*

 

1

2

Istanbul_Saigon

Istanbul by CVD




Istanbul  trình làng!

Enfin!

*

Sau cú 911, những cuốn tiểu thuyết của Pamuk được coi như là những sấm ngôn [oracles]

Note: Bìa, trên, từ CM's Facebook.
Tks All of U. NQT

Istanbul

** 

“There are places where history is inescapable, like a highway accident,” Joseph Brodsky wrote about Istanbul; its “geography provokes history.”
Note: Bài viết này GNV có nhưng không làm sao kiếm ra tờ báo cũ NYRB.
Đọc đỡ một khúc vậy!
NQT

"Có những chốn lịch sử vô phương trốn, như một tai nạn trên xa lộ cao tốc", Brodsky viết về Istanbul, "cái địa lý của nó gây hấn với cái lịch sử của nó”.

Ui chao, lại nhớ đến cái tay tri âm tri kỷ, phải là anh cu Gấu, nhớ Sài Gòn đến phát điên lên được thì mới để hồn ma lang thang của mình nhập vào hồn thiêng Istanbul của Pamuk!

"Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi lại tưởng đây là hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể."

Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…

Mò trên net, ra cái này, cũng thật tuyệt :

COLLECTIVE MELANCHOLY: ISTANBUL AT THE CROSSROADS OF HISTORY, SPACE AND MEMORY

Bị ép buộc phải chọn bên, Camus thay vì chọn, thì khai triển ‘địa ngục tâm lý’, trong Người Khách, The Guest. Truyện ngắn tuyệt hảo mang tính chính trị này diễn tả chính trị, không như là một điều mà chúng ta hăm hở vồ lấy nó, theo cái kiểu đường ra trận mùa này đẹp lắm, nhưng mà là một tai nạn chẳng sung sướng tí chó nào, mà chúng ta bắt buộc phải chấp nhận.
Thật khó mà 'phản biện' ông, về điều này, nhất là Mít chúng ta!
Pamuk: Albert Camus
Nguồn

*

Istanbul

Một Orhan / Gấu khác

Những lần, khi chấp nhận, những câu chuyện mà tôi nghe về thành phố của tôi, và về chính tôi, là của mình, tôi thèm viết ra, như vầy: “Ngày xửa ngày xưa, tôi là họa sĩ. Tôi sinh ra ở Istanbul. Tôi là một đứa trẻ ưa tò mò. Rồi thì, tới năm tôi hai mươi hai tuổi, không hiểu sao, tôi lại đâm ra viết tiểu thuyết.” Tôi thèm kể câu chuyện của đời mình theo kiểu đó, như thể đời mình là một chuyện gì xẩy ra cho một người khác, như thể đời mình là một giấc mơ, trong đó, tôi nghe tiếng nói của mình nhạt nhòa dần đi, ngọt lịm, và điều mình ước muốn, thì, ôi chao, thật là tuyệt vời. Đẹp thật, tuyệt vời thật, tuy nhiên, tôi nhận ra, kể chuyện đời mình như một sử thi như thế là không đáng tin cậy, cứ như thể chúng ta có tới hai cuộc đời, cuộc đời thứ nhất sáng hơn thực hơn, so với cuộc đời thứ nhì, bắt đầu, khi chúng ta thức giấc.
Bởi vì - với những người như tôi, ít ra - cuộc đời thứ nhì đó, kiếm ở chi đâu, nếu không là, ở trong chính cuốn sách này, mà bạn đang cầm ở trong tay.
Và chính vì thế, hãy thật cẩn thận, bạn đọc thân mến. Hãy cho tôi nói thẳng với bạn, và, đổi lại, tôi yêu cầu ở bạn, sự cảm thông.
Orhan Pamuk/NQT

Tên của nàng là Bông Hồng Đen, theo tiếng Ba Tư, nhưng, theo như tôi biết, cho tới nay, chẳng có ai trên bến cảng, nơi mà chiều chiều, nàng vô tư nhảy xuống tắm biển, và chẳng có ai trong số bạn học của nàng ở trường trung học của người Pháp, để ý đến chuyện tên nàng là Bông Hồng Đen, ấy là vì, mớ tóc dài long lanh sáng ngời của nàng thì không phải mầu đen mà là mầu hạt dẻ, và cặp mắt nâu của nàng thì cũng mầu hạt dẻ, nhưng xẫm hơn một chút, so với mầu tóc.
Khi tôi thật khôn khéo, thật tế nhị, nói với nàng, tên nàng có nghĩa là Bông Hồng Đen theo tiếng Ba Tư, nàng nhướng mày, nàng luôn làm như vậy, mỗi khi nàng đột nhiên trở nên nghiêm trang, và, trề môi ra một tí, nàng nói, lẽ dĩ nhiên, nàng biết tên của nàng có nghĩa là gì, và nàng nói thêm, tên của nàng là được đặt theo tên của bà nàng, một phụ nữ người Albanian.

Secret Love in the Lost City
Thư viện Thổ
Pamuk đọc Camus
Pamuk đọc Dos
*

Tôi đọc Camus, đâu đó trước khi đọc Dos và Borges, vào lúc 18 tuổi, dưới ảnh hưởng của cha tôi, một nhà kiến trúc sư về xây cất. Vào thập niên 1950, nhà xb Gallimard cho Camus ra lò hết cuốn này tới cuốn tới, cha tôi cho mua chúng đều đặn, và được chuyển tới Istanbul, nếu ông không ở Paris. Còn ở đó thì ông tự mình đi mua, lẽ tất nhiên! Ông đọc chúng một cách tới nơi tới chốn, và bèn lèm bèm về chúng, với thằng con. Mặc dù đôi lúc hứng lên, ông lèm bèm về cái gọi là “triết học của sự phi ní” [ấy chết xin lỗi, phi lý], bằng những từ ngữ mà tôi chẳng làm sao hiểu nổi, chỉ đến mãi sau này, thì tôi mới ngộ ra rằng thì là tại sao ông lèm bèm về Camus, về phi lý: Cái triết học phi lý đó đến với chúng ta không phải là từ những thành phố lớn của Tây Phương, cũng không phải từ những nội thất của những đền đài tưởng niệm hay những căn nhà của họ, nhưng mà từ một thế giới bên lề, có tí ti hiện đại, có tí ti Hồi giáo, có tí ti Địa Trung Hải, giống như thế giới của chúng tôi.
Cái khung cảnh mà Camus đặt để ở trong đó, khi viết Kẻ Xa Lạ, Dịch Hạch, và nhiều truyện ngắn của ông là khung cảnh của thời thơ ấu của chính ông, và tình yêu của ông, những miêu tả tỉ mỉ những con phố, những khu vườn ngập ngụa ánh mặt trời, chúng thuộc về không Đông phương mà cũng chẳng Tây phương.
Ngoài phát giác về phi lý ở nơi Camus, cha tôi còn sững sờ vì một Camus huyền thoại văn học, và càng sững sờ hơn khi nghe tin ông chết vì tai nạn xe hơi, và đành coi đây là ‘phi lý’.
Như mọi người, cha tôi nhìn ra hào quang của tuổi trẻ ở nơi văn xuôi của Camus. Tôi cũng cảm thấy điều này, mặc dù bây giờ câu văn phản ảnh nhiều về thời đại, và cái nhìn ra thế giới bên ngoài của tác giả, so với trước đó. Khi tôi đọc tác phẩm của ông, có vẻ như đối với tôi, Âu Châu ở trong những cuốn sách của Camus vẫn là một nơi chốn trẻ, và mọi chuyện vẫn có thể xẩy ra. Như thể những nền văn hóa của nó chưa rạn nứt, như thể nhìn ngắm thế giới vật chất bạn vẫn có thể lọc ra yếu tính của nó. Có thể điều này phản ảnh không khí lạc quan thời hậu chiến, khi nước Pháp chiến thắng tái khẳng định vai trò trung tâm của nó trong văn hóa thế giới và đặc biệt là trong văn chương. Đối với giới trí thức từ các phần khác trên thế giới, nước Pháp hậu chiến là một lý tưởng bất khả, an impossible ideal, không hẳn chỉ vì văn chương, mà còn do lịch sử của nó. Bây giờ, chúng ta nhìn ra thật rõ ràng, chính là tính ưu việt về văn hóa của nước Pháp đã đem đến cho chủ nghĩa hiện sinh và triết học của sự phi lý một thế giá bảnh bao như vậy ở trong nền văn hóa văn học, the literary culture, của thập niên 1950, không chỉ ở Âu Châu mà còn ở Mỹ, và những xứ sở không phải Tây phương.
Chính là từ một thứ lạc quan thời trẻ tuổi [của bất cứ ai trong chúng ta], đã khiến Camus tạo ra cú làm thịt anh chàng Ả Rập, và coi vụ “giết người không suy tư” này, the thoughtless murder, là một vấn đề mang tính triết học hơn là thực dân thuộc địa. Và khi một nhà văn sáng láng với một tấm bằng về triết học nói về một vị truyền giáo tức giận, hay một nghệ sĩ vật lộn với danh vọng, hay một người què leo lên một chiếc xe đạp, hay một người đàn ông đi ra bãi biển với người yêu, từ những tình huống đó Camus chiết ra những suy tư siêu hình sáng chói, mang tính giả dụ, đề xuất. Như một nhà luyện kim, ông biến đổi những chi tiết trần tục, những mảnh vụn của đời sống, chuyển hoá chúng vào một bài tản văn siêu hình. Nằm bên dưới nó, lẽ dĩ nhiên, là cả một truyền thống, cả một lịch sử dài của tiểu thuyết triết học của Pháp, mà Camus, cũng chẳng kém gì Diderot, thí dụ, đều thuộc về nó. Chẳng tỏ ra một chút cố gắng khi quyện mình vào truyền thống, đó là tài năng riêng của Camus. Và điều này là nhờ ở sự cực kỳ thông minh của ông, thêm một chút thông thái, một giọng nói quyền uy, có thể nói như vậy - với những câu văn ngắn giống như của Hemingway, và một cách tự sự mang tính hiện thực. Mặc dù những truyện ngắn của ông thuộc vào truyền thống truyện ngắn triết học trong có Poe và Borges, nhưng của ông, do mầu sắc, do sự sống động, do không khí truyện, khiến có thể coi ông là một tiểu thuyết gia miêu tả, Camus, the descriptive novelist.
Hai tuyệt chiêu của Camus, tạo khoảng cách giữa ông và đề tài, và giọng kể thầm thì. Như thể chính ông cũng không làm sao quyết định được, có nên đẩy độc giả lậm sâu vào câu chuyện, và sau cùng đành đem con bỏ chợ, nghĩa là bỏ mặc chúng ta lơ lửng giữa những âu lo, thắc mắc siêu hình của tác giả, và bản văn, chính nó. Đây có thể là sự suy tưởng về những vấn đề nhức nhối thương đau mà Camus gặp phải trong những năm cuối đời. Chúng ta có thể nhận ra điều này, ở đoạn mở ra Người Câm, khi Camus tự ý thức về tuổi già. Hay trong một truyện khác, Nghệ sĩ làm việc, The Artist at Work, chúng ta có thể cảm nhận vào những ngày tận cùng của ông, sống căng thẳng, và gánh nặng vinh quang đè lên ông mới khủng khiếp làm sao.

Nhưng cú ‘bức tử’ Camus, chính là Cuộc Chiến Algérie. Là một anh Tây mũi lõ ở thuộc địa, [an Algerian Frenchman], ông bị sức ép của tình yêu của ông dành cho thế giới Địa Trung Hải này, và sự dâng hiến mình cho nước Pháp. Một khi ông nhìn ra sự giận dữ, Tây mũi lõ hãy cút về nước, và cuộc nổi dậy hung bạo từ đó mà ra, ông không thể chọn thái độ chống đối nhà nước của Sartre, bởi vì những bè bạn của ông bị giết bởi những người Ả rập - những tên "khủng bố", như báo chí Pháp gọi – trong cuộc chiến giành độc lập. Ông đành chọn thái độ im lặng. Trong bài ai điếu thật cảm động về người bạn cũ của mình, khi Camus mất, Sartre đã khai triển những chiều sâu nhức nhối mà Camus giấu kín chúng bằng sự im lặng đầy cao ngạo, đầy phẩm giá của mình.
Bị ép buộc phải chọn bên, Camus thay vì chọn, thì khai triển ‘địa ngục tâm lý’, trong Người Khách, The Guest. Truyện ngắn tuyệt hảo mang tính chính trị này diễn tả chính trị, không như là một điều mà chúng ta hăm hở vồ lấy nó, theo cái kiểu đường ra trận mùa này đẹp lắm, nhưng mà là một tai nạn chẳng sung sướng tí chó nào, mà chúng ta bắt buộc phải chấp nhận.
Thật khó mà 'phản biện' ông, về điều này, nhất là Mít chúng ta!
Pamuk: Albert Camus
Nguồn

Mỗi lần đọc Trăng trên vịnh Bosphorus là mỗi lần tôi buồn lạ lùng, tiếc hùi hụi, giá như mình có mặt tại đó, nhập vào những đam mê, nhập vào niềm im lặng ”thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt”, thay vì phải đọc qua một tác giả, rồi tôi sướng mê tơi khi nghĩ đến chuyện, làm sao, bằng cách nào, nhà văn, bị nỗi hoài nhớ thúc bách đến trở thành mù loà và cứ thế chìm xuống những dòng nước ngầm đen thui, quỉ ma của cái thiên đàng đã mất của ông. Vào những đêm trăng, khi những lá thuyền tụ lại ở một khoanh biển yên tĩnh, tiếng nhạc tắt ngấm, vào lúc đó, ngay A.S. Hisar cũng cảm nhận ra điều này: “Những lúc không một hơi gió, làn nước, đôi khi, như một cơn chuyển mình từ bên trong, lao xao, khiến mặt nước óng ánh như mặt lụa.”

Ngồi trên thuyền cùng với bà mẹ, hình như đối với tôi, những màu sắc trên những ngọn đồi Bosphorus không phản chiếu thứ ánh sáng bên ngoài. Những cây judas và vạn niên thanh, những cánh chim hải âu vỗ vùn vụt khi bay qua chúng tôi, những bờ tường kho chứa ghe thuyền, lở chỉ còn chừng một nửa, tất cả như phản chiếu một thứ ánh sáng mờ nhạt từ bên trong. Ngay cả vào những ngày nóng nực nhất, khi những đứa trẻ con nhà nghèo nhẩy từ con đường nơi bến tầu xuống mặt biển, mặt trời ở đây có vẻ như cũng không hoàn toàn làm chủ khí hậu và phong cảnh. Và tôi thật mê, trong khi cố cắt nghĩa, cảnh tượng, vào lúc ráng chiều mùa hè rớt xuống, cũng là lúc Bosphorus trộn bầu trời đỏ rực vào với sự bí ẩn của riêng nó về bóng tối. Tôi mê mầu nước thay đổi khi nó chuyển mình, như được bứt ra khỏi sự cầm giữ, và sủi bọt sùng sục, càng trở nên hung hãn khi những con thuyền cắt ngang nó. Nhưng ngay ở bên dưới mớ bọt biển kia, là phần biển mềm mại hơn, mầu sắc của nó không thay đổi gì nhiều, nhấp nha nhấp nhô, giống như bể hoa súng trong tranh Monet.

Vào giữa thập niên 1950, trong khi học tại Robert Academy, tôi dành khá nhiều thì giờ, đứng giữa đám người đợi xe buýt buổi sáng tại Besiktas-Sariyer, nhìn lên những ngọn đồi phía bờ biển Á Châu, trong lúc Bophorus chập chờn như một biển cả bí mật, thay đổi mầu sắc cùng với mặt trời lên. Vào những buổi chiều xuân sương mù, khi không một cọng lá nào ở trong thành phố rì rào lao xao, vào những đêm hè không một cánh gió, không một tiếng động, một người đàn ông lặng lẽ bước một mình sau nửa đêm dọc theo bờ biển Bophorus, anh ta chỉ nghe tiếng bước chân của chính mình, và khi anh ta vòng vòng ở khu Akinti Burnu, rồi đi quá Arnavukoy, hay khi anh ta đi tới ngọn hải đăng ở chân nghĩa trang Asiyan Cemetery, đúng lúc đó, anh sẽ nghe thấy tiếng gầm thật hạnh phúc, thật đáng sợ và thật sung mãn của con nước, và gật gà gật gù, những đợt khói sóng, mớ bọt biển kia, chẳng biết đến từ nơi nao, và tự hỏi, như Hisar đã từng, và tôi cũng đã từng tự hỏi, liệu chăng Bosphorus có một linh hồn.
*

Like the Coleridge hero who wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which had brought me so much contentment as a child, but of a real world that matched my memories.
Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong Tứ Khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.
NQT




*

"Essential reading for our times... In Turkey, Pamuk is the
equivalent of a rock star, guru, diagnostic specialist,
and political pundit: the Turkish public reads his novels as if taking its own pulse."
-Margaret Atwood, The New York Times Book Review
"Pamuk in his dispassionate intelligence and arabesques of introspection suggests Proust."
-John Updike, The New Yorker
"Pamuk's is an astonishing achievement,"
- The Times Literary Supplement

INTERVIEWER
The opening line of The New Life is, "I read a book one day and my whole life was changed." Has any book had that effect on you?
PAMUK
The Sound and the Fury was very important to me when I was twenty-one or twenty-two. I bought a copy of the Penguin edition. It was hard to understand, especially with my poor English. But there was a wonderful translation of the book into Turkish, so I would put the Turkish and the English together on the table and read half a paragraph from one and then go back to the other. That book left a mark on me. The residue was the voice that I developed. I soon began to write in the first person singular. Most of the time I feel better when I'm impersonating someone else rather than writing in the third person.
The Paris Review

Đúng là kinh nghiệm Gấu đọc Bóng Đêm Giữa Ban Ngày, bản tiếng Việt của Phòng Thông Tin Huê Kỳ, cùng với bản tiếng Tây, Le Zéro et L'Infini. Đọc và học tiếng Tây cùng một lúc!


Wanting to Be Something Else
Adam Shatz, trên tờ Điểm Sách London, The London Review of Books, số 7 Jan, 2010, đọc The Museum of Innocence của Pamuk.
Bài này thật tuyệt, nhìn ra những tác giả đương thời cùng dòng, thật giống Pamuk, là Paul Auster và Haruki Murakami. Sau cú 911, những cuốn tiểu thuyết của Pamuk được coi như là những sấm ngôn [oracles]