*

Vila-Matas trả lời The Paris Review

 Enrique Vila-Matas on ‘Never Any End to Paris’

Tay này, GCC cực mê. Ông giữ 1 mục trên Le Magazine Littéraire, Sổ Đọc. Thần sầu!
Vậy mà tờ báo dẹp mục của ông, với của Linda Lê, Trở về với tác giả cổ điển.
GCC mua tờ báo, mở ra là đọc hai bài đó trước.
Nhảm quá. Bậy quá!

Note: Từ "bậy" này, đọc thư gửi đảo xa, thì GCC mới nhớ ra. Từ" thời thượng của 1 thời":
Thời Pagode!
Thú thực GCC hưởng lợi rất nhiều nhờ đảo xa tung thơ gửi đảo xa.
Nhớ lại nhiều chuyện linh tinh, thần sầu...
Đúng cái ý của Vila-Matas, “where there is a mirage there is life”.

Tks. Many tks. NQT

Bậy thật!

“Chẳng bao giờ chấm hết với Paris” của ông sử dụng tuổi trẻ của ông ở Paris để thám hiểm những ý tưởng về sáng tạo, ảnh hưởng, và căn cước. Người kể chuyện là 1 nhà văn mà những sự kiện và ngày tháng thì giống của ông, tuy nhiên tôi nghĩ, ông ta là cả hai, vừa là ông, vừa không phải là ông. Liệu ông có nghĩ, nghệ thuật đòi một tí hòa hoãn với thực tại?

Thực tại nào? Nếu ông muốn nói tới thực tại “ăn nhậu đớp hít” càng ngày càng lậm vào môi trường giả tưởng, thì nó đếch làm tôi quan tâm tí nào hết. Điều làm tôi quan tâm, còn hơn cả thực tại, là sự thực. Tôi tin là giả tưởng là thứ độc nhất khiến tôi gần gụi với sự thực mà thực tại làm tối mù. Điều này đưa đến tham vọng viết 1 tác phẩm vĩ đại, nó là chương còn thiếu trong sự phát triển một sử thi. Chương này sẽ bao gồm tất cả những người - từ Cervantes qua Kafka và Musil - chiến đấu với một sức mạnh khổng lồ với tất cả những hình thức dởm, giả, và giả đò. Cuộc chiến đấu này hiển nhiên là có dính tới nghịch lý, bởi vì những kẻ chiến đấu dữ dằn như thế, thì phải là nhà văn, và phải bằng con đường giả tưởng. Họ tìm kiếm sự thực thông qua, nhờ, giả  tưởng. Và bật ra từ cuộc chiến dữ dằn, căng thật căng đó, là những gì bàng bạc, thấp thoáng, rất ư là tuyệt vời, của sự thực, như là những trang đẹp nhất của văn học hiện đại.

Nhận xét này của ông rất gần gụi với điều mà ông phán ở Paris – ‘nơi nào có ảo vọng nơi đó có đời sống’ – và nó làm tôi nhớ tới điều ông trả lời trong 1 cuộc phỏng vấn: điều mà hiện đại tìm kiếm, thì là “ở ống thì dài”[rectilinear: thẳng], trong khi với Ulysses, “ở bầu thì tròn”, như Mít nói?

Trong 1 cuốn phim của Wim Wenders, Nicholas Ray nói, “bạn không có thể trở về nhà được nữa”. Sài Gòn ơi ta đã mất người như mất BHD rồi!  Đôi khi tôi nghĩ tới câu nói đó, [Ui chao, nhớ.... Sài Gòn quá, hà, hà!], và để cho dịu xuống, tôi bèn tưởng tượng mình là 1 tên Tẫu qui cố hương. “Tớ chỉ là 1 anh Tẫu trở về nhà”, Kafka viết trong một lá thư. Đôi khi tôi mong mình là tên Tẫu đó, đôi khi, thi thoảng thôi. Bởi vì sự thực là, điều mà tôi viết ra, thì thường làm cho tôi “vấp ngã”, chúi xuống, rớt xuống, một nội-du ngoạn, một chuyến dã ngoại cho đến tận cùng của đêm đen, đối nghịch hẳn với chuyến trở về Ithaca. Ngắn gọn, tôi mong muốn cuộc hành trình không bao giờ chấm dứt, luôn luôn tìm kiếm một điều gì mới. Luôn luôn nhớn nhác.

Những cuốn sách của ông thì rất khác của Hemingway, và những vị thầy của ông – Borges, Kafka, Musil, thí dụ - viết cũng khác Hemingway. Vậy mà tại làm sao mà ông lại phán, tớ mò tới Paris, là để noi gương Hemingway. Bây giờ, ông nghĩ sao về ông ta?

Tôi vẫn tiếp tục ngưỡng mộ ông ta, như là 1 tay kể chuyện, và 1 tay khắc chạm ngôn ngữ bậc thầy. Nhưng sự thực, là, ông ta không ở trong số những vị mà tôi mê. Có thể là do tôi đọc Paris là một ngày hội của ông ta, vào lúc mười lăm tuổi, tại một tỉnh lỵ miệt vườn ở Barcelona, và nó thấm vào tôi, cùmg với nó là giấc mộng, một ham muốn hoành tráng, mình phải đi Paris, và sống “cuộc sống của một nhà văn”, y hệt Hemingway. Chừng bốn năm sau, tôi quả thực hiện được giấc mộng sống đời nhà văn tại Paris, rõ hơn, tại một căn gác xép mà tôi mướn và chủ của nó là Marguerite Duras.
Và bây giờ, nếu Hemingway (như ông ta xác nhận trong Paris là một ngày hội) có thể phán, ở Paris, tớ thì “nghèo và rất hạnh phúc”, thì tôi, ngược lại, chỉ có thể lèm bèm, vào lúc chót của kinh nghiệm, tôi thì "nghèo và rất đếch được hạnh phúc".
Tuy nhiên, sau bao nhiêu nước chảy qua cầu...  Mirabeau, và sau khi viết Chẳng Hề Chấm Dứt Paris, cái sự bất hạnh của tôi hóa ra lại là cõi phúc, đúng hơn, một ngày hội lớn - ở trong trường hợp của tôi - của hồi nhớ và trí tưởng tượng của mình.

“Âu lo, sao xuyến, bần thần, bấn xúc xích…” [anxiety] đóng vai trò gì trong sự sáng tạo ra những tác phẩm của ông?

Khi “trời chợt xẩm chiều lăm le đi vào tối” là chúng ta luôn cần một ai đó. Tư tưởng này, sản phẩm của âu lo, chỉ tới với tôi vào chiều tối, đúng vào lúc mà tôi tính bye bye ba trò khám phá, mạo hiểm qua những con chữ. Ngược lại, ban ngày, khác hẳn. Khi viết, tôi kiểm tra được sự âu lo, khắc khoải của mình, nhờ sự trợ giúp vô vàn quí giá của tiếu lâm, khôi hài, tếu tếu, tưng tửng, Nhưng đêm nào thì tôi cũng bị tra tấn bởi âu lo. Nó đếch biết tiếu lâm cà tửng là gì, và tôi phải đợi đến ngày hôm sau, thì mới lại khám phá ra cuộc hôn phối -thì cứ nói đại như vậy - giữa âu lo và khôi hài, nó tạo nên tính cách những trang viết của tôi, và từ đó, văn phong. “Văn phong của hạnh phúc”, như vài tay phê bình phán.

Ông thường tiếp cận vấn đề ảnh hưởng nghệ thuật qua hình thức “parody” [nhạo, nhại]. Thí dụ,"Chẳng bao giờ chấm dứt Paris" bắt đầu bằng chuyện, cái tay “thế thân” của ông tham dự một cuộc thi “trông giống như Hemingway”, mặc dù anh ta chẳng giống Hemingway - Hemingway gì mà cà chớn như thế - Cú này, theo tôi là một ẩn dụ tuyệt vời về, như thế nào nhà văn bị tẩu hoả nhập ma vì sư phụ của họ, và ở đây, với cuốn sách của ông, đúng là một mở ra thần sầu về một nhà văn trẻ cố tìm đường của mình nhập vô Paris, "cho anh tí Paris, để anh làm thi sĩ"! Ông có nghĩ về tếu, như là 1 cách mở ra cõi sáng tạo, mặc dù sự kiện là, tất cả thì đều đã được nói, và được làm rồi, chúng ta tới trễ quá trong cõi đời này?

Đúng vậy. Tôi sử dụng “tếu” theo nghĩa đó. Chẳng hạn, bây giờ, nếu tôi thủ thỉ với bạn, tôi yêu quá Paris, như họ Trịnh ư ử, "tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này", chắc chắn bạn đếch tin, thế là tôi bèn chọn cách của thằng cha…  Gấu Cà Chớn, và nói, câu của John Ashbery, trong cuốn sách của tôi: “Cái chuyện đã từng sống ở Paris đếch hợp với bạn để sống ở bất cứ nơi đâu, kể cả sống ở Paris.”

Tôi mê câu của W.G. Sebald được ông trích dẫn trong “Chẳng hề chấm dứt Paris”: “Mọi thứ mà nền văn minh của chúng ta sản xuất ra, thì ở trong mồ”. Như ông, Sebald đáp ứng với hiện đại bằng cách mở ra nấm mồ này, cả hai ông gợi đến Borges, người mà ông nói,“đã viết lại cái cũ”. Ông nhìn tới bằng cách nhìn lại. Tôi tò mò là, khi nào và tại sao ông nghĩ , hình thức sáng tạo này trở nên quan trọng đến thế.

Borges, Sebald. Thế giới có vẻ như đầy những thông điệp viết bằng 1 thứ mật mã nào đó. Chúng ta tìm – Tôi tìm – một điều mà chúng ta không thể nhận biết, nhưng đã mất. Cũng đã không lâu, tôi mơ làm một bài thơ viết bằng một môn đại số nào đó, chưa được biết đến. Nó có vẻ kỳ bí theo kiểu của dân Chàm, Hời, Mường, hay Do Thái, tuy nhiên, có thể nó có cái “air” Hồi giáo, Hồi Giáo Tẫu, hay có thể Ý đại lợi – vào thời Petrarch. Thứ thơ này thì từ một môn đại số lạ kỳ, chưa xác định, và nó đưa tôi tới trung tâm của sự bí ẩn của thế giới. Lẽ dĩ nhiên, có lẽ, thứ bí ẩn, bí mật này chẳng hề hiện hữu. Khi chúng ta nhìn lại, về mặt thời gian, con người và những hành vi của nó hình như cứ thu lại - tôi thu tôi lại thành hạt bụi đã từng hóa kiếp ra tôi – và tôi sợ rằng, tới một điểm, đếch còn biết hạt bụi đó sinh ra tôi, hay là 1 hạt cà chớn, chẳng có nghĩa ngung gì cả!
Bất cứ một ý nghĩ nào về tương lai thì đều rã ra, tìm đường đi vào hư vô!
Điều này có thể giải thích, thí dụ, tại sao mà câu chuyện về tuổi trẻ của tôi ở Paris, chân dung của tham vọng của tôi - thành công ở đó - như Hemningway đã từng, phải được coi như một thứ tiếu lâm, cà chớn tới chỉ, y chang lòng trắc ẩn của Cervantes, người tạo ra Đồng Ky Xốt.

 

*

Giấc Mơ BHD

Tuổi thơ là một cơn mộng không biết là cơn mộng.

Trong nhiều năm nhiều năm, một giấc mơ trở đi trở lại hoài trong đầu tôi, giấc mơ này đưa tôi tới một cái sân lớn của con phố Rosellon, thành phố Barcelone, ở đó, đứa trẻ là tôi chơi đá banh một mình sau ngày học dài, trở về nhà, và trong khi chờ cơm, tôi bịa ra những trận banh. Cái sân đó, bao bọc chung quanh là những nhà cửa xám xịt, buồn thỉu buồn thiu, nét đặc biệt của thời kỳ đó, những năm dài cực nhọc tại Tây Ban Nha thời hậu chiến. Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi là cả hai muơi hai cầu thủ cùng một lúc, một phần thân thể của tôi - gồm mười một cầu thủ - nhập vai tấn công, cứ như thể nó là Brésil tại Cúp Thế Giới ở Thụy Điển, trong khi phần còn lại, lo phản công. Tôi quên không tưởng tượng ra trọng tài, và mỗi một đội như thế - mỗi một phần của cơ thể của tôi như thế đó – có thể thắng, hay bại, tuỳ thuộc vào thiên tài mà mỗi đội phô ra, Được hỗ trợ bởi thiên tài tuổi thơ, tôi bịa ra những cú mơ mộng thần sầu, làm dựng tóc gáy cầu trường tưởng tượng, mà những khán giả của nó, là những cư dân ở trong những căn nhà xám xịt xỉn xìn xin, thỉnh thoảng họ còn thò đầu ra khỏi cửa sổ, chăm chú theo dõi một cách buồn bã, thằng nhỏ khốn khổ khốn nạn, một mình chơi với quả banh tồi tàn kết bằng rơm.
Trong giấc mơ trở đi trở lại đó, mọi chuyện y như nhau, tôi chơi đá banh một mình, cái sân vẫn cái sân, vẫn cái cảnh hoang tàn sau chiến tranh. Có một thay đổi: trong giấc mơ của tôi, những nhà cửa bao quanh tôi, là những ngôi nhà chọc trời ở Nữu Ước, và điều này cho tôi cảm tưởng, mình là trung tâm của thế giới, và lạ lùng thay, tuyệt vời thay, thần sầu thay, đại gia thay [cái này thì thuổng me-xừ TL], tôi cảm thấy thật là hạnh phúc, vô cùng hạnh phúc. Một thứ cảm giác thanh thản, viên mãn, tuyệt vời, siêu nhiên, như chưa từng có trên cõi đời này.
Ui chao, mơ mãi như thế, thì cũng có ngày tỉnh ra, ngộ ra được rằng, giá mà có ngày được đặt trên lên Nữu Ước, thì còn gì thú cho bằng, nhỉ!
Cứ nghĩ đến cái ngày mình tới Nữu Ước, giữa những tòa nhà chọc trời, giữa cuộc sống thực, cuộc đời thực, và đồng thời, giữa giấc đại mộng, thì cái cảm giác lúc đó mới ‘đại gia’ làm sao!
Một ngày, khi đó 41 tuổi, tôi được mời tới Nữu Ước để đọc diễn văn tại một cuộc họp. Tắc xi đưa tôi đến một khách sạn, và trong căn phòng tại Mã Nhật Tân, sau khi lấy đồ đạc ra khỏi va li, tôi bèn đi ra cửa sổ ngắm thành phố. Xung quanh tôi là những tòa nhà chọc trời tuyệt vời. Tôi điện thoại cho mấy vị giáo sư mời tôi, và hai bên ấn định sẽ gặp gỡ vào ngày hôm sau. Xong xuôi, tôi lại mò ra cửa sổ. Mình đang ở giữa giấc mơ của mình, tôi bảo tôi như vậy. Nhưng tôi nhận ra, mọi chuyện vưỡn vậy, vưỡn thế, vưỡn như cẩn, chẳng có gì khác xẩy ra. Tôi đang ở trong giấc mơ của tôi, và giấc mơ là thực. Nhưng, chỉ  có vậy. Chấm hết! Trong một khoảnh khắc tuyệt vời tôi thả mình vào trong không gian, vào trong khung cảnh, vào trong bức tranh, cố cảm thấy rằng là mình đang sướng mê tơi, nhưng vưỡn chẳng có gì xẩy ra, chẳng có gì đặc biệt xuất hiện. Tôi nhoài ra bên ngoài cửa sổ, nhìn thật gần những tòa nhà chọc trời của khu Manhattan… vưỡn thế là vưỡn thế!
Thấm mệt, tôi tự nhủ thầm, thôi để ngày mai, biết đâu phép lạ xẩy ra. Tôi lên giường, và chẳng mấy chốc đi vào giấc ngủ. Tôi nằm mơ mình là đứa trẻ ngày nào ở Barcelone, chơi đá banh tại một cái sân ở Nữu Ước. Tôi phải nói ngay tút xuỵt, đó là giấc mơ đẹp nhất trong đời tôi, hoàn hảo, tràn đầy, viên mãn, ấn tượng nhất. Và tôi khám phá ra rằng, ma thuật, huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ, thì không phải là Nữu Ước. Huyền thuật, hay thiên tài của giấc mơ chính là cái cơ sự, luôn luôn là một đứa trẻ chơi đá banh một mình, và kệ mẹ cho trí tưởng tượng bay bổng bát ngát chin phương trời mười phương đất, dẫn dắt nó. Và tôi nhớ ra rằng thì là Giorgio Agamben đã từng giải thích, với mỗi một thằng cu Gấu ở trong chúng ta, sẽ xẩy ra một cái ngày, mà vào ngày đó, Bông Hồng Đen từ bỏ nó.

“Y hệt như là, bất thình lình, trong đêm khuya, do tiếng động của một băng con nít đi qua cửa sổ của căn phòng của bạn, và bạn cảm thấy, chẳng hiểu tại ra làm sao, vì nguyên cớ nào, vị nữ thần, người nữ muôn đời của bạn, từ bỏ bạn”.

Và nàng nói, “Bây giờ H. hết lãng mạn rồi!”

Hình như, luôn luôn là, đối với Gấu tôi, khi đến cõi đời này, là để tìm kiếm trong giây lát, vị nữ thần của riêng Gấu tôi, vị nữ thần của một đứa con nít, một thằng bé nhà quê Bắc Kỳ, thằng bé đó chơi trò chơi phù thuỷ thứ thiệt của giấc mơ.

Theo Enrique Vila-Matas

Trang Vila-Matas
Ui chao, mò ra được bài viết trên, sướng mê tơi.
Của Người Phước Ta.
Cám ơn ông Vila-Matas một phát!


 

At Work

Enrique Vila-Matas on ‘Never Any End to Paris’

June 6, 2011 | by Scott Esposito

*



Decorated with numerous awards in his native Spain—including the same Premio Rómulo Gallegos that catapulted his friend Roberto Bolaño to international renown—Enrique Vila-Matas has pioneered one of contemporary literature’s most interesting responses to the great Modernist writers. Taking the Modernists as towering giants that will never be equaled, Vila-Matas works to inscribe himself—at times literally—in the margins of their works. His tools are irony, parody, paradox, and futility, and his goal is to mix fact, fiction, and autobiography in order to depict not reality but truth. I asked him about his newly translated novel
Never Any End to Paris—his third in English—based on the time he spent in Paris as a young writer attempting (and gloriously failing) to triumph as Hemingway did.

Never Any End to Paris uses your youth in Paris to explore ideas of creativity, influence, and identity. The narrator is a writer whose facts and dates are similar to yours, though—I think—he both is and isn’t you. Do you think art requires certain compromises with reality?

Which reality? If you mean the conventional “consumerist reality” that rules the book market and has become the preferred milieu for fiction, this doesn’t interest me at all. What really interests me much more than reality is truth. I believe that fiction is the only thing that brings me closer to the truth that reality obscures. There remains to be written a great book, a book that would be the missing chapter in the development of the epic. This chapter would include all of those—from Cervantes through Kafka and Musil—who struggle with a colossal strength against all forms of fakery and pretense. Their struggle has always had an obvious touch of paradox, since those who so struggled were writers that were up to their ears in fiction. They searched for truth through fiction. And out of this stylistic tension have emerged marvelous semblances of the truth, as well as the best pages of modern literature.

This sentiment is very similar to something you say in Paris—“where there is a mirage there is life”—and it reminds me of something I heard you say in an interview: that for the modernists the quest is rectilinear, in contrast to that of Ulysses, whose quest was a circle. In your books, what inspires this search?

In a movie by Wim Wenders, Nicholas Ray says “you can’t go home again.” Sometimes I think about this phrase, and in order to calm down I imagine myself as a Chinese who came home. “I’m just a Chinese who returned home,” wrote Kafka in a letter. Sometimes I wish I were this Chinese, but only sometimes. Because the truth is that what I write frequently brings me to a descent, a fall, a journey within, an excursion to the end of the night, the complete opposite of a return to Ithaca. In short, I long to journey endlessly, always in search of something new. Always alert.

Your books are very different from Hemingway’s, and your influences—Borges, Kafka, Musil, for instance—didn’t write like Hemingway either. Why did you originally set out to emulate him when you went to Paris, and what do you think of him now?

I continue to admire him as a storyteller and as a great sculptor of language. But the truth is that Hemingway isn’t among my favorite writers. Be that as it may, I read A Moveable Feast at fifteen years of age in what was then a very provincial Barcelona, and it instilled in me a grandiose desire to go to Paris and live the “life of a writer,” just like Hemingway. Some four years later I in fact succeeded in living this writer’s life in the garret that I rented from Marguerite Duras. And now, if Hemingway (as he affirmed in A Moveable Feast) could say that in Paris he was “poor and very happy,” I, on the contrary, can only say that at the end of my experience I was poor and very unhappy. Still, after much time and the writing of Never Any End to Paris my unhappiness has become a true moveable feast—in this case of my memory and my imagination.

What role has anxiety played in the creation of your works?

When it grows dark we always need someone. This thought, the product of anxiety, only comes to me in the evenings, just when I’m about to end my writerly explorations. By contrast, the day is completely different. As I write I control my anxiety and anguish thanks to the invaluable aid of irony and humor. But every night I am subdued by an anxiety that knows no irony, and I must wait until the next day to rediscover the blend of anguish and humor that characterizes my writing and that generates my style. “The style of happiness,” as some critics have called it.

You frequently approach the question of artistic influence through parody. For instance, Never Any End to Paris begins with your alter ego entering a Hemingway look-alike contest, despite the fact that he looks comically unlike Hemingway. That, to me, is a wonderful metaphor for how writers can be led astray by the influence of towering forefathers, and the perfect beginning to a book about a young writer trying to make his way in Paris. Do you see irony as a way of opening up space for creativity despite the fact that it’s all been said and done?

Yes, I use it in this sense. If I want to now, for example, I could say to you that I really like Paris and that I loved it when I was young and living there, and I still love it now; but I will have said nothing because you won’t trust my words. So if I want to convince you and get across my sense of the truth, I’ll turn to irony and tell you, for example, what John Ashbery said in my book: “Having lived in Paris unfits you for living anywhere, including Paris.”

I love the sentiment of W. G. Sebald’s that you quote in Never Any End to Paris: “Everything our civilization has produced is entombed.” Like you, Sebald responded to modernism by opening this tomb, both of you recalling Borges, who you say “rewrote the old.” You look forward by looking back. I’m curious as to when and why you think this form of creativity became so important.

Borges, Sebald. The world seems to be full of messages written in some secret code. We look—I look—for something we can’t identify but that we have lost. Not long ago I dreamed of a poem written in some unknown algebra. It had a Kabbalistic air, Jewish, although maybe the air was Islamic, Chinese Islam, or maybe just Italian—from the time of Petrarch. This poetry was from a strange, stateless algebra that sent me to the center of the world’s mystery. Of course, perhaps this mystery never existed. As we look back in time, man and his activities seem diminished to the point of appearing completely insignificant. Any idea of a future dissolves. And this would explain, for instance, why the story of my youth in Paris, the portrait of my ambition to triumph there as Hemingway did, must be treated with a monumental irony, as well as a Cervantesque compassion.

To finish up, given that your books frequently deal with other writers, I’d like to ask you about your friendship with Roberto Bolaño, who, as you know, has become a very popular writer in the United States. Did the friendship leave traces in your literature?

Meeting Bolaño in 1996 meant that I no longer felt alone as a writer. In that Spain, which was trapped in a provincialism and an antiquated realism, finding myself with someone who from the very first moment felt like a literary brother helped me to feel free and not consider myself as strange as some of my colleagues would have me believe. Or maybe it was the opposite: I was stranger still. We laughed together very much. We wrote letters to imbeciles and we talked of a beauty that was short-lived and whose end would be disastrous.

Translated from Spanish by Scott Esposito.

Trang Vila-Matas

Vila-Matas trả lời The Paris Review

*

Thú chôm chĩa

Note: Bài này mà chẳng thần sầu sao?

 Đọc, bỗng nhớ ông anh nhà thơ, Quán Chùa, và những ngày Mậu Thân, cả hai đánh chắn suốt đêm, khi ông phải trực chiến tại Cục Tâm Lý Chiến.
Gấu đã tả cái cảnh hai anh em len lỏi, xuyên qua những bức tuờng khu Trại Gia Binh, để đến điểm hẹn, là 1 chiếu bạc.
Gần sáng, Gấu về nhà, đánh răng, rửa mặt, chạy xuống UPI, số 19 Ngô Đức Kế, [con đường từ Tự Do đâm ra công trường Mê Linh, có tượng Đức Thành Trần], xem có radiopho cần chuyển cữ sáng, thường là không, vì chuyển hết cữ tối hôm trước, trừ khi có hình khẩn cấp mới nhận trong đêm.
Thế là hai anh em lại gặp lại, vừa uống cà phê, vừa bàn về đủ thứ chuyện, và thường là về sách, về 1 cuốn vừa đọc...  
Thời gian đó, vì là Mậu Thân, nên gần như chỉ có hai anh em.
Đọc thư gửi đảo xa lại bồi hồi thương ông anh, ông gần như chẳng có ai để tâm sự, có lẽ ý nghĩa của cái nick Lỗ Bình Sơn, là từ đó chăng?

Thời gian đó, thời gian Mậu Thân, GCC có cô bạn, tối nào cũng mò tới, hà, hà, nhờ đó viết được cái truyện ngắn Cõi Khác [Cõi Khác thì cũng 1 thứ…  Đảo Xa chứ gì nữa!]:

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn một cách bình thường, giản dị như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy... 

Đau khổ nhất là những ngày cô bạn đi lấy chồng. Vẫn những ngày tháng ngây ngô bên mớ máy móc, nghe tiếng người nói xôn xao từ những thành phố xa lạ phía bên ngoài địa ngục, qua đường dây điện thoại viễn liên, mơ màng tưởng tượng chiến tranh rồi sẽ qua đi, cô bạn rồi sẽ hạnh phúc, hạnh phúc... Hết còn nỗi ngây thơ tưởng mình ở trên cao, trên tận đỉnh cồn, thấy hết, hiểu hết. Vẫn những đêm dài điên cuồng đuổi theo bóng mình sợ hãi trốn sâu dưới đáy địa ngục, trong những hang cùng ngõ hẻm thành phố, chạy hoài, chạy hoài, không còn nơi để ghé, không còn chỗ để ngừng... Chỉ mong gặp lại những hồn ma quen, những gã phóng viên người Nhật, người Mỹ, hai gã chuyên viên Phi Luật Tân, để hỏi coi họ có còn luyến tiếc đất nước này hay không, chỉ muốn la lớn, tôi yêu em, tôi yêu em, cho cả thế giới, cả loài người đều nghe...
Cho người chết gật đầu thông cảm.


Tôi thích những trích dẫn, những dòng lạ mà chúng ta đưa vô bản văn của mình. Tôi không hiểu những người ghét chúng, và khẳng định một cách ngu ngu ngốc, "để viết, thì đừng nợ bất cứ ai".

Trong bài viết, Vila-Matas nhắc tới Susan Sontag, người đã từng chấp nhận thách đố của Walter Benjamin, viết 1 cuốn sách chỉ gồm toàn trích dẫn, và những gì của riêng mình, thì giống như giàn giáo, sẽ được dẹp bỏ, khi ngôi nhà xây dựng xong.

Ui chao, vào đúng đêm 30 Tết Ta vừa rồi, GCC bèn ngộ ra, GCC, chính hắn, đã thực hiện được cả hai giấc đại mộng của W. Benjamin:
Viết lịch sử từ đáy, và, viết 1 tác phẩm chỉ gồm toàn trích dẫn.

Và đó là trang Tin Văn.