. Không sao.
Một ly nước
Họ sẽ uống
Nhưng chưa đâu, có thể lát nữa.
Họ lắng nghe lũ chuột
Giữa những bức tường
Một chiếc xe chạy ngang qua con phố
Mấy ông bố đã chết lê chân qua họ
Trên đường tới bếp.

The Double

Kẻ Kép

Ðược đề xuất, huých huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là một GNV khác”, của Pythagore, và tư tưởng Hãy Biết Mình của trường phái Platonic được gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi”. Trong tiếng Scotland thì có từ fetch, cũng có nghĩa là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái chết đến cho bạn. Từ wraith, tiếng Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí là Gấu” [ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua], quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"], kể câu chuyện hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là phần chiếu tướng đích thị của một con người, kẻ đối tác có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người mà thần thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban cho khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, hay như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...  đi, là đã thấy 3 triệu oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế đéo nào được?] Ngược lại, họ tin đó là bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên tri. Ðó là cách giải thích của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ trở thành.

Plutarch viết, người Hy Lạp gọi, cái ngã khác, bằng cái tên, viên đại sứ của hoàng đế.
J.L. Borges

Samuel Beckett

Man of words

Letters to the editor and others

Samuel Beckett, một thoáng nhớ...

Tưởng niệm Mai Thảo, và hai ông Tây, bạn ông, là J. Walker và Martell.
Sơ Dạ Hương

Mr. Beckett đã chết. Vậy thì Paris, cũng thế. Tôi nghe người ta nói ông chết tối thứ Sáu tuần rồi. Vậy thì là, tất cả những người hùng của tôi đã chết, kể từ tối thứ Sáu tuần rồi.
Tếu thật, cuộc đời bám dính lấy ông, tới 83 và 3/4 năm lận. Khi ông nói với tôi, ông rụng răng, tôi lớ ngớ buông sảng một câu: "Vậy là mệt lắm đấy".
Ông quạt lại liền: "Có cái gì tệ mà không biến thành hại? Đâu có giới hạn những điều xấu xa trở thành tồi tệ hơn". Thế là cả hai đứa chúng tôi cười đến vãi đái ra.
Mr. Beckett biết chọc quê. Lần đầu tiên gặp Gill, bà xã tôi, ông kêu một ly đúp. "Phải ly đúp mới được. Lóng rày, không làm sao kiếm một ly cho ra hồn".

Vào khoảng đầu thập niên 1970, tôi ở Paris với một người bạn là Jean-Paul Delamorte, một tiểu thuyết gia hụt, a romancier manqué. Lindon (bên tạp chí Nửa Đêm, Minuit) vừa mới cho ra lò những bài viết mới nhất của Beckett, bằng tiếng Pháp, nhan đề là Foirade, Foirade, Foirade I, Foirade II. Vì có hẹn khuya này uống một "tăng" với ông, tôi hỏi Jean-Paul, foirade thực sự nghĩa là gì.
Jean-Paul hèm lên hèm xuống, chẳng giống một con giáp nào hết. "Foirade thực ra là...  ơ hơ... đúng rồi, disgusting" [1].

Khi tôi lập lại với Beckett, ông đỏ mặt tía tai: "Disgusting?! Đúng là lố bịch!".

Nơi chốn: Chúng tôi đang ngồi tại La Closerie des Lilas, một tiệm ăn vốn là nơi tụ tập đàn đúm của đám viết lách vào thập niên 1930. Mấy ngày trước khi giải phẫu cườm mắt, Beckett đeo cặp kính dầy như hai đít chai Coke. Tướng tá nhà văn lớn Samuel Beckett chẳng cách nào giấu nổi. Vừa ló đầu vô, bị thiên hạ chiếu tướng liền. Cứ mỗi lần mở miệng, bằng ấy cái tay ngừng đớp hít, bằng ấy cái tai nhỏng lên. Beckett, như mù dở với hai cái đít chai Cô ca Cô la, chẳng hề hấn gì với ba trò hóng chuyện đó.

Ông giải thích, về phản ứng của ông, với từ "disgusting" của Jean-Paul, bằng cách chứng tỏ, ông đã chọn từ foirade một cách hết sức là "nghiêm túc", và ông đang "động não" cố tìm ra một từ tiếng Anh hoàn toàn xứng hợp với nó.

"Foirade: disgusting? Thật là hoàn toàn vô nghĩa!. Une Foirade là một sự thất bại thảm thương... Một điều gì người ta toan tính, nhưng toan tính này thật ra chỉ là một sự thất bại, tuy nhiên vẫn phải toan tính, bởi vì thật xứng đáng, không thể chối cãi được... vậy đó, một  'thất bại mếu' (a lamentable failure)."

Tới đây, hình như mọi thực khách trong tiệm ăn đều dướn người về phía chúng tôi, như muốn nuốt lấy từng lời vọt ra khỏi miệng Beckett.
Và nhà văn của chúng ta bèn nói tiếp, kèm nụ cười rất ư là "bỏ đi":
"Lẽ dĩ nhiên, foirade còn có nghĩa là phát rắm ướt!" [2]

(Mấy tháng sau đó, trong một tiệm sách ở New York, tôi nhìn thấy ấn bản tiếng Anh của Foirades. Tên tiếng Anh: Fizzles).

*

Giữa đông, giữa năm 1973, lạnh cứng người, cô đơn, túi thủng, tôi đành phải làm cái trò đọc thơ, vào lúc tám giờ tối, tại Trung Tâm Văn Hóa Mỹ ở con phố Dragon.... với cái giá năm chục đô. Tôi có cái uống với Beckett vào lúc bẩy giờ. Tôi đâu dám xì ra cái chuyện đọc thơ, bởi vì:
1.      Tôi nghĩ ông chẳng ưa cái chuyện đọc thơ trước công chúng, cho dù phải cạp đất.
2.      Ông gần như chẳng bao giờ làm chuyện đó.

Trong lúc cà kê, ông có vẻ đâu đâu. Dưng không, ông nói: "Bạn đọc thơ, phải không?" Tôi chới với, làm sao ông biết? Rồi ông thêm: "Chắc mong bạn bè tới đông, hẻ?". Hiển nhiên, tôi làm ông đau, khi không mời. Vậy là tôi đã làm ông đau, bực thiệt! Ông nói, như cho tôi đỡ đau: "Không, cám ơn bạn, tôi không bao giờ tới với những chuyện đó".
Rồi thì ông yêu cầu tôi đọc một bài thơ, của tôi, cho ông nghe. Nhột quá, tôi bảo ông, cái giá năm mươi đô là ổn, đối với tôi. Ông bật cười, tuy nhiên vẫn bắt tôi đọc thơ cho bằng được. Thơ đọc thầm lén mà! Thế là tôi ư ử, bài "Trên Đại Lộ Raspail":

How easily our only smile smiles.
We will never agree or disagree.
The pretty girl is perfected in her passing.
Our love lives within the space of a quietly closing door [3].

Ông chăm chú nghe, mắt nhắm tít. "Được! Được!", ông nói.
"Ồ, c...! " Tôi bật lên. Ông mở choàng mắt, và tôi tự giải thích:
"Tớ ăn cắp của bạn!"
"Không, không. Tôi chưa hề nghe nó trong đời..."
"Không, không, của bạn!  Bài 'Dieppe'..., bạn chấm dứt với 'the space of a door that opens and shuts'
"Ô! Đúng thế  thực." Nhưng rồi, bỗng nhiên, ông thêm vô: "Ô, c...!"
"Chuyện gì nữa, hả?", tôi hỏi.
"Tôi chôm của Dante, chính tôi! (me-self)."

(Theo bài viết của Israel Horovitz, trong Tạp chí The Paris Review, Mùa Xuân 1997).

[1] Ghê tởm.
[2] wet fart.
[3] Tạm dịch:

Nụ cười độc nhất của chúng ta, sao dễ dàng quá vậy
(Thôi đừng tè he ra mà làm gì).
Người đẹp đẹp thật khi thoáng qua.
Tình mình đọng lại giữa lần cửa khép. (1)

Bạn đọc có thể liên tưởng, từ foirade, tới wet fart, tới bài thơ vịnh "bạch mã", trong chuyện tiếu lâm Việt Nam.

Note: Bài này, đã đăng trên tạp chí Văn, và trên VHNT của PCL. Một độc giả VHNT mail, chỉnh, ‘agree’, đồng ý, và ‘disagree’, không đồng ý, làm sao lại dịch là ‘tè he’?
Sự thực, Gấu dịch ‘tếu’, vì nghĩ đến cái cảnh ‘tình mình đọng lại giữa hai lần cửa khép’.
Có thể, bài thơ còn nói ‘chuyện đó’ chăng?  NQT

Soure

Our love lives within the space of a quietly closing door

Bài thơ vịnh Bạch Mã, trong kho chuyện tiếu lâm xứ Mít như sau.

Một anh nhà quê, đói quá, thấy phú ông mới tậu ngựa Bạch Mã, có nick là Truy Phong, [Ðuổi Gió], bèn mò đến, khen um lên, tính kiếm chút cháo. Phú ông phán, mi thử làm 1 bài thơ “thổi” tài đuổi gió của nó nghe chơi, thay vì đọc vài bài ca dao!

Anh nhà quê bí quá, nhưng may làm sao, bà phú ông đứng kế đó, bất thình lình "tủm" 1 tiếng, thế là anh nhà quê bèn ra ngay 1 bài thơ, đại khái, cái lỗ đít bà chủ mở ra, "tủm" 1 tiếng, chưa kịp đóng lại, vậy mà truy phong bay tới đích và trở lại chỗ cũ rồi!

Liệu có thể coi đây “cũng” là 1 trong những cái đầu tiên, của câu thơ của Beckett:

and live the space of a door opens and shuts?

Nếu đúng, thì đúng là của Mít, không phải ăn cắp, bắt chước của mũi lõ.


TTT 2011


Thảo Trường, giỗ đầu


Cali 8, 2011

Cali 3.08


Ky est Ky?
Ghi chú trong ngày

When There Is Talk of 1945