Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Nhật ký | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tưởng niệm | Tiểu thuyết | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm, kỷ niệm
Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết |Ghi chú trong ngày|  Thơ Mỗi Ngày| Nhật Ký Cũ
*


Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
Kinh Môn, Hải Dương
[Bắc Việt]
Quê Sơn Tây [Bắc Việt]
Vào Nam 1954
Học Nguyễn Trãi [Hà-nội]
Chu Văn An, Văn Khoa
[Sài-gòn]
Trước 1975 công chức
Bưu Điện [Sài-gòn]
Tái định cư năm 1994
Canada


Đã xuất bản
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Sài Gòn,
nhà xb Đêm Trắng
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]
Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam

[Sài Gòn Nhỏ, Cali, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Trang Tin Văn, front page, khi quá đầy, được chuyển qua Nhật Ký Tin Văn, và chuyển về những bài viết liên quan.
*
Một khi kiếm, không thấy trên Nhật Ký, index:
Kiếm theo trang có đánh số.
Theo bài viết.
Theo từng mục, ở đầu trang Tin Văn.

Email

Nhìn lại những trang
Tin Văn cũ
  5

Bản quyền Tin Văn
*
Tất cả bài vở trên Tin Văn, ngoại trừ những bài có tính giới thiệu, chỉ để sử dụng cho cá nhân [for personal use], xài thoải mái [free]
















 




*

Đi

*

Mưa trên lối về, Thu đã tàn (1)

tan. thu  

lời thu. nào tàn. tạ
vàng. nhầu. úa. cuộc tình
lá. chia tay tháng. cũ
ấp. ủ. mùa chim. di
trời thấp. ngóng ai. đi
chân người. khua xao. xác
ký. ức nào. xác xơ
nhìn. thời gian. thoi thóp
tì. vết người. trong mơ
ta. thân vàng. đổ. lá

Ðài Sử

(1)

Câu trên, tự dưng bật ra, thật tuyệt.
Nhưng, làm gì có chuyện tự dưng!
GCC lục lọi trí nhớ, và sau cùng, vô Google.. 
Hoá ra là từ 1 câu:

Hoa Mai nở trên nấm mồ, Xuân càng già

Ðánh Thơ, trong Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân

Nguồn

Như vậy là có hai câu.
Còn thiếu hai, xin mời độc giả TV.

Sau đây là 1 bài tứ tuyệt, do GCC đề nghị:

Mưa trên lối về, Thu đã tàn
Hoa Mai nở trên nấm mồ, Xuân càng già
Trời mùa Ðông Paris suốt đời thèm chia ly
Tóc Em chưa úa nắng Hè

Vậy là đủ 4 câu, 4 mùa.
Câu chót, còn có bản tiếng Tây, như câu số 2, có bản tiếng Tầu:
Nàng khiêu vũ chỉ 1 mùa Hè.
Elle n'a dansé qu'un seul Été

Ðúng là thơ Kon Kóc của Thầy Kuốc!



*

Khi về, cô bé có thói quen để cô em vô nhà, còn cô chạy đến bên phông tên
ngay bên đường cách nhà chừng mười bước
để rửa chân, thật ra để đùa nghịch cùng những giọt nước...

Lần Cuối Sài Gòn


*

THE BEST TIME: EARLY CHILDHOOD

Note: Bài viết này cũng thật tuyệt. Quãng đời đẹp nhất là quãng đời đầu tuổi thơ.



Thơ Mỗi Ngày

VIETNAM

 "Woman, what's your name?" "I don't know."
"How old are you? Where are you from?" "I don't know."
"Why did you dig that burrow?" "I don't know."
"How long have you been hiding?" "I don't know."
"Why did you bite my finger?" "I don't know."
"Don't you know that we won't hurt you?" "I don't know."
"Whose side are you on?" "I don't know."
"This is war, you've got to choose." "I don't know."
"Does your village still exist?" "I don't know."
"Are those your children?" "Yes."

Wistawa Szymborska

Việt Nam

Bà kia ơi, tên bà là gì vậy? Tôi không biết
Bà bao nhiêu tuổi? Tôi không biết
Tại sao bà đào cái hang đó? Tôi không biết
Bà trốn bao lâu rồi? Tôi không biết
Tại sao bà cắn ngón tay tôi? Tôi không biết
Bà không biết là tôi không làm đau bà ư? Tôi không biết
Bà ở bên nào? Tôi không biết
Ðây là chiến tranh, bà phải chọn bên. Tôi không biết
Làng bà còn không? Tôi không biết
Những người đó là con của bà? Ðúng rồi.

Note: Bài thơ “Bà Mẹ Gio Linh” này, của nhà thơ Nobel người Ba Lan, Wistawa Szymborska, giá mà được PD phổ nhạc nữa, nhỉ?
Bài thơ hình như đã được vài người dịch rồi. GCC dịch thêm 1 lần nữa, để mừng sinh nhật người nhạc sĩ vĩ đại, đời đời đau “vết thương di tản”! 

SONG OF AN EMIGRÉ

We come into being in alien cities.
We call them native but not for long.
We are allowed to admire their walls and spires.
From east to west we go, and in front of us
rolls the huge circle of a flaming
sun through which, nimbly, as in a circus,
a tamed lion jumps. In alien cities
we look at the work of Old Masters
and we recognize our faces in the old
paintings without surprise. We lived
before and we even knew suffering,
we lacked only words. At the Orthodox
church in Paris, the last White
gray-haired Russians pray to God, who
is centuries younger than they and equally
helpless. In alien cities we'll
remain, like trees, like stones.

Adam Zagajewski

Bài ca của tên di tản

Chúng ta tới sống trong những thành phố xa lạ,
ngoại lai, ngoài hành tinh
Chúng ta gọi họ là thổ dân nhưng cũng không lâu.
Chúng ta được phép trầm trồ trước
những bức tường và những tháp hình chóp của họ.
Chúng ta đi từ Ðông qua Tây, và trước chúng ta
là những dãy vòng tròn lớn ,
của một mặt trời lửa qua đó, nhanh như cắt,
giống như trong rạp xiếc, một con sư tử
được thuần hoá, nhảy qua vòng tròn.
Trong những thành phố xa lạ, chúng ta nhìn
tác phẩm của những Sư Phụ Cổ,
và chúng ta nhận ra bộ mặt của chúng ta,
trong những bức họa cũ, không ngạc nhiên.
Chúng ta đã sống trước đó, và chúng ta biết, ngay cả, đau khổ.
Chúng ta chỉ mù tịt tiếng của họ.
Tại nhà thờ Chính Thống ở Paris,
những người Bạch Nga sau cùng, tóc muối tiêu
cầu nguyện Thượng Ðế,
trẻ hơn họ hàng thế kỷ, và tất nhiên,
cũng vô dụng, chẳng giúp mẹ gì được ai.
Trong những thành phố xa lạ
Chúng ta lui cui đứng
như cây,
Hay thu tròn 1 cục
như đá.

DIANE WAKOSKI

Charles Simic's Somewhere Among Us a Stone Is Taking Notes

I have not yet decided whether Charles Simic is America's greatest living surrealist poet, a children's writer, a religious writer, or simple-minded. My decision in this matter is irrelevant actually because, whatever he is, his poetry is cryptic and fascinating. He has published two books with Kayak Press, one of the most beautiful and interesting of the little-magazine presses. One of my favorite poems in this book is called "Poem" and it contains all the elements which I admire in Simic's work. He begins the poem with his father writing and when he says he "writes in his coffin" the poem has been transferred into a metaphor perhaps for the poet himself.

I look at times over his shoulders
At all that whiteness. The snow is falling.
As you'd expect. A drop of ink
Gets buried easily, like a footprint,

he says in the second stanza, and you have a metaphor for man in the natural world. Then Simic adds, "I, too, would get lost but there's his shadow / On the wall," and I start thinking the poet is writing about God, perhaps death. And he ends the poem:

When the bottle empties
His great dark hand
Bigger than the earth
Feels for the moon's spigot.

This kind of poem you can turn inside out, make symbolic, make metaphoric, make religious, make aesthetic, and still have a beautiful cryptic little piece, written as if it were a folk poem or perhaps a child's verse perhaps a child's verse that wasn't intended to be complex at all. I like those qualities in poetry. They always restore my faith in the poem; make me feel that we should all stop talking about poetry and sit down and memorize some of the poems we love.

From "Songs and Notes" by Diane Wakoski, Poetry 118 (September 1971).

Ðâu đó giữa chúng ta, một cục đá đang ghi chú

Tôi chưa quyết định được, liệu Charles Simic có phải là 1 nhà thơ Mẽo, siêu thực, hiện đang còn sống, vĩ đại nhất, một nhà văn của con nít, một nhà văn tôn giáo, hay là 1 con người có cái đầu đơn giản, hồn nhiên.
Quyết định của tôi về vụ này thì hơi bị khó, có thể nói, không thích đáng, chẳng đi tới đâu, bởi vì bất kể ông là gì, thì thơ của ông ta vẫn cứ kỳ bí và hớp hồn người đọc. Ông ta cho xb hai cuốn với Kayak Press, một trong những nhà xb đẹp nhất, lý thú nhất của những tiểu tạp chí. Một trong những bài thơ mà tôi thích trong cuốn sách này có cái tên “Poem”, và nó chứa trong nó tất cả những thành phần mà tôi mê nhất trong tác phẩm của Simic.
Ông bắt đầu bài thơ với chuyện viết lách của ông via, và khi ông viết, “ông via của tớ viết trong cái hòm" [quan tài, tiếng Bắc Kít], thì bài thơ bèn chuyển thành một ẩn dụ, có lẽ, cho chính nhà thơ:

Lâu lâu tớ nghiá qua vai ông via của tớ
Trên tất cả cái nền trắng hếu đó. Tuyết đang rơi
Như là bạn mong ước. Một giọt mực
Rớt xuống và bị nuốt chửng liền tức thì,
rất ư là dễ dàng, thật ngon lành.

Ông nói, trong khổ thơ thứ nhì, và bạn có một ẩn dụ về con người trong thế giới tự nhiên. Và rồi Simic thêm vô, “Tôi, tôi cũng mất, nhưng còn cái bóng của ông via tôi/Trên tường,” và tôi [tác giả bài viết] bắt đầu nghĩ về nhà thơ đang viết về Ông Giời, có lẽ, về cái chết.
Và ông chấm dứt bài thơ:

Khi lọ cạn
Bàn tay to kềnh tối thui của ông via tôi
To hơn cả trái đất
Cảm thông cho cái vòi của mặt trăng

Một bài thơ, một thứ thơ mà bạn có thể lật bên trong ra bên ngoài, biến nó thành biểu tượng, thành tôn giáo, thành mỹ học, nhưng vẫn có 1 mẩu kỳ bí đẹp tuyệt vời, viết như thể một bài thơ dân gian, hay 1 bài thơ cho nhi đồng, chẳng hề muốn rối rắm một tí nào. Tôi mê thứ thơ này. Chúng luôn khiến tôi tin tưởng vào thơ ca, tái đặt để niềm tin vào nó. Chúng làm tôi cảm thấy, thôi bỏ chuyện lèm bèm về thơ qua một bên, hãy ngồi xuống, lẩm nhẩm nhớ lại một vài bài thơ mà chúng ta đã yêu mến.


Tếu thật, trong khi GCC ra rả về cái chuyện VC chiêu hồi thi ca hải ngoại, thì server cho biết, bài của Gấu trên blog của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.

"Hà Nội không bỏ 1 chữ” [mượn chữ của NMG].

Tks, anyway! NQT

Ðọc bài viết cũ, Gấu nhớ ra là vào thời kỳ viết nó, mới từ Hà Nội trở về lại Canada, đầy ắp hình ảnh "Sách Huyền", cũng là thời gian mê đọc John Fowles, một tiểu thuyết gia người Anh, tác giả những cuốn như The Collector, Người Sưu Tập Bướm, đã quay thành phim, và đã từng chiếu ở Sài Gòn trước 1975, chuyện 1 anh chàng mê bướm, và bắt cóc một cô gái, và nhiều tác phẩm nổi tiếng khác nữa, đa số quay thành phim.
Còn là tác giả cuốn The Aristos: A Self-Portrait in Ideas, Poems... tuyệt bản, Gấu phải vô thư viện mượn đọc, và nhân đó viết bài về World Cup, vừa mắt Sến Cô Nương, nhờ vậy được đăng trên talawas. Sến còn chuyển bài về trong nước cho tay Thanh, chủ tờ Tia Sáng (?) nhưng không đăng, sau Gấu có gặp, ông cho biết, anh viết đểu quá, không đăng chứ không phải do ‘nhạy cảm’.
Bài này, đăng trên talawas, cũng "được" hiệu đính. Fowles, được đàn em Sến sửa thành Fowler, tên anh cớm Phòng Nhì Pháp, trong Người Mỹ Trầm Lặng. (1)

(1)

John Fowler, trong cuốn The Aristos: A Self-Portrait in Ideas, Poems... nhân mùa World Cup 1966, đã đưa ra nhận xét: “Bóng đá gồm 22 cây gậy [của tên ăn mày, như các cụ thường nói], đuổi theo một cái âm hộ; cái chày của môn chơi golf là một dương vật cán bằng thép; vua và hoàng hậu trong môn cờ là Laius và Jocasta, mọi chiến thắng đều là một dạng, hoặc bài tiết hoặc xuất tinh.”

Tuyệt. Chỉ 1 câu đó, đủ khiến Gấu lục khắp thư viện Toronto, kiếm cho được cuốn của ông!

Nhưng Fowles hơn thế nhiều. Ông chẳng hề giấu, Thầy của ông là Alain-Fournier (1886-1914), tác giả Le Grand Meaulnes.

Le Grand Meaulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là “bản gốc”, cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém. Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby? “Bạn nào biết, làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm phiền tôi lắm lắm…”.

Nhưng đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông. Với ông này, Anh Môn có tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier: 
"Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.
 [I like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not when it usepts or exceeds it].
Fowler viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.

Hà Nội_của Anh Môn
*

Trong bài viết về MT, Gấu cũng chôm 1 ý của Fowles:

Go on, run away, but you'd be far safer if you stayed at home.
(John Fowles trích dẫn Martial, nguyên văn: I, fugi, sed poteras tutior esse domi.)

Trong Tựa đề cho những bài thơ, Foreword to the Poems, John Fowles cho rằng cơn khủng hoảng của tiểu thuyết hiện đại, là do bản chất của nó, vốn bà con với sự dối trá. Đây là một trò chơi, một thủ thuật; nhà văn chơi trò hú tim với người đọc. Chấp nhận bịa đặt, chấp nhận những con người chẳng hề hiện hữu, những sự kiện chẳng hề xẩy ra, những tiểu thuyết gia muốn, hoặc (một chuyện) có vẻ thực, hoặc (sau cùng) sáng tỏ. Thi ca, là con đường ngược lại, hình thức bề ngoài của nó có thể chỉ là trò thủ thuật, rất ư không thực, nhưng nội dung lại cho chúng ta biết nhiều, về người viết, hơn là đối với nghệ thuật giả tưởng (tiểu thuyết). Một bài thơ đang nói: bạn là ai, bạn đang cảm nhận điều gì; tiểu thuyết đang nói: những nhân vật bịa đặt có thể là những ai, họ có thể cảm nhận điều gì. Sự khác biệt, nói rõ hơn, là như thế này: thật khó mà đưa cái tôi thực vào trong tiểu thuyết, thật khó mà lấy nó ra khỏi một bài thơ. Go on, run away... Cho dù chạy đi đâu, dù cựa quậy cỡ nào, ở nhà vẫn an toàn hơn.
Khi trở về với thơ, vào cuối đời, Mai Thảo đã ở nhà. Cái lạnh, trong thơ ông, là cái ấm, của quê hương. Của Nhị.

*

DIANNE VIPOND: What role do the female characters play in your fiction?

JOHN FOWLES: I consider myself a sort of chameleon genderwise. I am a novelist because I am partly a woman, a little lost in midair between the genders, neither one nor t' other. I certainly think that most novelists are a result of not being clearly typed sexually. I'm just reading Margaret Drabble's excellent new life of the English novelist Angus Wilson. He was very much such a typical masculine-feminine writer.

Những nhân vật nữ đóng vai trò gì trong tiểu thuyết của ông?
Tôi thuộc giống cắc kè. Tôi là tiểu thuyết gia là do trong tôi có cái phần đàn bà, tôi bị thất lạc tí ti giữa đực và cái, đếch phải đực mà cũng chẳng phải cái. Tôi thực sự tin là đa số nếu không muốn nói, hầu hết tiểu thuyết gia là hậu quả của cái việc đếch biết mình đực hay cái.

Ui chao, đọc ông này phán, thì GCC hiểu ra lý do tại sao không có lấy 1 cuốn tiểu thuyết lận lưng.
Gấu “đực rựa” “một trăm em ơi, chiều nay một trăm phần trăm”, làm sao viết tiểu thuyết được?

All writing, of course, is to some extent autobiographical-"true lies""whether it is fiction or nonfiction. The writer's obsessions and passions permeate his work, and readers who are familiar with Fowles's novels will find in these essays frequent resonances and reflections of themes that they may already have met in the fiction: the lost domaine, the woman as princesse lointaine; evolution and natural history; freedom and responsibility, randomness and hazard; literature, literariness, and the role of the writer. They also reflect his lifelong commitment to left-wing politics, conservation, and "green" issues. And the gift for narrative, for which Fowles's novels are so justly celebrated, is evident in many of these essays. In "Shipwreck," for instance, the opening lines have all the qualities of a compelling story: the feeling of "once upon a time," the powerful sense of place, and the way the first-person narrator draws the reader into the here and now of the tale he is telling.

….take on an elegiac tone, mourning for what is already lost a pleading for the conservation and survival of what is left. Reading these pieces is like listening to the "loud lament of the disconsolate chimera," as Eliot puts it in his "Four Quartets"; as if the voice that speaks had a strong sense of crying in the wilderness, of being "the Word in the desert." One of the bees in Fowles's bonnet is the "lethal perversion" of the collector-another of the themes that inflect and inform his fiction. Clegg, the repellent hero of The Collector, is the archetype of all those natural-history collectors who "in the end collect the same thing: the death of the living"-a statement central to Fowles's relationship to nature and the natural world.

Jan Relf: Introduction

Vùng đất đã mất, nàng công chúa xa vời…

Ðây là đề tài của Anh Môn, được Fowles lập lại, và khuếch đại thêm lên.
Trong bài viết về Joseph Huỳnh Văn, GCC, khi được biết nhà thơ làm thơ về Hà Nội, mà chẳng bao giờ hoàn tất, đã tưởng tượng ra 1 lost domaine, nàng công chúa xa vời của bạn mình, là Hà Nội, như của GCC, là BHD.
Cả cuộc đời Bùi Giáng, thì cũng chỉ cố lập lại những ngày tháng chăn dê của nhà thơ, như trong 1 bài viết của Phạm Xuân Ðài về ông.


ONDAATJE


Thơ JHV

Thủ bút JHV

John Fowles

THE LOST DOMAINE OF ALAIN-FOURNIER

(1986)

I like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality; not when it upsets or exceeds it.

ALAIN-FOURNIER, IN A LETTER OF 1911

The Lost Domaine (Le Grand Meaulnes) is, I suspect, one of the rare books that a reader may well feel happier not to have analyzed. (1) I remember feeling this myself when I first read it as a schoolboy, many years ago. It had been an experience of such strange force, touching so many secret places in my own nature, that I really did not want anyone to tell me what it meant. It certainly wasn't that I then understood it, or its effect; but to treat it objectively, as just another book, seemed a sort of sacrilege, the vulgar throwing-open of a very special place.

Later in life I wrote my own first novel, The Magus, very much under its influence. Since then I have read almost all else of what Fournier wrote, and several books about him; and have been a pilgrim to most of the main places of both the book and its author's life. I am, in short, a besotted fan, and still feel closer to Fournier than to any other novelist, living or dead. This kind of self-elected "special relationship" with him is not rare. Indeed it is typical of one side of The Lost Domaine's fate over the years; all those of us who were from the beginning literally set in a trance by the book 

1. By good fortune, for those who do like their texts explained, an excellent such analysis is now avail· able: Robert Gibson's Le Grand Meaules in the series Critical Guides to French Texts (London: Grant and Cutler, 1986). The same author's The Land Without a Name (London: Paul Elek, 1975) is by far the best account in English of Alain-Fournier himself.
*

Note: Dịch bài này cũng là 1 cách nhớ bạn thơ!
Le Grand Meaulnes, Tin Văn đánh máy lộn, thành Le Grand Maules, độc giả sửa giùm, nếu gặp.

Gấu có những kỷ niệm cực kỳ thê lương với JHV. Cứ mỗi lần bị cuộc đời hành hạ đến mức phải bỏ chạy, thì bèn mò đến anh. Hai anh em thường ngồi dưới nhà bếp, nhậu lai rai, và 1 lần, chắc nhiều lần, Gấu chịu không nổi và khóc rống lên, khủng đến nỗi bà xã anh, và luôn cả mấy đứa nhỏ, không hiểu chuyện gì xẩy ra, đều chạy xuống…

“Tội thằng Trụ, tội thằng Trụ quá”, như những lần anh than thở khi ngồi lai rai với NLV là do như vậy. Anh người Huệ, những lúc đắc ý nhất về bạn bè, là "ta ta mi mi", là "thằng Trụ, thằng Trụ", đâu có phải ai cũng được anh gọi như thế đâu.

Gấu cũng bị tật đó y chang, mỗi lần thấy quá thân với 1 thằng bạn, là mày tao, cái anh Quan Tòa Mẽo, NTN, mũi tẹt, da vàng, từng là bạn của Gấu, qua bạn C, ông em nhà thơ TTT, từng lê la ở nhà bà cụ C. ngu quá, đâu có hiểu được.


TTT 2011


*

Czeslaw Milosz

The Nobel Prize in Literature 1980 was awarded to Czeslaw Milosz "who with uncompromising clear-sightedness voices man's exposed condition in a world of severe conflicts".

Diễn văn Nobel

One of the Nobel laureates whom I read in childhood influenced to a large extent, I believe, my notions of poetry. That was Selma Lagerlöf. Her Wonderful Adventures of Nils, a book I loved, places the hero in a double role. He is the one who flies above the Earth and looks at it from above but at the same time sees it in every detail. This double vision may be a metaphor of the poet's vocation. I found a similar metaphor in a Latin ode of a Seventeenth-Century poet, Maciej Sarbiewski, who was once known all over Europe under the pen-name of Casimire. He taught poetics at my university. In that ode he describes his voyage - on the back of Pegasus - from Vilno to Antwerp, where he is going to visit his poet-friends. Like Nils Holgersson he beholds under him rivers, lakes, forests, that is, a map, both distant and yet concrete. Hence, two attributes of the poet: avidity of the eye and the desire to describe that which he sees. Yet, whoever considers poetry as "to see and to describe" should be aware that he engages in a quarrel with modernity, fascinated as it is with innumerable theories of a specific poetic language.

Simone Weil, to whose writings I am profoundly indebted, says: "Distance is the soul of beauty." Yet sometimes keeping distance is nearly impossible. I am A Child of Europe, as the title of one of the my poems admits, but that is a bitter, sarcastic admission. I am also the author of an autobiographical book which in the French translation bears the title Une autre Europe. Undoubtedly, there exist two Europes and it happens that we, inhabitants of the second one, were destined to descend into "the heart of darkness of the Twentieth Century." I wouldn't know how to speak about poetry in general. I must speak of poetry in its encounter with peculiar circumstances of time and place. Today, from a perspective, we are able to distinguish outlines of the events which by their death-bearing range surpassed all natural disasters known to us, but poetry, mine and my contemporaries', whether of inherited or avant-garde style, was not prepared to cope with those catastrophes. Like blind men we groped our way and were exposed to all the temptations the mind deluded itself with in our time.


Kỷ niệm 100 năm sinh của Milosz

Le poète intraitable

Il ne peut toutefois adhérer au marxisme: la lecture de Simone Weil (qu'il traduit en polonais) a joué à cet égard un rôle capital dans son évolution intellectuelle. Elle aura été la première à dévoiler la contradiction dans les termes que représente le « matérialisme dialectique ». Pour une pensée intégralement matérialiste (comme celle d'Engels), l'histoire est le produit de forces entièrement étrangères à l'individu, et l'avènement de la société communiste, une conséquence logique de l'histoire; la liberté n'y a aucune place. En y introduisant la « dialectique ", Marx réaffirme que l'action des individus est malgré tout nécessaire pour qu'advienne la société idéale: mais cette notion amène avec elle l'idéalisme hégélien et contredit à elle seule le matélialisme. C'est cette contradiction qui va conduire les sociétés « socialistes" à tenir l'individu pour quantité négligeable tout en exigeant de lui qu'il adhère au sens supposé inéluctable de l'histoire. Mais la philosophie de Simone Weil apporte plus encore à Milosz que cette critique: elle lui livre les clés d'une anthropologie chrétienne qui, prolongeant Pascal, décrit l'homme comme écartelé entre la « pesanteur" et la « grâce ".

Nhà thơ không làm sao “xử lý” được.

Tuy nhiên, ông không thể vô Mác Xít: Việc ông đọc Simone Weil [mà ông dịch qua tiếng Ba Lan] đã đóng 1 vai trò chủ yếu trong sự tiến hóa trí thức của ông. Bà là người đầu tiên vén màn cho thấy sự mâu thuẫn trong những thuật ngữ mà chủ nghĩa duy vật biện chứng đề ra. Ðối với một tư tưởng toàn-duy vật [như của Engels], lịch sử là sản phẩm của những sức mạnh hoàn toàn xa lạ với 1 cá nhân con người, và cùng với sự lên ngôi của xã hội Cộng Sản, một hậu quả hữu lý của lịch sử; tự do chẳng hề có chỗ ở trong đó. Khi đưa ra cái từ “biện chứng”, Marx tái khẳng định hành động của những cá nhân dù bất cứ thế nào thì đều cần thiết để đi đến xã hội lý tưởng: nhưng quan niệm này kéo theo cùng với nó, chủ nghĩa lý tưởng của Hegel, và chỉ nội nó đã chửi bố chủ nghĩa duy vật. Chính mâu thuẫn này dẫn tới sự kiện, những xã hội “xã hội chủ nghĩa” coi cá nhân như là thành phần chẳng đáng kể, bọt bèo của lịch sử, [như thực tế cho thấy], trong khi đòi hỏi ở cá nhân, phải tất yếu bọt bèo như thế. Nhưng triết học của Simone Weil đem đến cho Milosz quá cả nền phê bình đó: Bà đem đến cho ông những chiếc chìa khoá của một nhân bản học Ky Tô, mà, kéo dài Pascal, diễn tả con người như bị chia xé giữa “trọng lực” và “ân sủng”.

Chúng ta phải coi cái đẹp như là trung gian giữa cái cần và cái tốt (mediation between necessity and the good), giữa trầm trọng và ân sủng (gravity and grace). Milosz cố triển khai tư tưởng này [của Weil],  trong tác phẩm “Sự Nắm Bắt Quyền Lực”, tiếp theo “Cầm Tưởng”. Đây là một cuốn tiểu thuyết viết hối hả, với ý định cho tham dự một cuộc thi văn chương, nghĩa là vì tiền, và cuối cùng đã đoạt giải! Viết hối hả, vậy mà chiếm giải, nhưng thật khó mà coi đây là một tuyệt phẩm. Ngay chính tác giả cũng vờ nó đi, khi viết Lịch Sử Văn Học Ba Lan. Tuy nhiên, đây là câu chuyện của thế kỷ. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết tìm cách vượt biên giới Nga, để sống dưới chế độ Nazi, như Milosz đã từng làm như vậy.
Source

Ða số những tác giả TV giới thiệu, thì đều là từ cái lò Partisan Review. Và đều kinh qua kinh nghiệm CS, như Milosz, như Manea, thí dụ.

Gấu biết tờ này, là do đọc Paz.
Có thể nói GCC rành Mác Xít, CS hơn đám VC nhiều! Ngay từ thuở mới lớn, Gấu đã tìm cách làm quen với ông tổ sư Mác Xít là Lukacs rồi. Chưa kể Henri Lefebvre, cũng 1 tổ sư [cha] Mác Xít nữa!
Nhưng quả là may, GCC đọc Koestler, nhờ vậy mà có tí đề kháng trong người, không bị Quỉ Ðỏ tóm như những ông HPNT, DH…

Nhưng phải đến khi ra được hải ngoại, được đọc Simone Weil, đọc Milosz, đọc Manea, đọc Brodsky, Coetzee… thì mới tới chỉ!
GCC nghiệm ra 1 điều, những tác giả đọc đầu đời đó, họ giống như những kẻ gợi ý, mở đường. Bạn đọc họ, để chờ đọc những tác giả khác nữa, mà không có họ, bạn chẳng làm sao mà đọc được.
Trong những điều kiện về 1 độc giả tốt của Nabokov, ông không thẳng thừng nói tới điều kiện trên, nhưng ông nói,  qua… ẩn dụ: Ðộc giả là 1 tác giả tiềm năng, đang trong thế hàm mô công, sẵn sàng ra đòn, để trở thành tác giả thực thụ.

Từ đó suy ra, bạn chỉ có thể trở thành nhà văn, khi… đọc.


Câu chuyện sau đây, Milosz kể trong  cuốn ABC của mình, mà chẳng khủng sao.
Ðám VC đọc mà không thấy... vô cảm sao?
Ðã có 1 đấng nhà văn con nít VC chôm chuyện này, kể lại trên mạng, diễn đàn của những người con Mít xa mẹ Mít gì gì đó, nhưng đếch thèm ghi xuất xứ.
Cũng chính đấng này đã từng chôm một bài viết khác của Gấu. Không phải 1 mà tới hai lần. Lần đầu chôm, viết trên mạng, GCC nghĩ tình, tay này cũng có sáng tác, không đến nỗi tệ, nên mail cho diễn đàn, đề nghị xử lý, anh ta xin lỗi. Nhưng sau đó, lại chôm tiếp. GCC đành phải 'bạch tuộc hoá".

Tởm, Disgust

Tởm

Người ta đã nói nhiều về những tội ác của chế độ cộng sản. Ít ai cho biết, tôi đã tởm chế độ đó đến mức như thế nào. Câu chuyện sau đây là của nhà văn, nhà thơ lưu vong người Balan, Czeslaw Milosz, Nobel văn chương 1980, trong tác phẩm Milosz's ABC's.

Disgust

Józef Czapski là người kể cho tôi [Milosz] câu chuyện sau đây, xẩy ra trong thời kỳ Cách Mạng Nga.
Tại một tiệm ăn ở một ga xe lửa, có một thực khách, qua cách ăn mặc, dáng điệu, cho thấy đây là người thuộc tàn dư chế độ, tức tầng lớp trí thức thời tiền  1975. Ông ta đang ngồi ăn tối ở...  Quán Chùa. Sự hiện diện, cách ăn mặc, ăn nói theo kiểu tàn dư chế độ như thế của ông khiến một đám vệ binh đỏ [chữ của Milosz: đám du đãng] trong tiệm ăn để ý. Chúng kéo tới bàn ông, và bắt đầu diễu cợt, xỉ vả, bầy đủ trò khốn kiếp. Ông tàn dư chế độ cố coi như không, vẫn thản nhiên từ tốn ngồi ăn. Tới mức chúng nhổ nước miếng vào dĩa xúp. Ông tàn dư không tìm cách chống cự, hay là tự bảo vệ lấy thân, và cũng chẳng có ý định xua đuổi đám khốn kiếp. Chuyện cứ thế xẩy ra trong một khoảng thời gian....

Bất thình lình, ông tàn dư bèn đứng dậy, rút khẩu súng lục từ trong túi ra, và đưa ngay mõm súng vào trong mõm mình, và đoàng một phát.

Hiển nhiên, mức tởm lợm tràn quá ly. Chẳng nghi ngờ chi, ông ta là một thứ người mảnh mai, được giáo dục, dậy dỗ, và trưởng thành trong một môi trường mà một con người như thế dư sức sống, và sống thật là đầy đủ cái phần đời của mình mà Thượng Đế cho phép, nghĩa là được bảo vệ để tránh xa khỏi thực tại tàn bạo được tầng lớp hạ lưu chấp nhận như là lẽ đương nhiên ở đời.

Nếu không, Thượng Đế đâu có đẩy ông ta vào thế gian này?
*

Milosz, khi viết về Brodsky, không thèm giấu giếm nỗi ghen tị của ông, thằng chả sao sướng thế, chẳng bao giờ phải chịu nhục, chịu bửn, dù chỉ 1 tí, như ta!

Ông viết To wash là cũng theo tinh thần đó, tớ là nhà thơ bửn của thế kỷ.

Ðọc Milosz viết về Brodsky, chúng ta hiểu thái độ "kênh kiệu ", "không khiêm tốn" của TTT.
Ông bỏ xứ Tiểu Cali đi…Ðồng Tháp. Cà Mâu, là vì vậy, như ông đã từng nói với Gấu qua điện thoại. Ông cho biết, tiền chi cho chuyến đi, là của TPK, và là nhuận bút cuốn Thơ Ỏ Ðâu Xa.
Ông than với Gấu, lúc đó, mới qua, tao đâu có biết thơ bán cho ai, ai thèm đọc!
Một cách nào đó, ông cũng như Brodsky, bị lịch sử lọc ra, để đóng vai "kênh kiệu, đếch thèm khiêm tốn" của ông!

To Wash

At the end of his life, a poet thinks: I have plunged  into so many of the obsessions and stupid ideas of my epoch! It would be necessary to put me in a bathtub and scrub me still all that dirt was washed away. And yet only because of that dirt could I be a poet of the twentieth century, and perhaps the Good Lord wanted it, so that I was of use to Him.

Một nhà thơ của thế kỷ 20, cuối đời nhìn lại, thấy mình bẩn quá, bèn chui vô bồn tắm, dùng xà bông thơm kỳ cọ, cho văng tất cả những cái bẩn đi.
Kỳ mãi, kỳ mãi, vẫn không hết, và ông ngộ ra, số phận của ông là như vậy.
Bởi vì, nếu ông ta sạch,Thượng Đế đã không giao cho ông ta "nghĩa cả" đó, và nhân loại cũng đếch cần đến ông ta.

Notes About Brodsky
Milosz

Trong một tiểu luận, Brodsky gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn hóa. Brodsky chính ông, cũng là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là vì lý do này, ông tạo sự hài hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ, trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống người, khám phá ra quá khứ như là một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu vô mê cung, chúng ta khám phá ra cái gì sống sót quá khứ là kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi], là thực tại về độc tài bạo chúa và sự băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt. Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh khoắc thần tiên còn hoài hoài

Bài viết Sự quan trọng của Simone Weil cũng quá tuyệt.
Bài nào đọc cũng tuyệt, khiến Gấu tự hỏi, tại làm sao cũng CS, mà ở đó lại có những bậc như Brodsky, như Milosz, thí dụ.

Bắc Kít, chỉ có thứ nhà văn nhà thơ viết dưới ánh sáng của Đảng!

Cái vụ Tố Hữu khóc Stalin thảm thiết, phải mãi gần đây Gấu mới giải ra được, sau khi đọc một số bài viết của những Hoàng Cầm, Trần Dần, những tự thú, tự kiểm, sổ ghi sổ ghiếc, hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh... Sự hèn nhát của sĩ phu Bắc Hà, không phải là trước Đảng, mà là trước cá nhân Tố Hữu. Cả xứ Bắc Kít bao nhiêu đời Tổng Bí Thư không có một tay nào như xứng với Xì Ta Lin. Mà, Xì, như chúng ta biết, suốt đời mê văn chương, nhưng không có tài, tài văn cũng không, mà tài phê bình như Thầy Cuốc, lại càng không, nên đành đóng vai ngự sử văn đàn, ban phán giải thưởng, ra ơn mưa móc đối với đám nhà văn, nhà thơ. Ngay cả cái sự thù ghét của ông, đối với những thiên tài văn học Nga như Osip Mandelstam, Anna Akhmatova… bây giờ Gấu cũng giải ra được, chỉ là vì những người này dám đối đầu với Stalin, không hề chịu khuất phục, hay "vấp ngã"!

Gấu tin là, Tố Hữu tự coi ông như là Xì của xứ Bắc Kít. Ông còn bảnh hơn cả Xì, vì là một thi sĩ thứ thực, nếu chúng ta đọc dòng thơ cách mạng hồi ông còn trẻ. Tất cả các văn nghệ sĩ Bắc Kít sở dĩ sợ Tố Hữu đến như thế, chính là vì với họ, Tố Hữu là…. Xì Ta Lin mũi tẹt, Bắc Kít! 


Nobel 2011


Ghi chú trong ngày

*

Select four answers to the question what should a reader be to be a good reader:

1. The reader should belong to a book club.
2. The reader should identify himself or herself with the hero or heroine.
3. The reader should concentrate on the social-economic angle.
4. The reader should prefer a story with action and dialogue to one with none.
5. The reader should have seen the book in a movie.
6. The reader should be a budding author.
7. The reader should have imagination.
8. The reader should have memory.
9. The reader should have a dictionary.
10. The reader should have some artistic sense.

Quả có câu “Hãy chọn 4 câu trả lời”
Sorry bạn GM.
Nhưng bài viết không phải là 1 bài trắc nghiệm.
Gấu đã từng bị độc giả VHNT xài xể vì bài viết này 1 lần rồi. Bây giờ mới nhớ ra.. (1)

GM dịch câu số 6 "Người đọc là một tác giả mới vào nghề", sai. Bản tiếng Tây dùng un auteur en puissance mạnh hơn nguyên tác tiếng Anh, có nghĩa 1 tác giả đang nẩy nở thành 1 tác giả. Thì cũng mắm sốt, nhưng “en puissance” nghe sung mãn hơn nhiều!

          (1)

 "Về dịch thuật, khi chuyển ngữ câu La littérarure est "invention" = Văn chương là "bịa đặt". Dù đúng theo lối dịch từng chữ, nhưng sai lạc trong cả câu văn. Đọc nguyên câu bằng Pháp ngữ, tôi thấy Nabokov muốn nâng văn chương lên cao hơn ý tác giả đã trình bày".
            Ở đây, tôi hoàn toàn không đồng ý với tác giả email.         
            Như trong bài trích dẫn, "Người đọc tốt và người viết tốt" (trong Văn Chương tập I, bản tiếng Pháp, nhà xb Fayard, loại sách bỏ túi), Nabokov phân biệt giữa văn chương (giả tưởng, bịa đặt), và sự thực. Ông đã viết một cách thật là "nặng nề": Văn chương là bịa đặt. Giả tưởng là giả tưởng. Gọi câu chuyện là "chuyện thực", là làm nhục cả nghệ thuật lẫn sự thực. (La littérature est invention. La fiction est fiction. Appeler une histoire "histoire vraie", c'est faire injure à la fois à l'art et à la vérité.) Vì sự thực liên quan tới hiện thực cho nên ông giải thích thêm: Thiên Nhiên không ngừng đánh lừa. (La Nature trompe sans cesse). Ông viết: "Mọi nghệ sĩ lớn đều là ảo thuật gia lớn, và cũng thế, Thiên Nhiên là tổ sư đại bịp.... Nhà văn của giả tưởng chỉ việc đi theo con đường Thiên Nhiên đã vạch ra"  (Tout grand écrivain est un grand illusionniste, mais telle également est l'architrompeuse Nature.... L'écrivain de fiction ne fait que suivre la voie tracée par la Nature.)

Source


All writing, of course, is to some extent autobiographical-"true lies""whether it is fiction or nonfiction.
Mọi cái viết, lẽ dĩ nhiên, đều có mùi tự thuật, dù giả tưởng, dù không giả tưởng.
Những lời dối trá thực, the true lies.
Tôi là lời dối trá nói lên điều sự thực, Je suis une mensonge qui dit toujours là vérité.

Có ai đòi hỏi nhà văn nhà thơ phải có cái tâm, theo như Thầy Cuốc hiểu đâu?

Thầy phán:
Trong văn học, người ta hay nói đến chuyện “cái tâm” của người cầm bút với hai đặc điểm nổi bật: thành thực và khiêm tốn.

Ui chao, có nhà văn nhà thơ nào “thành thật” bao giờ đâu?
"Khiêm tốn", lại càng hiếm nữa.
Phách lối như GCC thì nhiều lắm!
Lũ khốn đó, chúng coi chúng là Thượng Ðế sáng tạo ra cuộc đời, mà “thành thật và khiêm tốn”?
Một chữ tâm, đạo đức của bất cứ 1 con người, dù nhà văn hay không nhà văn, mà cũng không hiểu nổi mà viết lách cái gì?


 DTH par Minh Tran Huy

Khi mạng sống của bà bị đe dọa, bà có cơ hội rời Việt Nam, tại sao bà từ chối?

Lần thăm viếng Pháp đầu tiên của tôi là vào năm 1994. Ðó là những năm Mitterrand, và bà vợ của ông, Danielle Mittterrand đã can thiệp cho tôi nhiều lần; nhờ bà, và những người khác nữa mà tôi được thả. Tôi ở Paris 6 tháng, và được đề nghị quy chế tị nạn chính trị. Nhưng đã nửa đời người, lại thuộc lớp người trẻ nhất trong số cựu binh, tôi thấy khó buông xuôi cuộc chiến đấu. và tôi trở lại Việt Nam. Thời gian qua đi, tôi quá sáu chục, một thế hệ mới xuất hiện, và tôi thông báo với họ, tôi sẽ rời bỏ, và họ sẽ là trạm nối...  Sự thành công của cuốn Terre des Oublis tại Pháp vào năm 2006 khuyến khích ở lại làm việc, viết Au Zenith. Tôi có món nợ với người bạn của mình, là Lưu Quang Vũ, người mà tôi đề tặng tác phẩm. Anh bị xe cán chết cùng với vợ và đứa con trai 12 tuổi. Anh biết câu chuyện ở trung tâm cuốn tiểu thuyết: chuyện về bà vợ bị giấu kín của HCM, bị ám sát bởi tên Bộ trưởng Nội Vụ vào thời kỳ đó, vì Ðảng không muốn có một vết xước nào trên hình ảnh vị anh hùng quốc gia, cha già dân tộc. Người ta giết anh là vì sợ anh viết ra câu chuyện. Tôi nợ anh ta cuốn tiểu thuyết, anh và tất cả những người bạn của tôi đã mất tích.

Ai là người đầu têu cú Ðổi Mới cuối thập niên 1980?

Rất nhiều điều đã xẩy ra về mặt kinh tế, nhưng ít, về mặt trí thức. Nguyễn Văn Linh chôm cú này từ Gorbatchev. Ông ta mời một số trí thức cởi trói cái mồm. Rồi thì là đàn áp. Tôi không nghĩ ông ta tính gài bẫy, theo kiểu Mao Xếnh Xáng. Ðám bảo thủ trong Ðảng rất mạnh, và để tránh bị chúng đá đít, hoặc làm thịt, ông ta phải tự phản bội chính ông ta. Nhà cầm quyền rất sợ nhà văn, nhà trí thức tung hê những tội ác quá khứ, khui ra ánh sáng đời tư thúi tha của đám lãnh đạo. Trước kia, người ta không có phương tiện. Bây giờ, điện thoại, máy vi tính…, tình hình xem ra cũng vẫn còn căng, như vụ bắt bớ nhà thơ, nhà xb Bùi Chát vừa mới xẩy ra. 

Việt Nam đón nhận Ðỉnh Cao Chói Lọi ra sao?

Năm trăm ngàn ấn bản qua lưới, trong khi Vùng Quên Lãng, ba trăm ngàn. Sự thành công còn là do đề tài của cuốn sách. Liền lập tức cớm VC ngăn chặn, bằng tường lửa. Phản ứng của chúng rất dữ dằn, chúng giả làm độc giả, và hăm dọa sẽ đấm vỡ mõm tôi, nếu gặp ngoài đường – Tôi đã vặn bù long tượng Bác Hồ… Trong khi đó, ở Mẽo, đám Chống Cộng tuyên bố, trong khi trình ra một vị Chủ Tịch với bộ mặt người, tôi đúng là luật sư của quỉ. Tôi bị cả hai phía ném đá, nhưng ăn nhằm chi chuyện này. Mở mắt cho mọi người, cảnh tỉnh họ, về cái điều mà VC có thể, và dám làm, đem công lý tới cho những người bạn của tôi, những người chết quá trẻ trong một cuộc chiến vô ích, tàn khốc, những điều đó quan trọng nhiều đối với tôi.
Quan trọng hơn, ngay cả đối với cái gọi là văn chương.

Note: Bài phỏng vấn, GCC dịch hết rồi, nay đọc lại, không biết sao, mất đâu mấy câu đã dịch, Chán thật!


W.G. Sebald


Cali 8, 2011

*

*

Giải thưởng VHTQ, Sử, 1970